Không Quân Việt Nam Cộng Hòa
Không Quân Việt Nam Cộng Hòa
(tiếp theo kỳ 4)
CHƯƠNG 4 – Đồng Ban
Đầu năm 1977, ở Trảng Lớn có đợt chuyển trại quy mô, tôi và phần lớn bạn tù cùng L được đưa tới trại cải tạo Đồng Ban, cũng nằm trong tỉnh Tây Ninh, cách Trảng Lớn khoảng 25 cây số về hướng bắc.
Xin mở một dấu ngoặc để viết về các trại cải tạo nằm trong tỉnh Tây Ninh – tỉnh được ghi nhận có nhiều trại cải tạo, nhiều vùng kinh tế mới nhất sau năm 1975.
Tây Ninh nằm về hướng bắc tây bắc Sài Gòn, với toàn bộ biên giới phía bắc và phía tây giáp Căm-bốt. Về hành chánh, ngày nay Tây Ninh gồm thị xã Tây Ninh và 8 huyện. Nếu lấy núi Bà Đen nằm ở giữa tỉnh, cách thị xã gần 10 cây số, làm chuẩn thì hai huyện ở phía bắc là Tân Biên và Tân Châu chiếm tới phân nửa lãnh thổ.
Thằng Nhơn tuổi con gà, mập mạp, tướng đi đủng đỉnh, mặt bầu bĩnh trông dễ thương. Tôi gọi nó là Gà Cồ. Gà Cồ hay sang nhà tôi chơi vì anh em tôi đông, tuổi sàn sàn nhau, còn nó là con trai một cũng chẳng có chị hay em gái. Cả nhà tôi ai cũng thương nó nên có năm, Mẹ cho chúng tôi lên Blao nghỉ hè còn sang nói chuyện với ba má nó xin cho nó đi với dù bà đã có một nách con để mà trông nom. Đi với gia đình tôi thì ba má nó yên tâm rồi, còn nó thì khỏi nói, sướng cứ mê tơi luôn.
Vào cuối thập niên 1950, bến xe đò đi các tỉnh khác còn ở tại chợ Mỹ Tho, bên hông xã Điều Hòa ngay cổng phía sau trường trung học Nguyễn Đình Chiểu. Bến xe chỉ đông người và náo nhiệt từ sáng sớm cho tới khoảng ba giờ chiều, chừng sáu giờ tối là hầu hết xe đò đều rời bến, chỉ còn neo lại vài chiếc lẻ tẻ vì nhà xa, nên lơ xe ban đêm phải ngủ giữ xe.
Nếu ai có hỏi nơi nào đẹp nhất? Không cần suy nghĩ, tôi sẽ trả lời ngay là: Mỹ-Tho! Nhớ lại thời trung học Hoa văn trong thập niên 60 ở trường Thiên-Chúa Giáo Minh-Viễn, tại ngã sáu trên đường Minh-Mạng Chợ-Lớn, thành phần nữ giáo sư trẻ đẹp, độc thân từ Ðài-Loan sang dạy học thường hay nói với học sinh rằng: “Không có nơi nào đẹp bằng quê hương, cho dù quê hương mình có nghèo khó đi nữa“. Ðiều nầy quả thật không sai! Hơn 30 năm xa xứ sống nơi một thành phố lớn đầy vui nhộn của nước Ðức, thỉnh thoảng tôi hay tưởng nhớ về Mỹ-Tho thân thương nơi mình sinh ra và lớn lên. So với Hong-Kong, Tokyo hay Paris by night, cùng nhiều phồn hoa đô thị khác, với bao cảnh ăn chơi bậc nhất thế giới thì Mỹ-Tho về đêm thuở xưa quá nhỏ và hết sức quê mùa, bình dị, nhưng lại rất vui với bao kỷ niệm đong đầy, mà kỷ niệm thì bao giờ cũng đẹp!
Ý NGHĨA NGÀY QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA 19/6
Phạm Phong Dinh
---oo0oo---
Ngày 20.7.1954 đánh dấu ngày Quốc Hận thứ nhất của dân tộc Việt Nam, sau khi cộng sản Bắc Việt cùng với thực dân Pháp ký kết Hiệp định Genève chia đôi đất nước, lấy vĩ tuyến thứ 17 chạy ngang con sông Bến Hải làm ranh giới Bắc Nam. Ðó cũng là ngày đánh dấu cuộc di cư từ bỏ chế độ cộng sản lần thứ nhất của người Việt với gần một triệu dân miền Bắc gồng gánh bồng bế nhau tìm đủ mọi cách để được đáp tàu vào vùng đất miền Nam tự do, nơi đó nước Việt Nam Cộng Hòa non trẻ đang chập chững những bước đầu tiên trong cộng đồng chính trị thế giới.
Thời VNCH (1955-1975), Quân đoàn 2 chiếm một lãnh thổ có diện tích lên tới 78, 841km2, rộng nhất trong bốn vùng Chiến Thuật. Bộ tư lệnh đóng tại Pleiku, còn 2 Bộ chỉ huy tiếp vận 2 và 5 thì ở Qui Nhơn và Nha Trang-Cam Ranh, còn có hai SĐ2 và SĐ6 không quân chiến thuật đóng tại Pleiku và Nha Trang. Các phi trường Nha Trang, Bửu Sơn, Phù Cát và Cù Hanh rộng lớn tối tân. Vùng 2 chiến thuật bao gồm 12 tỉnh Cao Nguyên và Duyên Hải Trung Phần, trong đó quan trọng và cũng có nhiều phiến cộng, nằm vùng nhất là [hai tỉnh] Bình Thuận và Bình Định. Để xâm lược miền nam, cọng sản Bắc Việt cho mở lại con đường giao liên đã có sẵn từ thời toàn dân kháng chiến chống Pháp 1945-1954, thành con đường chiến lược mang đủ thứ tên trong đó có Hồ chí Minh, xuất phát từ Hà Nội vào tới Cà Mâu dài trên 2000 cây số. Con đường khai sinh đồng thời với cái mặt trận ma GPMN sau khi vượt qua vùng phi quân sự ở Bến Hải, men theo rặng Trường Sơn, tới Đỗ Xá, Kòn Tà Nừng, Chulya, Khánh Hòa. Tại đây đường phân làm hai nhánh, một đi ngược lên Lâm Đồng, Quảng Đức, Phước Long về Sài Gòn. Nhánh hai tới Ninh Thuận, Bình Thuận, Rừng lá, rừng sát, Biên Hòa…
Một Số Điều Nhiều Người Chưa Biết Về Trung Tá Bùi Quyền
Trần Huy Bích
---oo0oo---
Từ trái sang: Bùi Quyền thời đi học, khi là sĩ quan Nhảy Dù,và khi tới Hoa Kỳ
với những dấu hiệu của lao khổ và thời gian
Trung Tá Bùi Quyền thuộc binh chủng Nhảy Dù của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã tạ thế chiều Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2020 vừa qua. Hầu như ai cũng biết ông là một trong những sĩ quan lỗi lạc của QLVNCH. Tốt nghiệp Thủ khoa khóa 16 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt cuối tháng 12 năm 1962, ông đã chọn binh chủng Nhảy Dù khi ra trường. Từ đó cho tới khi miền Nam sụp đổ cuối tháng 4-1975, ông được coi là “một quân nhân quả cảm, luôn có mặt ở tuyến đầu trong những trận chiến ác liệt nhất.” Mới ở cấp Đại Úy đã được Bảo Quốc Huân Chương. Còn Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu, với sao vàng, sao bạc … cùng nhiều loại huân chương khác thì … đếm không xuể. Ông có mặt trong nhiều trận chiến ác liệt: Dak To – Tân Cảnh, giải vây An Lộc, lấy lại Quảng Trị, bảo vệ đèo Khánh Dương, và từ 4 tháng 4 năm 1975, bảo vệ Sàigòn. Ông không bỏ binh sĩ, chiến đấu tới phút chót, và sau lệnh phải buông súng ngày 30-4-1975, bị những người ở “bên thắng cuộc” nhốt vào “trại cải tạo” 13 năm với nhiều tháng biệt giam. Khi sang Mỹ năm 1991, ông được vị Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ (Tổng thống George H.W. Bush), và Học Viện Không Lực của Hoa Kỳ (U.S. Air Force Academy ở Colorado Springs, tiểu bang Colorado) đón tiếp một cách trang trọng.
We have 274 guests and no members online