Không Quân Việt Nam Cộng Hòa
Không Quân Việt Nam Cộng Hòa
Hai chữ “NHỜ ANH“ hay “NHỜ ĐẠI TÁ“ đã đem lại cho Bình Thuận sự an ninh và phát triển cho dân trong tỉnh, thốt ra không phải chỉ từ người dân mà cả các cấp Quân, Cán, Chính, không chỉ trong tỉnh nhà mà đã được loan truyền qua các tỉnh khác, đến cấp chánh phủ. Thêm vào đó Cố vấn Mỹ cũng báo cáo hàng ngày theo hệ thống của họ.
Nên trường hợp Bình Thuận đã được các giới nêu lên làm đề tài nghiên cứu và học hỏi. Đặc biệt là cuối năm 1973, đại sứ Williams Colby, thuộc cơ quan CIA, ngưòi có trọng trách cho nhiều chương trình quan trọng tại Việt Nam, đã có thơ mời tôi qua Mỹ nói là để tham quan các Thống đốc Tiểu bang Mỹ nhưng sự thật hoàn toàn khác hẳn vì thời gian đó là lúc Quốc Hội Mỹ tranh cãi về giải pháp - “Cúp viện trợ và tháo chạy khỏi Việt Nam” nên ông Colby muốn đem tôi làm nhân chứng sống chứng minh cho sự thành công của chương trình PHÁT TRIỂN & VIỆT NAM HOÁ CHIẾN TRANH, hầu chinh phục Quồc Hội Mỹ yểm trợ cho các chương trình của ông được tiếp tục.
Phi Vụ 6G Trên Chiếc A37
Đông Chiều Hổ Cáp 45 VMP
Chắc chắn trong số những người đọc có nhiều người nằm trong giới chuyên môn, những người không chuyên môn và nhiều người không liên hệ gì đến Không Quân kể cả ngành “bay”.
Người viết không nói đến những người đến từ các Trung Tâm Huấn Luyện khác hoặc những người được chuyển về từ các Binh Chủng...Ở đoạn đầu bài này người viết xin dành một ít thời gian để lược sơ qua cách đào tạo “chánh quy” phi công A37 tại đất Mỹ. Còn tất cả những phi công A37 phục vụ tại các Phi Đoàn Chiến Đấu trên toàn cõi miền Nam Việt Nam gồm nhiều diện khác nhau-- chuyện khá dài dòng sẽ phải đi vào chi tiết. Ngoài sự khác nhau đó, thời trước 75 giữa Nam Việt Nam và Mỹ có những chương trình đào tạo phi công khác nhau, tùy thuộc vào giai đoạn và nhu cầu. Ngay cả trên đất Mỹ lúc đang đào tạo ở giai đoạn cuối của một chương trình đã được “vạch sẵn” cũng vẫn được “uyển chuyển” để chuyển sang một chương trình khác.... ( mà ngay cả các khóa sinh đang thực tập trong khóa nào đó cũng không biết được! ).
Phi Vụ Tử Thần
Lý Tống
Những năm trước 1965, khi nói đến những chiến công hiển hách của Không lực Việt Nam Cộng Hòa, người ta thường nhắc đến những phi vụ oanh tạc miền Bắc. Nhưng từ khi các mặt trận giao tranh đã dần dần bị đẩy lùi về miền Nam, và đặc biệt sau khi Phi công Hoa Kỳ và các loại máy bay hiện đại như B52, F4, F105, A7... không còn trực tiếp tham chiến sau ngày Việt Nam hóa chiến tranh, và Không lực Việt Nam Cộng Hòa đã trở thành nỗ lực chính duy nhất yểm trợ các đơn vị bạn dưới đất, một trong các trận oanh kích được đánh giá cao và thường được nhắc nhở là kỳ tích đánh sập cầu
Dziên Bình của Không đoàn 92 Chiến thuật Phan Rang.
Diễn tiến
Trước hết tôi xin nói về diễn tiến của sự kiện lịch sử này theo lời cựu Bộ trưởng quốc phòng McNamara và nhận định của ông (1). Nước Mỹ tiến gần tới tuyên chiến tại Việt Nam đó là vụ Nghị quyết vịnh Bắc Việt tháng 8-1964. Những biến chuyển quanh Nghị quyết này cho tới nay vẫn còn nhiều tranh cãi mâu thuẫn.
Trước tháng 8-1964 chỉ có một số ít người Mỹ không quan tâm đến diễn tiến ở VN, chiến tranh có vẻ còn xa nhưng biến cố Vịnh Bắc Việt đã thay đổi cái nhìn đó. Về đoản kỳ khi tầu chiến Mỹ bị tấn công trong vịnh và nghị quyết của Quốc hội sau đó đã đưa tới khả năng Mỹ can thiệp vào cuộc chiến chưa từng có trước đây. Theo McNamara điều quan trọng hơn là chính phủ Johnson đã xin Quốc hội ra Nghị quyết này để hợp thức hóa về mặt hiến pháp mọi hoạt động quân sự của Hành pháp Mỹ tại VN từ 1965.
Quốc hội nhìn nhận quyền hạn lớn của Nghị quyết dành cho TT nhưng nó không có nghĩa như một tuyên chiến và cũng không có nghĩa đó là sự cho phép mở rộng lực lực lượng Mỹ tại VN từ 16,000 cố vấn lên 550,000 quân tác chiến. Bảo đảm sự tuyên chiến và cho phép quân tác chiến những năm sau đó chắc là không được.
Nhiều người coi chín ngày từ 30-7 tới 7-8-1964 như một giai đoạn nhiều tranh cãi nhất của cuộc chiến 25 năm. Qua nhiều thập niên, đã có nhiều tranh luận về những sự kiện tại vịnh, Hành pháp tường trình cho Quốc hội và người dân thế nào, xin Quốc hội quyền hành động và hai ông Tổng thống đã xử dụng quyền này qua các năm ra sao
McNamara nêu nên một số câu hỏi và tự ông trả lời như sau.
Tầu tuần duyên của Bác Việt tấn công khu trục hạm Mỹ ngày 2-8 và 4-8-1964, có thật không?
Trả lời: ngày 2-4 thì chắc chắn không chối cãi được. Ngày 9-11-1995 tại Hà Nội, McNamara có gặp gỡ và nói chuyện với Võ nguyên Giáp, ông ta nói ngày 4-8 không có cuộc tấn công của tầu BV như người Mỹ tưởng.
Hồi đó và sau này một số vị dân cử Quốc hội và người dân Mỹ cho rằng chính phủ Johnson khiêu khích địch để có cớ leo thang chiến tranh và dùng mưu mẹo để được Quốc hội chấp thuận cho leo thang.
Trả lời: hoàn toàn không có chuyện này.
Tổng thống trả đũa, cho máy bay ném bom bốn căn cứ tầu tuần duyên và một kho nhiên liệu, như thế có đúng không?
Trả lời: có thể.
Những biến cố tại vịnh BV có liên hệ tới hai chiến dịch riêng rẽ của Mỹ trước đây: Kế hoạch 34A và DESOTO.
Từ tháng 1-1964 Hội đồng an ninh quốc gia đã chấp nhận cho CIA yểm trợ miền nam VN những hoạt động bí mật chống phá BV, mật danh 34A gồm hai hoạt động trước hết thả biệt kích ra Bắc, thứ hai dùng tầu tuần duyên nhỏ, tốc độ cao do người Việt hoặc Mỹ lái đánh phá bờ biển hoặc hải đảo BV những nơi được coi là xuất phát xâm nhập, yểm trợ VC tại miền nam, đánh rồi chạy (hit and run).
DESOTO là một phần của hệ thống thám thính toàn cầu bằng điện tử do những tầu hải quân Mỹ chạy ngoài hải phận quốc tế. Những tầu này thu lượm những tín hiệu của radar, những truyền tin từ các trạm trên bờ các nước CS như Nga, Trung cộng, Bắc Hàn, Bắc Việt cũng giống như Nga dùng tầu lưới cá tại bờ biển Mỹ.
Tối 30-7 -1964, tầu tuần duyên của VNCH tấn công hai hải đảo thuộc vịnh BV được cho là dùng để yểm trợ xâm nhập miền nam VN. Sáng hôm sau khu trục hạm Mỹ Maddox đi vào vịnh (chiến dịch DESOTO ) rất xa các đảo. Hai ngày rưỡi sau tức 2-8 lúc 3 giờ 40 (giờ VN, tức 3 giờ 40 sáng Mỹ) tầu Maddox báo cáo bị những tầu tuần duyên cao tốc đuổi theo, một lúc sau bị tấn công bằng ngư lôi và súng tự động nhưng Maddox không bị trúng đạn hoặc hư hại. Thủy thủ lấy được những mảnh đạn trên boong tầu mà McNamara yêu cầu gửi cho ông làm bằng chứng. Trong quân sử của BV, họ xác nhận đã đưa ra lệnh tấn công Maddox, khi biến cố sẩy ta khu trục hạm này nằm ở hải phận quốc tế, cách bờ biển BV hơn 25 dặm.
Lúc 11:30 sáng (2-8) Tổng thống Johnson họp các cố vấn để nghiên cứu tình hình. Mọi người tin là do cấp chỉ huy địa phương BV hơn là do cấp lớn đã khởi động. Tổng thống vì thế không trả đũa mà chỉ gửi kháng thư cho Hà Nội, ông vẫn cho tiếp tục tuần tiễu, cho thêm khu trục hạm C.Turner Joy đi kèm. Maxwell Taylor, Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn phản đối tại sao không giáng trả BV, có thể coi như Mỹ lùi bước không dám đối đầu với CS.
Vào lúc 3 giờ chiều hôm sau Dean Rusk (bộ trưởng ngoại giao) và McNamara thuyết trình cho các Thượng nghị sĩ thuộc Ủy ban ngoại vụ và Ủy ban quân sự để diễn tả chiến dịch 34A, DESOTO và tại sao Tổng thống đã không giáng trả địch. Hai ông cũng giải thích cho biết DESOTO không có ý khiêu khích BV để tầu Maddox bị tấn công, vẫn tiếp tục chiến dịch DESOTO.
Vào lúc 7 giờ sáng (7 giờ chiều VN) ngày 4-8 tầu Maddox cho biết bị tầu lạ tấn công. Một giờ sau tầu Maddox nói radar cho thấy ba tầu lạ. Hàng không mẫu hạm Ticonderoga ở gần đó đã cho máy bay tới yểm trợ hai tầu Mỹ Maddox và Turner Joy. Trời nhiều mây, có mưa bão lớn rất khó quan sát. Mấy tiếng sau hai tầu này báo cáo bị hơn hai mươi ngư lôi tấn công, thấy vệt sóng của ngư lôi, ánh đèn chiếu sáng trên boong tầu địch, súng tự động nhả đạn, radar của tầu Mỹ có báo hiệu.
McNamara cùng ông phụ tá họp với bộ tham mưu để đối phó. Mọi người đồng ý nếu báo cáo này đúng, cần trừng trị thích đáng kẻ tấn công tầu Mỹ ngoài hải phận quốc tế , vì thế họ vội triển khai ngay kế hoạch cho máy bay từ hàng không mẫu hạm đánh phá bốn căn cứ tầu tuần duyên và và hai kho nhiên liệu. Lúc 11 giờ 40 sáng, McNamara họp với Dean, Mac (Bundy) và các Tướng khác để duyệt lại quyết định, họ tiếp tục bàn tại phiên họp tại Hội đồng an ninh QG và họp với Tổng thống. Johnson đồng ý lần này nếu được xác nhận đúng cần phải trừng trị nhanh và mạnh.
Vấn đề còn lại là cuộc tấn công lần thứ hai có thật không?
Như đã nói tầm nhìn khi bị tấn công đợt hai rất hạn chế, vì thế và vì tiếng động máy dò tầu ngầm thường không đáng tin lắm cho thấy báo cáo về cuộc tấn công đợt hai (4-8) không chắc chắn lắm. Vì thế McNamara cố điều tra để tìm sự thật, ông yêu cầu Trung tướng David A Burchinal liên lạc hỏi Đô đốc Sharp ở Honolulu để biết hư thực.
Lúc 1 giờ 27 chiều đại úy Herrick, người điều hành DESOTO trên tầu Maddox cho biết tin tức về việc bị tấn công bằng ngư lôi có vẻ nghi ngờ. Thời tiêt xấu ảnh hưởng radar có thể gây lên báo cáo đó, đề nghị lượng giá lại trước khi hành động. Bốn mươi phút sau Đô đốc Sharp gọi cho tướng Burchinal nói mặc dù đại úy Herrick nói thế nhưng ông vẫn tin là cuộc tấn công lần thứ hai (4-8) là có thật. McNamara gọi hỏi thẳng Sharp, ông này cho biết có vài nghi ngờ xong cũng tin có bị tấn công bằng một số ngư lôi, tầu Turner Joy báo cáo đánh chìm ba tầu tuần duyên, Maddox báo cáo đánh chìm một hoặc hai cái. McNamara nói khi nào biết chắc là có thật thì sẽ trả đũa. Sharp nói có thể có và sẽ điều tra thêm.
Lúc 4 giờ 47 McNamara họp với các tham mưu trưởng duyệt các chứng cớ liên quan cuộc tấn công, có năm yếu tố cho thấy cuộc tấn công có thật. Tầu Turner Joy bị chiếu sáng khi bị bắn bằng súng tự động, một trong hai khu trục hạm thấy đèn pha trên boong tầu tuần duyên, súng phòng không của họ đã bắn hai phi cơ Mỹ bay ở trên, đã bắt được và giải mã một bản tin của BV được biết họ có hai chiếc tầu bị bắn chìm. Đô đốc Sharp nói có thể có tấn công ngày 4-8. Đến 5 giờ 23 Đô đốc gọi Tướng Burchinal và nói chắc chắn có tấn công các khu trục hạm Mỹ.
Lúc 6 giờ 15 chiều, Hội đồng an ninh QG họp, McNamara kể sơ chứng cớ và đề nghị trả đũa. Mọi người nhất trí hành động, Tổng thống cho lệnh máy bay thuộc Hải quân trừng phạt. Lúc 6 giờ 45 TT Johnson, Dean Rusk, Bus Wheeler (Tham mưu trưởng mới), McNamara họp với các vị Chủ tịch ủy ban Quốc hội để thuyết trình sự việc, giải thích sự trừng phạt. Dean nói BV đã cố ý tấn công, ta cần trừng trị giới hạn. Tổng thống nói ông muốn đưa ra Quốc hội để xin yểm trợ cuộc chiến nếu cần, một số vị dân cử nói họ sẽ ủng hộ.
Lúc 7 giờ 22 hàng không mẫu hạm Ticonderoga và Constelletion được lệnh tấn công trả đũa. Tổng cộng có 64 phi vụ tấn công các căn cứ tuần duyên và kho dầu để trả đũa, chỉ là tấn công giới hạn.
Mấy năm sau, tháng 2-1968 Thượng viện họp xét lại chứng cớ và chỉ trích tường trình của chính phủ. Năm 1972, Tordella, phụ tá giám đốc cơ quan an ninh QG kết luận bản tin nghe được của BV cho là lệnh tấn công ngày 4-8 thực ra là lệnh tấn công ngày 2-8. Cline, phụ tá giám đốc CIA 1964 trả lời một cuộc phỏng vấn năm 1984 nói thế. Phi công Stockdale, năm 1964 đã bay yểm trợ cho hai khu trục hạm Mỹ tối 4-8, sau này viết hồi ký nói tối hôm đó khi bay ngang hai khu trục hạm ông ta chẳng thấy cái tầu BV nào cả và nói chắc không hề có cuộc tấn công này.
Ngày 6-8-1964, lúc 9 giờ sáng các ông Dean, Bus, McNamara vào phòng họp với Ủy ban Ngoại vụ và Quân sự Thượng viện để xác nhận vụ tấn công 2-8 và 4-8 và xin Thượng viện ủng hộ. Dean nhấn mạnh cuộc tấn công này không phải là biến cố riêng mà nó nằm chung trong kế hoạch xâm chiếm miền Nam và các nước Đông nam Á. Sau đó nói chi tiết hai vụ tấn công, Tướng Bus cho biết các TMT nhất trí trả đũa, đó là thích đáng.
McNamara cho rằng Quốc hội hiểu quyền hạn rộng lớn mà Nghị quyết dành cho Tổng thống, nhưng chắc Quốc hội hiểu rằng Tổng thống sẽ không dùng nó mà không tham khảo cẩn thận tường tận với Quốc hội. Hôm sau, lưỡng viện bỏ phiếu bầu ngày 7-8. Thượng Viện thông qua Nghị quyết Tonkin Gulf Resolution với tỷ lệ 88-2, Hạ viện bỏ phiếu thuận hoàn toàn 416-0, tỷ lệ chung là 99.60%.
Nhiều người chỉ trích (sau này) cho rằng chuyện Vịnh có nhiểu âm mưu giả dối, họ lên án chính phủ mong được Quốc hội ủng hộ cuộc chiến tại Đông Dương, soạn thảo một nghị quyết, khiêu khích địch gây ra biến cố để được ủng hộ, McNamara nói những chỉ trích này vô căn cứ.
Tổng thống không hề nghĩ Nghị quyết cần để đưa quân vào VN mà vài vị Tham mưu trưởng đã đề nghị từ tháng 1-1964, việc đưa quân vào cần có Quốc hội chấp thuận. Bộ Ngoại giao đã soạn một Nghị quyết từ cuối tháng năm nhưng vì Max Taylor khuyên nên hoãn chiến dịch quân sự tới tới mùa thu. Johnson, Dean, Mac, McNamara đồng ý và đã quyết định hoãn đưa dự thảo Nghị quyết ra Quốc hội chờ khi Đạo luật Nhân quyền đã được Thượng viện chấp thuận tháng Chín.
Nhưng khi BV tấn công, Johnson thấy đó là cơ hội để được Quốc hội ủng hộ cuộc chiến chống lại âm mưu xâm lược của Hà Nội, hành động của ông cứng rắn nhưng vẫn ôn hòa so với ứng cử viên diều hâu Goldwater của đảng đối lập.
Năm 1977, George Ball (cựu thứ trưởng ngoại giao 1964) trả lời phỏng vấn đài BBC chỉ trích chính phủ đã mở chiến dịch DESOTO khiêu khích BV để có cớ trả đũa. Ngược lại Bill Bundy (CIA, cố vấn ngoại vụ TT 1964) cũng đã nói chuyện trên BBC, ông ta phủ nhận những lời cáo buộc như trên, theo Bill tình hình lúc đó (tại VNCH) chưa tồi tệ đến nỗi phải có biện pháp mạnh. Bill nói “Không có chuyện Chính phủ cố tình khiêu khích để tạo ra biến cố ấy” (2)
McNamara cho rằng nếu Nghị quyết vịnh Bắc Việt đã không đưa tới sự can thiệp quân sự lớn lao tại VN thì nó đã không gây nhiều tranh cãi như vậy. Nhưng nó dùng để mở cửa cho dòng thác lũ (đưa quân vào), McNamara nói tuy nhiên cho rằng chính phủ Johnson lừa gạt Quốc hội là sai. Vấn đề không phải là Quốc hội không nắm được khả năng của Nghị quyết mà là nhưng là không nắm được tiềm lực của cuộc chiến và chính phủ có thể đối phó với nó như thế nào. Trong phiên họp ngày 20-2-1968 để duyệt lại vấn đề này, Thượng nghị sĩ Fulbright vui vẻ từ bỏ lời đã kết án McNamara cố ý khiến cho Quốc hội sai lầm, ông nói “Tôi không bao giờ có cảm tưởng rằng tôi đã nghĩ ông cố tình gạt chúng tôi”, các Thượng nghị sĩ Mansfield , Claiborne Pell và Symington cũng xác nhận thế (3)
McNamara kết luận cơ bản của vấn đề Vịnh Bắc Việt không phải là sự lừa gạt nhưng nói đúng hơn là sự lạm dụng quyền hạn từ Nghị quyết. Ngôn ngữ của Nghị quyết cho Tổng thống quyền hành xử, và Quốc hội hiểu tầm vóc của quyền hạn khi họ ủng hộ tối đa Nghị quyết ngày 7-8-1964. Nhưng chắc chắn là Quốc hội không có ý định cho phép xa hơn trong việc tăng vọt từ 16,000 lính Mỹ lên 550,000 tại VN mà không tham khảo đầy đủ với Quốc hội. Nó khiến chiến tranh mở rộng lớn có nguy cơ kéo Nga, Trung Cộng vào cuộc và đã mở rộng sự can thiệp của Mỹ tại VN trong nhiều năm.
Vấn đề Quyền hạn của Quốc hội đối nghịch với quyền Tổng thống về điều động quân đội vẫn còn tranh cãi cho tới nay. Căn nguyên của sự tranh chấp này nằm ở chỗ văn tự Hiến Pháp mơ hồ, nó trao Tổng thống quyền Tổng tư lệnh nhưng lại cho Quốc hội quyền tuyên chiến.
Những nhận định khác
Trên đây là nội dung vấn đề theo diễn tả và ý kiến của McNamara, nhân vật đóng vai trò then chốt trong chiến tranh VN giai đoạn 1963-1968. Tôi xin ghi thêm nhận xét và ý kiến của các chính khách và nhà nghiên cứu khác để vấn đề được nhìn thêm dưới nhiều khía cạnh. Về cuộc tấn công hai ngày 2-8 và 4-8 qua sự tường thuật của các tác giả có khác nhau về chi tiết, có thể vì do tam sao thất bản, tôi chú trọng về ý kiến riêng của họ nhiều hơn.
Về biến cố này cựu Tổng thống Nixon nói (4) ngày 2-8 tầu tuấn duyên BV tấn công khu trục hạm Maddox tại vịnh trên bằng ngư lôi nhưng không gây thiệt hại, và sau đó ngày 4-8 họ lại tấn công hai tầu Maddox và C Turner Joy. Nhiều năm sau, các ký giả phản chiến xác định rằng cuộc tấn công 4-8 của BV không hề có, họ kết án Johnson và quân đội ngụy tạo ra để lấy cớ can thiệp vào cuộc chiến. Nixon kết luận là không có chứng cớ nào cho thấy Mỹ khiêu khích, ngay quân sử của BV cũng kể lại chuyện này.
Ông cũng nói Nghị quyết vịnh BV không phải là mưu mẹo để được rộng quyền tham chiến như một số người kết án nhưng nó là một cố gắng lương thiện để được Quốc hội yểm trợ cho việc can thiệp sâu rộng hơn mà nó buộc ta phải gánh vác. Nghị quyết của Johnson không phải là lý do người Mỹ vào VN, nó xác nhận rằng các cuộc tấn công này chỉ là một phần của chiến dịch xâm lược có hệ thống của CSBV đối với các nước láng giềng, các nước liên kết chiến đấu cho tự do. Quốc hội chấp thuận và ủng hộ quyết định của Tổng thống, với cương vị Tổng tư lệnh, bằng mọi cách đẩy lui những lực lượng gây hấn với Hoa Kỳ và phòng ngừa những gây hấn trong tương lai.
Nixon nói “Chúng ta không lâm chiến vì hai cuộc tấn công nhỏ ngoài khơi nhưng vì Bắc Việt đang ra sức chiếm trọn Đông dương” (5). Nhiều người trách Johnson không xin Quốc hội tuyên chiến. Quốc hội và Ngũ giác đài không tuyên chiến vì họ không ngờ cuộc chiến lại kéo dài như thế, Johnson tưởng là oanh tạc chiến thuật tại miền nam VN và oanh tạc giới hạn tại BV sẽ khiến Hà nội từ bỏ xâm lược, tuyên chiến có thể lôi kéo Nga Trung Cộng nhập cuộc. Johnson không muốn chiến tranh khi ông chuẩn bị ứng cử Tổng thống năm 1964. Hạ viện chỉ họp trong bốn mươi phút và đồng thuận 100% (480-0), Thượng viện bàn thảo 8 tiếng cuối cùng bầu với 88 thuận, 2 chống. Nixon nói sự kiện chứng tỏ Quốc hội đã ủng hộ vô cùng vững chắc.
Những người ủng hộ Nghị quyết về sau họ chống chiến tranh kết án Johnson lừa gạt Quốc hội để vượt quá quyền hạn của mình. Nixon cho là không phải như thế, bản ghi âm cuộc thảo luận tại Thượng viện cho thấy Quốc hội tham chiến với con mắt mở to, hoàn toàn tự nguyện. Nghị quyết này không phải chỉ là căn bản hợp pháp để lâm chiến, Johnson cũng hành động phù hợp với những điều khoản an ninh của Tổ chức Liên phòng Đông nam Á (SEATO). Vả lại Quốc hội cũng hành xử quyền hạn chiến tranh của mình hàng năm khi họ chi tiền cho quân đội Mỹ tại VN.
Tác giả Bernard C. Nalty (6) nói ngày 2-8 ba tầu tuần duyên BV đuổi theo tầu Maddox đang ở ngoài hải phận quốc tế, tầu BV đã phóng ba ngư lôi nhưng không trúng mục tiêu. Tầu Maddox bắn trả bằng đại bác 127 ly gây thiệt hại nặng cho hai tầu BV, phi cơ từ hàng không mẫu hạm Ticonderoga tới yểm trợ.
Về cuộc tấn công ngày 4-8, Nalty nói BV gây hấn hay người Mỹ tưởng tượng? ông tỏ vẻ nghi ngờ biến cố này. Hôm sau Tổng thống Johnson cho tăng cường thêm khu trục hạm C Turner Joy, ngày 4-8 người chuyên viên radar trên tầu Maddox báo cáo có năm tầu phóng ngư lôi đang đuổi theo, sau đó cả hai thuyền trưởng của Maddox và C. Turner Joy quả quyết là họ bị tấn công và gọi máy bay yểm trợ đồng thời cho khai hỏa, họ báo cáo là bắn chìm hai tầu BV và làm hư hại hai cái khác.
Theo tác giả có nhiều chỉ trích gồm cả các viên chức tình báo, lời của họ đã được viết vào Văn kiện Ngũ giác đài, sau này nó xác nhận “tầu địch” chẳng qua chỉ là những tiếng “blip”của radar do những đợt sóng phía sau tầu C Turner Joy gây ra mà những chuyên viên radar chưa có kinh nghiệm của tầu Maddox đã tưởng lầm. Tuy nhiên các vị chỉ huy tại chiến trường xác nhận là có tấn công và tin rằng BV đáng bị trừng phạt giới hạn, Tổng thống Johnson quyết định trả đũa, cho không kích các căn cứ xuất phát tấn công nhưng không có mục đích mở rộng chiến tranh. Các phi cơ từ hàng không mẫu hạm Ticonderoga và Constellation tấn công bốn căn cứ hải quân và một kho dầu của BV. Khoảng 25 tầu tuần duyên bị phá hủy, 90% các kho dầu tại Vinh bị bốc cháy. Hai máy bay Mỹ bị phòng không bắn rơi, hai chiêc khác bị hư hại.
Thăm dò cho thấy sau cuộc tấn công trả đũa, người dân Mỹ ủng hộ hành động của Johnson rất cao.
Tác giả Marilyn B. Young (7) nhận xét: nhiều năm sau Nghị quyết khi sự lừa dối được phát hiện và Quốc hội muốn tự tách ra khỏi cuộc chiến mà chính họ đã phê chuẩn năm 1964, nhiều Thượng nghị sĩ than phiền rằng nếu họ biết sự thật thì họ đã chống lại Nghị quyết. Dân biểu Dante, Florida nói ông Tổng thống có nhu cầu quyền hạn, một biến cố tình cờ có thể đem lại quyền lực cho ông. Quốc hội nghĩ oanh tạc BV sẽ khiến họ chấm dứt chiến tranh. Họ cũng nghĩ như Hành pháp, nếu Mỹ khiến CS trả giá cao thì sẽ ngưng xâm lược miền nam. James Thomson (1964 trong Hội đồng an ninh GQ) trong một phiên họp của Thượng viện năm 1968 nói biến cố Vịnh lần sau (4-8) là cách thuận lợi chứng tỏ ý chí của chung mà chẳng cần có chứng cớ rõ ràng để tham dự cuộc chiến. Thượng viện sau này đánh giá Hành pháp Johnson sai lầm khi nghĩ rằng dùng oanh tạc hay sức mạnh quân sự có thể khiến Hà nội bị khuất phục.
Không cần biết chuyện gì sẩy ra ở Vịnh BV, việc đưa ra Quốc hội thành công mà các cố vấn của Tổng thống đã khuyên ông làm để đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến. Theo Marilyn B. Young Hà nội quyết tâm đi vào cuộc chiến, tháng 10-1964 họ đã đưa ba trung đoàn chính qui khoảng 4,500 người vào Nam, chiến dịch oanh tạc của Johnson không khiến Hà nội phải đầu hàng mà còn mở rộng cuộc chiến hơn nữa, cuối cùng Johnson không tìm được hòa bình như ông đã hứa với người dân.
Tác giả Stanley Karnow (8) nói tổng cộng cuộc oanh kích trả đũa BV của Johnson gồm 64 phi vụ, có khoảng 25 tầu bị phá hủy hoặc hư hại, Mỹ bị mất hai máy bay.
McNamara hồi đó cho biết ông đã có bốn công điện của BV cho thấy họ cho lệnh tấn công tối 4-8, những công điện này được giữ bí mật từ đó. Nhưng hoặc ông hiểu sai công điện hay cố tình dấu diếm nó, theo một cựu viên chức Mỹ rành về những bản truyền tin của địch thì đó không phải là lệnh tấn công (attack orders) mà McNamara hiểu nhưng là lệnh của bộ chỉ huy cho các tầu tuần duyên chuẩn bị tác chiến (military operations) mà có thể là tự vệ. Ray Cline phụ tá giàm đốc CIA hồi đó, đã phân tách sự khác biệt chính giữa hai cuộc tấn công là: sau khi duyệt xét những hồ sơ thì chỉ thấy nó liến quan đến cuộc tấn công trước (2-8)
Kết Luận
Những năm đầu thập niên 60, người dân Mỹ và Quốc hội ủng hộ mạnh mẽ cuộc chiến tranh VN vì quá sợ CS, họ tin rằng nếu mất miền nam VN hay Đông dương sẽ mất Đông nam Á. Tất cả sách báo, thống kê về giai đoạn này, nhất là 1964 đều nói đa số, đại đa số người dân, thậm chí có tài liệu nói 78% hoặc 85% (9) ủng hộ cuộc chiến, đại đa số Quốc hội ủng hộ cuộc chiến. Tháng 8-1964 Johnson đưa ra Quốc hội xin Nghị quyết Đông nam Á và đã được chấp thuận với tên Nghị quyết Vịnh Bắc Việt ngày 7-8-1964 với tỷ lệ tối đa 99.60% số phiếu thuận choTổng thống can thiệp vào cuộc chiến ngăn chận CS tại VN.
Trường hợp nếu Johnson -McNamara dùng oanh tạc khuất phục được BV, mang lại hòa bình thì sẽ không có ai đề cập tới Nghị quyết này. Nhưng sau khi được Quốc hội cho phép hành động, Johnson McNamara đã đem hơn nửa triệu quân vào miền nam VN trong mấy năm chiến tranh nhưng không thắng được CS, cuộc chiến ngày càng mở rộng. Sau trận Tết Mậu Thân tháng 2-1968 số người ủng hộ chiến tranh tụt thang nhanh chóng, tỷ lệ chống chiến tranh tăng nhanh. Khi ấy người ta kết tội Johnson đã gây lên cuộc chiến sa lầy, họ bèn xét lại Nghị quyết và lên án ông đã lừa gạt Quốc hội để đưa nước Mỹ can thiệp vào VN. Sau đó tới màn bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu và duyệt xét lại Nghị quyết để kết luận không có cuộc tấn công lần thứ hai ngày 4-8 của tầu tuần duyên BV mà do McNamara và ban tham mưu bịa ra trình Tổng thống lường gạt Quốc hội, nghĩa là chỉ Johnson McNamara là chịu trách nhiệm, người dân và Quốc hội không có gì đáng chê trách!
Như đã nói trên buổi chiều tối 4-8 chuyên viên radar trên tầu Maddox cho biết nhận được tín hiệu bị tấn công bằng ngư lôi, các thủy thủ trên tầu Turner Joy xác nhận đã nhìn thấy đèn pha chiếu sáng từ tầu địch và thấy súng tự động bắn, súng phòng không bắn hai máy bay Mỹ bay trên cao (10). Hai thuyền trưởng trên hai khu trục hạm Maddox và C Turner Joy báo động và ra lệnh bắn trả tối đa về hướng nghi ngờ, không có lửa tại sao lại có khói?
Thuyền trưởng kêu gọi không quân yểm trợ, Stockdale một trong các phi công từ hàng không mẫu hạm bay tới, ông đảo trên trời một tiếng rưỡi và không thấy chiếc tầu nào của BV mà chỉ thấy tầu Mỹ bắn loạn xạ trên mặt biển, sau này viết hồi ký kể lại như vậy.
Đô đốc Sharp, Tư lệnh Thái bình dương dựa theo báo cáo của hai thuyền trưởng để tường trình với McNamara và ông này trình lên Tổng thống như đã nói trên. Mặc dù chứng cớ về cuộc tấn công này có vẻ mơ hồ nhưng phản bác của những người chống đối cũng không có gì là cụ thể, chỉ là “lý sự”, thí dụ họ nói các chuyên viên radar thiếu kinh nghiệm, tưởng lấm, những năm sau giải mật các bản công điện của BV thì thấy chắc là lệnh tự vệ chứ không phải lệnh tấn công. Đó cũng chỉ là một cách hiểu khác, giải thích khác cũng như người ta giải nghĩa những câu văn trong Kinh Dịch, mỗi người hiểu một cách. Ngoài ra những bản công điện, vô tuyến điện thoại của BV chưa chắc đáng tin cậy, họ thường đưa tin giả để nghi binh, Đại tá Nguyễn trọng Luật, cựu tỉnh trưởng Ban mê Thuột cho biết CSBV thừa biết đối phương hay nghe lén điện thoại, công diện nên họ đã đưa nhiều tin giả để lừa địch.
Nhưng vấn đề là Johnson McNamara có cần phải khiếu khích BV và tạo biến cố giả tại Vịnh Bắc việt để đánh lừa Quốc hội hay không trong khi cuộc chiến giữa Mỹ-VNCH với Hà nội đã thực sự diễn ra từ 1959.
Ngày 13-5-1959 tại Hà Nội, CSBV đã mở Hội nghị thứ 15, ra Nghị quyết phát động chiến tranh chiếm miền nam bằng vũ lực (11). Họ thành lập đoàn 559 đưa người vũ khí xâm nhập miền nam qua Lào và hai tháng sau đoàn 779 xâm nhập đường biển. Năm 1959 có hơn 2,500 vụ ám sát các viên chức chính phủ, gấp hai lần năm 1958 (12). Ngày 12-12-1960, CSBV thành lập Mặt trận giải phóng miền nam tại Hà nội, chính thức ra mắt ngày 20-12-1960 (13). Ngày 18-9-1961 hai tiểu đoàn VC chiếm tỉnh lỵ Phước Thành trọn một ngày, giết tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng và 10 công chức, tổng cộng có 17,000 cán binh xâm nhập miền nam. Ngày 18-10-1961 Tổng thống VNCH ban hành tình trạng khẩn cấp toàn quốc (14). Năm 1962 cố vấn Mỹ gia tăng 11,300 người, quân đội VNCH tăng lên 220,000 người (15).
Đầu tháng 1-1963 trận Ấp Bắc thuộc tỉnh Mỹ Tho, VC bắn rơi 4 trực thăng Mỹ và bắn cháy ba M113, VNCH thiệt hại 63 người, Mỹ có 3 người chết, VC chết 41 nguời (16). Ngày 23-11-1963 tại trận Hiệp Hòa, tỉnh Hậu Nghĩa có 41 Dân sự chiến đấu miền nam bị giết, 120 bị thương , 32 mất tích, VC bỏ lại 7 xác, 4 lực lượng đặc biệt Mỹ mất tích (17). Ngày 1-1-1964 VC pháo kích phi trường Biên hòa, phá hủy 6 máy bay B-57, làm hư hại 20 cái khác , giết 5 người Mỹ, 2 VN, 76 bị thương (18). Từ 1959 cho tới 1962 có 100 cố vấn Mỹ bị giết, tới cuối 1964, tổng cộng có 416 người Mỹ bị giết chưa kể số người bị thương và bị bắt làm tù binh (19). Từ cuối 1964, đầu 1965 Hà nội công khai đưa quân chính qui vào nam. Như thế chiến tranh đã diễn ra rất sôi động rồi, cần gì phải tìm lý do?
Johnson chẳng thiếu gì chứng cớ để xin Quốc hội ủng hộ, đâu cần phải ngụy tạo biến cố Vịnh Bắc Việt ? dù có hay không Nghị quyết thì cuộc chiến tranh giữa Mỹ-VNCH với Hà nội đã diễn ra từ lâu rồi.
Ngoài ra Johnson không phải diều hâu, ông chủ trương hòa bình, dùng oanh tạc đe dọa để Hà nội thấy cái giá phải trả mà từ bỏ cuộc chiến xâm lược, khác với ứng cử viên đối lập Goldwater chủ trương đánh mạnh hơn nữa. Năm 1965 khi tình hình quân sự tại miền nam rất xấu, Cộng quân gia tăng xâm nhập tấn công liên tục, Quân đội miền nam bị thiệt hại nhiều, Tướng Westmoreland khẩn khoản xin McNamara và Johnson gửi thêm quân tác chiến để cứu nguy miền nam. Mặc dù vậy, Johnson vẫn chần chừ, ông thăm dò các cố vấn, hỏi ý kiến cựu Tổng thống Eisenhower đến khi mọi người khuyên ông phải tăng quân theo yêu cầu của Tư lệnh, Johnson mới chịu dấn thân. Ông leo thang khi Hà Nội đã gia tăng xâm nhập, tấn công mạnh để làm sụp đổ VNCH. Trong khi đại đa số người dân, Quốc hội ủng hộ cổ võ cuộc chiến, nó đã gián tiếp lôi cuốn Johnson can thiệp, ông tham gia cuộc chiến để khỏi mất phiếu vì bị cho là nhu nhược.
Nguyên do TT Johnson không muốn tham gia cuộc chiến VN vì sợ nó sẽ làm hỏng chương trình chương trình phúc lợi xã hội Great Society của ông gồm medicaire, cải tổ di dân, chống nghèo, làm dịu kỳ thị chủng tộc, nâng đỡ nhân quyền…. Johnson nghĩ ngân sách quốc phòng sẽ làm hỏng chương trình xã hội của ông.
Nếu nói là Johnson lừa gạt Quốc hội để được chấp thuận Nghị quyết Vịnh BV 1964 rồi đem quân vào VN là không đúng tí nào vì dù không có Nghị quyết này ông vẫn có thể đem quân vào VN mà không cần đưa ra Quốc hội vì hồi đó chưa có Nghị quyết War Powers Resolution, giới hạn quyền Tổng thống trong chiến tranh mà mãi tới năm 1973 mới có.
(Tháng 8- 1973 War Powers Resolution được ban hành, nó qui định TT phải tham khảo Quốc Hội trước khi tham chiến. Sau khi tham khảo, TT có quyền tham chiến trong 60 ngày không cần sự chấp thuận của Quốc Hội và thêm 30 ngày nữa….)
Trường hợp TT Johnson gần giống TT Bush năm 2003 khi ông đã được Quốc hội và người dân ủng hộ cuộc chiến Iraq, nhưng mấy năm sau khi bị sa lầy người ta chỉ trích ông lừa gạt người dân vì không tìm thấy vũ khí giết người hàng loạt. Tuy nhiên trường hợp Johnson có hơi khác là ông không muốn tham chiến vì chuẩn bị ứng cử, vì chương trình phúc lợi xã hội.. còn Bush muốn chiến tranh, nhiều người nói cuộc chiến Iraq là do ý muốn của chính ông.
Người ta chỉ trích chiến dịch oanh tạc BV thất bại, Johnson không làm cho BV chịu thua cuộc nhưng cả Quốc hội, người dân cũng tin vào kế hoạch này. Không riêng gì Johnson mà cả nước Mỹ sai lầm vì chủ quan, khinh địch, đánh giá quá thấp đối phương cũng như CS quốc tế, quá tin tưởng vào sức mạnh của mình. Chiến dịch thất bại một phần vì hỏa lực phòng không địch rất mạnh, người Mỹ không nghĩ CS quốc tế viện trợ cho Hà Nội dồi dào như thế, từ đầu chí cuối họ đã cung cấp cho BV 3,229 khẩu cao xạ; 20,000 hỏa tiễn địa-không (SAM) (20)
Phản chiến nói TT Johnson lừa Quốc hội để có Nghị quyết vịnh BV, từ Nghị quyết này đi tới cuộc chiến lớn và sa lầy tại VN, có nghĩa vì sự lừa gạt mà đưa tới cuộc chiến VN. Nhận định này không có căn cứ tí nào vì như đã nói dù không có biến cố vịnh BV Johnson cũng có những lý do khác để đưa ra Quốc hội, và thậm chí dù không có Nghị quyết Vịnh BV 1964, ông vẫn có thể đưa quân vào VN được vì ông là Tổng tư lệnh quân đội, vì tình hình đòi hỏi và vì hồi đó chưa có Nghị quyết hạn chế quyền Tổng thống (1973).
Những người chống chiến tranh và cả McNamara sau này cho là cuộc chiến VN sai lầm, nhưng nếu sai lầm tại sao không rút bỏ VN từ giữa thập niên 60? Tháng 12-1964, Hội đồng quân lực VNCH đã yêu cầu Quốc trưởng Phan Khắc Sứu và Thủ tướng Trần văn Hương trục xuất Đại sứ Mỹ Taylor mà họ cho là có thái độ hách dịch (21). Trong tường trình cuối năm về Tòa Bạch ốc, Taylor có đề nghị rút bỏ miền nam VN (22) nhưng không được ai chú ý. McNamara (hồi ký trang 320) cho là đáng lý Mỹ phải rút bỏ miền nam từ cuối 1963 hay cuối 1964 hoặc đầu 1965.
Nói cho oai thôi chứ trên thực tế Hoa kỳ vẫn bám vào miền nam VN kỹ lắm, mặc dù 1965, 1966 phản chiến tại Mỹ lên cao, ngay tại miền nam cũng có nhóm quá khích chống chiến tranh1966 nhưng họ cũng không dám rút bỏ. Người Mỹ chỉ rút bỏ VN năm 1975 sau khi đã hòa được với CS quốc tế.
Những năm 1964, 1965 Hoa Kỳ có thể lựa chọn hoặc tham chiến hoặc rút bỏ miền nam VN hay không? Thực ra họ không có con đường nào khác hơn là can thiệp vào cuộc chiến VN để giữ Đông nam Á, để bảo vệ an ninh cho chính họ, bảo vệ cho chính quyền lợi của nước Mỹ.
Như thế không thể kết luận chỉ có Johnson là người đã đưa nước Mỹ vào cuộc chiến sa lầ.
© Trọng Đạt
Chú thích
(1) McNamara, In Retrospect, The Tragedy and Lessons of Vietnam, trang 127-143
(2) In Retrospect trang 140
(3) In Retrospect trang 141
(4) No More Vietnams trang 73-76
(5) No More Vietnams trang 74
(6) The Vietnam war, trang 81, 82
(7) The Vietnam war 1945-1990, trang 120-123
(8) Vietnam a History trang 388,389
(9) Vietnam a History trang 390; answer.com, domino theory
(10) In Retrospect trang 134
(11) Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1955-1963, trang 152
(12) Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn tập trang 61
(13) VN Niên Biểu trang 206
(14) VN Niên Biểu trang 228,229
(15) Chiến Tranh VN Toàn Tập trang 61
(16) Sách kể trên trang 63.
(17) Sách kể trên trang 94,95
(18) The World Almanac of The Vietnam War trang 95
(19) National Archives, Statistical Information about Fatal Casualties of the Vietnam War
(20) Đăng Phong, Năm Đường Mòn Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Trí thức Hà nội 2008, trang 120, 121
(21) Lâm vĩnh Thế, VNCH 1963-1967, Những Năm Xáo Trộn trang 98
(22) In Retrospect, trang 164
Source: "https://vantuyen.net/2014/07/29/50-nam-su-kien-vinh-bac-bo-nghi-quyet-vinh-bac-bo-1964-trong-dat/"
Ý kiến cho bài đọc xin nhấn vào đây => (50 năm sự kiện Vịnh Bắc bộ)
Tháng Tư Không Ánh Mặt Trời
Huy Tưởng
Xin một phút mặc niệm để tưởng nhớ những đồng độI cũ và những Mũ Nâu đã gục ngã trong cuộc chiến bảo vệ Tự Do cho miền Nam Việt Nam trước đây, chữ Tự Do mà chân giá trị của nó, chỉ sau khi tàn cuộc chiến, mớI thực sự được thấu hiểu.
Huy Tưởng
Phần 1.
Đông Xuân, Một Chín Bảy Lăm, tháng Giêng ngày 6, những sư đoàn chính qui Bắc Việt với T54 và đại pháo 130 ly yểm trợ tràn ngập tỉnh lỵ Phước Bình, Phước Long sau hơn hai tuần lễ ác chiến với quân trú phòng gồm phần lớn là quân địa phương diện điạ và một trung đoàn của SĐ5BB!! Hai biệt đội Biệt Cách Nhảy Dù được tung vào trận điạ mong cứu vản tình hình, nhưng đã quá muộn màng. Bắc quân với hỏa lực và quân số áp đảo gấp chục lần đã nghiền nát mọi sức kháng cự còn sót lại ! Lính 81, thiệt hại gần phân nửa, chạy dạt vào rừng, nương bóng tối rừng già tìm đường triệt thoái. Tháng Giêng năm 1975, tháng mở đầu cho định mạng cay nghiệt của miền Nam Việt Nam trong cuộc hành trình vào thềm đầu điạ ngục!
(Xin chân thành gửi đến anh Trần Đình Phước, cựu Trung Úy Không Quân VNCH, sự biết ơn sâu xa đã khuyến khích, bỏ ra nhiều thời gian và nhiệt tình giúp tôi hoàn tất viết lại những dòng hồi ký đúng vào ngày Giáng Sinh 2015 về chuyến đi nhiều phép lạ mầu nhiệm này.)
Kính dâng lên hương hồn những thuyền nhân đã bỏ mình trên biển cả vì lý tưởng tự do. Hình ảnh hiệu đính trên bài viết do một thuyền nhân là CVH, cựu Trung Úy Không Quân VNCH, cựu Phóng Viên Đài VOA cung cấp sau chuyến đi thăm lại Đảo Pulau Bidong vào tháng 08, năm 2015. Nơi đây hàng trăm ngàn thuyền nhân Việt Nam đã tạm dừng chân, trước khi được đi định cư ở một nước thứ ba. (tdp)
Chuyến bay tử thần vào đồi 31 Hạ Lào
Kingbee Bùi Tá Khánh
Chuyện về cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào nhằm cắt đứt đường mòn HCM đã được nhiều người viết ra. Ðầu tiên là nhà văn Phạm Huấn với quyển "Trận Hạ Lào năm 1971", rồi nhà văn nhảy Dù Lê Ðình Châu, đại uý đại đội trưởng đại đội công vụ nằm vòng đai bảo vệ cho Lữ đoàn 3 nhảy Dù trên đồi 31 cũng ra mắt quyển "Ðôi mắt người Tù Binh", và anh Nguyễn Văn Long, thiếu uý sĩ quan phụ tá ban 2 Lữ Ðoàn 3 nhảy Dù vẫn thường xuyên viết về Hạ Lào cho Ðặc San Nhảy Dù ở Úc Châu.
Từ lệnh bỏ Huế ngày 25/3/1975: Vĩnh Biệt Chốn Kinh Kỳ!
Nguyễn Tiến Hưng
Việt Báo giới thiệu: Những ngày này 44 năm trước, VNCH bị đồng minh Hoa Kỳ đẩy tới đường cùng. Số phận của Huế và cả nền Cộng Hòa tại miền Nam hầu như được quyết định trong hai phiên họp khẩn cấp tại Dinh Độc Lập ngày 25 và 26/3/1975. Để tưởng nhớ ngày phải rời bỏ Huế năm xưa, mời đọc lại bài viết của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, tác giả sách "Khi Đồng Minh Tháo Chạy" và "Tâm Tư Tổng Thống Thiệu."
Vua nước Chiêm Thành là Chế Mân, người anh hùng chiến thắng cả được quân Nguyên Mông, thế mà lại phải đầu hàng trước nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành của Huyền Trân Công Chúa. Ông liền dâng cả miền đất của Châu Ô, Châu Rí cho Việt Nam để làm quà sính lễ xin cưới Huyền Trân về làm vợ. Nàng hy sinh, giúp mở được con đường Nam Tiến. Vua Trần đổi tên hai châu thành Thuận Châu và Hóa Châu, gọi tắt là Thuận Hóa. Chữ ‘Hóa’ dần dần đọc trại đi thành “Huế.”
Câu chuyện lãng mạn ấy đi đôi với cái phong cảnh nhẹ nhàng, quyến rũ của miền đất này. Lăng tẩm, Thành nội, Thành ngoại, đầm sen tỏa hương thơm ngát. Rồi những buổi chiều tím, những đêm trăng mờ, những con đò nho nhỏ. Nếu ta dừng lại ở vài bậc chót khi lên Chùa Thiên Mụ mà ngắm cảnh hoàng hôn rực rỡ trên dòng Sông Hương thì sẽ thấy lòng mình lắng xuống, rồi như bị cuốn vào với tiếng chuông chùa, ngân vang vào không trung: ai đi xa Huế làm sao quên được Sông Hương?
Cái cảnh nửa đi nửa ở không phải chỉ ám ảnh người lữ khách khi phải lìa xa nơi Cố đô, nhưng nó còn làm cho các nhà quân sự trăn trở không ít khi phải vĩnh biệt chốn Kinh Kỳ vào cuối tháng Ba năm ấy. Lúc thì cố thủ, lúc thì rút quân, rút xong lại muốn quay về giữ Huế, cứ dùng dằng mãi.
Trong một báo cáo tối mật của Tướng Fred Weyand gửi Tổng Thống Gerald Ford sau chuyến viếng thăm chiến trường Miền Nam vào cuối tháng 3, 1975, ông nói tới hậu quả bi đát của việc cúp hết viện trợ làm tê liệt khả năng chiến đấu của VNCH. Về cuộc họp tại Dinh Độc Lập trước khi bỏ Huế (13/3), ông bình luận:
“Trong mười hai ngày tiếp theo sau bưổi họp này (từ 13 tới 25), có sự băn khoăn lớn lao (critical desolation) từ phía Quân Đoàn I và Sàigòn về việc nên giữ lại những phần nào ở QĐ I, nhất là về việc có nên hay không nên giữ Huế.”
Tiến thoái lưỡng nan
--“Anh Trưởng hả? Liệu có giữ được Huế không?”
TT Thiệu hỏi Tướng Ngô Quang Trưởng qua điện thoại. Hôm đó là ngày 25 tháng 3, 1975. Một cuộc họp tại Dinh Độc Lập dưới quyền chủ tọa của TT Thiệu lúc 9 giờ 30 sáng. Hiện diện: ngoài Phó TT Trần Văn Hương và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm:
Về phía quân sự: Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang, Trung tướng Đồng Văn Khuyên.
Về phía dân sự: Ngoại trưởng Vương Văn Bắc, Tổng trưởng Kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng.
Khi mọi người đã đến đông đủ, một bầu không khí im lặng ghê rợn bao phủ phòng họp. Những điểm mầu đỏ đánh dấu vị trí đồn trú của quân đội Bắc Việt trên tấm bản đồ lớn trên tường đã mọc lên như nấm. Cuộc duyệt xét tình hình quân sự bắt đầu.
Sau khi tướng Khuyên trình bày về tình hình QK I và II, TT Thiệu nhấc máy điện thoại gọi tướng Trưởng hỏi xem có giữ được Huế hay không. Rồi ông nhắc lại câu trả lời từ đầu giây bên kia:
-- Trung tướng Trưởng: “Nếu có lệnh, thì giữ.”
-- TT Thiệu: “Liệu giữ được bao lâu?”
-- Trung tướng Trưởng“Ngày một ngày hai.”
-- TT Thiệu: “Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết
định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ.”
Vì những biến cố về Huế còn đặt ra nhiều nghi vấn nên chúng tôi đã ghi lại thật rõ trong cuốn sách Tâm Tư Tổng Thống Thiệu về những diễn tiến ở Dinh Độc Lập có liên hệ tới Quân đoàn I vào tháng 3/1975, cùng với suy tư của Tổng thống Thiệu và Trung tướng Trưởng. Thêm vào đó là tường thuật của Đại tướng Viên và những tài liệu của Hoa Kỳ (xem Tâm Tư Tổng Thống Thiệu, Chương 3).
Cuộc họp tại Dinh Độc Lập ngày 19 tháng 3
Trong bối cảnh ấy thì sáng ngày 19/3, Tướng Trưởng bay vào Sàigòn để trình bày kế hoạch rút lui lên tổng thống, lần này có sự hiện diện của cả Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Sự hiện diện của cụ Hương là việc bất thường, vì xưa nay khi bàn chuyện quân sự ông Thiệu thường chỉ mời có các ông Khiêm, Viên và Quang mà thôi. Chắc lúc đó, ông phải nhờ đến sự ủng hộ của Phó Tổng thống để thuyết phục Tướng Trưởng nên bỏ Huế.
Theo Đại Tướng Viên thuật lại trong cuốn Những Ngày Cuối Cùng Của VNCH (trang 162-163):
Tướng Trưởng trình bày kế hoạch với hai giải pháp:
Kế hoạch thứ nhất: nếu quốc lộ 1 (QL 1) còn sử dụng được, quân ông sẽ rút từ Huế về Đà Nẵng và từ Chu Lai về Đà Nẵng;
Kế hoạch thứ hai: nếu QL 1 bị cắt, các lực lượng sẽ rút vào ba cứ điểm là Chu Lai, Huế, và Đà Nẵng, nhưng Huế và Chu Lai chỉ là hai nơi tập trung quân để cuối cùng thì rút về Đà Nẵng bằng đường biển. Đà Nẵng sẽ là điểm phòng thủ chánh do bốn sư đoàn bộ binh và bốn liên đoàn BĐQ.
Vì lúc ấy “không thể rút quân theo kế hoạch thứ nhất được vì đoạn đường Huế-Đà Nẵng, Chu lai-Đà Nẵng đã bị chốt, làn sóng tỵ nạn lại đang từ mọi ngả dùng con lộ duy nhất này để chạy về Đà Nẵng, nên Tướng Trưởng kết luận: “ 'chúng ta chỉ có một chọn lựa, và chúng ta phải thi hành ngay trước khi quá trễ.' Chọn lựa của tướng Trưởng là rút quân về Huế, Đà Nẵng, Chu Lai và lợi dụng những công sự phòng thủ đã có trong thành phố, hay địa hình chung quanh, như những cao điểm của những ngọn đồi ngoại thành để chống cự."
Trong cuộc họp ngày 19 tháng 3, TT Thiệu kể lại là ông đã miễn cưỡng chấp thuận kế hoạch thứ hai của ông Trưởng vì ông Trưởng nói không còn đường nào tháo lui khỏi Huế được nữa vì QL 1 đã bị chặn: “Tôi nói với tướng Trưởng là mặc dầu lịch sử có thể phán xét tôi như một thằng ngu (imbécile) nhưng vì lòng tôi đối với đất nước, tôi đồng ý.” Sau đó ông Thiệu tiễn ông Trưởng ra khỏi Dinh Độc Lập và nói:“Tôi đợi đến khi anh về tới Đà Nẵng rồi sẽ tuyên bố cố thủ Huế trên đài phát thanh.”
TT Thiệu thêm: khi về tới Đà Nẵng thì “Ông Trưởng gọi điện thoại để yêu cầu tôi hãy hoãn lại việc tuyên bố tử thủ Huế trên đài phát thanh, vì có thể ta không giữ nổi Huế.” Tôi hỏi tại sao Tướng Trưởng lại thay đổi? TT Thiệu trả lời:”Lý do là khi máy bay vừa đáp xuống Đà Nẵng, Tướng Trưởng nghe Tướng (Lâm Quang) Thi, Tư lệnh phó QĐ I báo cáo là QĐBV đã bắt đầu pháo vào bộ chỉ huy rồi.
Việc Tướng Thi báo cáo bộ tư lệnh của ông đã bị pháo thì Đại tướng Viên cũng xác nhận trong cuốn hồi ký của ông (sđd., trang 164-165). Nhưng việc Tướng Trưởng xin hoãn tuyên bố cố thủ Huế trên đài phát thanh thì chưa thấy ai nói tới. Cũng theo lời TT Thiệu, vì ông đã miễn cưỡng đồng ý với Tướng Trưởng về việc giữ Huế mà bây giờ lại thấy ông Trưởng dè dặt, lung lạc nên nhân cơ hội này, ông Thiệu lại nói thêm về việc nên bỏ Huế. Ông cho ông Trưởng biết là cả Phó Tổng thống, cả Thủ tướng đều chống lại việc giữ cả hai nơi - Huế và Đà Nẵng- cùng một lúc.
Nhưng mặc dù TT Thiệu tỏ ý dè dặt, Tướng Trưởng vẫn tiến hành kế hoạch giữ ba cứ địa Huế, Chu Lai và Đà Nẵng, vì Quốc Lộ 1 đã bị chận rồi, không thể rút được nữa, vả lại ông cho rằng Tổng thống tuy dè dặt nhưng chưa rút lại lệnh đó.
Vào thời điểm này thì đài BBC luôn loan báo đầy đủ chi tiết về cuộc triệt thoái Pleiku và tiên đoán là quân đội Bắc Việt sẽ tới vùng phụ cận Sàigòn trong vòng vài ba tuần lễ vì Quốc lộ 14 từ Ban Mê Thuột đã mở rộng. Đài VOA thì tường thuật về vụ nhóm Dân chủ ở Hạ viện đã bỏ phiếu chống viện trợ bổ túc cho Miền Nam (ngày 12 tháng 3) với số phiếu 189-49; rồi nhóm ở Thượng viện theo sau với số phiếu 34-6. Binh sĩ nghe liên tục như vậy nên tinh thần sa sút rất nhanh. Từ Miền Trung, đơn xin tiếp liệu về thực phẩm, dược phẩm, nhà tạm trú cho gia đình binh sĩ và nhân dân di tản tới tấp bay về Sàigòn, nhưng chính phủ trung ương đã hầu như cạn kiệt.
Năm ngày trăn trở về Huế
Ngày 23 tháng 3, 1975, theo Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn trong hồi ký Đất Nước Tôi: “Tướng Trưởng họp bộ tham mưu tại Đà Nẵng, ra chỉ thị cho Tướng Thi tử thủ Huế nhưng đồng thời phải có kế hoạch để sẵn sàng di tản về Đà Nẵng nếu tình thế đòi hỏi. Đến đây ai cũng nhận thấy tình hình cố đô Huế rất nguy kịch, nếu không nói là tuyệt vọng.” Sau đó, sáng ngày 24 tháng 3, Tướng Thi và Bộ Tư lệnh tiền phương đáp tầu Hải quân đi Đà Nẵng…”
Ngày 25 tháng 3, theo ĐT Viên: “tất cả các đơn vị của quân đoàn I tụ lại tại ba phòng tuyến chánh: nam Chu Lai, Đà Nẵng (kể cả Hội An) và Bắc thành phố Huế… Tinh thần binh sĩ xuống thấp và chán nản. Từ lâu, chinh chiến hết trận này đến trận nọ, nhưng chưa bao giờ họ nằm trong cảnh tuyệt vọng như vầy… Trong tình thế thất vọng đó, quân đoàn I nhận thêm một quân lệnh từ Dinh Độc lập: tổng thống Thiệu ra lệnh tướng Trưởng dùng ba sư đoàn cơ hữu của quân đoàn để phòng thủ Đà Nẵng. Sư đoàn TQLC được đóng vai trừ bị. Đêm đó tướng Trưởng ra lệnh cho Sư đoàn 1BB và các đơn vị chung quanh Huế rút về Đà Nẵng…”
"Kế hoạch di tản lực lượng khỏi Huế bắt đầu bằng cách cho sư đoàn 1BB và các đơn vị cơ hữu của sư đoàn rút ra Cửa Tư Hiền…" (sđd., 171).
Lệnh bỏ Huế ngày 25/3/1975
Như viện dẫn ở đầu bài, trong buổi họp ngày 25/3, sau khi TT Thiệu hỏi Tướng Trưởng “nếu ông quyết định giữ Huế thì được bao lâu,” ông Trưởng trả lời là chỉ giữ được “ngày một ngày hai,” ông Thiệu lập lại cho mọi người nghe, rồi ra lệnh: “Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ.”
Tới đây ông Thiệu không nhắc lại thêm các câu trả lời sau đó của ông Trưởng nữa. Ông đặt ống nói xuống, và nói: “Ông Trưởng rất depressed” (chán nản). Sau khi tham khảo với Đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu ra chỉ thị cho ông gửi công điện cho Tướng Trưởng, đưa ra ba lệnh (và tôi ghi rất rõ ràng xuống cuốn sổ tay còn giữ được):
“Thứ nhất, bỏ Huế;
“Thứ hai, phải làm cho lẹ; và
“Thứ ba, tử thủ Đà Nẵng.”
TT Thiệu thở dài: “Mình trông cậy vào ba ‘enclaves’ (cứ điểm), mà bây giờ chỉ còn một ở Đà Nẵng.” Nghe vậy, ông Bắc và tôi bàng hoàng nhìn nhau. Như vậy là đã có lệnh chính thức bỏ Huế.
Trong cuốn ‘Decent Interval,’ tác giả Frank Snepp viết về lòng thương của Tướng Trưởng đối với binh sĩ và hậu quả như sau:
“Đang khi Tướng Trưởng trình bày với TT Thiệu về kế hoạch của ông thì số quân đội mà ông cần để thi hành này lại đang tan rã (disintegrating). Và đó là lỗi ông ta một phần (He was partly to blame). Mấy ngày trước đó ông đã cho phép quân nhân của SĐ I được phép lo cho an toàn của gia đình họ. Ông đã làm như vậy là vì lòng thương của một tư lệnh đối với binh sĩ, nhưng khi Quốc Lộ I đã bị chận rồi thì chỉ thị này đã dẫn tới hỗn loạn, vì sĩ quan cũng như quân nhân đã bỏ đồn từng loạt để lo cho thân nhân tìm lối thoát.”
Nơi đây, tôi mở ngoặc để nhắc lại về tình trạng kinh tế khó khăn của thân nhân người binh sĩ trước khi sụp đổ. Từ mùa Hè 1974, sau khi giá xăng dầu tăng lên gấp ba lần, ngân sách không còn đủ khả năng tăng lương cho quân đội để đáp ứng với lạm phát vì viện trợ đã bị cắt gần hết. Chính phủ chỉ định cho mỗi Bộ nhận một sư đoàn để tìm cách giúp đỡ. Sư đoàn 1 được giao cho Bộ Kế Hoạch.Trong một chuyến đi Huế thăm sư đoàn này, chúng tôi được Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm đưa đi thăm hỏi gia đình binh sĩ. Ông tâm sự rằng để cho thân nhân sống trong các lều, bạt ngay sát trại như thế này thì thật là nguy hiểm khi bị pháo kích và cũng thật khó khăn khi phải chuyển quân, nhưng phải chấp nhận vì với số lương quá ít ỏi, người lính phải chi tiêu chung với gia đình. Thật vậy, với 20,000 đồng một tháng (mãi lực bằng khoảng $28 đô la), người quân nhân chỉ có thể mua gạo, nước mắm cho gia đình, còn lại rất it cho những nhu cầu khác như thuốc men, may mặc, giáo dục con cái, giải trí.
*
Ngày 26 tháng 3, 1975 một buổi họp tiếp theo tại Dinh Độc Lập vào lúc 10 giờ sáng. Có mặt tại buổi họp: Tổng thống Thiệu, Ngoại trưởng Bắc và chúng tôi. Cuộc họp này là để bàn về việc tìm cách để cấp tốc khai thác hai bức thư của Chủ tịch Thượng viện Trần Văn Lắm và Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn viết cho hai Chủ tịch Lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ ngày hôm trước (25 tháng 3). Giữa cuộc họp thì TT Thiệu lại nhấc điện thoại nói chuyện với Tướng Trưởng về Huế:
-- TT Thiệu: “Anh Trưởng hả? Tình hình Huế thế nào?’
-- Tướng Trưởng: (theo như lời ông Thiệu nhắc lại trong phòng họp):
“Đang bị đánh vài trận.”
Cùng ngày bỏ Huế, TT Thiệu chỉ thị cho tôi trình ông bản thảo chót về bức thư cầu cứu Tổng thống Ford. Mở đầu có câu: “Thưa Tổng Thống, lúc lá thư này tới tay Ngài, thành phố Huế có lẽ đã bị bỏ ngỏ, và rất có thể chính Sàigòn cũng bị đe dọa.” Ông Thiệu gạch ngay câu mở đầu đi vì Huế đã bị bỏ ngỏ rồi. Trên đầu thư chúng tôi đề "Saigon, March…, 1975" để trống con số về ngày gửi, vì chưa biết ông định gửi thư ngày nào. Lúc ấy ông lấy bút chì xanh viết xuống số "25" thật to, tức là "Saigon, March 25, 1975." Tôi còn nhớ rõ khuôn mặt buồn thảm của ông lúc ấy. Ông bảo tôi đưa bản văn cho Chánh Văn Phòng tổng thống là Đại tá Cầm để cho đánh máy và chuyển cho Đại sứ Graham Martin ngay.
Gửi thư đi rồi, TT Thiệu chờ đợi từng giây phút về phản ứng của Tổng thống Ford.
Nhưng nhận được thư SOS, TT Ford lờ đi, không hồi âm, măc dù khi lên nhậm chức tổng thống thay TT Nixon vào mùa hè 1974 ông đã viết cho TT Thiệu ngay ngày làm việc đầu tiên tại Tòa Bạch Ốc: “Những cam kết mà nước Mỹ đã hứa hẹn với VNCH trong quá khứ vẫn còn hiệu lực và sẽ được hoàn toàn tôn trọng trong nhiệm kỳ của tôi” (thư ngày 10 tháng 8, 1974, xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 194-196). TT Ford chỉ làm một nghĩa cử để biểu diễn. Trong cuốn hồi ký A Time to Heal (1979) ông viết lại:
"Chiều ngày 25 tháng 3 (ngày 26 giờ Sàigòn), tôi họp với các ông Kissinger, Scowcroft, Martin và tướng Weyand, Tham Mưu Trưởng Lục Quân. Mọi người đều biết là tình hình Miền Nam rất trầm trọng, nhưng chẳng ai biết nó nguy kịch như thế nào. Tôi yêu cầu ông Weyand bay sang Sàigòn sớm nhất có thể, ở đó một tuần rồi mang về một báo cáo đầy đủ."
Nói rằng "Chẳng ai biết nó nguy kịch như thế nào" thì đúng là nói dối. Ông đã nhận được thư SOS của TT Thiệu và của lưỡng viện VNCH, lại đươc nghe Đại Sứ Graham Martin từ Sài gòn về báo cáo. Sau này ĐS Martin còn nói lại với chúng tôi là sau khi ông họp nhiều lần với TT Thiệu, cũng như đã có đầy đủ tin tức chiến trường do ông Polgar (Giám đốc CIA ở Sàigòn) cung cấp, ông đã báo cáo rất chi tiết cho cả hai ông Kissinger và Ford. Như vậy là trong hồi ký, trước sự đã rồi, TT Ford chỉ biện luận cho hành vi phản bội của mình.
Hồn khí linh thiêng nơi cố đô
Vừa rút khỏi Huế buổi sáng thì bưổi chiều lại một tin sét đánh, hy vọng cuối cùng của VNCH để có chút tiền sống cầm hơi đã bị tan biến. Vào cuối năm 1974, một tia sáng loé lên. Có ông vua dầu lửa người xứ Arabia chiếu cố đến Miền Nam. Vua Saud al Faisal cho biết ông có rất nhiều thiện cảm với nhân dân Miền Nam và đã bí mật đồng ý cho Miền Nam vay một số tiền để mua tiếp liệu (xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 474).
Thật là một cơ hội quý báu. Đang lúc nguy kịch lại có nhà hảo tâm đến cứu. Vua Faisal bằng lòng cho vay dài hạn $300 triệu (để bù đắp cho số tiền vừa bị QH Mỹ vét nạo hết). Bao nhiêu hy vọng tràn trề. Họp lên họp xuống, nhất thiết là phải thực hiện ngay kế hoạch này để tới 1975/76 còn giữ được một phần lượng nhập cảng những hàng thiết yếu. Đặc biệt là dầu, xăng, thực phẩm, thuốc men, và phân bón. Nếu quá khan hiếm những sản phẩm này thì chắc chắn sẽ có khủng hoảng lớn.
Nhưng đúng là "hoạ vô đơn chí." Những cái rủi ro nó hay theo nhau mà đến. Đang lúc chúng tôi sửa soạn để cùng với Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc lên đường đi Riyadh đàm phán, mong sớm có giải ngân, thì đùng một cái, vua Faisal bị chính cháu ruột mình sát hại một cách thảm thương ngay trong hoàng cung.
Chính phủ Miền Nam bàng hoàng. Tổng Thống Thiệu gửi điện văn chia buồn cùng Hoàng gia, nói tới nghĩa cử cao đẹp của ngài Faisal, cầu xin cho Allah sớm đưa Ngài về nơi cực lạc. Vì tình cảm cao đẹp ấy, Việt Nam Cộng Hòa yêu cầu Hoàng gia tiếp tục thực hiện công cuộc yểm trợ Miền Nam như Ngài đã vạch ra.
Thế nhưng, trong lúc tang gia bối rối, tình hình quốc nội xáo trộn, Hoàng gia Saudi đâu còn thời giờ hay tinh thần mà để ý đến chuyện của nước khác.
Đứng về khía cạnh tâm linh, tôi tự hỏi làm sao lại có sự trùng hợp giữa cố đô Hoàng Triều Huế và ông vua xứ Saudi cùng một ngày như vậy? Phải chăng đã đến lúc vận nước suy tàn?
Nguyễn Tiến Hưng
Source:https://vietbao.com/a292265/tu-lenh-...-chon-kinh-ky-
Ý kiến cho bài đọc xin nhấn vào đây => (Từ lệnh bỏ Huế ngày 25/3/1975: Vĩnh Biệt Chốn Kinh Kỳ!)
Những Hồn Hoang Nơi Pháp Trường Cát!
Captovan
Sau khi TQLC Cao Xuân Huy “lên tàu”, nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh yêu cầu Phan Văn Đuông và tôi lên Hồn Việt T.V để anh phỏng vấn về tác giả và tác phẩm “Tháng Ba Gẫy Súng”, trước ống kính, tôi nói với anh Trinh rằng Cao Xuân Huy viết đúng nhưng chưa đủ, phải thêm vài cuốn Gẫy Súng nữa mới thấy hết cái bi thương và lý do gây nên thảm cảnh đó.
Ngục Tù Cộng Sản
Mũ Xanh Giang văn Nhân
Cổ nhân thường bảo:
Nhất nhật tại tù,
Thiên thu tại ngoại
Quả thật vậy, và một điều bất hạnh nhất là ở trong ngục tù của Cộng Sản
"Tình hình trong này rất lộn xộn, Cam Ranh (xử lý thường vụ LÐT/LÐ147) cho con cái di chuyển càng về phía Nam càng tốt, hoặc dùng những sampans (ghe: tiếng Pháp) ra biển về Nam, Sư đoàn không thể làm gì được”. Lúc này tôi lặng người, thật sự chúng tôi đã bị bỏ rơi.
BBT đánh máy lại từ tập truyện DINH ĐỘC LẬP TIẾNG SÚNG CUỐI CÙNG, với sự đồng ý của tác giả Huy Văn Trương (bút hiệu của Trung úy Trương Văn Hùng, phòng Hành Quân bộ Chỉ Huy trường VBQGVN).
Xin chân thành cám ơn tác giả.
We have 26 guests and no members online