Login to your account

Username *
Password *
Remember Me

Phi Vân - Mây Xám Lưng Trời - Nguyễn Hữu Thiện

 

PHI VÂN - MÂY XÁM LƯNG TRỜI 

Nguyễn Hữu Thiện

(nguyên Sĩ Quan Báo Chí CCKQ Pleiku)

 

 Đã hơn 17 năm kể từ ngày người viết rời bỏ Căn Cứ Không Quân Pleiku. Tên tuổi các cấp chỉ huy, chiến hữu, bạn bè đôi khi cũng không còn được ghi nhớ trọn vẹn, nhưng hình ảnh thân thương của những ngày tháng cũ sẽ không bao giờ mờ nhạt.


Nhân dịp ra mắt đặc san Lý Tưởng Úc Châu, xin được viết bài này như một hoài niệm về chốn xưa, không với mục đích tô son điểm phấn mà chỉ để ghi lại buồn vui của hơn một nghìn ngày sống với những con người bình thường, rất bình thường, nhưng đã đem cuộc sống, đôi khi cả cái chết của mình để góp phần tạo niềm tự hào cho những người chung sắc áo, màu cờ quân chủng, trong đó có người viết.

* * * 

Đường vào Không Quân của tôi rất ngắn và bất chợt. Ngắn đến độ vào căn cứ Tân Sơn Nhất mà không phải qua cổng Phi Long. Bất chợt tới mức về trình diện Bộ Tư Lệnh KQ mà chưa có được con Rồng may trên túi áo!

Là một sinh viên có đôi chút tinh thần phản chiến cho “hợp thời trang”, tôi chỉ lên đường nhập ngũ sau lệnh Tổng Động Viên năm 1968. Vào những ngày cuối cùng ở đồi Tăng Nhơn Phú, tôi hờ hững với các phái đoàn quân binh chủng đến để tuyển chọn người. Tôi chỉ làm đơn tình nguyện về Không Quân sau khi thằng bạn thân nhất quyết định về làm quân cảnh gác cổng phi trường. Không Quân không có gì hấp dẫn đối với tôi nhưng cô em gái xinh đẹp của hắn thì tôi lại chẳng muốn xa.

Mấy ngày sau, những chiếc xe GMC màu xanh đưa chúng tôi về Bộ Tư Lệnh KQ qua cổng Phi Hùng. Khi bốc thăm đi đơn vị, tôi đổi cái thăm “Sóc Trăng” duy nhất cho một anh bạn bốc phải cái thăm (cũng duy nhất) có chữ “Pleiku”; tôi giang hồ đã quen, chẳng mất mát gì trong khi hắn là dân miệt dưới, mừng hết lớn! 

Căn Cứ 92 Không Quân - tức Căn Cứ Không Quân Pleiku - vào thời gian ông Phùng Ngọc Ẩn vừa bàn giao cho ông Đỗ Trang Phúc là căn cứ nhỏ bé nhất của Không Quân Việt Nam. Quân số lèo tèo hơn 200 chàng “trấn thủ lưu đồn”. Chu vi nếu không kể đài Kiểm Báo 921 trên đồi thì chỉ độ vài ba cây số. Cảnh vật ở đây tiều tụy chẳng thua kém gì con người, khí hậu khắc nghiệt quanh năm, mùa hè bụi đỏ, mùa mưa lầy lội. Cái tên của phi trường, “Phi trường Cù Hanh”, lại càng làm lòng người thêm ngao ngán; điểm son duy nhất có được là cái tên cổng ra vào của căn cứ: “Cổng Phi Vân”, nhưng cái tên thơ mộng ấy cũng không thể biến đổi được cuộc sống buồn tẻ và thiếu thốn ở đây.

Ngày ngày hai buổi leo đồi, chiều chiều đón xe lam ra phố; phố Pleiku “đi dăm phút đã về chốn cũ” chỉ có vài quán cà phê và quán thịt cầy Kim Phượng để lui tới, những người em “má đỏ môi hồng” cũng chẳng nhiều nhặn là bao! 

Đã buồn tẻ lại thiếu thốn mọi bề, đến độ hàng Quân Tiếp Vụ cũng phải sang C2 của Lực lượng Đặc Biệt mua ké. Về giải trí thì lâu lâu đánh hơi được bên Pháo Binh hoặc Thiết Giáp có nhảy đầm liền qua vi vút, được cái cả ông Trung tá Tuấn “râu ghi-đông” lẫn ông Đại tá Dung (sau này làm Tỉnh trưởng Pleiku) đều là người rộng lượng nên phe ta cũng được nhờ. May mắn nhất là những tay nào quen được cố vấn Mỹ thì mới có hy vọng vào Officer Club hoặc NCO Club của họ mà coi vũ xếch-xy!...

Ông chỉ huy trưởng căn cứ, Trung tá Đỗ Trang Phúc, lại là người rất “réc-lô”, có người nói tại vì ông xuất thân là một sĩ quan Nhảy Dù (?). Tôi được ông “thương” vì cả hai cùng chung sở thích: nghe nhạc và tìm hiểu về máy móc, amplifier, loa... Một hôm ông hỏi tôi về dư luận trong binh sĩ, tôi trả lời úp mở thì ông cười nói nửa đùa nửa thật: “Moa “réc-lô” thật đấy chứ! Cậu coi, Pleiku là tận cùng của Không Quân, sĩ quan đa số là dân bất mãn hoặc bị đì, còn lính tráng toàn là lính ba gai, không “réc-lô” thì làm sao mà trị các cậu được!”

Trong số những người tôi cho là bị đì có ông Trưởng phòng Chiến Tranh Chính Trị của tôi, Thiếu tá Lê Bá Định. Không hiểu ông có bị “đì” thật hay không nhưng chắc chắn một điều ông bất mãn ra mặt: vốn xuất thân khu trục 514 Phượng Hoàng (Biên Hòa), từng giữ chức Liên đoàn trưởng Liên Đoàn 62 Tác Chiến (Nha Trang),  mà lại bị đưa xuống đất, coi dăm ba mạng lính văn phòng, không bất mãn sao được! Rồi có lẽ vì sầu đời ông đâm ra lập dị (nên có người kêu ông là “Định mát”); dù tuổi đời chưa tới “băm lăm” ông bắt đầu chống ba-toong và ngậm ống vố, trưa chiều ra sân đứng nhìn đăm đăm về hướng phi đạo hoặc ngước mắt theo dõi những chiếc OV-10 của Mỹ lên xuống…

Vào thời gian 1968-1969, phi trường Cù Hanh gần như là một căn cứ không quân của Mỹ, đơn vị phi hành đồn trú thường xuyên duy nhất của ta là Biệt đội Trực thăng 215 Thần Tượng, đang từng bước thay thế 219 Long Mã (Kingbee) trong nhiệm vụ đổ Biệt Kích. 

Trong Không Quân VN chỉ có ba phi đoàn 213, 215 và 219 là nổi tiếng nhất trong cái nghề nguy hiểm này. Đổ xuống khó một, bốc về khó mười. An nguy của các chiến sĩ B14, B15 tùy thuộc một phần vào Biệt đội 215. Các ông hoa tiêu và xạ thủ phi hành của 215 trông rất ngầu, áo quần lúc nào cũng đầy bụi đỏ, có người còn đeo dao găm Thượng… Họ là những hình ảnh hiếm hoi đại diện cho tập thể phi hành “hào hoa phong nhã” ở phố Pleiku, phố Kontum. Cái phù hiệu phi đoàn của họ cũng khác thường “Con voi trắng làm xiệc” đầu đội nón đuôi thắt nơ, đứng trên trái banh mà có người gọi đùa là “Con voi…ị”.

Về sau có thêm một biệt đội khu trục A-1 từ Nha Trang hay Biên Hòa, và đó là tất cả “lực lượng tác chiến” của một căn cứ mà ngày xưa đã từng đặt Bộ tư lệnh của Không Đoàn 62 Chiến Thuật, từng có những vị chỉ huy nay đã lên tướng, trong đó có ông Minh Cồ! 

* * *


Năm 1970, khi tôi rời đơn vị để đi tu nghiệp mấy tháng trở về thì mọi sự đã thay đổi mau chóng không ngờ: Căn Cứ 92 đã trở thành Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku, và quan trọng hơn, một đơn vị tác chiến vừa được thành lập: Không Đoàn 72 Chiến Thuật. Ông Bá làm Không đoàn trưởng, ông Trang coi Liên Đoàn 72 Tác Chiến gồm 4 phi đoàn: 530 Khu trục của ông Lê Bá Định, 118 Quan sát của ông Võ Công Minh, sau bàn giao cho ông Võ Ý, 229 và 235 Trực thăng của các ông Lê Văn Bút và Vĩnh Quốc, không khí Pleiku tưng bừng với những buổi lễ xuất quân, nhộn nhịp với quân số đã lên đến hàng nghìn…

Tôi bắt đầu làm quen với sinh hoạt của giới phi hành, một phần vì nghề nghiệp của một Sĩ Quan Báo chí, một phần vì tò mò muốn tìm hiểu về cái sự bay bổng, đánh đấm của các vị mặc “áo liền quần”. Từ đó tôi quen biết những người của 530 như Lê Thanh Hồng Vân, Phạm Văn Thặng, Lê Bình Liêu, Hiệp “Cò”, Bạch Diễn Sơn, Long, Thanh “Ngố”(gọi như thế để phân biệt với ông Thiếu tá Liên đoàn phó LĐ72TC Lưu Đức Thanh, hỗn danh “Thanh mắt trừu”), và với ông Võ Ý bên 118, với các ông Bông, Quan, Dũng, Hổ bên 229, 235... 

Thân thiết nhất là với bên 530, một phần vì ông Lê Bá Định là sếp cũ, một phần vì anh Phạm Văn Thặng. Anh có chiều cao và thích thể thao, từ bóng rổ, bóng chuyền cho đến đá banh. Nghe nói anh đã từng là thủ môn của đội tuyển KQ Biên Hòa, chúng tôi giới thiệu anh bắt gôn cho đội Tiểu khu Pleiku trong lần đi thi đấu ở Ban Mê Thuột; ai cũng nói anh là người... Thượng vì anh có thể còn đen hơn Đại tá Y’Ah Bah, tỉnh trưởng Pleiku nữa. Cũng vì thế, anh Phạm Văn Thặng có biệt hiệu “Thặng Fulro”...

Sau khi phi đoàn đi Thái Lan lấy thêm A-1 về tôi thấy mấy chiếc A1-E có hai chỗ ngồi liền gạ gẫm anh cho đi theo một chuyến. Anh kiếm cho tôi một cái áo bay số nhỏ nhất, dạy cho cách sử dụng dù thoát hiểm. Đợi tới khi có một phi vụ “liên lạc” tôi lên xin phép ông Lê Bá Định.

Sau chuyến đi Nha Trang trở về thấy tôi vẫn còn đủ sức để leo xuống đất, anh Thặng lại hù: Nể cậu là dân văn phòng tôi bay êm, chứ gặp Thanh Ngố hay thằng Liêu bay, cậu ói tới mật xanh, mật vàng là cái chắc!..

Sau đó mỗi lần thấy chiếc A-1 nào tới 2/3 phi đạo đã vụt đâm thẳng lên trời, tôi biết ngay đó là Thanh Ngố. Nói về anh Thanh, tôi cũng chẳng hiểu tại sao dân khu trục lại đặt cho anh biệt hiệu “Ngố”?! Sau khi Lê Thanh Hồng Vân rời Pleiku thì có lẽ anh là người phương phi béo tốt và... đẹp trai nhất phi đoàn. Trước đó hơn một năm, anh đã được mặc áo bay, đội helmet để chụp hình bìa cho tạp chí Thế Giới Tự Do của Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, trông chẳng thua gì tài tử xi-nê-ma! Hơn nữa anh bay và đánh rất lỳ, thế mà vẫn bị kêu là Thanh “Ngố”! 

Người duy nhất trong 530 mà tôi “được phép” coi ngang hàng là Lê Bình Liêu, thứ nhất lúc đó anh còn mang lon Trung úy, thứ hai anh có tài uống rượu như Lệnh Hồ Xung, mà đã là bạn nhậu thì rất dễ thông cảm. Liêu có cái số “nhảy dù”: hai lần trong một tháng mà vẫn bình yên vô sự!

Từ Phi đoàn 530 Khu Trục tôi mon men qua bên 118 Quan Sát làm quen với ông Võ Ý. Không biết ông Thiếu tá Phi đoàn trưởng này bay bổng ra sao chỉ biết ông nổi tiếng vì tài... làm thơ (cái tên “Huyền Miêu” mà ông đặt cho Phi đoàn đã một phần chứng minh điều đó, sau này đổi lại thành “Bắc Đẩu”, bởi có người nói mèo đen “xúi quẩy”). Ông sống “độc thân tại chỗ” cho nên cái việc kiếm chỗ ăn cơm ngày hai bữa đã trở thành tối quan trọng, chính vì thế sau khi ông Lê Bá Định đem gia đình lên Pleiku thì tôi và ông Võ Ý thường đến “thăm thầy”, để vừa nói chuyện thơ văn vừa... ăn cơm tối! Ông Định – cũng là một nhà văn Không Quân – có lẽ không bao giờ biết đến sự thật phũ phàng đó, mà dù ông có biết ông cũng phải làm ngơ. Sau đó ông Định giới thiệu chúng tôi với nhà thơ Kim Tuấn, lúc đó đang ẩn dật ở Pleiku cùng với bà vợ trông nom một cửa tiệm bán áo lạnh. Bà vợ của nhà thơ thật hiền lành dễ mến nên tôi và ông Võ Ý lâu lâu cũng được ăn nhờ - ăn nhờ nhưng rất thịnh soạn…

* * *

Năm 1971, khi chương trình Việt Nam Hóa bắt đầu thì cũng là lúc tình hình vùng Tam Biên trở nên sôi động, Không Quân Hoa Kỳ đã rút khỏi Pleiku chỉ để lại một số gunship Cobra ở căn cứ Holloway, ngoài ra những sự yểm trợ khác của họ, nếu có, đều từ An Khê, Chu Lai, từ Đệ Thất Hạm Đội hoặc Đệ Thất Không Lực bên Thái Lan…

Sau mấy tháng đầu ổn định nơi ăn chốn ở và tiếp nhận quân số, KĐ72CT đã đụng cuộc thử lửa đầu tiên nơi Căn cứ 6 Hỏa Lực (đồi 1001). Trong trận này, Không lực Hoa Kỳ đã “nhường” hết cho phía Việt Nam, không hiểu vì muốn “thử” khả năng của Không Quân ta hay vì các cấp chỉ huy của họ không muốn đưa đàn em vào chỗ chết mà từ ngày đầu đến ngày cuối, ngoài các trực thăng võ trang Cobra, không hề thấy bóng dáng một phi cơ nào của họ. 

Hai người Mỹ duy nhất có mặt trên vùng trời là một cố vấn bên Quân đoàn II, và một ký giả dân sự. Ngay trong trận đầu, KĐ72CT đã khiến bạn bè thán phục và người Mỹ phải kinh ngạc. Phòng không ở đây thì khỏi phải nói, đủ loại, đủ cở, bay cao 9000 bộ vẫn bị như thường. Trần mây ở xứ “đất trời giao nhau” quanh năm thấp thật là thấp, ở dưới nhìn lên, bên trên nhìn xuống chỉ thấy một màu xám đục, thấy một lỗ hổng là vội nhào xuống ngay. Quân Dù có nhiều thương binh, trực thăng len lỏi thả toán Quân Y xuống, không đủ phương tiện giải phẫu, trực thăng lại phải đáp xuống đưa những thương binh ấy về Quân Y viện.

Từ lúc đó cho tới khi giải toả xong Căn cứ 6, các chiến sĩ Dù biết mình không bao giờ cô đơn. Trước kia, họ đã từng được sự yểm trợ như vũ bão của Không Lực Hoa Kỳ, nhưng lần này sự yểm trợ của Không Quân Việt Nam, ngoài hỏa lực ra nó còn có một cái gì đó không thể tìm thấy nơi những người đồng minh xa lạ: đó là sự sống chết bên nhau của những người cùng chung màu da, chung dòng máu, chung bóng cờ. Thành thử khi ông ký giả Mỹ nói các phi công của ta “điên khùng” tôi không có ý kiến, đến khi ông ta gọi họ là “anh hùng” thì tôi khiêm nhượng đáp lại: những phi công ấy của chúng tôi chỉ làm nhiệm vụ của họ với một tinh thần trách nhiệm, và với tất cả khả năng của họ, nếu ông gọi họ là anh hùng thì Không Quân Việt Nam chúng tôi là anh hùng hết sao? Ông ta không đồng ý và viết bài ca tụng trên báo Mỹ, coi đó như một thành công điển hình trong việc Việt Nam Hóa cuộc chiến... 

Kể từ đó, tên tuổi KĐ72CT gắn liền với những địa danh bất tử: từ Căn cứ 5, Căn cứ 6, Tân Cảnh, Dak To, Dak Seang, Lệ Khánh, Charlie, Chư Pao... cho tới bên kia biên giới Căm-bốt, Hạ Lào... 

* * *

Cũng trong năm 1971, sự bành trướng mau lẹ của Không Lực Việt Nam Công Hòa để thay thế những người bạn Mỹ đã đưa đến một rắc rối nho nhỏ: hàng trăm sĩ quan trẻ sau khi tốt nghiệp hoa tiêu bên Mỹ về, đa số là dân trực thăng, vẫn còn mang “con cá” (lon sinh viên sĩ quan). Bộ Tổng Tham Mưu đã lập luận như sau: các SVSQ này học quân sự giai đoạn một ở Quang Trung xong là về Không Quân học sinh ngữ rồi qua Mỹ học bay. Như vậy, dù có bằng hoa tiêu họ vẫn chưa trở thành “sĩ quan” vì chưa học qua quân sự giai đoạn hai. Cho dù không thể bắt các hoa tiêu này về lại Thủ Đức hoặc Nha Trang để học, Bộ Tổng Tham Mưu cũng ra một cái lệnh cứng nhắc là các SVSQ nói trên phải học tại đơn vị, xong xuôi mới được mang lon. Có nghĩa là các hoa tiêu trẻ đó phải học về sinh hoạt lãnh đạo chỉ huy, về chiến tranh chính trị và bắn súng… Colt-45. Riêng tại Pleiku không thôi cũng đã có gần 50 hoa tiêu, từ nay, sáng sáng theo thầy đi đánh giặc hoặc bay tập huấn, chiều chiều về học “chữ” và bắn súng Colt.

Lúc đó Phòng Huấn Luyện Pleiku thiếu người, thấy tôi lang thang suốt ngày liền “mượn” về phong cho chức Huấn luyện viên dạy môn CTCT và Lãnh đạo Chỉ huy, cũng may là không bị dạy cả môn... bắn súng! 

Ngày đầu tiên bước vào lớp học, khi thấy Phương (SVSQ “thâm niên” nhất mà tôi đã từng đi ké trực thăng) đứng lên trịnh trọng trình diện lớp học, tôi thấy bối rối một cách lạ thường. Biết những “học viên” của mình căng thẳng, mệt mỏi vì những giờ bay lúc ban sáng nhưng tôi cũng không thể để cho họ ngồi ngủ gục hoặc vừa hút thuốc vừa tán dóc. Sau đó tôi nghĩ ra được một giải pháp dung hòa: tôi vẫn theo đúng chương trình của Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng chỉ sơ lược đại khái trong vòng 15 phút, thời gian còn lại tôi kể truyện cho họ nghe. Có lẽ tôi có khiếu kể truyện hay sao đó mà về sau không còn ai ngủ gục hoặc tán dóc nữa; về mục hút thuốc trong lớp thì chỉ còn hai tay ghiền nặng không thể nhịn được: một tay khu trục và một tay trực thăng xuất thân Biệt Kích. Dần dần họ gọi tôi bằng “thầy”, tuyệt nhiên không có ý châm chọc mà đầy tình thân có pha chút vui đùa.

Nhờ vào cái thế “thầy” này, mỗi khi đi phép hoặc đi công tác tôi khỏi cần xuống Trạm Hàng Không Quân Sự chờ đợi nữa, sáng sớm cứ việc xuống 229 hoặc 235 là thế nào cũng có những phi vụ huấn luyện, liên lạc, hễ trông thấy “học trò” của mình ngồi ghế co-pilot tôi liền tiến lại cười cầu tài là xong ngay. 

Một lần, cả thảy 4 chiếc UH-1 cùng đi về Saigon, có cả ông Bá và ông Bông, tôi ngồi trên tàu của ông Bông. Khi đáp xuống Sài Gòn, đếm đi đếm lại chỉ có 3 chiếc. Ông Bá không nói không rằng, đứng khoanh tay, mặt hầm hầm, nhưng tôi biết lòng ông đang lo cho an nguy của hai hoa tiêu non trẻ. Ông Bông thì vừa vò đầu bứt tai vừa chửi thề: Mẹ, thấy sông Đồng Nai thì phải biết là sắp đáp Sài Gòn rồi chứ. Cái sông Đồng Nai nó chình ình ra đó chứ có nhỏ xíu như sông Bé đâu mà không thấy! Gần một tiếng đồng hồ sau, mới thấy những người đi lạc trở về từ... Căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho!

Phải, họ còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm bay bổng nhưng can đảm khi đánh giặc họ có thừa. Bởi vì kinh nghiệm thì cần thời gian còn can đảm thì tiềm tàng sẵn trong máu...

Vào giữa khóa học, tôi bắt đầu kể truyện Huyền Trân Công Chúa. Dĩ nhiên là tôi phải phịa, và dù lấy lý do “viện dẫn ngoại sử” tôi cũng không thể nào tự bào chữa cho cái tội “phạm thượng”, thêm mắm thêm muối vào chuyện tình của người xưa

- người đã đem lại hai Châu Ô, Lý cho giang sơn nước Việt. Tới đoạn Công chúa và Chế Mân đi hưởng tuần trăng mật 6 tháng trong rừng trên lưng voi thì lớp học của tôi vắng thêm hai người: họ hy sinh trên chiến trường Tam Biên!

Vào những ngày cuối cùng của khóa học, tôi thêu dệt sẵn một kết cuộc ly kỳ cho chuyện tình Huyền Trân - Trần Khắc Chung, coi đó như một món quà chia tay với các học viên, nhất là cho anh chàng ngồi bàn đầu có khuôn mặt giống như con gái, thường hối thúc tôi kể truyện. Tôi sẽ để cho Huyền Trân Công Chúa phải vào chùa tu theo lệnh của vua cha, nhưng sau đó kiếm sĩ Trần Khắc Chung cũng gác kiếm vào chùa làm… sư bác, giống như Bất Giới Hòa Thượng trong truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ vậy! 

Hai ngày trước ngày mãn khóa, tôi đang vui vẻ bước vào lớp học thì bỗng ngạc nhiên, khựng lại vì một sự im lặng bất thường. Rồi nhìn nét mặt rầu rầu của mọi người, tôi đoán được việc gì đã xảy ra sáng nay: lại thêm một người ra đi! 

Định thần lại, nhìn xuống cái bàn đầu, tôi thấy chàng trẻ tuổi giống như con gái đã vắng bóng. Người hoa tiêu đó có lẽ là người cuối cùng hy sinh khi còn mang trên người đôi cánh bạc với cái “alpha”, bởi vì hai ngày nữa, tất cả sẽ được chính thức gắn lon Thiếu úy! 

Và cái đoạn kết ly kỳ của chuyện tình Huyền Trân Công Chúa đã không bao giờ được kể, vì người thích nghe nhất đã không còn sống để mà nghe... 

Cuối cùng, dù sao đi nữa thì cũng nhờ làm HLV cho một trong những khóa học khác thường và vô ích nhất trong lịch sử quân đội mà tôi trở nên thân thiết hơn với những người của 530, 118, 229, 235.

* * *

Thấm thoát một năm trôi qua, Phi đoàn 530 ăn “thôi nôi” bằng một “Đêm Khu Trục” đáng ghi nhớ với Jo Marcel cùng ban nhạc, nhiều ca sĩ tên tuổi, lại có cả một “nữ đệ tử” của Xuân Trang - Thu Thủy. Từ ông Kỳ, ông Loan (đã giải ngũ), ông Minh Cồ cho tới các ông Sư đoàn trưởng, các ông Chỉ huy trưởng không ai thiếu mặt, cả đến ông Từ Văn Bê cũng phải tạm rời cái “chùa” Kỹ Thuật Tiếp Vận ở Biên Hòa để lên chung vui. 

Không phải tất cả các vị tướng tá nói trên đều xuất thân dân khu trục, nhưng hình như Pleiku luôn được sự ưu ái đặc biệt, giống như một đứa con xa nhà, gửi thân nơi đèo heo hút gió. Còn nhớ mỗi lần về Bộ Tư Lệnh KQ, hễ gặp ông Phùng Ngọc Ẩn là bị chặn lại ngay: Sao em, Pleiku hồi này có vui không? Thậm chí cả đến ông Nguyễn Hồng Tuyền ở tận Sóc Trăng, lâu lâu có phi vụ huấn luyện, liên lạc UH-1 ở Pleiku về cũng không quên tặng cho một tàu khô cá khoai và mắm Thái, gọi là làm quà cho người nơi xứ Thượng!

Chính vì thế mà trong Đêm Khu Trục, vì sự ưu ái sẵn có chứ không phải thưởng tài ca hát của “ca sĩ” Bạch Diễn Sơn mà quý vị đó đã xuất quỹ xã hội đơn vị để tặng cho Pleiku một cách rộng rãi: tối thiểu 50 xín, bảnh nhất là ông Phan Phụng Tiên của SĐ5KQ, nghe nói tới 150 nghìn!

Sau Đêm Khu Trục, ông Kỳ ra Pleiku thường hơn, có khi ở lại cả tuần, có lẽ ông muốn tránh cái không khí “tiền bầu cử” ngột ngạt ở Sài Gòn chăng? 

Vào ngày KĐ72CT được Đại tá Dung (Thiết Giáp) tặng cho hai con bò đem ra nướng trước hangar, ông Kỳ cũng có mặt. Đang ăn thì có hai F-100 của Mỹ đánh ở Hạ Lào xin đáp khẩn cấp. Xe cứu hỏa vừa xịt “foam” trên phi đạo xong thì đã thấy hai chiếc F-100 cận tiến tới phi trường. Chỉ có chiếc đầu thả bánh đáp, chiếc thứ hai không “nhả” được phải làm “crash” trên phi đạo. 

Nhưng vì phải đáp khẩn cấp trên một khi phi đạo quá ngắn (đối với phản lực) như phi đạo Pleiku, sau khi lướt trên lớp foam, chiếc F-100 vẫn tiếp tục lướt tới. Trước khi phi cơ đâm vào mô đất cuối phi đạo nổ tung và phát hỏa, phi công đã kịp bấm nút phóng ghế thoát hiểm, nhưng bị phóng về phía trước, dù chưa kịp mở thì người đã chạm đất. 

Mọi người chạy tới bàng hoàng nhìn xác người phi công Mỹ: anh chết trong tư thế quỳ, mặt úp xuống đất, hai tay co lại chống xuống mặt phi đạo như một phản ứng chống đỡ cuối cùng... Trên trời, chiếc F-100 còn lại nhào xuống sát phi đạo, lắc cánh rồi làm một “roll” để vĩnh biệt bạn trước khi bay về Thái Lan!...

Trước cảnh tượng đó, ai cũng như muốn khóc, ông Kỳ nhìn mọi người: Đấy, cuộc đời phi công nó như thế đấy, các cậu còn ham nữa không?...



Đối với những chiến sĩ của các quân binh chủng bạn, một khi xa nhà ra trận tuyến, người thân yêu phải chịu đựng những tháng ngày dài trong lo âu, hồi hộp đợi chờ, đề rồi cuối cùng một ngày nào đó có thể nhận được tin dữ: người ra đi sẽ không bao giờ trở lại. 

Với Không Quân, cái sự chờ đợi ấy không đến trong một tháng, một tuần, một ngày mà chỉ trong một buổi, đôi khi chỉ một vài giờ ngắn ngủi. Cuộc sống sáng đi chiều về càng có vẻ an nhàn, điều độ, thì cái đau đớn vì một sự mất mát bất ngờ càng mang nặng chất bi thương. Và người yêu của “Tuấn đen” 229, hơn ai hết đã thấm thía được điều đó khi nghe tin UH-1 của Tuấn nổ tung trên vùng trời Diên Bình; trước đó hơn một tiếng đồng hồ, họ còn ngồi với nhau trong góc quán cà phê quen thuộc…

* * *

Vào đầu năm 1972, có một sĩ quan khác ra thay thế tôi trong chức vụ Sĩ Quan Báo Chí, tôi đâm ra rảnh rỗi, suốt ngày la cà ở câu lạc bộ sĩ quan do Mỹ bàn giao lại. Lúc này anh Phạm Văn Thặng đã lên Thiếu tá, ít khi đi đánh bi-da độ nữa mà chỉ ngồi uống cà phê, nghe nhạc hoặc tán dóc. Chúng tôi thích ngồi ở cái bàn gần cửa hông, để được nhìn xuống phi đạo đổ dài về hướng căn cứ trực thăng Holloway của Hoa Kỳ…

Hôm ấy, tôi đang tán dóc với mấy cô chính huấn của Tiểu Đoàn 20 CTCT thì Phạm Văn Thặng vào, chưa uống hết ly cà phê thì có điện thoại của Hiệp “cò” gọi về Phi Đoàn. Sau này được biết vì nhu cầu yểm trợ chiến trường khẩn cấp, Phạm Văn Thặng đã tình nguyện bay thế cho một hoa tiêu tới trễ vì lý do gia đình.

 Sau khi mấy cô chính huấn đã ra về, tôi vừa chơi xong một độ bi-da thì nghe tiếng xôn xao ngoài cửa, tiến ra, tôi thấy mọi người đang bu quanh một sĩ quan vừa từ phòng Hành Quân Chiến Cuộc lên, anh kể từng câu đứt quãng: Tàu của ổng bị phòng không ở Kontum… Ông Hiệp bay đằng sau thấy cháy dữ dội… nói ổng nhảy dù… Ổng nói: Tàu tao còn đầy bom, để nó đâm xuống nhà dân đâu có được. Ổng bay ra ngoài vòng đai tiểu khu rồi làm “crash” xuống ruộng, đụng mô đất, tàu nổ luôn!...

Nghe nói bay với ông Hiệp, tôi biết ngay người vừa rớt là Phạm Văn Thặng. Tôi lặng người đi trong giây lát trước khi chạy xuống Phi Đoàn 530 để được nghe chính miệng Hiệp “cò” kể về chuyến bay định mệnh của Thặng “Fulro”…

Cuộc đời và cái chết của anh đã được các nhà văn, nhà báo viết lại như một bản huyền sử ca, cố Trung tá Phạm Văn Thặng được tôn vinh “Anh Hùng Quân Đội”. Riêng trong tôi, hình ảnh của Phạm Văn Thặng vẫn là một Phạm Văn Thặng bình thường, rất bình thường. Như cái lần đi công tác gặp anh đứng xếp hàng chờ ở Trạm Hàng Không Quân Sự, tôi hỏi: Tàu VIP, tàu liên lạc thiếu gì, sao ông không đi? Phạm Văn Thặng đáp: Cậu tưởng lên Thiếu tá là làm cha thiên hạ sao, với lại moa đi phép chứ có phải đi công tác như cậu đâu mà đòi ưu tiên!... Có lẽ cái bông mai bạc không làm anh thay đổi, ra khỏi phi đoàn cũng vẫn đùa phá như trẻ con... Gọi Phạm Văn Thặng là “anh hùng”, tôi cảm thấy sự yêu mến nể phục trong tôi nó bị ngượng ngập, tôi chỉ muốn nhớ đến anh như một con người đã sống xứng đáng và chết xứng đáng, để lại bao tiếc thương cho mọi người, thế thôi!

* * *

Tôi rời Pleiku vào cuối Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, vài tuần lễ trước khi căn cứ không quân này trở thành một đại đơn vị: Sư Đoàn 6 Không Quân.

Về Biên Hòa, tôi được Trung (530 cũ, anh em cột chèo của Thanh “ngố”) kể lại cái chết của anh Thanh ở sông Bé: “Nó bị phòng không cũng chỉ vì cái tội lỳ, điếc không sợ súng!” 

Khoảng nửa năm sau, gặp lại Phương (trưởng lớp học quân sự ở Pleiku ngày nào) ở Tân Sơn Nhất, tôi hỏi xem ai còn ai mất. Ngoài những anh em đã hy sinh, Phương còn kể tôi nghe vụ ông Bút và anh em bên trực thăng cố đáp xuống cứu Đại tá Lê Đức Đạt và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh trong đêm Tân Cảnh bị địch quân tràn ngập. Xuống tới nơi, bị Việt cộng gài bẫy bắn cháy một tàu, ông Bút bị chúng nắm được cổ áo nhưng vùng thoát, chui khỏi hàng rào và leo lên được chiếc UH-1 còn lại!...

Cuối năm 1973, nhân dịp có phái đoàn Bộ Tư Lệnh KQ và các vị Sư đoàn trưởng, Chỉ huy trưởng đi thanh tra các đơn vị, tôi xin tháp tùng ông Từ Văn Bê. Ra tới Pleiku tôi thấy sinh hoạt trong căn cứ có phần nhộn nhịp hơn ngày trước, các cấp chỉ huy cũ đã đổi đi gần hết, còn lại chỉ có ông Lê Văn Bút nay là Trung tá Không đoàn trưởng KĐ72CT - vị KĐT trẻ nhất trong Không Quân cũng như ngày trước, ông từng là Phi đoàn trưởng trẻ nhất vậy. Bạn bè bên trực thăng còn khá nhiều, nhưng bên khu trục và quan sát thì hầu hết đã thuyên chuyển đi đơn vị khác. 

Trước khi ra Phù Cát, tôi trở lại câu lạc bộ sĩ quan nay đã được đặt tên “Hội quán Phạm Văn Thặng”. Tôi tìm lại cái bàn ngày xưa thường ngồi với anh nhưng đã có người chiếm: những hoa tiêu trẻ, cười nói ồn ào, vô tư như không cần biết đến ngày mai - ngày mà họ sẽ thành danh như một Lê Văn Bút hay thành người hùng thiên cổ như Thặng “Fulro”...

* * *

Phi cơ lấy cao độ, lòng tôi bâng khuâng tiếc nuối như vừa được thoáng gặp lại người tình đầu, của một thời đã xa nhưng vẫn còn   hằn nét. Tôi nhìn lại phi trường Cù Hanh, phía bên trái là Biển Hồ, nơi chiếc A-1 anh Nguyễn Công Phúc (Gandhi) bay test vẫn còn nằm dưới đáy, phía bên phải là núi Hàm Rồng, ngọn núi mà dân phi hành gọi bằng một cái tên khác, rất tục nhưng rất tượng hình, bởi nó giống “chỗ đó”, giống một cách lạ kỳ!...

Mùa Xuân năm 1975, cùng với Quân đoàn II, SĐ6KQ được lệnh di tản chiến thuật về căn cứ KQ Phan Rang. Mặc dù chỉ có 48 tiếng đồng hồ để chuẩn bị, SĐ6KQ cũng đã di tản rất “đẹp”.  Nghe kể lại trước khi rời phi trường, anh em Phân Đoàn Tháo Gỡ & Phá Hủy Đạn Dược và Liên Đoàn Phòng Thủ đã cố gài chất nổ vào những chiếc phi cơ không đem đi được và những cơ sở quan trọng. Có lẽ lúc đó họ đã hiểu được rằng dù mang tiếng “di tản chiến thuật” chắc chắn sẽ không có ngày trở lại! 

Họ đã đoán đúng, cổng Phi Vân với mây xám lưng trời, sau gần 15 năm xa cách những người con thân yêu, giờ đây vẫn hoài công ngóng đợi!


Nguyễn Hữu Thiện

Tháng 12 năm 1989

(nguồn: Đặc san Lý Tưởng Úc Châu, Xuân 1990) 

Ý kiến bạn đọc xin nhấn vào đây => (Phi Vân - Mây Xám Lưng Trời)

Rate this item
(4 votes)