Login to your account

Username *
Password *
Remember Me

Hồi Tưởng Về Một Trận Đánh Của Tiểu Đoàn 7 Dù - Charles A. McDonald / Nguyễn Văn Phúc dịch

Posted by January 08, 2019 4048

Lời nói đầu:
Đây là bài viết của cựu cố vấn Charles A. McDonald, viết trong quyển sách Angels of the Red Hats của Michael Martin, xuất bản năm 1995. Tác giả Charles A. MacDonald không đề tựa bài viết. Người dịch xin tạm đặt tên tựa bài “Hồi Tưởng Về Một Trận Đánh Của Tiểu Đoàn 7 Dù”. Xin cảm ơn tác giả Charles A. McDonald.




Khi được chỉ định về Toán Cố Vấn 162 cho Sư Đoàn Nhảy Dù tại Tân Sơn Nhứt, tôi rất là vui mừng, nhưng, cũng rất kiệt sức và bịnh hoạn sau nhiều cuộc hành quân liên tục. Rất là cảm ơn Đại Tá LeRoy S. Stanley, cố vấn trưởng, tôi được gởi đến một trung tâm thuộc MAAG để dưỡng bịnh, tại nơi nầy, tôi bình phục và lấy lại được sức khoẻ. Những sự việc nổi bật nhất trong thời gian tạm trú ở đấy là được tắm nước nóng, cái giường nệm với những tấm ra trắng, thật là nhiều hamburger và chuối, và tụi khủng bố chơi vào tòa nhà, ngay đằng sau cái phòng tôi ở. Dĩ nhiên, tôi thức giấc ngay khi trái bom nổ bùng. Sau đó, tôi phải giải thích cho người trưởng toán NCO tại sao tôi lại nằm yên, rồi lại ngủ tiếp. Tôi đã nghĩ được bằng cách nào mà tên khủng bố có khả năng, sẽ biết cách làm cho những người đi quan sát bị dính vào trái bom thứ hai. Trái bom thứ hai đã được gắn sẵn giờ nổ, sau khi khói đã tan đi hết và sẽ mời gọi những người đi kiểm soát sự thiệt hại. Tên khủng bố khôn khéo còn có thể gắn trái bom thứ hai hay thứ ba vào những chỗ mà hắn biết người ta sẽ lo ẩn núp. Tôi đúng là đã không có ý định phải đi gặp thần chết. Thật ra, người NCO đã làm đúng việc của ông ta, và ông cũng chả thèm nhắc tới việc ấy nữa. Nhiều năm làm lính tác chiến đã dạy cho tôi lo nghĩ ngơi những khi nào tôi có thể, và tôi rất cần nghĩ ngơi và tịnh dưỡng. Đây là cơ hội đầu tiên cho những giấc ngủ đầy đủ và tôi nhất định dùng hết thời gian nầy cho việc ngủ nghê, tịnh dưỡng.

Vào đầu tháng Hai năm 1967, sau khi hoàn tất khóa học nhảy dù, tôi được gởi tới Tiểu Đoàn 7 Dù, căn cứ nằm ở Long Bình. Tôi chỉ vừa quen thuộc với nề nếp sinh hoạt của tiểu đoàn khi tiểu đoàn được báo động cho môt cuộc hành quân và hoạt động tại một phi trường của Thủy Quân Lục Chiến nằm trong tỉnh Quảng Ngãi. Nhảy Dù Việt Nam là lực lượng Tổng Trừ Bị của quốc gia. Bất cứ khi một lực lượng nào bị lâm vào tình thế khó khăn, trong khi họ đang hành quân tác chiến, như đang bị hiểm nguy, có nguy cơ bị tràn ngập, Nhảy Dù Việt Nam sẽ được thảy vào để chạm trán với lực lượng chính quy của Bắc Việt. Vì vậy, Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù bao gồm đại đội chỉ huy cùng với bốn đại đội tác chiến, với quân số 590 người lính Nhảy Dù, ôm lấy ba lô cùng súng ống rồi bay thẳng ra phía Bắc. Ngay thời điểm ấy, tôi đã nghĩ cuộc hành quân cũng chỉ là công tác lùng và lẩn trốn.

Tại phi trường, chúng tôi đã hoàn tất sự chuẩn bị cho kế hoạch di chuyển và tất cả mọi người đã vào đúng vị trí của mình. Kế hoạch cho chiến thuật và khi đáp xuống nơi để tìm kiếm Trung Đoàn 21 Bắc Việt được kiểm soát lại lần nữa. Và bắt đầu cho sự khó khăn – chờ đợi. Tôi dành gần như hết thời gian nói chuyện với toán y tá. Ngay trong thời điểm ấy, tôi suy nghĩ kỹ những sự việc chúng tôi sẽ phải làm. Đây là cuộc hành quân dài và rộng lớn bao gồm Đại Hàn, Lực Lượng Đặc Biệt và Thủy Quân Lục Chiến. Các lực lượng nầy có mặt nhưng sẽ không tiếp viện cho chúng tôi mà chỉ làm lực lượng ngăn chận. Kế hoạch là sẽ giữ chân bọn Bắc Việt vào một chỗ thật lâu để bao vây trung đoàn Bắc Việt đó. Sự thử nghiệm là sẽ làm cho bọn chúng tiến đánh Tiểu Đoàn 7 chúng tôi. Chúng tôi được dùng như một con mồi để giữ chân quân Bắc Việt trong một thời gian dài, để làm thành một trận chiến đấu thật sự. Tiểu Đoàn 7 Dù được dùng làm vật hy sinh theo sự đòi hỏi. Tôi nhớ lại đã nhìn kỹ và nhìn thật lâu vào những người lính với hàng ngũ và quần áo hoa dù ngụy trang, và nghĩ rằng họ đã sẵn sàng và rất có kỷ luật. Tôi rất lấy làm hài lòng và cảm kích sau khi đã nhìn họ. Sự chính chắn của những người lính Nhảy Dù Việt Nam cộng với đồ trang bị mà tôi đã quan sát làm cho tôi rất lấy làm hãnh diện được mang bộ đồ Dù của họ trên người. Đã từng trải qua nhiều kinh nghiệm về những lần hành quân trước đây, tôi biết chắc rằng những năm rèn luyện dữ dội sẽ trở nên hữu ích, và rằng, Lục Quân Hoa Kỳ, bây giờ, đang nhận cảnh máu đổ thịt rơi. Vì vậy, tôi cố gắng quan sát thật kỹ từng bước chân của tôi.

Chúng tôi được các trực thăng CH-47 Chinook mang vào phía Bắc một cái làng lớn gần ngay con sông Trà Khúc vào ngày 14 tháng Hai. Những ngọn núi nằm phía trước ngay hướng Đông ngôi làng, và cả hướng Nam và Bắc. Tôi đã đánh dấu sẵn ngay khi vừa bay vào nơi nầy. Bữa ấy, trời rất đẹp. Nghĩ rằng con sông nằm ngay các thung lũng dễ bị sương mù bao phủ, tôi cảm thấy muốn cầu nguyện cho một thời tiết tốt cho buổi sáng. Làm cho nó tệ hơn, trời lại không có một chút gió nào. Trừ phi gió thổi tới, trời sẽ bị sương mù. Việc nầy làm cho tôi bị mất vui cho cuộc hành quân. Thời tiết xấu sẽ làm cho quân Bắc Việt di chuyển dễ dàng, nếu bọn chúng đang muốn đi.


Sau khi xuống trực thăng, chúng tôi xem lại đội hình và di chuyển bộ theo hàng dọc, đi xuyên qua một địa thế trống trải thẳng bước đến con sông, ngay một khu rừng cây biệt lập. Khi chúng tôi bị bắn sẻ, tôi đã nghĩ chúng tôi đúng là sẽ đụng địch. Tất cả những kinh nghiệm trước đây cho tôi biết việc tiếp theo sẽ là một trận đánh lớn sắp sửa xảy ra, và vì vậy, một sự ngạc nhiên đang được dành cho chúng tôi. Tâm trạng của tôi lúc bấy giờ là nghĩ đến sương mù, buổi sớm mai và mấy tên bắn sẻ. Tôi quan sát thật kỹ địa hình trong lúc chúng tôi di chuyển. Trong những lúc tạm nghĩ, tôi dùng địa bàn để kiểm tra lại vị trí của chúng tôi, xem lại phương giác để tôi có thể nhận ra và điều chỉnh cho những sự lựa chọn khi việc đánh nhau xảy đến. Khu vực nầy cho thấy những dấu hiệu của hoạt động về nông nghiệp vừa mới xảy ra, và vậy thì, chắc phải có rất nhiều người ở một nơi nào đó, rất gần đây.

Chúng tôi chọn một vị trí phòng thủ đêm và tạm trú tại đó, nằm ở phía nam cái ấp Minh Long 1, chỉ có một vài căn nhà rơm, một vị trí thuận lợi trong địa hình lúc ấy. Chúng tôi đến nơi và chiếm lấy vị trí nầy trong lúc chỉ còn một chút ánh sáng để ngăn ngừa sự quan sát trực tiếp của quân địch, hy vọng vậy. Quân Bắc Việt sẽ phải tấn công từ những khu vực trống trải để bắn thẳng vào chúng tôi. Tôi đã quan sát kỹ các khu vực mà bọn chúng có thể bắn súng yểm trợ, nếu cần thiết. Cái máy truyền tin của tôi đã được chuẩn bị sẵn sàng cho những tần số phụ, để khi cần thiết, tôi không phải dò tìm trong bóng đêm. Tôi đã gọi cho Đại Uý Kern và báo cho ông ta biết những vị trí phòng thủ đêm. Tôi, dĩ nhiên, đã đào một hố cá nhân thật sâu. Tôi đã chấp nhận một sự việc tồi tệ và lo lắng, nhưng, cũng tự tin vào chính mình, và đã chuẩn bị tinh thần cho bất cứ tình huống nào có thể xảy đến.

Cả tiểu đoàn nằm im sau khi những vị trí chiến đấu cá nhân và xạ trường đã được ấn định cho từng người một. Chúng tôi có đủ cành cây để che chở cho những hố cá nhân của chúng tôi. Con sông bao che sườn Nam của chúng tôi, vì vậy chúng tôi chỉ phải lo lắng cho ba hướng kia. Việc nầy làm cho tiểu đoàn với quân số không đầy đủ của chúng tôi có được một vị trí phòng thủ khá tốt. Địa hình trống trải ở hai phía Tây và Đông. Gần ngay phía Bắc, chỉ khoảng gần 200 thước là một khu vực nguy hiểm, khu rừng cây. Bộ chỉ huy tiểu đoàn của chúng tôi nằm giữa vị trí phòng thủ, trong một cái nhà rơm, cái nhà nầy có một cái cửa sập khóa kín bao phủ một con đường hầm bên dưới. Khi chúng tôi đến nơi, cánh cửa được ngụy trang bằng cái chiếu rơm và có cái giường ở bên trên. Các vị trí bảo vệ chung quanh đã được củng cố và các tổ báo động cũng đã vào vị trí của họ. Chúng tôi đã lo xong phần vụ cho ban đêm. Lúc ấy là vào tháng Hai, một buổi tối trong sáng và tôi biết nếu thời tiết bớt lạnh, sương mù sẽ đến.

Vào lúc đầu hôm, trước khi quân Bắc Việt chuẩn bị khai hỏa, các tổ báo động của tiểu đoàn đã nghe thấy và quan sát bọn công quân. Các đáy của đám mây gần như bay là sát mặt đất. Quân Bắc Việt di chuyển vào các vị trí tấn công với sương mù bao phủ. Quân Bắc Việt khi mở các trận xung phong, luôn cố gắng tấn công thật sát vào các vị trí tiền phương. Một số quân Bắc Việt đã di chuyển qua vị trí của các tổ báo động của chúng tôi. Các người lính của các tổ nầy liền quyết định đi theo sát các đơn vị quân Bắc Việt và bọn chúng cũng ngưng di chuyển khi đến sát gần chu vi phòng thủ của tiểu đoàn. Vào lúc 4 giờ sáng, khi các khẩu súng cối của quân Bắc Việt bắt đầu bắn vào tiểu đoàn, những người lính của các tổ báo động cũng đã di chuyển qua đám lính Bắc Việt và trở vào trong phòng tuyến của chúng tôi. Nhờ vào lòng dũng cảm của các người lính của các tổ báo động, Tiểu Đoàn 7 Dù nhận được sự báo động vài phút trước khi có cuộc tấn công của quân địch. Nhưng, luôn có khoảng mười phần trăm người lính không nhận được sự báo động.

Vậy thì tôi đang ở nơi đâu, khi các tổ báo động trở về lại phòng tuyến, trong khi quân địch đang tiến gần đến chúng tôi trong bóng đêm? Ngủ thật say trên cái võng mắc ngang trên hố cá nhân của tôi. Tôi là một trong những người trong cái mười phần trăm đó. Sự báo thức là do bọn cộng quân tập trung pháo kích đạn cối vào bên trong chu vi phòng tuyến của chúng tôi. Tôi đã quyết định không ngủ dưới đất, tại vì khi mà tôi không còn ngồi trên mặt đất và nghe ngóng những âm thanh của đêm tối, mặt đất đã trở lạnh. Tôi đã không nghe thấy những sự việc bất bình thường của đêm hôm trước. Tôi đã rất mệt mõi. Khi những viên đạn cối đầu phát nổ, sức nổ của những trái đạn cối làm tôi bị bay khỏi cái võng và rơi ngay vào hố cá nhân mà tôi đã đào trước đó. Tôi bị choáng váng và kích động một thời gian cho đến khi tôi biết được cái poncho rất là lành lặn mà tôi máng bên trên chiếc võng trước khi tôi đi ngủ, bấy giờ, đã bị xé tan thành từng mảnh nhỏ. Thiệt không phải là lần được đánh thức tốt đẹp mà tôi đã có được. Tôi chỉ vừa bắt đầu cảm ơn các vị thần may mắn của tôi thì lần tập trung pháo thứ nhì của địch bay đến. Tất cả những trái đạn pháo nầy bắn ngay vào bên trong chu vi phòng thủ. Tên tiền sát viên pháo binh Bắc Việt đã làm việc rất giỏi ngày hôm trước, và vào sau đêm ấy.


Tôi nhìn những sự va chạm nổ bùng tiếp nối nhau. Mặt đất chung quanh tôi cũng bị lay động và cái poncho cùng cái võng của tôi tả tơi bay. Tôi nghĩ là quân Bắc Việt sử dụng các loại chất nổ nhanh. Tôi có thể nhìn thấy sự việc tiếp diễn ấy một cách rõ ràng, ở ngay giữ khu vực bị pháo kích và ngắm nhìn được những viên đạn cối bay thẳng đến, cùng với những sự nổ bùng của đạn cối. Không rõ tên tiền sát pháo binh Bắc Việt là ai, nhưng hắn được tôi vị nể. Sự xác định được tầm đạn xa của hắn rất là chính xác, cho thấy, hắn biết tường tận khu vực ấy.

Tôi đã đổ nhiều mồ hôi trong cái hố cá nhân và biết chắc rằng quân Bắc Việt sẽ tấn công ngay lúc đạn cối và đạn Pháo binh của chúng đang còn nổ vang. Quân Bắc Việt luôn nghĩ các người lính sẽ lo ẩn trú trong các hố cá nhân. Những người làm đúng việc đó sẽ bị chết trong hố cá nhân của họ, trừ phi họ được may mắn. Anh phải dũng cảm không sợ đạn bay hay pháo nổ và luôn phải lo nhìn và quan sát vì bọn lính Bắc Việt sẽ tiến đến, và bọn chúng đến rất nhanh trong những tình huống đó. Tôi có một trách nhiệm phải thi hành ngay bên bờ rào phòng thủ. Tôi đúng phải làm một việc gì đó để vượt qua nỗi sợ hãi và lo lắng. Tôi chờ khi pháo địch vừa ngưng là tôi phóng nhanh lên phòng tuyến. Nó giống như là vừa rời khỏi cái chảo dầu chiên và nhảy ngay vào lửa.

Quân Bắc Việt với vũ khí trang bị đầy đủ bắn súng cá nhân kèm theo với hỏa tiễn B-40 khi tấn công vào phòng tuyến của chúng tôi. Tiếng vang vọng của chất nổ và thuốc súng làm cho dây thần kinh bị khích động. Những tiếng nổ bén nhọn của đạn AK-47 rất dễ nhận biết và cối pháo rất chính xác rất dễ cho mọi người phải chú ý đến. Đôi mắt căng thẳng của tôi nhìn vào bóng tối, trận chiến nổ bùng với những lằn đạn xanh và đỏ, mà rất nhiều lằn đạn xanh bay thẳng qua đầu tôi. Tôi đã có thể nghe thật nhiều tiếng súng cá nhân xảy ra từ những mũi tấn công chung quanh chu vi phòng thủ. Quân địch la to khi tấn công và cũng la to cho cái chết của bọn chúng. Nhiều lính Dù cũng rền rĩ hai bên hông của tôi. Trận đánh trong bóng tối mù sương rất là ác liệt. Nó tạo thành một quang cảnh làm cho tôi bị run sợ, không thấy được việc gì đang xảy ra, cho đến khi nó đến ngay trên đầu chúng tôi.

Một trong những sự việc quan trọng sai lầm có thể xảy ra, như điện đàm có thể bị hư. Tôi may mắn đã liên lạc được truyền tin và yêu cầu những yếu tố phòng thủ mà tôi đã cho biết tọa độ trước đây, cần phải được dập pháo vào. Tôi biết chúng tôi cần phải loại bỏ những đường dây truyền tin không trực thuộc vào việc đàm thoại của chúng tôi. Cho đến lúc ấy, những sự việc sẽ không thể nào tốt đẹp hơn được. Tôi phải chờ cho Đại Uý James C. Kern kêu gọi mọi người rời khỏi đường dây đàm thoại của chúng tôi. Tôi thích và kính trọng ông ta, ông là một trong số ít sĩ quan Lục Quân tự tin về óc phán đoán và khả năng của chính mình. Một lực lượng pháo binh của Thủy Quân Lục Chiến đang trực chiến để yểm trợ cho chúng tôi.

Quân Bắc Việt đã chuẩn bị cho cuộc chiến rộng lớn nầy rất bí mật và nhanh chóng. Sự di chuyển của bọn chúng được che dấu rất giỏi cho đến phút cuối, mà phần lớn là nhờ vào sương mù dầy đặt và cánh đồng mía rộng lớn đối diện vị trí của tôi.

Cho dù có đúng như vậy, những đợt tấn công liên tục của quân Bắc Việt ngay lúc hừng sáng đã không áp đảo được các phòng tuyến của chúng tôi. Mỗi lần quân lính Bắc Việt tràn ra từ các giao thông hào của bọn chúng để phóng nhanh đến phòng tuyến chúng tôi, bọn chúng luôn được nhìn thấy với vũ khí trong tư thế khai hỏa. Bằng cách nầy hay cách khác, chúng tôi đốn ngã hết bọn chúng. Đám sương mù dầy đặt kia đã làm cản trở việc dùng không yểm oanh tạc vào các vị trí của quân Bắc Việt vào lúc sáng sớm. Chúng tôi đã thực sự chiến đấu một mình cho đến buổi sáng, khi các đám mây, rồi cũng phải bay đi.

Tôi cẩn thận quan sát khu vực tuyến phòng thủ của tôi. Sự chiến đấu bình tĩnh của tất cả mọi người lính làm cho tôi nhận thức được họ đã chấp nhận tình thế của trận chiến và họ có đủ khả năng chịu đựng, để tồn tại. Tôi cảm thấy sảng khoái hơn, nhìn thấy họ thay đổi vị trí cho nhau. Dưới áp lực của quân Bắc Việt, phản ứng của các người lính Nhảy Dù cho thấy họ đáp ứng rất giỏi.

Hỏa lực tập trung của quân Bắc Việt lúc trận chiến vừa xảy ra đã giết chết và làm thương vong nhiều người lính chúng tôi, nhưng, chúng không tiêu diệt được sức chiến đấu rất hiệu quả và tinh thần quyết chiến của chúng tôi. Tất cả những người lính còn lại và những người bị thương vong đều nằm lại tại vị trí chiến đấu của mình, bắn trả với những vũ khí cá nhân và gây rất nhiều thương vong, sát gần cạnh bên, với những đợt xung phong liên tục của bọn bận đồ khaki luôn xung phong thẳng vào chúng tôi. Chúng tôi đã phải đánh nhau, sát cận bên, bởi vì trời quá tối, và khi mà anh vừa thấy bóng dáng đang phóng chạy của bọn khaki phía trước mặt, bọn chúng gần như đã có mặt bên trên người anh, và bọn chúng đến rất nhanh. Hướng về phía bóng tối, nhắm về phía đầu cây súng của anh, sẽ là ngay bụng của bọn chúng, và bắn. Khi ấy, anh sẽ không bị trở ngại tìm thấy mục tiêu của anh. Một vài người lính có thể cảm thấy phấn khởi, nhưng tôi cảm xót cho những tên lính Bắc Việt. Nhưng đây là việc cần thiết, phải làm. Khắp cả mọi nơi, nhiều tiếng nổ lớn của những viên đạn bay vụt qua đầu chúng tôi và những tia sáng loé ra từ các khẩu súng chúng tôi trả lời lại, và những tiếng súng ấy trộn lẫn vào nhau. Cùng thời gian, pháo, cối và hỏa tiễn RPG-7 nổ vang, làm cho đất cát bay tung toé và miểng bay đầy khắp nơi. Chu vi phòng tuyến sáng rực lên bởi những trái flare, trông rất ma quái, đang lơ lững bay. Những tiếng vang xung phong của quân Bắc Việt được trả lời bằng những tiếng nổ của mìn claymore và những tiếng la than của những kẻ bị thương – những âm thanh cuồng nộ nầy dư sức làm mất nhuệ khí của những người đàn ông ngon lành nhất. Tuy vậy, chúng tôi vẫn tiếp tục chiến đấu, thật đúng là không còn chuyện gì khác để có thể làm. Mỗi khi một trận tấn công bị thất bại, những tiếng nổ hoang mang từ những khẩu súng thượng liên rồi phải nhường chỗ cho những tiếng nổ ngắn, nhưng rất có kỷ luật của lính Dù.

Giữa những lúc đánh nhau, tôi nhìn thấy những người lính di chuyển vòng quanh, cố gắng chia nhau phòng tuyến, bằng cách chiếm lấy những vị trí của những người đã dũng cảm hy sinh vào lúc đầu sáng. Ngay khu vực tôi, không có những người lính Dù nào tụ nhóm lại. Kỷ luật và sự rèn luyện của Tiểu Đoàn 7 Dù đã chứng minh khả năng thích ứng với những trận cối pháo dữ dội và súng cá nhân bắn quá ác liệt. Khi cường độ của trận đánh giảm bớt, đầu óc và đôi mắt của tôi đau lên vì cứ phải chăm chú quan sát vào trong bóng đêm. Tôi thật sự cảm thấy cả sức nặng của trái đất đang đè nặng lên phần lưng trên của tôi. Tôi cũng cảm thấy như có một hòn đá nằm trong bao tử của tôi. Khi tình hình trở nên căng thẳng và khó khăn, tôi không có cảm giác nào cả, giống như một khán giả nhìn xem những sự việc đang xảy ra. Có đôi lúc, tôi cảm thấy rất là sợ hãi. Tôi đã cầu nguyện với Thượng Đế rất nhiều lần trong thời gian chờ đợi cho bất cứ sự việc nào sẽ xảy đến kế tiếp. Quân đội dành nhiều năm rèn luyện cho tôi cho sự việc nầy, nhưng, không có gì trên thế giới có thể chuẩn bị cho anh cho cái sự ngạc nhiên và bị khích động khi nhìn thấy biết bao nhiêu người, cùng trong một lúc, cố gắng hết mình, để giết anh. Cho tới ngày hôm nay, tôi vẫn có thể ngồi ở một nơi nào đó, như trong phòng tập thể dục, chỗ mà tôi tập luyện, cố gắng thư giãn cơ thể, mà vẫn nhìn thấy sự việc đó.

Người lính Dù nằm gần bên tôi xử dụng cây súng AR-15 Browning. Khi trận đánh vừa tiếp tục, tôi nhìn qua anh và cũng nhìn thấy một viên đạn bắn trúng ngay báng súng và trợt ngay vào bên má của anh. Anh tạm ngưng bắn để sờ tay vào vết thương trên mặt, rồi bắn trả lại quân địch, với sự thản nhiên, như không có việc gì xảy ra hết. Và, anh lập tức xem lại cây súng, cố gắng làm cho nó hoạt động trở lại. Biết được cây súng không còn sử dụng được nữa, anh chồm lên, lấy cây súng của một người lính vừa hy sinh kế bên cạnh, và tiếp tục chiến đấu. Cái hành động của người lính Việt Nam anh dũng đó, chỉ trong ít phút giây đó, đã làm cho tôi lên tinh thần, hơn cả những gì mà tôi đã nhìn thấy vào buổi sáng ấy. Anh ta đã cho tôi thấy được họ, những người lính Nhảy Dù, đúng là những người lính đúng nghĩa, và cũng cho thấy cái ý chí quyết tâm phải giữ vững cho được phòng tuyến của họ.


Tôi bắt đầu trận chiến bằng cách lăn vào cái hố cá nhân và nằm run sợ trong đó. Cái sự việc tức cười là, tôi lo cho cái máy truyền tin nhiều hơn cho bản thân tôi. Nếu, ở trong cái hố cá nhân đó khi mà đạn cối pháo vào cũng chưa đủ sức, và bây giờ thì phải chiến đấu trực tiếp để chận đứng cái đám đông bận đồ khaki đang tràn tới trước mặt chúng tôi, với một số lớn đã làm được việc đó. Tuy nhiên, tôi biết nếu Đại Uý Kern kiểm soát được tình thế, báo cho mọi người biết được tình hình và bảo cho những người khác phải rời khỏi tần số truyền tin của chúng tôi để chúng tôi có thể làm việc hữu hiệu hơn. Khi ấy, sẽ đúng là chuyện và công việc phải làm của tôi, nếu mà tôi vẫn còn giữ được mạng sống. Với máy truyền tin, tôi sẽ mang cái thế giới bên ngoài đến với tôi. Ngay trong thời gian nầy, tôi nằm rạp trên mặt đất, sử dụng cây súng và làm công việc mà những người lính tác chiến làm giỏi nhất, với hành động phải giữ vững phòng tuyến. Từ những tiếng súng nổ vang – súng bán tiểu liên, tôi có thể nói những người lính ở ngay khu vực tôi, đang nhắm bắn vào những mục tiêu của họ. Cái máy truyền tin nằm sát bên cùi chỏ của tôi, ngay bên trong cái hố cá nhân. Tôi phải biết chắc rằng, không có việc gì xấu xảy đến cho nó. Ngay đến bây giờ, tôi vẫn luôn nghĩ những giây phút tôi đã dành riêng, lo lắng cho cái máy truyền tin đó.

Cuối cùng, trời đã sáng! Vẫn còn sương mù và bóng đêm, nhưng bầu trời với màu xám đã biến đi. Sương mù buổi sáng có nghĩa là cho một lúc nào đó trong ngày, mặt trời sẽ mọc. Tôi đã cố gắng cầu nguyện cho việc đó. Bằng một cách nào đó, chúng tôi đã giữ vững phòng tuyến cho đến lúc trời sáng.

Buổi sáng ấy, tôi đã nhìn thấy trong cùng một lúc, ba trái lựu đạn trong các khẩu súng phóng lựu bay thẳng đến tôi, chỉ cao trên đầu khoảng chừng vài gang tay. Chúng nổ ngoài sau lưng tôi. Trong giây phút nào đó, tôi biết một trong mấy trái lựu đạn đó sẽ tìm đến tôi. Thật đúng vậy, tôi cảm thấy một tiếng gió nổ bùng ở lưng và trên đầu, với những miểng lựu đạn làm cho nhức nhói và cảm giác nóng cháy trên đầu. Sau đó, khi tôi cảm thấy một cái gì đang chảy xuống cổ và lấy tay chùi, tay tôi dính đầy máu. Tôi gọi máy cho Đại Uý Kern. “Tôi đã bị bắn trúng đầu,” tôi nói. “Nếu bọn chúng bắn trúng đầu anh, bọn chúng đã không làm cho anh đau lắm đâu.” Ông ta đã trả lời như vậy. Tôi cảm thấy khoẻ khoắn ngay và tiếp tục chiến đấu.

Trần mây vẫn còn thấp. Chiếc phi cơ quan sát sẽ không quan sát được gì cả. Tuy vậy, anh ta đã bay trên đầu chúng tôi, cố gắng tìm kiếm một lỗ hổng trong cái đám mây dầy đặt đó. Phi công quan sát nói cho tôi biết, phải chuẩn bị việc đánh dấu vị trí tiền phương ngay khu vực đánh nhau. Anh ta cho biết đã có vài chiếc phi cơ phản lực đang hoạt động trên vùng, nhưng bây giờ thì họ gần hết xăng nên phải rời vùng.


Bên phía tay trái của chu vi phòng thủ, các tiếng nổ của các khẩu súng cá nhân nhỏ dần đi, nhường lại cho việc dùng lựu đạn của hai phía, quăng vào nhau, ở một khoảng cách rất là gần. Tôi biết chắc trong những giây phút sắp tới, quân Bắc Việt sẽ xung phong vào vị trí phòng thủ yếu kém đó của chúng tôi. Khá nhiều chiến sĩ của chúng tôi đã bị loại ra khỏi vòng chiến. Bên phía tay mặt của tôi, không còn một bóng quân bạn. Tôi biết chắc tôi đang kề cận với hiểm nguy. Tôi đang ở đối diện với cánh đồng mía. Chu vi phòng thủ của chúng tôi trông giống như một hình tròn, bấy giờ, cái hình tròn đó đã bị thiếu mất cái độ cong gìữa 3 đến 6 giờ. Cánh đồng mía lại dính líu với cái khoảng trống đó.

Tôi đã không rõ tình trạng của cả tiểu đoàn của chúng tôi bị hiểm nguy tới cỡ nào. Đây lại là một việc tốt, bởi vì tôi đã sợ hãi muốn chết được. Đại Uý Kern báo trong máy truyền tin, bảo tôi phải giữ vững phòng tuyến. Tôi đã có thể cảm được qua giọng nói như nài xin của ông rằng chúng tôi đang ở vào tình trạng hiểm nghèo. Một phần phòng tuyến phía đông đã bị quân Bắc Việt tràn ngập. Phía cận đông của tuyến phòng thủ đang chạm trán sát bên với quân địch, và một vài vị trí tại nơi ấy đang đánh cận chiến. Quân Bắc Việt chọc thủng được phòng tuyến làm cho một phần lớn lính của chúng tôi bị cô lập. Việc nầy làm cho chúng tôi bị mất tích một số người lính sau trận chiến. Quân Bắc Việt luôn cố gắng đeo sát cạnh bên chúng tôi để ngăn ngừa các trận pháo bắn yểm trợ cho chúng tôi. Cái lỗ hổng đã được chám lại bằng cách đưa nhiều người lính Nhảy Dù đang trấn thủ những khu vực ở mặt Nam và hướng đông của chu vi phòng thủ. Các người lính thuộc bộ chỉ huy tiểu đoàn cũng được dùng để đưa vào phòng tuyến trước mặt của quân Bắc Việt và trám vào các chỗ bị thiếu hụt. Việc nầy làm cho tôi trông thấy nhiều người di chuyển qua lại, chạy ngược vào trong bộ chỉ huy tiểu đoàn. Ngay lúc ấy, tôi nghĩ họ đi lấy thêm lựu đạn và đạn dược. Cái sự việc nghĩ rằng chúng tôi có thể bắn hết đạn làm cho tôi cảm thấy bị lạnh cả người. Tôi đã biết việc nầy đã xảy đến cho một người bạn của tôi. Trung Sĩ Harold G. Bennett, vào những năm đầu cuộc chiến Việt Nam. Anh ta đã là một cố vấn Biệt Động Quân, mà tiểu đoàn của anh bị phục kích theo hình chữ U, gần Bình Giả. Sau khi lực lượng của anh chiến đấu cho tới khi bị hy sinh hết, anh bị bắt và bị hành quyết ít lâu sau.

Tôi đã nghe được tiếng động cơ của chiếc phi cơ quan sát ngay sau khi sương mù vừa biến mất. Anh ta bay vào từ hướng đông, dưới từng mây. Tôi không thể tưởng tượng nổi, bay thấp như vậy, anh đúng là dám đánh đổi sinh mạng của anh cho chúng tôi. Anh mang lại cho chúng tôi một tin tốt. Một phi tuần A-1 Skyraiders đang hoạt động bên trên các đám mây. Chúng tôi, cho tới khi ấy, đã chiến đấu dữ dội trong bảy giờ rưỡi đồng hồ. Phi công quan sát bảo tôi nói chuyện trực tiếp với phi tuần trưởng, khi anh ta vừa bay đến. Tôi biết chúng tôi sẽ được sự giúp đỡ hữu ích, vì mỗi chiếc Skyraider trang bị đầy đủ, với 8,000 pounds vũ khỉ khác loại – súng đại bác, napalm, bom và CBU (Cluster Bomb Unit). Vị cứu tinh đang xuất hiện.

Tôi thảy trái khói đánh dấu vị trí, và báo cho người phi công quan sát bắt đầu trước với cánh đồng mía. Có quá nhiều quân Bắc Việt trong khu ấy. Tôi được cho biết viên phi tuần trưởng chiếc Skyraider đã bay về hướng tây, tìm kiếm một khoảng trống để bay xuống. Anh ta cố gắng bay thẳng xuống với chúng tôi. Đúng ngay khi ấy, cuộc chiến lại nổ bùng lên, bọn Bắc Việt chắc đã lắng nghe chúng tôi. Rồi, súng nhỏ lại ngưng dần đi. Ngay cả chính tôi cũng không biết được việc gì sẽ xảy đến, và tôi nghe được tiếng động cơ cánh quạt dễ thương đó. Giờ thì, tôi biết việc gì sẽ đến, và tôi thảy trái khói đánh dấu vị trí. Bọn lính Bắc Việt phải thấy hay là nghe được chuyện gì đang xảy đến. Bây giờ, tới phiên bọn chúng nhận lãnh đau thương. Trái khói lại được tiếp tục dùng để đánh dấu phòng tuyến. Những người đã từng ở trong cơn nguy khốn với bọn cộng quân tại đất nước nầy đều biết rằng các chiếc A-1 là những giúp đỡ tối cần thiết mà anh có thể có được.

Người phi công gan lỳ của quân đội Hoa Kỳ bay từ hướng Đông với chiếc khu trục Douglas A-1 được trang bị đến tận răng. Anh ta bay qua đầu tôi, khoảng gần 50 thước, ngay bên trên phía nam cánh đồng mía và nói chuyện thẳng với tôi qua tần số FM. Tôi có thể nhìn thấy anh đang nhìn thẳng xuống cánh đồng mía. “Đốt cháy nó”, tôi la to. Bay thật thấp và thật chậm theo cỡ trên đầu ngọn cây, phi công có thể nhìn thấy đang quan sát thật rõ tình hình bên dưới. Rồi, anh bay vòng lại, và bắt đầu cuộc oanh kích đầu tiên, thả trái bom napalm. Nó phát nổ với một vòng cầu lửa màu trắng vàng, biến đổi cánh đồng thành một bức tường lửa. Các lằn đạn màu xanh từ cây súng 51 ly do bọn Trung Cộng chế tạo đã được nhìn thấy bắn theo chiếc A-1. Chiếc Skyraider thứ nhì đang bỏ trái bom napalm trong lần thả đầu tiên. Tôi có thể nghe và thấy được tiếng động của những tiếng nổ lốp bốp và những cái đầu của quân địch nhô ra từ đám lửa nóng cháy, và đám lính địch la hét trong sự kinh hoàng. Quân Bắc Việt đang tập trung trong cánh đồng mía đã bị đốt ra tro. Áp lực của quân địch tại tuyến phòng thủ bên tay mặt tôi coi như không còn nữa.


Trong thời gian làm việc với không yểm, ngay khu vực phòng tuyến tôi, tôi cũng nhìn quanh và bắt gặp gương mặt rất cương quyến và dữ dằn của viên Tiểu đoàn Phó Tiểu Đoàn 7, Thiếu Tá Lê Minh Ngọc. Gương mặt ông tỏa ra cho tôi thấy cái nhìn của sự quyết tâm và ý chí quyết chiến.

Tiếp theo, tôi yêu cầu các quả bom napalm được thả vào ngay phòng tuyến phía Đông. Ngay cái khu vực đó là nơi chúng tôi bị địch bắn dữ dội nhất. Đây là cái vị trí phòng thủ mà chúng tôi đã cẩn thận lựa chọn để tạm nghĩ chân vào đêm qua, chỗ ấy lại là nơi mà cộng quân đào những cái rãnh sát bên ngoài phòng tuyến chúng tôi. Khi các quả bom napalm rơi và bùng nổ thành lửa, và văng toé ra, cháy bùng sát bên cạnh chúng tôi chỉ cách một vài thước. Tôi đã có thể cảm thấy được sức nóng sát bên mặt. Đúng là không có gì có thể giỏi hơn được. Tôi yêu cầu nguyên cả khu vực trước mặt tôi phải được cày nát với tất cả những gì mà các máy bay khu trục hiện có. Phi tuần A-1 liền làm đúng việc đó cho chúng tôi. Khi mà tôi quan sát họ thả bom và dùng các khẩu súng cà nông 20 ly rãi vào cộng quân, tôi nghĩ chắc chắn quân Bắc Việt phải lo suy nghĩ lại việc bác Hồ của chúng, đã có thể bảo bọc cho chúng như thế nào. Với các chiếc A-1 bắn yểm trợ cho chúng tôi, bọn Bắc Việt đã phải ngưng việc tấn công vào ngay phòng tuyến phía đông.

Và rồi, thêm một việc làm cho tôi bị lạnh mình một lần nữa. Hai chiếc A-1 đã xài hết bom và đạn, và hiện đang gần hết xăng. Tôi nhìn họ vẫy cánh chào tạm biệt, rồi biến đi, để bay về lấp thêm bom và nhận thêm xăng. Các chiếc A-1 đã bay mất, thật là ớn lạnh khi nghĩ đến việc không còn được các chiếc khu trục bao vùng. Tôi đã biết, theo kinh nghiệm chiến trường có được từ khi bắt đầu cuộc chiến cho tới giờ, bất chấp rằng đang ở vào vị thế bất lợi, anh vẫn phải tiếp tục chiến đấu.

Khi những tiếng súng cá nhân bắt đầu nổ vang tiếp, phi công quan sát cũng cho tôi biết anh ta có nhiều chiếc máy bay Canberra B-57 đang trên vùng. Trần mây vẫn còn thấp và rất nhiều cụm mây bao phủ quanh, bởi vậy, các chiếc máy bay sẽ bay theo từng chiếc một và sẽ chỉ xuất hiện một lần. Bay từ hướng nam qua hướng bắc, họ bay thật sát đầu chúng tôi, làm cho tôi phải la hét trên máy truyền tin là các anh ở sát cận chúng tôi đó. Tôi chú ý cái phù hiệu sơn trên máy bay và nhận ra đây là các chiếc máy bay thuộc Không Quân Hoàng Gia Úc Đại Lợi. Viên phi công quan sát cho tôi biết họ không còn bom, chỉ giả vờ chuẩn bị việc ném bom. Các chiếc Canberra đang bay về sau một phi vụ hành quân khác và đã quyết định giúp chúng tôi mua thêm thời gian. Với những quả bom đã dùng hết cho mục tiêu khác, các người lính Úc Đại Lợi đã dũng cảm đưa lưng cho các khẩu súng lớn nhắm bắn vào, và họ đã bay thật thấp và chậm trên các vị trí tiền phương của chúng tôi. Họ đã mở cánh cửa bom để dọa quân Bắc Việt. Chắc rằng, các tên Bắc Việt đã sợ té đái vì tôi biết cá nhân tôi cũng hãi sợ nữa.

Các thương binh đợt đầu của chúng tôi đã phải chờ đợi tản thương cho tới sau buổi trưa chỉ vì thời tiết và cộng quân bắn phá quá dữ dội. Tôi đã có thể tưởng tượng được việc lo tản thương là cơn ác mộng đối với các người y tá, và những túi cứu thương mà họ mang theo hiện đã được dùng hết sạch ngày hôm ấy. Trong nhiều trường hợp, họ đã phải làm việc ngay trên mặt đất, cố gắng nhiều lần, lo cứu thương cho những người lính bị thương từ các tuyến phòng thủ của chúng tôi, các người y tá của chúng tôi đã phải bị tổn thất đến tám mươi phần trăm thương vong.

Khi các phi vụ tản thương của Thủy Quân Lục Chiến bắt đầu, trong lúc chiến trận, tôi đã phải nhìn và chú ý, rất nhiều lần, lòng dũng cảm của các phi công trực thăng. Họ bay các chiếc H-34 Choctaw cũ kỹ. Các chiếc trực thăng bay đến từ hướng đông, bay vòng và phía bên ngoài khu vực của chúng tôi, rồi cuối cùng, xuất hiện từ phía tây. Họ bay thấp xuống con sông khi đến gần vị trí chúng tôi, khi ấy họ phải lấy cao độ, rồi họ lại bay thật nhanh khi đến gần chỗ đáp mà chúng tôi đã lựa chọn. Họ điều khiển trực thăng trên đầu bãi đáp, dưới lằn đạn của những khẩu súng lớn và những khẩu súng cá nhân nhắm bắn vào họ. Họ phải giảm ga và đáp thật nhanh, mang các thương binh lên trực thăng thật nhanh, rồi cất cánh, quẹo trái và bay rời khỏi vùng ngay chỗ mà họ đã tới. Tôi cảm thấy thời gian mang các thương binh lên tàu quá ư là lâu, nhưng thật ra, chỉ mất chừng khoảng hai phút. Các phi vụ tản thương kéo dài khoảng ba giờ đồng hồ. Họ đã bị bắn dữ dội trong toàn thời gian ấy.


Trong một thời điểm lúc ấy, tôi đã nhìn quanh phía sau tôi, bởi vì các khẩu súng thượng liên điên cuồng bắn dữ dội thẳng vào các chiếc trực thăng tản thương và âm thanh của các viên đạn bay qua khỏi đầu và vỗ vào trực thăng. Trong thời gian quân địch từ nhiều vị trí khác nhau, tập trung các loại súng bắn vào trực thăng, tôi quay nhìn và thấy những lằn lửa xanh bắn trúng vào một chiếc trực thăng tản thương vừa bay lên cao mà sự va chạm của các viên đạn xuyên thủng vào trong trực thăng, tôi nhìn thấy phi công chính bị trúng đạn. Cái đuôi trực thăng cũng bị bắn gần như gãy hết phân nửa. Chiếc trực thăng bị quay tròn và tròng trành hai bên khi nó cố gắng giữ thăng bằng, và cố gắng lấy độ cao khi rời khỏi vùng. Trong tâm trí tôi không có sự ngờ vực nào cả, các phi công trực thăng đã làm hết sức họ cho chúng tôi và cho những thương binh của chúng tôi dưới sự bắn phá quá mãnh liệt của quân địch, và bây giờ cũng đang cố gắng hết sức để giữ mạng sống cho họ và cho các thương binh của chúng tôi. Các thương binh còn tĩnh, đã không những chịu đựng những vết thương của họ, mà đặc biệt, còn kinh hoàng khi nhìn thấy các chiếc trực thăng bay đến rồi bay đi dưới những lằn đạn từ những khẩu súng lớn của địch. Sự suy nghĩ rất là căng thẳng khi biết sẽ đến phiên của họ, được mang lên trực thăng. Rất nhiều người trong bọn chúng tôi bị lâm vào hoàn cảnh rất là khó khăn trong một thời gian khá dài của ngày hôm ấy.

Pháo binh bạn rồi cũng phải đến tay của tôi. Cuối cùng rồi tôi cũng nói chuyện được với họ, và sau khi tự giới thiệu về mình, với sự chờ đợi, tôi lặp lại những chữ dễ thương “fire mission”, và tiếp tục gọi những điểm hỏa tập cho pháo binh. Những viên đạn đầu tiên bay đến rất là đẹp mắt, sát cận bên, chúng chỉ cách trước mặt tôi có 50 thước. Tôi điều chỉnh chúng sát về lại cận tôi, ngay chỗ đầu tiên khi quân địch tấn công chúng tôi. Tôi đã phải đổi qua những viên đạn khói trắng vì không thể đưa đầu lên nhìn ra xa, vậy thì tôi chỉ nhìn những cụm khói trắng bay tỏa lên và tiếp tục điều chỉnh. Mỗi một khi tôi nhô đầu lên, tôi là mục tiêu thu hút cho những khẩu súng cá nhân và súng phóng lựu.

Quá rõ ràng, quân Bắc Việt đã biết tôi là ai và tôi đang ở vị trí nào. Việc nầy làm cho những đợt pháo cối bắn thật là gần vào tôi. Bọn chúng cố gắng mua một vé cho tôi ra nghĩa địa mà. Cuối cùng, tôi cho vị trí ngay khu rừng cây phía ngoài mặt chỉ cách một khoảng cách và yêu cầu pháo binh dội lửa vào ngay khu vực ấy, với ý nghĩ tạo áp lực vào cái bọn chỉ huy trận chiến chống lại chúng tôi. Pháo đội bạn đã san bằng khu vực ấy.

Nhìn vào bản đồ, tôi cố đoán chỗ mà quân Bắc Việt làm nơi tập trung. Tôi quyết định ngay chỗ cái hàng cây từ đằng xa, ngay hướng đông của tôi, phải là chỗ của bọn chúng. Tôi quan sát kỹ, gọi Pháo Binh bắn thật dữ dội vào chỗ đó. Các người lính pháo binh làm đúng việc ấy. Sau nầy, tôi nghe lại rằng, đoán thật là hay.

Một thằng cha nhân viên quân sự Hoa Kỳ thiệt là đáng “ói” nào đó, ở một nơi xa chúng tôi, đã làm rối loạn tần số liên lạc truyền tin của chúng tôi một thời gian khá lâu vào lúc sớm của ngày ấy, nói toàn những chuyện vô lý với chúng tôi, với cố gắng phỏng đoán (giỏi hơn) những quyết định của Đại Uý Kern và của tôi về việc chúng tôi gọi pháo binh cận phòng. Trong lúc chiến trận hỗn loạn, không có những nguyên tắc, chỉ cố gắng giữ lấy mạng sống. Pháo binh yểm trợ phải được bắn thật sát cận hay là bỏ xó cái hỏa lực yểm trợ nầy cho quân địch. Quân Bắc Việt sẽ tấn công chạy xuyên qua khu vực pháo, không cần biết là pháo binh của họ hay của chúng tôi. Cái tên nầy đã lấy đi mạng sống của nhiều người bạn chúng tôi và đã không chịu nhận lấy trách nhiệm về những hành động của hắn. Tôi đã có thể gọi pháo binh ngay vị trí của tôi sớm hơn nếu mà hệ thống truyền tin không bị tên nầy làm trở ngại. Tuy vậy, Đại Uý Kern, sau nầy tôi mới biết, đã rất nhân cách và can đảm, không ngập ngừng, đã làm đúng cái việc ấy, vì ông biết đây là việc phải làm. Ông ta đã gọi pháo binh bắn ngay vào vị trí của ông, chận đứng được thành phần tiền phương của địch, lúc ấy, đã tràn vào được bên trong chu vi phòng thủ của chúng tôi. Cái đám địch vào được bên trong phòng tuyến bị tan vỡ dưới đạn pháo và phải bỏ chạy. Quân địch lại tiếp tục bắn phá tiếp và bắt đầu dùng pháo để bắn vào chúng tôi.

Tuy nhiên, vẫn còn quá nhiều quân Bắc Việt đang ẩn núp dưới các cái rãnh phía trước mặt chúng tôi, vì tôi đã biết được vị trí của chúng sau mỗi khi bọn chúng bắn dữ dội vào các phi cơ và sau khi pháo binh chúng tôi bắn vào chúng. Quân Bắc Việt đào những cái rãnh thật sâu và hẹp để bọn chúng khỏi phải bị đốt cháy hay dễ bị bắn trúng khi mà chúng cứ nằm im trong đó và không bị pháo binh pháo trúng ngay vào trong rãnh.

Tôi vừa bắt đầu cảm thấy chán nản, khi, lại một lần nữa, tôi nhìn thấy viên tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 7 đang ở gần đấy, ngay khu vực phòng tuyến của tôi, quan sát thẳng về phía trước. Tôi đến gần bên ông và hỏi chúng ta sẽ làm gì. Ông nhìn thật lâu vào tôi, rồi nói: “Chúng ta không thể làm gì hơn được, chỉ trừ phản công”. Tôi sẽ không bao giờ quên được chuyện ấy khi mà tôi vẫn còn sống. Tại ngay nơi đấy, chúng tôi đã có quá nhiều người hy sinh và đã không còn chỗ ngay tại khu vực tản thương, bởi vì chúng tôi có quá nhiều thương binh, vậy mà chúng tôi sẽ chấp nhận, nhận lấy sự rũi ro, và xung phong, phản công lại một lực lượng hùng mạnh hơn chúng tôi rất nhiều, đang nằm cách trước mặt chúng tôi, chỉ có 20 thước. Mặc dầu chúng tôi đang lo sợ, chúng tôi vẫn cố quên sự thật về tình trạng và tình hình lúc ấy, và còn tìm được sự can đảm để đứng lên, rời bỏ những vị trí chiến đấu an toàn của chúng tôi, và di chuyển vào cái khoảng trống để thi hành công việc phản công. Cho tới giây phút ấy, chúng tôi đang ở thế phòng thủ, chiến đấu cho mạng sống của chúng tôi, và bị bao vây. Tôi đã nghĩ, “Thôi thì, cũng chỉ là một khoảng cách thật ngắn, từ cái rãnh đầu tiên đó.”

Các người lính Dù của Tiểu Đoàn 7 chỉ được thông báo có một thời gian thật ngắn để chuẩn bị tinh thần cho họ cho việc phản công, xung phong thẳng vào những cái rãnh với quân số quá đông của địch, và rồi, hiệu lệnh bắt đầu. Ngay khu vực tôi, chúng tôi chỉ phải chạy có một khoảng cách ngắn là tới cái rãnh của quân Bắc Việt. Chúng tôi đứng thẳng dậy theo lệnh, và cùng một lúc, chúng tôi tiến thật nhanh, vừa la to “xung phong”, vừa bắn thẳng vào quân địch. Bọn địch bị bất ngờ và chúng tôi giết hết bọn chúng trong những cái rãnh bằng cách tràn qua đầu và không cho chúng ngẩng mặt lên. Tại khu vực của tôi, trận đánh chấm dứt thật nhanh, giết chết thật nhiều quân địch chỉ trong vài phút đồng hồ, bằng cách di chuyển nhanh và bất ngờ. Bọn chúng quá ngạc nhiên tới nổi bọn chúng đã không đứng dậy được, để ít ra, cũng bắn trả lại chúng tôi.

Đúng ra, bọn chúng đã có thể trốn chạy được, nếu bọn chúng biết chúng tôi sẽ phản công, nhưng bởi vì bọn chúng không biết được, nên bọn chúng không có thì giờ để bỏ chạy. Bên dưới rãnh có những lỗ hổng nhỏ, vừa đủ chỗ để bọn chúng có thể bò vào hay bò ra từ một đường hầm bên ngoài để vào đến cái rãnh. Tôi không nghĩ nhiều người chú ý đến việc ấy. Tôi nhớ đã nhìn thấy những cái hầm kiểu nầy trong môt trận đánh tương tự trên những ngọn núi, gần Đắc Tô. Dầu sao chăng nữa, bọn chúng đã nằm chết dí dưới cái rãnh hẹp và sâu, cố gắng bò đến những cái lỗ hổng nhỏ để tẩu thoát. Hầu hết quân Bắc Việt đã không có được cái cơ hội để làm việc ấy.

Nếu anh chưa bao giờ chịu chấp nhận lấy sự rũi ro để chỉ huy cuộc phản công, nhìn thấy việc làm đó, hay đã trực tiếp tham dự, sẽ rất là khó mà anh tin được hay hiểu được, khi mà người ta nói với anh việc đó. Nhưng, chúng tôi đã thành công, làm thay đổi chiều hướng của cuộc chiến, nắm lấy lợi thế cho chúng tôi. Nên nhớ, chúng tôi là những người lính Nhảy Dù!

Sau cú xung phong ấy, bọn bắn sẻ, những tên đã lén di chuyển vào khu vực gần nơi chúng tôi, bắt đầu làm việc, chúng bắn trúng một người lính Dù, té ngay trước mặt tôi, ngay khu vực trống, người lính nầy đang tịch thu một khẩu súng của một tên lính Bắc Việt đã bị chúng tôi giết chết. Anh lính Dù vẫn còn sống và bị bắn thủng ngực. Tôi đã nhìn thấy viên đạn bay vào không khí sau khi trúng anh và nhìn thấy bụi chì toé ra bên cạnh tôi khi anh ngã té. Trong cơn đau đớn, anh vẫy tay “không” với những người cố gắng giúp anh, lo sợ rằng, chúng tôi, rồi cũng sẽ bị bắn ngã. Tôi luôn là người chạy nhanh, và tôi đã đánh cá rằng tôi có thể phóng thật nhanh tới chỗ anh, chụp lấy dây ba chạc trên người anh, rồi mang anh trở về trước khi mấy tên bắn sẻ có thể nhìn thấy, ngắm và bắn vào chúng tôi. Tôi cầu xin tên bắn sẽ vẫn còn lo chúc mừng cho chính hắn ta với cú bắn vừa rồi, và đã không sẵn sàng cho một mục tiêu mới. Người lính Dù bị thương lại ngẩng mặt nhìn lên và trông thấy tôi đang chạy nhanh đến, và anh ta bắt đầu nói “Không!Không”, rồi lấy tay vẫy vẫy, giống như anh đã làm trước đó. Adrenalin đã làm cho tim của tôi đập nhanh hơn, bởi vì, người lính Dù, trong lúc tôi phóng nhanh về phòng tuyến, với anh trên người, sao mà nhẹ như cái va li nhỏ. Tôi đã thắng được mấy tên bắn sẻ.

Khi trận đánh kết thúc, tôi biết được chúng tôi đã phải chiến đấu trong vòng mười hai giờ đồng hồ. Tôi, khi ấy, liền đến nơi cứu thương, và nhờ người y tá xem xét lại những miếng miểng lựu đạn phía sau đầu tôi. Những người y tá của chúng tôi khám xét những vết thương nhỏ và nói cho tôi biết những miếng miểng đã bị cái sọ của tôi “chận đứng”. Một người y tá đã dùng cái nhíp để lấy những miểng lựu đạn và đã cười tôi, bởi vì tôi đã rên rĩ và kêu than mỗi khi anh ta gắp miểng lựu đạn ra khỏi đầu tôi. Có thể nói rằng tôi đã kêu than nhiều hơn những người bị thương nặng vẫn còn hiện diện nơi ấy. Trong thời gian tôi còn ở khu vực ấy, cái sự việc làm cho tôi phải chú ý nhất là những thương binh đã chịu đựng nhiều sự đớn đau trong im lặng. Chắc là mỗi một người lính biết rằng người khác đang bị nặng hơn mình. Nhìn vào những thương binh đang nằm dưới đất chờ được tản thương, tôi đã cảm thấy nhiều mối cảm xúc. Những người lính Nhảy Dù, với những cái băng còn đẫm máu, chắc rằng, đã không thèm chết mà được tiếng tăm. Những người y tá đúng là những người can đảm đặc biệt, khi phải nhìn và lo săn sóc cho những người lính đang nằm yên, chịu đựng. Để khỏi phải cho những người thương binh thấy được những xúc cảm trên gương mặt của tôi, khi mà họ đang nhìn thấy tôi, tôi rời nhanh chỗ ấy. Tôi đến ngay cái nhà rơm, chỗ bộ chỉ huy tiểu đoàn đóng, họ pha cho tôi một ly cà phê. Sau khi tôi được đưa cho ly cà phê, tôi làm đổ một ít và làm phỏng người tôi. Nhìn xuống cái ly trong tay, cà phê đang chạy nhảy trong ly. Tôi mới hiểu bàn tay tôi đang bị rung. Tôi để ly cà phê xuống đất, ngã lưng vào một cây cột, nhắm mắt trong vài phút và biết được mí mắt của tôi đang bị co giật. Tôi cảm thấy khuây khoả thật nhiều. Tôi uống hết ly cà phê, đứng lên, cho hai tay vào túi quần và bắt đầu đi quanh để cho bớt căng thẳng. Cái nhà rơm nhỏ bé mà chúng tôi làm nơi đặt bộ chỉ huy tiểu đoàn, với cái cánh cửa khóa kín, lại là cái nhà thương bí mật. Sau khi cái khoá bị bắn bay, các người lính Dù tụt xuống cái hầm khoảng hai thước rưỡi và tìm ra một căn cứ bí mật. Những tên tù binh Bắc Việt bị bắt dưới đó gồm có bốn tên y tá bộ đội và hai thương binh.

Tôi đã kết bạn với một viên Trung uý người Việt và quyết định đi gặp anh. Tôi tìm đến khu vực của trung đội anh, hỏi anh và được dẫn đến vị trí anh đã chiến đấu. Người lính đi với tôi ngừng lại và chỉ vào một cái áo khoát Dù đẩm máu. Tôi nhìn vào cái áo thật lâu và ngó người lính. Anh ta giải thích rằng viên trung úy đã tử trận. Tôi quì xuống, kế bên cái áo, khám xét thật kỹ và hiểu được anh ấy đã bị trúng nhiều viên đạn. Người bạn trung uý ấy, mà bây giờ, tôi đã quên tên, đã ở vào cái vị trí quá nguy hiểm và đã không dễ di chuyển mà không bị bắn trúng. Tôi đứng im đấy, nhìn cái khoảng cách thật gần, nơi mà quân địch đã có mặt, và biết rằng số phận nghiệt ngã đã được dành riêng cho bạn tôi. Khi tôi đứng ở chỗ ấy, tâm trí của tôi bay ngược trở về cái lễ quan trọng gần đây của người Việt – Tết! Ăn mừng Tết Âm Lịch – khi ấy, tôi đã được mời tới nhà anh để ăn tết. Tôi sẽ phải gặp anh ở một trong vài tòa nhà tại Sài Gòn, một nơi mà tôi chưa biết và cũng tại vì kẹt xe mà tôi đã bị khó khăn tìm kiếm, và tôi đến trể. Tôi được cho biết là anh đã có mặt tại đó và anh đã đi về sau một thời gian chờ đợi. Tôi cũng nhớ lại là tôi cũng được cho biết việc ấy được cho là một điềm xấu. Tôi đứng im đó nhìn vào cái áo trận đẩm máu của anh, chỉ còn lại cái áo để nhớ tới một người bạn, lòng tự tin của tôi biến mất đi. Anh đã là một trong nhiều người bạn mà tôi đã bị mất trong cuộc chiến nầy. Tôi cảm thấy bị tổn thương, trống vắng và cầu nguyện rằng không phải lỗi của tôi. Tôi cảm thấy già đi, mệt mõi và kiệt quệ. Để phải tồn tại, tôi phải rời khỏi chỗ đó. Trong lúc tôi bỏ đi, tôi nhìn lên trên không trung và cho lần đầu tiên của ngày ấy, tôi nhận thức được, trời đổ nắng, thật là rực rỡ.

Những tấm hình chụp vũ khí của quân Bắc Việt mà tôi đã chụp vào buổi trưa ấy, đặc biệt là những vũ khí cộng đồng mà chúng tôi đã mang về, chất đầy một chỗ lấy từ những xác chết và những tên bị bắt, cho thấy được việc gì đã thật sự xảy ra vào ngày ấy. Thông thường, khắp suốt cuộc chiến, số lượng vũ khí mà chúng tôi vừa đã nhìn thấy ngày hôm ấy, thường là phải ở trong những hầm vũ khí. Những vũ khí nầy lấy từ những hàng ngũ của bọn Bắc Việt, nơi mà chúng đã ngã chết. Có khoảng hai trăm tên Bắc Việt đã được đếm chết gần, trong, trước mặt phòng tuyến của chúng tôi bữa ấy. Hầu như những xác chết hay bị thương khác của quân Bắc Việt đã được các đồng bọn của bọn chúng kéo đi mất, bởi vì có những chỗ không có xác quân địch, ở nơi mà đúng là phải có xác của bọn chúng. Quân Bắc Việt luôn rất giỏi trong việc di tản xác chết hay những tên bị thương của bọn chúng trong hay liền sau khi trận chiến. Những tên lính Bắc Việt bị chúng tôi bắt giữ, tên nào cũng được trang bị kỹ càng, các tên nầy được cho ăn uống rất đầy đủ, thân thể chúng chắc nịch.

Sau trận chiến, chúng tôi cảm thấy rất mệt mõi vì đã phải chiến đấu liên tục trong 12 giờ đồng hồ. Anh có thể nhìn thấy cái nổi vui trong ánh mắt của chúng tôi – được sống. Tuy vậy, sau khi kiểm điểm lại quân số, sẽ còn rất ít người. Cái giá và sự uổng phí của tiểu đoàn Nhảy Dù dũng cảm, và của 590 người lính khi chúng tôi bắt đầu trận chiến là 150 người lính hy sinh trong chiến trận. Khoảng 200 người bị thương, rất nhiều người trong số nầy bị thương nặng, với nhiều vết thương khác nhau (về sau, nhiều người sẽ phải bị mất mạng), và 42 người bị mất tích. Những người nầy có lẽ đã bị bắt sống và sẽ bị xử tử. Việc nầy làm cho tôi bị rùng mình khi nghĩ đến số mạng của họ. Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã cố gắng làm việc hết mình để mang đi những người bị thương nặng của chúng tôi đến các bịnh viện dã chiến của họ. Khi đến lúc phải đi khỏi thung lũng ấy, chúng tôi chỉ còn lại 198 người mang được vũ khí, trong số nầy, có rất nhiều người mang thương tích nhẹ.

Tôi quyết định kiểm tra lại khu vực nằm ở phía bắc của tiểu đoàn, bởi vì tôi muốn biết sự việc gì đã xảy ra tại nơi ấy. Tôi đã quen với cái hướng nầy, đã từng đi bộ đến nơi ấy. Cái mà tôi tìm thấy là Tiểu Đoàn 7 đã di chuyển vào ngay trung tâm của khu vực của quân Bắc Việt đã củng cố, có thêm cả những đường hầm dưới đất. Tôi cũng đã quan sát bằng cách nào mà quân Bắc Việt tiến đến gần chúng tôi mà không bị nhìn thấy từ bất cứ khoảng cách nào, và nơi mà bọn chúng đã chôn cất những tên bị chết trong trận chiến. Tất cả khu vực nầy có dấu hiệu của dấu vết hố đào còn mới. Tôi đã cắm đầu xuống, nhìn và biết chắc có nhiều tử thi còn mới và tiếp tục tìm kiếm. Trong nhiều trường hợp, có nhiều tử thi còn nằm trong khu vực của nơi giao tranh. Tuy vậy, trong thời gian đi lên phía bắc, tôi không còn phim để chụp, nhưng đây là những gì mà tôi tìm thấy. Tôi có thể tự hỏi thương vong của chúng tôi có thể ít hơn, nếu, chúng tôi đã chờ cho đến sau khi trời tối, rồi mới đào các hố cá nhân cho các vị trí chiến đấu. Một trong những khu vực đầu tiên tôi kiểm soát trên cái đồi từ phòng tuyến của chúng tôi là một cánh đồng vừa mới trồng trọt với những cái rạch thẳng hàng, và không có dấu hiệu của những bước chân. Điều nầy làm cho tôi thấy bất ổn, bởi vì có quá nhiều sự hoạt động của quá nhiều người ngày ấy. Tôi bước xuống hàng đầu tiên và tôi bị sụm chân xuống liền. Tôi ngừng lại và dùng chân để tìm một chỗ có đất cứng. Rồi tôi cẩn thận quẹt sạch đất ngay khu ấy và khám phá một gương mặt mà cái lưỡi đã lòi ra, tôi lấp đất lên cái tử thi đó và đứng lên, rồi nhìn quanh cánh đồng. Tôi ước lượng cái rạch khoảng 40 bước chân dài và 30 bước chân ngang, và tôi đoán chừng có 16 tử thi Bắc Việt nằm trong một hàng. Tôi đã không đào lên vì không muốn làm cái công việc đếm xác điên khùng kia. Tôi đã coi lại những vết đất mới che dấu những cái hố, và tiếp tục trông thấy những việc giống y như vậy. Tôi quyết định sẽ chỉ nhìn quanh để thoả mãn cái tính tò mò của tôi về cái khu vực nầy, và hiểu rõ bọn chúng đã không gây ra một tiếng động nào khi bọn chúng tiến đánh chúng tôi, bởi vì bọn chúng mang những đôi dép cao su, và bước chân trên những mảnh đất xốp, dưới những cái rạch, từ hướng bắc. Nhóm khác đến từ hướng đông, bước vào cánh đồng mía. Và phần đông khác từ những con đường hầm, vào những cái lỗ rồi chui ra những cái rãnh. Tôi đã nhìn thấy nhiều vật dụng khác nhau của quân Bắc Việt nằm rãi rác khắp nơi trên mặt đất, nhưng đã không đụng vào chúng vì sợ dính phải mấy cái bẫy của bọn Bắc Việt.

Trong một cái nhà rơm tôi vừa đến, tôi bắt gặp một người đàn bà trung niên, hốc hác, cô độc, rất là gầy ốm. Bà ta đang bị đói đến nổi bà đã không làm gì được cho chính bản thân bà. Vào tháng Chín năm 1966, trong một cuộc giải cứu một trại giam tù của cộng sản, trong một khu rừng núi tại tỉnh Phú Yên, tôi cũng nhìn thấy cái nhìn và thể xác như vầy, không có những nổi xúc cảm của những người bị bắt của trại tù binh cộng sản. Người đàn bà nầy chỉ ngồi yên đó và nhìn tôi. Lúc ấy, tôi đã không biết, và ngay bây giờ, tôi cũng không rõ bà ta có vấn đề gì khác ngoài việc bị bỏ đói, nhưng, bản năng cho tôi biết bà ta có những vấn đề khó khăn nhiều hơn tôi. Tôi mang bà trên lưng, trở về lại khu vực bộ chỉ huy tiểu đoàn, và báo cho những người lính biết bà cần được ăn uống và sẽ lên chiếc trực thăng kế tiếp. Việc nầy làm cho tôi cảm thấy ít ra có một điều gì đó khá hơn cái sự hỗn loạn mà chúng tôi vừa gặp phải.

Sau khi bách bộ, tôi nghiệm ra rằng, những người lính còn lại trong tiểu đoàn của chúng tôi còn sống sót được, vẫn còn sống, chỉ sống được, bởi vì những người lính Nhảy Dù trong trận chiến, có một nghị lực phi thường, không ai có thể sánh nổi. Từ khi chúng tôi được đưa vào cuộc hành quân vào ngày 14 tháng Hai. Tôi đã nghe rằng, cuộc hành quân nầy được ám chỉ là “St. Valentine’s Day Massacre.”

Sài Gòn nhỏ, ngày 16 tháng Ba năm 2011
Nguyễn Văn Phúc

 

Ý kiến bạn đọc xin nhấn vào đây

Rate this item
(0 votes)