Tài Liệu KQ
BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 3)
Hồi Ký
Nguyễn Hữu Thiện

“Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”
(tiếp theo)
“Sư phụ” VÕ VĂN ÂN và Niên trưởng NGUYỄN PHÚC TỬNG
Khi tôi tới phi trường Bangkok khoảng 12 giờ đêm, không chỉ có Đại tá Võ Văn Ân mà còn có cả Trung tá Nguyễn Phúc Tửng chờ sẵn, nhưng vì chỉ biết mặt Đại tá Ân (qua xem hình) nên tôi chào ông trước:
- Chào niên trưởng!
- Giờ này còn “niên trưởng” gì nữa em. Kêu bằng anh được rồi!
Rồi ông giới thiệu ngắn gọn:
- Đây là anh Nguyễn Phúc Từng từ Pháp qua.
Đại tá Ân cho biết ông tới Bangkok từ sáng sớm, mướn một phòng trọ gần phi trường chờ Trung tá Tửng và tôi, ngủ đỡ một đêm rồi sáng hôm sau đi Rayong.
Tôi để ý quan sát hai vị đàn anh, ông Ân bảnh trai, cao ráo, ăn mặc tươm tất, để bộ ria mép như nam diễn viên Clark Gable, người thủ vai anh chàng Rhett Butler trong phim Cuốn Theo Chiều Gió (Gone With the Wind); còn ông Tửng thì không có gì nổi bật, ăn mặc xuề xòa đã vậy còn hói đầu và nét mặt không lấy gì làm vui vẻ, ít nói... nên khó lòng gây được cảm tình nơi người đối diện khi gặp lần đầu.
Lúc đó tôi đâu đã biết vai vế của ông Tửng trong Không Quân cho nên khi thấy ông “mày tao” với ông Ân còn ông Ân thì một điều “anh” hai điều “anh” với sự kính trọng, tôi rất thắc mắc.
Không biết ông Ân có đoán được thắc mắc của tôi hay không, chỉ biết trước khi bước lên taxi để đi về phòng trọ, ông quay lại nói nhỏ với tôi:
- Anh Tửng ngày xưa là thầy của anh đó em!
* * *
Ông Ân đưa tôi và ông Tửng về một phòng trọ tồi tàn ở một khu ngoại ô gần phi trường Don Mueang (ngày ấy Bangkok chưa có phi trường mới Suvarnabhumi).
Đó là một căn phòng trên tầng 6 (hay 7) của một building cũ kỹ (cũng may mà có thang máy), bên trong có mấy cái giường single bằng gỗ, một cái bàn nhỏ với mấy cái ghế; vì chỉ ở qua đêm nên tôi không để ý có bếp hay không, chỉ nhớ có cái ấm điện cũ kỹ, toilet và nhà tắm thì mốc meo, hôi hám...
Ông Ân đã tới Thái Lan nhiều lần, giải thích với tôi: vì chỉ cần ở qua đêm hoặc một hai ngày chờ phi cơ, ông đã dò hỏi và tìm được phòng ngủ bình dân này, vừa tiết kiệm tiền bạc vừa gần phi trường.
Khoảng 7 giờ sáng, ông Ân đã hối chúng tôi xuống để checkout và chờ taxi tới đón đi Rayong. Thì ra đêm hôm qua ông đã điều đình với người tài xế taxi chở chúng tôi từ phi trường về phòng trọ: sáng nay anh ta sẽ chở chúng tôi đi Rayong (hơn 180 km) với một giá “phải chăng” mà theo ông Ân vẫn còn rẻ nhiều so với phí tổn ba người chúng tôi đi “tuk tuk” (xe Lam ở Thái Lan) tới bến xe đò + xe đò đi Rayong + tuk tuk tới khách sạn!
Đường từ Bangkok đi về các tỉnh phía đông nam đều là xa lộ 2, 3 lane, anh tài xế taxi còn khá trẻ cứ chạy trên dưới 130 kmh bất chấp giới hạn 110 kmh theo luật định. Tôi hỏi anh bộ ở Thái Lan không có cảnh sát tuần tra xa lộ (highway patrol) sao, thì anh trả lời có nhưng rất hiếm, đang chạy mà thấy họ chỉ cần bớt ga là xong!
Sau một tuần lễ ở Thái Lan tôi nhận thấy đa số taxi, xe ôm, tuk tuk thường chạy quá tốc độ ấn định nhưng rất an toàn vì họ tuyệt đối tôn trọng luật lệ giao thông (trừ speeding!)
Càng xuôi nam, khung cảnh hai bên đường càng giống miền tây của Việt Nam. Ông Ân dân Long Xuyên, ông Tửng dân Sa Đéc, tôi dân Bắc 54 nhưng cũng từng giang hồ xuống tận Châu Đốc cho nên cả ba anh em không hẹn mà đều chạnh nhớ quê hương. Ông Ân buột miệng:
- Nhớ Việt Nam mình quá anh Tửng ơi, Thiện ơi!
Tới Rayong, xe taxi ngừng trước khách sạn Star Hotel, nơi ông Ân đã book sẵn phòng cho ba người chúng tôi.
Ngày ấy, đầu thế kỷ 21, khi chưa có các khách sạn và khu nghỉ mát 5 sao của Novotel, Hilton thì Star Convention Hotel (4 sao) là xịn nhất ở Rayong.
Hiện nay, thành phố Rayong, thủ phủ của tỉnh Rayong, nhìn ra vịnh Thái Lan, được xem là một trong những thành phố kỹ nghệ phát triển nhất ở vùng Đông Nam Á, với xưởng ráp xe hơi của hãng Ford có trên 2000 công nhân, với những nhà máy hóa chất hiện đại, nhưng vào thời gian tôi tới Rayong, Thái Lan cùng với một số nước Á Châu khác đang bị kiệt quệ sau Cuộc đại khủng hoảng tài chánh năm 1997 (1997 Asian financial crisis), kỹ nghệ du lịch cũng bị ảnh hưởng nặng nề cho nên giá mướn phòng ở Star Hotel được hạ xuống tới mức thấp nhất để cố gắng duy trì hoạt động, nhờ vậy ông Ân mới dám mướn phòng tại đây.
Vì ở các tầng trên, mỗi phòng chỉ có một giường đôi hoặc hai giường chiếc nên ông Ân với ông Tửng ở một phòng, tôi ở một phòng. Nhận phòng xong, nghỉ ngơi một lát ông Ân rủ ông Tửng và tôi xuống chợ Rayong kiếm cái gì bỏ bụng.
Xin có đôi dòng tả cảnh thành phố Rayong. Nếu so sánh Bangkok với Sài Gòn trước 1975 thì Rayong là Cần Thơ, tức là nhỏ hơn, đỡ xô bồ hơn nhưng cũng có những sinh hoạt phố thị, cơ sở thương mại, phương tiện giải trí, hàng quán, v.v...
Khách sạn Star Hotel nằm ở trung tâm thành phố, cách chợ Rayong khoảng 200, 300 mét. Nằm giữa khách sạn và chợ là khu bán những thức ăn chơi (street food) bên cạnh một sân khấu lộ thiên vào cuối tuần hay ngày lễ có nhạc sống “free”, có những băng ghế để khán giả vừa lai rai vừa thưởng thức văn nghệ.
Khi đi bộ từ khách sạn ra chợ, tôi để ý thấy ông Ân đi hơi cà nhắc thì cứ tưởng ông mới bị đau chân nhưng không dám hỏi; mãi sau này đọc bài “Ngành Quan Sát trong KLVNCH” của anh Võ Ý mới biết trước 1975 ông đã có nickname Ân “què”.
Còn ông Tửng thì bước đi khá chậm, có lẽ vì tuổi già sức yếu.
Chợ Rayong là một cái nhà lồng lớn, rất sạch sẽ thoáng mát. Điểm đáng chú ý đầu tiên là tới phân nửa diện tích được dành cho các quầy bán thức ăn nấu sẵn mà đa số khách hàng mua mang về nhà để ăn. Những quầy này bán đủ mọi thứ đồ kho, đồ xào, các loại canh chua, cà-ri..., các cặp vợ chồng đi làm về chỉ cần ghé qua mua là có một bữa cơm chiều thịnh soạn.
Cũng có một số quầy bán thêm các món ăn tại chỗ như cơm đĩa, mì, hủ tiếu... có mấy cái bàn gần đó cho khách ngồi.
Về giải khát thì có bia Singha của Thái Lan, Tiger của Singapore, Tsingtao của Trung Cộng mà tôi đã được thưởng thức ở Úc. Bia tây phương cũng có nhiều nhưng đặc biệt đi tới đâu cũng thấy quảng cáo Heineken của Hòa Lan, hầu hết mọi tấm bạt, dù che bên ngoài các hàng quán đều quảng cáo cho hiệu bia này!
Sau khi ăn trưa, ông Ân rủ chúng tôi đi một vòng quanh chợ cho biết phố Rayong rồi trở về trước sân khấu lộ thiên ngồi trò truyện, ngắm người qua lại.
Thời gian ba anh em chúng tôi ở Rayong, đầu năm 2003, người dân Thái Lan vừa kết thúc các hoạt động mừng sinh nhật Quốc vương Bhumibol Adulyadej (1927-2016) kéo dài một tháng trời. Khi chúng tôi tới Rayong, tại các địa điểm, ngã tư quan trọng quan trọng trong thành phố, trong đó có ngã tư trước Star Hotel vẫn còn các bàn thờ với tấm hình thật lớn của ông với đủ các loại hoa lan.
Ông Ân cho chúng tôi biết người dân Thái Lan họ tôn sùng, kính trọng hoàng gia của họ còn hơn “Sãi cả”, tức vị sư cao cấp nhất của Phật giáo Thái Lan. Ông Tửng thì có vẻ hiểu biết nhiều về hoàng gia Thái, từ Quốc vương Bhumibol, Hoàng hậu Sirikit tới các hoàng tử, công chúa...
Nghe ông Tửng nhắc tới hoàng gia Thái Lan, tôi bỗng nhớ lại 55 trước, thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, ngày còn học lớp Nhất ở trường tiểu học giáo xứ Bùi Phát, Phú Nhuận, cả lớp được xe buýt chở sang đường Công Lý đứng vẫy cờ chào đón Quốc vương Bhumibol và Hoàng hậu Sirikit công du VNCH.

Sau đó tôi cũng quên luôn ông vua Thái nhưng tên bà hoàng hậu Sirikit tôi vẫn nhớ mãi, không phải vì tôi là người ái mộ bà mà chỉ vì sau này tôi được sếp cũ là Thiếu tá (sau lên Trung tá) Lê Bá Định cho một gốc lan trắng trong số bốn, năm giống lan mang tên bà hoàng hậu.
Nguyên vào đầu năm 1971, sau khi phi đoàn khu trục 530 được thành lập tại Pleiku, ông Định đưa một toán hoa tiêu sang phi trường Nakhon Phanom, Thái Lan, để nhận phi cơ A-1 Skyraider của Phi Đoàn Đặc Nhiệm 602 (602nd Special Operations Squadron) của Không Lực Hoa Kỳ vừa bị giải thể cuối năm 1970.
Khi ra phố Nakhon Phanom ông Định mua một lố khăn phu-la bằng lụa Thái mang về làm quà cho mọi người đồng thời mua mấy gốc “lan Sirikit” đựng trong các chậu sành nhỏ và tôi được ông ưu ái cho một chậu.
Tôi đem về treo dưới hiên nhà nhưng đợi hoài mà không thấy gốc lan ra bông hoặc đẻ nhánh, cuối cùng nó chết khô. Ông Định chê tôi không biết cách “chơi lan” nhưng cuối cùng mấy gốc “Hoàng hậu Sirikit” của ông cũng chết khô theo.
Ông quăng mấy cái chậu sành đựng lan vào góc vườn, vợ ông chọc quê gọi là “lan... lịch kịch”!
* * *
Xế chiều, trước khi về khách sạn, ông Tửng nói ông Ân ra đứng trước bàn thờ Quốc vương Thái Lan để tôi chụp cho hai ông mấy pô làm kỷ niệm. Sau đó ông Ân mua một ít heo quay và mấy ổ bánh mì mang về để làm bữa tối. Dĩ nhiên, khách sạn có cafeteria và restaurant nhưng chúng tôi đâu dám héo lánh tới vì muốn tiết kiệm tiền bạc tối đa.
Cũng xin viết về việc “ăn đồng chia đều” giữa ba anh em. Ngay trên đường từ Bangkok đi Rayong, sau khi được biết tôi mang theo 1000 đô-la Úc dằn túi cộng thêm 1000 của Hội Không Quân Victoria đưa để chi tiêu (cho “công vụ”), ông Ân đã đề nghị như sau: chỉ có ba anh em ở chung với nhau mà chia ra hai “phe” ăn xài riêng thì không giống ai, vì thế tất cả mọi chi phí từ tiền phòng cho tới ăn uống, di chuyển... sẽ cộng lại rồi chia ba, và ông trao cho tôi nhiệm vụ ghi chép, lưu giữ mọi khoản chi tiêu.
Về tới khách sạn, ăn tối xong trò chuyện một hồi, thấy ông Ân ông Tửng tìm về quá khứ, cùng nhau hồi tưởng bao chuyện xưa tích cũ trong quân chủng; để hai đàn anh được tự nhiên, tôi bỏ về phòng mình xem ti-vi.
Nhưng chỉ mấy phút sau ông Tửng sang gõ cửa. Ông không bước vào phòng, chỉ nhìn thẳng vào mặt tôi, nghiêm giọng:
- Thiện mày nghe tao nói nè, mình sang đây là để thăm LT và dự các phiên tòa chứ không phải đi du lịch, dứt khoát không có cái vụ mát-xa gái ghiếc nghen! Mày muốn... cái gì thì đợi về Bangkok!
Nghe ông Tửng nói thế tôi vừa ngạc nghiên vừa không vui (vì bị dạy mo-ran), đáp ngay:
- Anh Tửng đừng lo, em không ham mấy mục đó đâu!
- Thì tao cứ dặn phòng hờ vậy cho chắc ăn. Mày phải biết tụi nó (Việt Cộng) cố tìm mọi cách để phá mình, đừng có làm gì để bị bể nghen!
Ông Tửng về phòng rồi tôi mớt chợt nhớ lại hồi trưa khi mới tới khách sạn, trong khi ông Ân làm thủ tục chek-in, tôi đã quay sang chiêm ngưỡng mấy cô gái trẻ đẹp sexy ngồi tán dóc với nhau ở gần đó. Nhìn cách ăn mặc hở hang và dáng điệu khiêu khích của các cô, một người kém thông minh tới đâu cũng dư biết họ thuộc thành phần nào!
Thật tình mà nói, lúc đó tôi ngắm các cô vì tò mò hơn là để “rửa mắt” nhưng có lẽ ông Tửng không nghĩ như thế mà cho là tôi có ý đồ đen tối cho nên giờ này mới sang phòng tôi để răn đe!
Những gì xảy ra sau đó cho thấy ông Tửng đoán việc... như thần: khoảng 9 giờ đêm, một nhân viên (nam lao công) của khách sạn lên gõ cửa phòng, hỏi có muốn gái mát-xa không!
Dĩ nhiên tôi lịch sự từ chối!
* * *
Ngày hôm sau, ông Ân đưa tôi đi ăn chiều với vị luật sư Thái Lan (tôi không nhớ tên) mà ông đã liên lạc trong chuyến đi trước để bàn thảo về phiên tòa xử LT sẽ diễn ra vào ngày mai. Ông Tửng vì bận “việc riêng” không có mặt (sau này tôi mới biết việc gì).
Ông Ân chọn một nhà hàng gần bờ biển tương đối bình dân nhưng yên tĩnh với những cái bàn dưới bóng dừa, rất thích hợp cho một buổi nói chuyện như thế.
Bờ biển ở đây khá đặc biệt, bến đậu của tàu đánh cá thay vì ở ngoài bờ lại là trong một con rạch lớn nằm phía trong, ăn thông với bờ biển. Con rạch được đào khá sâu để những chiếc tàu đánh cá tương đối lớn có thể cập sát bờ, thuận tiện cho việc vận chuyển hải sản lên bờ.
Nhà hàng mà ông Ân chọn nằm trên khoảng đất giữa bờ biển và con rạch, vừa có thể ngắm biển vừa quan sát sinh hoạt của tàu thuyền (sau này tìm hiểu tôi được biết tỉnh Rayong là trung tâm sản xuất nước mắm của Thái Lan).
Những tàu đánh cá ở đây đều là tàu gỗ nhưng khá lớn, có khi dài tới 20 mét, với đặc điểm được sơn màu sắc rực rỡ rất vui mắt...

Vì ông luật sư bận việc bất ngờ, tới trễ nên trong lúc chờ đợi, hai anh em vừa lai rai vừa trò chuyện – đủ thứ chuyện. Bỗng ông Ân nói:
- Nhìn mấy cái tàu này anh nhớ công ty đánh cá của anh quá Thiện ơi!
Nghe ông nói tôi rất ngạc nhiên vì trước đó qua nghe anh Phạm Công Khanh kể tôi chỉ biết ông Ân từng làm chủ siêu thị...
Đôi mắt xa xăm như thả hồn về quá khứ, ông Ân bắt đầu kể chuyện. Ngay lúc đó tôi không hiểu tại sao ông Ân lại trút hết bầu tâm sự với một đàn em Không Quân mới gặp hơn một ngày; và sau này tôi cũng chỉ có thể giải thích vì hai anh em chúng tôi “hạp nhau”!
Tôn trọng người đã khuất - ông Võ Văn Ân, ông Nguyễn Cao Kỳ - lẫn người còn sống - và bà Nicole Kim, người lần lượt làm vợ hai ông – tôi chỉ xin rất vắn tắt những gì ông Ân kể liên quan tới công ty tàu đánh cá của ông mà thôi.
Tàu đánh cá nói tới ở đây là tàu sắt lớn (thuê của công ty Mỹ) chuyên đánh bắt tuna tận ngoài khơi, loại cá lớn để làm các loại thực phẩm chứ không phải để làm nước mắm như cá ở Rayong.
Công ty có sự hùn hạp của ông Nguyễn Cao Kỳ. Điều đáng tiếc là doanh nghiệp ngày càng phát triển thì quan hệ tình cảm giữa ông Kỳ và bà Kim càng thắm thiết. Cuối cùng bà Kim đề nghị chia tay chồng, ông Ân đồng ý.
Tôi vẫn còn nhớ nguyên văn câu nói của ông Ân:
- Anh không oán trách ông Kỳ, anh cũng chẳng oán trách bà Kim. Mình là đàn ông mà không giữ được vợ là mình dở, là lỗi tại mình. Anh chỉ tiếc một điều là vì việc này mà anh phải giải tán công ty (để chấm dứt mọi quan hệ giữa ông với ông Kỳ và bà Kim).

Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Cao Kỳ, bà Nicole Kim, và LT (đánh dấu chữ X). Không có ghi chú về
thời điểm nhưng chắc chắn phải là trước khi LT về VN thả truyền đơn lần thứ nhất (1992)
Rất có thể một số độc giả cho rằng ông Ân nói với tôi như thế để ra vẻ mình là một người cao thượng, nhưng riêng tôi hân hạnh được ông coi như một người em cho tới những ngày cuối đời, tôi hiểu ông và tin ông nói thật lòng.
* * *
Buổi gặp gỡ giữa vị luật sư Thái Lan và ông Ân diễn ra rất tốt đẹp, phần tôi chỉ ngồi nghe.
Ông luật sư có những nét lai Ấn-độ nhưng nói tiếng Anh rất dễ nghe (chứ không chói tai như nhân vật Apu trong phim tập hoạt họa The Simpsons). Ông cho biết ông nhận lời ông Ân chỉ vì qua theo dõi vụ án ông rất cảm phục LT, thù lao đối với ông chỉ là chuyện phụ.
Cái khó khăn là làm sao trong phiên tòa ngày mai LT đồng ý để ông đại diện, có như thế các phiên sơ thẩm sắp tới mới có thể diễn ra như nhà cầm quyền Thái Lan mong muốn, và khi ấy việc dẫn độ LT Việt Nam để xét xử theo yêu cầu của nhà cầm CSVN sẽ bị tạm dẹp sang một bên.
Qua ngày hôm sau, theo thông báo thì 10 giờ sáng tòa bắt đầu xử nhưng mới 7 giờ ông Ân đã hối ông Tửng và tôi đi bộ ra chợ ăn sáng rồi kêu xe tuk tuk tới tòa, cách đó khoảng 2, 3 km.
Khoảng 9 giờ, phái đoàn người Việt từ Hoa Kỳ gần 20 người đã tề tựu đông đủ dưới cái mái ở bên phải sân trước tòa án, nơi giới truyền thông, thân nhân, dân chúng có thể ngồi chờ trên những băng ghế.
Như đã viết, phái đoàn người Việt từ Hoa Kỳ sang Rayong lần này, theo lời ông Ân, đông chưa từng thấy, không chỉ vì đây là phiên dự thẩm cuối cùng mà còn vì sự lo ngại biết đâu trước sự “ương ngạnh” của LT, nhà chức trách Thái Lan sẽ cho dẫn độ anh về Việt Nam theo yêu cầu của chế độ cộng sản Hà Nội, thì đây sẽ là chuyến thăm viếng sau cùng để... tiễn chân!
Về phía truyền thông, tôi không để ý từ Mỹ có những ai, chỉ biết có cô Thanh Trúc của đài phát thanh Á Châu Tự Do (RFA) từng sang Rayong nhiều lần, và mấy nhà báo Thái Lan của hai tờ Anh ngữ The Bangkok Post và The Nation tới từ Bangkok.
Trong lúc chờ đợi, chúng tôi chụp hình kỷ niệm và trò truyện, qua đó tôi được biết quỹ yểm trợ LT ở Hoa Kỳ lên tới cả trăm ngàn đô-la cho nên trong việc mướn luật sư tư biện hộ cho LT tiền bạc không thành vấn đề mà điều quan trọng là LT có chấp nhận vị luật sư hay không!
Gần 10 giờ, LT được chở tới tòa bằng một chiếc xe bít bùng cùng với vài phạm nhân hình sự khác. Tất cả mặc quần áo tù hình sự gồm cái áo ngắn tay không cổ và cái quần đùi dài tới đầu gối màu nâu đỏ, hai chân bị xiềng với nhau bằng một sợi xích khá lớn.
LT và các phạm nhân được đưa vào khu nhà tạm giam phía sau tòa án, riêng LT có cảnh sát hộ tống hai bên nên không ai có thể tới gần, chỉ đứng cách xa mấy mét vẫy chào, gọi tên LT và anh tươi cười đưa tay lên chào lại.
So với ngày sang thăm Úc trước đó hơn ba năm, LT gầy và già đi thấy rõ. Khi tôi gọi tên anh, anh quay sang nhìn tôi và nói “Khỏe không?”, không hiểu vì anh nhận ra tôi hay chỉ là câu chào hỏi chung chung?
Sau khi tất cả phạm nhân được đưa vào khu tạm giam, mọi người mới được vào phòng xử; phòng xử TL nằm ở phần trước tòa nhà, khá rộng rãi. Mặc dù có lệnh tuyệt đối cấm thu băng, chụp hình, tôi vẫn ngồi ở một ghế sát lối đi để tìm cơ hội chụp hình.
Kết quả, khi LT từ cuối phòng xử đi lên, với cái máy ảnh bỏ túi dấu phía trong vạt áo veston, tôi đã lén chụp được một tấm hình từ phía sau. Dù chỉ là chụp phóng chừng, tôi cũng may mắn lấy được trọn vẹn đôi chân bị xiềng của LT với hậu cảnh là cái bục của tòa án, quan tòa, hình vua Thái Lan trên tường... cho biết đây là một tấm hình chụp trong tòa bất chấp lệnh cấm của tòa (rất tiếc tấm hình này sau khi đăng báo, nhân viên tòa soạn đã để thất lạc).
Diễn tiến phiên tòa được tôi lén thu băng bằng cái máy micro-cassette dấu trong túi áo sơ-mi.
* * *
Phiên tòa diễn ra khá sôi nổi nhưng cũng không có gì hấp dẫn. Sôi nổi bởi vì “bị cáo” (LT) không chỉ nói dài nói dai mà có khi còn ngắt lời quan tòa, cướp lời luật sư biện hộ, khiến anh bị quan tòa cảnh cáo nhiều lần. Không có gì hấp dẫn vì LT cứ lập đi lập lại mình là một nhà tranh đấu cho nhân quyền cho nên đây không phải là một vụ án hình sự mà là vụ án chính trị, xét xử một chiến sĩ nhân quyền!
LT cũng lập lại yêu cầu phải cho viên phi công Thira ra tòa đối chất với mình, bởi anh khẳng định anh chỉ thuyết phục, mua chuộc Thira bay sang không phận Việt Nam chứ không đe dọa tính mạng. Khi quan tòa trả lời viên phi công này sẽ chỉ ra tòa sơ thẩm, tức là các phiên tòa xét xử TL về ba tội danh cáo buộc, anh đã cực lực phản đối và bị quan tòa ra lệnh ngồi xuống!
Cứ mỗi lần LT ngắt lời quan tòa, ở dưới này ông Ân ngồi cạnh tôi lại than trời!
Phải là một người khách quan hiện diện tại tòa mới thấy được thái độ ngạo mạn của LT. Anh mang theo một tập hồ sơ rất dày, vừa nói vừa trưng ra những điều được ghi trong Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền hoặc Công pháp quốc tế, v.v..., ý muốn nói quan tòa... dốt!
Tới giờ giải lao 15 phút, LT được phép xuống phía dưới thảo luận, trao đổi với chúng tôi và luật sư biện hộ. Nói là thảo luận, trao đổi nhưng trên thực tế ông Ân khuyên cái gì, luật sư nói điều gì LT cũng bác bỏ.
Có lúc anh còn lớn tiếng với “Sư phụ” khiến ông Tửng phải xen vào, nói “LT, em không được vô lễ với anh Ân như thế”. Luật sư khuyên tới khuyên lui, LT đốp chát “You know nothing” khiến ba người chúng tôi phải lắc đầu!
Gần hết giờ giải lao, LT có vẻ hòa hoãn hơn, anh đưa cho ông Ân một xấp giấy khoảng 10 tờ vừa chữ in vừa viết tay (của LT) nhờ ông ra tiệm photocopy để trao cho luật sự biện hộ, và tôi đã tình nguyện làm công việc này vì ông Ân cần ở lại trong tòa để theo dõi diễn tiến.
Ông Ân từng tới tòa án Rayong nhiều lần, chỉ cho tôi tiệm photocopy cách tòa khoảng 500 mét. Khi tôi trở về cảnh sát không cho vào tòa, phải ngồi chờ ở phía ngoài.
Phiên xử kết thúc khoảng 1 giờ trưa. LT được đưa trở lại khu nhà tạm giam. Tại đây các phạm nhân được phép ra sân trò chuyện với thân nhân qua một hàng rào lưới thép trong thời gian 30 phút. Trước khi cô Thanh Trúc phỏng vấn LT, tôi yêu cầu anh nói đôi lời chào hỏi đồng hương ở Úc và cám ơn sự hỗ trợ tinh thần cũng như vật chất, để tôi gửi về Úc cho kịp buổi phát thanh lúc 7 giờ tối của SBS Radio...
* * *
Trở về khách sạn tôi lấy cái laptop ra cặm cụi đánh báo cáo. Tôi “mổ cò” tới chiều mới xong, ông Ân đưa tôi và ông Tửng xuống phố tìm một tiệm Internet để gửi báo cáo đi các nơi.
Xong công tác, ba anh em đi vòng vòng để tìm mua cái đồ khui rượu vang (wine opener) để khui chai vang đỏ ba anh em sẽ uống tối nay, vì ngày ấy hầu hết các chai rượu vang ngon vẫn sử dụng nút bần (cork) chứ chưa sử dụng nút vặn (screw cap) như hiện nay. Đây là một trong hai chai vang đỏ Bordeaux ông Tửng mang từ Pháp sang.
Đi hết một dãy phố mà vẫn không tìm ra được một tiệm nào bán đồ khui rượu, hỏi họ có biết chỗ nào bán không họ cũng lắc đầu. Ông Tửng bực mình:
-ĐM, chắc dân Thái Lan không biết uống rượu vang cho nên mới không bán đồ khui... Tao bảo đảm với tụi mày hồi nãy mình hỏi mua cái đồ khui tụi nó cũng không hiểu mình hỏi cái gì!
Cũng xin mở ngoặc để nói về thói quen “xổ tiếng Đan Mạch” của ông Tửng. Trước năm 1975, cứ theo lời đồn trong Không Quân, vị chỉ huy “xổ tiếng Đan Mạch” nhiều nhất không ai khác hơn là Trung tướng Tư lệnh Trần Văn Minh, tới mức trong KQ người ta đặt cho ông nickname Minh “đù”; còn bên ngoài quân chủng, ông được gọi một cách lịch sự là Minh “đen” để phân biệt với Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Quân Đoàn III là Minh “đờn”, Trung tướng Trần Văn Minh (Lục quân) là Minh “nhỏ”, và Trung tướng Dương Văn Minh là Minh “lớn” (người Mỹ gọi là “big” Minh).
Trước năm 1975, tôi không phục vụ tại BTL/KQ nên không biết trên thực tế vị Tư lệnh sau cùng của quân chủng “xổ tiếng Đan Mạch” thường xuyên tới mức nào nhưng sau hai ngày gặp ông Tửng, tôi cho rằng cũng chỉ bằng vị niên trưởng này là cùng!
Tôi nói:
- Khỏi tốn công tìm nữa hai anh. Em có cách mở rượu vang không cần đồ khui.
Ông Tửng nghi ngở:
- Thiệt không mày?
- Dạ, em bảo đảm mà!
Rồi ba anh em đi về khách sạn; về tới khu bán thức ăn chơi (bên cạnh một sân khấu lộ thiên) ông Ân dắt tôi và ông Tửng vào để mua “mồi”. Tới một quầy bán đồ chiên, tôi và ông Tửng hết sức ngạc nhiên khi thấy cô bán hàng vừa nói tiếng Thái tíu tít vừa tươi cười săn đón, mời mọc ông Ân, và ông cũng đáp lại bằng tiếng Thái.
Công tâm nhận xét, cô bán hàng cũng không còn trẻ mà phải trên dưới 40. Cô khá đẹp, làn da trắng muốt chứ không rám nắng như đa số đàn bà con gái Thái cho nên tôi nghi tổ tiên của là người Hoa hoặc lai Trung Hoa.
Điều đáng nói cô ta không chỉ tươi cười săn đón ông Ân như một khách hàng bình thường mà trong ánh mắt nụ cười của cô còn có cái gì đó rất khó diễn tả.
Quan sát các món chiên, ông Tửng chấm ngay món đuông chiên vàng béo ngậy mà tôi không biết là loại đuông gì. Ông Ân mua một chén (bỏ vào bịch ni-lông), ông Tửng nói mua thêm chén nữa; tôi thì chỉ thích thịt nên mua mấy miếng gà chiên.
Vừa về tới khách sạn, ông Tửng lấy ngay chai rượu ra nói:
- Đâu mày mở biểu diễn cho tao coi!
Lúc đó tôi chưa biết cách mở rượu vang bằng cách lấy đế giày dộng vào đít chai mà chỉ biết sử dụng đầu lớn của đôi đũa đẩy cái nút chai lọt vào bên trong chai, trông không thẩm mỹ một chút nào cả. Dù vậy ông Tửng cũng phục sát đất:
- ĐM, thằng nhỏ Bắc kỳ này sao cái gì nó cũng biết vậy ta!
Từ lúc tới Rayong, đây là bữa ăn thoải mái đầu tiên của chúng tôi, đầu óc không còn bị căng thẳng vì những việc liên quan tới LT, cho nên ba anh em vừa ăn uống vừa nói chuyện vui vẻ. Tôi có cái tật thích chọc ghẹo người khác, thấy ông Tửng ưa cằn nhằn tôi càng thích chọc:
- Anh Tửng, hôm qua đánh báo cáo gửi đi em có một thắc mắc mà chưa kịp hỏi anh: xưa nay dân Nam kỳ kỵ húy chúa Nguyễn Phúc nên chữ “Phúc” được viết thành “Phước”, vậy tại sao tên anh không phải Nguyễn Phước Tửng mà lại là Nguyễn Phúc Tửng?
Ông Ân nghe tôi nói có lý quá cũng phụ họa:
- Ờ ngộ hén, phải là Nguyễn Phước Tửng chớ!
Ông Tửng bị bí, tức mình cãi cối:
- Nhưng ông già tao thích đặt tên cho tao là Nguyễn Phúc Tửng tụi mày tính sao đây!
Cứ như thế ba anh em vừa ăn uống vừa tán dóc; riêng hai chén đuông chiên, gần như ông Tửng thầu hết...
Sáng hôm sau tôi quần áo chỉnh tề sang phòng hai đàn anh để chuẩn bị đi nhà tù Rayong thăm LT như đã hẹn trước với phái đoàn người Việt từ Hoa Kỳ thì thấy ông Tửng vẫn ngồi trên giường, mặt mũi bơ phờ.
Thì ra đêm hôm qua đàn anh bị Tào Tháo rượt suốt đêm vì đã một mình xơi tới nửa ký đuông chiên!
Báo hại ông Ân phải điện thọai xin lỗi phái đoàn và hướng dẫn họ thủ tục thăm tù trước khi lội bộ xuống phố Rayong tìm mua thuốc trụ sinh cho ông Tửng. Cũng may mà các nhà thuốc tây ở Rayong cũng bán thuốc thoải mái như ở Việt Nam trước năm 1975, nghĩa là không cần phải có toa bác sĩ.
Sau khi uống thuốc, tới khoảng 11 giờ, ông Tửng cho biết mình đã cảm thấy khỏe và nhất định đòi đi thăm LT, hy vọng phái đoàn người Việt còn ở đó.
Khuyên can không được, ông Ân đành đưa chúng tôi xuống phố kêu tuk tuk đi vào nhà tù Rayong.
Tới nơi chẳng những không gặp đoàn người Việt (đã ra về) mà còn không được gặp LT vì nhân viên nhà giam viện lý do hết giờ thăm mặc dù lúc đó mới hơn 12 giờ trưa. Sau này chúng tôi được biết vì LT gây sự với đám cai ngục nên mới sinh chuyện.
Đợi cả nửa tiếng đồng hồ không có tuk tuk, chúng tôi đành phải đi xe ôm. Như đã viết ở trên, tài xế taxi, tuk tuk, xe ôm ở Thái Lan hầu như ai cũng chạy quá tốc độ ấn định, ông Tửng lại ngồi xe của một tay thích... lạng cho nên về tới chợ Rayong mặt ông không còn một hột máu, phải ngồi nghỉ ở một băng ghế để hoàn hồn!
Sợ tôi lại chọc đàn anh của mình, ông Ân kéo tôi ra xa nói nhỏ, giải thích sở dĩ ông Tửng yếu như thế là vì mới mổ tiền liệt tuyến được hơn hai tuần. Nghe vậy tôi càng thêm kính mến vị niên trưởng thuộc hàng khai quốc công thần của quân chủng!
Sau khi ông Tửng nghỉ mệt một hồi, chúng tôi đi vòng vòng chợ Rayong. Tới trước một cửa hàng bán sỉ sầu riêng, từng đống xếp cao mấy mét, ông Tửng dừng lại, nói:
- Chà sầu riêng đã quá, vô hỏi xem họ có bán lẻ mua mấy trái về khách sạn ăn, Ân!
Ông Ân đáp:
- Tui sợ khách sạn không cho đem vô đâu!
Thấy mặt ông Tửng tiu nghỉu, ông Ân nói:
- Để tui hỏi mấy bả bán cho mình mấy trái ăn tại chỗ được không.
Nói xong ông Ân bước vào cửa hàng vừa lấy tay ra dấu vừa bập bẹ tiếng Thái, hai phụ nữ bán hàng ra vẻ rất hiếu khách, vui vẻ gật dầu, ông Ân liền vẫy tay gọi chúng tôi vào. Dĩ nhiên, tôi từ chối!
Có thể nói tôi là một trong những tay Bắc kỳ 54 bị “Nam kỳ hóa” hơn ai hết (do những năm tháng sống ở Tha La xóm đạo, Trảng Bàng, Tây Ninh hồi mới vô Nam) nhưng lại không biết ăn, thậm chí không chịu nổi mùi sầu riêng!
Vì thế tôi phải bỏ đi chơi vòng vòng khoảng nửa tiếng đồng để hai đàn anh Nam kỳ ăn sầu riêng cho thỏa thích. Ăn xong, ông Tửng ra vẻ đã lấy lại phong độ, không chịu về khách sạn mà nói ông Ân đi tới khu bán thức ăn chơi (mà tối hôm qua chúng tôi đã mua đuông chiên) tìm hiểu thêm về những món ăn đặc biệt của Thái Lan, nhân tiện mua thức ăn cho bữa trưa, bữa chiều.
Các bà bán hàng tại đây hình như ai cũng biết ông Ân và tỏ ra rất có cảm tình, vồn vã. Thấy bữa nay có thêm hai người nữa, họ hỏi tới hỏi lui, dù ngôn ngữ bất đồng chúng tôi cũng hiểu mấy bả hỏi tụi tôi là người nước nào?
Ông Ân nói mấy bả thử đoán xem thì họ đoán ông là người Nhật, ông Tửng là người Tàu, còn tôi đen đủi xí trai lại để ria mép nên họ nói tôi là người Indonesia. Buồn 5 phút!
Sau khi đi một vòng và mua thức ăn, trên đường trở về khách sạn, đi ngang quầy bán đồ chiên mà hôm trước chúng tôi mua đuông, cô bán hàng vừa thấy chúng tôi là vồn vã chỉ vào khay đuông chiên mời mọc. Ông Ân lắc đầu quầy quậy, tay chỉ vào những túi thức ăn chúng tôi đã mua nhưng người đẹp vẫn tặng “free” cho chúng một hai món đồ chiên khác.
Đi được một quãng, ông Tửng nói với ông Ân, tôi biết là nói đùa nhưng nghe cũng rất... ấm lòng:
-Ê Ân, coi bộ chị nhỏ đó mết mày dữ à, mà tao thấy coi cũng được quá đi chớ, hay là mày ở lại Rayong luôn cho rồi!
Ông Ân chỉ cười.
(Còn tiếp)
- Details
- Category: Tài Liệu KQ
- Hits: 501
“Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”
(tiếp theo)
* “Sư phụ” VÕ VĂN ÂN và Niên trưởng NGUYỄN PHÚC TỬNG
- Details
- Category: Tài Liệu KQ
- Hits: 657
Read more: BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 3) - Nguyễn Hữu Thiện
Hẳn anh Hiệp Sĩ còn nhớ ?
""Một thời xé gió , đạp mây !
Giờ đây Hiệp Sĩ múa... cây đập ruồi !..."
Tôi cũng ngồi buồn lục lại bài viết khá lâu có liên quan với anh ,post lại cho chư huynh đọc vui
Dưới đây là trích đoạn "Ông Tướng… Nuôi Gà!"
Nghịch_Nhĩ.
- Details
- Category: Tài Liệu KQ
- Hits: 472
BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 3)
Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện

“Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”
(tiếp theo)
* Đại tá Vũ Thượng Văn – văn võ song toàn
Trong năm 2001, anh em Không Quân ở tiểu bang Victoria được hân hạnh đón tiếp cựu Đại tá Vũ Thượng Văn (VTV), nguyên Tham mưu phó Kế Hoạch & Chương Trình, BTL/KQ, từ Pháp sang thăm Úc.
Trước năm 1975, tôi chỉ được nghe tên tuổi NT VTV qua lời kể của ông Lê Bá Định khi ông đang giữ chức Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật, đồn trú tại phi trường Cù Hanh, Pleiku.
Nguyên từ khi được thành lập vào cuối năm 1970, Không Đoàn 72 Chiến Thuật (cùng với Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku) tạm thời trực thuộc Sư Đoàn 2 KQ ở Nha Trang trong lúc chờ Sư Đoàn 6 KQ được thành lập tại Pleiku.
Tới khoảng đầu năm 1972, Trung tá Lê Bá Định (nguyên là Trưởng Khối CTCT Pleiku mà tôi là một nhân viên dưới quyền) bật mí cho tôi biết Đại tá VTV sẽ ra Pleiku làm Sư đoàn trưởng SĐ6KQ.
Theo lời ông Định, Đại tá VTV xuất thân Trưởng Võ Bị Không Quân Pháp Salon-de-Provence, là một trong những phi công phản lực đầu tiên của KQVN (học ở bên Pháp), từng nắm giữ những chức vụ quan trọng tại BTL/KQ; là một người văn võ song toàn, ông rất xứng đáng giữ chức vụ Sư đoàn trưởng Sư Đoàn cuối cùng của KQVN.
Xưa nay ông Lê Bá Định ít khi khen ai cho nên khi thấy ông hết lời ca tụng Đại tá VTV, tôi tin rằng ông VTV phải tài giỏi hơn người.
Tiếc thay, việc đó đã không xảy ra. Cuối năm 1972, Đại tá Phạm Ngọc Sang ra Pleiku nhận chức Sư đoàn trưởng SĐ6KQ (để rồi được vinh thăng Chuẩn tướng vào đầu tháng 4/1974).
Người thất vọng nhiều nhất trước việc bổ nhiệm này phải là ông Lê Bá Định.
Là một sĩ quan cấp úy, tôi không đủ tư cách nhận xét, đánh giá, phê bình các vị niên trưởng cho nên chỉ có thể viết có lẽ ông Lê Bá Định và ông Phạm Ngọc Sang “khắc tuổi” nhau, đưa tới việc vào một ngày không mấy đẹp trời nọ (thật ra ở Pleiku có ngày nào trời đẹp!), ông Lê Bá Định bị “dzăng” khỏi chức Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật, Trung tá Lê Văn Bút, nguyên Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 229 Lạc Long lên thay.
Sau này tôi được nghe nhiều nguồn tin khác nhau về nguyên nhân khiến ngày ấy Đại tá VTV không ra Pleiku làm Sư đoàn trưởng, chức vụ chắc chắn sẽ giúp ông lên tướng. Người thì nói ông VTV không muốn nhận trọng trách ở vùng Cao Nguyên, nơi tình hình chiến sự luôn luôn sôi động trong suốt cuộc chiến; người thì nói vì ông VTV giỏi về tham mưu, vào giờ phút chót Đại tá (sau lên Chuẩn tướng) Võ Dinh, Tham mưu trưởng BTL/KQ, đã can thiệp với Trung tướng Trần Văn Minh giữ ông Tham mưu phó Kế Hoạch & Chương Trình - tức Đại tá VTV - ở lại Tân Sơn Nhất.
* * *
Xét về xuất thân, vai vế trong quân chủng, tay nghề (bay bổng) có thể viết hai ông Phạm Ngọc Sang và VTV ngang cơ: cả hai đều xuất thân Khóa 1 Sĩ quan Trừ Bị, một người ở Thủ Đức một người ở Nam Định, sau khi thuyên chuyển sang Không Quân đều được xuất ngoại theo học tại những trường bay xịn nhất của Pháp.
Ông Phạm Ngọc Sang được gửi đi học Khóa 52F1 tại trường bay căn bản Marrakech (Morocco) cùng với các ông Huỳnh Hữu Hiền, Huỳnh Bá Tính, Phan Phụng Tiên, Đinh Văn Chung, tức là trước các ông Trần Văn Hổ, Nguyễn Cao Kỳ, Trịnh Hảo Tâm học Khóa 52F2.
Sau khi solo (được gắn cánh bay) tại Marrakech, các ông Phạm Ngọc Sang, Huỳnh Hữu Hiền, Phan Phụng Tiên, Đinh Văn Chung, Huỳnh Bá Tính được tuyển đi học lái “phi cơ nhiều động cơ” tại Trường Vận Tải trong CCKQ Avord ở nội địa Pháp.
Theo lời NT Nguyễn Xuân Vinh (cũng dân Vận Tải), ngày ấy chỉ những người tốt nghiệp ưu hạng tại Marrakech mới được tuyển để học lái “phi cơ nhiều động cơ”, tức oanh tạc cơ/vận tải cơ có từ hai động cơ trở lên.
Tại Avord, các khóa sinh được huấn luyện trên vận tải cơ hạng nhẹ MD-312 Flamant; sau khi tốt nghiệp hoặc sẽ được đưa tới trường oanh tạc Blida (ở Algeria) thụ huấn trên phi cơ MD-315 về oanh tạc và tác xạ, hoặc được đưa tới các đơn vị vận tải trang bị phi cơ C-47 Dakota, ngồi ghế phi công phụ ít nhất sáu tháng, sau đó sẽ được tuyển tới trường CIET (viết tắt của tiếng Pháp Centre d’Instruction des Equipages de Transport: Trung tâm Huấn luyện Phi hành đoàn Vận tải) để được thụ huấn trở thành phi công chánh, có khả năng điều khiển phi cơ trong mọi điều kiện thời tiết.

Hai hoa tiêu vận tải đầu tiên của Việt Nam tốt nghiệp trường CIET chính là ông Phạm Ngọc Sang và ông Huỳnh Hữu Hiền.
Trong khi đó ông VTV lại được theo học tại một quân trường danh giá là Trường Võ bị Không Quân Pháp Salon-de-Provence, và cùng với ông Nguyễn Ngọc Loan trở thành hai phi công phản lực đầu tiên của KQVN.
Nguyên sau khi tốt nghiệp Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị (Nam Định), rồi Khóa 2 Hoa Tiêu Quan Sát tại TTHLKQ Nha Trang, ba Thiếu úy Nguyễn Ngọc Loan, VTV, Trần Đình Hòe được tuyển đi du học ở Pháp; hai ông Nguyễn Ngọc Loan, VTV vào Trường Salon-de-Provence còn ông Trần Đình Hòe vào Trường Vận Tải Avord.
Sau giai đoạn tại Salon-de-Provence hai ông Nguyễn Ngọc Loan, VTV được đưa tới Trường Khu Trục tại Meknès (Morocco) để học bay khu trục và phản lực (T-33 của Mỹ, Ouragan của Pháp, Vampire của Anh)..jpg)
[Ngày ấy, sau hai ông Nguyễn Ngọc Loan, VTV còn có các ông Phạm Long Sửu, Trần Duy Kỷ, Nguyễn Quang Tri, Nguyễn Đức Khánh cũng được huấn luyện bay phản lực, vì theo dự trù (vào lúc bấy giờ) KQVN sẽ được Hoa Kỳ viện trợ các chiến đấu cơ phản lực như F-80 Shooting Star, F-86 Super Sabre]
Cũng theo lời Đại tá Nguyễn Quang Tri, sau khi ông Nguyễn Ngọc Loan về nước, ông VTV vẫn tiếp tục ở lại Pháp để học thêm các khóa về chiến thuật, tham mưu..., mãi tới cuối năm 1956 đầu năm 1957 mới về nước, và được ghi nhận là khóa sinh “tốn cơm quốc gia nhiều nhất”, nhập ngũ năm 1951 tới cuối năm 1956 mới... thành tài!
* * *
Về nước, ông VTV chỉ phục vụ một thời gian ngắn tại Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh Sát (tiền thân của Phi Đoàn 514) rồi được đưa về Bộ Tư Lệnh KQ nắm giữ những chức vụ quan trọng.
Đầu năm 1965, khi đang giữ chức Giám đốc Trung Tâm Hành Quân Không Quân (TACC: Tactical Air Control Center), ông VTV đã được xuyên huấn oanh tạc cơ B-57 tại Tân Sơn Nhất, cùng với Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư lệnh KQ, và Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tư lệnh phó.
[Việc xuyên huấn B-57 cho các hoa tiêu VN diễn ra tại CCKQ Clark, Phi-luật-tân, bắt đầu vào tháng 5/1964, với ba khóa sinh đầu tiên là Đại úy Nguyễn Ngọc Biện, Đại úy Nguyễn Văn Tường (Tường mực) và Đại úy Nguyễn Văn Long.
Vì vào thời gian này đã có một đơn vị B-57 của KLHK đồn trú tại Biên Hòa cho nên các ông Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan và VTV đang giữ những chức vụ quan trọng đã được xuyên huấn ngay tại Tân Sơn Nhất]
Chức vụ sau cùng của Đại Tá VTV là Tham Mưu Phó Kế Hoạ̣ch & Chương Trình, BTL/KQ. Trong chức vụ này, cùng với Tham mưu trưởng BTL/KQ là Đại tá (sau lên Chuẩn tướng) Võ Dinh, ông đã ra sức "bảo vệ" ưu tiên của KQVN trong chương trình hiện đại hóa và bành trướng của QLVNCH.
Trước năm 1975, tôi chỉ là một sĩ quan cấp úy lại không phục vụ tại BTL/KQ dĩ nhiên làm sao biết được công việc của Đại Tá VTV nếu như sau này ông không sang thăm Úc và bị... kẹt lại!
Nguyên vào cuối tháng 8 năm 2001, Đại tá VTV cùng phu nhân từ Pháp sang Melbourne thăm thân nhân và (dự trù) ngao du một vòng xứ Úc-đại-lợi. Được tin (qua một niên trưởng trước kia cùng định cư tại Pháp với NT VTV), Hội KQ Victoria đã tổ chức đón tiếp tại tư gia một hội viên.
Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được gặp NT VTV và đã mến phục ông ngay. Ông có dáng dấp thư sinh nho nhã, nói chuyện rất thu hút với một giọng Hà Nội nhỏ nhẹ, lịch sự nhưng không màu mè kiểu cách như nhiều người Hà Nội trung lưu trước 1954 mà tôi được biết.
Thật khó lòng mà tưởng tượng đây là một cựu hoa tiêu khu trục tài ba, từng lái chiến đấu cơ Ouragan, oanh tạc cơ B-57!
Chính vì con người đáng mến nơi NT VTV mà khoảng cách giữa một vị niên trưởng nhập ngũ năm 1951 và các đàn em KQ – “già” nhất là Khóa 64, cấp bậc cao nhất chỉ là đại úy – đã mau chóng thu hẹp trong bữa cơm tối thân mật đón tiếp hai ông bà.
Đáng nhớ nhất là việc NT không tiếc lời khen ngợi sự hiện diện đông đủ và tài nữ công gia chánh của các bà vợ KQ mà ông gọi là các “nàng dâu Không Quân”. Ông nói:
- Ở đâu cũng vậy, phải có các “nàng dâu Không Quân” tham gia thì Hội KQ ở đó mới đông vui, bền vững.
* * *
Riêng tôi, trong không khí thân mật đầy tình huynh đệ chi binh ấy đã không có được nhiều thời gian riêng tư với vị đại niên trưởng mà tôi có ý định... khai thác.
Nguyên vào khoảng thời gian này, cuối tháng 8/2001, Liên Hội Ái Hữu Không Quân Úc Châu sau khi tham khảo ý kiến các vị niên trưởng ở khắp nơi đã quyết định thực hiện quyển Quân Sử Không Quân VNCH, dự trù ra mắt nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập quân chủng, 1/7/2005, và đã gửi thư mời gọi các niên trưởng, chiến hữu KQ cung cấp tư liệu, hình ảnh, và bài viết về đơn vị, ngành nghề của mình.
Thư vừa gửi đi thì NT VTV sang thăm Melbourne, quả là cơ hội bằng vàng. Vì thế sau khi không thể khai thác NT trong bữa cơm thân mật đón tiếp ông, tôi dự định xin phép ông cho tới thăm ông bà một buổi để hỏi ông những chuyện ngày xưa liên quan tới KQVN, trước khi hai ông bà trở về Pháp.
Và trời đã... chiều lòng người: vào ngày 11 tháng 9, 2001 xảy ra cuộc khủng bố kinh hoàng ở Hoa Kỳ, ông bà VTV bị kẹt lại ở Melbourne gần một tháng trời vì những thủ tục xuất nhập cảnh khó khăn tại các quốc gia Âu Mỹ.
Trước việc NT VTV bị kẹt lại, Hội KQ Victoria đã quyết định tổ chức buổi kỳ họp định kỳ đệ III tam cá nguyệt sớm hơn thường lệ để vừa... cúng cô hồn vừa giỗ Trung tướng Trần Văn Minh (qua đời ngày 27/8/1997) và mời NT VTV tới chủ trì.
Buổi họp được tổ chức tại tư gia KQ Nguyễn Ngọc Bảo (PĐ245), Hội phó Nội vụ, rộng rãi thoáng mát, có heo quay, có cả... thầy cúng là Nguyễn Ngọc Bảo phu nhân (trong Ban hộ niệm chùa Hoa Nghiêm ở gần đó)...
Vì đường xá xa xôi, phu nhân của NT VTV không thể tháp tùng chồng, cho nên anh em đã cho người tới đón NT hơi sớm để tôi và anh em trong Ban thực hiện Quân Sử Không Quân có nhiều thời gian trò chuyện với ông.
Trước hết, khi được biết dự định của anh em KQ Úc Châu, ông đã ra sức khuyến khích vì theo ông đây là một công việc vô cùng cần thiết mà trước năm 1975 ở BTL/KQ không ai chịu nghĩ tới!
Thực ra, theo lời NT VTV, trước năm 1975, tại Văn Phòng Tham Mưu Phó Kế Hoạch & Chương Trình BTL/KQ cũng có một Tiểu Ban Quân Sử nhưng không được mọi người quan tâm tới. Có lần Tiểu Ban này thỉnh cầu ngân khoản để mua một cái máy chụp hình thì bị bác với lý do “không có trong bảng cấp số”!
Về tài liệu để biên soạn quyển QSKQ, theo ông hiện nay trên Internet có khá nhiều bài viết công phu của cá nhân hay tập thể cựu quân nhân KQ tuy nhiên lại có những mâu thuẫn, do nguồn tài liệu tham khảo cũng như do trí nhớ của người trong cuộc, cần phải đối chiếu, kiểm chứng, và tham khảo với các bậc “tiền bối” trong quân chủng.
Vì thế, ông rất đồng ý với cách tiến hành công việc của tôi là sau khi hoàn tất mỗi thời kỳ (thành lập, phát triển, bành trướng) sẽ đúc kết những khoảng trống (trong lịch sử quân chủng), những gì chưa rõ ràng, hoặc mâu thuẫn nhau (trong các nguồn tài liệu cũng như bộ nhớ của các niên trưởng) để phổ biến dưới hình thức những Thư tham khảo, hy vọng sẽ nhận được những lời giải đáp, sự bổ túc của các vị niên trưởng và chiến hữu KQ khắp nơi.
Riêng về phần mình, NT VTV cho biết vì về nước trễ (đầu năm 1957) nên ông không nắm vững những diễn tiến trong thời kỳ thành lập quân chủng Không Quân. Ông chỉ nhớ đại khái những gì liên quan tới bản thân ông: sau một thời gian ngắn phục vụ tại Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh Sát, ông được đưa về BTK/KQ phục vụ tại Trung Tâm Hành Quân Không Quân (TACC: Tactical Air Control Center) lúc đó còn gọi là Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến, do Đại úy Trần Văn Minh (Tư lệnh KQ sau này) giữ chức vụ Giám đốc, Trung úy Nguyễn Ngọc Loan làm Phụ tá.
Sau đó, ông Nguyễn Ngọc Loan lên làm Giám đốc thay ông Trần Văn Minh. Chúng tôi không được biết giữa ông Nguyễn Ngọc Loan và ông VTV có đời Giám đốc nào khác hay không, chỉ biết vào đầu năm 1965, khi được xuyên huấn oanh tạc cơ B-57 tại Tân Sơn Nhất cùng với Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung tá Nguyễn Ngọc Loan, Thiếu tá VTV đang giữ chức Giám đốc Trung Tâm Hành Quân Không Quân.
Tới năm 1970, trong đà bành trưởng của KQVN, cùng với việc các Sư Đoàn Không Quân được thành lập, Trung Tâm Hành Quân Không Quân được nâng lên thành Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân (AOC: Air Operations Command).
Đại tá Vũ Văn Ước, nguyên Tư lệnh Không Đoàn 62 Chiến Thuật ngoài Nha Trang được đưa về Tân Sơn Nhất làm Chỉ huy trưởng còn Đại tá VTV thì sang BTL/KQ giữ chức vụ Tham mưu phó Kế Hoạch & Chương Trình.
* Những cuộc đấu võ mồm
Trong khi không nhớ nhiều về thời kỳ thành lập quân chủng, NT VTV lại biết nhiều và biết rất rõ về thời kỳ hiện đại hóa và bành trướng của KQVN, bởi vì ông là người trong cuộc.
Nguyên sau cuộc tổng tấn công của Việt Cộng vào Tết Mậu Thân 1968, phía Hoa Kỳ bắt đầu chương trình hiện đại hóa và bành trướng QLVNCH, do MACV, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, và các đại diện quân binh chủng phối hợp soạn thảo kế hoạch.
Phái đoàn đại diện Không Quân do Đại tá Võ Dinh, Tham Mưu Trưởng BTL/KQ cầm đầu, Đại tá VTV làm phó. Vì Đại tá Võ Dinh quá bận rộn với công việc thường nhật cùng với kế hoạch, chương trình bành trướng quân chủng, Đại tá VTV phải thường xuyên đi họp để... đấu lý với các quan lớn bên Bộ TTM và các phái đoàn đại diện quân binh chủng bạn.
Phải đấu lý bởi vì, theo lời kể lại của Đại tá VTV, trong các buổi họp nói trên, quân binh chủng nào cũng tìm cách giành ưu tiên, về ngân khoản viện trợ, về mức độ bành trướng, về cấp số đơn vị... cho quân binh chủng của mình.
Chẳng hạn lúc đầu Lục Quân đã nhất quyết đòi làm chủ trên 700 chiếc trực thăng UH-1 do Lục Quân Hoa Kỳ bàn giao để thành lập những Lữ Đoàn Không Kỵ (Air Cavalry Brigade) trực thuộc Lục Quân. Các vị đại diện Lục Quân lập luận: trực thăng của Lục Quân Hoa Kỳ thì phải bàn giao cho Lục Quân Việt Nam. Nghe thật có lý!
Nhưng đòi hỏi này đã bị MACV bác bỏ ngay; lý do người Mỹ đưa ra rất đơn giản: không có đủ thì giờ, tiền bạc để huấn luyện, thành lập những Lữ Đoàn Không Kỵ - một cấp đơn vị chưa từng có trong QLVNCH.
Đó là phần hiện đại hóa, sang tới phần bành trướng, khi đại diện KQ trình bày kế hoạch các Không Đoàn Chiến Thuật (Tactical Wing) hiện hữu cùng với các Không Đoàn tân lập sẽ kết hợp thành những Sư Đoàn Không Quân (Air Division), thì các vị bên Bộ TTM phản đối, cho rằng “Sư Đoàn” nghe lớn quá, gọi là “Lữ Đoàn” (Brigade) đủ rồi!
Đại diện của KQ - tức Đại tá VTV - liền phản bác một cách “nhẹ nhàng” như sau: việc tổ chức các cấp đơn vị trong Không Quân VNCH rập khuôn theo tổ chức trong KLHK, mà KLHK thì không hề có cấp đơn vị “Lữ Đoàn Không Quân” (Air Brigade), chỉ có cấp “Sư Đoàn Không Quân” (Air Division), chẳng hạn Sư Đoàn 2 KQ trực thuộc Đệ Thất Không Lực (7th Air Force) đang hoạt động tại Việt Nam.
Cuối cùng, với sự hậu thuẫn của AFAG (Air Force Advisory Group) trong MACV, phe ta đã thắng: Không Quân VN sẽ thành lập các Sư Đoàn Không Quân.
Nhưng không “thắng 100%”. Bởi vì sau đó, Bộ TTM đã “chế” ra một danh xưng chức vụ mới là “Sư đoàn trưởng” để gọi ông sếp lớn của các Sư Đoàn Không Quân.
Nói là “chế” bởi vì trước đó trong ngôn ngữ của người Việt quốc gia không hề có chức vụ “Sư đoàn trưởng”, chỉ có Quân Đội Nhân Dân của cộng sản Bắc Việt mới sử dụng (khi nói chuyện họ thường gọi tắt là “Sư trưởng”).
Dĩ nhiên, đại diện KQ lại phản đối, nhưng vô ích, bởi vì Bộ TTM lập luận quân số của một Sư Đoàn Không Quân không thể sánh với quân số của Sư Đoàn Nhảy Dù, Sư Đoàn TQLC hay các Sư Đoàn Bộ Binh!
Vì thế khi các Sư Đoàn Không Quân được thành lập, các ông Tư lệnh Không Đoàn Chiến Thuật 41, 62, 23, 74, 33 đã trở thành các ông Sư đoàn trưởng của các Sư Đoàn 1, 2, 3, 4, 5 Không Quân.
[Mãi tới cuối năm 1972 đầu năm 1973, sau khi Sư Đoàn 6 Không Quân được thành lập tại Pleiku, có lẽ đã nhận ra “Sư đoàn trưởng” là “từ Việt Cộng”, Bộ TTM mới ban hành Sự Vụ Văn Thư đổi danh xưng Sư đoàn trưởng của các Sư Đoàn Không Quân thành Tư lệnh Sư đoàn]
* * *
Sau khi NT VTV và phu nhân trở về Pháp, lâu lâu tôi lại gửi email thăm hỏi và được ông hồi đáp với văn phong dí dỏm cố hữu, có khi còn kể chuyện tới bãi biển ở Nice ngắm đầm khoe tòa thiên nhiên, nhưng sau khi ông bà sang Hoa Kỳ sống thì tôi mất liên lạc.
Khi cách đây khoảng hai tuần, tôi đang viết bài này thì được một KQ ở Hoa Kỳ báo tin NT VTV đã qua đời nhưng không cho biết thêm chi tiết. Sau đó tôi đã tìm cách liên lạc với một số niên trưởng và chiến hữu KQ ở Hoa Kỳ để hỏi thăm tin tức nhưng tới nay vẫn chưa có kết quả.
Theo lời một vị phi đoàn trưởng khu trục tôi quen thân, tin tức cuối cùng về NT VTV là cách đây hơn 2 năm, ông và NT Bồ Đại Kỳ có viết thư thăm hỏi nhau, sau đó thì bặt tin.
(Còn tiếp)
CHÚ THÍCH
(1) Trong bài viết về Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân (AOC: Air Operations Command), Đại tá Vũ Văn Ước, Chỉ huy trưởng, không hề nhắc tới danh xưng “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến”, mà chỉ viết về Trung Tâm Hành Quân Không Quân, trong đó có các đoạn:
“Thời gian này KLVNCH đã có sẵn một số phi cơ Bearcat, T-28 và số ít A-1H... Vì nhu cầu phối hợp hành quân Việt-Mỹ để yểm trợ các lực lượng diện địa VNCH nên một trung tâm hành quân không quân (TACC) được thành lập tại TSN. Tại đây ban cố vấn Hoa Kỳ và các sĩ quan VN làm việc song song với nhau để điều hành việc yểm trợ bằng không quân...
“Vị sĩ quan chỉ huy đầu tiên của trung tâm là Đại Úy Trần Văn Minh (Tư lệnh KQ sau này), phụ tá là Đại Úy Nguyễn Ngọc Loan và trưởng phòng hành quân là tôi, Vũ Văn Ước.” (ngưng trích)
Trong khi theo một số bài viết của Đại tá Nguyễn Quang Tri, và tiểu sử của Trung tướng Trần Văn Minh, của Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, danh xưng đầu tiên của trung tâm này là “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến”, có từ năm 1956 sau khi người Pháp trao toàn bộ trách nhiệm cho KQVN trong lúc người Mỹ chưa kịp điền vào chỗ trống.
Cũng nên biết trước năm 1956, công việc yểm trợ của không quân cho các lực lượng diện địa đều do các GATAC của Pháp điều động.
GATAC là viết tắt của tiếng Pháp “Groupe Aérien Tactique d'Appui Au Combat”, có nghĩa là “đoàn không yểm chiến thuật”.
Có tất cả ba GATAC: Nord, Centre, Sud, trách nhiệm ba miền Bắc, Trung, Nam.
Sau khi người Pháp rút, các GATAC giải tán, trách nhiệm không yểm được trao cho người Việt, KQVN thành lập “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến” để thay thế.
Hai chữ “Không Chiến” ở đây không có nghĩa là “phi cơ đánh nhau trên trời” mà chỉ có nghĩa là “chiến đấu từ trên không”, tức “không yểm” (air support).
Sau khi người Mỹ nhập cuộc, các cố vấn trong KLHK và phía đối tác (KQVN) làm việc song song với nhau để điều hành việc yểm trợ chiến trường, thì “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến” mới được đổi danh xưng thành “Trung Tâm Hành Quân Không Quân” (TACC: Tactical Air Control Center) theo cách gọi trong KLHK.
Thời gian này là đầu năm 1962, khi KLHK bắt đầu bí mật tham chiến qua Chương trình Farm Gate, và Giám đốc Trung Tâm Hành Quân Không Quân là Đại úy Nguyễn Ngọc Loan (theo NT Trần Bá Hợi trong bài Phi Đoàn 2 Khu Trục).
PHỤ LỤC
TƯỞNG NHỚ Lăng CHA CẢ
*KQ Vũ Thượng Văn
Ðã là người Không Quân VNCH thì không ai mà không biết Lăng Cha Cả, ở xã Tân Sơn Nhất, quận Tân Bình, tỉnh Gia Ðịnh. Tuy nhiên, cũng rất nhiều người Không Quân chỉ đi ngang qua Lăng Cha Cả để ra vào phi trường Tân Sơn Nhất, chưa chắc đã nhìn kỹ cái lăng đó hình dáng ra sao? Lại cũng không biết sự tích cái lăng ấy, và có lẽ cũng không biết lai lịch "Cha Cả" này là ai?
Cả chục ngàn chiến sĩ Không Quân đã mua bánh mì Lăng Cha Cả, đặc biệt là dân Sư Ðoàn 5 KQ và Bộ Tư Lệnh Không Quân. Bánh mì ngon, nóng, rẻ, thường thêm một miếng ớt cay, ăn sáng trên máy bay là "hết xẩy". Nhưng cũng cả chục ngàn KQ ấy khi mua bánh mì thì quay lưng về phía Lăng Cha Cả, cho nên ngày nay có lẽ cũng chẳng nhớ cái lăng ấy ra sao. Ðể giúp các bạn ôn lại hình ảnh xưa, chúng tôi đã sưu tầm được tấm hình độc đáo nầy để các bạn cùng thưởng lãm. Thưởng lãm trong bùi ngùi, vì lăng nầy đã bị chính quyền VC phá bỏ năm 1983, viện lý do là để phát triển đô thị.

Cha Cả tên thật là Pierre Pigneau de Béhaine, sinh ngày 02 tháng 11 năm 1741, tại Origny-en-Thierache (Pháp Quốc). Sau khi học nhiều trường đạo các cấp, tu viện và chủng viện Missions Etrangères (Thừa Sai Ngoại Quốc), ông được thụ phong linh mục (prêtre) năm 1765, và được gửi qua Hà Tiên, Nam Kỳ (Cochinchine) để truyền giáo. Trong thời gian nầy, ông đã soạn thảo một cuốn tự điển lớn bằng tiếng Việt.
Nhưng phần vừa bị chính quyền đàn áp (ông phải đi tù một thời gian), vừa bị hải tặc khủng bố, nên sau đó, ông phải đóng cửa trường (mà ông là Hiệu trưởng), dọn về Pondicherry (Ấn Ðộ). Khi tình hình khả quan hơn, ông trở lại Hà Tiên. Lần trở lại này, năm 1774, ông được trao chức tổng quản giáo hội vùng Nam Kỳ, Căm Bốt và Chàm, với tước vị là Giám Mục d' Adran (Evêque d'Adran, Việt Nam gọi ông là Giám Mục Bá-Ða-Lộc).
Năm 1778, hải tặc Căm Bốt triệt hạ tỉnh đạo Hà Tiên, Ðức Cha Bá-Ða-Lộc phải rút về Sài Gòn, cư ngụ tại tư dinh Hoàng Tử Nguyễn Ánh. Năm 1782, Tây Sơn khởi nghĩa gây ra nhiều vụ tàn sát ở Sài Gòn. Sau khi vua cha bị giết hại, Nguyễn Ánh lên ngôi, cầu viện Xiêm La (Siam), nhưng quân Xiêm bị Tây Sơn đánh đại bại năm 1785. Nguyễn Ánh quay sang cầu viện Pháp qua trung gian của Giám Mục Bá-Ða-Lộc.
Năm 1786, Bá-Ða-Lộc mang ấn tín của vua Nam Kỳ (tức chúa Nguyễn Ánh) cùng Hoàng tử Nguyễn Cảnh rời Hà Tiên qua Pháp. Phái đoàn tới cảng Lorient ngày 26 tháng 02 năm 1787. Ngày 16 tháng 5, vua Louis XVI tiếp phái đoàn tại lâu đài Versailles. Một thỏa ước được ký kết giữa hai vương quốc tại Versailles ngày 28 tháng 11 năm đó, giữa Bá tước de Montmorin, Bộ trưởng Ngoại Giao Pháp quốc, và Giám Mục Bá-Ða-Lộc, Ðặc sứ toàn quyền của vua Nam Kỳ.
Đức Bà, Sài Gòn (hình chụp thời Pháp thuộc)
Nhưng bản thỏa ước này sau đó đã không được áp dụng. Bá tước De Conway, Thống Ðốc Pháp tại các lãnh địa thuộc Ấn Ðộ đã từ chối thi hành thỏa ước.
Chờ ở Pondicherry khá lâu, Giám Mục Bá-Ða-Lộc rất nóng ruột. Rốt cuộc, ông từ chối sự giúp đỡ của người Anh (rất bất lợi), tự thành lập một lực lượng cứu viện Nguyễn Ánh, gồm 2 tàu chiến với một nhóm chuyên viên dân sự, quân sự và binh sĩ cùng vũ khí, đạn dược, đổ bộ vào Sài Gòn ngày 14 tháng 7 năm 1789. Lực lượng này tuy không hùng hậu nhưng đã gây phấn khởi cho Nguyễn Ánh. Ông lấy lại thế tấn công đánh Tây Sơn (lúc đó, lực lượng chính của Tây Sơn đang bị quân Tàu cầm chân tại Bắc Kỳ), và từ đó đi đến chỗ thống nhất Nam Bắc và lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu Gia Long (1802).
Nhưng trước đó Ðức Cha Bá-Ða-Lộc đã mất vì bạo bệnh tại Quy Nhơn ngày 09 tháng 10 năm 1799. Vì đã có thời làm Thủ tướng cho nhà vua nên tang lễ của Ðức Cha đã được vua Gia Long cho cử hành trọng thể theo nghi lễ quốc táng tại Sài Gòn ngày 16 tháng 12 năm 1799. Mộ của ông được gọi là Lăng Cha Cả.
Paris, tháng 9 năm 2000
KQ Vũ Thượng Văn
- Details
- Category: Tài Liệu KQ
- Hits: 611