Tài Liệu KQ

BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (Phần 3)
Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện

“Sư phụ” VÕ VĂN ÂN và Niên trưởng NGUYỄN PHÚC TỬNG
(tiếp theo)
Qua ngày hôm sau, ông Ân có cuộc gặp gỡ với một nhân vật quan trọng là vị Tổng lãnh sự Mỹ tại Rayong (hay Pattaya, tôi không nhớ rõ) để vận động Tòa Đại sứ Mỹ gây áp lực với nhà cầm quyền Thái Lan bác bỏ yêu cầu của CSVN dẫn độ LT về Việt Nam xét xử.
Đây là một bí mật mà ông Ân căn dặn tôi phải tuyệt đối giữ kín cho nên trong những bài tường thuật sau đó trên tờ báo tôi cộng tác cũng như trên đặc san LÝ TƯỞNG Úc Châu, tôi đã không hề đề cập tới.
Nguyên vị Tổng lãnh sự này có vợ người Thái Lan mà bằng cách nào đó ông Ân quen biết. Bà vợ này rất cảm phục sự can đảm của LT, sự tận tụy của ông Ân nên đã đề nghị chồng giúp đỡ.
Để tránh sự dòm ngó của phe địch (cũng như truyền thông phe ta) đôi bên đã thỏa thuận lựa chọn một địa điểm ít ai ngờ tới: ăn tối tại một nhà hàng all-you-can-eat ở ngay trung tâm du lịch gần bãi biển Rayong.
Đó là tầng trên cùng của một building 21 tầng sát bờ biển nhìn ra vịnh Thái Lan. Khu vực lấy thức ăn có nhân viên phục vụ chu đáo, khu ăn uống có những bàn ngồi rất riêng tư, kín đáo, ngoài ban-công thì có các lò BBQ và bàn ghế để khách có thể ăn vừa ngắm vịnh Thái Lan.
Thực ra ông Ân, ông Tửng có thể để tôi ở nhà, ra chợ Rayong ăn tối một mình nhưng có lẽ hai ông cũng muốn cho thằng em được thưởng thức “all-you-can-eat 5 sao” nên dắt theo.
Phần tôi, hiểu được tính cách tế nhị của cuộc gặp gỡ kín đáo này, sau khi chào hỏi, ăn uống qua loa tôi xin phép ra ban-công ăn BBQ, hút thuốc, mục đích để bốn người còn lại được nói chuyện thoải mái.
Lúc đó màn đêm đã buông xuống, nhìn ra biển chỉ thấy ánh đèn lấp lánh trên những chiếc du thuyền. Bỗng dưng tôi cảm thấy trống vắng và nhớ Việt Nam một cách lỳ lạ. Khi bước xuống thuyền vượt biên năm 1981, tôi đã thề không bao giờ trở lại một khi quê hương còn bóng cờ đỏ. Cuối năm 1999, khi bố tôi qua đời sau hơn 2 năm bị ung thư nằm chờ thằng trưởng nam về trăn trối mà không thấy tăm hơi, tôi đau buồn vô cùng nhưng vẫn không cảm thấy nhớ nhà như lúc này. Có lẽ trong màn đêm tôi có thể tưởng tượng Việt Nam ở thật gần, ngay đâu đây.
Tôi không cường điệu mà thật sự trước đó cũng như sau này tôi chưa bao giờ có cảm tưởng mình gần Việt Nam, nhớ Việt Nam như lúc ấy!
* * *
Một tuần lễ trôi qua rất nhanh, buổi tối cuối cùng ở Rayong “thằng nhỏ Bắc kỳ cái gì cũng biết làm” lấy đôi đũa khui chai vang đỏ thứ hai mà ông Tửng mang từ Pháp qua.
Rất tiếc trong buổi tối trước khi chia tay ấy tôi đã không có được một “cử chỉ đẹp” để rồi sau này mỗi lần nhớ tới hai vị đàn anh đáng mến tôi lại phải áy náy, ân hận.
Đó là việc “ăn đồng chia đều”. Sau bữa ăn tối, khi ông Ân nói tôi tổng kết chi tiêu của ba anh em từ lúc đặt chân lên taxi từ Bangkok đi Rayong, lẽ ra tôi phải cưa đôi, tôi chịu một nửa hai ông chịu một nửa mới là biết điều, bởi vì chi phí (công vụ) của tôi do quỹ Hội Không Quân Victoria đài thọ, trong khi ông Tửng phải bỏ tiền túi ra vì Hội Không Quân ở Pháp không hề có quỹ.
Nguyên nhân khiến tôi ngay lúc đó không nghĩ tới việc chơi đẹp với hai đàn anh là vì trong nội bộ Hội KQ Victoria có một sự “cạnh tranh” ngầm giữa những người được Hội cử đi Thái Lan thăm LT, xem ai đỡ hao quỹ nhất!
* * *
Sáng hôm sau, ba anh em đi bộ ra bến xe đò Rayong – Bangkok, ông Ân hướng dẫn tôi mua vé rồi dặn dò đường đi nước bước khi về tới Bangkok, không quên trao cho tôi miếng giấy ghi tên phi trường Don Mueang bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Thái. Ông còn chu đáo cho tôi biết trong phi trường có “lockers” để cất hành lý trong trường hợp tôi muốn đi tới trung tâm thương mại gần đó để mua sắm.
Trong lúc chờ tới giờ xe chạy, ba anh em tiếp tục trò chuyện. Khi tôi hỏi hai ông có tính sang thăm Úc không, ông Tửng nói chắc chắn ông sẽ sang trong một ngày rất gần vì vợ ông có người em ruột ở Melbourne, ông Ân thì nói phải đợi tới khi vụ xử LT kết thúc ông mới nghĩ tới việc đi Pháp, đi Úc để thăm và cám ơn anh em Không Quân.
Ông Ân nhấn mạnh chỉ thăm và cám ơn anh em KQ mà thôi vì trên danh nghĩa ông chỉ là một đàn anh KQ đứng ra lo cho đàn em cũ chứ không nằm trong một hội đoàn, tổ chức mang danh xưng “yểm trợ LT” nào cả.
Dù ông Ân không đi vào chi tiết, tôi cũng có thể suy đoán đã có những chuyện không vui giữa một số hội đoàn, tổ chức và cá nhân yểm trợ LT ở bên Mỹ trong việc tranh giành “chính danh”!
Sau cùng, có lẽ mủi lòng trước cảnh thằng em KQ lủi thủi về Úc một mình, ông Tửng đã bật mí với tôi về nhiệm vụ của ông trong chuyến đi Thái Lan, đó là chuyển lá thư của Công chúa X, con gái cựu hoàng Bảo Đại, tới bạn của bà là Công chúa Y, con gái lớn của Quốc vương Bhumibol và cũng là một nhà hoạt động xã hội uy tín, để nhờ can thiệp với chính phủ Thái Lan không cho dẫn độ LT về Việt Nam xét xử.
Ông Tửng nói bữa trước ông không có mặt trong cuộc gặp gỡ vị luật sư Thái là vì có hẹn gặp gỡ một người thân cận của Công Chúa Y đang ở Rayong để nhờ chuyển lá thư của Công chúa X.
Ông Tửng cho biết ông được trao nhiệm vụ quan trọng này là vì từ năm 1975 ông đã tham gia hoạt động trong tập thể người Việt quốc gia tại Paris nói riêng, tại Pháp nói chung, và hiện đang giữ chức vụ Tổng Thư Ký Văn Phòng Liên Lạc các Hội đoàn người Việt tại Pháp. (Chú thích)

Trần Văn Trung trong một cuộc biểu tình tố cáo Trung Cộng tại Paris vào năm 2007
Nghe ông Tửng kể đầu đuôi, tôi càng thêm quý mến vị niên trưởng mà lúc mới gặp tôi đã hấp tấp nhận xét là “lạnh lùng, khó chịu”!
Xe đò chuyển bánh, nhìn hai đàn anh KQ – một đi cà nhắc, một mới mổ tiền liệt tuyến – vẫy tay chào, lòng tôi chùng xuống...
* * *
Về tới bến xe Bangkok, tôi gọi taxi tới phi trường Don Mueang. Vì còn cả một buổi chiều chờ phi cơ đi Úc, tôi tới khu “lockers” gửi hành lý rồi kêu taxi tới trung tâm thương mại gần đó mà ông Ân đã chỉ. Khi biết tôi là du khách, người tài xế taxi hỏi tôi dự tính muốn mua những thứ gì, tôi trả lời chưa biết thì anh ta đề nghị đưa tôi tới một trung tâm thương mại khác, xa hơn không bao nhiêu nhưng lớn hơn, có đủ loại mặt hàng, mà giá lại rẻ hơn.
Tôi nghe theo, tới nơi mới thấy người tài xế taxi nói không ngoa, từ thời trang, mỹ phẩm tới máy móc, đồ điện tử không thiếu một thứ gì, nhiều đến nỗi đi lên đi xuống 4, 5 tầng lầu mấy lần mà tôi vẫn không biết mua món gì với mấy trăm đô-la còn lại trong túi.
Thực ra ngay từ đầu tôi đã muốn mua một cái máy chụp hình digital nhưng vì ở đây có quá nhiều hiệu, nhiều kiểu, tôi lại không có sự chuẩn bị, nghiên cứu trước nên không biết nên mua máy nào; cuối cùng tôi chỉ mua một cái nồi cơm điện hiệu National (Panasonic) giá 100 đô-la để lấy điểm với bà xã vì cái nồi hiệu Tiger ở nhà đã quá cũ. Hơn 15 năm sau, khi LT đã hóa người thiên cổ, cái nồi “made in Thailand” ấy vẫn không chịu hư!...
* * *
Tới đây xin được tóm tắt diễn tiến, kết quả vụ xử LT về 3 tội danh Đe dọa tính mạng công dân Thái Lan - Cưỡng ép sử dụng máy bay trái với mục đích ban đầu - Vi phạm luật xuất nhập cảnh Thái Lan.
Vụ xử diễn ra đúng vào ngày lễ Giáng Sinh năm 2003. Theo vị luật sư biện hộ cho LT, trong ba tội danh bị cáo buộc chỉ có tội danh thứ ba (Vi phạm luật xuất nhập cảnh Thái Lan) là chính xác, hai tội danh còn lại chỉ đúng... một nửa vì LT đã không sử dụng vũ khí để uy hiếp phi công, để cướp phi cơ thì không thể khép vào tội “không tặc” như công tố viện Rayong đã cáo buộc.
Kết quả, LT chỉ bị tuyên án mức thấp nhất: 7 năm tù; và vì thời gian thọ án được tính từ ngày bị bắt (đầu năm 2000), LT sẽ được trả tự do vào cuối năm 2007.
Nhưng chế độ CSVN đã không chịu khoanh tay nhìn TL được trả tự do, được người Việt chống cộng tại hải ngọai một lần nữa chào đón như một người hùng, một “Chiến sĩ Tự do” (Freedom Fighter)!
Cũng xin được nhắc lại, cuối năm 2000, sau khi LT thả truyền đơn trên không phận VN trở về và bị cảnh sát Thái Lan bắt giữ, CSVN đã làm lớn chuyện, cho Bộ Công An khởi tố bị can LT theo luật hình sự, ban hành quyết định truy nã quốc tế, và yêu cầu nhà chức trách Thái Lan cho dẫn độ LT về Việt Nam để xét xử theo luật pháp của CSVN, nhưng phía Thái Lan đã tìm mọi cách trì hoãn việc trả lời yêu cầu này, và cuối cùng lơ luôn!
Nay vì Thủ tướng Thaksin Sinawatra đã bị phe quân đội đảo chánh vào đầu năm 2006, tướng Surayud Chulanont, nguyên Tổng tư lệnh Quân đội Thái Lan lên giữ chức Thủ tướng lâm thời, đang tìm mọi cách bình thường hóa quan hệ ngoại giao với CSVN, chuẩn bị đi Hà Nội tham dự Hội nghị APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương) vào tháng 11 năm 2006, phía CSVN đã nhân cơ hội này yêu cầu tân chính phủ Thái Lan sau khi LT mãn án tù 7 năm về các vi phạm luật pháp Thái Lan, cho dẫn độ anh về VN để bị xét xử về tội “xâm nhập không phận VN, một quốc gia có chủ quyền”.

Trước sự việc này (yêu cầu dẫn độ của CSVN), LT đã tuyệt thực tại nhà tù Rayong để phản đối và kêu gọi các tổ chức nhân quyền quốc tế gây áp lực với chính phủ Thái Lan, nhưng vô ích, tới ngày 4 tháng 9 năm 2006, tòa hình sự Bangkok đã quyết định sẽ cho dẫn độ LT về VN sau khi mãn án 7 năm tù.
Khỏi nói, phía CSVN vô cùng hồ hởi phấn khởi; phát ngôn viên Chính phủ Việt Nam đã hoan nghênh quyết định này của tòa hình sự Thái Lan và nói “hành động của Lý Tống cần phải bị nghiêm trị”!
Về phần LT, thông qua luật sư đại diện đã đệ đơn kháng án, và tới ngày 26 tháng 9 năm 2006, đơn kháng án của anh đã được tòa phúc thẩm chấp thuận.
Nhưng chấp thuận rồi để đó chứ không chịu ấn định ngày xử. Thật khó hiểu!
Mãi sau này người ta mới biết phiên tòa ngày 4 tháng 9 năm 2006 ấy (quyết định cho dẫn độ LT về VN) chỉ là cảnh mở màn của một “kịch bản chính trị” với những diễn tiến bất ngờ và vô cùng thú vị (với những người chống cộng).
Sở dĩ tòa án Thái Lan chấp thuận đơn kháng án của LT rồi lại để đó là vì họ muốn chờ Thủ tướng Thái Lan đi dự Hội Nghị APEC xong xuôi.
Vì thế sau khi Thủ tướng Thái Lan Surayud Chulanont được Nguyễn Tấn Dũng đón tiếp trọng thể tại Hà Nội, Thông cáo trên website của Bộ Ngoại Giao CSVN khi nhắc tới “những sự hợp tác tốt đẹp mà đôi bên đã đạt được trong thời gian qua”, không quên nhắc tới việc Thái Lan chấp thuận cho dẫn độ LT về VN:
“Phía Việt Nam hoan nghênh phán quyết của tòa án hình sự Băng Cốc quyết định trao Lý Tống cho Việt Nam xét xử".
Phải đợi ba tháng sau Hội Nghị APEC, tòa phúc thẩm Bangkok mới xét đơn kháng án của LT.
Kết quả, sau phần trình bày của luật sư biện hộ, ngày 3 tháng 4 năm 2007, tòa phúc thẩm Bangkok đã tuyên bố hành động của LT mang tính chất chính trị chứ không phải là đe dọa an ninh, và dựa trên một điều luật của Thái Lan không cho dẫn độ những người “đang đối diện với các cáo buộc mang tính cách chính trị”, đã bác bỏ quyết định của tòa hình sự hồi tháng 9 năm 2006 cho dẫn độ LT về Việt Nam xét xử.
Trong phán quyết của mình, ông Chánh án Wisarut Sirisingh viết:
"Những gì ông Lý Tống làm không gây ảnh hưởng về an ninh lãnh thổ Việt Nam. Thái Lan không dẫn độ những người đối diện các cáo buộc về chính trị."
Quả là một cái tát vào mặt chế độ CSVN. Ngay sau đó, phát ngôn viên Lê Dũng của Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã hậm hực tuyên bố:
“Phán quyết của Tòa phúc thẩm Băng Cốc là không công bằng, hoàn toàn trái với luật pháp Thái Lan, luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế, và không phù hợp với sự phát triển quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Thái Lan, cũng như đi ngược lại những nỗ lực chung trong việc phòng chống tội phạm và khủng bố ở khu vực và trên thế giới”.
Thế là ra khỏi nhà tù Rayong, LT trở về Hoa Kỳ như một người hùng – lần thứ hai!
* * *
Trở lại với bốn chữ “kịch bản chính trị” mà tôi sử dụng ở trên khi viết về kết quả hai phiên tòa - mà phía CSVN cho là “tiền hậu bất nhất” - của Thái Lan trước yêu cầu của nhà cầm quyền CSVN cho dẫn độ LT về VN xét xử.
Tại sao trước đó, ngày 4 tháng 9 năm 2006, tòa hình sự Bangkok đã phán quyết cho dẫn độ LT về VN mà mấy tháng sau phán quyết này lại bị tòa phúc thẩm bác bỏ?!
Luật pháp, nhất là những gì có liên quan tới một vụ án có tầm vóc quốc tế, đâu phải trò đùa!
Ngày ấy qua nghe, đọc bình luận của các đài phát thanh BBC, Á Châu Tự Do, tôi (và nhiều người) tin rằng lúc đầu chính phủ Thái Lan quyết định cho dẫn độ LT về VN là để bày tỏ thiện chí trong việc bình thường hóa bang giao với quốc gia cộng sản này, nhưng sau đó vì có sự can thiệp của Hoa Kỳ và sự phản đối mãnh liệt của cộng đồng người Việt chống cộng ở hải ngoại, Thái Lan đã phải quay một góc 180 độ, thả LT về Hoa Kỳ.
Chỉ sau khi đọc những bài phân tích của các nhà báo tây phương, tôi mới biết đây là một “kịch bản” đã được phía Thái Lan viết sẵn từ năm 2003, khi “công dân Mỹ” LT ra tòa án Rayong để lãnh án.
Cũng cần nhấn mạnh, trước sau nhà cầm quyền Mỹ chỉ xem LT như một tay “không tặc” (hijacker), tức là không thể công khai bênh vực, nhưng đồng thời xưa nay Hoa Kỳ - đệ nhất cường quốc - cũng không chấp nhận việc công dân Mỹ bị một chế độ cộng sản xét xử.
Thành thử có cho ăn kẹo, Thái Lan cũng không dám cho dẫn độ LT về VN. Suy ra việc tòa hình sự Bangkok trong phiên xử ngày 4 tháng 9 năm 2006 phán quyết cho dẫn độ LT về VN chỉ là một màn trình diễn không hơn không kém!
Viết là “trình diễn” bởi vì chính phủ Thái Lan muốn chứng tỏ cho mọi phía (CSVN cũng như quốc tế) thấy tòa hình sự của họ đã chấp thuận cho dẫn độ LT về VN, nhưng cuối cùng lại bị tòa phúc thẩm bác bỏ. Mà sống trong một quốc gia thượng tôn pháp luật, tòa án (tư pháp) là cha mẹ, chính phủ (hành pháp) không có quyền can thiệp.
Nói cách khác, có hay không có sự phản đối, các cuộc vận động của người Việt chống cộng tại hải ngoại, tòa phúc thẩm Bangkok cũng sẽ bác bỏ phán quyết của tòa hình sự cho dẫn độ LT về VN.
Khi viết như thế, tôi không phủ nhận công sức của các hội đoàn, tổ chức và cá nhân người Việt chống cộng tại Hoa Kỳ, Canada, Âu Châu, Úc Châu, trong đó có hai vị niên trưởng KQ Võ Văn Ân, Nguyễn Phúc Tửng, mà chỉ muốn chứng minh một điều: “đế quốc Mỹ” là ông kẹ!
* * *
Tới đây viết về quan hệ giữa hai vị niên trưởng KQ và LT trong thời gian anh bóc lịch trong nhà tù Rayong, từ đầu năm 2004 tới cuối năm 2007.
Cả ba "anh em Không quân" hiện nay đã về bên kia thế giới, cho nên khi nhắc lại chuyện cũ tôi tự đặt cho mình một giới hạn: không nói xấu hay chê trách người đã khuất mà chỉ tóm tắt một số sự việc có thật liên quan tới chuyện “rã đám” giữa LT và “Sư phụ”, giữa LT và anh em KQ ở Úc, còn tình tiết tôi và anh em KQ sống để bụng chết mang theo.
(“Anh em KQ ở Úc” nhắc tới ở đây xin được hiểu là anh em KQ trong Hội Ái Hữu Không Quân tiểu bang Victoria, cách riêng Ban chấp hành Hội, lúc đó đang kiêm nhiệm Ban chấp hành Liên Hội Ái Hữu Không Quân Úc Châu, nhiệm kỳ 2002-2005)
Không phải tôi khoe khoang, ca tụng “phe ta” nhưng trên thực tế ngay từ đầu - tức là từ ngày thành lập Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống (Victoria) vào năm 1992 - cho tới khi đón LT sang thăm Úc lần thứ nhất (1998), chúng tôi ủng hộ LT hết mình nhưng không muốn bị mang tiếng "dựa hơi" hoặc lợi dụng tên tuổi LT cho nên đã hoàn toàn độc lập, về tổ chức, hoạt động cũng như tài chánh, không lệ thuộc, dính dáng tới bất cứ hội đoàn, tổ chức và cá nhân yểm trợ LT ở Hoa Kỳ và các nơi khác trên thế giới (ngoài nước Úc).
LT biết rõ điều đó và, ít nhất cũng trong thời gian đầu, đã tỏ ra thân thiết, nể phục chúng tôi, và rất biết ơn đồng bào ở Úc về sự đóng góp mạnh mẽ vào quỹ Phát Huy Tinh Thần Lý Tống, Quỹ pháp lý yểm trợ LT.
Nhưng mọi sự bắt đầu thay đổi ít lâu sau khi sau khi LT bị tuyên án 7 năm tù và ngồi bóc lịch trong nhà tù Rayong.
Qua những lá thư gửi cho anh Liên hội trưởng KQ Úc Châu, LT ngày càng tỏ thái độ bi quan trước viễn ảnh sau khi mãn án tù ở Thái Lan sẽ bị dẫn độ về VN, và bất mãn trước việc (theo lời anh) mọi người, trong đó có các chiến hữu KQ, bỏ rơi anh, không chịu tiếp tục tranh đấu cho “lý tưởng”... Sự bi quan, mức độ bất mãn càng gia tăng, nội dung các lá thư càng gay gắt, thậm chí có những lời xỉ vả (anh em KQ hải ngoại) thậm tệ.
Dù những lá thư ấy chỉ có hai, ba anh em trong Ban chấp hành Hội KQ Victoria được đọc, các thành viên trong Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống ở Úc (cựu quân nhân, giới trẻ, các nhà hoạt động nhân quyền...) cũng được biết phần nào qua những lần thăm LT trong tù và được nghe chính anh nói ra.
Đáng buồn, đáng tiếc nhất là việc LT tố cáo Đại tá Võ Văn Ân lem nhem tiền bạc (quỹ yểm trợ LT).
Sự thật ra sao, khi gặp lại nhau dưới suối vàng chắc hẳn ông Ân và LT đã nói chuyện phải trái với nhau, ở đây tôi chỉ muốn đề cập tới hậu quả.
Không hiểu ở Hoa Kỳ thì sao nhưng riêng tại Úc việc LT tố cáo “Sư phụ” ngày ấy đã khiến anh mất đi nhiều người ủng hộ vốn mến phục ông Ân, trong đó có một nữ thành viên trẻ của Ân Xá Quốc Tế từng sang Rayong dự phiên tòa và thăm LT. Cô đòi lại 3000 đô-la Úc đã tặng cho “Quỹ pháp lý” yểm trợ LT trước đây, và trao số tiền này cho Hội KQ Victoria sử dụng trong việc... đi thăm LT. Nghĩa là cô vẫn ủng hộ lý tưởng của LT nói riêng, của Không Quân nói chung nhưng không muốn dính dáng tới cá nhân LT nữa!
Càng đáng buồn là trong khi “gây sự” với người phe ta, LT lại giao hảo với một số thành phần “bất hảo” trong giới truyền thông ở Úc, những kẻ lợi dụng tên tuổi LT để trục lợi. Họ là những người đứng bên lề, hoặc chuyên đánh phá Cộng Đồng, từ ngày LT bị nhà cầm quyền Thái Lan bắt giam cho tới khi ra tòa lãnh án, họ chưa một lần đi thăm LT hoặc tham dự các phiên tòa.
Chỉ sau khi LT lãnh án tù, có quy chế thăm viếng, cùng với một số đồng bào ái mộ LT khi du lịch Thái Lan đã về Rayong thăm anh, những tay ma đầu này mới... ra tay nghĩa hiệp. Những lần thăm viếng, những món quà nhân dịp tết nhất, những bài báo xưng tụng, những hứa hẹn yểm trợ tài chánh..., đã khiến LT cảm kích, đáp lại bằng những lá thư cám ơn, những tấm hình có chữ ký đề tặng..., khiến không ít đồng bào ở Úc đã ngây thơ tin vào “lòng tốt” của đám ma đầu này, thậm chí có người còn tin rằng tập thể Không Quân Úc Châu và LT đã chia tay nhau!
Trên thực tế, không chia tay nhưng cũng không còn mặn nồng!
Khi LT sang thăm Úc lần thứ hai (sau khi mãn án tù tại Thái Lan) năm vào 2008, những anh em KQ có chân trong Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống vẫn chu toàn bổn phận (đón tiếp, lo phương tiện di chuyển, chỗ ăn chỗ ở, v.v...), những đã không có những party linh đình do KQ đứng ra tổ chức để chào đón người hùng “Ó Đen” như lần trước (năm 1998).
Một chi tiết nhỏ nhưng thiết nghĩ cũng phải ghi ra để mọi người thấy LT dễ tin người tới mức nào, đó là việc trong khi được một số đồng hương ái mộ tặng “phong bì”, LT đã bị hụt 5000 đô-la "tưởng tượng" mà một ông nhà báo “giáo sư tự phong” kiêm “đồng hương Thừa Thiên - Huế tự nhận" từng tới nhà tù Rayong thăm anh, đã hứa hẹn trước khi anh sang thăm Úc lần này.
Sau khi tới Úc được mấy ngày mà vẫn không thấy ông chủ báo tới gặp gỡ trong những buổi đón tiếp mình, LT hỏi chúng tôi có biết tay chủ báo này không; nghe tên, chúng tôi hỡi ơi, nhưng cũng không nỡ cho LT biết bộ mặt thật của tay đại bịp này. Vì thế, tới ngày từ giã xứ kangaroo, trong lúc chờ phi cơ ở phi trường Melbourne, LT vẫn còn hy vọng biết đâu vào giờ phút chót ông chủ báo “đồng hương Thừa Thiên - Huế" sẽ ra phi trường tiễn mình (và trao phong bì).
Nhưng cho tới khi phi cơ cất cánh, khứa lão vẫn biệt tăm!
Khi kể lại những việc không vui nói trên, tôi hoàn toàn không có ý nói xấu LT, hạ bệ một “người hùng KQ” vốn được nhiều người cảm phục. Tôi chỉ muốn trình bày một điểm yếu nơi con người LT: thích được ca tụng không cần biết đối tượng thuộc thành phần nào, đưa tới nhiều hệ lụy trong đời.
Tôi không đạo đức giả mà viết từ đáy lòng: dù không đồng ý với chủ trương “phải thực hiện những biện pháp gây rối loạn mang tính cách dân sự (civil disobedience) thì mới tạo tiếng vang cho chính nghĩa được” (nguyên văn lời anh), tôi vẫn phải nể phục tinh thần chống cộng và sự can đảm nơi anh. Càng nể phục thì lại càng phải đau lòng, bất mãn khi thấy cho tới những ngày tháng cuối đời, bị bệnh tật hành hạ, nằm chờ chết mà LT vẫn không được buông tha; bị người này lợi dụng tên tuổi để quảng cáo cho thần dược của tay “tỷ phú đãi tiệc có tôm hùm”, bị nhóm kia kể lể công lao hầu độc quyền lo hậu sự lấy tiếng, v.v...
Thậm chí anh còn bị một vài trang mạng “phe ta” trù ẻo, cho... chết sớm cả tuần lễ. Để “câu view”, dĩ nhiên!
(Còn tiếp)
CHÚ THÍCH
”Đại tá” Nguyễn Phúc Tửng!
Cấp bậc sau cùng của ông Nguyễn Phúc Tửng trước khi được biệt phái sang Air Vietnam là Trung tá, nhưng ngày ấy (sau năm 1975) cũng như hiện nay không ít người ngoài Không Quân đã gọi ông là Đại tá. Điển hình là hầu hết các bản tin trên báo chí Việt ngữ ở Âu Châu đều ghi là Đại tá, trên trang mạng “General Hiếu” cũng ghi là Đại tá.
Trong khi đó ông Tửng khẳng định với chúng tôi chưa bao giờ ông tự xưng Đại tá. Riêng tôi thì suy diễn như sau:
Trong tiếng Anh cũng như tiếng Pháp, Đại tá là Colonel, Trung tá là Lieutenant Colonel (thường được viết tắt là Lt Colonel). Tuy nhiên, theo thông lệ, chỉ trong các văn bản chính thức (formal), hoặc xướng “tittle” trong một buổi lễ, người ta mới viết, nói đầy đủ là “Lieutenant Colonel”, còn trong thư từ, hoặc khi đối thoại người ta thường gọi ngắn gọn là “Colonel”.
Tương tự chữ General của cấp tướng, trên các văn bản chính thức phải ghi đầy đủ là Brigadier General (Chuẩn tướng), Major General (Thiếu tướng), Lieutenant General (Trung tướng), General (Đại tướng), General of the Army (Thống tướng) nhưng trong thư từ, khi đối thoại, người ta chỉ gọi ngắn gọn là “General” cho cả năm cấp bậc.
Ngày tôi làm việc dưới quyền Chuẩn tướng Từ Văn Bê, các thư từ gửi cho ông từ phía đối tác (các vị tướng 3, 4 sao của Hoa Kỳ, Trung hoa Quốc Gia), trong khi ngoài bì thư luôn luôn ghi đầy đủ:
Brigadier General TU VAN BE
Commander, Air Logistics Command, VNAF
thì trong thư chỉ viết ngắn gọn:
Dear Geneal Be,
Trở lại với ông Nguyễn Phúc Tửng, mọi người cứ gọi ông là Colonel riết rồi những người mới quen biết cứ tưởng cấp bậc thực sự của ông là Đại tá; truyền thông và những người không quen biết cứ như thế mà gọi theo.
Bản thân chúng tôi đã ít nhất đã ba lần được nghe, được đọc “Đại tá Nguyễn Phúc Tửng”.
Lần thứ nhất là trong cuộc nói chuyện với một vị nữ lưu hoạt động nhân quyền tại Pháp.
Lần thứ hai là đọc một bản tin tiếng Việt nói về hoat động của Văn Phòng Liên Lạc các Hội đoàn người Việt tại Pháp có chú thích hình: LS Vương Văn Bắc, Đt Nguyễn Phúc Tửng, Trg Tướng Trần Văn Trung
Lần thứ ba là đọc được trên Internet, trang mạng “General Hiếu”, viết:
Đại tá Nguyễn Phúc Tửng
Khóa 53E Không quân Việt Nam Cộng Hòa (*), người thành lập Phi đoàn 116 và là vị chỉ huy trưởng đầu tiên của phi đoàn này.
(*) Viết “Khóa 53E” là sai. Ông Nguyễn Phúc Tửng xuất thân Khóa 52F2 Marrakech, cùng khóa với các ông Trần Văn Hổ, Nguyễn Cao Kỳ, Lưu Kim Cương...
- Details
- Category: Tài Liệu KQ
- Hits: 7

BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 3)
Hồi Ký
Nguyễn Hữu Thiện
“Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”
(tiếp theo)
“Sư phụ” VÕ VĂN ÂN và Niên trưởng NGUYỄN PHÚC TỬNG
Khi tôi tới phi trường Bangkok khoảng 12 giờ đêm, không chỉ có Đại tá Võ Văn Ân mà còn có cả Trung tá Nguyễn Phúc Tửng chờ sẵn, nhưng vì chỉ biết mặt Đại tá Ân (qua xem hình) nên tôi chào ông trước:
- Chào niên trưởng!
- Giờ này còn “niên trưởng” gì nữa em. Kêu bằng anh được rồi!
Rồi ông giới thiệu ngắn gọn:
- Đây là anh Nguyễn Phúc Từng từ Pháp qua.
Đại tá Ân cho biết ông tới Bangkok từ sáng sớm, mướn một phòng trọ gần phi trường chờ Trung tá Tửng và tôi, ngủ đỡ một đêm rồi sáng hôm sau đi Rayong.
Tôi để ý quan sát hai vị đàn anh, ông Ân bảnh trai, cao ráo, ăn mặc tươm tất, để bộ ria mép như nam diễn viên Clark Gable, người thủ vai anh chàng Rhett Butler trong phim Cuốn Theo Chiều Gió (Gone With the Wind); còn ông Tửng thì không có gì nổi bật, ăn mặc xuề xòa đã vậy còn hói đầu và nét mặt không lấy gì làm vui vẻ, ít nói... nên khó lòng gây được cảm tình nơi người đối diện khi gặp lần đầu.
Lúc đó tôi đâu đã biết vai vế của ông Tửng trong Không Quân cho nên khi thấy ông “mày tao” với ông Ân còn ông Ân thì một điều “anh” hai điều “anh” với sự kính trọng, tôi rất thắc mắc.
Không biết ông Ân có đoán được thắc mắc của tôi hay không, chỉ biết trước khi bước lên taxi để đi về phòng trọ, ông quay lại nói nhỏ với tôi:
- Anh Tửng ngày xưa là thầy của anh đó em!
* * *
Ông Ân đưa tôi và ông Tửng về một phòng trọ tồi tàn ở một khu ngoại ô gần phi trường Don Mueang (ngày ấy Bangkok chưa có phi trường mới Suvarnabhumi).
Đó là một căn phòng trên tầng 6 (hay 7) của một building cũ kỹ (cũng may mà có thang máy), bên trong có mấy cái giường single bằng gỗ, một cái bàn nhỏ với mấy cái ghế; vì chỉ ở qua đêm nên tôi không để ý có bếp hay không, chỉ nhớ có cái ấm điện cũ kỹ, toilet và nhà tắm thì mốc meo, hôi hám...
Ông Ân đã tới Thái Lan nhiều lần, giải thích với tôi: vì chỉ cần ở qua đêm hoặc một hai ngày chờ phi cơ, ông đã dò hỏi và tìm được phòng ngủ bình dân này, vừa tiết kiệm tiền bạc vừa gần phi trường.
Khoảng 7 giờ sáng, ông Ân đã hối chúng tôi xuống để checkout và chờ taxi tới đón đi Rayong. Thì ra đêm hôm qua ông đã điều đình với người tài xế taxi chở chúng tôi từ phi trường về phòng trọ: sáng nay anh ta sẽ chở chúng tôi đi Rayong (hơn 180 km) với một giá “phải chăng” mà theo ông Ân vẫn còn rẻ nhiều so với phí tổn ba người chúng tôi đi “tuk tuk” (xe Lam ở Thái Lan) tới bến xe đò + xe đò đi Rayong + tuk tuk tới khách sạn!
Đường từ Bangkok đi về các tỉnh phía đông nam đều là xa lộ 2, 3 lane, anh tài xế taxi còn khá trẻ cứ chạy trên dưới 130 kmh bất chấp giới hạn 110 kmh theo luật định. Tôi hỏi anh bộ ở Thái Lan không có cảnh sát tuần tra xa lộ (highway patrol) sao, thì anh trả lời có nhưng rất hiếm, đang chạy mà thấy họ chỉ cần bớt ga là xong!
Sau một tuần lễ ở Thái Lan tôi nhận thấy đa số taxi, xe ôm, tuk tuk thường chạy quá tốc độ ấn định nhưng rất an toàn vì họ tuyệt đối tôn trọng luật lệ giao thông (trừ speeding!)
Càng xuôi nam, khung cảnh hai bên đường càng giống miền tây của Việt Nam. Ông Ân dân Long Xuyên, ông Tửng dân Sa Đéc, tôi dân Bắc 54 nhưng cũng từng giang hồ xuống tận Châu Đốc cho nên cả ba anh em không hẹn mà đều chạnh nhớ quê hương. Ông Ân buột miệng:
- Nhớ Việt Nam mình quá anh Tửng ơi, Thiện ơi!
Tới Rayong, xe taxi ngừng trước khách sạn Star Hotel, nơi ông Ân đã book sẵn phòng cho ba người chúng tôi.
Ngày ấy, đầu thế kỷ 21, khi chưa có các khách sạn và khu nghỉ mát 5 sao của Novotel, Hilton thì Star Convention Hotel (4 sao) là xịn nhất ở Rayong.
Hiện nay, thành phố Rayong, thủ phủ của tỉnh Rayong, nhìn ra vịnh Thái Lan, được xem là một trong những thành phố kỹ nghệ phát triển nhất ở vùng Đông Nam Á, với xưởng ráp xe hơi của hãng Ford có trên 2000 công nhân, với những nhà máy hóa chất hiện đại, nhưng vào thời gian tôi tới Rayong, Thái Lan cùng với một số nước Á Châu khác đang bị kiệt quệ sau Cuộc đại khủng hoảng tài chánh năm 1997 (1997 Asian financial crisis), kỹ nghệ du lịch cũng bị ảnh hưởng nặng nề cho nên giá mướn phòng ở Star Hotel được hạ xuống tới mức thấp nhất để cố gắng duy trì hoạt động, nhờ vậy ông Ân mới dám mướn phòng tại đây.
Vì ở các tầng trên, mỗi phòng chỉ có một giường đôi hoặc hai giường chiếc nên ông Ân với ông Tửng ở một phòng, tôi ở một phòng. Nhận phòng xong, nghỉ ngơi một lát ông Ân rủ ông Tửng và tôi xuống chợ Rayong kiếm cái gì bỏ bụng.
Xin có đôi dòng tả cảnh thành phố Rayong. Nếu so sánh Bangkok với Sài Gòn trước 1975 thì Rayong là Cần Thơ, tức là nhỏ hơn, đỡ xô bồ hơn nhưng cũng có những sinh hoạt phố thị, cơ sở thương mại, phương tiện giải trí, hàng quán, v.v...
Khách sạn Star Hotel nằm ở trung tâm thành phố, cách chợ Rayong khoảng 200, 300 mét. Nằm giữa khách sạn và chợ là khu bán những thức ăn chơi (street food) bên cạnh một sân khấu lộ thiên vào cuối tuần hay ngày lễ có nhạc sống “free”, có những băng ghế để khán giả vừa lai rai vừa thưởng thức văn nghệ.
Khi đi bộ từ khách sạn ra chợ, tôi để ý thấy ông Ân đi hơi cà nhắc thì cứ tưởng ông mới bị đau chân nhưng không dám hỏi; mãi sau này đọc bài “Ngành Quan Sát trong KLVNCH” của anh Võ Ý mới biết trước 1975 ông đã có nickname Ân “què”.
Còn ông Tửng thì bước đi khá chậm, có lẽ vì tuổi già sức yếu.
Chợ Rayong là một cái nhà lồng lớn, rất sạch sẽ thoáng mát. Điểm đáng chú ý đầu tiên là tới phân nửa diện tích được dành cho các quầy bán thức ăn nấu sẵn mà đa số khách hàng mua mang về nhà để ăn. Những quầy này bán đủ mọi thứ đồ kho, đồ xào, các loại canh chua, cà-ri..., các cặp vợ chồng đi làm về chỉ cần ghé qua mua là có một bữa cơm chiều thịnh soạn.
Cũng có một số quầy bán thêm các món ăn tại chỗ như cơm đĩa, mì, hủ tiếu... có mấy cái bàn gần đó cho khách ngồi.
Về giải khát thì có bia Singha của Thái Lan, Tiger của Singapore, Tsingtao của Trung Cộng mà tôi đã được thưởng thức ở Úc. Bia tây phương cũng có nhiều nhưng đặc biệt đi tới đâu cũng thấy quảng cáo Heineken của Hòa Lan, hầu hết mọi tấm bạt, dù che bên ngoài các hàng quán đều quảng cáo cho hiệu bia này!
Sau khi ăn trưa, ông Ân rủ chúng tôi đi một vòng quanh chợ cho biết phố Rayong rồi trở về trước sân khấu lộ thiên ngồi trò truyện, ngắm người qua lại.
Thời gian ba anh em chúng tôi ở Rayong, đầu năm 2003, người dân Thái Lan vừa kết thúc các hoạt động mừng sinh nhật Quốc vương Bhumibol Adulyadej (1927-2016) kéo dài một tháng trời. Khi chúng tôi tới Rayong, tại các địa điểm, ngã tư quan trọng quan trọng trong thành phố, trong đó có ngã tư trước Star Hotel vẫn còn các bàn thờ với tấm hình thật lớn của ông với đủ các loại hoa lan.
Ông Ân cho chúng tôi biết người dân Thái Lan họ tôn sùng, kính trọng hoàng gia của họ còn hơn “Sãi cả”, tức vị sư cao cấp nhất của Phật giáo Thái Lan. Ông Tửng thì có vẻ hiểu biết nhiều về hoàng gia Thái, từ Quốc vương Bhumibol, Hoàng hậu Sirikit tới các hoàng tử, công chúa...
Nghe ông Tửng nhắc tới hoàng gia Thái Lan, tôi bỗng nhớ lại 55 trước, thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, ngày còn học lớp Nhất ở trường tiểu học giáo xứ Bùi Phát, Phú Nhuận, cả lớp được xe buýt chở sang đường Công Lý đứng vẫy cờ chào đón Quốc vương Bhumibol và Hoàng hậu Sirikit công du VNCH.
Sau đó tôi cũng quên luôn ông vua Thái nhưng tên bà hoàng hậu Sirikit tôi vẫn nhớ mãi, không phải vì tôi là người ái mộ bà mà chỉ vì sau này tôi được sếp cũ là Thiếu tá (sau lên Trung tá) Lê Bá Định cho một gốc lan trắng trong số bốn, năm giống lan mang tên bà hoàng hậu.
Nguyên vào đầu năm 1971, sau khi phi đoàn khu trục 530 được thành lập tại Pleiku, ông Định đưa một toán hoa tiêu sang phi trường Nakhon Phanom, Thái Lan, để nhận phi cơ A-1 Skyraider của Phi Đoàn Đặc Nhiệm 602 (602nd Special Operations Squadron) của Không Lực Hoa Kỳ vừa bị giải thể cuối năm 1970.
Khi ra phố Nakhon Phanom ông Định mua một lố khăn phu-la bằng lụa Thái mang về làm quà cho mọi người đồng thời mua mấy gốc “lan Sirikit” đựng trong các chậu sành nhỏ và tôi được ông ưu ái cho một chậu.
Tôi đem về treo dưới hiên nhà nhưng đợi hoài mà không thấy gốc lan ra bông hoặc đẻ nhánh, cuối cùng nó chết khô. Ông Định chê tôi không biết cách “chơi lan” nhưng cuối cùng mấy gốc “Hoàng hậu Sirikit” của ông cũng chết khô theo.
Ông quăng mấy cái chậu sành đựng lan vào góc vườn, vợ ông chọc quê gọi là “lan... lịch kịch”!
* * *
Xế chiều, trước khi về khách sạn, ông Tửng nói ông Ân ra đứng trước bàn thờ Quốc vương Thái Lan để tôi chụp cho hai ông mấy pô làm kỷ niệm. Sau đó ông Ân mua một ít heo quay và mấy ổ bánh mì mang về để làm bữa tối. Dĩ nhiên, khách sạn có cafeteria và restaurant nhưng chúng tôi đâu dám héo lánh tới vì muốn tiết kiệm tiền bạc tối đa.
Cũng xin viết về việc “ăn đồng chia đều” giữa ba anh em. Ngay trên đường từ Bangkok đi Rayong, sau khi được biết tôi mang theo 1000 đô-la Úc dằn túi cộng thêm 1000 của Hội Không Quân Victoria đưa để chi tiêu (cho “công vụ”), ông Ân đã đề nghị như sau: chỉ có ba anh em ở chung với nhau mà chia ra hai “phe” ăn xài riêng thì không giống ai, vì thế tất cả mọi chi phí từ tiền phòng cho tới ăn uống, di chuyển... sẽ cộng lại rồi chia ba, và ông trao cho tôi nhiệm vụ ghi chép, lưu giữ mọi khoản chi tiêu.
Về tới khách sạn, ăn tối xong trò chuyện một hồi, thấy ông Ân ông Tửng tìm về quá khứ, cùng nhau hồi tưởng bao chuyện xưa tích cũ trong quân chủng; để hai đàn anh được tự nhiên, tôi bỏ về phòng mình xem ti-vi.
Nhưng chỉ mấy phút sau ông Tửng sang gõ cửa. Ông không bước vào phòng, chỉ nhìn thẳng vào mặt tôi, nghiêm giọng:
- Thiện mày nghe tao nói nè, mình sang đây là để thăm LT và dự các phiên tòa chứ không phải đi du lịch, dứt khoát không có cái vụ mát-xa gái ghiếc nghen! Mày muốn... cái gì thì đợi về Bangkok!
Nghe ông Tửng nói thế tôi vừa ngạc nghiên vừa không vui (vì bị dạy mo-ran), đáp ngay:
- Anh Tửng đừng lo, em không ham mấy mục đó đâu!
- Thì tao cứ dặn phòng hờ vậy cho chắc ăn. Mày phải biết tụi nó (Việt Cộng) cố tìm mọi cách để phá mình, đừng có làm gì để bị bể nghen!
Ông Tửng về phòng rồi tôi mớt chợt nhớ lại hồi trưa khi mới tới khách sạn, trong khi ông Ân làm thủ tục chek-in, tôi đã quay sang chiêm ngưỡng mấy cô gái trẻ đẹp sexy ngồi tán dóc với nhau ở gần đó. Nhìn cách ăn mặc hở hang và dáng điệu khiêu khích của các cô, một người kém thông minh tới đâu cũng dư biết họ thuộc thành phần nào!
Thật tình mà nói, lúc đó tôi ngắm các cô vì tò mò hơn là để “rửa mắt” nhưng có lẽ ông Tửng không nghĩ như thế mà cho là tôi có ý đồ đen tối cho nên giờ này mới sang phòng tôi để răn đe!
Những gì xảy ra sau đó cho thấy ông Tửng đoán việc... như thần: khoảng 9 giờ đêm, một nhân viên (nam lao công) của khách sạn lên gõ cửa phòng, hỏi có muốn gái mát-xa không!
Dĩ nhiên tôi lịch sự từ chối!
* * *
Ngày hôm sau, ông Ân đưa tôi đi ăn chiều với vị luật sư Thái Lan (tôi không nhớ tên) mà ông đã liên lạc trong chuyến đi trước để bàn thảo về phiên tòa xử LT sẽ diễn ra vào ngày mai. Ông Tửng vì bận “việc riêng” không có mặt (sau này tôi mới biết việc gì).
Ông Ân chọn một nhà hàng gần bờ biển tương đối bình dân nhưng yên tĩnh với những cái bàn dưới bóng dừa, rất thích hợp cho một buổi nói chuyện như thế.
Bờ biển ở đây khá đặc biệt, bến đậu của tàu đánh cá thay vì ở ngoài bờ lại là trong một con rạch lớn nằm phía trong, ăn thông với bờ biển. Con rạch được đào khá sâu để những chiếc tàu đánh cá tương đối lớn có thể cập sát bờ, thuận tiện cho việc vận chuyển hải sản lên bờ.
Nhà hàng mà ông Ân chọn nằm trên khoảng đất giữa bờ biển và con rạch, vừa có thể ngắm biển vừa quan sát sinh hoạt của tàu thuyền (sau này tìm hiểu tôi được biết tỉnh Rayong là trung tâm sản xuất nước mắm của Thái Lan).
Những tàu đánh cá ở đây đều là tàu gỗ nhưng khá lớn, có khi dài tới 20 mét, với đặc điểm được sơn màu sắc rực rỡ rất vui mắt...

Vì ông luật sư bận việc bất ngờ, tới trễ nên trong lúc chờ đợi, hai anh em vừa lai rai vừa trò chuyện – đủ thứ chuyện. Bỗng ông Ân nói:
- Nhìn mấy cái tàu này anh nhớ công ty đánh cá của anh quá Thiện ơi!
Nghe ông nói tôi rất ngạc nhiên vì trước đó qua nghe anh Phạm Công Khanh kể tôi chỉ biết ông Ân từng làm chủ siêu thị...
Đôi mắt xa xăm như thả hồn về quá khứ, ông Ân bắt đầu kể chuyện. Ngay lúc đó tôi không hiểu tại sao ông Ân lại trút hết bầu tâm sự với một đàn em Không Quân mới gặp hơn một ngày; và sau này tôi cũng chỉ có thể giải thích vì hai anh em chúng tôi “hạp nhau”!
Tôn trọng người đã khuất - ông Võ Văn Ân, ông Nguyễn Cao Kỳ - lẫn người còn sống - và bà Nicole Kim, người lần lượt làm vợ hai ông – tôi chỉ xin rất vắn tắt những gì ông Ân kể liên quan tới công ty tàu đánh cá của ông mà thôi.
Tàu đánh cá nói tới ở đây là tàu sắt lớn (thuê của công ty Mỹ) chuyên đánh bắt tuna tận ngoài khơi, loại cá lớn để làm các loại thực phẩm chứ không phải để làm nước mắm như cá ở Rayong.
Công ty có sự hùn hạp của ông Nguyễn Cao Kỳ. Điều đáng tiếc là doanh nghiệp ngày càng phát triển thì quan hệ tình cảm giữa ông Kỳ và bà Kim càng thắm thiết. Cuối cùng bà Kim đề nghị chia tay chồng, ông Ân đồng ý.
Tôi vẫn còn nhớ nguyên văn câu nói của ông Ân:
- Anh không oán trách ông Kỳ, anh cũng chẳng oán trách bà Kim. Mình là đàn ông mà không giữ được vợ là mình dở, là lỗi tại mình. Anh chỉ tiếc một điều là vì việc này mà anh phải giải tán công ty (để chấm dứt mọi quan hệ giữa ông với ông Kỳ và bà Kim).
Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Cao Kỳ, bà Nicole Kim, và LT (đánh dấu chữ X). Không có ghi chú về
thời điểm nhưng chắc chắn phải là trước khi LT về VN thả truyền đơn lần thứ nhất (1992)
Rất có thể một số độc giả cho rằng ông Ân nói với tôi như thế để ra vẻ mình là một người cao thượng, nhưng riêng tôi hân hạnh được ông coi như một người em cho tới những ngày cuối đời, tôi hiểu ông và tin ông nói thật lòng.
* * *
Buổi gặp gỡ giữa vị luật sư Thái Lan và ông Ân diễn ra rất tốt đẹp, phần tôi chỉ ngồi nghe.
Ông luật sư có những nét lai Ấn-độ nhưng nói tiếng Anh rất dễ nghe (chứ không chói tai như nhân vật Apu trong phim tập hoạt họa The Simpsons). Ông cho biết ông nhận lời ông Ân chỉ vì qua theo dõi vụ án ông rất cảm phục LT, thù lao đối với ông chỉ là chuyện phụ.
Cái khó khăn là làm sao trong phiên tòa ngày mai LT đồng ý để ông đại diện, có như thế các phiên sơ thẩm sắp tới mới có thể diễn ra như nhà cầm quyền Thái Lan mong muốn, và khi ấy việc dẫn độ LT Việt Nam để xét xử theo yêu cầu của nhà cầm CSVN sẽ bị tạm dẹp sang một bên.
Qua ngày hôm sau, theo thông báo thì 10 giờ sáng tòa bắt đầu xử nhưng mới 7 giờ ông Ân đã hối ông Tửng và tôi đi bộ ra chợ ăn sáng rồi kêu xe tuk tuk tới tòa, cách đó khoảng 2, 3 km.
Khoảng 9 giờ, phái đoàn người Việt từ Hoa Kỳ gần 20 người đã tề tựu đông đủ dưới cái mái ở bên phải sân trước tòa án, nơi giới truyền thông, thân nhân, dân chúng có thể ngồi chờ trên những băng ghế.
Như đã viết, phái đoàn người Việt từ Hoa Kỳ sang Rayong lần này, theo lời ông Ân, đông chưa từng thấy, không chỉ vì đây là phiên dự thẩm cuối cùng mà còn vì sự lo ngại biết đâu trước sự “ương ngạnh” của LT, nhà chức trách Thái Lan sẽ cho dẫn độ anh về Việt Nam theo yêu cầu của chế độ cộng sản Hà Nội, thì đây sẽ là chuyến thăm viếng sau cùng để... tiễn chân!
Về phía truyền thông, tôi không để ý từ Mỹ có những ai, chỉ biết có cô Thanh Trúc của đài phát thanh Á Châu Tự Do (RFA) từng sang Rayong nhiều lần, và mấy nhà báo Thái Lan của hai tờ Anh ngữ The Bangkok Post và The Nation tới từ Bangkok.
Trong lúc chờ đợi, chúng tôi chụp hình kỷ niệm và trò truyện, qua đó tôi được biết quỹ yểm trợ LT ở Hoa Kỳ lên tới cả trăm ngàn đô-la cho nên trong việc mướn luật sư tư biện hộ cho LT tiền bạc không thành vấn đề mà điều quan trọng là LT có chấp nhận vị luật sư hay không!
Gần 10 giờ, LT được chở tới tòa bằng một chiếc xe bít bùng cùng với vài phạm nhân hình sự khác. Tất cả mặc quần áo tù hình sự gồm cái áo ngắn tay không cổ và cái quần đùi dài tới đầu gối màu nâu đỏ, hai chân bị xiềng với nhau bằng một sợi xích khá lớn.
LT và các phạm nhân được đưa vào khu nhà tạm giam phía sau tòa án, riêng LT có cảnh sát hộ tống hai bên nên không ai có thể tới gần, chỉ đứng cách xa mấy mét vẫy chào, gọi tên LT và anh tươi cười đưa tay lên chào lại.
So với ngày sang thăm Úc trước đó hơn ba năm, LT gầy và già đi thấy rõ. Khi tôi gọi tên anh, anh quay sang nhìn tôi và nói “Khỏe không?”, không hiểu vì anh nhận ra tôi hay chỉ là câu chào hỏi chung chung?
Sau khi tất cả phạm nhân được đưa vào khu tạm giam, mọi người mới được vào phòng xử; phòng xử TL nằm ở phần trước tòa nhà, khá rộng rãi. Mặc dù có lệnh tuyệt đối cấm thu băng, chụp hình, tôi vẫn ngồi ở một ghế sát lối đi để tìm cơ hội chụp hình.
Kết quả, khi LT từ cuối phòng xử đi lên, với cái máy ảnh bỏ túi dấu phía trong vạt áo veston, tôi đã lén chụp được một tấm hình từ phía sau. Dù chỉ là chụp phóng chừng, tôi cũng may mắn lấy được trọn vẹn đôi chân bị xiềng của LT với hậu cảnh là cái bục của tòa án, quan tòa, hình vua Thái Lan trên tường... cho biết đây là một tấm hình chụp trong tòa bất chấp lệnh cấm của tòa (rất tiếc tấm hình này sau khi đăng báo, nhân viên tòa soạn đã để thất lạc).
Diễn tiến phiên tòa được tôi lén thu băng bằng cái máy micro-cassette dấu trong túi áo sơ-mi.
* * *
Phiên tòa diễn ra khá sôi nổi nhưng cũng không có gì hấp dẫn. Sôi nổi bởi vì “bị cáo” (LT) không chỉ nói dài nói dai mà có khi còn ngắt lời quan tòa, cướp lời luật sư biện hộ, khiến anh bị quan tòa cảnh cáo nhiều lần. Không có gì hấp dẫn vì LT cứ lập đi lập lại mình là một nhà tranh đấu cho nhân quyền cho nên đây không phải là một vụ án hình sự mà là vụ án chính trị, xét xử một chiến sĩ nhân quyền!
LT cũng lập lại yêu cầu phải cho viên phi công Thira ra tòa đối chất với mình, bởi anh khẳng định anh chỉ thuyết phục, mua chuộc Thira bay sang không phận Việt Nam chứ không đe dọa tính mạng. Khi quan tòa trả lời viên phi công này sẽ chỉ ra tòa sơ thẩm, tức là các phiên tòa xét xử TL về ba tội danh cáo buộc, anh đã cực lực phản đối và bị quan tòa ra lệnh ngồi xuống!
Cứ mỗi lần LT ngắt lời quan tòa, ở dưới này ông Ân ngồi cạnh tôi lại than trời!
Phải là một người khách quan hiện diện tại tòa mới thấy được thái độ ngạo mạn của LT. Anh mang theo một tập hồ sơ rất dày, vừa nói vừa trưng ra những điều được ghi trong Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền hoặc Công pháp quốc tế, v.v..., ý muốn nói quan tòa... dốt!
Tới giờ giải lao 15 phút, LT được phép xuống phía dưới thảo luận, trao đổi với chúng tôi và luật sư biện hộ. Nói là thảo luận, trao đổi nhưng trên thực tế ông Ân khuyên cái gì, luật sư nói điều gì LT cũng bác bỏ.
Có lúc anh còn lớn tiếng với “Sư phụ” khiến ông Tửng phải xen vào, nói “LT, em không được vô lễ với anh Ân như thế”. Luật sư khuyên tới khuyên lui, LT đốp chát “You know nothing” khiến ba người chúng tôi phải lắc đầu!
Gần hết giờ giải lao, LT có vẻ hòa hoãn hơn, anh đưa cho ông Ân một xấp giấy khoảng 10 tờ vừa chữ in vừa viết tay (của LT) nhờ ông ra tiệm photocopy để trao cho luật sự biện hộ, và tôi đã tình nguyện làm công việc này vì ông Ân cần ở lại trong tòa để theo dõi diễn tiến.
Ông Ân từng tới tòa án Rayong nhiều lần, chỉ cho tôi tiệm photocopy cách tòa khoảng 500 mét. Khi tôi trở về cảnh sát không cho vào tòa, phải ngồi chờ ở phía ngoài.
Phiên xử kết thúc khoảng 1 giờ trưa. LT được đưa trở lại khu nhà tạm giam. Tại đây các phạm nhân được phép ra sân trò chuyện với thân nhân qua một hàng rào lưới thép trong thời gian 30 phút. Trước khi cô Thanh Trúc phỏng vấn LT, tôi yêu cầu anh nói đôi lời chào hỏi đồng hương ở Úc và cám ơn sự hỗ trợ tinh thần cũng như vật chất, để tôi gửi về Úc cho kịp buổi phát thanh lúc 7 giờ tối của SBS Radio...
* * *
Trở về khách sạn tôi lấy cái laptop ra cặm cụi đánh báo cáo. Tôi “mổ cò” tới chiều mới xong, ông Ân đưa tôi và ông Tửng xuống phố tìm một tiệm Internet để gửi báo cáo đi các nơi.
Xong công tác, ba anh em đi vòng vòng để tìm mua cái đồ khui rượu vang (wine opener) để khui chai vang đỏ ba anh em sẽ uống tối nay, vì ngày ấy hầu hết các chai rượu vang ngon vẫn sử dụng nút bần (cork) chứ chưa sử dụng nút vặn (screw cap) như hiện nay. Đây là một trong hai chai vang đỏ Bordeaux ông Tửng mang từ Pháp sang.
Đi hết một dãy phố mà vẫn không tìm ra được một tiệm nào bán đồ khui rượu, hỏi họ có biết chỗ nào bán không họ cũng lắc đầu. Ông Tửng bực mình:
-ĐM, chắc dân Thái Lan không biết uống rượu vang cho nên mới không bán đồ khui... Tao bảo đảm với tụi mày hồi nãy mình hỏi mua cái đồ khui tụi nó cũng không hiểu mình hỏi cái gì!
Cũng xin mở ngoặc để nói về thói quen “xổ tiếng Đan Mạch” của ông Tửng. Trước năm 1975, cứ theo lời đồn trong Không Quân, vị chỉ huy “xổ tiếng Đan Mạch” nhiều nhất không ai khác hơn là Trung tướng Tư lệnh Trần Văn Minh, tới mức trong KQ người ta đặt cho ông nickname Minh “đù”; còn bên ngoài quân chủng, ông được gọi một cách lịch sự là Minh “đen” để phân biệt với Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Quân Đoàn III là Minh “đờn”, Trung tướng Trần Văn Minh (Lục quân) là Minh “nhỏ”, và Trung tướng Dương Văn Minh là Minh “lớn” (người Mỹ gọi là “big” Minh).
Trước năm 1975, tôi không phục vụ tại BTL/KQ nên không biết trên thực tế vị Tư lệnh sau cùng của quân chủng “xổ tiếng Đan Mạch” thường xuyên tới mức nào nhưng sau hai ngày gặp ông Tửng, tôi cho rằng cũng chỉ bằng vị niên trưởng này là cùng!
Tôi nói:
- Khỏi tốn công tìm nữa hai anh. Em có cách mở rượu vang không cần đồ khui.
Ông Tửng nghi ngở:
- Thiệt không mày?
- Dạ, em bảo đảm mà!
Rồi ba anh em đi về khách sạn; về tới khu bán thức ăn chơi (bên cạnh một sân khấu lộ thiên) ông Ân dắt tôi và ông Tửng vào để mua “mồi”. Tới một quầy bán đồ chiên, tôi và ông Tửng hết sức ngạc nhiên khi thấy cô bán hàng vừa nói tiếng Thái tíu tít vừa tươi cười săn đón, mời mọc ông Ân, và ông cũng đáp lại bằng tiếng Thái.
Công tâm nhận xét, cô bán hàng cũng không còn trẻ mà phải trên dưới 40. Cô khá đẹp, làn da trắng muốt chứ không rám nắng như đa số đàn bà con gái Thái cho nên tôi nghi tổ tiên của là người Hoa hoặc lai Trung Hoa.
Điều đáng nói cô ta không chỉ tươi cười săn đón ông Ân như một khách hàng bình thường mà trong ánh mắt nụ cười của cô còn có cái gì đó rất khó diễn tả.
Quan sát các món chiên, ông Tửng chấm ngay món đuông chiên vàng béo ngậy mà tôi không biết là loại đuông gì. Ông Ân mua một chén (bỏ vào bịch ni-lông), ông Tửng nói mua thêm chén nữa; tôi thì chỉ thích thịt nên mua mấy miếng gà chiên.
Vừa về tới khách sạn, ông Tửng lấy ngay chai rượu ra nói:
- Đâu mày mở biểu diễn cho tao coi!
Lúc đó tôi chưa biết cách mở rượu vang bằng cách lấy đế giày dộng vào đít chai mà chỉ biết sử dụng đầu lớn của đôi đũa đẩy cái nút chai lọt vào bên trong chai, trông không thẩm mỹ một chút nào cả. Dù vậy ông Tửng cũng phục sát đất:
- ĐM, thằng nhỏ Bắc kỳ này sao cái gì nó cũng biết vậy ta!
Từ lúc tới Rayong, đây là bữa ăn thoải mái đầu tiên của chúng tôi, đầu óc không còn bị căng thẳng vì những việc liên quan tới LT, cho nên ba anh em vừa ăn uống vừa nói chuyện vui vẻ. Tôi có cái tật thích chọc ghẹo người khác, thấy ông Tửng ưa cằn nhằn tôi càng thích chọc:
- Anh Tửng, hôm qua đánh báo cáo gửi đi em có một thắc mắc mà chưa kịp hỏi anh: xưa nay dân Nam kỳ kỵ húy chúa Nguyễn Phúc nên chữ “Phúc” được viết thành “Phước”, vậy tại sao tên anh không phải Nguyễn Phước Tửng mà lại là Nguyễn Phúc Tửng?
Ông Ân nghe tôi nói có lý quá cũng phụ họa:
- Ờ ngộ hén, phải là Nguyễn Phước Tửng chớ!
Ông Tửng bị bí, tức mình cãi cối:
- Nhưng ông già tao thích đặt tên cho tao là Nguyễn Phúc Tửng tụi mày tính sao đây!
Cứ như thế ba anh em vừa ăn uống vừa tán dóc; riêng hai chén đuông chiên, gần như ông Tửng thầu hết...
Sáng hôm sau tôi quần áo chỉnh tề sang phòng hai đàn anh để chuẩn bị đi nhà tù Rayong thăm LT như đã hẹn trước với phái đoàn người Việt từ Hoa Kỳ thì thấy ông Tửng vẫn ngồi trên giường, mặt mũi bơ phờ.
Thì ra đêm hôm qua đàn anh bị Tào Tháo rượt suốt đêm vì đã một mình xơi tới nửa ký đuông chiên!
Báo hại ông Ân phải điện thọai xin lỗi phái đoàn và hướng dẫn họ thủ tục thăm tù trước khi lội bộ xuống phố Rayong tìm mua thuốc trụ sinh cho ông Tửng. Cũng may mà các nhà thuốc tây ở Rayong cũng bán thuốc thoải mái như ở Việt Nam trước năm 1975, nghĩa là không cần phải có toa bác sĩ.
Sau khi uống thuốc, tới khoảng 11 giờ, ông Tửng cho biết mình đã cảm thấy khỏe và nhất định đòi đi thăm LT, hy vọng phái đoàn người Việt còn ở đó.
Khuyên can không được, ông Ân đành đưa chúng tôi xuống phố kêu tuk tuk đi vào nhà tù Rayong.
Tới nơi chẳng những không gặp đoàn người Việt (đã ra về) mà còn không được gặp LT vì nhân viên nhà giam viện lý do hết giờ thăm mặc dù lúc đó mới hơn 12 giờ trưa. Sau này chúng tôi được biết vì LT gây sự với đám cai ngục nên mới sinh chuyện.
Đợi cả nửa tiếng đồng hồ không có tuk tuk, chúng tôi đành phải đi xe ôm. Như đã viết ở trên, tài xế taxi, tuk tuk, xe ôm ở Thái Lan hầu như ai cũng chạy quá tốc độ ấn định, ông Tửng lại ngồi xe của một tay thích... lạng cho nên về tới chợ Rayong mặt ông không còn một hột máu, phải ngồi nghỉ ở một băng ghế để hoàn hồn!
Sợ tôi lại chọc đàn anh của mình, ông Ân kéo tôi ra xa nói nhỏ, giải thích sở dĩ ông Tửng yếu như thế là vì mới mổ tiền liệt tuyến được hơn hai tuần. Nghe vậy tôi càng thêm kính mến vị niên trưởng thuộc hàng khai quốc công thần của quân chủng!
Sau khi ông Tửng nghỉ mệt một hồi, chúng tôi đi vòng vòng chợ Rayong. Tới trước một cửa hàng bán sỉ sầu riêng, từng đống xếp cao mấy mét, ông Tửng dừng lại, nói:
- Chà sầu riêng đã quá, vô hỏi xem họ có bán lẻ mua mấy trái về khách sạn ăn, Ân!
Ông Ân đáp:
- Tui sợ khách sạn không cho đem vô đâu!
Thấy mặt ông Tửng tiu nghỉu, ông Ân nói:
- Để tui hỏi mấy bả bán cho mình mấy trái ăn tại chỗ được không.
Nói xong ông Ân bước vào cửa hàng vừa lấy tay ra dấu vừa bập bẹ tiếng Thái, hai phụ nữ bán hàng ra vẻ rất hiếu khách, vui vẻ gật dầu, ông Ân liền vẫy tay gọi chúng tôi vào. Dĩ nhiên, tôi từ chối!
Có thể nói tôi là một trong những tay Bắc kỳ 54 bị “Nam kỳ hóa” hơn ai hết (do những năm tháng sống ở Tha La xóm đạo, Trảng Bàng, Tây Ninh hồi mới vô Nam) nhưng lại không biết ăn, thậm chí không chịu nổi mùi sầu riêng!
Vì thế tôi phải bỏ đi chơi vòng vòng khoảng nửa tiếng đồng để hai đàn anh Nam kỳ ăn sầu riêng cho thỏa thích. Ăn xong, ông Tửng ra vẻ đã lấy lại phong độ, không chịu về khách sạn mà nói ông Ân đi tới khu bán thức ăn chơi (mà tối hôm qua chúng tôi đã mua đuông chiên) tìm hiểu thêm về những món ăn đặc biệt của Thái Lan, nhân tiện mua thức ăn cho bữa trưa, bữa chiều.
Các bà bán hàng tại đây hình như ai cũng biết ông Ân và tỏ ra rất có cảm tình, vồn vã. Thấy bữa nay có thêm hai người nữa, họ hỏi tới hỏi lui, dù ngôn ngữ bất đồng chúng tôi cũng hiểu mấy bả hỏi tụi tôi là người nước nào?
Ông Ân nói mấy bả thử đoán xem thì họ đoán ông là người Nhật, ông Tửng là người Tàu, còn tôi đen đủi xí trai lại để ria mép nên họ nói tôi là người Indonesia. Buồn 5 phút!
Sau khi đi một vòng và mua thức ăn, trên đường trở về khách sạn, đi ngang quầy bán đồ chiên mà hôm trước chúng tôi mua đuông, cô bán hàng vừa thấy chúng tôi là vồn vã chỉ vào khay đuông chiên mời mọc. Ông Ân lắc đầu quầy quậy, tay chỉ vào những túi thức ăn chúng tôi đã mua nhưng người đẹp vẫn tặng “free” cho chúng một hai món đồ chiên khác.
Đi được một quãng, ông Tửng nói với ông Ân, tôi biết là nói đùa nhưng nghe cũng rất... ấm lòng:
-Ê Ân, coi bộ chị nhỏ đó mết mày dữ à, mà tao thấy coi cũng được quá đi chớ, hay là mày ở lại Rayong luôn cho rồi!
Ông Ân chỉ cười.
(Còn tiếp)
- Details
- Category: Tài Liệu KQ
- Hits: 152

“Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”
(tiếp theo)
* “Sư phụ” VÕ VĂN ÂN và Niên trưởng NGUYỄN PHÚC TỬNG
- Details
- Category: Tài Liệu KQ
- Hits: 375
Read more: BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 3) - Nguyễn Hữu Thiện

Hẳn anh Hiệp Sĩ còn nhớ ?
""Một thời xé gió , đạp mây !
Giờ đây Hiệp Sĩ múa... cây đập ruồi !..."
Tôi cũng ngồi buồn lục lại bài viết khá lâu có liên quan với anh ,post lại cho chư huynh đọc vui
Dưới đây là trích đoạn "Ông Tướng… Nuôi Gà!"
Nghịch_Nhĩ.
- Details
- Category: Tài Liệu KQ
- Hits: 188