Tài Liệu KQ
BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 4)
Những người muôn năm cũ…

Đại tá Vũ Văn Ước
Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện
*Những bộ nhớ thời “khuyết sử”
(tiếp theo)
Viết tiếp về việc thực hiện quyển Quân Sử Không Quân VNCH của Liên Hội KQ Úc Châu.
Từ năm 2002 tới năm 2004, NT Võ Dinh đã viết cho tôi năm lá thư - một thư thăm hỏi và bốn thư trả lời các Thư tham khảo.
Ngày ấy, trong tiến trình biên soạn nội dung tôi dự trù gửi đi ba Thư tham khảo để xin các vị niên trưởng và chiến hữu KQ trả lời những thắc mắc còn tồn tại, hoặc cho ý kiến về những giai thoại, huyền thoại, hoặc những chuyện “nên viết hay không nên viết”, tuy nhiên sau khi gửi đi ba Thư tham khảo, tới đầu năm 2004 đọc lại toàn bộ bản thảo, tôi nhận ra vẫn còn một số điểm mâu thuẫn trong Chương I – Việc thành lập KQVNCH, và Chương IV – Thời kỳ bành trướng nên đã gửi thêm Thư tham khảo cuối cùng.
Kết quả tôi đã nhận được thư trả lời bổ túc của NT Võ Dinh, từ đó tôi có thể quyết định những gì cần hiệu đính, những gì nên giữ lại, những gì cần loại bỏ.
* * *
Sau khi quyển Quân Sử Không Quân VNCH được phát hành tại Melbourne, Úc-đại-lợi vào Ngày Không Lực 1 tháng 7 năm 2005 (kỷ niệm 50 năm ngày thành lập KQVN), chúng tôi gửi biếu NT Võ Dinh một cuốn, được ông viết thư báo đã nhận được sách và gửi lời khen. Từ đó tôi... lơ ông luôn!
Thật ra tôi không bao giờ quên NT Võ Dinh mà chỉ lười viết thư (như tôi đã viết ở trên, ông không sử dụng email).
Phải đợi tới khi bào đệ của ông là Đại tá Võ Quế (cựu Không đoàn trưởng Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku) qua đời tại Hoa Kỳ, tôi mới bỏ công viết thư chia buồn; một lần rồi thôi.
Cho tới những năm tháng cuối đời, NT Võ Dinh vẫn tiếp tục là “độc giả trung thành” của đặc san Lý Tưởng - Úc Châu; mỗi năm ông không quên gửi 20 Mỹ kim gọi là “bưu phí” cho KQ Bùi Tá Khánh (PĐ-219), đại diện Lý Tưởng - Úc Châu và Ban thực hiện Quân Sử Không Quân tại Hoa Kỳ.
Thực ra hai số Lý Tưởng - Úc Châu mỗi năm được gửi tới NT Võ Dinh dưới hình thức “Kính Biếu”, thay lời cảm ơn NT đã tận tình chiếu cố, giúp đỡ, và khích lệ trong việc thực hiện cuốn Quân Sử Không Quân, nhưng có lẽ vì là người trọng nguyên tắc, ông đã gửi trả tiền tem.
Từ đó, tất cả những gì nhắc nhớ tới NT Võ Dinh, với tôi, chỉ là tên NT và số tiền 20 Mỹ kim trong danh sách độc giả ở Hoa Kỳ & Canada ủng hộ Lý Tưởng - Úc Châu, do KQ Bùi Tá Khánh ghi lại sau mỗi lần gửi báo.
VŨ VĂN ƯỚC – Công tử Hà Thành
Cựu Đại tá Vũ Văn Ước là vị niên trưởng thứ ba sau cựu Thiếu tá Trần Phước Hội và cựu Chuẩn tướng Võ Dinh tự động liên lạc với Ban Thực Hiện QSKQ sau khi đọc được Thông Báo của chúng tôi trên Lý Tưởng của Tổng Hội và các đặc san Không Quân.
Là một trong những vị NT liên lạc với chúng tôi thường xuyên nhất, gửi nhiều tài liệu, nhiều hình ảnh nhất nhưng khác với hai ông Trần Phước Hội và Võ Dinh trả lời thẳng vào câu hỏi, đóng góp đúng đề tài, ông Vũ Văn Ước làm việc theo hứng và đôi khi rất... lang thang.
Nhưng cũng chính vì thế mà chúng tôi biết thêm nhiều chuyện, chính thức cũng như bên lề, xảy ra gần một nửa thế kỷ trước, cho bản thân ông cũng như những vị niên trưởng khác, đôi khi chẳng dính dáng gì tới nội dung cuốn QSKQ nhưng rất thú vị!
* * *
NT Vũ Văn Ước sanh năm 1930 tại Hà Nội. Gia nhập Không Quân cuối năm 1951, theo học Khóa 1 Hoa Tiêu tại TTHLKQ Nha Trang, khai giảng vào tháng 3/1952.
(Ngày đó gọi là “Khóa Hoa Tiêu” và bằng được cấp gọi là “Bằng phi công quân sự”; không hiểu từ khóa nào thì được gọi là “Khóa Hoa Tiêu Quan Sát”)
Khóa này gồm 15 khóa sinh: bốn thiếu úy đã tốt nghiệp Khóa 3 Sĩ Quan Hiện Dịch (Đà Lạt) xin chuyển sang Không Quân là Võ Dinh, Nguyễn Ngọc Oánh, Từ Bộ Cam, Nguyễn Thế Anh, và 11 dân chính là Nguyễn Mạnh Bổng, Bùi Quang Các, Nguyễn Tâm Đăng, Mai Văn Hạnh, Dương Thiệu Hùng, Nguyễn Kim Khánh, Võ Phước, Trần Bá Quy, Phạm Long Sửu, Nguyễn Thanh Tòng, và Vũ Văn Ước.
Nhưng khi tốt nghiệp chỉ còn 14 người. Nguyên nhân: sau khi lãnh bằng bay solo, trong một phi vụ tập huấn, khóa sinh Nguyễn Tâm Đăng đã tử nạn khi phi cơ của ông đụng phải phi cơ của khóa sinh Vũ Văn Ước; được ghi nhận là nhân viên phi hành đầu tiên của KQVN tử nạn khi thi hành công vụ.
Sau khi tốt nghiệp vào tháng 10/1952 với cấp bậc Thiếu úy, ông Vũ Văn Ước được cử làm Trưởng Biệt Đội Bắc Việt gồm 2 phi hành đoàn và hai phi cơ quan sát Morane-Saulnier MS-500 (máy bay “bà già”) tới đồn trú tại căn cứ Không Quân Chiến Thuật của Pháp tại phi trường Bạch Mai, Hà Nội.
Năm 1954, các lực lượng Quân Đội Quốc Gia di chuyển vào Nam, ông Vũ Văn Ước giữ chức vụ Giám đốc Trường Phi Hành, TTHLKQ Nha Trang.
Sau đó ông lần lượt giữ các chức vụ Chỉ huy phó TTHLKQ, Chỉ huy trưởng Liên Đoàn Tác Chiến, Không Đoàn 41 Chiến Thuật (Đà Nẵng), Trưởng Phòng Hành Quân thuộc Trung Tâm Hành Quân Không Quân (Tân Sơn Nhất).
Năm 1966, với cấp bậc Trung tá, ông ra Nha Trang giữ chức vụ Tư Lệnh KĐ62CT thay thế Trung tá Nguyễn Huy Ánh về Cần Thơ làm Tư Lệnh KĐ74CT.
Năm 1970, với cấp bậc Đại tá, ông về Tân Sơn Nhất làm Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân (AOC: Air Operations Command) cho tới tháng Tư 1975.
Đại tá Vũ Văn Ước đã tốt nghiệp các khóa Chỉ Huy Tham Mưu tại Pháp, Hoa Kỳ và Khóa Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp tại Đà Lạt. Trong số huy chương ông được ân thưởng, có Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
Sau năm 1975, ông và gia đình định cư tại Hoa Kỳ. Ông mất năm 2010, thọ 81 tuổi.
* * *
Trước khi về Biên Hòa (giữa năm 1972) và trở thành người thân cận của Đại tá Từ Văn Bê tôi chưa từng gặp Đại tá Vũ Văn Ước, chỉ được nghe kể về ông, đa số là chuyện... trà dư tửu hậu, nào là ông Vũ Văn Ước có “phốt” nên bị mất chức Tư lệnh KĐ62CT, nào là ông “nặng phần trình diễn”, nào là ông thích các... bóng hồng, nào là Vũ Văn Ước phu nhân là bà vợ ghen nổi tiếng, cả cư xá sĩ quan ở Tân Sơn Nhất, Nha Trang đều biết, v.v...
Phải đợi tới đầu năm 1973 tôi mới được thấy Đại tá Vũ Văn Ước lần đầu tiên khi theo Đại tá Từ Văn Bê về Tân Sơn Nhất tham dự buổi họp giữa BTL/KQ và các ông đơn vị trưởng đơn vị biệt lập (các Sư đoàn KQ, TTHLKQ, các Bộ chỉ huy...); kế đến là lần thứ hai trong lễ kỷ niệm Ngày Không Lực năm 1973, cũng tại Tân Sơn Nhất.
Trước kia các buổi họp giữa BTL/KQ và các ông đơn vị trưởng luôn luôn được tổ chức tại phòng họp của BTL/KQ nhưng tới năm 1973 lại được tổ chức tại phòng thuyết trình (briefing room) của Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân theo lời mời của Đại tá Vũ Văn Ước, Chỉ huy trưởng.
Trước khi đi, ông Từ Văn Bê nói với tôi có lẽ Ước muốn khoe cái phòng thuyết trình đẹp nhất trong Không Quân do Đệ Thất Không Lực (7th Air Force) bàn giao cho BCH/HQ/KQ, và BTL/KQ nhận lời vì muốn “an ủi” ông Ước vừa bị hụt lên Chuẩn tướng vào cuối năm 1972.
Như tôi đã viết trong một kỳ trước, cùng với những buổi khao quân linh đình, những danh sách thăng cấp đặc cách sau chiến thắng trong Mùa hè đỏ lửa, nhân dịp Quốc Khánh đệ nhị cộng hòa 1/11/1972 Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký quyết định thăng cấp Chuẩn tướng cho 20 vị Đại tá, trong số đó có tới 7 người thuộc quân chủng Không Quân, gồm:
- Võ Dinh, Tham mưu trưởng BTL/KQ
- Đặng Đình Linh, Tham mưu phó Kỹ Thuật
- Phan Phụng Tiên, Sư đoàn trưởng SĐ5KQ
- Huỳnh Bá Tính, Sư đoàn trưởng SĐ3KQ
- Nguyễn Văn Lượng, Sư đoàn trưởng SĐ2KQ
- Nguyễn Ngọc Oánh, Chỉ huy trưởng TTHLKQ
- Lê Trung Trực, phụ tá của Trung tướng Đặng Văn Quang, Phủ Tổng thống.
Trước đó, khi thiết lập danh sách gửi sang Bộ Tổng Tham Mưu, BTL/KQ đã đề nghị 10 vị Đại tá, kết quả có 3 ông bị rớt đài là:
- Nguyễn Đức Khánh, Sư đoàn trưởng SĐ1KQ
- Vũ Văn Ước, Chỉ huy trưởng BCH/HQKQ
- Từ Văn Bê, Chỉ huy trưởng BCH/KTTV/KQ
Trong lòng ba vị Đại tá bị rớt đài - Vũ Văn Ước, Từ Văn Bê, Nguyễn Đức Khánh - đứng ngoài nhìn vào người ta có thể thấy ông Bê là người “đau” nhất, bởi ông đã nắm chức vụ này liên tục 14 năm, cúc cung tận tụy với quân chủng, được cả phía KQVN lẫn Không Lực Hoa Kỳ xem là vị chỉ huy xuất sắc, đóng góp nhiều công sức trong ngành kỹ thuật tiếp vận, tuy nhiên trên thực tế người thất vọng nhất phải là Đại tá Vũ Văn Ước. Thất vọng và buồn!
Ngày ấy có nhiều lời bàn trong Không Quân về nguyên nhân khiến ông Ước bị rớt đài, trong đó giả thuyết được nhiều người tin theo nhất là ông có “ân oán” với một số quan lớn bên Bộ TTM.
Theo lời kể lại của một số người, vào thời gian Đại tá Vũ Văn Ước, Tư lệnh KĐ62CT, theo học khóa Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp tại Đại Học Quân Sự tại Đà Lạt, cứ tới cuối tuần lại có trực thăng lên đón ông về Nha Trang, những ghế dư ông cho các sĩ quan của trường hoặc học viên quá giang.
Chỗ ngồi có hạn mà người xin đi theo thì nhiều cho nên ông Ước muốn cho ai đi thì người đó mới được lên tàu. Nghe nói cung cách của ông Ước hơi hách xì xằng cho nên đã gây bất mãn nơi một số sĩ quan của trường, hậu quả là tới cuối khóa, vị Đại tá Tư lệnh KĐ62CT bị họ đánh rớt. Mà một khi không có bằng Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp thì... vô phương lên tướng!
Ông Ước bị rớt đài trong đợt lên tướng 1/11/1972 là vì thế.
Tuy nhiên nhiều người, trong đó có tôi, không chấp nhận cách giải thích này vì nó vô lý, khó tin.
Vô lý bởi vì cứ tạm thời tin rằng Đại tá Vũ Văn Ước bị rớt bằng Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp, chẳng lẽ Văn Phòng Tham Mưu Trưởng BTL/KQ cứ nhắm mắt đưa tên ông vào danh sách đề nghị thăng cấp Chuẩn tướng, bất chấp điều kiện muốn lên tướng phải có bằng này hay sao (trừ trường hợp thăng cấp đặc cách mặt trận)!
Cho nên muốn hay không cũng phải chấp nhận cách giải thích của một số niên trưởng lão làng cho rằng Đại tá Vũ Văn Ước không được gắn sao chỉ vì trước kia ông thuộc phe cánh ông Nguyễn Cao Kỳ.
Để rồi tới đợt lên tướng 1/4/1974, Đại tá Vũ Văn Ước vẫn tiếp tục bị rớt đài thì rõ ràng là ông bị Bộ TTM hoặc Phủ tổng thống “đì”!
Tôi còn nhớ rõ sau đợt lên tướng ngày 1/11/1972, qua năm 1973 trong QLVNCH không có ông đại tá nào được lên tướng cả (trừ hai vị hy sinh được truy thăng).
Tới đầu năm 1974, Đại tá Từ Văn Bê của Không Quân được lên Chuẩn tướng bằng một Quyết định riêng, và trong đợt lên tướng sau cùng, 1/4/1974, BTL/KQ đã đề nghị bốn ông đại đơn vị trưởng của KQ còn mang lon Đại tá là Vũ Văn Ước (BCH/HQ/KQ), Nguyễn Đức Khánh (SĐ1KQ), Nguyễn Hữu Tần (SĐ4KQ), và Phạm Ngọc Sang (SĐ6KQ).
Kết quả ba ông Khánh, Tần, Sang được gắn sao, chỉ một mình ông Ước tiếp tục mang ba mai bạc cho tới ngày đứt phim!
* * *
Trong Không Quân ngày ấy, việc Đại tá Vũ Văn Ước bị hụt lon Chuẩn tướng nhân dịp Quốc Khánh 1/11/1972 đã trở thành đề tài trà dư tửu hậu ăn khách, nhưng riêng tôi cứ tưởng tượng cảnh các ông đơn vị trưởng trong đó có những ông mới được gắn sao gặp nhau, chào hỏi, trò chuyện tại tiền sảnh trước khi vào phòng họp của BCH/HQ/KQ mà ái ngại cho ông Ước.
Tuy nhiên không hiểu trong bụng có buồn hay không, nếu có thì buồn tới mức nào, bề ngoài ông Ước rất vui vẻ, vồn vã chào hỏi từng người (BTL/KQ và các đơn vị trưởng).
Mấy tháng sau, khi các ông sếp lớn tái ngộ trong buổi kỷ niệm Ngày Không Lực năm 1973, cũng tại Tân Sơn Nhất, trong lúc các ông tập dợt đi đứng tôi có dịp tới gần (để nhắc tuồng cho ông Từ Văn Bê) thấy ông Vũ Văn Ước cũng vẫn là người vui vẻ, hoạt bát nhất.
Sau này, trong thời gian thực hiện quyển QSKQ, liên lạc khá thường xuyên với ông Ước, đọc nội dung các lá thư, xem những tấm hình cũ mới của ông (và xem video ông hát), tôi nhận thấy ông không chỉ là một người tài hoa, có máu nghệ sĩ mà còn là một vị niên trưởng đáng kính mến. Những buổi họp mặt các niên trưởng và anh em Không Quân thường xuyên ở nhà ông cho thấy ông không bao giờ quên chiến hữu, bạn bè, màu cờ sắc áo quân chủng.
Từ đó tôi đâm ra nghi ngờ những chuyện trà dư tửu hậu về ông trước năm 1975 chắc gì đã có thật!
Nhận xét một cách khách quan, nhân vô thập toàn, ông Vũ Văn Ước cũng có một vài điểm trừ mà những người không thích ông có thể phóng đại, thêu dệt thêm, chẳng hạn ông hay nhắc tới thân thế “công tử Hà Thành” của mình, khoe những bóng hồng ông từng quen biết, những thành tích trong binh nghiệp, tầm quan trọng của những chức vụ ông từng nắm giữ, v.v... nhưng thiết nghĩ cũng chẳng hại tới ai mà đôi khi còn đem lại thích thú cho người nghe.
Chẳng hạn trong số hàng chục tấm hình ông gửi cho chúng tôi có mấy tấm chụp với hai người đẹp mà không phải ai cũng có thể quen biết.
Người thứ nhất là cô Lisette Nguyễn Văn Tâm, ái nữ của Thủ tướng Quốc Gia Việt Nam Nguyễn Văn Tâm, tức em gái của Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.
Cô Lisette Nguyễn Văn Tâm không chỉ được công chúng biết tới như một “con gái của Thủ tướng” mà còn thường xuất hiện chính thức thay cho “Thủ tướng phu nhân”, tức bà mẹ của cô - bà Nguyễn Thị Cẩm Vân, con gái Ký giả Nguyễn Kỳ Nam, Chủ nhiệm nhật báo Thần Chung, vốn rất ít khi xuất hiện nơi công cộng, chỉ được biết tới qua những tấm hình gia đình.
Qua đọc sách vở, tài liệu và tìm hiểu trên Internet tôi được thấy một số hình chính thức của cô Lisette. Tấm thứ nhất chụp cô mặc áo dài xuất hiện bên cạnh thân phụ - Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm - trong buổi đón tiếp Phó tổng thống Mỹ Richard Nixon và Phu nhân tại Sài Gòn vào đầu tháng 11/1953. Tấm thứ hai chụp cô, cũng mặc áo dài, tới tham dự lễ kỷ niệm cuộc khởi nghĩa của hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị tại đền thờ Hai Bà Trưng ở Hà Nội ngày 19/3/1953.

Những tấm còn lại do... NT Vũ Văn Ước cung cấp. Vì tất cả hình ảnh (kèm chú thích) ông gửi đều được ông ghi “tùy nghi sử dụng, không cần phải trả lại”, tôi xin phép được phổ biến một tấm chụp ông và cô Lisette tại bãi biển Nha Trang, với những dòng chú thích nguyên văn như sau:
NGƯỜI ĐẸP BÊN ANH LÀ EM RUỘT CỦA TRUNG-TƯỚNG NGUYỄN- VĂN-HINH TTL/QLVN NĂM 1952, CON CỦA THỦ-TƯỚNG NGUYỄN-VĂN-TÂM. DUYÊN THÌ CÓ MÀ NỢ THÌ KHÔNG NÊN MỖI NGƯỜI MỘT NGẢ, VÀ TÌNH CHỈ ĐẸP KHI CÒN DANG DỞ...
Nguyên vào cuối tháng 10/1952, Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, nguyên là một cựu Trung tá Không quân Pháp xuất thân Khóa 2 (1936) Võ Bị Không Quân Salon de Provence, ra Nha Trang chủ tọa lễ mãn khóa Khóa 1 Hoa Tiêu, cô Lisette đi theo anh trai và không hiểu bằng cách nào Thiếu úy Vũ Văn Ước đã làm quen, đưa tới kết cuộc “...tình chỉ đẹp khi còn dang dở...” như ông đã viết.
(NT Vũ Văn Ước có kể cho chúng tôi về đường tình duyên sau đó của cô Lisette nhưng tôi xin miễn ghi ra đây bởi vì hậu duệ của Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm hiện có những người thành đạt, nổi tiếng quốc tế)
Người đẹp thứ hai mà NT Vũ Văn Ước chụp hình chung là một nữ ca sĩ Nam Hàn, trong dịp cô sang Việt Nam trình diễn cho các binh sĩ Đại Hàn Dân Quốc thuộc các Sư Đoàn Mãnh Hổ, Bạch Mã, và Lữ Đoàn TQLC Thanh Long đồn trú tại Vùng 2 Chiến Thuật vào năm 1967. Nhờ cung cấp phương tiện di chuyển cho đoàn văn nghệ, trước lạ sau quen, vị Trung tá Tư lệnh Không Đoàn 62 Chiến Thuật đã lên sân khấu hát chung một microphone với cô ca sĩ để thể hiện tình hữu nghị giữa hai đồng minh Hàn-Việt.
Và theo như tấm hình NT Vũ Văn Ước gửi cho chúng tôi thì tình hữu nghị ấy rất ư là... thắm thiết!
Cứ như thế, cái “hào hoa” của ông bị diễn dịch thành “đào hoa”, thử hỏi “Vũ Văn Ước phu nhân” không ghen sao được!
Tôi còn nhớ trong bài viết vui vui của một vị đại niên trưởng kể về một buổi hội ngộ của các vị “Không Quân khai quốc công thần”, thấy NT Vũ Văn Ước đẩy xe lăn cho vợ từ xa xa, NT Nguyễn Xuân Vinh vừa cười vừa nói:
- Ước nó đang đền tội đấy!
Dĩ nhiên ông cựu Tư lệnh Không Quân chỉ nói đùa, bởi vì sau đó ít lâu không chỉ có “công tử Hà Thành” mà chính ông Nguyễn Xuân Vinh, và cả Đại tá Trần Phước (Mệ), một người nổi tiếng đứng đắn đàng hoàng, cũng phải đẩy xe lăn cho vợ, chẳng lẽ hai ông cũng “đền tội” hay sao?!
* * *
Theo lời những vị niên trưởng tôi có cơ hội tiếp xúc, trước năm 1975 Đại tá Vũ Văn Ước là một quân nhân chuyên nghiệp, không có tham vọng chính trị, chơi với bạn hết tình, suy ra việc ông bị xem là người thuộc phe ông Kỳ rất có thể chỉ là sự giao hảo giữa hai “anh Bắc Kỳ” thích nổ, hơi nặng phần trình diễn mà thôi (xin vong linh NT xá tội).
Việc ông Ước gặp ông Kỳ tại Bộ TTM rồi đi chung trực thăng với ông Kỳ (cùng với một số tướng lãnh trong đó có Trung tướng Ngô Quang Trưởng) ra Đệ thất hạm đội sáng 29/4/1975 chỉ là một sự tình cờ.
Theo hồi ký của cựu Đại tá Đào Huy Ngọc, nguyên Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh Không Quân, sáng hôm đó ông Ước đáp trực thăng xuống BTL/KQ thấy các tướng Võ Xuân Lành, Đặng Đình Linh, Đại tá Đào Huy Ngọc đang ở đó liền rủ cùng bay sang Bộ TTM nghe ngóng tình hình (ông Lành không đi); sang bên đó ông Ước trên phòng họp gặp ông Kỳ rồi sau đó mới đi theo trực thăng của ông Kỳ (trên đó có Đại tá Hà Xuân Vịnh ngồi sẵn).
Trong bài viết kể về việc mình thoát chết một cách kỳ diệu trong cuộc giải phẫu tim (nếu tôi nhớ không lầm), ông Ước cho biết ông rất cảm kích trước sự ưu ái của ông Nguyễn Cao Kỳ dù đang ở xa cũng cố bay về vào bệnh viện thăm ông.
Ông Nguyễn Cao Kỳ có thể phát ngôn tầm bậy tầm bạ, làm những việc bị nhiều người chê trách nhưng không vì thế mà ông Ước dứt tình cố cựu. Cũng giống như tình bạn giữa Quan Vân Trường và Trương Liêu thời Tam Quốc vậy. Tôi phục ông Vũ Văn Ước về điểm này.
* * *
Cựu Đại tá Vũ Văn Ước qua đời cuối tháng 8/2030 tại Nam California. Đông đảo cựu quân nhân Không Quân VNCH đã tới tham dự tang lễ.
Nghi thức quân đội được cử hành vào trưa Thứ Bảy 1/9/2010 tại nhà quàn Peek Family Funeral Home, thành phố Westminster. Sau khi cựu Chuẩn tướng Võ Dinh, nguyên Tham mưu trưởng KQ, cũng là bạn đồng Khóa 1 Hoa Tiêu TTHLKQ Nha Trang, đọc bản tuyên dương công trạng, anh em KQ trong Hội Ái Hữu Không Quân Miền Trung California đã cử hành Lễ Phủ Cờ trên quan tài vị cố Đại tá nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Hành Quân Không Quân.
Riêng bản nhân tôi, mỗi khi nhớ tới cố NT Vũ Văn Ước, tôi lại cảm thấy bất mãn và buồn lây trước việc ngày ấy người ta đã gạt bỏ tên ông ra khỏi danh sách đề nghị lên Chuẩn tướng trong cả hai đợt 1/11/1972 lẫn 1/4/1974.
Để rồi cuối cùng ông trở thành vị niên trưởng duy nhất trong số 9 ông đại đơn vị trưởng của Không Quân không bao giờ được mang sao!
(Còn tiếp)
- Details
- Category: Tài Liệu KQ
- Hits: 119
BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 4)

Chuẩn tướng Võ Dinh
Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện
Những người muôn năm cũ…
*Những bộ nhớ thời “khuyết sử”
(tiếp theo)
Trở lại với cựu Chuẩn tướng Võ Dinh, vị Tham mưu trưởng cuối cùng của quân chủng Không Quân.
Như tôi đã viết trong một kỳ trước, hình như trời sinh ra ông Võ Dinh để làm công việc tham mưu. Thật vậy, sau khi tốt nghiệp Khóa 1 Hoa Tiêu tại TTHLKQ Nha Trang cuối năm 1952, ông chỉ phục vụ trong ngành phi hành hơn 2 năm (Phi Đoàn 2 Quan Sát, từ tháng 11/1952 tới tháng 7/1955) rồi liên tục nắm giữ các chức vụ tham mưu (và đi học các khóa tham mưu) cho tới khi trở thành Tham mưu trưởng KQ vào năm 1967.
Trong lịch sử 20 năm của Không Quân Việt Nam, tên tuổi của ông Võ Dinh được nhắc tới trước cả ông Tư lệnh đầu tiên (Trần Văn Hổ): ngày 7/7/1955 Thiếu tá Võ Dinh tiếp nhận và làm Chỉ huy trưởng Căn Cứ 1 Chiến Thuật Không Quân, nguyên là căn cứ không quân Colonna của người Pháp ở Nha Trang, trong khi tới cuối tháng 8 năm đó, Trung úy Trần Văn Hổ mới được Phủ thủ tướng triệu về Sài Gòn, thăng cấp đặc cách Đại úy thực thụ + Thiếu tá nhiệm chức để nắm giữ chức vụ Phụ tá Không Quân thay Trung tá Nguyễn Khánh.
Năm 1956, ông Võ Dinh vào Biên Hòa tiếp nhận căn cứ không quân thứ hai từ tay người Pháp, đặt tên Căn Cứ 2 Trợ Lực Không Quân, và qua năm 1957 ra Đà Nẵng tiếp nhận Căn Cứ 4 Trợ Lực; nghĩa là trước sau ông đã tiếp nhận và làm Chỉ huy trưởng ba trong số bốn căn cứ đầu tiên của KQVN (riêng Căn Cứ 3 Trợ Lực, Tân Sơn Nhất, do Đại úy Trịnh Hảo Tâm tiếp nhận và làm Chỉ huy trưởng vào đầu năm 1957).
Để rồi trong những năm sau cùng, ông Võ Dinh cũng là người gánh vác hầu như tất cả mọi công việc trong nội bộ Không Quân; mà đáng nói nhất là việc bổ nhiệm nhân sự trong đợt bành trướng năm 1970.
Kế hoạch hiện đại hóa và bành trướng QLVNCH được Hoa Kỳ đưa ra sau cuộc tổng công kích của Việt Cộng vào Tết Mậu Thân 1968, do MACV, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, và các đại diện quân binh chủng phối hợp soạn thảo chương trình.
Phái đoàn đại diện Không Quân do Đại tá Võ Dinh, Tham mưu trưởng BTL/KQ cầm đầu, Đại tá Vũ Thượng Văn, Tham mưu phó Kế Hoạch & Chương Trình, làm phó.
Không Quân càng đạt được nhiều “thắng lợi” trong các buổi họp nói trên thì trách nhiệm của ông Tham mưu trưởng càng nặng; điển hình là việc tiếp nhận trên dưới 700 chiếc trực thăng UH-1 do Lục Quân Hoa Kỳ chuyển giao và việc thành lập các Sư Đoàn Không Quân (Air Division).
Thời gian này tôi đang ở Pleiku thường được nghe ông Lê Bá Định bình luận về việc sắp đặt, bổ nhiệm nhân sự của BTL/KQ trong thời kỳ bành trướng, qua đó tôi được biết Đại tá Tham mưu trưởng (Võ Dinh) đã được Thiếu tướng Tư lệnh (Trần Văn Minh) trao trách nhiệm lựa chọn, đề cử người vào các chức vụ quan trọng để ông quyết định.
Và hầu như trong mọi trường hợp, ông Tư lệnh đã chấp thuận sự đề cử ấy.
Theo ông Lê Bá Định, có hai nguyên nhân chính:
- Nguyên nhân nội bộ: ông Võ Dinh làm công việc tham mưu lâu năm hẳn phải biết khả năng của các ông đơn vị trưởng, các sĩ quan từng nắm giữ chức vụ quan trọng.
- Nguyên nhân chính trị: vào thời gian này, Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, cựu Tư lệnh Không Quân, đã “kên” Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra mặt, ông Trần Văn Minh không muốn dính dáng vào cho nên đã “bán cái” cho ông Võ Dinh việc bổ nhiệm các ông sư đoàn trưởng (sau đổi thành tư lệnh sư đoàn), bởi vì nếu xảy ra một cuộc binh biến, lực lượng của một sư đoàn không quân có thể thay đổi cán cân lực lượng giữa đôi bên.
Sau này tôi còn được ông Từ Văn Bê giải thích thêm: một khi nắm chức vụ sư đoàn trưởng có cấp số trung tướng đương nhiên các ông sẽ là “ứng viên” trong các đợt đề nghị lên tướng do Bộ Tổng Tham Mưu đệ trình Tổng thống, vì thế nếu là người “phe ông Kỳ” sẽ khó lòng được gắn sao!
đồng sàng dị mộng!
Tôi không biết suy đoán của hai ông Lê Bá Định, Từ Văn Bê chính xác tới mức nào chỉ biết trên thực tế đã không có một người nào “phe ông Kỳ” được nắm các sư đoàn có lực lượng khu trục, gồm SĐ1KQ, SĐ2KQ, SĐ3KQ, và SĐ4KQ.
Trở lại với năm 1970 là thời gian thành lập bốn sư đoàn nói trên, cả ba ông Tư lệnh Không Đoàn 41, 23, 74, (sẽ lên nắm chức Sư đoàn trưởng SĐ1KQ, SĐ3KQ, SĐ4KQ) là Nguyễn Đức Khánh, Huỳnh Bá Tính, Nguyễn Huy Ánh trước kia đều không “hưởng ơn mưa móc” từ ông Kỳ cho nên BTL/KQ đã để ba ông lên nắm chức Sư đoàn trưởng mà không phải lo ngại gì.
Chỉ có Đại tá Vũ Văn Ước, đang nắm chức Tư lệnh Không Đoàn 62 ở Nha Trang, vốn là người thân thiết với ông Kỳ là phải đưa đi trước khi thành lập SĐ2KQ.
Nhưng đưa đi đâu để ông không bị “quê”, không bị mang tiếng là bị “giáng chức”?
Cũng may, nằm trong chương trình bành trướng của Không Quân, Trung Tâm Hành Quân Không Quân (Tactical Air Control Center – TACC) được nâng lên thành Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân (Air Operations Command – AOC), vị chỉ huy trưởng cũng có cấp số trung tướng, ngang hàng với các ông Sư đoàn trưởng, hơn nữa trước kia ông Ước từng phục vụ tại Trung Tâm Hành Quân Không Quân nay trở về làm Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân thì công việc càng “chạy”.
Nghĩa là việc thuyên chuyển ông Ước từ Nha Trang về Tân Sơn Nhất cho dù không “hợp tình” cũng “hợp lý”!
(Ngày ấy không mấy người trong Không Quân để ý tới việc Đại tá Vũ Văn Ước là người thân thiết với ông Nguyễn Cao Kỳ, và cho rằng sau này ông không được thăng Chuẩn tướng chỉ vì có “ân oán” với một số quan lớn bên Bộ TTM. Tôi sẽ trở lại việc này trong một kỳ sau)
Trong khi việc “bứng” Đại tá Vũ Văn Ước khỏi chức Tư lệnh KĐ62CT, đưa Đại tá Nguyễn Văn Lượng (Chỉ huy phó TTHLKQ) sang thay thế diễn ra một cách nhanh chóng, êm thắm thì việc Đại tá Phan Phụng Tiên, Tư lệnh Không Đoàn 33 Chiến Thuật đi hay ở trước khi thành lập SĐ5KQ đã khiến nhiều người trong Không Quân bàn tán, đoán mò, chờ đợi hơn một năm trời.
Những gì tôi viết ra sau đây phần lớn là chuyện trà dư tửu hậu, do nghe lóm các sếp lớn, do bạn bè ở BTL/KQ và các nhà báo dân sự kể lại, có thật hay không, chính xác tới mức nào không ai có thể quả quyết, chỉ biết một điều nó trùng hợp với mọi diễn tiến trong việc thành lập SĐ5KQ và việc bổ nhiệm Đại tá Phan Phụng Tiên vào chức vụ Sư đoàn trưởng.
Ngày ấy, sư đoàn không quân đầu tiên được thành lập là SĐ4KQ tại Cần Thơ vào đầu tháng 3/1970, Đại tá Nguyễn Huy Ánh, nguyên Tư lệnh Không Đoàn 74 Chiến Thuật lên làm Sư đoàn trưởng; tiếp theo là SĐ3KQ tại Biên Hòa vào đầu tháng 5, Đại tá Huỳnh Bá Tính, nguyên Tư lệnh Không Đoàn 23 Chiến Thuật, lên làm Sư đoàn trưởng; tới tháng 7, SĐ2KQ được thành lập tại Nha Trang, Đại tá Nguyễn Văn Lượng lên làm Sư đoàn trưởng; và tới tháng 9, SĐ1KQ được thành lập tại Đà Nẵng, Đại tá Nguyễn Đức Khánh, nguyên Tư lệnh Không Đoàn 41 Chiến Thuật, lên làm Sư đoàn trưởng.
Theo tốc độ “hai tháng một sư đoàn”, lẽ ra tới tháng 11/1970 SĐ5KQ - dự trù gồm các phi đoàn vận tải, không thám và vận tải võ trang – sẽ được thành lập tại Tân Sơn Nhất, nhưng rồi đợi hoài vẫn không nghe nói bao giờ sẽ thành lập, mặc dù vào ngày 1/1/1971 đã có sự tổ chức lại nhân sự và các cơ cấu của Không Đoàn 33 Chiến Thuật, và tới tháng 3/1971, các không đoàn tân lập gồm Không Đoàn 53 Chiến Thuật, Không Đoàn 50 Bảo Trì & Tiếp Liệu, và Không Đoàn Yểm Cứ Tân Sơn Nhất được thành lập.
Phải đợi tới ngày 1/11/1971, sau khi ông Nguyễn Văn Thiệu thắng cử trong cuộc bầu cử “độc diễn” vào ngày 3 tháng 10 rồi tuyên thệ nhậm chức Tổng thống nhiệm kỳ 2, SĐ5KQ mới chính thức được thành lập.
Nhưng việc ông Nguyễn Văn Thiệu “độc diễn” trong cuộc bầu cử tháng 10/1971 có gì liên quan tới việc thành lập SĐ5KQ?
Xin thưa không có gì liên quan tới việc thành lập sư đoàn nhưng có liên quan tới vị Sư đoàn trưởng: Đại tá Phan Phụng Tiên, một người có nhiều liên hệ và được xem là thuộc phe cánh ông Nguyễn Cao Kỳ.
* * *
Ông Phan Phụng Tiên sinh năm 1930 trong một gia đình khá giả tại Quảng Ninh. Thuở nhỏ ông học Tiểu học tại Móng Cái, khi lên trung học ông được gia đình gửi về Hà Nội theo học chương trình Pháp, tốt nghiệp với bằng Tú tài 1.
Theo lệnh tổng động viên, năm 1951 ông theo học Khóa 1 Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy, được đưa tới Tiểu Đoàn Việt Nam đồn trú tại Nam Định, giữ chức Trung đội trưởng.
(Trước năm 1954, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam chỉ có cấp Tiểu Đoàn, gồm các Tiểu Đoàn Việt Nam trang bị nặng và các Tiểu Đoàn Khinh Binh trang bị nhẹ)
Sau một thời gian ngắn, ông được tuyển sang Không Quân, theo học khóa 52F1 tại trường bay căn bản Marrakech, Maroc, thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi.
Cùng học học khóa 52F1 với ông Phan Phụng Tiên có ông Đinh Văn Chung (Khóa 3 VBQG) và các ông Huỳnh Hữu Hiền, Phạm Ngọc Sang, Huỳnh Minh Bon, Huỳnh Bá Tính... (Khóa 1 Nam Định hoặc Thủ Đức). Sau đó mới tới Khóa 52F2 của các ông Trần Văn Hổ, Nguyễn Cao Kỳ, Trịnh Hảo Tâm, Lưu Kim Cương, Phan Thanh Vân...
Chức vụ đầu tiên của ông Phan Phụng Tiên sau khi về nước là Trưởng phòng Hành Quân của Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc đồn trú tại Nha Trang, do Đại úy Đinh Văn Chung làm Chỉ huy trưởng.

trong lễ chuyển giao CCKQ Nha Trang, 1/7/1955
Sau khi Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc bị giải thể vào giữa năm 1956 (vì phải hoàn trả các phi cơ MD-315 cho người Pháp theo điều khoản của Hiệp Định Genève 1954), đa số sĩ quan của phi đoàn được đưa về Tân Sơn Nhất để thành lập Phi Đoàn 2 Vận Tải (tiền thân của Phi Đoàn 415 sau này), cũng do Đại úy Đinh Văn Chung làm Chỉ huy trưởng.
Riêng Đại úy Phan Phụng Tiên phục vụ tại Phi Đoàn 1 Vận Tải (tiền thân của Phi Đoàn 413) do Đại úy Nguyễn Cao Kỳ làm Chỉ huy trưởng.
Tới khi hai phi đoàn này kết hợp thành Liên Phi Đoàn Vận Tải do Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ làm Chỉ huy trưởng, Đại úy Phan Phụng Tiên lên làm Chỉ huy trưởng Phi Đoàn 1.
* * *
Ngày 11/11/1960, xảy ra cuộc đảo chánh Tổng thống Ngô Đình Diệm do Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù cầm đầu, căn cứ không quân Tân Sơn Nhất bị quân dù chiếm đóng.
Khi cuộc đảo chánh thất bại, Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông lên một chiếc phi cơ vận tải C-47 do Đại úy Phan Phụng Tiên làm trưởng phi cơ bay sang Căm-bốt tỵ nạn; trên phi cơ có Trung tướng Thái Quang Hoàng bị phe đảo chánh bắt theo làm con tin.
Sau này, vì có những điểm mâu thuẫn trong các tài liệu về cuộc đảo chánh năm 1960 cùng với hồi ức “tiền hậu bất nhất” của ông Nguyễn Cao Kỳ, người ta không biết rõ vai trò thực sự của Đại úy Phan Phụng Tiên trong cuộc đảo chánh, người thì viết ông theo phe đảo chánh tới khi thất bại đã lái máy bay cùng nhau đào thoát, kẻ lại nói ông bị phe đảo chánh “dí súng” cưỡng bách, có người lại nói ông chỉ biết làm theo lệnh của ông Kỳ, vốn là bạn của ông Thi.
Chỉ biết một điều chắc chắn là sau cuộc đảo chánh năm 1963, ông Phan Phụng Tiên trở về đơn vị cũ, được thăng cấp Thiếu tá.
Sau cuộc chỉnh lý của tướng Nguyễn Khánh hạ bệ tướng Dương Văn Minh ngày 30/1/1964, ông Nguyễn Cao Kỳ bắt đầu nổi như cồn, hai ông Nguyễn Ngọc Loan và Lưu Kim Cương cũng nổi theo.
Riêng ông Phan Phụng Tiên, tôi không tìm được tài liệu nào nói về chức vụ của ông vào thời gian này (ngoài những chi tiết tầm bậy tầm bạ trên Wikipedia) cho tới khi ông được thăng cấp Đại tá và làm Tư lệnh Không Đoàn 33 Chiến Thuật kiêm Chỉ huy trưởng Yếu Khu Tân Sơn Nhất, thay cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương hy sinh trong trận Mậu Thân đợt 2 (tháng 5/1968).
Tới cuộc tranh cử tổng thống năm 1971, tên tuổi ông Phan Phụng Tiên bắt đầu được báo chí chú ý tới cùng với cuộc vận động tranh cử của ông Nguyễn Cao Kỳ, đương kim Phó tổng thống.
Như nhiều người còn nhớ, bốn năm trước đó, trong cuộc tranh cử tổng thống năm 1967, cả Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, lẫn Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, đều lập liên danh ra tranh cử, tuy nhiên trước áp lực của người Mỹ cũng như các tướng lãnh muốn duy trì sự đoàn kết trong quân đội, sau đó ông Kỳ đã chấp nhận đứng chung liên danh, làm phó cho ông Thiệu.
Chấp nhận nhưng vẫn ấm ức vì ông tin rằng nếu để hai liên danh, ông sẽ vượt xa ông Thiệu. Chính vì thế sau khi trở thành Phó tổng thống, ông Kỳ vẫn giữ thái độ kình chống ông Thiệu, càng ngày càng lộ liễu để rồi cuối cùng tới tháng 6/1971 tuyên bố sẽ lập liên danh ra tranh cử trong cuộc bầu cử vào đầu tháng 10 năm đó.
Cựu Đại tướng Dương Văn Minh, người cầm đầu cuộc đảo chánh năm 1963, cựu quốc trưởng thời hậu “tam đầu chế” cũng lập liên danh tranh cử. (xem Phụ Lục)
Lo ngại bị chia phiếu với hai vị cựu tướng lãnh, ông Thiệu đã “đi đêm” với đám gà nhà trong Thượng viện và Hạ viện, để họ đưa ra luật bầu cử mới, theo đó các liên danh muốn ứng cử phải được sự giới thiệu của một số lượng dân biểu tối thiểu theo quy định.
Kết quả, ông Dương Văn Minh trong khi có đủ số chữ ký giới thiệu đã tuyên bố rút tên vì cho rằng ông Thiệu đã thiết lập một guồng máy bầu cử gian lận, về phần ông Nguyễn Cao Kỳ thì không chấp nhận luật bầu cử mới mà ông cho là vi hiến, đã tuyên bố tẩy chay cuộc bầu cử!
Một bầu không khí căng thẳng bao trùm thủ đô Sài Gòn. Người thì lo ông Dương Văn Minh xúi Phật giáo Ấn Quang làm loạn, người thì sợ ông Nguyễn Cao Kỳ liên kết với các tướng lãnh bất mãn để đảo chánh.
Thực ra với những người có đầu óc nhận xét thì hai việc trên khó lòng xảy ra vì thứ nhất, lực lượng của Phật giáo Ấn Quang trong Nam đã suy yếu, và thứ hai, các tướng trẻ cùng băng với ông Nguyễn Cao Kỳ ngày nào hầu hết đã không còn quân trong tay.
Nhìn vào nội bộ Không Quân thì chính ông Nguyễn Cao Kỳ cũng... hết quân. Biệt Đoàn 83 “Thần Phong” (lực lượng Không Quân của riêng ông) đã bị giải thể vào đầu năm 1967. Hai người thân tín có thế lực nhất đã không còn: Đại tá Lưu Kim Cương, Tư lệnh KĐ33CT kiêm Chỉ huy trưởng Yếu Khu Tân Sơn Nhất, đã hy sinh trong trận Mậu Thân đợt 2, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan thì sau khi bị thương tại cầu Phan Thanh Giản giữa năm 1968, đã bàn giao chức vụ Tổng giám đốc Cảnh Sát Quốc gia cho Đại tá Trần Văn Hai (nguyên Chỉ huy trưởng Biệt Động Quân), và giải ngũ vào đầu năm 1969.

Huy Cương, Nguyễn Quốc Phiên; hàng trước, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Đại úy Trần Bá Hợi
Thế còn Trung tướng Trần Văn Minh, Tư lệnh Không Quân?
Xin thưa, ông Trần Văn Minh chưa bao giờ là phe cánh của ông Nguyễn Cao Kỳ!
Trong bài Sự thật Đời Tôi, viết tại hải ngoại ít lâu trước khi qua đời, vị cựu Tư lệnh Không Quân bộc bạch tâm sự:
(thời gian cuối năm 1974 đầu 1975) ...Ông muốn tôi cầm đầu đảo chánh để ông trở thành người lãnh đạo mới của đất nước. Nhưng điều mà Tướng Kỳ không thể nào hiểu được là tôi và binh lính của tôi sẽ không trung thành với ai cả. Chúng tôi chỉ trung thành với Tổ Quốc. Chúng tôi trung thành với Việt Nam, chúng tôi yêu Việt Nam. Rất nhiều người lính chúng tôi đã chết cho Việt Nam. Họ đã chiến đấu và chết không vì bất cứ ai, mà cho Việt Nam.
https://hoiquanphidung.com/echo/khong-quan-vnch/103-qskq/521-s-th-t-d-i-toi-trung-tu-ng-tr-n-van-minh
Trở lại thời gian giữa năm 1965, khi quyết định tham chính (làm Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương), Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư lệnh Không Quân, đã chuẩn bị nhân sự chu đáo để làm hậu thuẫn cho mình trong tương lai.
Qua đó Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tư lệnh phó Không Quân, được đưa ra nắm chức Giám đốc Nha An Ninh Quân Đội (một năm sau làm Tổng giám đốc Cảnh Sát Quốc Gia), và đưa Trung tá Trần Văn Minh, Tư lệnh Không Đoàn 74 Chiến Thuật ở Cần Thơ về Tân Sơn Nhất, thăng cấp Đại tá để thay ông Loan làm Tư lệnh phó Không Quân.
Theo “lời bàn Mao Tôn Cương” của ông Lê Bá Định, xét về cả khả năng bay bổng lẫn mức độ thân thiết với ông Kỳ, ngày ấy Trung tá Vũ Văn Ước phải được xem là ứng viên Tư lệnh phó sáng giá nhất nhưng đã không lọt vào mắt xanh của ông Kỳ chỉ vì... thiếu thước tấc!

Pháp năm 1955, tại bờ biển Manche (hình của NT Vũ Văn Ước)
Việc ông Vũ Văn Ước có một chiều cao khiêm nhượng trong Không Quân ai cũng biết, nhưng nó chẳng ảnh hưởng gì tới khả năng bay bổng (cho nên năm 1952 ông mới được người Pháp tuyển vào học Khóa 1 Hoa Tiêu Quan Sát ở Nha Trang) và khả năng chỉ huy của ông. Nhưng có lẽ ông Kỳ đặt ưu tiên “ngoại hình” cho nên mới chấm ông Trần Văn Minh, xuất thân Khóa 3 Quan sát viên TTHLKQ Nha Trang, có tướng tá ngon lành bậc nhất trong Không Quân.
Bên cạnh đó cái gốc Nam Kỳ (Bạc Liêu) của ông Minh “đù” cũng khiến ông Kỳ... yên tâm hơn! (Thành thật xin lỗi quý niên trưởng gốc Bắc, đây chỉ là nhận xét của cá nhân ông Lê Bá Định, một người sanh tại Sài Gòn năm 1939 có ông bố gốc... Bắc!)
Chưa đầy hai năm sau, Đại tá Trần Văn Minh được vinh thăng Chuẩn tướng.
(Tiểu sử ông Trần Văn Minh trên Wikipedia không hiểu căn cứ vào nguồn tài liệu nào đã viết ông được thăng Chuẩn tướng vào đầu tháng 12/1967 sau khi lên làm Tư lệnh Không Quân thay Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ; chi tiết này sai hoàn toàn: những hình ảnh về buổi lễ chuyển giao phản lực cơ F-5 cho KQVN tại CCKQ Biên Hòa ngày 1/6/1967 cho thấy lúc đó ông Trần Văn Minh đã mang lon Chuẩn tướng rồi)
Hơn một năm sau, Ngày Quân Lực 19/6/1968, ông được vinh thăng Thiếu tướng, và hơn hai năm sau, Ngày Quốc Khánh Đệ nhị Cộng hòa 1/11/1970, được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gắn lon Trung tướng.
Như vậy, ông Trần Văn Minh là một trong ba sĩ quan xuất thân Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị (Thủ Đức & Nam Định) lên tới cấp Trung tướng; hai người kia là ông Nguyễn Đức Thắng (thăng cấp 1968) và ông Đồng Văn Khuyên (1972).
Ông Trần Văn Minh cũng là vị Thiếu tướng lên Trung tướng nhanh thứ nhì, chỉ sau ông Dư Quốc Đống, Tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù (đúng hai năm).
Việc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gắn lon Trung tướng cho ông Trần Văn Minh được một số người diễn dịch là để “chặt cầu” trong trường hợp Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ tính đường trở lại Không Quân!
* * *
Trở lại với Đại tá Phan Phụng Tiên và việc thành lập SĐ5KQ. Trong bầu không khí căng thẳng của cuộc vận động bầu cử bắt đầu vào giữa năm 1971, căn cứ không quân Tân Sơn Nhất đã trở thành “căn cứ địa” của ông Nguyễn Cao Kỳ.
Vẫn biết sau khi làm Phó tổng thống vào năm 1967, ông Kỳ và gia đình vẫn tiếp tục sống ở tư dinh trong phi trường, ngày ngày ông tới dinh Độc Lập bằng trực thăng nhưng lúc đó chẳng mấy người quan tâm tới việc này; phải đợi tới khi diễn ra cuộc tranh cử tổng thống, nhất là sau khi ông Kỳ tuyên bố tẩy chay cuộc bầu cử, và có tin đồn ông đang liên kết với các tướng lãnh bất mãn âm mưu đảo chánh thì các phóng viên báo chí mới kéo nhau vào phi trường săn tin.
Nhưng mặc dù có thẻ hành sự, tất cả mọi phóng viên đã bị chặn lại tại cổng Phi Long. Nhiều người không chịu ra về, các sĩ quan trách nhiệm không biết giải quyết ra sao (vì e ngại đám nhà báo loan tin thất lợi), cuối cùng ông Phan Phụng Tiên phải đích thân ra giải quyết.
Tôi còn nhớ ngày ấy các báo đã phổ biến hình ông Phan Phụng Tiên mang lon Đại tá đứng trước cổng Phi Long, bên cạnh là các nhân viên quân cảnh Không Quân “mặt đằng đằng sát khí”, phía sau lưng là một toán lính phòng thủ “trang bị tận răng” bên cạnh chiếc xe bọc thép V-100 Commando với khẩu đại liên đầy sức hăm dọa!

Thực ra tại cổng Phi Long lúc nào mà không có quân cảnh Không Quân, không có lính phòng thủ; quân cảnh thì mặt mũi vốn dĩ... khó ưa, lính phòng thủ thì lăm le súng đạn là chuyện đương nhiên, còn V-100 thì từ sau Tết Mậu Thân lúc nào mà không có một chiếc ứng chiến tại cổng..., nhưng bình thường chẳng ai chú ý tới, nay được các nhà báo chụp hình đưa lên trang nhất kèm theo những bài phóng sự giật gân, đã trở thành những hình ảnh “ly kỳ rùng rợn” về tình hình căng thẳng tại thủ đô Sài Gòn trong mùa tiền bầu cử!
(Một phần cũng vì trước kia “Trại Phi Long” thường được ông Kỳ cho đám tướng trẻ sử dụng để họp hành bí mật, chẳng hạn buổi họp “marathon” tại BTL/KQ kéo dài trong hai ngày 13 và 14 tháng 6 năm 1965, bầu ông Kỳ làm Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương và ông Thiệu làm Chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia)

Bộ Tư Lệnh KQ trong CCKQ Tân Sơn Nhất
Nhưng rồi đã chẳng có gì “ly kỳ rùng rợn” xảy ra. Ngày 3 tháng 10 năm 1971, cuộc bầu cử “độc diễn” diễn ra suông sẻ, liên danh Nguyễn Văn Thiệu – Trần Văn Hương đắc cử vẻ vang với tỷ lệ 94% phiếu bầu.
Sau khi hai ông tuyên thệ nhậm chức, ông Nguyễn Cao Kỳ chỉ còn là một “bóng ma lịch sử” (chữ của những tờ báo ở Sai Gòn không ưa ông). Tại BTL/KQ, ông Tham mưu trưởng Võ Dinh thở phào.
Ngày 1/11/1971, SĐ5KQ được chính thức thành lập, Sư đoàn trưởng: Đại tá Phan Phụng Tiên, một người trước kia thuộc phe cánh ông Nguyễn Cao kỳ nhưng nay đường công danh lại nằm trong tay ông Nguyễn Văn Thiệu.
Đúng một năm sau, ngày 1/11/1972, Đại tá Phan Phụng Tiên được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký quyết định thăng cấp Chuẩn tướng cùng với các Đại tá Không Quân Võ Dinh, Đặng Đình Linh, Huỳnh Bá Tính, Nguyễn Ngọc Oánh, Nguyễn Văn Lượng, và Lê Trung Trực.
(Còn tiếp)
PHỤ LỤC
Tam Đầu Chế
"Tam đầu chế" là giải pháp nhằm dung hòa mâu thuẫn giữa các tướng lãnh chóp bu trong gian đoạn rối loạn sau cuộc đảo chánh năm 1963.
Nguyên sau khi cầm đầu cuộc “chỉnh lý” ngày 30 tháng 1 năm 1964, lật đổ các tướng lĩnh chủ chốt cuộc đảo chánh là Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn và Mai Hữu Xuân, Trung tướng Nguyễn Khánh được Hội đồng Quân nhân Cách mạng cử làm Thủ tướng thay thế ông Nguyễn Ngọc Thơ.
Ngày 21/3/1964 Hội đồng Quân nhân Cách mạng được cải danh thành Hội đồng Quân đội Cách mạng gồm 53 thành viên.
Ngày 16 tháng 8, Hội đồng bầu tướng Nguyễn Khánh làm Quốc trưởng Việt Nam Cộng Hòa. Sau đó với tư cách Quốc trưởng, ông Khánh ban hành Hiến chương Vũng Tàu để thay thế Hiến pháp của nền Đệ nhất Cộng hòa. Tuy nhiên, ông đã bị các đảng phái và sinh viên học sinh phản đối kịch liệt.
Ngày 26/8/1964, Hội đồng Quân đội Cách mạng ra tuyên cáo thu hồi Hiến chương Vũng Tàu, đồng thời bầu ra cơ chế lãnh đạo kiểu "Tam đầu chế", gồm:
- Quốc trưởng: Trung tướng Dương Văn Minh
- Thủ tướng: Trung tướng Nguyễn Khánh
- Tổng tư lệnh Quân Lực: Đại tướng Trần Thiện Khiêm (kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng)
Nhưng chỉ hơn một tháng sau "Tam đầu chế" tự giải thể.
Nguyên sau cuộc binh biến ngày 13 tháng 9 do tướng Dương Văn Đức khởi xướng, tướng Khánh nghi ngờ có sự hậu thuẫn của tướng Khiêm nên đã buộc tướng Khiêm phải bàn giao cả hai chức vụ Tổng trưởng Quốc Phòng và Tổng tư lệnh Quân Lực lại cho mình.
Ngày 7 tháng 10, tướng Khiêm được cử làm Trưởng phái đoàn công du Vương quốc Anh và Cộng hòa Liên bang Đức để cám ơn hai quốc gia này đã hỗ trợ VNCH trong công cuộc chống Cộng sản.
Ngày 24 tháng 10, hết hạn công du, thay vì trở về nước tướng Khiêm nhận được quyết định của tướng Khánh bổ nhiệm làm Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ.
(Mãn nhiệm kỳ vào tháng 10 năm 1965, ông Khiêm lại bị ông Nguyễn Cao Kỳ, Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, đưa đi làm Đại sứ tại Đài Loan thay thế Trung tướng Phạm Xuân Chiểu. Mãi tới giữa năm 1968, khi vây cánh của ông Kỳ đã bị “chặt” bớt, ông Khiêm mới được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đưa về làm Tổng trưởng Nội Vụ trong chính phủ Trần Văn Hương)
Từ đó, làng báo miền Nam mới có câu “Được làm vua, thua làm đại sứ”!
Mấy tháng sau (tháng 2 năm 1965), tới lượt tướng Khánh bị các tướng trẻ do Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đứng đầu, buộc phải rời khỏi mọi chức vụ để đi làm "Đại sứ Lưu động" không ngày về.
Chức vụ Đại sứ Lưu động dành cho tướng Nguyễn Khánh thực chất chỉ là một hư vị không có nhiệm sở, trên thực tế ông là một chính khách lưu vong không hơn không kém.
- Details
- Category: Tài Liệu KQ
- Hits: 85
*Những bộ nhớ thời “khuyết sử”
(tiếp theo)
- Details
- Category: Tài Liệu KQ
- Hits: 189
Read more: BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG - Nguyễn Hữu Thiện