BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 4)

Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện

Những người muôn năm cũ

Chuẩn Tướng Võ Dinh 
Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Không Quân

 

* Những bộ nhớ thời “khuyết sử”

(tiếp theo)

Nếu không kể các vị niên trưởng chúng tôi được Đại tá Phùng Văn Chiêu giới thiệu thì cựu Chuẩn tướng Võ Dinh, nguyên Tham mưu trưởng BTL/KQ, là người thứ nhì (sau ông Trần Phước Hội) đã tự động liên lạc với Ban thực hiện QSKQ, và ngay trong lá thư đầu tiên ông đã hứa sẵn sàng đóng góp những gì mình còn nhớ về thuở ban đầu của quân chủng.

Trước năm 1975 tôi đã được nghe kể nhiều về vị Tham mưu trưởng KQ, được nhìn thấy ông mấy lần và gặp trực tiếp một lần.

Tôi được thấy ông Võ Dinh lần đầu tiên tại CCKQ Pleiku vào năm 1971 khi ông ra chủ tọa buổi kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày thành lập Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku.

Như tôi đã viết ở phần đầu, nẳm trong chương trình bành trướng của KQVN, cùng với việc thành lập SĐ2KQ tại Nha Trang vào tháng 7/1970, Căn Cứ 92 Không Quân Pleiku trở thành Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku, tạm thời trực thuộc SĐ2KQ trong khi chờ SĐ6KQ được thành lập.

Thực ra, kỷ niệm một năm thành lập một Không Đoàn Yểm Cứ cũng chẳng phải là buổi lễ quan trọng tới mức ông Tham mưu trưởng phải thân chinh từ Tân Sơn Nhất ra chủ tọa, cứ để ông Sư đoàn trường SĐ2KQ từ Nha Trang bay lên chủ tọa được rồi, nhưng có lẽ vì vị Không đoàn trưởng Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku, Trung tá Võ Quế, là em ruột ông Võ Dinh cho nên mới có sự ưu ái này.

Ông Võ Quế lại là người thích... nghi lễ (tôi không dám nói “nặng phần trình diễn”) nên đã tổ chức đón tiếp rầm rộ trước phòng khách VIP (gần đài kiểm soát không lưu), có trung đội danh dự (lính của Liên Đoàn Phòng Thủ) dàn chào.

Cũng may, vị Trưởng Phòng Huấn Luyện Pleiku lúc đó Thiếu tá Nguyễn Tiến Đức, vốn xuất thân Khóa 17 Võ Bị Đà Lạt, ra trường đi tác chiến, bị phương rồi mới thuyên chuyên về Không Quân, đứng ra tập dợt đám lính phòng thủ và chỉ huy buổi lễ cho nên cũng có lớp lang, bài bản!

Khi duyệt hàng quân, ông Võ Dinh đi giữa, không chỉ cao hơn hẳn hai ông Nguyễn Văn Lượng, Võ Quế mà còn trông trẻ hơn em trai, mặc dù mặt ông rất nghiêm!

Một đặc điểm nơi ông Võ Dinh là ông sử dụng tay trái giống tôi. Tôi biết được vì thấy ông đeo khẩu ru-lô 5 viên nòng ngắn ở bên hông trái. Tôi để ý tới chi tiết này là vì sẵn có “mặc cảm sử dụng tay trái” nên hễ thấy ai là cầm đũa, bắn súng tay trái tôi chú ý ngay.

(Tuy bắn tay trái nhưng tôi bắn cũng không đến nỗi tệ. Ngày học quân sự giai đoạn 1 ở TTHL Quang Trung, thi bắn M16 tôi đoạt bằng thiện xạ với số điểm 70/72)


CCKQ Pleiku 1971, từ trái, Đại tá Nguyễn Văn Lượng, Đại tá Võ Dinh, Trung tá Võ Quế;
phía sau ông Lượng là Thiếu tá Nguyễn Tiến Đức

Sau khi thuyên chuyển về Biên Hòa giữa năm 1972, trở thành người thân cận của Đại tá Từ Văn Bê, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận Không Quân, tôi mới biết ông Võ Dinh là người rất nguyên tắc và có uy trong Không Quân.

Còn nhớ mỗi lần có phái đoàn BTL/KQ về thanh tra CCKQ Biên Hòa, nếu chỉ có ông Tư lệnh Trần Văn Minh và các ông Tham mưu phó thì tương đối “đỡ lo”, nhưng một khi có ông Tham mưu trưởng tháp tùng thì đừng có “dỡn mặt”. Mỗi lần như thế, ông Từ Văn Bê lại căn dặn các ông chỉ huy trưởng dưới quyền: Mấy anh nhớ là kỳ này có ông Tham mưu trưởng về đó nghen!

Cho nên trong đầu tôi cứ đinh ninh ông Võ Dinh là người rất “khó”, và cảm thấy thương tội thằng bạn cùng khóa cùng ngành, ngày ấy bốc phải cái thăm về Văn phòng Tham mưu trưởng BTL/KQ!

Vì thế vào khoảng cuối năm 1973, khi được ông Từ Văn Bê trao nhiệm vụ về Tân Sơn Nhất tới tư gia ông Võ Dinh trong cư xá sĩ quan trao tận tay ông một số hồ sơ, tôi hơi “rét”. Nào ngờ đích thân ông đã rót nước mời tôi, sau khi mở cái phong thư lớn liếc qua xấp hồ sơ, để xuống bàn sa-lông rồi hỏi tôi đủ thứ chuyện ở Biên Hòa; nhất là sau khi được biết tôi là bạn cùng khóa với Trung úy B, Sĩ quan CTCT tại Văn phòng Tham mưu trưởng, ông càng vui vẻ, thân mật, và sau đó khi tôi ra về đã tiễn ra tận cửa.

Đó lần duy nhất trong đời binh nghiệp tôi được nói chuyện trực tiếp với ông Võ Dinh. Sau đó ít lâu, tôi tháp tùng ông Từ Văn Bê về Tân Sơn Nhất phúng điếu nhạc phụ của ông Võ Dinh nhưng chỉ đứng xa xa (nhạc gia của ông Võ Dinh theo Công giáo nên ông Bê muốn tôi đi theo cho chắc ăn).

Phải đợi sau khi ra hải ngoại, tới những năm đầu của thế kỷ 21, khi chuẩn bị bắt tay vào việc biên sọan quyển QSKQ tôi mới có cơ hội liên lạc lại với vị Tham mưu trưởng Không Quân.

Nguyên sau khi Ban thực hiện QSKQ phổ biến Thông Báo và Bản phác thảo hình thức & nội dung cuốn sách, chúng tôi đã nhận được thư góp ý của NT Trần Phước Hội và tiếp theo là thư của NT Võ Dinh.

Thư của ông Võ Dinh được gửi bằng đường bưu điện thay vì gửi email như đa số các niên trưởng khác. Một điều thú vị (tạm gọi như thế) là lá thư này, cũng như tất cả các lá thư sau đó, được ông Võ Dinh đánh bằng máy đánh chữ không có dấu tiếng Việt, đánh xong mới bỏ dấu bằng tay, và ký tên bằng bút nguyên tử. Không hiểu vì ông đã có tuổi nên gặp khó khăn trong việc cầm bút hay chỉ vì ông có thói quen đánh máy những lá thư “official” như tôi đã thấy nơi một số vị chỉ huy trước năm 1975?

Trong lá thư đầu tiên, cùng với những lời khích lệ, NT Võ Dinh đã đề nghị chúng tôi liên lạc thêm với những vị niên trưởng mà ông tin rằng còn nhớ nhiều về thuở ban đầu của quân chủng, như cựu Đại tá Trần Phước, cựu Đại tá Vũ Văn Ước, cựu Đại tá Huỳnh Minh Quang, cựu Đại tá Vũ Thượng Văn... Ông cũng không quên nhấn mạnh trước năm 1975, tại BTL/KQ có Ban Quân Sử nằm trong Văn phòng Tham mưu phó Kế Hoạch & Chương Trình của Đại tá Vũ Thượng Văn .

(Trong thời gian bị kẹt ở Úc sau vụ khủng bố 11 tháng 9, NT Vũ Thượng Văn có nhắc tới Ban Quân Sử này nhưng cho biết vì ở BTL/KQ chẳng mấy ai quan tâm tới “quân sử” nên có cũng như không. Ông kể lại trong một buổi họp ông xin ngân khoản để ban này mua một cái máy chụp hình thì được trả lời là “không có trong bảng cấp số”)

Sau khi nhận được lá thư thứ hai của NT Võ Dinh, qua đọc bản tiểu sử chi tiết do ông cung cấp tôi mới thấy trời sinh ra ông để làm công việc... tham mưu; trong binh nghiệp của mình ông đã xuất ngoại tổng cộng bốn lần để theo học các khóa tham mưu.

* * *

Ông Võ Dinh sinh năm 1929 tại Thừa Thiên.

Theo học trung học chương trình Pháp tại trường Lasan Pellerin, Huế, ông tốt nghiệp Tú tài toàn phần năm 1949.

Tháng 9/1950 ông tình nguyện theo học Khóa 3 Trần Hưng Đạo tại Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt (sau này gọi là Trường Võ Bị Quốc Gia), tốt nghiệp năm 1951 với cấp bậc Thiếu úy.

Mãn khóa, ông được tuyển chọn về Không Quân cùng với ba bạn đồng khóa Nguyễn Ngọc Oánh, Từ Bộ Cam, Nguyễn Thế Anh.

Gần cuối năm 1951, ông được đưa ra TTHLKQ Nha Trang lúc ấy đang được xây cất, phụ giúp việc huấn luyện căn bản quân sự cho các dân chính vừa được tuyển vào Không Quân để theo học Khóa 1 Hoa tiêu Quan Sát, khai giảng đầu năm 1952.

Khóa này có 15 khóa sinh, gồm bốn Thiếu úy đã tốt nghiệp Đà Lạt (Võ Dinh, Nguyễn Ngọc Oánh, Từ Bộ Cam, Nguyễn Thế Anh), và 11 dân chính (Bùi Quang Các, Nguyễn Tâm Ðăng, Mai Văn Hạnh, Dương Thiệu Hùng, Nguyễn Kim Khánh, Võ Phước, Trần Bá Quy, Phạm Long Sửu, Nguyễn Thanh Tòng, và Vũ Văn Ước).


Khóa 1 Hoa tiêu Quan Sát trong ngày lãnh bằng bay (solo). Bốn Thiếu úy gốc Đà Lạt mặc đại lễ phục trắng,
ông Võ Dinh đứng bên phải hình. Người mặc quần áo dân sự giữa hình là ông Phó tỉnh trưởng Khánh Hòa;
phía sau ông là khóa sinh Phạm Long Sửu, thủ khoa của khóa

Sau khi tốt nghiệp, các hoa tiêu được đưa về hai phi đoàn quan sát mới được thành lập cho KQVN, lúc đầu do người Pháp chỉ huy và mang danh xưng tiếng Pháp Premier Groupe Aérien d'Observation et d'Accompagnement au Combat, viết tắt là GAOAC, ngắn gọn là GAO; phía Việt Nam gọi là Phi Đoàn Quan Sát & Trợ Chiến, hoặc ngắn gọn là Phi Đoàn Quan Sát.

Ông Võ Dinh phục vụ tại Phi Đoàn 2 Quan Sát và tới ngày 1/7/1953, khi được người Pháp bàn giao lên làm Chỉ huy trưởng Phi Đoàn, thăng cấp Đại úy.

Ngày 7/7/1955, Thiếu tá Võ Dinh tiếp nhận căn cứ không quân Colonna của người Pháp ở Nha Trang, được đặt tên tiếng Việt là Căn Cứ 1 Chiến Thuật Không Quân do ông làm Chỉ huy trưởng. (xem PHỤ LỤC)

Năm 1956, Thiếu tá Võ Dinh được lệnh vào Biên Hòa tiếp nhận căn cứ không quân này từ tay người Pháp, được đặt tên Căn Cứ 2 Trợ Lực Không Quân (từ đây, tất cả các căn cứ mới tiếp nhận từ tay người Pháp được gọi là Căn Cứ Trợ Lực thay vì Căn Cứ Chiến Thuật)

Năm 1957, ông được lệnh ra Đà Nẵng tiếp nhận CCKQ Tourane của người Pháp, được đặt tên Căn Cứ 4 Trợ Lực (trước đó, vào năm 1957, Đại úy Trịnh Hảo Tâm đã tiếp nhận CCKQ Tân Sơn Nhất, tức Căn Cứ 3 Trợ Lực).

Năm 1959, Thiếu tá Võ Dinh về Tân Sơn Nhất giữ chức vụ Phụ tá Thanh Tra BTL/KQ; thăng cấp Trung tá.

Năm 1962, ông giữ chức vụ Trưởng Khối Nhân Viên BTL/KQ.

Năm 1967, ông được thăng cấp Đại tá, lên làm Tham mưu trưởng BTL/KQ và giữ chức vụ này cho tới năm 1975.

Ngày 1/11/1972, Đại tá Võ Dinh được vinh thăng Chuẩn tướng, cùng một đợt với các Đại tá Nguyễn Ngọc Oánh, Đặng Đình Linh, Phan Phụng Tiên, Huỳnh Bá Tính, Nguyễn Văn Lượng, và Lê Trung Trực.

Trước sau ông Võ Dinh đã xuất ngoại tổng cộng bốn lần để tu nghiệp:

1- Năm 1954, sang Pháp theo học khóa tham mưu Cours d’Etat Major, Ecole Militaire, Paris. Mãn khóa, ông được gửi qua Bắc Phi theo học khóa hoa tiêu bổ túc trên phi cơ T-6 tại Marrakech, nhưng đang học dở dang thì được lệnh hồi hương để tiếp nhận CCKQ Nha Trang.

2- Trong thời gian đang làm Chỉ huy trưởng Căn Cứ 2 (Biên Hòa), Thiếu tá Võ Dinh được gửi sang CCKQ Clark của Hoa Kỳ ở Phi-luật-tân theo học (on-the-job training) khóa Base Commander Organization.

3- Cuối năm 1958, khi đang làm Chỉ huy trưởng Căn Cứ 4 (Đà Nẵng) ông sang Hoa Kỳ theo học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp tại Fort Leavenworth, Kansas.

4- Năm 1962, ông theo học khóa Cao Đẳng Quốc Phòng tại Monterey, California, Hoa Kỳ, trở về nắm giữ chức vụ Trưởng Khối Nhân Viên, BTL/KQ.

Ngoài ra, vào năm 1960, ông còn theo học khóa Chiến Tranh Chính Trị cao cấp tại Sài Gòn do Nha Tâm Lý Chiến tổ chức, cán bộ CTCT của Trung Hoa Dân Quốc phụ trách với thông dịch VN.


* * *

Cùng với Trung tướng Tư lệnh Trần Văn Minh, Thiếu tướng Tư lệnh phó Võ Xuân Lành, Chuẩn tướng Võ Dinh là vị Tham mưu trưởng nắm giữ chức vụ lâu nhất – từ năm 1967 tới năm 1975 – và cũng là vị Tham mưu trưởng cuối cùng của quân chủng Không Quân.

Các vị Tham mưu trưởng tiền nhiệm của ông là (với cấp bậc sau cùng):

- Chuẩn tướng Lê Trung Trực
- Đại tá Huỳnh Hữu Hiền
- Đại tá Đỗ Khắc Mai
- Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan
- Đại tá Phạm Long Sửu.

Nhân tiện tôi cũng xin có đôi dòng về năm đời Tham mưu trưởng Không Quân trước ông Võ Dinh – những người muôn năm cũ đã về bên kia thế giới.

*Chuẩn tướng Lê Trung Trực (1927-2002)

Ông Lê Trung Trực sinh năm 1927 tại Trà Vinh, tức là trong hàng tướng lãnh Không Quân ông chỉ thua tuổi Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Oánh (sinh năm 1925) và ngang tuổi với Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính.

Khi lệnh tổng động viên năm 1950 được ban hành, ông Lê Trung Trực vừa tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chánh, thay vì chờ để bị gọi đi Khóa 1 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, ông thi tuyển vào Không Quân và trở thành người Việt đầu tiên được sang Pháp vào Trường Võ Bị Không Quân Pháp Salon de Provence, theo học khóa 1950.

(Khi viết ông Lê Trung Trực là người Việt đầu tiên theo học Salon de Provence, tôi không tính Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, theo học khóa 2 vào năm 1936, vì khi ấy ông Hinh mang quốc tịch Pháp)


Trường Võ Bị Không Quân Pháp Salon de Provence

Tới tháng 10/1951, ông Lê Trung Trực được chuyển qua trường bay Marrakech, Maroc (thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi) theo học Khóa 51H; và cũng là sĩ quan người Việt đầu tiên theo học tại trường bay này (trước ông có bốn người học khóa 51B nhưng đều là dân chính, tốt nghiệp hạ sĩ quan hoa tiêu).

Như vậy trong hàng ngũ sĩ quan hoa tiêu tốt nghiệp tại ngoại quốc, ông Lê Trung Trực là đàn anh của các ông Huỳnh Hữu Hiền, Phạm Ngọc Sang, Huỳnh Minh Bon, Huỳnh Bá Tính, Đinh Văn Chung, Phan Phụng Tiên, Võ Công Thống (Khóa 52F1 Marrakech), và Trần Văn Hổ, Nguyễn Cao Kỳ, Trịnh Hảo Tâm (Khóa 52F2 Marrakech).

Về nước, Thiếu úy Lê Trung Trực phục vụ tại Phi Đoàn 1 Quan Sát và Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc. Đầu tháng 5/1954, ông thăng cấp Trung úy.

Cuối tháng 10/1955, ông về Tân Sơn Nhất giữ chức vụ Trưởng phòng Hành Quân. Đầu tháng 12 cùng năm ông được thăng cấp Đại úy.

Tháng 1/1957, ông được thăng cấp Thiếu tá và được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng đầu tiên của KQVN.

Trong bài Cũng một vì sao - Chuẩn Tướng Lê Trung Trực, tác giả Gman (Đại tá Nguyễn Quang Tri) kể lại:

Khi từ Pháp về ngày 24-2-1957, tôi trình diện Bộ Tư Lệnh Không Quân trong căn cứ Tân Sơn Nhứt vào ngày 26-2-1957, sĩ quan Việt Nam đầu tiên mà tôi được gặp là Thiếu Tá Lê Trung Trực, Tham Mưu Trưởng tại BTLKQ. Ông có tầm vóc không cao, tối đa 1,60m, đó là thước tấc tối thiểu cho một người lái. Vì trên máy bay, ai cũng biết, tay ngắn quá thì không với tới các nút vặn trước mặt hay mắt không nhìn được bên ngoài. Nếu để ghế ngồi cao lên thì chân lại không chạm bàn đạp để thắng hay lái cho chính xác được. Có người mô tả ông bằng câu “người ngồi không thấy chân”. Đó là sự thật. Nhưng cũng nên nhớ trên thế gian này, những người có biệt tài đều rất thấp khổ, như George Washington chẳng hạn, hay Adolf Hitler, và trong nước ta thì vị tổng thống đầu tiên cũng có chiều cao rất khiêm tốn. Riêng ông Trực, tôi không biết tài lái máy bay của ông ra sao cả, vì tôi về nước trễ nên chỉ thấy ông giữ các chức vụ cao chứ không hề thấy ông bay bất cứ một loại máy bay nào. Ông Lê Trung Trực là Tham Mưu Trưởng đầu tiên tại BTLKQ dưới quyền Đại Tá Trần Văn Hổ. (ngưng trích)

Cuối năm 1957 (hoặc đầu năm 1958) Thiếu tá Huỳnh Hữu Hiền, Chỉ huy trưởng Căn Cứ 2 Trợ Lực (Biên Hòa) được lệnh về Tân Sơn Nhất thay thế ông Lê Trung Trực trong chức vụ Tham mưu trưởng Không Quân, ông Lê Trung Trực về Biên Hòa làm Chỉ huy trưởng Căn Cứ 2 Trợ Lực.

Ngày 26 tháng 10 năm 1960, nhân Quốc khánh Đệ Nhất Cộng Hòa, ông Lê Trung Trực được thăng cấp Trung tá. Giữa năm 1961, ông về Tân Sơn Nhất giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Căn Cứ 3 Trợ lực. Tháng 9 năm 1962, ông ra Nha Trang làm Chỉ huy trưởng TTHLKQ.

Tháng 8 năm 1964, ông được thăng cấp Đại tá, và tới cuối năm bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng TTHLKQ cho Trung tá Phạm Ngọc Sang. Sau đó ông được chỉ định làm Tư lệnh phó Không quân thay thế Đại tá Nguyễn Ngọc Loan được bổ nhiệm làm Giám đốc Nha An Ninh Quân Đội.

Giữa năm 1965, ông bàn giao chức vụ Tư lệnh phó cho Đại tá Trần Văn Minh để sang Bộ Tổng tham mưu làm Trưởng phòng 5. Cuối năm 1966, ông được cử làm phó Giám đốc Thương cảng Sài Gòn. Tháng 10 năm 1967, ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy phó trường Cao đẳng Quốc phòng.

Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng Hòa, 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Chuẩn tướng, cùng một đợt với các Đại tá KQ Võ Dinh, Đặng Đình Linh, Nguyễn Ngọc Oánh, Phan Phụng Tiên, Huỳnh Bá Tính, và Nguyễn Văn Lượng.

Cuối tháng 1 năm 1973, ông về Phủ Tổng thống làm Phụ tá cho Trung tướng Đặng Văn Quang, Trung tâm trưởng Trung tâm Phối hợp thi hành Hiệp định Paris.

Khi xảy ra biến cố 30 tháng 4, 1975, Chuẩn tướng Lê Trung Trực bị kẹt lại, bị cộng sản bắt đi tù “cải tạo” ngoài miền Bắc 13 năm, lần lượt qua các trại giam ở Yên Bái, Hà Tây và Hà Nam, cho đến ngày 13 tháng 2 năm 1988 mới được thả.

Năm 1993, ông và gia đình được xuất cảnh theo diện HO, định cư tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ.

Ông qua đời ngày 5 tháng 7 năm 2002. Hưởng thọ 75 tuổi.

* * *

Trở lại với cuối năm 1972, khi ông Lê Trung Trực có tên trong danh sách bảy vị Đại tá KQ được vinh thăng Chuẩn tướng, không mấy người trong Không Quân biết ông là ai. Chỉ có những vị đại niên trưởng mới biết ông là người đầu tiên theo học tại Salon de Provence và là Tham mưu trưởng đầu tiên của KQVN, đã có công tổ chức một “Bộ tham mưu” cho quân chủng.

Để mọi người thấy được công lao của ông Lê Trung Trực, tôi xin sơ lược về những ngày đầu của KQVN.

Khi Bộ Tổng tham mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam được thành lập vào ngày 1 tháng 5 năm 1952, một Ban Không Quân (Section Air) cũng được thành lập, đặt trong một căn phòng nhỏ phía sau của tòa nhà Bộ Tổng tham mưu trên đường Galliéni (Trần Hưng Đạo sau này) gần Chợ Lớn.

Ban Không Quân, sau được đổi thành Phòng Không Quân (Département Air), do một Phụ tá Không Quân (Adjoint Air) cho Tổng tham mưu trưởng nắm giữ, cho nên cơ quan này có tên tiếng Việt là Văn phòng Phụ tá Không Quân.

Hai đời Phụ tá Không Quân đầu tiên đều là người Pháp: Trung tá Rouzaud và Trung tá (sau lên Đại tá) Sagon.

Khi quyền chỉ huy Không Quân được chuyển giao cho phía Việt Nam (1/7/1955) thì cũng là thời gian Bộ Tư Lệnh Không Quân Pháp tại Viễn Đông ở số 110 đường Testard (Trần Quý Cáp sau này) bị giải thể, Văn phòng Phụ tá Không Quân tới chiếm ngụ ngôi biệt thự này.
Chính tại đây, Bộ tham mưu Không Quân đã được thành lập, các cơ sở hành chánh, tham mưu đầu tiên của KQVN bắt đầu hình thành.

Tháng 1/1957, Bộ tham mưu Không Quân từ đường Trần Quý Cáp vào phi trường Tân Sơn Nhất đặt bản doanh, ngành Không Quân chính thức trở thành một quân chủng trong Quân Đội VNCH, Bộ tham mưu Không Quân được nâng lên thành Bộ Tư Lệnh Không Quân, chức vụ Phụ tá Không Quân của Trung tá Trần Văn Hổ trở thành “Quyền Tư Lệnh Không Quân”, Thiếu tá Lê Trung Trực được cử làm Tham mưu trưởng đầu tiên của KQVN.

(Ngày Bộ tham mưu Không Quân từ đường Trần Quý Cáp di chuyển vào vào Tân Sơn Nhất có tài liệu ghi là 3 tháng 10 năm 1957, tuy nhiên trong bài "Cũng một vì sao - Chuẩn Tướng Lê Trung Trực" đã nhắc tới ở trên, Đại tá Nguyễn Quang Tri đã kể lại “Khi từ Pháp về ngày 24-2-1957, tôi trình diện Bộ Tư Lệnh Không Quân trong căn cứ Tân Sơn Nhứt vào ngày 26-2-1957, sĩ quan Việt Nam đầu tiên mà tôi được gặp là Thiếu Tá Lê Trung Trực, Tham Mưu Trưởng tại BTLKQ...”
Chúng tôi tin theo những gì Đại tá Nguyễn Quang Tri viết vì nó phù hợp với tiểu sử của ông Nguyễn Trung Trực, theo đó “Tháng 1/1957, ông được thăng cấp Thiếu tá và được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng đầu tiên của KQVN”)

Về hoạt động của ông Lê Trung Trực trong thời gian giữ chức vụ Tham mưu trưởng Không Quân, không có ai ghi lại một cách chi tiết. Chỉ biết theo một bài viết của NT Trần Đỗ Cung, ngoài việc có công thành lập một bộ tham mưu cho KQVN, Thiếu tá Lê Trung Trực, trong cương vị Tham mưu trưởng, đã cầm đầu một phái đoàn của KQVN thăm viếng Hoa Kỳ, trong đó có Đại úy Nguyễn Đức Hớn, Trưởng Phòng Hành Quân, Trung úy Trần Đỗ Cung, Trưởng Phòng Kỹ Thuật.

Về hình ảnh của NT Lê Trung Trực trong thời gian tại ngũ, rất tiếc tôi không tìm được một tấm hình nào. Lần duy nhất tôi được nhìn thấy ông là trong buổi lễ kỷ niệm Ngày Không Lực năm 1973 tại Tân Sơn Nhất mà tôi đã kể chi tiết trong một phần trước.

Đây là buổi kỷ niệm lớn nhất, quy mô nhất từ trước tới nay, diễn ra hơn một tuần sau cuộc diễn binh Ngày Quân Lực 19/6 vĩ đại trên Đại lộ Trần Hưng Đạo.

Vì có phần tuyên dương công trạng 9 đại đơn vị, gồm 6 Sư Đoàn Không Quân, TTHLKQ, BCH/HQKQ, BCH/KTTV/KQ, và gắn huy chương cho 9 ông sếp lớn cho nên đích thân các ông phải về tham dự. Ngoài ra còn có sự hiện diện của Chuẩn tướng Lê Trung Trực.

Buổi lễ diễn ra trên lãnh thổ SĐ5KQ cho nên Chuẩn tướng Phan Phụng Tiên là người chịu trách nhiệm tổ chức. Mọi việc diễn ra hết sức tốt đẹp, chỉ có một chi tiết nho nhỏ nhưng khi lên hình, lên phim tôi thấy hơi... kỳ kỳ là việc để Chuẩn tướng Lê Trung Trực (cao chưa tới 1m60) ngồi giữa Trung tướng Trần Văn Minh và Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Oánh, cả hai đều cao trên dưới 1m80!

Rất có thể ông Phan Phụng Tiên là người tôn trọng nguyên tắc, thấy ông Lê Trung Trực thâm niên (quân ngũ) nhất trong trong số các vị tướng lãnh KQ, lại là người của phủ Tổng thống cho nên mới sắp ngồi kế bên ông Tư lệnh KQ. Kết quả là một người thiếu thước tấc bị cho ngồi giữa ông Minh “đù” và “cụ Hách” (hỗn danh của ông Nguyễn Ngọc Oánh).

Trong video dưới đây, từ giây thứ 25 tới giây thứ 28, chúng ta thấy ống kính TV thu hình năm vị tướng ở hàng ghế đầu, tính từ phía mặt lần lượt là Nguyễn Ngọc Oánh, Lê Trung Trực, Trần Văn Minh, Võ Dinh, Phan Phụng Tiên, nhưng thực ra còn có Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính ở phía bên trái.

Nếu được trao trách nhiệm sắp xếp, tôi sẽ cho các vị tướng ngồi như sau, tính từ phía bên mặt: Nguyễn Ngọc Oánh, Huỳnh Bá Tính, Trần Văn Minh, Võ Dinh, Phan Phụng Tiên (có chiều cao trung bình), Lê Trung Trực, thì dễ coi hơn nhiều​.​

LƯU Ý: video clip này đã bị chú thích sai là Ngày Không Lực 1971

https://www.youtube.com/watch?v=VAYzTbuyBHk&t=29s

(Còn tiếp)

PHỤ LỤC

NT Nguyễn Ngọc Oánh, NT Võ Dinh và Căn Cứ 12

Trước đây, trong số những tác giả viết về TTHLKQ và CCKQ Nha Trang có ít nhất một vị viết rằng một tuần sau ngày lá cờ vàng ba sọc đỏ được thượng lên tại sân cờ CCKQ Nha Trang (1/7/1955), Thiếu tá Nguyễn Ngọc Oánh đã tiếp nhận toàn bộ căn cứ không quân này.

Tuy nhiên, theo tài liệu của người Pháp và ký ức của nhiều vị niên trưởng thuộc hàng “khai quốc công thần” trong đó có NT Võ Dinh, vào ngày 7/7/1955, căn cứ không quân Nha Trang (Base Aérienne No. 194, tức Căn cứ Colonna) được người Pháp bàn giao cho Thiếu tá Võ Dinh, còn TTHLKQ (Centre d'Instruction Aérienne, viết tắt là CIA), lúc đó chỉ gồm mấy dãy nhà trong căn cứ, được bàn giao cho Thiếu tá Nguyễn Ngọc Oánh.

Như vậy, sau khi KQVN tiếp nhận căn cứ Nha Trang, nơi đây trở thành hai đơn vị riêng biệt: TTHLKQ và Căn Cứ 1 Chiến Thuật Không Quân.

Gọi là Căn Cứ 1 Chiến Thuật Không Quân vì đây là căn cứ không quân đầu tiên được người Pháp chuyển giao và là nơi đồn trú của hai đơn vị phi hành: Phi Đoàn 2 Quan Sát và Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc.

Qua năm 1956, Thiếu tá Võ Dinh được lệnh vào Biên Hòa tiếp nhận căn cứ này từ tay người Pháp, được đặt tên Căn Cứ 2 Trợ Lực Không Quân. (Từ đây, tất cả mọi căn cứ được người Pháp chuyển giao cho KQVN đều được gọi là “Căn Cứ Trợ Lực”).

Tại Nha Trang, Thiếu tá Nguyễn Ngọc Oánh, Chỉ huy trưởng TTHLKQ, kiêm luôn chức Chỉ huy trưởng Căn Cứ 1 Chiến Thuật Không Quân; và để tiện việc chỉ huy, điều động, hai đơn vị này được sát nhập thành một với danh xưng Căn Cứ 12 Không Quân.

Trước cũng như sau 1975, mỗi khi tôi đề cập tới danh xưng “Căn Cứ 12” thì lại bị không ít người bác bỏ, trong đó có cả một số vị KQ cấp tá. Quý vị đó nói rằng khi KQVN trưởng thành thì các Căn Cứ 1, 2, 3, 4 trở thành các Không Đoàn 62, 23, 33, 41 chứ không hề nghe danh xưng “Căn Cứ 12”.

Tuy nhiên, ít nhất có hai vị niên trưởng đã khẳng định sự hiện hữu của danh xưng “Căn Cứ 12”, đó là NT Trần Phước Hội và NT Đằng Vân (tác giả bài viết “Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang”).

Ngoài ra tôi còn được hai đàn anh Khóa 65C và 65E xác nhận danh xưng “Căn Cứ 12”. Đàn anh Khóa 65E viết “Riêng tôi trên vai áo quân phục SVSQ thời bấy giờ có mang phù hiệu Căn Cứ 12, phù hiệu này còn có trước huy hiệu Tổ Quốc Không Gian mà sau này toàn thể quân chủng KQ đều mang…”

Chỉ tới khi Không Đoàn 62 Chiến Thuật từ Pleiku di chuyển về Nha Trang đầu năm 1966, Căn Cứ 12 mới tách ra thành hai đơn vị riêng biệt như lúc đầu, một bên là TTHLKQ, một bên là Không Đoàn 62 Chiến Thuật.
 

 

 
Cookies user preferences
We use cookies to ensure you to get the best experience on our website. If you decline the use of cookies, this website may not function as expected.
Accept all
Decline all
Analytics
Tools used to analyze the data to measure the effectiveness of a website and to understand how it works.
Google Analytics
Accept
Decline
Advertisement
If you accept, the ads on the page will be adapted to your preferences.
Google Ad
Accept
Decline
Save