Truyện VNAF

Hình minh họa
Tháng 11 năm 1968 về trình diện phi đoàn 219 tại hậu cứ Đà Nẵng tôi bắt đầu làm quen với chiến trường cũng như làm quen với các anh em trong phi đoàn . Đối với phi đoàn 219, dùng chử chiến trường không còn mấy đúng nghĩa bởi tất cả các phi vụ đều âm thầm và không số . Thời điểm đó , PĐ 219 là phi đoàn có số thương vong cao nhất trong các phi đoàn Không quân . Và ngay tuần lễ đầu tiên về phi đoàn , tôi được cử đi gác quan tài Đ/U Hướng văn Năm thuộc phi hành đoàn Minh- Năm - Thân .
Cho đến nay tôi vẫn tự hỏi là tỷ số thương vong của PĐ 219 mà trong đó có một số phi công trực thăng đầy kinh nghiệm nhưng thiếu may mắn thuộc PĐ 219 có mật hệ gì với chiếc Vespa ? Một huyền thoại !
Giữa năm 1969, trong một lần biệt phái hành quân tại Kontum , tôi ngồi hoa tiêu phó cho Đ/U Nguyễn quý An biệt đội trưởng của 4 phi hành đoàn . Đ/U An số 1 , Tr/U Sinh số 2 ,Tr/U Cung số 3 , Tr/U Thắng số 4 . Ngày hôm ấy phi hành đoàn số 1 nghỉ .Tôi cùng Đ/U An đang nhâm nhi cà phê ngoài phố Kontum , một chiếc xe jeep của biệt kích Lôi Hổ thắng gấp trước cửa tiệm mang đến cho chúng tôi tin không lành : Chiếc H-34 của số 2 bị bắn , đâm vào núi bốc cháy , PHĐ Tr/U Sinh tử nạn.
Chúng tôi bàng hoàng , hối hả trở về trại B-15 , hậu cứ của biệt kích Lôi Hổ vùng cao nguyên Pleiku- Kontum mà PĐ 219 làm việc với họ .
Lúc bấy giờ tôi không biết Tr/U Sinh là chủ một chiếc xe Vespa mà tôi không ngờ sau này chiếc xe của anh đi vào huyền thoại của PĐ 219.
Trở về Đà Nẵng ,tôi lại tiếp tục các chuyến biệt phái Phú Bài , Quảng Trị , Đông Hà .
Một hôm , tôi đang ngồi trong phòng trực phi đoàn , Đ/U Ngô viết Vượng một trưởng phi cơ kỳ cựu của phi đoàn bước vào ,anh nhờ tôi đưa anh ra phi đạo để chuẩn bị cất cánh đi biệt phái Kontum . Anh dùng chiếc Vespa của anh chở tôi ra phi đạo và muốn tôi giúp anh đem chiếc Vespa về cất tại phi đoàn .Trên đường ra phi đạo , anh cho biết là đã mua lại chiếc Vespa này từ gia đình cố Tr/U Tôn thất Sinh . Anh bắt tay cảm ơn tôi với đầy tin tưởng là tôi sẽ cất xe cho anh chu đáo ,
Chỉ vài ngày sau , tôi sửng sốt nhận hung tin từ biệt đội Kontum : Thời tiết xấu, 2 phi hành đoàn tử nạn vì bị “Vertigo” , PHĐ số 1 gồm Đ/U Vượng , Tr/U Sang ,Tr/Sĩ Truật - PHĐ số 2 có Đ/U Cung , Th/U Đạt , Tr/Sĩ Liên . Buổi chiều tôi nhận tiếp báo cáo từ biệt đội : Cơ phi chiếc số 2 là Tr/Sĩ Liên , em ruột Đ/U Long sống sót và chỉ bị thương nhẹ . Riêng Đ/U Trần văn Long bay chiếc số 3 đã quay trở lại Kontum đáp nên thoát nạn .
Đầu tháng 10 /1971 biệt phái Quản Lợi , Đ/U Thắng bay số 1 là biệt đội trưởng , Tr/U Sâm bay số 2 và tôi bay số 3 , Quản Lợi chỉ cách Sài gòn khoảng hơn 1 giờ bay , và vì lý do an ninh chúng tôi mổi tối đều về Sài Gòn ngủ . Đặc biệt trong lần biệt phái này Đ/U Thắng đã mua lại chiếc Vespa của cố Đ/U Vượng và anh đã đem chiếc Vespa này về Sài Gòn làm phương tiện di chuyển .
Sáng hôm ấy trời còn mờ sương , tôi chuẩn bị sẵn sàng chờ Đ/U Thắng đến đón đi bay . Vừa tính bước ra cửa quyển lịch treo ngay đầu cầu thang đập vào mắt tôi :9 tháng 10 -1971 . Tôi thầm nghĩ còn đúng 1 tháng nữa là mình lên 25 tuổi rồi .
Anh Thắng và tôi lúc này thân nhau như anh em nên anh không ngần ngại lái Vespa từ Phú Nhuận sang Khánh Hội đón tôi , rồi ngược vào căn cứ KQ Tân Sơn Nhất . Dọc đường anh ghé phở Công Lý bao tôi một chầu ăn sáng .Vui miệng , anh đã tâm sự về chiếc Vespa anh đang sử dụng .Anh cho biết chiếc Vespa khởi thuỷ là của một vị Đ/U nhảy dù . Trên đường ra miền Trung công tác , chiếc C47 chở vị Đ/U nhảy dù này lâm nạn đâm vào núi bốc cháy , Không biết trong một liên hệ nào , chiếc Vespa được chuyển qua cho Tr/U Tôn thất Sinh . Một thời gian sau , Tr/u Sinh tử nạn trong một phi vụ gần Dakto , phi cơ bị bắn đâm vào núi bốc cháy .Kế tiếp người sử dụng chiếc Vespa là Đ/U Ngô viết Vượng .Trong phi vụ liên lạc Kontum - Đức Cơ do anh hướng dẫn , phi cơ của anh bị “vertigo” đâm xuống đất .Kể đến đây , anh Thắng muốn tỏ cho tôi biết anh không hề kiêng kỵ khi mua lại chiếc Vespa của gia đình Đ/U Vượng . Rồi anh cười hỏi đùa tôi “ Sao chú muốn mua chiếc Vespa của tôi không ?“ .
Chúng tôi vào đến Tân Sơn Nhất trời đã sáng và sương chưa tan hẳn .Lúc này tôi được biết vì lý do kỹ thuật , chiếc số 2 cần sửa chữa nên Tr/U Sâm nghỉ bay hôm đó ,chỉ có Đ/U Thắng và tôi số 3 lên trực hành quân tại Quản Lợi .
Trên phi trình tới Quản Lợi , chúng tôi bình phi ở cao độ 2.500 bộ , Vừa qua khỏi Chơn Thành khoảng 15 phút , thình lình số 1 giảm cao độ thật nhanh và xà vào một bìa rừng . Anh Thắng gọi tôi trên tầng số FM : “ Số 2 xuống đi ,heo rừng nhiều lắm “ . Trời ơi ! tôi thầm kêu khổ. Anh đã từng biết tôi không thích bắn nai , bắn heo ... Lúc còn ở quân trường ,các bạn cùng khoá hay cười tôi vì tối tối trước khi đi ngủ , tôi bắt từng con muỗi trong mùng bỏ ra ngoài cửa sổ , bây gió bảo bắn heo làm sao tôi dám . Tôi từ chối , anh tỏ ra giận dữ , đe doạ :” Thôi chú về Sài Gòn đi , mai anh gửi chú ra Đà Nẵng “ Vì đã khá thân và cả nể , tôi chiều ý anh , cắt ga xà xuống rồi tính nói người cơ phi xạ thủ của tôi đừng bắn gì cả . Hởi ơi Tr/Sĩ Cần , người xạ thủ của tôi đã lanh tay nỗ hàng loạt đại liên trên đàn heo đang chạy tứ tung , 2 con nằm tại chỗ .Trong khoảnh khắc ,Cần đã chuyển 2 con heo xấu số lên tàu rồi cùng nhận lệnh từ anh Thắng đến “pick-up” luôn 6 con heo anh đã bắn được .Vì mãi bắn heo gần 9 giờ sáng chúng tôi mới đáp Quản Lợi .Anh em biệt kích và cố vấn Mỹ chờ sẵn ngoài phi đạo ,Đ/U Miller , cố vấn trưởng tỏ ra bực tức và hơi to tiếng với anh Thắng vì sự chậm trể của chúng tôi . Hắn đã nhanh tay rút ra chiếc máy ảnh nhỏ đưa lên chụp liên tiếp chiếc H-34 của tôi với 8 con heo còn nằm chình ình bên trong .Tôi thầm nghĩ : Thôi rồi . chuyến này thế nào tôi cũng bị vài củ ... trọng cấm ,
Chúng tôi đưa toán biệt kích lên Lộc Ninh trực hành quân .Vì nhu cầu khẩn thiết . 1 chiếc H-34 được điều động tăng cường cho chúng tôi và Đ/U Trần văn Long từ biệt đội Ban Mê Thuộc đã về Lộc Ninh xế trưa hôm đó trên 1 chiếc H-34 với người cơ phi là Tr/Sĩ Trần văn Liên , em ruột của Đ/U Long . Đây là lần đầu tiên 2 anh em Đ/U Long cùng chung một phi hành đoàn . Phi vụ rước toán hoàn tất và 3 chiếc H-34 về đáp an toàn tại Quản Lợi . Khoảng 8 giờ tối , chúng tôi cất cánh rời Quản Lợi để về Sài Gòn với đội hình :
- Số 1 : Thắng - An - Mai
- Số 2 : Long - Thành - Liên
- Số 3 : Hoàn - Kim - Cần
Bình phi ở 2 ngàn bộ chúng tôi trực chỉ Sài Gòn . 10 phút sau tôi nghe giọng Đ/U Thắng trên tầng số FM 41.0 : “Kingbee 2-3 nghe Kingbee Lead ? “
Anh Thắng cho biết thời tiết xấu , có mưa cẩn thận trong lúc bay hợp đoàn . Chúng tôi đã bay dưới cơn mưa khá nặng hột trong đêm tối , chẳng khác nào “ đục mây “ như Đ/U Vượng ngày trước .Quả nhiên chỉ 5 phút sau tôi không còn thấy gì ngoài bức màn đen trước mặt . Tôi bắt đầu chăm chú bay phi cụ và cảm thấy lo sợ trước viễn ảnh một thảm nạn “Vertigo” .Tôi bấm máy gọi Đ/U Thắng để báo anh biết là tôi không còn thấy anh và số 2 . Không nghe anh trả lời ,tôi đã thực sự toát mồ hôi , mặc dầu mưa lạnh hắt vào người vì cửa sổ không đóng .Tôi chợt nghĩ có lẽ anh đang hốt hoảng trong trạng thái “Vertigo” quái ác kia nên không còn trả lời tôi được . Nhưng còn Đ/U Long thì sao ?cũng cùng tâm trạng chăng ? Một sự im lặng đến sợ hãi . Tôi biết tôi phải chiến đấu với tử thần “Vertigo” và tôi phải tự quyết định mọi chuyện vào lúc này .Tôi dự định giảm độ cao nhưng tôi cũng kinh nghiệm rằng đang bay phi cụ mọi thay đổi trạng thái của phi cơ rất dể làm cho hoa tiêu bị “ Vertigo” nên tôi lại tiếp tục bình phi .Không đầy 2 phút sau , tôi phát hiện ánh đèn pha ( landing light) vừa được bật lên trong khoảng cách chưa đầy nửa dặm phía bên phải của tôi .Thế rồi ánh đèn pha đó bổng quay cuồng ,nhảy múa trước mặt , chẳng khác nào một chiếc đè pin bật lên trong đêm tối và được cầm trong tay một đứa bé đang tập đi . Tôi hốt hoảng dán mắt vào ánh đèn pha và trong giây lát , ánh đèn lao vút xuống đất theo chiều thẳng đứng đối với chiếc phi cơ của tôi . Rồi một tia lửa loé lên . Tôi định thần trở lại ,đúng là chiếc H-34 của chúng tôi vừa chạm mặt đất nổ tung , lửa bốc lên cuồn cuộn . Từ cao độ 2 ngàn bộ cách mặt đất , tôi bám chặt lấy đốm lửa và cắt ga , giảm dần độ cao. Cách đốm lửa khoảng 500 bộ , tôi bắt đầu bớt tốc độ và chuẩn bị bay đứng một chổ ( hovering ).Tôi bật đèn đáp (landing light) ánh đèn phản chiếu những hạt mưa làm tôi loá mắt .Liếc sang bên phải , tôi đã nhìn thấy những ngọn cây và mưa rào lớn lắm nhưng trời ơi !! Định thần lại thì ngọn cây vẫn còn li ti phía dưới , như vậy phi cơ tôi còn cao lắm chưa thể bay đứng được . Tôi rùng mình vội đẩy cần lái (cyclic stick) về phía trước với mục đích cất cánh trở lại .Đột nhiên nghe tiếng người cơ phi hét lên trong máy : “de, de ,de” Thì ra trong phút hốt hoảng , tôi không đẩy cần lái về phía trước mà còn kéo thêm vào người , phi cơ bắt đầu bay lùi và mất độ cao .Tôi đã thực sự bị “ Vertigo” May mắn tiếng thét của người cơ phi đã kéo tôi ra khỏi cơn mê và với tất cả sức mạnh (power) của chiếc H-34 , tôi đã giử được phi cơ đứng trên ngọn cây .Tôi vừa thoát chết trong gang tấc . Dùng bàn đạp ( pedals) tôi xoay con tàu một vòng để tìm lại đốm lửa và di chuyển phi cơ tới gần hơn . Lửa vẫn cuồn cuộn , bao trùm chiếc H-34 mặc dầu mưa như trút nước .Tôi tìm bãi đất trống và đặt phi cơ xuống để quan sát . Không hy vọng có người sống sót trong chiếc H-34 lâm nạn , tôi quyết định rời khỏi vùng bằng cách bay xà trên ngọn cây với tốc độ chậm và nhắm hướng 180 độ để tìm thành phố gần nhất . Đêm đó chúng tôi ngủ lại Chơn Thành . Sáng hôm sau Tr/U Sâm , phi hành đoàn số 2 của biệt đội Quản Lợi đến đón tôi vì phi cơ tôi đã bị “overtorque” phải chờ toán kỹ thuật từ Biên Hoà lên kiểm máy lại .
Sau gần 3 tiếng đồng hồ tìm kiếm, tôi được biết chiếc số 1 bị cháy , chiếc số 2 cũng lâm nạn , phi cơ đâm xuống vùng sình lầy , cách chiếc số 1 khoảng hơn nửa dặm .
••••
Bước vào nhà quàn thuộc Tử Sĩ Đường căn cứ KQ Tân Sơn Nhất , tôi không khỏi ngậm ngùi nhìn 6 chiếc quan tài phủ quốc kỳ xếp thẳng hàng . Nhất là khi nhìn 2 chiếc quan tài của anh em Đ/U Long mà năm trước đã một lần thoát nạn thật kỳ diệu .
Hôm đó gặp chị Cúc , phu nhân Đ/U Thắng , tôi giúp chị tìm người mở khoá chiếc Vespa để đem về nhà chị . Tôi rùng mình nghĩ lại “giai “ thoại của chiếc xe . Cả bốn người chủ xe đều bị chết cháy trong tai nạn phi cơ !!!
Thêm một điều làm tôi phải ngẫm nghĩ khi mở bản đồ tìm kiếm phi cơ lâm nạn : cùng là khu vực mà Đ/U Thắng đã xà xuống bắn heo rừng buổi sáng cùng ngày .
Hồi ký
Tưởng nhớ thảm hoạ ngày 09/10/1971
Nguyễn Hải Hoàn
California
- Details
- Category: Truyện VNAF
- Hits: 110

Viết riêng gởi, Phi Công Đào Bá Hùng / Nhà Văn Đào Vũ Anh Hùng và những “Ông Tàu Bay”
Dẫn Nhập: Từ cuối năm 2021 đến nay, đầu năm 2022 suốt một năm dài, bản thân phải trãi qua những tình thế mà dẫu cho sức đương cự cứng cỏi bao nhiêu cũng phải lặng xuống với nỗi nặng lòng. Tâm cảnh nặng ưu phiền do chứng kiến lẻ tử/sinh - còn/mất mà không một ai tránh khỏi... Chứng kiến tận mắt, thấm qua hơi thở, chạm đầu ngón tay khi đứng cạnh thân xác im lặng lạnh lẽo của những người đã một thời thân thiết anh em. Hơn ruột thịt từ buổi trẻ tuổi.
Những con người, rất nhiều Người Bạn Lính... Đã từng có thời ngang tàng... Xem sống, coi chết như gió thoảng. Thưở xưa ấy, họ đã không bao giờ nói lên lời, tiếp đến hôm nay lúc xuôi tay, nằm im xanh xao, bất động. Tuy nhiên, tháng trước, khi đến thăm Hùng trong buổi cuối đời, thấy ra một điều lạ trong ánh mắt... Ánh mắt của người đang chịu CƠN ĐAU CÓ THẬT TỰ THÂN...

Một.
Trên trời, dưới đất cùng chung cảnh chết!
Có lần trong tuổi trẻ, bản thân đã viết nên một đoạn nhận xét...Chiến tranh hiện tại (vào những năm 1960, 1970) có một khoảng cách: Khoảng cách từ mũi súng cá nhân đến đối tượng nhắm bắn; khoảng cách từ nòng pháo đến mục tiêu; khoảng cách từ trái bom trên máy bay dội xuống... Bởi chẳng ai thấy ai, ai bắn ai, người thả bom, bấm nút tác xạ từ trên cao và nạn nhân ở dưới đất. Nhận xét có phần đúng, nhưng quả thật không hoàn toàn chính xác đối với “máy bay trực thăng/phi công trực thăng”– Những người tiếp giáp với cái chết trực tiếp mau chóng, cùng lần nạn nhân (với bản thân họ), và có thể trước cả lính Bộ Binh – Phi Công Trực Thăng Đào Bá Hùng/Nhà Văn Đào Vũ Anh Hùng là xác chứng cụ thể của thực tế khắc nghiệt đau thương nầy qua bút ký, Dak Seang Gối Mõi Gối Lưng Đồi. Hùng viết trước Trận Chiến Mùa Hè 1972.
Dak Seang ở đâu? Quả thực chẳng mấy ai biết đến Dak Seang/Ấp Dak Seang cho dù là người chuyên viết phóng sự, tin tức chiến trận; hoặc là những đơn vị Biệt Động Quân trừ bị cho Vùng Chiến Thuật hay sư đoàn tổng trừ bị, nhảy dù, TQLC; chỉ có thể các đơn vị đặc biệt chuyên nhiệm vụ đột kích, thám sát, tình báo, phản tình báo trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu mới có khả năng biết đến. Dak Seang/Bản đồ hành chánh có tên Dak Song ở đâu? Vùng 2 hay Vùng 3? Bởi về thuộc về Quận Gia Nghĩa, Tỉnh Quảng Đức, nằm dưới Dak Lắc với Tỉnh Lỵ Ban Mê Thuộc, thủ phủ Cao Nguyên Trung Phần, địa danh quen thuộc đối với dân lẫn lính Miền Nam. Quảng Đức lại nằm trên Phước Long, chiến trường lớn của Vùng 3, miền Đông Nam Bộ, cùng với Bình Long, một địa điểm nổi danh/nỗi danh khắc nghiệt nhất của chiến sử Miền Nam (1960-1975) với Thị Xã An Lộc, vũng lửa lớn của thế kỷ bom đạn vừa qua. Dân cư Dak Seang lại là người Thượng Stiêng – Nạn nhân tội nghiệp gánh chịu đau thương trước tiên khi lực lượng cộng sản Miền Bắc ngụy danh giải phóng trên đường xâm nhập từ đất Miên vào tàn sát không nương tay.
Thảm sát nơi Dak Seang xẩy ra trước nhất, 5 tháng 12, 1967 trước Giao Thừa Mậu Thân, 31/1/1968 ở Huế và khắp 40 tỉnh Miền Nam. 2 tiểu đoàn quân cộng miền Bắc (Tài liệu quân sự Mỹ, thế giới vẫn gọi tên sai là “Việt Cộng/Lính Việt cộng sản” thuộc lực lượng vũ trang Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của Chủ Tịch Nguyễn Hữu Thọ). 2 tiểu đoàn quân Bắc Việt tấn công vào Dak Seang do lực lượng Dân Sự Chiến Đấu (DSCĐ) khoảng 2000 Người Thượng canh giữ, chỉ huy trực tiếp bởi toán Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB/US Special Force), có thành phần Biệt Kích (Bán Quân Sự) người Việt giữ nhiệm vụ liên lạc, phiên dịch. Từ suy diễn do được Mỹ chỉ huy nên quân cộng sản đánh giá: Đây là thành phần cấu kết (trực tiếp) với “Giặc Mỹ”, có “nợ máu với nhân dân (?)” nên lính bộ đội miền Bắc tàn sát không gớm tay. Kết quả, quân cộng sản dựng nên thành tích “giải phóng như “quốc ca”– Đường vinh quang xây xác quân thù của Văn Cao” với 114 xác lính Dân Sự Chiến Đấu và 252 thường dân. Người chết không bởi cách giết người thông thường – Bộ đội cộng sản “giết/thiêu sống” người bằng súng phun lửa do khi kêu gọi đầu hàng, lính DSCĐ và cư dân Dak Seang không hiểu âm nói, tiếng lời của quân miền Bắc. Thiêu sống người chưa đủ, bộ đội cộng sản còn bắn thêm 60 lính DSCĐ, và bắt theo 160 người làm con tin trên đường rút lui để đề phòng phía Mỹ, quân đội VNCH phản kích. Cuộc thảm sát được Báo Time mô tả nhanh chóng và đầy đủ hình ảnh trong số Ngày 15 Tháng 12, 1967 do có Lính LLĐB Mỹ bị giết. Nhưng cuộc thảm sát nầy hoàn toàn không được giới học giả như Stanley Karnow; thành phần truyền thông thiên tả, chống chiến tranh như Martin L. King, Joane Baez, Jane Fonda.. từ thế kỷ trước, hoặc đám mới lớn sau nầy như Ken Burns, Lynovick nói tới một lần, viết ra một chữ. Phe tranh đấu hòa bình ở Sàigòn, nơi Miền Nam kiểu Ngọc Lan, Chân Tín, Lý Chánh Trung.. phía Công Giáo; hoặc Trí Quang, Nhất Hạnh Nguyễn Hữu Bảo, Ni Sư Huỳnh Liên, Ngô Bá Thành.. phía Phật Giáo cũng KHÔNG một tiếng chia xẻ đau thương, một lời nguyện cầu siêu độ, giải oan?! Phải chăng vì nạn nhân là người sắc tộc Stiêng nên không xứng đáng để nêu lên trên Báo Công Giáo Đối Diện, nguyệt san thiên tả Trình Bày, biểu ngữ Phật Giáo của Chùa Ấn Quang?!
Thảm sát 5 tháng 12, 1967 ở Dak Seang là chuẩn bị cho Tổng Công Kích Mậu Thân, 1968. Thảm sát lập lại nơi Dak Seang trong năm 1971 để chuẩn bị cho Tổng Công Kích-Tổng Nổi Dậy 1972. Đại Úy Phi Công Đào Bá Hùng đáp trực thăng xuống Dak Seang giữa vũng lửa, trên thây người dân oan khốc chết thảm. Nhà Văn Đào Vũ Anh Hùng phải viết nên lời phẫn uất và đau đớn Dak Seang Mỏi Gối Lưng Đồi – Không phải “mỏi gối chồn chân” trong thi ca cổ điển dịu dàng của Bà Huyện Thanh Quan khi qua Đèo Ngang, hay của nữ sĩ tiền phong táo bạo Hồ Xuân Hương. Nhưng trong chiến tranh Việt Nam dài theo thế kỷ trước, Người Lính miền Nam không viết ra không được vì đời sống quá nhọc nhằn, phải chứng kiến lắm cảnh nguy nan. Không chỉ nhức mỏi thể chất nhưng lòng họ tràn đầy đau xót, uất hận – Tội cho Dân-Thương cho Lính. Vì cũng là “Người Lính-Viết Văn” nên bản thân hiểu rõ điều nầy trong lòng bạn – Những Người Bạn Lính nơi Miền Nam trước, sau 1975.
Hai.
Đi không ai tìm xác rơi...
Lai Khê, Bình Dương Mùa Hè 1972.. Những buổi trưa ở Lai Khê nắng lửa ngột ngạt hay mưa giăng giăng âm u trời đất, hoa tiêu trực thăng hàng đàn ngồi dưới mái quán sơ sài ướt át thắc thỏm đợi chờ phi vụ. Phi vụ như bay vào cõi chết. Đất chết kéo dài theo Quốc lộ 13 – Con số xấu xa định mệnh. Từ Lai Khê, điểm cuối cùng là An Lộc, khoảng giữa Bầu Bàng, Chơn Thành, Suối Tàu Ô, Minh Thạnh, Tân Khai, Xa Cam, Xa Trạch... An Lộc, điểm đợi kinh hoàng. Điểm CHẾT. Là nơi hạ cánh để không bao giờ trở lại của những phần đời trai trẻ, những hiệp sĩ không gian. An Lộc trở thành hỏa ngục, lò thiêu xác, bãi tha ma, vạc dầu sôi lửa bỏng. An Lộc, bãi chiến trường kinh khiếp phơi bày bộ mặt hãi hùng của cuộc tương tranh tàn sát tới điểm cực cùng bi thảm dậy nên từ cộng sản Miền Bắc.
An Lộc, Bình Long, miền đất máu sông, xương núi. Từ đất bốc dậy mùi tanh lên tận trời cao. Bay trên An Lộc, Đại Úy Đào Bá Hùng như ngửi được mùi của lửa. Mùi của sự chết. Những cánh trực thăng mỏng manh mỗi lần vào An Lộc giữa lưới đạn bắn như mưa. Bắn cùng mọi phía. Bắn bằng đủ loại vũ khí hung hãn, hỏa tiễn tầm nhiệt, đại bác phòng không, đại liên 12 ly 7, súng cá nhân chụm lại trực xạ, đại bác nổ chụp, súng cối rót vào bãi đáp.. Hợp đoàn 8 trực thăng nối đuôi nhau bay hối hả vòng qua Minh Thạnh vào đáp bãi B15 từ hướng Tây-Nam An Lộc... 5phút sau trận mưa bom B52 cuối cùng vừa dứt bày ra những hố bom tươi màu đất đỏ, rỗ hoa chằng chịt trên cánh rừng cao su tạo nên một hành lang an toàn cho cuộc chuyển quân không vận. Bụi đỏ chưa tan, những cây cao su âu sầu ngún cháy, đoàn trực thăng bay thấp, lướt trên ngọn rừng tơi tả, bốc khói mù theo lệnh “C&C/Trực thăng do Đại Úy Hùng chỉ huy hướng dẫn: “Hợp đoàn quẹo phải 10 độ, đi thẳng..! Chiếc số 3 bay nhanh một chút. OK đi thẳng.. Bãi đáp 12 giờ, 300 thước. Giảm Air speed.. Coi chừng! Coi chừng nó bắn phòng không bên trái! Hợp đoàn đã tới gần bãi đáp An Lộc, nhưng trước tiếng la “coi chừng” hốt hoảng, Hùng đã thấy điểm sáng dưới lòng một hố bom loang loáng lóe lên tia chớp... Quẹo phải! Hợp đoàn quẹo phải!... Chiếc số 2 rớt rồi. Lead quẹo phải 90 độ bay ra!.. Bay ra! Đừng đáp! Chiếc số 2 đang bay đột ngột cắm đầu đâm thẳng xuống triền đồi, lăn lông lốc như cục đá. Một vùng bụi đỏ mù mịt bốc lên.. Lửa bùng bùng..
Nhưng không chỉ với trực thăng lâm nạn. Ngày 20 Tháng 5, Đại Úy Hùng bay quần quần phía đông Tân Khai, Nam An Lộc chờ 4 phi tuần khu trục đang săn lùng, hạ thêm 2 chiếc xe tăng VC trốn lẩn dưới gầm cầu xe lửa và khóa họng những ổ phòng không dọn đường cho Hùng dẫn hợp đoàn trực thăng vào đáp. Bỗng 1 chiếc AD-6 vừa thả xong 2 trái Nalpalm, vút ngược lên cao... Hùng thấy một tia khói cuộn lên từ bụi cây bên bờ con suối cạn. Chiếc phi cơ phát nổ. Một khối lửa chói lòa rực rỡ như quả pháo bông, vun vút rơi thẳng băng xuống đất... Khối lửa bắn tung tóe, cháy lan rộng hiu hiu trên mặt ruộng, để lại không gian một sợi khói đen theo đường rơi của chiếc phi cơ xấu số. Tưởng như là hoa mắt. Như ảo tưởng trong mơ. Đại Úy Hùng nhói điếng ở tim khi nhìn thấy 3 chiếc khu trục cơ còn lại gầm rú điên cuồng bay lượn trên vùng trời phi cơ rớt. Anh gọi máy báo với toán Liên Lạc Điều Không.. 17 giờ 25, SA7 cộng sản bắn rơi một phi tuần khu trục tại Tân Khai. Tọa độ XT...Không thấy hoa tiêu nhảy dù ra! Bất chợt, Hùng hỏi thêm:“Panther/Toán Điều Không” cho “Charlie One/Phi cơ của Hùng”biết ai bay chiếc Skyraider vừa bị rớt? Một giọng đầy kích động trong máy UHF, như mũi dao nhọn hoắt xói giữa tim: Đại Úy Nguyễn Cao Hùng, Phi Đoàn 518. Nguyễn Cao Hùng cùng Khóa 65A Phi Hành với Đại Úy Đào Bá Hùng! Bạn ơi!
Bây giờ An Lộc đã xa. Bình Long đã là vùng đất vang danh đầm đìa máu lửa, sự chết của hơn 50 năm qua mấy ai còn nhớ? Còn nhớ chăng chỉ là những người sống sót nay nơi quê xa. Nơi ấy, An Lộc năm 1972 là vết tích thảm thương, là đau đớn cùng cực, nay nhắc lại, buổi cuối đời lòng thắt lại xót xa.. Hóa ra đã có ngày – Ngày Người Lính Miền Nam/Phi Công Không Lực VNCH sống như thế. Chết như thế... Nghe âm âm bài “Điếu cổ chiến trường văn”…
...Hồn phách kết hề thiên trầm trầm
Quỷ thần tụ hề vân tịch mịch..
Huyết mãn trường thành
Thương tâm thảm mục
Thiên địa vi sầu, thảo mộc thê bi…
Hậu Từ
Thư gửi Người Bạn Chiến Đấu giữa vũng lầy chính trị
Sau 30 Tháng 4, 1975, nơi quê xa, Người Lính VNCH nhân Ngày Quân Lực 19 Tháng 6 hoài niệm, nghĩ về một thời đã góp phần đời tuổi trẻ dự phần cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam, tự nguyện hiến dâng cho lý tưởng giữ nước, an dân. Nhưng vì vận số đất nước lâm cảnh suy vong, Người Lính dẫu đã dốc lòng chiến đấu cuối cuộc phải gửi thân phiêu bạt xứ người. Nhưng cuối cùng, thêm một lần, Người Lính cố gắng thử xoay chuyển vận số với cầu mong sớm có một ngày trở về nhìn lại quê cha đất tổ.. Nhưng không phải như lòng mong ước. Bi kịch đã xẩy ra không tiếng súng, không cảnh chết, chỉ có nỗi lặng lẽ thất vọng. Đúng ra mối tuyệt vọng não nề – Phần Hậu Từ kết thúc nầy trích dẫn từ thư của Thiếu Tá Không Quân Đào Bá Hùng/Nhà Văn Đào Vũ Anh Hùng gửi cho Người Bạn (tưởng đang) nơi Khu Chiến trong thập niên 1980’s.
Bạn xưa...
Ngạc nhiên và xúc động biết bao nhiêu tôi nhận được thư Bạn gửi từ Khu Chiến – Người Bạn đã cùng tôi chiến đấu dưới cờ Quân Lực, đã cùng tôi sống chết trong một con tàu giữa mây cao gió lộng trên vùng trời đỏ lửa quê hương, lang bạt khắp nẻo đường đất nước. Thư anh cuối đoạn có lời chào và ghi dòng chữ “Mai này chúng ta cùng về Việt Nam”. Lòng tôi choáng ngợp niềm hãnhh diện. Tôi không có địa chỉ hồi âm. Tôi muốn viết cảm ơn anh. Tôi muốn nhờ anh chuyển đến các anh chị em chiến sĩ nơi khu chiến lời thăm chúc, một câu thâm tạ ngô nghê tầm thường của ngôn ngữ loài người. Nhưng thôi, tôi đợi.”
... Vì tôi hiểu bạn và vẫn thương mến bạn qua hình ảnh người phi công lẫm liệt ngày xưa, ngày chúng ta còn khoác chung màu áo, nắm tay nhau vào chốn đường mây sinh tử. Tôi đã làm hoa tiêu phó cho Bạn một thời gian dài (1966-1967) trong tổng số giờ bay trên chiếc H-34 kềnh càng của Phi Đoàn 215 Thần Tượng (Nha Trang biệt phái ra Quy Nhơn).
Chúng ta đã có cùng nhau bao nhiêu kỷ niệm, chia xẻ cùng nhau nhiều nỗi sướng vui cũng như hoạn nạn, những lần chới với bên bờ sống chết, cạnh vực hiểm nguy... Nên tôi đã bằng vào tình nghĩa ấy để đặt tin yêu nơi bạn, không so đo, không nghi ngại, cho mình bổn phận phải tự giác đứng lên, vội vàng tìm đến, dơ cao tay xin nhập cuộc.
Tôi nhập cuộc không đợi ai mời gọi. Lòng hớn hở mừng vì bạn và tôi lại chung hàng ngũ cho tôi hối chuộc tội mình quá nặng đối với quê hương, tẩy rửa niềm xấu hổ vì không ở lại để chết cùng vận số hẩm hiu đất nước sau Ngày 30 Tháng 4, 1975.
Lòng tôi tin như thế và mong như thế. Nhưng cái tin mong thành khẩn dù lớn mạnh bao nhiêu cũng không đủ lực mù quáng trái tim tôi và khoan lượng rộng rãi đến ngần nào cũng không dung được những điều dối gạt với manh tâm quá độ.
Đọc truyện xưa nói đến những cơn tức uất thổ ra từng ngụm máu rồi thét lên chết ngất, tôi cho người kể chỉ đặt bày. Nhưng tôi, chính tôi đã quặn cơn đau của tội-lỗi-người-làm-mà-ta-phải-chịu. Đã sôi hừng hực từng cơn bi phẫn bốc tận đỉnh đầu, mồ hôi vã đổ, run rẩy và nghe được từng cơn lại từng cơn nhộn nhạo nong nóng chảy râm ran trong bụng. Tôi đã đổ ra từng lượng máu trong bao tử và giật mình kinh sợ.. Sợ phải mang tội đồng lõa im lặng!... Bởi vì đấy là những đồng tiền thẫm sũng mồ hôi khó nhọc của đời cầu thực tha phương. Tiền từ bàn tay khô héo của bà mẹ già nua sống buồn phiền lạc lõng nơi đất nước người muốn mau chóng trở về chết nơi quê nhà. Của em bé thơ ngây nhịn miếng cơm chim mong về hưởng lại tình thương nội ngoại. Của con mong gặp lại cha, vợ mong gặp lại chồng. Của những người sầu héo nhớ thương người, bạn bè mong cứu bạn bè tù tội trong gông cùm cộng sản từ sau 30/4/1975... Những đồng tiền mồ hôi nước mắt đã mất oan khiên không ai đòi lại nhưng Niềm Tin tội nghiệp bị phỉnh lừa phải coi như nợ và nợ này phải trả. Nợ truyền tử lưu tôn, không trả đời này thì đời con, đời cháu. Ôi biết làm sao nói cho cùng cạn nỗi mênh mang thống hận của kẻ cầm vàng tiếc uổng công lao, nửa đường rơi mất?
“Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng…”
Vâng Bạn, Phi Công Đào Bá Hùng – Nhà Văn Đào Vũ Anh Hùng – Tôi biết Bạn đã Đau. Bạn rất Đau.
Viết lần Thiếu Tá Đào Bá Hùng rời bỏ mặt đất...
Bay vào vĩnh cửu, 18/2/2022
Cùng lần Tàu đánh Việt Nam, 17 tháng 2, 1979
Phan Nhật Nam
- Details
- Category: Truyện VNAF
- Hits: 357

Nhà văn Pháp Saint Exupéry (1900-1944) nổi tiếng với nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những thập niên đầu của thế kỷ XX và nhiều tác phẩm của ông đã được các dịch giả ở Sài Gòn dịch sang tiếng Việt. Với cuộc đời binh nghiệp phi công của ông đã ấn hành các các phẩm L'Aviateur (Người Phi Công, 1926), Courrier Sud (Chuyến Thư Miền Nam, 1929), Pilote de Guerre (Phi Công Thời Chiến, 1942), Le Petit Prince (Hoàng Tử Bé, 1943, Bùi Giáng và Trần Thiện Đạo dịch). Cuốn Vol de Nuit (Bay Đêm, 1931) dày 140 trang là một khúc tráng ca về màn đêm và những con người dũng cảm đi tiên phong trong ngành hàng không. Với tâm hồn nhà văn và kinh nghiệm của một phi công lão luyện đã giúp ông vẽ nên những khung cảnh hùng vĩ đầy sắc màu, đầy thơ mộng nhưng cũng ẩn giấu những nguy hiểm khôn lường dưới đôi cánh bay, kể về những năm tháng sống ở Nam Mỹ đã được giải thưởng Prix Femina của Văn Học Pháp. Tác phẩm nầy do Lê Huy Anh dịch, Văn ấn hành năm 1966.
Năm 1934 Saint-Exupéry đã đến Việt Nam làm phóng viên của tờ báo Paris-Soir. Năm 1935 ông tham gia cuộc đua phi cơ Paris - Sài Gòn nhằm phá kỷ lục về tốc độ hàng không. Cuộc thi và trải nghiệm của chuyến bay này tạo cảm hứng sáng tác cho cuốn tiểu thuyết Petit Prince, được đánh giá là kiệt tác và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Chiếc phi cơ Caudron Simoun của Saint-Exupéry cùng với hoa tiêu André Prévot, đã bị rơi phi cơ ở sa mạc Sahara ở Libya trên lộ trình tới Sài Gòn. Họ đã được những người Ả Rập giải cứu và câu chuyện này đã được nhà văn kể lại trong tác phẩm Terre des Hommes, 1939 (Cõi Người Ta – Bùi Giáng dịch). Tác phẩm này được đánh giá rất cao và đã giành giải thưởng của Viện Hàn lâm Pháp.
Vì vậy vài tác phẩm nhà văn không quân Saint-Exupéry đã ảnh hưởng phần nào với với những chàng trai thời Việt Nam Cộng Hòa…
Ngày 31 tháng 7 năm 1944, Saint-Exupéry lái chiếc phi cơ P-38 Lightning mang số hiệu F-5B-1-LO, cất cánh từ một căn cứ trên đảo Corse với nhiệm vụ thu thập thông tin về quân Đức ở thung lũng sông Rhone. Người ta không bao giờ còn nhìn thấy ông quay về. Một phụ nữ đã nhìn thấy một chiếc phi cơ rơi vào trưa ngày 1 tháng 8 ở gần Vịnh Carqueiranne, thi thể một quân nhân mặc quân phục Pháp cũng được tìm thấy vài ngày sau đó và được chôn cất ở Carqueiranne vào tháng 9.
Nước Pháp vinh danh phi công tài hoa dũng cảm, nhà văn nổi tiếng.
*

Trên đất Pháp nầy, chàng trai trẻ Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân Việt Nam trong chính phủ Quốc Gia Việt Nam du học ra đời với tác phẩm Đời Phi Công của Toàn Phong.
Đại Tá Nguyễn Xuân Vinh, Tư Lệnh Không Quan đầu tiên của VNCH, Giáo Sư, Khoa Học Gia, Viện Sĩ Hàn Lâm Viện Không Gian Quốc Tế.
Về tiểu sử, danh tiếng, tấm lòng, văn nghiệp của GS Nguyễn Xuân Vinh (1930-2022) là niềm vinh dự và hãnh diện trong Quân Lực VNCH, với cộng đồng người Việt tị nạn hải ngoại đã được đề cập rất nhiều; vì vậy trong bài viết nầy chỉ ghi lại phần nào về tác phẩm Đời Phi Công.
Theo lời ông: “Sau ba năm ở Pháp và ở Maroc, 1952-1955, tôi được huấn luyện thành một sĩ quan phi công, có bằng lái phi cơ hai động cơ và thẻ trắng (carte blanche) để bay trời mù theo đúng tiêu chuẩn của Không Quân Pháp. Cũng trong thời gian ở Pháp, tôi hoàn tất chương trình cử nhân toán ở Đại học Marseille và cũng có thêm văn bằng cao học để chuẩn bị thi tiến sĩ toán học”.
Năm 1955, sau khi ở Pháp về Việt Nam, trải qua thời gian từ cấp Trung Úy. Quốc khánh 26 tháng 10 năm 1957, ông được thăng cấp Trung Tá và được bổ nhiệm chức vụ Tham Mưu Trưởng Không Quân. Tháng 2 năm 1958 ông được bổ nhiệm chức vụ Tư Lệnh Không Quân, thăng cấp Đại Tá.
Theo lời tác giả: “Cuốn sách đầu tay của tôi là cuốn Gương Danh Tướng, là một tập sách nhỏ chưa đến 100 trang, do Nha Chiến Tranh Tâm Lý thuộc Bộ Quốc Phòng in ra vào năm 1956. Tuy sách in ra tới mười ngàn cuốn nhưng dạo đó tôi đang làm phụ tá tùy viên quân lực tại Sứ Quán Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn, nên chỉ nhận được mươi cuốn và đem tặng ngay các thân hữu nên không còn giữ được một bản nào...
Gương Danh Tướng khi mới còn đang là một đại úy để nêu lên những đức tính cần phải có của những người lãnh đạo trong quân đội. Cũng nhằm mục đích nêu lên tình người và tình yêu tổ quốc và không gian của những người nặng nghiệp bay mà sau này tôi viết cuốn Đời Phi Công. Nhờ sự phổ biến sâu rộng của cuốn sách này mà giới thanh niên và sinh viên hiểu biết thêm về Không Quân Việt Nam và chúng tôi đã tuyển mộ được nhiều thanh niên ưu tú để gửi sang theo học những khóa huấn luyện bay những phi cơ tối tân của Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ .
Với tác phẩm thứ nhì Đời Phi Công “Tôi bắt đầu viết vào năm 1959 và đăng mỗi tuần một kỳ, vào ngày thứ Hai, trên báo Tự Do là một nhật báo có nhiều độc giả trên toàn quốc”.
Nhà văn, nhà báo, nhà phê bình văn học Phạm Việt Tuyền (1926-2009) giữ chức vụ Tổng Thư Ký của Hội Bút Việt thành lập ngày 21/10/1957 do nhà văn Nhất Linh làm Chủ Tịch sáng lập, sau đổi thành Trung Tâm Văn Bút Việt Nam. Tác phẩm Đời Phi Công của Toàn Phong do Tự Do ấn hành và nộp dự tranh Giải Văn Chương Toàn Quốc.
Trong bài viết Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam & Các Giải Thưởng Văn Chương (1955-1975) của Nguyễn Mạnh Trinh Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc 1958-1959 do ông Trương Công Cừu khoa trưởng đại học Văn Khoa làm Chủ Tịch.
Bộ môn Tiểu Thuyết: Tác phẩm Đò Dọc của Bình Nguyên Lộc, Thần Tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan, Đời Phi Công của Toàn Phong, Mưa Đêm Cuối Năm của Võ Phiến.
Đời Phi Công là truyện vừa, 54 trang, gồm 9 chương. Theo lời tác giả: “Một tuyển tập những bức thư của một phi công viết cho một thiếu nữ còn đang là sinh viên ở đại học để kể cho nàng nghe cuộc đời của những người hàng ngày bay trên gió mây trời”. Phượng cô em hàng xóm ông dạy kèm ở Hà Nội từ hồi nhỏ. Đầu lá thư ông chỉ viết “Phượng”, trong thư có thêm “Phượng em”!
Theo cốt truyện, ông xa Phượng vào đầu tháng 10 năm 1951, theo học tại Khóa I trường Sĩ quan Trừ Bị Nam Định, vào Nam, mất liên lạc với Phượng hai năm, đến năm 1953, khi ông sang Pháp học bay ở Salon de Provence, Paris.
Qua 9 chương, mỗi lá thư, không ghi ngày tháng, ông đã kể cho Phượng nghe từ Đường Đời Muôn Nẻo, Ánh Sáng Kinh Thành, Trăng Dãi Bắc Phi, Gió Hải Hồ, Có Một Đàn Chim, Tuyết Trắng, Hội Mùa Hoa, Hẹn Một Ngày Về, Tiếng Gọi Lên Đường.
Lá thư đầu tiên: “Phượng,
Viết thư này anh đã ở xa em muôn vạn trùng dương. Anh mỉm cười khi đặt bút vì nghĩ rằng em vẫn thường chê cái tính thích giang hồ vặt của anh. Lần này thì anh đi hẳn, đi thật xa cho đến khi nào công thành anh mới trở về…
Em cũng như tất cả những người thân tình, cũng như tất cả những người dân Việt chắc hẳn phải đồng ý rằng nước nhà cần có đủ mọi ngành quân lực. Đường đời muôn vạn nẻo anh đã chọn lấy một hướng, dù gian nan muôn trùng anh cũng sẽ mỉm cười dấn bước. Anh mong rằng em sẽ đọc hết bức thư này với một nguồn vui mới trong lòng”.
Lá thư thứ ba: “Phượng, Thế là chúng ta giận nhau rồi em nhỉ vì từ sáu bảy tháng nay anh không nhận được thư em để mà đọc những câu thơ chinh phụ dang dở như tình đời ngang ngửa…
Anh đã bắt đầu bay đêm nghĩa là đang trải qua chặng đường chót ở đây. May mắn thì một tháng nữa anh có thể rời khỏi xứ này, rời những cái oi ả để về gần quê hương hơn chút nữa. Anh sẽ thấy đỡ nhớ quê hương hơn, tuy rằng xa cách trọn nửa trái cầu thì gần hơn vài ba ngàn cây số cũng chỉ thế mà thôi...
Phượng ơi! Em có thấy không? Với một chân tình thì một chút hương vị mơ hồ cũng là đủ. Phương trời xa em chỉ cần mỉm miệng cười tha thứ ở đây anh cũng cảm thấy. Một ánh trăng rằm mơ màng, một vì sao rơi lạc lõng cũng thừa đủ gây vui buồn cho người bay bốn hướng huống chi là cả một nụ cười rực rỡ, một ánh mắt huy hoàng…”
Lá thư thứ tư: “Phượng,
Nhận được thư em đúng dịp đang thi mãn khoá nên đến nay anh mới viết được cho em. Nghĩ thật trẻ con, cái chuyện chúng ta giận nhau em nhỉ. Tự nhiên vắng thư em sáu bảy tháng trời, nếu anh không viết trước cho em chắc em còn giận anh lâu nữa. Làm anh bao giờ cũng phải chịu thua mà. Anh đã chả từng nói với em rằng có những con người sinh ra chỉ để chịu thiệt. Hạnh phúc của em được toàn vẹn là anh mãn nguyện rồi.
Em Phượng! Anh không hẹn cùng em nhưng một ngày kia cánh chim bao giờ cũng quay về tổ cũ. Câu chuyện kèm em học nó cũng chỉ dở dang như một ngày mưa gió các anh ngừng bay. Tại sao em không có gần đây để cùng các anh ngồi quanh một lò than hồng. Sẽ có một ngưòì đã từng qua nhiều bão táp kể lại một câu chuyện xa xưa…”
Lá thư thứ năm: Phượng,
Trái với những lần trước, lần nay anh viết thư cho em ở một nơi xa tất cả thị thành. Cuộc sống của những người phi công như các anh đã là cả một cuộc hợp tấu trái ngược đến nặng nề... Hằng ngày định mệnh quẳng các anh lên không trung, lao vào một cuộc sống bềnh bồng, cô độc, để đợi lúc đèn đô thị vừa lấp lánh, ánh sao hôm chỉ đường cho toán người phiêu bạt tìm về tổ…
Em Phượng! Đêm Noel đã qua rồi và giờ đây anh viết lại cho em những tâm tưởng đã qua tại một nơi xa tất cả thị thành. Trong này là một lò than ấm và ngoài kia là mưa tuyết, là núi rừng Ancelles…”
Lá thư thứ tám: Phượng,
Biết bao nhiêu lần đổi chỗ ở, biết bao nhiêu chuyến đi nhưng rời miền Provence sau một năm học anh không khỏi thấy lòng lưu luyến. Ở đây em đừng nghĩ rằng anh lưu luyến vì ham cảnh lạ đường xa nước người. Đã chả bao nhiêu lần anh nói với em rằng chỉ có non sông nước ta là đẹp với lòng anh. Nước sông Hồng cuồn cuộn, bờ Cửu Long xanh thăm thẳm phải đẹp hơn vạn giải trường giang anh đã gặp. Và chưa có nụ cười nào làm anh thấy bâng khuâng bằng nụ cười của cô em gái quê nhà…
Còn vài tháng nữa anh sẽ trở về nhà. Anh tin rằng anh sẽ là một trong những người lính chiến đấu đến cùng để giử lại một phần đất… Em cứ cười lên khi thấy anh bước lên phi cơ và mở máy. Từng cánh chim sẽ rời đất và mang theo đoàn người đi làm phận sự và cũng vì thế mà anh đã trải qua bao tháng ngày gian khổ để luyện tập ở đây...”
Và lá thư thứ chín: “Ngày hôm nay đây, khi mà gần một triệu dân đã di cư vào Nam, đáng lẽ anh phải ở nhà để gần Bác, gần em, gần bao nhiêu đồng bào khác thì anh vẫn còn phải lênh đênh nơi này. Giá anh tốt nghiệp sớm hơn chừng hai tháng, có lẽ anh đã có dịp chở những đồng bào cuối cùng rời Hải Phòng. Nhưng tiếc thay anh về hơi muộn và giờ chỉ còn biết vui mừng khi được tin thân quyến đã được yên hàn tới Sài Gòn…
Dòng thư cuối cùng: “Anh ngồi viết cho em một buổi chiều nắng vàng chưa tắt. Ba năm về trước anh đã hứa những gì với em, chắc em còn nhớ. Chỉ độ hai tuần nữa anh sẽ gặp lại em. Nét cười có phác hồn tang hải, mái tóc có phai màu sương gió nhưng anh vẫn còn là anh của em như độ nào. Anh rời em một ngày đông lạnh lẽo ở Hà Thành và sẽ gặp lại em vào cuối một mùa xuân ở đô thị Sài Gòn. Non nước kinh kỳ đà rời chỗ, còn em của anh có khác xưa không?”
Tác phẩm Đời Phi Công đã có ảnh hưởng rất mạnh vào lớp thanh niên lúc đó. Hình ảnh người phi công trở thành một biểu tượng của thời đại đầy nét hấp dẫn với tuổi trẻ. Những bức thư gửi cho người tình tên Phượng đã thành những ấp ủ trong mộng của cả một thế hệ thanh niên. Có nhà phê bình cho rằng “Cuốn sách đã tạo nhiều ảnh hưởng, được tái bản nhiều lần và hàng ngàn người trai trẻ nô nức gia nhập Không Lực để thực hiện lý tưởng và hoài bão của mình trong thời chiến tranh khốc liệt”.
Vài tác giả cho rằng Đời Phi Công của Toàn Phong tựa như Vol de Nuit của Saint-Exupéry, với tôi, không đúng như vậy. Với người đam mê đọc sách như ông và cùng xuất thân nơi đào tạo phi công, dĩ nhiên những tác phẩm của nhà văn Pháp có thể là nguồn cảm hứng sau 4 năm về nước phục vụ trong quân ngũ. Ông không viết hồi ký như Saint-Exupéry mà qua những lá thư chia sẻ cho người em gái nhỏ, người tình.
Những lá thư tình rất hay, chia sẻ buồn vui, giận hờn, an ủi khi xa nhau thuần túy trong tháng ngày binh nghiệp, không đề cập đến việc học hành ở đại học. Những lá thư nầy không viết từ Pháp mà khi trở về Việt Nam với kỷ niệm xưa.
GS Nguyễn Xuân Vinh cho biết, hồi còn học sinh đã đọc tác phẩm Les Grands Coeurs của văn hào Ý Edmond De Amicis. Bản tiếng Việt với Tâm Hồn Cao Thượng qua bản dịch của nhà giáo Hà Mai Anh, ấn hành năm 1944 rất hay coi như “sách gối đầu giường”. Với 60 trang hồi ký và lá thư từ Ngày Khai Trường đến Trang Cuối Cùng Của Mẹ Tôi.
GS Nguyễn Xuân Vinh với những công trình biên soạn trong lãnh vực khoa học, không gian… Tác phẩm Theo Ánh Tinh Cầu, truyện ký ấn hành năm 1991. Theo lời ông: “Tôi đã viết ra hai cuốn sách về khoa học không gian với những tựa đề là Hypersonic and Planetary Entry Flight Mechanics và Optimal Trajectories in Atmospheric Flight. Những Năm 1993 tôi có viết thêm cuốn sách với tựa đề Flight Mechanics of High-Performance Aircraft…”
Nếu đọc Vol de Nuit, có những dòng Saint-Exupéry mô tả trong những chuyến bay đêm tâm hồn phi công trên cánh chim sắt giữa bầu trời thì trong những lá thư của Toàn Phong với tâm hồn lãng mạn của nhà văn. Tác phẩm Đời Phi Công tuy mỏng nhưng ảnh hưởng lớn trong “chí làm trai” trong thời chinh chiến dấn thân với “Tổ Quốc Không Gian”.
Vương Trùng Dương
- Details
- Category: Truyện VNAF
- Hits: 380
- Details
- Category: Truyện VNAF
- Hits: 714