Truyện VNAF

Tưởng nhớ Cố Trung Tá Phạm Văn Thặng

Thần Dakbla
Giữa khuya vẳng tiếng thì thầm
Thoáng rơi trắng tuyết chập chờn mộng du
Chìm sâu bao lớp mây mù
Dòng Dakbla cuộn khúc tiếng ai gọi hồn
Bắc Đẩu nghe rõ trả lời?
Thiên Thần Thái Dương đã gãy cánh rồi! Bạn ơi!
Dakto Tân Cảnh Chu Pao Diên Bình
Hàm Rồng Eo Gió Charlie ngậm ngùi!
Cù Hanh mây phủ mưa rơi!
Đồi Kiểm Báo Không Trợ II nghiêng sầu!
Chiều về phi đạo vắng sâu
Bãi đậu vẫn tiếng Thần cười chọc quê!
Từ nay bão rớt tơi bời!
Gió cuồng nộ thổi phong ba!
Vùng ba biên giới điêu tàn!
Cao nguyên vẫn ngập lửa đạn ngút trời:
Chiến tranh!
Còn nhớ gì không Kontum?
Đường dốc Hoàng Diệu
Mường su to cừ!
Công viên Lê Lợi
Diệp Kính Pleiku rũ buồn!
Khu Chợ Mới
Cà phê Dinh Điền
Những quán không tên!
Mây cao nguyên đứt khúc
Nhạc trầm luân rã rời!
Thần Dakbla
Nghiêng cánh vẫy chào!
Gió thảm mây sầu
Sầu bao đoạn!
Ngày chờ đêm đợi!
Đợi, Trông, Chờ!
Tổ Quốc Không Gian
Bảo Quốc Trấn Không
Sư Đoàn VI Không Quân
Không Đoàn 72 Chiến Thuật, Phi Đoàn 530 Thái Dương
Khu Trục Cơ, Biên Trấn, Cù Hanh - Pleiku
Thương tiếc Vẫy tay Chào! Vĩnh biệt Chiến hữu!
Anh em Bạn bè nhỏ lệ khóc thương Anh!
Ngày xưa da ngựa bọc thây, ngày nay cánh thép phủ thây Anh Hùng!
Fulro Phạm Văn Thặng - Thiên Thần Dakbla!
Buổi Lễ Phong Thần!
Trần Ngọc Nguyên Vũ
(Xin thắp một nén nhang lòng cúi đầu tưởng niệm người phi công anh hùng đã tuẫn quốc bên bờ sông Dakbla, thuộc tỉnh Kontum vào mùa Hè năm 1972).
“Cổ bề thanh động Tràng Thành nguyệt
Phong hỏa ảnh chiếu Cam Toàn vân.”
Đặng Trần Cô
Tháng Năm 1972! Tây Nguyên đang còn ngút ngàn khói lửa. Sau lần thất bại tại Charlie, Cộng quân điên cuồng đổ dồn lực lượng còn lại vào Kontum. Hàng ngày những công điện tối khẩn, từ biên thùy tới tấp gởi về phòng truyền tin điện tử của Quân Đoàn 2. Trung tâm hành quân Không Trợ 2 làm việc ngày đêm, phối hợp các đơn vị tác chiến của Sư đoàn 2 KQ để yểm trợ các đơn vị dưới đất. Những chiếc xe Jeep, xe GMC chạy sầm sập trên Quốc lộ 14, cuốn theo những đám bụi đỏ bốc lên cùng với cơn gió lốc phủ mờ cả một bầu trời. Phi Trường Cù Hanh tấp nập với các phi cơ vận tải đủ loại. Từ C47, C119, C123 đến C130, cùng các phi cơ Khu Trục A1, A37, Trực Thăng, Quan Sát lên xuống liên tục, cộng thêm với đoàn người từ các nơi đổ vào căn cứ Không Quân Pleiku chờ được di tản về Nha Trang, Quy Nhơn, tạo thành một khung cảnh nhộn nhịp bi hùng của một thời chinh chiến. Các quân nhân thuộc Liên đoàn phòng thủ của Không Đoàn Yểm Cứ, và đoàn Quân Cảnh quân trấn PleiKu của Đại úy Hiển phải làm việc hầu như 24 trên 24 mới giữ gìn được an ninh trật tự...
Không Đoàn 72 Chiến Thuật dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan tài ba lỗi lạc như Trung tá Nguyễn Văn Bá, và Trung tá Lê Bá Định, dốc toàn lực vào cuộc chiến. Các phi công đã phải bay một ngày hai, ba phi xuất mà vẫn không đủ cung cấp cho nhu cầu đòi hỏi của chiến trường. Những người lính kỹ thuật thức suốt đêm để sửa chữa những phi cơ bị trúng đạn, hư máy, để kịp thời cung ứng cho các phi vụ hành quân. Trên gương mặt phong trần của những người lính chiến Không Quân của Không Đoàn Biên Trấn, cùng các Biệt Đội từ các nơi biệt phái đến, đã thấy hằn lên những nét mệt mỏi. Nhưng trong câu chuyện trao đổi với nhau, họ vẫn không để mất đi những nét cương nghị có pha trộn chút dí dỏm và khinh bạc vào cuộc đời.
Bây giờ là 4:00g chiều. Tại phòng hành quân của Phi Đoàn khu trục Thái Dương 530, Thiếu Tá Vũ Công Hiệp vừa nhận điện thoại từ phòng hành quân chiến cuộc của Không Đoàn, yêu cầu cất cánh khẩn cấp. Đây là phi vụ thứ hai trong ngày của anh. Không thấy người phi công số 2 của Phi Tuần tại phòng hành quân, anh quay qua hỏi Thiếu úy Chỉnh, sĩ quan trực:
– Ủa, ông Thiếu úy Thống giờ này chưa lên Phi Đoàn à?
Chỉnh hơi bối rối, ngập ngừng nói
– Dạ thưa Thiếu Tá, Thiếu úy Thống vừa chạy ra trạm tiếp liên đón cô bạn từ Sài Gòn lên thăm. Anh nói là sẽ trở lại liền.
Hiệp nói vội:
– Vậy anh đôn thằng số 2 của Phi Tuần kế lên thay thế.
Chỉnh chưa kịp thi hành thì Thặng đứng ở gần đó đã lên tiếng:
– Thôi khỏi, để tao bay thế cho thằng Thống. Khi nào nó về, mày nói là chiều nay nó cứ việc lo cho cô bạn của nó. À, mày dặn thằng Thống là hôm nay tao sẽ mời hai đứa đi ăn cơm tối ngoài phố.
Rồi anh quay qua Hiệp nói:
– Tao bay số 2, mày sẽ đỡ vất vả.
Hiệp nhìn Thặng cười:
– Mình lên gấp, làm việc với thằng Bắc Đẩu trên tần số FM... Vùng làm việc ở phía Tây Bắc KonTum 2 dặm.
Thặng vừa chấm tọa độ trên bản đồ hành quân vừa nói:
– Mẹ kiếp! Lần này tao sẽ xin biệt phái làm Thần Dakbla, coi tụi nó có vào nổi Kontum không?.
Hai ông Thiếu tá Phi Tuần trưởng khu trục của Phi Đoàn 530, có dáng người quá khổ so với các đồng bạn khác. Một người to lớn như ông hộ pháp, có nước da sạm nắng, với hai bàn tay sần sùi to như hai nải chuối già, được anh em ưu ái tặng một hỗn danh là “Thặng Fulro”. Còn một ông cao lêu nghêu như cây cà kheo và gầy như một que củi, có nước da xanh lét như người vừa ốm dậy, cặp mắt sáng quắc như hai luồng điện, nhận một mỹ danh khác là “Hiệp Cò”. Một điểm đặc biệt là cả hai đều là những cao thủ thượng thặng trong giới võ lâm. Vừa xách nón bay ra bãi đậu, hai người vừa vung tay vẽ một cú “thả bom Napalm” thật thấp trong không khí. Hiệp nói:
– Lần đầu mình sẽ đánh cùng một lúc với hai hướng ngược chiều. Lần thứ nhì đổi hướng 90˚. Chỉ có thế mới khóa mõm được bọn nó, để tụi nó không kịp sủa phòng không.
Thặng cười vỗ vai người bạn đồng hành rồi chia tay leo lên phi cơ. Hai người cơ trưởng trong tư thế sẵn sàng, phụ các anh cột dây dù rồi tuột xuống để quay máy. Tiếng động cơ nổ giòn. 2 chiếc khu trục gầm gừ như hai con tê giác khổng lồ di chuyển ra đầu phi đạo cất cánh trong tiếng reo hò, và cặp mắt ngưỡng phục của những người đang đứng đợi ngoài sân bay để lên phi cơ di tản. Sự hiện diện của các anh giờ này như một bảo đảm để nói với người dân rằng: “Đồng bào cứ an tâm, chúng tôi đang vào trận để giết giặc và bảo vệ đồng bào đây.” 2 chiếc phi cơ trang bị đầy bom đạn, song song lăn mình trên mặt phi đạo, rồi cùng bốc lên như hai con đại bàng xoải cánh, và mất hút qua làn mây mỏng của buổi trời chiều...
Từ cao độ 5,000 bộ ở vòng chờ trên vùng, Hiệp lắc cánh ra hiệu cho số 2 vào hợp đoàn chiến đấu, rồi chuyển qua tần số FM để liên lạc với phi cơ quan sát (FAC). Tiếng rè rè của vô tuyến cho Thặng biết là FM của Hiệp không được tốt. Anh bấm máy liên lạc với Hiệp qua tần số VHF:
– Thái Dương 31 đây 2 gọi.
– 31 nghe năm (5/5).
– FM của mày hư rồi. Để tao bay lead.
– 31 hiểu! Mày bay Lead.
Bỗng một giọng nói trầm ấm nổi lên qua tần số UHF:
– Thái Dương đây Thiên Lôi, gọi bạn nghe rõ không trả lời.
Thặng bấm máy trả lời:
– Thiên Lôi, Thái Dương nghe bạn 5.
– Thiên Lôi, 3 phi cơ A37 từ Nha Trang lên. Hiện tại chúng tôi đang ở trên mục tiêu cao độ 10,000 bộ. Chúng tôi sẽ bao vùng cho bạn làm việc.
Thặng cười trên tần số:
– Thiên Lôi, bạn từ xa tới, để tôi nói với FAC xin nhường bạn đánh trước.
– Hà... hà... hà... Thiên Lôi đâu dám thất lễ. “Tiên chủ hậu khách” mà. Chỉ vì:
“Mùa chinh chiến theo chân thù nghịch,
Ta về theo cho rậm chiến trường” (*)
Thôi. Xin mời đại hiệp vào vùng trước.
Tiếng Thặng rổn rảng vang lên:
– Hào sảng lắm! Phải Thiên Lôi Vũ văn Cần, “Hiệp Sĩ diệt trừ tham nhũng” cùng nhóm với bác sĩ Phạm văn Lương, và Hà Thúc Nhơn của vùng Thùy Dương cát trắng đó không? Cho tại hạ gởi lời thăm “Ngô Đại Hiệp”.
– Đúng 5, “Cần phòng 5” của Nha Trang ngày xưa đây. Lâu lắm mới nghe tiếng “Thái Dương Phạm Đại Hiệp”, danh trấn vùng trời Tây Nguyên. Không dám nhận mỹ danh của Đại Hiệp. Tại hạ chỉ làm theo thiên chức của một người lính chiến thời ly loạn. Tại hạ sẽ chuyển lời thăm của Đại Hiệp tới Ngô Đức Cửu.
Thặng bấm máy cười rổn rảng:
– Nghe được lắm. Lát nữa trên đường về, ghé PleiKu đổ xăng, tao sẽ cho mày thưởng thức món “chả chìa” đặc biệt của miền Phố Núi. Nhớ đợi tao ở Phi Đoàn.
Sau khi trao đổi vui đùa với Cần, Thặng cùng Hiệp đổi vị thế, rồi liên lạc với phi cơ quan sát:
– Bắc Đẩu, đây Thái Dương 31 gọi, bạn nghe rõ không trả lời.
Tiếng người phi công quan sát dồn dập vang lên:
– Bắc Đẩu nghe Thái Dương năm trên 5. Bạn cho biết trang bị.
– Thái Dương 31 gồm 2 phi cơ A1, trang bị 12 trái Napalms 500 cân, và 1600 viên đại bác 20ly.
– Bắc Đẩu nghe rõ. Để tôi bóc cho bạn một trái cam ăn cho mát giọng.
Thặng cười qua tần số:
– Đ.M. không cần bóc vỏ. Đưa nguyên trái cho tao.
– Ha... ha... ha... phải Đại Bàng Fulro đó không?
– Đúng 5. Fulro và Hiệp Cò đây. Phải thiếu hiệp Đinh Đức Bản, ngôi sao Bắc Đẩu của vùng trời biên trấn đó không?
– Ha... ha... Đại Hiệp quá lời, đàn em đâu dám múa rìu qua mắt thợ...
– Thiếu hiệp không nên quá khiêm nhường! Tình hình địch ra sao?
– Cho các Đại Bàng biết địch quân ở về phía Tây của trái khói 200 thước, có chiến xa tùng thiết. Phòng không được ghi nhận là có đại bác 12.7ly và 37ly cùng hỏa tiễn tầm nhiệt SA7, Thái Dương cẩn thận.
Thặng cười vang trên tần số, cám ơn người phi công quan sát vui tính, rồi liên lạc với Hiệp:
– Số 2 thấy trái khói không? Tao sẽ vào vùng theo hướng Bắc–Nam. Lấy cao độ về tay trái. Bình phi ở 4000 bộ. Mày vào theo hướng Nam–Bắc. Lấy cao độ về phía trái. Bình phi ở 3500 bộ. Mình sẽ nướng mấy con cua sắt trước.
– OK! Thái Dương 32 nghe rõ.
Thặng kiểm soát thật nhanh các đồng hồ trên bảng phi cụ, rồi lật ngược phi cơ, lăn mình 360˚ lao xuống mục tiêu. Tiếng người phi công quan sát vang lên, giọng thán phục:
– Đẹp lắm Đại Bàng.
Thặng chưa kịp trả lời. Anh bỗng nghe thấy những tiếng bụp bụp, rồi con tàu rung lên dữ dội. Khói đen bốc mù mịt trong phòng lái. Anh vội vàng giựt tay dàn bom, kéo phi cơ lên cao độ rồi liên lạc với Hiệp:
– Tao bị rồi. Số 2 lấy cao độ về hướng Đông. Đ.M. phòng không tụi nó nặng quá.
Hiệp đang vào mục tiêu, nghe Thặng gọi vội vàng giựt hết bom trên mục tiêu, rồi kéo ngược phi cơ lên để lấy cao độ. Anh vòng lại tống hết tay ga để vào cận phi với Thặng. Từ trong phòng lái của mình, Hiệp thấy bên cánh phải của Thặng khói đen phun ra một lằn dài theo thân tàu, rồi phực lửa. Hiệp bấm máy gọi tới tấp:
– Số 1 nhảy dù gấp. Phi cơ mày đang cháy bên cánh phải.
Tiếng Thặng bình tĩnh trả lời:
– Mình đang ở trên đầu Kontum. Tao không thể nhảy dù được.
– OK! Mày rán giữ cao độ để ra khỏi Kontum. Mày còn trái bom bên cánh trái đó.
– Tao sẽ giựt tay trước khi làm “crash” bên bờ sông Dakbla.
Bay sát bên Thặng Hiệp gọi:
– OK! Mày giữ hướng 180˚. Phía 5 giờ có bãi đất trống.
2 chiếc khu trục cơ lao mình vùn vụt xuống, bay ngang thành phố để tới bãi đất trống bên bờ sông. Đạn phòng không từ chiếc tháp chứa nước của thành phố tưới như mưa đuổi theo chiếc phi cơ bị nạn. Hiệp liếc mắt nhìn cao độ kế thấy phi cơ đang ở cao độ 600 bộ, anh bấm máy tới tấp gọi:
– Fulro! Nghe tao đi! Tụi nó đang từ tháp nước bắn ra, mày còn đủ cao độ để nhảy dù. Nhảy ngay đi. Phi cơ mày có thể phát nổ...
Từ trên cao độ Cần thấy những tia lửa nháng lên từ tháp nước, anh ra hiệu cho Phi Tuần vào vị thế chiến đấu rồi bấm máy liên lạc:
– Thái Dương cứ yên tâm, chúng tôi thấy tụi nó rồi. Thiên Lôi 2, 3 mình vào vòng bắn.
3 chiếc A37 lạng mình như 3 con diều hâu săn mồi, chúi mũi lao xuống mục tiêu. Những ống hỏa tiễn công phá phóng vụt ra, chiếc tháp nước cháy bùng và nổ tung từng trăm ngàn mảnh vụn. Lẫn lộn theo với tiếng khen của phi cơ quan sát, có tiếng tắc nghẹn của Thặng trên tần số:
– Đ.M. Trễ...
Hiệp thảng thốt gào lên:
– Fulro, Fulro, mày OK?
Không có tiếng trả lời. Chiếc phi cơ của Thặng đang lao xuống với tốc độ 140 knots một giờ. Tốc độ quá nhanh để làm crash. Hiệp vẫn bám sát bên cánh phải của Thặng một cách vô vọng. Chiếc khu trục cơ bị nạn chạm đất nháng lửa, cày lên mặt đất lởm chởm, oằn mình đụng vào một mô đá cao bên bờ sông. Đất đá bắn tung mù mịt, rồi một khối lửa bùng lên, cuốn theo cột khói đen cuồn cuộn như ngọn hỏa diệm sơn trong cơn phẫn nộ chuyển mình... Mọi việc xảy ra quá nhanh, quá đột ngột, làm người phi công trẻ dạn dầy chiến trận không kịp chuẩn bị tinh thần để đón nhận nó. Mặt anh co rúm lại, ánh mắt lạc thần, bất lực nhìn chiếc phi cơ của người bạn đồng hành chìm trong biển lửa mịt mùng. Hiệp như điên cuồng, bay vòng quanh đống lửa đang ngùn ngụt cháy. Chiếc khu trục cơ gầm thét ở cao độ thấp, rồi vụt bốc mình lên. Ngồi trong phòng lái, Hiệp ngoái cổ nhìn xuống. Không còn gì cả ngoài đống lửa bập bùng. Lên đến cao độ của vòng chờ, sau khi liên lạc với phi cơ quan sát để lấy chi tiết, Hiệp lắc cánh, lăn mình quay một vòng tròn 360˚ để chào vĩnh biệt người bạn thân lần cuối, rồi lao mình mất hút sau những đám mây tang...
Buổi chiều ngày 26 tháng 5 năm 1972, bầu trời Kontum vần vũ, nhỏ lệ khóc Anh Hùng... Dòng Dakbla sủi bọt, nổi sóng gầm lên mộ khúc bi ai... Văng vẳng đâu đây, tiếng bom đạn ầm ì dội lên, nghe như tiếng chiêng trống từ nơi rừng sâu núi thẳm vọng về... để đưa người tráng sĩ qua sông nhận sắc chỉ phong thần.
Trần Ngọc Nguyên Vũ
- Details
- Category: Truyện VNAF
- Hits: 242

Nghịch Nhĩ
~~~oo0oo~~~
Thưa vâng, Ông Ánh trên tựa bài viết đúng là Ông Nguyễn Huy Ánh cựu Tư-lệnh Sư-đoàn 4 KQ, một vị Tướng lỗi lạc, mà hồi đó có lúc còn phải… ngán tui đấy!
Chuyện thật như thế nào, nói theo kiểu truyện Tàu, xin xem hồi sau sẽ rõ… còn bây giờ thì…:
Dường như người Việt (miền Nam) mình trước kia ít khi chịu khen ai, hay vinh danh ai, dù đó thực sự là những người anh hùng tài giỏi khi họ còn đang sống, đang tại chức lắm; đợi chờ chết rồi mới thấy tiếc rẻ, mới khen, mới đề cao!; có thể vì lòng đố kỵ, có thể vì sợ mang tiếng là kẻ xum xoe, nịnh bợ chăng?
Tôi còn nhớ trong quân đội VNCH dạo ấy có biết bao nhiêu vị Tướng, thế mà có mấy ai được báo chí, truyền thanh, truyền hình đề cao vinh danh ? Phải chăng đó là một khuyết điểm của mình? Nếu có, ít ra cũng làm cho binh sĩ, dân chúng lên tinh thần khi được một ông Sư Đoàn Trưởng… như thế… như thế chỉ huy và trấn giữ vùng mình chứ!! Nói nào cho ngay… Ừ mình cũng có đấy, sau trận An Lộc ông Nguyễn Văn Hưng có được vài số báo nói đến!! Rồi báo Tiền Tuyến hay Diều Hâu (?) có đề cao bốn vị: nhất Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng là Tướng… “Sạch”. Trời đất! làm Tướng mà chỉ được khen “sạch” là đủ sao?! Còn cái điểm chánh yếu là cầm quân trước trận tiền sao không thấy nói tới, chẳng lẽ... “nhất tướng công thành” mà không đánh được vài trận nào ngoạn mục à? Còn Tướng Lê Minh Đảo vừa sáng lên ở mặt trân Xuân Lộc, rồi cũng bị chìm theo vận nước…!
Nghĩ tới nghĩ lui thấy mình yếu thật; trong khi ấy bên địch, trong quân đội thì có chính trị viên từ trung, đại đội trở lên để theo dõi, đôn đốc nâng cao tinh thần bộ đội… ngoài ra họ còn có thêm cái đám binh (địch) vận, dân vận (trí thức, sinh viên học sinh…) …v.v… để lôi kéo, mua chuộc nữa; đánh ta mọi mặt như thế; nên ta… mệt là phải!!!
Bạn ơi! Đó là chuyện cũ, còn nay thì 32 năm đã qua rồi, mà con cháu của chú Hồ vẫn kiên trì… không mệt mỏi tuyên truyền, nhiều lúc vẻ vời để tự đề cao xưng hùng mọi lúc mọi nơi nghe phát mệt; nói theo kiểu văn chương… hiện đại của bọn chúng, thì… “cái đéo” gì cũng ca được; nghe muốn ói!!! Tôi không có thèm nói thêm đâu, nầy nhé:
- Chuyện dũng sĩ tí hon Lê văn Tám tẩm xăng vào người, châm lửa, rồi chạy… u vô đốt kho đạn, hay kho xăng gì đó bên Thị Nghè là xưa rồi, bỏ đi Tám! Mấy năm qua mấy tay “Cách mạng lão thành” tìm tên tuổi và gốc gác của anh hùng… nhóc nầy để phong thánh; rồi tự đi đến kết luận là: Hổng có!!!
- Rồi câu chuyện kể cái… dũng của “cháu ngoan Bác Hồ” nầy mới dễ nể chứ: Có hai em bé chiều chiều đùa giỡn trên bờ đê sông Hồng, bỗng hai em thấy có một lỗ rò rỉ của bờ đê phía nước chảy cuồn cuộn, với một tinh thần cảnh giác và nhận thức cao độ, nếu để vậy đê sẽ bị xoáy mòn và đê vỡ; nên một em bèn nằm dài xuống bờ đê đầu cuối xuống nhìn rõ cái… lỗ và lấy ngón tay bịt lại. Còn em kia chạy về thông báo cho dân làng biết! Đến khi bà con làng xóm chạy ra cưú đê thì thấy em nầy chết ngộp đúng vị thế ấy, … cái ngón tay vẫn còn đang… ém lỗ!
Mấy cháu nho-nhỏ thoạt nghe qua thấy nể quá đi chứ, hãy tưởng như cái bồn chứa bằng xi-măng đang cho nước chảy vào, bị một lỗ mọt nên em phải chồm xuống để lấy ngón tay bịt lỗ lại; trong khi đó nước cứ chảy vào từ từ dâng lên và em cứ… uống nước thoải mái tới chết thôi; chứ ngón tay vẫn… ém lỗ không rời!!!. Có lý quá mà!
Còn mấy người lớn hiểu chuyện lại cười thầm trong bụng: chắc “cháu ngoan” nầy được bác yêu cho lên chơi phủ chủ tịch (nhà sàn) đến giờ nghỉ trưa cháu quanh quẩn bên ngoài và vô tình nhìn qua khe vách nứa thấy bác Hồ đang dùng ngón tay mò tìm… ém lỗ bà Nông thị Xuân nên cháu cứ in trí và noi gương theo chứ gì !!!
Nhưng mà mấy cái chuyện đó thuộc loại xưa rồi… Diễm! Cái chuyện nầy mới ràng ràng có in trên tờ nhựt trình Tuổi Trẻ ngày 16 /06/2007 trong đề mục “kể về Bác Hồ”, ở hội thi, có giải thưởng như sau:
“… (nguyên văn) Một trong những thí sinh cao tuổi nhất, là thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh nguyên phó cục trưởng Cục tác chiến Bộ TổngTham Mưu, 77 tuổi, kể câu chuyện xúc động về Bác Hồ mà ông được trực tiếp chứng kiến vào mùa hè năm 1967, khi Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc. Bác thương những chiến sĩ phòng không trực chiến mà không có đủ nước uống nên đã tặng toàn bộ số tiền tiết kiệm 25.000 đồng (tương đương 60 lượng vàng) cho Tổng cục hậu cần mua nước uống làm quà cho chiến sĩ phòng không. Thiếu tướng Ninh lúc ấy đang là Tiểu-đoàn-trưởng tên lửa phòng không, đã được uống nước từ số tiền tiết kiệm của Bác Hồ giữa cái nóng 41 độ C và cảm thấy vô cùng xúc động trước tấm lòng của Bác”.
Đấy ai muốn tin thì cứ tin và ai chưa hề biết Việt Cộng là gì thì cũng nên tin... thử một lần cho biết!! Còn tôi cho rằng: Gớm cho ông phó Cục, như vậy mà cũng ráng… “ngoéo” vô khen cho được mới tài...! Nếu gặp ông “Bãi trưởng” (thì lớn hơn Cục là Bãi chứ gì nữa!) thì tình tiết có phần hấp dẫn hơn... như: các đồng chí và đồng bào biết không?, có hôm nọ Bác đang đứng chuyện trò với một ổ phòng không thì bọn giặc Mỹ bay đến bỏ bom, Bác vẫn gan lì ngồi tại đó để động viên các đồng chí đội phòng không đang bắn chống trả, đến khi bọn Mỹ hoảng sợ bỏ chạy hết thì lúc ấy bác mới phát hiện ra là mình bị… chột bụng mà trong lúc khẩn trương phải ở tại đấy cho bộ đội lên tinh thần, nên… “mọi thứ” nó vãi ra trong quần…! mà thưa các đồng chí và đồng bào, quả Bác là bậc thánh nên tôi… chỉ ngửi thoang thoảng một mùi thơm thôi quý vị ạ!!
Rồi nay mai đến mấy bà cụ còn sẽ nghe: - “Mẹ biết không, đồng chí ấy là dũng sĩ, anh hùng lắm, trước kia ở trong binh đoàn đặc công, một mình bò vào đồn địch giết được 5 , 6 tên giặc và cả chục tên đồng bọn tay là sai đàn bà, con nít; chẳng may đồng chí ấy bị một tên địch “hèn nhát” bắn trúng vào đầu; nhưng mẹ biết không… đồng chí ấy vẫn anh dũng, hiên ngang… nằm chết tại đấy, chứ không thèm chạy đi nửa bước nữa đấy!”
Y chang kiểu như lời một anh bộ đội người thiểu số từng tuyên bố trước đám tù: “Lói cái gì miễn có nợi cho Đảng và Nhà lước nà tôi lói, dù lói náo cũng được!!”
Biết mà:
Chúng mầy mở miệng cứ xưng hùng
Ong-ỏng ngày đêm riết phát khùng!
Kho đạn là nơi bây được... đẻ
Nên giờ mặc sức… nổ lung tung!
Vài chuyện mào đầu ở trên coi như vài món ăn chơi, lai rai. Đa phần dựa vào chuyện thật, tôi cho thêm chút gia vị cho nó cay cay để dễ bắt trớn ấy mà …
Bây giờ đã đến lúc chúng ta cũng cần ghi lại những sự thật, người thật việc thật cho những thế hệ mai sau thấy rằng người VN, tuỳ theo vận nước có lúc thịnh suy, nhưng anh-hùng, hào-kiệt thời nào cũng có...!
Và sống bên Mỹ nầy, nhận ra được cái hay, cái thực tiễn của người Mỹ nên tư duy của mình có thay đổi và như quý vị thấy bây giờ mới có những buổi vinh danh hoặc nhớ ơn những người còn đang sống: những khoa học gia, văn sĩ, nhạc sĩ, những nhân vật nổi tiếng có đóng góp và giúp ích cho cộng đồng.. .v.v... đặc biệt ngày Mẹ, Cha… được ghi trong lịch để mà nhớ nữa đó!!
Thôi thì như vậy cũng là hay, cũng là tiến bộ; dù hơi trễ nhưng có vẫn hơn!! Theo khuynh huớng đó tôi xin viết ra đây những nhân vật trong Quân chủng KQ mà tôi rất kính nể; tiếc thay cả ba đã không còn tại thế, nhưng những việc làm của nhũng vị ấy sao tôi cứ nhớ mãi… và trong ý thức, trong lòng cứ thôi thúc tôi phải viết ra:
1./Anh hùng bị lãng quên:
Dưới thời Tổng Thống Ngô đình Diệm cho trưng bày một chiếc máy bay ở ngoài Sài Gòn cho dân chúng coi. Anh là một Hạ sĩ quan của KQ đứng bảo vệ và trông coi khu đó! Bọn khủng bố Việt Cộng đã ném lựu đạn vào trong lúc dân chúng đông đảo đang bu quanh chiếc phi cơ, kết quả lựu đạn nổ và anh đã hy sinh!!! Nếu nghe đến đây thì một quân nhân chết trong lúc thi hành công vụ là chuyện thường tình của người... khoác áo chinh y, chưa thấy được hết cái ý nghĩa của chữ “hy sinh” và “anh hùng”!! Suy nghĩ một xí và xét lại đi: - Trong tình huống xảy ra như thế, với một phản xạ tự nhiên của con người bình thường khi thấy quả lựu đạn sắp nổ thì nằm sát đất ngay, có thể không chết, nếu bình tỉnh hơn thì lẹ làng chụp quả lựu đạn ném ra xa… ; còn Anh ấy đã có dòng máu anh hùng trong huyết quản nên trong thoáng nghĩ suy anh đã nhào vô nằm đè trên quả lựu đạn, để trọn tấm thân anh chịu sức công phá của quả đạn, tránh sự sát hại lớn lao cho đồng bào! Đúng là anh dành lấy cái chết cho người dân hiền hoà, vô tội sống!!
Vì sự an nguy của người khác; không một chút đắn đo thiệt hơn, dám đem cả mạng sống của mình để bao che, bảo vệ; như vậy chưa đủ gọi là anh hùng để người đời nhắc nhở và ghi tạc sao?!! Tiếc rằng thuở ấy mẩu tin gây xúc động và xôn xao trong dân chúng, tôi không nhớ tên vị anh hùng và ngày giờ chính xác!!
Rất may khi tôi đăng bài viết nầy thì nhận được một email trong nước gửi qua; xin giử nguyên vẹn và đăng tiếp theo đây để chứng minh chuyện kể trên:
'''Thưa các chiến hữu
Năm 1962 Tổng thống Ngô Đình Diệm của chúng ta đã truy thăng cấp bậc Thiếu Úy, và truy tặng BẢO QUỐC HUÂN CHƯƠNG cho Trung Sĩ NGUYỄN BỘI NGỌC, đơn vị Phi đạo 211, căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất.
Sự kiện truy thăng năm cấp cho một quân nhân là một sự kiện có một không hai, vì hành động của NGUYỄN BỘI NGỌC sáng ngày Quốc Khánh 26 tháng 10 năm 1962 trước Tòa Đô Sảnh Saigon là một hành động xưa nay chưa bao giờ xẩy ra trên toàn thế giới: Anh đang đứng thuyết trình giới thiệu chiếc trực thăng H34 cho đồng bào tầng tầng lớp lớp xung quanh anh và chiếc trực thăng, thình linh một tên cộng phỉ trà trộn trong đồng bào tung một quả lựu đạn vào anh, quả lựu đạn rớt xuống đất sát chân anh, anh bình tĩnh cúi xuống nhặt lên, quả lựu đạn đã bung kíp anh chỉ còn thì giờ để ném quả lựu đạn đi càng xa càng tốt. Nhưng anh NGỌC đã không làm thế ,vì xung quanh toàn người là người, ném như vậy anh sẽ thoát hiểm, nhưng đồng bào anh, gồm cả già trẻ nam nữ, trẻ con sẽ thương vong vô số, anh bèn nhẩy lên chiếc H34, ôm quả lựu đạn gọn ghẽ vào bụng khi nằm úp sấp xuống sàn tầu... Anh ra đi một mình để cứu mạng vô số đồng bào anh khỏi bọn khủng bố của bọn cộng phỉ khát máu.
Rồi nhiều đổi thay đem bất hạnh đến cho dân tộc, năm sau đó, Tổng Thống Diệm của chúng ta cũng không còn, chuyện ANH HÙNG NGUYỄN BỘI NGỌC vô tình bị chìm vào quên lãng, nhưng chúng tôi, những đồng ngũ cùng đơn vị của anh thì chưa bao giờ quên được.
Chúng tôi gửi chuyện này đến các chiến hữu vì tin tưởng các chiến hữu tại quốc ngoại với đầy đủ phương tiện truyền thông đứng đắn phối hợp với báo Saigon Nhỏ sẽ làm sống lại tinh thần Chiến Đấu Anh Dũng Vì Dân Quên Mình mà chỉ có QUÂN LỰC VIÊT NAM CỘNG HÒA chúng ta mới có, được vậy sự hi sinh vệ quốc của NGUYỄN BỘI NGỌC mới không bị bỏ quên.""
2./ Ông Tướng Nguyễn ngọc Loan:
Nhìn qua vóc dáng của Ông Loan thì ông cũng cao ráo, còn gọi là có đẹp trai, hấp dẫn, oai phong hay không thì, theo tôi, ông cũng… “thường thường bậc trung”, lúc còn làm Tư lệnh phó KQ, khi đến dự party của các PĐ tổ chức, ông thường mặc bộ trây- di lè phè bỏ ngoài, chân mang dép nhật (bây giờ là dép lào), trước mặt thường có chai la de loại lớn (bia cao )…
Tôi nhớ lúc Ông qua làm Giám Đốc An ninh quân đội, năm 1965 tôi có dịp lái Trực Thăng H34 chở Ông đi ra Hàm Tân, khi vào dinh Tỉnh Trưởng thì có điện thoại từ Trung Ương gọi ra, đầu dây bên kia nói gì tôi không rõ, chỉ nghe ông trả lời:
- Em đang bận ra thăm… “sức khoẻ” ông Tỉnh Trưởng một chút rồi về!
Nghe thế ông Tỉnh trưởng cười cười nhìn Ông có vẻ hơi “nhột”, bởi cái gì mà dính líu đến An Ninh là phiền hà lắm. Cỡ hai giờ sau phi hành đoàn theo đoàn xe ông ra về . Tụi tôi lên đề máy con- trâu- già H34, hai ba lần mà nó không nổ, mà thưa quý bạn, nhớ cho nếu đề hoài cở 5, 6 lần là Battery à plat, hết hơi bình còn chết dỡ nữa, nên phải nghỉ một chút cho không ngộp xăng rồi đề lại. Ông Loan còn đứng dưới đất kêu lên “chọc quê”:
- Ê, tụi bây phải cần tao dán mấy tờ giấy $ 500 lên đây nó mới nổ chắc!!
Chưa chi mà Ổng thấy cái… “Tẩy” hết trơn!! Sẵn đây khai luôn cho quý anh các ngành khác biết, dân Trực Thăng chở VIP bên dân sự thường là được… “ăn theo” mấy Ông Bự lắm; khi về lại có thêm được bao thư lì xì, có nhiều lúc rất là hậu hĩnh, nếu gặp được mấy ông “Phụ tá đặc biệt”...! Tất cả những cái đó là tuỳ lòng… hảo tâm, góp… “công đức” của chư vị ấy, chứ anh em Trực Thăng không có mặt mũi nào đi xin xỏ hay vòi-vĩnh à nghe!! Cũng may chiếc trực thăng nghe thế, nó sợ làm bẻ mặt mấy bác tài, nên đề máy lại lần nữa là nó chịu nổ…
Một lần thứ nhì, lúc Ông Loan làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát, tôi có chở Ông đi xuống Ty Cảnh Sát Mỷ tho,Bến Tre trong những ngày cận tết năm Mậu Thân, sở dĩ tôi nhớ vậy vì ông có nói mở đầu trước quan quân Cảnh Sát: Năm nay là năm Mậu… xì , nên không có lì xì gì hết…
Qua vài kỷ niệm trên thì cũng thường tình , nhạt nhẻo đâu có gì đáng nói và nếu cuộc đời bình thản như vậy thì sao rõ mặt anh hào? làm sao lộ những điểm để tôi thấy kính nể, khâm phục vị Tướng nầy được.
Có thể cái nhận thức của tôi còn nông cạn, tầm nhìn hạn hẹp, nhận xét chưa sắc bén và phiến diện; nên không tạo được sự đồng thuận ở một số người… nhưng tôi thấy nổi bật nhất trong đời binh nghiệp của Ông qua 2 sự việc dưới đây:
A - Biến động miền Trung:
Hãy để chuyện chính trị qua một bên không bàn đến phía nào sai trái trong thời gian đó, mà chỉ xét về Ông Loan trong vụ nầy:
Tình hình miền Trung lúc ấy thật là phức tạp, hỗn lọan Phật giáo thì đem bàn thờ xuống đường, quân đội thì chia rẻ, có cả một lực lượng khá đông quân sĩ có cấp chỉ huy, đứng về phe chống đối chánh quyền Trung Ương, kèm theo trong bóng tối có sự thao túng giật giây của bọn Cộng Sản…! Nghe nói Trung Ương có đưa một vài vị Tướng bên Bộ-binh ra để dẹp loạn, mà không biết lý do gì mấy ngày sau đó vẫn nguyên trạng và có mòi trầm trọng hơn… Giờ chót Ông Loan được cử ra dẹp loạn!! Kết quả sóng tan, biển lặng!!
Tôi nể phục Ông Loan ở chỗ là:
- Một Sĩ Quan cao cấp KQ, một Sĩ quan chuyên ngành có bao giờ điều binh khiển tướng cỡ cấp Trung đoàn, trực tiếp ra trận đâu mà ông làm nên việc?? ngược lại trong khi các vị khác đã là cấp Tướng mà làm không xong vụ nầy!!
- Ông có một cái nhìn tổng quát và nhận biết đâu là yếu điểm của nhóm phản loạn, đâu mới thực sự là đầu nảo điều khiển vụ nầy, nên vạch ra một kế hoạch hành động hữu hiệu!
- Về mặt chiến thuật, ông biết phải móc nối ai và đơn vị nào để làm hậu thuẩn và ông biết chọn, tin dùng người có khả năng để kết hợp và phụ giúp ông trong vụ nầy!!
Mới nghe qua thấy đơn giản, nhưng thực sự những vị Tướng tài mới có được cái nhản quan và đầu óc ấy mà thôi! Không dễ!! Đó là vụ việc thứ nhất tôi nể phục ông, còn vụ thứ hai:
B./ Vụ Tướng Loan “bụp”tên đặc công bảy Lốp:
@ Trong chúng ta chắc ai cũng biết vụ Tướng Loan bụp tên VC Bảy Lốp trong năm Mậu Thân nên tôi xin miển tường trình! Chính vụ nầy với bức hình do Adams (?) chụp mà người thì nên danh, được giải thưởng cao quí của báo chí, còn người thì mang tai tiếng và thân bại danh liệt!!!
Về mặt nghề nghiệp thì Ông phóng viên ấy không có gì đáng trách mà còn trái lại; và tấm hình đó cũng là cơ hội bằng vàng cho đám truyền thông thân Cộng đã kích Ông và chế độ VNCH --- (tôi không muốn dùng từ phản chiến, không đúng).
Nhưng cũng chính nó mà tôi lại càng thương mến, cảm phục kính nể Tướng Loan hơn; đồng thời mang thêm nổi uất hận.. .mãi đến nay xin được tỏ bày:
- Phải nói thẳng rằng ở ngoài mặt trận khi bắt được địch quân (không phải là hàng binh), cả quan và quân bên Bộ Binh “rửa cẳng” bọn nó là chuyện thường tình, lý do họ đang nổi nóng vì thằng bạn vừa mới trúng đạn chết tươi sau khi vừa ăn chung bịch gạo sấy với hộp thịt ba lát không lâu; hoặc họ nói giam giữ nó làm gì tốn cơm, nuôi ăn cho mập, khi thả ra lại ôm súng bắn lại ta nữa!!
Còn bên KQ dù anh có thả một quả bom tan xác cả chục tên giặc, hoặc mấy anh gunship có xịt rocket và xả súng mini gun giết hàng loạt quân địch đi nữa, nhưng tôi dám chắc rằng không có anh KQ nào có gan mà chỉa ru- lô vào đầu tên VC bóp cò như Ông Loan đâu! Đó là điểm đầu tiên khác biệt mà tôi nể Ông Loan (xin nhấn mạnh lại , đó là thời trước 75 , chứ còn bây giờ khi đã thấy được cái tàn độc của VC đối với dân chúng ra sao rồi, và ai đã có thêm “ân oán” nữa, thì đâu cần đợi súng đạn làm chi lâu lắc; búa, xẻng… dùng ngay để “dứt điểm” cũng gọn, thật dễ dàng!)
@@ Không cần phải là một nhà tâm lý học, ta cũng thấy ngay sự phẩn nộ ấy bắt nguồn từ tấm lòng, tình thương yêu của ông với thuộc cấp, một sĩ quan cảnh sát và toàn gia đình vừa bị chính tên đặc công bảy Lốp sát hại.
Ông Loan hành động theo cảm xúc chân thành phát xuất từ con tim chứ không đắn đo suy nghĩ cái hậu quả dưới ống kính của đám ký giả đang bu theo! Dĩ nhiên là ông hiểu chứ! Nhưng tình thương và tấm lòng của ông đối với thuộc cấp đã lấn át tất cả. Nên Ông cũng không cần cân nhắc cái thiệt hơn, lợi hại cho danh tiếng và bản thân Ông.
Tướng Loan cũng không phải là con người nham hiểm, độc ác. Nếu là người thâm trầm hiểm độc thì giải quyết như vầy chắc được khen, nghĩa là không vội gì giết tên đặc công khát máu nầy ngay, mà phải đích thân chứng kiến lại tấn tuồng, nó mới… “đã nư ” chứ .! Phải ngồi trên ghế nệm da đàng hoàng, tay cầm ly rượu mạnh nhâm nhi, miệng ngậm xi gà nhả khói… đợi chờ, chờ bắt mang về cả vợ và mấy đứa con hắn đang sinh sống tại vùng Phú Lâm chứ đâu; rồi bắt buộc hắn phải đích thân, chính tay hắn giết vợ và con hắn, như kiểu hắn đã sát hại toàn gia của anh Sĩ quan Cảnh-sát ; để cho hắn thấy cái đau khổ của người vô tội như thế nào, rồi hắn mới được chết!!
Bởi vậy mới thấy quân dân miền Nam hành xử quá bộc trực ngay thẳng, nặng về cảm xúc đầy ắp tính nhân bản; khác hẳn tư tưởng và đường hướng có kế hoạch sẵn của con người VC mà chúng ta nghe ra rả trên đài phát thanh:
- Một trong những lời bác Hồ dạy: - Phải “cương quyết” với kẻ thù! Quyết liệt và đẹp đẽ thay chữ cương quyết nhưng cũng ghê rợn thay cái ý nghĩa ẩn tàng của chữ nầy!!!
@@@ Thuộc cấp mà thấy được sự yêu thương chí tình, hết lòng của cấp chỉ huy không bằng “đầu môi chót lưỡi ”, màu mè; thì đáp lại họ có sá gì gian khổ, hy sinh chứ!
Nếu vị Tướng mà biết tiếc từng mạng sống của mỗi người lính thì họ sẽ không bao giờ thí quân, không bao giờ muốn đạt mục tiêu với bất cứ giá nào để được danh tiếng trên hàng đống xác thân của binh sĩ mình!
Chỉ bao nhiêu điểm trên cũng lộ ra cái phẩm chất và bản lãnh, đáng nể phục vị Tướng nầy; dâu phải ai cũng có được đâu!
@@@@ Dư luận dạo ấy hay nói đúng ra là giới truyền thông gây trong tôi sự bực tức và niềm uất hận không nguôi! Đám ký giả ngoại quốc thuộc loại có tên tuổi mà thân Cộng bu nhau đã kích ông Loan và chế độ ta, trong khi đó các phóng viên ký giả miền Nam thì im lặng khó hiểu!
Tôi xin mở ngoặc nói về chữ “phản chiến” mà bọn ký giả thân Cộng xử dụng và tự nhận!! Một danh từ mỹ miều!! Đúng là chúng khôn ngoan và xỏ lá hết sức; cho nên đến tận ngày nay hễ nói đến Phản chiến là thiên hạ nghĩ ngay đến bọn chúng, chứ họ không gọi bọn chúng là Thiên tả hay thân Cộng! Tôi thấy không đúng!! Như vậy nếu đả kích hay chống bọn đó hoá ra mình là người Hiếu chiến sao?! Nhìn lại chiến cuộc VN thì ai gây ra chiến tranh?? Đâu phải Mỹ! Mỹ chỉ vào phụ giúp ta sau nầy thôi, chứ nguyên thuỷ là do CS Bắc Việt mà! Như vậy quân dân Miền Nam là người Phản Chiến mới đúng, mới chính xác, mới thuận ngôn chứ! Xin tạm đóng ngoặc lại.
Trở lại vụ Tướng Loan, đám ký giả không phải là dân VN không có được cái tình cảm, thấm thía được nổi khổ đau của miền Nam, họ không nằm trong chăn làm sao biết được chăn có rận?? Nên họ cóc cần biết gì hơn là chỉ dựa vào bức hình và theo sách vở Hiến Chương Liên Hiệp Quốc để mà nhục mạ phía ta mà thôi!!
Nhìn lại, tìm xem các ký giả quốc gia miền Nam ở đâu mà không thấy một bài để bênh vực, hay phân tích cái lý, cái tình ở đây?? Chẳng lẽ trong nền báo chí Miền Nam đã bị VC trà trộn vào quá đông, đủ khả năng điều hành và lủng đọan, chỉ đạo khoá mồm khoá tay hết rồi sao??
Hay chư vị cũng có nhận thức và lý lẽ quá cao siêu nên mới im lặng đồng tình với bọn thân Cộng??
Hoặc giả quý vị cảm thấy... “khớp” trước những ký giả “lớn” có tên tuổi của ngoại quốc; nên bị… đớ lưỡi, cóng tay không viết nên lời??!
Còn tăm hơi của quý vị ký giả lảo thành, những nhà bình luận và những chính khách đã từng lừng- lẫy, dạn- dày trên trường văn trận bút đâu rồi?
Sao quý vị không lấy cái thành tích thảm sát tập thể Tết Mậu thân ở miền Trung có sự đồng ý và chỉ đạo của đám chóp bu VC, một bằng chứng còn ràng ràng ra dấy, cũng đủ để… “đập vào mặt” bọn chúng chứ cần gì phải trích dẫn “ những ý , những lời” bằng tiếng Tây tiếng U của nhà văn hay ký giả ngoại quốc ; cho ra vẻ thông thái như thường thấy làm chi cho mệt vậy !!!
Thật lạ lùng tôi cứ hỏi: Vì sao?? vì sao??
Sau nầy tôi lợm giọng khi thấy mấy ông “nhà báo” có sáng kiến là lập ra nhóm…“ký giả ăn mày” nữa chứ! Đúng là vận nước suy tàn nên quỷ vương dậy! Một số khá đông trong nhóm nầy mặc áo rách rưới, cầm gậy ăn mày mặt tươi cười khoa trương thanh thế lắm mà; thế lúc trước không có một sáng kiến nào để phản-biện lại đám ký giả ngoại quốc thân Cộng sao? Chẳng lẽ Cộng Sản len lỏi vào báo giới mà đông đến thế à??? À thì lòi mặt ra là công cụ của bọn Cộng hết. Ai cũng nhìn thấy quý vị đã góp một bàn tay xô Chính quyền miền Nam sớm sụp đỗ đấy!!
Không biết khi đi “tù cải tạo” , trong tờ tự kiểm quý vị có kể và khoe công trạng là: << dù sống và ăn cơm trong chề độ đó chứ… chúng em không hề làm gì có lợi cho chúng cả, dù một chút nhỏ nhoi ; trái lại chúng em đã ngầm tham gia Cách mạng như trong vụ…, trong vụ…>>
Viết đến đây nếu anh linh của ông Tướng có đọc thấy và hỏi: “ - Thế thì lúc đó sao mi không viết ra mà mãi đến bây giờ mới nói - thánh, nói- tuớng hử??” Xin thưa lúc ấy tay chân tôi quen cầm cần lái, bóp cò chứ đâu được cầm viết; hơn nữa nếu có viết chắc gì báo nào chịu đăng đâu Ông!
Thật buồn, ngậm ngùi, và thấu hiểu nổi cô đơn trong một dũng Tướng!!
Mãi đến gần đây khi Ông lánh xa trần thế mới thấy có một bài viết của nhà văn Phạm Phong Dinh với tựa: Một con Sói già cô đơn (?) . Có muộn màng nhưng chắc Ông Loan ấm lòng vì có người hiểu Ông!!
Tôi, một thuộc cấp KQ hàng hậu bối, xin đốt nén hương lòng tưởng nhớ đến Ông và thầm mong Ông vẫn còn niềm tin yêu và hãnh diện nơi hàng thuộc cấp KQ của Ông, xin nhấn mạnh chỉ hàng thuộc cấp KQ của Ông thôi nhé, còn cấp cao hơn tôi không biết và nói đến!!
(Ông bị địch bắn trọng thương trên cầu Phan thanh Giản trong đợt tấn công lần nhì 5-5-1968. Ông được chở sang Úc chữa trị, nhưng vì công luận Úc phản đối, nên ông được chở sang bệnh viện Walter Reed Army Medical Center ở WASHINGTON DC, MỸ. Sau 75 qua Mỹ Ông cũng bị dư luận chống đối với sự đồng ý của sở di trú đòi trục xuất; nhưng nhờ Tổng Thống Jimmy Carter can thiệp và cho phép Ông được định cư và sống ở Springfield, bang Virginia, Hoa Kỳ; sinh sống bằng cách mở tiệm pizza tên là Les trois Continents.
Khi nhắc đến tấm hình oan nghiệt khi xưa , Tướng Loan không hề oán trách tác giả bức hình Eddie Adams mà còn an ủi Adams: “ông làm nhiệm vụ của ông ; tôi làm nhiệm vụ của tôi. Chỉ có thế thôi!”
Trong cuốn Bốn Tướng Đà Lạt của Lê Tử Hùng có kể lại vụ tướng Loan trả lại chiếc nhẫn kim cương cho một hoa kiều Hoa Hồng Hoả, ông nầy là một thương gia gốc Hoa lương thiện, nhưng đã trở thành nạn nhân của các tướng sau cuộc đảo chánh năm 1963 và dinh thự của ông ở ĐA LẠT bị một ông Tướng chiếm! Mãi đến khi Ông Loan chỉ huy ngành CS họ Hoa mới được minh oan và tiếp tục làm ăn. Khi ông Loan gặp nạn ra ngoại quốc chữa chân,, Hoa Hồng Hoả biết ông là người thanh liêm, gia cảnh thanh bạch nên đã trả ơn Ông Loan một chiếc nhẩn kim cương. Ông không biết Tướng Loan chữa trị bao lâu và cuộc sống khó khăn ra sao. Nhưng ngày trở về VN , tướng Loan đem trả chiếc nhẩn kim cương lại cho chủ cũ! Vợ chồng H.H.Hoả đã lạy khóc và ca tụng Ông Loan là bậc Thánh. – (Theo Tiến Sĩ Trần An Bài giảng sư Học viện CSQG )
3./ Ông Tướng Nguyễn Huy Ánh:
Thực lòng mà nói tôi chỉ nghe lời khen hoặc sự thán phục của rất nhiều người, chứ tôi chưa hề nghe một lời nào than phiền hay chê bay Ông Ánh cả! Những bình phẩm ấy với tính cách truyền khẩu rất nhiều, nghĩa là trong lúc chuyện trò với nhau hể có việc gì dính líu đến Ông Ánh là họ khen Ông nào là đã làm như vậy… giải quyết như vậy… v.v…
Trong chương trình học Tham Mưu Trung Cấp KQ, học viên phải có hai bài viết: Một ngắn 1200 chữ; một dài 3000 chữ . Tôi có nghe một sĩ quan học viên có viết một bài mang tựa: Ông Nguyễn Huy ÁNH, Nhà lãnh đạo tài ba!! Xin nói rõ đó là chữ “lãnh đạo” chứ không là “chỉ huy” nha! Tôi không có đọc bài đó, nhưng tôi tin chắc tác giả có đủ chứng cớ xác thực, lý lẽ hùng hồn, nhận xét sắc bén mới dám viết một bài như thế trong lúc Ông còn tại chức và các chứng nhân cũng còn sờ sờ ra đấy!
Kính mong tác giả trên, tình cờ đọc qua đây, xin vui lòng phổ biến lại bài viết đó và những vị khác hãy kể ra những nét đặc sắc mà quý vị biết về Ông Ánh để cho mọi người thấy được đó là những tia hào quang của vì sao sáng chói nầy!
Phần tôi còn nhớ như in:-- Ông có nước da ngâm ngâm đen,có duyên ngầm , dáng người trung bình tầm thước, trầm tĩnh, ít nói nhưng hấp dẫn và thu hút người nghe! Mắt một mí, nói chuyện với người lạ ông thường nhìn hơi nghiêng và hơi... “nghinh” lên một tí! Bởi vậy lúc mới về Phi đoàn 211 (Thần Chuỳ) do Ông làm Chỉ Huy Trưởng PĐ tôi đùa, nói lén với mấy anh “ sĩ quan sữa” như tôi: Ông nầy mà đi ra đường, vô phòng trà hay tiệm kem mà nhìn người ta nghinh-nghinh như vậy là dễ có “oánh lộn” lắm nghe!!!
Người ta nói Ông lắm tài, mà thứ nào cũng bậc Sư cả!
-*** Ông thuộc hàng thiện xạ về súng Colt! Nghe kể Ông Phước (Nùng), tay thiện xạ đoạt giải Đông Nam Á (?) cũng phải nhìn nhận khi thấy Ông Ánh dùng Colt bắn trúng đầu con chim cu, không phải chó ngáp phải ruồi à! vì tiếp theo là những lon bia, sữa bò cũng bị tung lên sau mổi phát súng, như thế mới được xác nhận là thiện xạ chứ!
-*** Võ nghệ thuộc hàng cao thủ, thượng thừa; cả Bà Ánh cũng không phải tầm thường !(Lại) nghe kể lúc trẻ (chắc lúc Ông còn cấp Uý ) hai Ông Bà vào Hồ tắm Chi Lăng bên Gia Định, có mấy tên Cao bồi chọc ghẹo và ném nắp chai bia vào người, thật không ngờ với vóc dáng đào tơ liễu yếu mà một mình Bà đã ném 4, 5 tên du đảng xuống hồ tắm!!! Sau nầy khi Ông làm KĐT ở Bình Thuỷ sáng sớm hai Ông Bà đều ra sân Tennis tập kiễu vỏ gì mà trông rất nhẹ nhàng như rồng bay phượng múa vậy! Trong một bữa chủ toạ xem biểu diễn vỏ thuật Đại Hàn và Judo, Vovinam… có anh T N Đ đã có đệ nhị đẳng huyền đai Tai- won- đo biểu diễn sao đó, mà nghe Bà nói nhỏ bình phẩm: anh Đ có ham mê vỏ nghệ, nhưng mà thiếu căn cơ!
Còn Ông, lúc còn làm Chỉ huy trưởng Phi đoàn, cấm cờ bạc; mà mấy cha Sĩ quan và HSQ thường hay trốn vào phòng bỏ trống đánh bài, khi Ông đứng chận cửa là không có... ma nào dám chạy ra trốn tránh cả!!! rồi sau Ông có bắt nhân viên đơn vị chiều chiều ra học vỏ Thiếu Lâm do Ông dạy nữa, cũng vui!
Về sau (cũng) nghe Ông cùng học chung hay được Đ/tá Chức (bên Pháo, Bộ binh) truyền lại môn vỏ gì mà để mấy ngọn đèn cầy từ xa, đánh một phát hơi gió làm tắt phụt đèn và Ông để bàn tay trên thau nước vận công làm cho mặt nước chao lên, kiểu như “Đả ngưu cách không” trong truyện Kiếm Hiệp!
Đó là những gì tôi nghe từ những người đứng đắn, đáng tin cậy kể lại nên tui cũng ghi ra cho chư vị biết thôi, chứ tôi không có cái may chứng kiến tận mắt thì làm sao dám bảo đảm đúng 100% được , phải không ??
-*** Về bay bổng Ông Ánh đúng là bậc sư trong nghề Trực Thăng. Lúc xưa khi bay huấn luyện để nâng cấp cho các hoa tiêu trong Phi Đoàn, ông thường dợt và dạy cho đám pilot học trò làm auto nhiều kiễu lắm (xin giải thích cho quý vị khác ngành biết, auto là nói tắt chữ autorotation là tự động quay, nghĩa là coi như máy tắt, máy bay rớt, hoa tiêu khéo léo điều khiển máy bay dựa vào cánh quạt còn đang quay làm sao mà đáp được trên mặt đất an toàn) nên auto coi như môn vỏ Trấn Sơn của dân Trực thăng, ngón nghề ruột để phòng thân! Trong buổi họp PĐ hằng tuần Ông thường nhắc nhở các anh em khi đi bay về, nên dợt làm auto vài cái cho nó quen, cho nó nhuần nhuyển!!! Riêng Ông hay dợt và làm cú auto như thế nầy: bay ở độ cao 500 600 feet (càng thấp càng khó) trên một miếng ruộng ô vuông, càng nhỏ càng tốt cho sự chính xác, đang bay cỡ 80 knots, giảm tốc độ lại còn 0 = Zero knot ngay trên miếng đất nhỏ ấy, rồi cúp ga coi như máy tắt, nhanh nhẹn chúi đầu lấy tốc độ, rồi flare cho máy bay đứng lại và rớt ngay chóc trên thẻo ruộng nhỏ ấy là ăn tiền! Thiệt là… hết sẩy, khi máy bay nằm trong tay Ông cứ êm ái nhẹ nhàng, dễ bảo như một cừu non!! Nếu pilot mà lão luyện trong việc nầy ; lúc đang bay độ cao vài ngàn bộ (hoặc cao hơn còn dễ, càng ngon nữa) trên một cánh rừng già, bị máy tắt, thì chỉ cần nhìn thấy một lổ nhỏ nào đó là pilot ấy có thể dư sức thảy lổ, nghĩa là đưa máy bay vô cái lỗ đó dù có… “bót” một chút cũng chả sao, và vẫn sống hùng sống mạnh như thường!!
Trên đây coi như những món... ăn chơi về Ông mà thôi! Chứ theo tôi đây mới là những… “ tinh anh lộ ra ngoài” của một vị Tướng!
Từ lúc còn là KĐT ở Bình Thuỷ, tôi để ý nhận thấy Ông Ánh thường giải quyết mọi chuyện dù nhỏ nhặt, đến nơi đến chốn. Theo lệ thường mỗi sáng Ông thường chủ toạ một buổi họp tại Liên Đoàn tác chiến, sau khi nghe báo cáo tình hình thời tiết và quân báo, kế đến là một sĩ quan của một phi đoàn nào đó lên nói một đề tài (có lẽ tập cho sĩ quan quen ăn nói trước đám đông?) và sau đó đưa ra một biện pháp giải quyết, hay thắc mắc đều được Ông giải đáp thoả đáng, hoặc chỉ thị cho phần sở liên hệ thi hành và Ông có theo dỏi kiểm tra giám sát đàng hoàng.
- Chỉ có Ông mới là cấp chỉ huy đầu tiên hiểu và lo vấn đề cơm nước cho Trực Thăng. Các anh bay fixed wing thường xong một phi vụ là về nhà , hoặc vô Câu lạc bộ ăn uống nghỉ ngơi. Còn hợp đoàn Trực thăng bay đổ quân hàng chục chiếc, có khi phải bay liên tục không nghỉ từ sáng đến chiều tối (hành quân trực thăng vận, diều hâu) và làm gì có đủ xe để chở 4 , 5 chục mạng ra phố ăn cơm; nên Ông có sáng kiến: C.L.B hằng ngày phải lo cơm nước cho vào gà-men, đến trưa có một chiếc tàu mang cơm đến cho đoàn đổ quân .Việc ấy giúp cho anh em Trực Thăng khỏi phải cơm hàng cháo chợ thất thường, có thời gian ăn uống nghỉ ngơi !
- Sau khi kiểm tra và tính tóan, Ông dám cam đoan, bảo đảm cung ứng đủ nhân viên đi hành quân , nên hằng tuần Ông có cho 1 tàu chở nhân viên “OFF ” được về Sài gòn thăm nhà và cứ tuần tự thay phiên như vậy
Phải nói thẳng rằng Ông là một cấp chỉ huy của KQ , thông cảm, có thấu hiểu đến việc làm của Trực thăng, biết nuôi, dưỡng và xử dụng quân!!
--- Quý anh em bay fixed wing ít khi có va chạm với bộ binh, ngoại trừ việc thả bom trật, hoặc lầm vào quân bạn là bị kiện cáo lôi thôi... chứ còn Trực thăng làm việc chung đụng hằng ngày với quân bạn nên có… rất… rất nhiều cái phiền phức lắm, mà mấy Ông Bự bên Bộ binh coi Trực thăng như một công cụ chỉ biết “xài” mà thôi! Có vài vụ Ông Ánh khi hiểu rõ phải trái và phức tạp của vấn dề; dám đứng ra bảo vệ đàn em tận lực để khỏi bị mấy Ông Gộc đưa ra toà án mặt trận!!
Có một chuyện nho nhỏ mà tôi còn nhớ lúc Ông còn là Trung Tá KĐT 74CT , có vài lời than phiền của dân Trực Thăng đến tai Ông về việc phải bay ra sân vận động Cần Thơ nằm chờ , túc trực cho Ông Tướng Vùng từ sáng đến chiều có khi không bay, mà Phi hành đoàn cứ nằm ỳ trên tàu; đến trưa đi ăn mà cũng vội vàng, cũng ngán sợ rũi ro Ông Tư lệnh ra đi bay mà không có mặt ở đó là kẹt lắm…
Một hôm cũng phi vụ như vậy, Ông Ánh làm Trưởng phi cơ, còn tôi là Copilot , đem 1 UH ra sân vận động Cần Thơ nằm chờ, cỡ ½ giờ sau Ông Tướng Tư Lệnh Vùng ra, chúng tôi đứng nghiêm ở cửa máy bay chào Ông Tướng, viên Sĩ quan Tuỳ viên nói nhỏ với Ông Tướng là có Ông KĐT /KQ đi bay hôm nay. Ông Tướng chào lại, chỉ liếc mắt không nói gì và leo lên tàu , bay đến Cao Lãnh, Ông Tướng lên xe đón đi , mà không nghe để lại lời nào cho Phi hành đoàn biết phải chờ bao lâu, đến giờ nào…! Chúng tôi lại nằm chờ hơn 2 giờ sau mới chở Ông Tướng bay về Cần Thơ!
Sau đó Ông Ánh kết luận :
- Ông nầy quan liêu quá! và quyết định là khi nào Ông Tướng cần máy bay thì gọi xin theo thủ tục, lúc ấy PĐ mới cho thi thành phi vụ đó, chứ không có cái kiễu cung cấp một chiếc ra túc trự , ăn dầm nằm dề suốt ngày ngoài đó nữa!
Nhờ vậy mà tình trạng có cải thiện và được duyệt xét lại, và đó cũng là cái tiền đề mở đầu cho các Tư Lênh Vùng khác có được biệt phái riêng một Trực Thăng hằng ngày và các bác tài Trực Thăng được cư xử, đối đãi… “phải quấy” hơn!
Đó là vài điểm lặt vặt của Ông Ánh, thoạt nghe tưởng chừng như rất tầm thường, nhưng đó lại là một đặc tính cần có của vị Tướng, không xa rời cách biệt mà vui khổ trong cái vui khổ của lính! Lối hành xử và việc làm của Ông thấy khác hẳn với mấy Ông đã mang Sao rồi!
Mãi đến khi lên làm Sư Đoàn Trưởng, quân nhân mọi cấp từ thấp đến cao cũng không hề than phiền chê trách Ông gì hết, mà chỉ nghe khen và khen với kính nể thôi! Tài năng và bản lãnh nắm một Sư Đoàn phải ra sao mới được Mỹ tưởng thưởng một Huy chương cao quý vào bậc nhất năm 1969 chứ! Tóm lại, nhìn lên nhìn xuống, nhìn ra nhìn vào, so sánh các vì sao; tôi thấy Tướng Nguyễn Huy Ánh sáng chói và đáng nể phục về tư cách, đức độ và tài năng hơn cả!!
Đến đây chắc quý huynh đệ cũng nóng lòng sao thấy tôi cứ lòng vòng hoài, còn... “vụ… ngán tui” muốn chạy… làng sao đây??
Ờ .. ờ như vậy thì phải giáo đầu sơ vài hàng về chiếc máy bay H34 mới được vì nó là chứng nhân và có liên hệ vụ nầy. So ra giữa H34 và UH , thì phải nói bay H34 nó mệt hơn và hay, dở là ở cái tay ga! Cần tay ga nằm bên trái và vặn lên xuống giống như xe gắn máy vậy . Nó được chỉ trên cái đồng hồ RPM, gồm có 2 kim chỉ: engine RPM và Rotor RPM. Khi bay lên, xuống, hoặc đáp, chở nặng phải diều chỉnh lia lịa bằng cách vặn ga lên xuống và đè cần hoặc nhấc lên làm sao cho 2 kim RPM dính với nhau và nằm ở mức ấn định, để khỏi bị over boost (hư máy) hay over speed (hư rotor). Cho nên khi pilot bay chung với nhau; chỉ cần liếc nhìn vào cái đồng hồ nầy khi đáp hoặc chở nặng cất cánh là biết ông pilot đó hay, dở liền hà!
Nghe thấy đơn giản vậy, mà cũng tức cười là có một đàn anh, khi bay bình phi không biết đang mơ màng hay thả hồn thơ thẩn thế nào mà bị over boost (nghĩa là tay cứ nhè nhẹ nâng cần ga lên hoài, vượt quá manifold pressure [ =torque bên UH] cho phép, mà không màng để ý đến kim engine tuột xuống)…Kể ra thì hơi…..bị tệ thiệt đó!
Nhớ lại, tôi về trình diện PĐ 211 (H34) Thần Chuỳ đóng tại TSN, do Ông Thiếu tá Ánh là Chỉ huy Trưởng PĐ . Mấy tháng sau tôi được Ông Thầy Ánh bay huấn luyện, Ông ngồi ghế trái, tôi ghế phải và vùng huấn luyện ở Phú Lâm! Sau hơn một giờ bay tập đáp, cất cánh, làm auto ….vv.. về đáp tại parking Heliport.
Tắt máy bằng cách cúp ga, vặn tay ga về phía phải, đồng hồ RPM cho thấy 2 kim tách ra, kim engine RPM từ từ rớt xuống, máy nổ nhỏ ; còn kim Rotor Rpm cũng rớt xuống, cánh quạt quay chậm lại, cần hoà khí Mixture kéo về giữa vị trí Idle, chờ máy nổ về ở mức “ralenti” kéo mixture về “Off” , tắt điện là xong, cánh quạt còn trớn quay chậm... mặc kệ nó!
Ngay lúc chờ máy về ralenti đó, Ông Ánh xách nón bay, leo ra cửa để xuống còn tôi ngồi đó làm thủ tục tắt máy như lệ thường . Tôi nóng ruột muốn cho máy về ralenti cho lẹ thay vì vặn ga về phải một lần nữa; mà không biết “Ông bà” , “ Cô cậu” gì nhập , “hay bị … gì bắt” tôi lại vặn ngược ga về trái, máy rú lên!! Phải công nhận lẹ thiệt, nghe một cái rột đã thấy ông Ánh ngồi yên vào ghế, Ông Thầy la:
- Cái gì vậy??
- Dạ, bị lộn mép!
- Đừng lộn vậy chớ!
Ổng lại leo xuống và tôi ngồi đó vừa tức cười vừa xấu hổ. Vào phi đoàn Ông briefing những điểm còn non yếu trong lúc bay tập chứ Ông không đá động gì cái … “lần lộn” của tôi hết! Dẩu sao đó cũng là một kỷ niệm, tôi làm ông giật mình, và tôi nhớ mãi đến ông Thầy!
Rồi lần bay huấn luyện tiếp theo, qua kinh nghiệm trên, chắc ông cũng còn... ngán tui, nên khi về đáp tắt máy, ông vẫn ngồi chờ máy hết nổ rồi hai Thầy trò mới leo xuống khỏi máy bay!
Và những lần bay huấn luyện sau đó, chắc ông cũng để tâm, coi chừng hơn vì ông cũng… ngán hành động “sảng” của tôi, không biết đâu mà lường trước được!
Đấy tôi có nói ngoa đâu! Đến đây chắc có vài vị nói thầm trong bụng: bố khỉ đúng là nghich (ngợm) nhỉ, làm ta cứ tưởng…!
Thay lời kết:
Thưa quý vị bạn đọc, qua bài viết khá dài thêm những “râu ria” vòng vo nhưng tựu chung một mục đích là đến giờ đây chúng ta cần ghi lại, cần nói ra những sự thật đáng kính phục, về những người anh hùng, tài ba thật của dân quân miền Nam để cho những thế hệ mai sau thấy và họ đừng lầm lẫn, lạc vào mê hồn trận tuyên truyền của Cộng Sản đa ngôn xảo trá; đang dành lấy và cho rằng chỉ có họ mới giỏi, hay, đẹp mà thôi!
Tôi tin rằng anh linh của Tướng Ánh thấy được tấm lòng và thành ý trong sáng của tôi sẽ mỉm cười tha thứ cho kẻ bất tài, dùng xảo thuật mượn danh của Ông để lôi kéo sự chú ý của người khác và tôi cũng tin rằng chư hiền huynh, hiền đệ đang mài dao định... “xẻ ” tôi vì tội dám lộng ngôn, phạm thượng uy danh của một vị Tướng khả kính; đến phút nầy cũng thấy hiểu ra và phì cười ném dao đi, thay vào đó cầm bút viết bổ túc những điểm kỳ tài của Ông Ánh mà quý huynh đệ đã gặp, thấy! Mong thay!
NGHICH-NHI
10/2007
- Details
- Category: Truyện VNAF
- Hits: 183

Tưởng nhớ cố Đại tá PHẠM PHÚ QUỐC (1935-1965)

Cách đây đúng 60 năm, ngày 19 tháng 4 năm 1965, Trung tá Phạm Phú Quốc, nguyên Chỉ huy trưởng tiên khởi Phi Đoàn 518 Phi Long, Tư lệnh Không Đoàn 23 Chiến Thuật, CCKQ Biên Hòa, đã anh dũng hy sinh trong một phi vụ Bắc phạt do ông hướng dẫn.
Chúng ta hãy cùng nhau thắp một nén hương lòng tưởng nhớ một người hùng của Không Quân VNCH, một cấp chỉ huy tài ba, một hoa tiêu khu trục xuất chúng.
Nguyện cầu hương hồn ông được thảnh thơi nơi cõi vĩnh hằng.
ĐỌC THÊM:
Phi vụ Bắc phạt ngày 19-4-1965
(cựu Phi Long Trần Mạnh Khôi ghi lại)
Nhiệm vụ phi vụ tuần thám võ trang do Trung Tá Quốc huớng dẫn là bay dọc Quốc Lộ 1 từ Hà Tĩnh vào Nam nếu gặp những quân xa, trại lính thì cứ việc tấn công tiêu diệt chứ không có những mục tiêu nhất định... Phi vụ bay ra Bắc ngày 19 tháng 4 năm 1965 do Trung Tá Quốc dẫn là phi vụ tuần thám võ trang đầu tiên của KQVNCH và cũng là phi vụ Bắc phạt chính thức và cuối cùng của KQVN, tuy nhiên sau đó các phi công của Biệt Đoàn 83 vẫn thi hành những phi vụ bay ra Bắc.
Hôm đó bay từ Biên Hòa ra Đà Nẵng gồm có 6 phi cơ A-1H. Sau khi đáp tại Đà Nẵng, Ông Quốc cho chúng tôi ra Câu lạc bộ ở Phi cảng Đà Nẵng ăn cơm, còn Ông thì về nhà ăn cơm trưa với bà Cụ. Khoảng 1 giờ trưa thì Ông lái xe vào đón chúng tôi về Phòng Quân Báo/ KĐ 41CT để nghe thuyết trình. 6 phi cơ đã được chia ra như sau:
- Phi tuần nặng được trang bị bằng bom nổ, rocket, đại bác 20 ly :
1- Tr/ Tá Phạm Phú Quốc: quyền Tư Lệnh KĐ 23 CT
2- Th/ Úy Nguyễn Đức Chương - PĐ 518
3- Đ/ Úy Đặng Thanh Danh - Chỉ huy Phó PĐ 518
4- Th/ Úy Trịnh Bửu Quang - PĐ 518
- Phi tuần hộ tống được trang bị rocket và đại bác 20 ly :
1- Đ/Úy Chế văn Nghĩa - Chỉ huy Trưởng PĐ 514
2- Th/ Úy Trần Mạnh Khôi - PĐ 518
Sau khi cất cánh và vừa tập họp để check lẫn nhau là tới Mỹ Khê, thế là Ông Quốc ra lệnh xuống thấp, chúng tôi đã bay sát mặt nước, dọc theo bờ biển, đến phía Nam Hà Tĩnh thì lấy hướng Tây bay vào đất liền, rồi bay dọc theo Quốc Lộ 1 xuôi Nam. Cả 2 phi tuần đều bay ở vị thế chiến đãu và bay rất thấp (khoảng 50 feet trên mặt đất) để tránh radar.
Khoảng chừng 5 phút sau thì Quang la lên là số 4 bị bắn, thế là Ông Quốc vừa múc lên quay lại 180 độ và bắn rockets xuống địch quân, thì lúc đó Số 1 trúng đạn phòng không nổ và cháy trên cao độ khoảng hơn 1000 feet (đây là lời của Nguyễn Đức Chương, tôi không thấy vì lúc đó phi tuần hộ tống còn ở xa và kinh nghiệm chưa có nên cứ mải bay theo leader và nhìn quanh).
Mọi người trong phi tuần la lên là Số 1 bị bắn rơi, lúc đó Anh Nghĩa ra lệnh cho Anh Danh dẫn Số 2 và 4 ra biển tất cả phi cơ jettison bom và rocket ở ngoài biển và hướng về Nam. Lúc đó Anh Nghĩa dẫn tôi bay gần vào check phi cơ của Quang: phi cơ trúng đạn khá nặng, đầu wing tip của cánh phải bị bắn văng mất tiêu, có một lỗ khá to gần sát aileron.
Tôi còn nhớ là Quang bay nghiêng qua nghiêng lại thì Anh Nghĩa bảo là phải bay cẩn thận, quẹo (bank) từ từ thôi, đừng quẹo gắt nguy hiểm!
* * *
Tìm mộ PHẠM PHÚ QUỐC
Sau khi cuộc chiến kết thúc, việc tìm hài cốt của cố Đại tá Phạm Phú Quốc đã được sự giúp đỡ của Đại tá sử gia Phạm Quế Dương, một sĩ quan phòng không của quân đội Bắc Việt (sau này bị loại khỏi Đảng).
Theo chính quyền huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh được biết xác phi công Phạm Phú Quốc đã được chôn cất bởi dân chúng với quan tài chu đáo với bia ghi "Mộ ông Phạm Phú Quốc".
Tuy được chôn cất cẩn thận nhưng một thời gian dài không người trông nom nên đã mất dấu tích. Đại tá Phạm Quế Dương đã giới thiệu cho gia đình Phạm Phú Quốc một người chuyên tìm hài cốt thất lạc : Ông Đỗ Bá Hiệp nổi tiếng có khả năng ngoại cảm (Telepathy) đã cùng gia đình về vùng Cồn Cổ, Hà Tĩnh để tìm di hài phi công Phạm Phú Quốc.
Dưới đây là bài tường thuật của ông Phạm Quế Dương:
Năm 1990 gia tộc anh Quốc từ miền Nam ra Hà Tĩnh tìm xin hài cốt anh ấy đưa về quê ở Quảng Nam. Nhưng các cơ quan tỉnh, huyện, xã ở đây chỉ có thể xác nhận trong văn bản: "hài cốt của ông Phạm Phú Quốc đã được tỉnh đội Hà Tĩnh và huyện Thạch Hà cất bốc, trong khi cất bốc đều có quan tài chôn cất chu đáo. Cơ quan quân sự huyện Thạch Hà đã nhất trí vối gia đình Phạm Phú Quốc: "khi truy tìm được nơi chôn cất cụ thể sẽ thông báo sau".
7 năm sau -1997- được biết có ban liên lạc giòng họ Phạm trong UNESCO có thông tin nhờ ban liên lạc giúp đỡ. Tôi là thành viên trong ban liên lạc giòng họ Phạm được giao làm việc này...
Tháng 5-1997, ban liên lạc đã gửi văn bản tới các cơ quan chính quyền tỉnh Hà Tĩnh giúp đỡ việc xác minh địa điểm chôn cất anh Phạm Phú quốc. Sự việc vẫn yên lặng. Tháng 9 -tháng 12-1997 ban liên lạc gửi liên tiếp hai văn bản tới các cơ quan tỉnh Hà Tĩnh và cả Đoàn Đại Biểu Quốc Hội tỉnh Hà Tĩnh. Tháng 2, 3, 4-1998 ban liên lạc được các cơ quan xã, huyện tỉnh Hà Tĩnh trả lời hoàn toàn tán thành và ủng hộ việc tìm hài cốt phi công Phạm Phú quốc. Song thật sự chỉ biết mộ anh Phạm Phú Quốc đã được dời về nghĩa trang Cồn Cổ. Do thời gian quá lâu mộ thất lạc không xác định được nơi chôn cất cụ thể.
Ngày 01-5-1998 tôi và một anh bạn nhà báo vào Hà Tĩnh, được sự giúp đỡ tích cực của báo giới Hà Tĩnh, chúng tôi gặp các cấp. Họ đều tiếp chu đáo, thành thật trình bày sự việc như trên. Chúng tôi ra nghĩa trang Cồn Cổ mênh mông, bao nhiêu là mộ và không ai biết được mộ anh Quốc ở đâu. Chúng tôi xin phép địa phương mời ông Đỗ Bá Hiệp, một nhà ngoại cảm nổi tiếng đã giúp tìm mộ bao người thất lạc, giúp cho việc này. Họ nhất trí.
Ngày 07-5-1998, ban liên lạc đã thảo văn bản mời ông Đỗ Bá Hiệp, đồng thời báo cáo địa phương. Ông Đỗ Bá Hiệp nhận lời. Được tin ngay ngày hôm sau, 08-5-1998, bà chị anh Phạm Phú Quốc đã 83 tuổi cùng cháu gái bay ra Hà Nội gặp ô. Đỗ Bá Hiệp.
Sáng 11-5-1998, tôi làm liên lạc đưa ông Đỗ Bá Hiệp và ông Doãn Phú, nhà địa lý thân quen ô. Hiệp cùng bà chị, cháu gái anh Phạm Phú quốc vào Hà Tĩnh.
Sáng hôm sau, 12-5-1998, ra nghĩa trang Cồn Cổ. Chúng tôi nghĩ ông Đỗ Bá Hiệp sẽ vào bên trong nghĩa trang, nhưng ông chỉ đi trên đường bên ngoài nghĩa trang. Khi ông nhìn lên trời cao, lúc ông nhìn xuống như nhìn cái gì đó sâu trong lòng đất. Chúng tôi vẫn đi theo phía sau ông. Bỗng ông rẽ vào phía đường bên kia nghĩa trang, một vùng đất rộng lồi lõm sát với ruộng nước và dừng lại chỉ xuống một chỗ đất bằng phẳng. Ông bảo : "Mộ anh ấy ở đây. Bên mô cát bên phải này hai bước, bên hố nước bên trái này một bước. Chú ý đánh dấu để khỏi lẫn. Đến ngày 10-10 ta mới được bốc." Một lát sau ông lại bảo : "số lính của anh ấy là số 0 gì đó rồi 4, hai số cuối cùng là 65 hay 56." Theo thói quen tôi ghi số hiệu trên vào tờ carte visite vì không mang theo sổ tay.
Ra về, khoảng nửa tháng sau tôi nhận được điện thoại gia tộc anh Quốc nhờ tìm hộ số quân của anh Quốc. Tuy nhận lời nhưng không biết tìm ở đâu. Mấy hôm sau tôi sang thư viện báo Quân Đội Nhân Dân nhờ lục tìm trong báo cũ. Trong số báo QĐND ngày 22-4-1965 tả việc máy bay anh Quốc bị bắn rơi, viết cụ thể : "Phạm Phú Quốc chứng minh thư số 007. 455 cấp 01-12-64 tư lệnh đoàn máy bay khu trục số 23, tư lệnh sân bay Biên Hòa, quân hàm trung tá ". Thật kỳ lạ ! thông tin của ô. Đỗ Bá Hiệp về số lính với số chứng minh thư của anh Quốc ghi trong báo gần giống nhau đến thế!
Ngày 09-10 Âm Lịch tức 27-11-1998 , ông Đỗ Bá Hiệp bận không vào Hà Tĩnh được, nhưng ông đã hướng dẫn tỉ mỉ việc đào tìm mộ. Tôi nhờ nhà tôi cùng đi với cháu gái anh Quốc vào lo việc này. Nhà tôi vốn rất thành tâm nên sẵn lòng giúp đỡ như việc nhà. Ngay chiều tối hôm đó, vào xã Thạch Trung. Chúng tôi xin phép địa phương và họ đã giao cho đội phục vụ nghĩa trang lo việc bốc mộ sáng sớm hôm sau.
Sáng hôm sau trời vẫn mưa, phải làm lều che nơi bốc mộ. Đào sâu gần nửa thước không thấy gì đã lo. Nhưng may sao chỉ thêm vài nhát xẻng nữa là một vũng nước đen rồi thấy Cốt hòa lẫn trong đất bùn. Đúng như địa phương nói từ năm 1976 hài cốt anh Quốc dời chuyển từ trong làng ra đây, cốt để trong tiểu gỗ và đã hơn 20 năm tiểu gỗ không còn chỉ còn xương cốt. Xương cốt anh Quốc được bới tìm chu đáo, rửa sạch bằng nước thơm rồi đặt vào tiểu quách. Bà con đến xem khá đông cùng thắp hương viếng Anh...
Ngay chiều hôm đó 28-11-1998. Hài cốt phi công Phạm Phú Quốc được đưa về quê quán, chùa Phước Lâm, thị xã Hội An tỉnh Quảng Nam...
Mộ anh Phạm Phú Quốc đã được xây cất nghiêm trang với bia đá khắc hình và tên tuổi Anh cùng những hàng chữ đầy nghĩa tình với Người đã khuất."
Phạm Quế Dương

- Details
- Category: Truyện VNAF
- Hits: 267

Tháng tư đen 1975. Thoáng mà đã hơn bốn thập niên trôi qua ! Từ tháng 3 năm 75 , cộng quân mở rộng chiến tranh. Ngày 13 tháng 3 Ban Mê Thuột thất thủ, kéo theo Quảng Trị và Huế mất ngày 26 tháng 3, sau đó Đà nẵng , ngày 29 tháng 3 rồi đến Nha Trang lọt vào tay CS ngày 1 tháng 4. Ngày 16 tháng 4 năm 1975, tuyến đầu Phan Rang thất thủ, phần lớn phi cơ A-37 đã được bay về đồn trú tại phi trường Tân Sơn Nhất. Các diễn biến ấy như báo trước sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hoà khi mà người đồng minh lâu đời đã trở mặt quay lưng. . .
____________________________________
Buổi chiều ngày 28 tháng 4, như thường lệ sau khi thi hành xong phi vụ hành quân, chúng tôi phóng ra cổng dùng cơm chiều, sau đó trở vào phòng trực hành quân để túc trực đêm. Bốn người chúng tôi: Thi, Chấn, Nhân và tôi đèo nhau trên 2 chiếc xe Lam, vừa vào đến cổng bổng nghe tiếng gầm thét của phản lực cơ đang oanh kích. Một vài cụm khói đen bốc lên từ nơi bến đậu phi cơ vận tải. Chiếc phi cơ A-37 cuối cùng vừa thả bom xong đang vội vả kéo lên và đuổi theo đồng bọn đang lấy hướng Đông Bắc. Tôi nghĩ thầm: “nếu giờ nầy mà các cánh gió siêu thanh phóng lên thì tụi nầy chắc là sẽ nguy to”. . . nhưng chờ đợi mãi vẫn không thấy động tĩnh gì, thế là cả bọn giặc đã thoát nạn.
Chúng tôi phóng nhanh vào phòng hành quân để tìm hiểu xem việc gì đang xảy ra, phi cơ xuất xứ từ đâu? phi đoàn nào? Loại trừ phi cơ thuộc KĐ92CT của chúng tôi, thì chỉ còn có phi đoàn 532 Gấu Đen và các phi đoàn 520 Thần Báo, 526 Quỷ Vương và 546 Thiên Sứ đang trú đóng ở Bình Thủy (Trà Nóc).
Sau khi liên lạc với Phòng Hành Quân Chiến Cuộc SĐ4KQ thì họ xác định là không có một phi tuần A-37 nào cất cánh. Như vậy thì 5 phi cơ A-37 nầy xuất phát từ đâu? Không thể cất cánh từ Phù Cát hay Đà Nẵng (vì quá xa không đủ nhin liệu để đi và về). Chắc chắn là xuất phát từ phi trường Phan Rang. . . . . .
Mãi sau nầy, qua các báo chí thông tin của CS ta được biết 5 phi cơ đó thuộc Phi Đội Quyết Thắng mà biên đội trưởng do tên Nguyễn Văn Lục (bay số 3) chỉ huy toàn bộ, Nguyễn Thành Trung chỉ có nhiệm vụ bay dẫn đường.
- Số 1: Nguyễn Thành Trung
- Sồ 2: Từ Để (con trai của Từ Giấy)
- Số 3: Nguyễn Văn Lục (chỉ huy)
- Số 4: Mai Vượng (chết tháng 7 năm 1975 trong 1 phi vụ huấn luyện) và tr/úy Trần văn Ơn (phi công KQVNCH).
- Số 5: Hán Văn Quảng
*****
Buổi tối, chúng tôi đang ngồi uống càphê trong phòng trực hành quân thì Đại tá Lê Văn Thảo (KĐT/KĐ92CTKQ) bước vào. Ông gọi:
- Thi, Chấn, Tứ và Liễn vào văn phòng gặp tôi.
Chúng tôi vào văn phòng, Đại tá Thảo trao cho anh Thi bản phi lệnh hành quân và ông nói ngắn gọn:
- 5 phi cơ A-37 oanh kích buổi chiều là xuất phát từ phi trường Phan Rang. Không Đoàn 92 chúng ta phải thi hành phi vụ trả đủa đánh vào phi trường Phan Rang đêm nay: phi cơ mang bom nổ sẽ đánh vào bải đậu phi cơ và phi đạo còn phi cơ mang CBU-55 sẽ đánh vào Bộ Chỉ Huy của chúng (nghi ngờ là đang đóng ở 2 “trailers” cuối phi đạo. Phi trường Phan Rang giờ đây là nằm trong tay địch, hoả lực và phòng không của địch ta không rõ, do đó các anh phải rất là cẩn thận và phải thích nghi trong mọi tình huống, chủ yếu là an toàn tối đa.
Khi ông ra khỏi phòng họp, anh Thi bảo:
- Chấn mầy đi lead
- Liễn bay số 2
- Tao bay số 3
- Tứ bay số 4
Sau đó Th/tá Chấn thuyết trình sơ lược phi vụ:
- Danh hiệu phi tuần là Phong Giao, check in và di chuyển tần số 1, cất cánh tần số 2, Paris tần số 3, làm việc tần số 6. Họp đoàn cất cánh từng 2 chiếc, tập họp hướng 060, bình phi 19,500 bộ, họp đoàn hành quân (tactical formation) trực chỉ thành phố Phan Rang, 1 và 3 tắt “beacon” chỉ để đèn wing tip “dim”, 2 và 4 tắt tất cả đèn. Đến Phan Rang, chúng ta sẽ bay dọc theo sông Danh, khi đến mục tiêu, phi tuần sẽ dãn ra ở họp đoàn chiến đấu (combat formation), lần lượt tấn công vào mục tiêu đã định. Giải toả hướng nam, lấy hướng 210 , tập họp cao độ 20,500 trở về căn cứ xuất phát.
Mọi người nhận rõ và lấy dù mũ, sẳn sàng xuất phát.
*****
Chuông điện thoại reo vang. . .
- Alo, th/tá Chấn nghe.
- Thưa Th/tá, tôi là tr/sĩ Cơ, phi đạo A-37, xin báo cáo Th/tá các phi cơ đã trang bị sẳn sàng.
- Cám ơn anh, chúng tôi sẽ ra phi cơ ngay.
Chiếc xe Van đưa chúng tôi ra phi cơ. Bốn phi cơ A-37 đen sì, dưới cánh nặng trĩu bom đạn. Tôi kiểm soát bom đạn dưới cánh, cánh gió, cánh đuôi, xong phóng nhanh vào phòng lái, nai nịt, đội mủ, gắn ống dưởng khí, ra dấu gắn APU (Auxiliary Power Unit) để mở máy. Cơ trưởng gắn APU vào, đẻn phi cụ trong phòng lái sáng rực. Cơ trưởng xoay ngón tay trỏ ra hiệu mở máy, tôi gật đầu hiểu ý. Tôi mở máy trái xong rồi máy phải. Hai máy đã khởi động tốt, tôi ra dấu hiệu rút APU.
Tôi check sơ các phi cụ, mở máy truyền tin lên. Một phút sau nghe trên tần số vô tuyến:
- Phong Giao, thử vô tuyến!
- 2!
- 3!
- 4!
- 1 nghe 2, 3, 4! 5 trên 5.
- Đài Kiểm Soát Tân Sơn Nhất, Phong Giao gọi!
- Tân Sơn Nhất nghe Phong Giao!
- Tân Sơn Nhất, đây Phong Giao xin di chuyển và cất cánh 4 phi cơ A-37!
- Phong Giao, Tân Sơn Nhất nhận rõ, cho phép di chuyển và cất cánh đường bay 25, gió hướng. . . mạnh. . . liên lạc tần số 2 để cất cánh.
- Phong Giao nhận rõ!
Bốn phi cơ A-37 âm thầm di chuyển đến cuối phi đạo, Phong Giao 1 ra lệnh:
- Phong Giao, tần số 2
- 2!
- 3!
- 4!
- Phong Giao thử vô tuyến!
- 2!
- 3!
- 4!
- Đài Kiểm Soát, Phong Giao sẳn sàng cất cánh!
- Phong Giao, đây là Đài Kiểm Soát cho phép bạn cất cánh.
- Phong Giao hiểu!
Phi cơ 1 và 2 so hàng ngang cánh trên phi đạo, số 1 ra dấu cất cánh. Đẩy tay ga lên 95%, số 1 từ từ nhả thắng. Phi cơ lướt nhanh trên phi đạo. Tiếng gầm thét của các động cơ phản lực xé tan sự tĩnh mịch của đêm, ánh lửa phụt ra từ phía sau động cơ làm tăng thêm vẻ uy nghi của 4 con chim sắt khi rời mặt đất.
- Phong Giao 1, 3 và 4 “airborne”.
- 1 nhận rõ. Phong Giao qua tần số 3.
- 2!
- 3!
- 4!
- Phong Giao thử vô tuyến.
- 2!
- 3!
- 4!
- 1 nghe rõ 2, 3, 4.
- Đài Kiểm Báo Paris, phi tuần Phong Giao 4 phi cơ A-37 cất cánh từ Tân Sơn Nhất, phi vụ đặc biệt, xin cho biết thời tiết hướng Đông Bắc khoảng 120 dậm và xin radar theo dõi!
- Phong Giao, Paris hiểu. Thời tiết hướng Đông Bắc tốt, trần mây. . . , tầm nhìn xa. . . đã nhìn thấy bạn trên màn ảnh radar và sẽ theo dõi!
- Paris! Phong Giao cám ơn bạn!

Phi tuần lấy hướng Đông Bắc, lấy thành phố Phan Rang làm chuẩn, sau đó sẽ bay dọc theo sông Danh, hướng Tây Tây Bắc để oanh kích phi trường Phan Rang theo những mục tiêu đã định.
Đã hơn 2 tuần kể từ sau ngày di tản khỏi Phan Rang, giờ đây mỗi người trong chúng tôi không ai tránh khỏi bùi ngùi khi trông thấy lại thành phồ cũ, những con đường xưa thân yêu và quen thuộc. Trăng sáng vằng vặc thành phố Phan Rang trước mặt đèn đuốc vẫn sáng choang. Tôi nhìn đồng hồ: 12 giờ 30 phút. Đã sang một ngày mới: ngày 29 tháng 4. . .
Th/tá Chấn nghiêng cánh trái bay dọc theo sông Danh hướng về phi trường. Năm phút sau, dưới ánh trăng lờ mờ phi trường hiện rõ hai phi đạo song song (phi đạo 04-22), cuối đường bay là bãi đâu phi cơ A-37 (khoảng hơn 10 chiếc). Trong số phi cơ nầy chắc chắn là phải có 5 chiếc ban chiều đã oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất. Trong đầu tôi chợt thoáng lên một niềm thù hận: mình sẽ cố gắng đập nát tất cả các phi cơ nầy... Đang suy nghĩ vẩn vơ chợt nghe văng vẳng mệnh lệnh của Phong Giao 01:
- Phong Giao sang tần số 6.
- 2,3,4 nhận rõ!
- Phong Giao thử vô tuyến!
- 2!
- 3!
- 4!
- Phong Giao vào đội hình chiến đấu, 1 và 3 đánh vào Bộ Chỉ Huy, 2 đánh vào phi đạo, 4 đánh vào bãi đậu phi cơ,. Tắt đèn khi roll-in. Thả 1 pass interval. Tập họp ở hướng Nam 20,500 bộ.
- 2 hiểu!
- 3 hiểu!
- 4 hiểu!
Tuần tự từng chiếc lao vào mục tiêu. Những đóm lửa loé sáng. . . những tiếng nổ phụ. . . Tôi lao vào mục tiêu nhấm vào bãi đậu phi cơ, tôi bay xuống thấp. 3000, 2500 rồi 2000 bộ. Tôi bấm nút thả bom. . . Tôi kéo vụt phi cơ lên, quay lại nhìn. . . Bốn quả bom nổ, phi cơ bị chao động mạnh, có lẽ tôi xuống quá thấp. . .
Phi trường tối đen không một ánh đèn. Chúng tôi không ghi nhận một hoả lực nào từ dưới đất. Có lẽ bè lủ Nguyễn Thành Trung quá vui mừng vì phi vụ thả bom xuống phi trường Tân Sơn Nhất ban chiều hoặc là vì chúng tôi trả đủa một cách quá bất ngờ nên chúng chưa kịp có phản ứng?. .
Chỉ với 1 phi tuần 4 phi cơ A-37 với hoả lực quá ít oi, phi vụ trả đũa nầy không làm sao xoay trở tình thế, chỉ muốn cho bọn cộng sản biết rằng các phi công khu trục của VNCH sẳn sàng dập tắt những âm mưu xâm lăng của chúng.
*****
Oanh kích xong chúng tôi lên cao độ 20500 bộ, tập họp lại đổi sang tần số 3, báo cáo phi vụ hoàn tất cho Đài Kiểm Báo Paris rồi lấy hướng 210 trực chỉ Tân Sơn Nhất. . . Mọi người giử im lặng trên tần số.
Chúng tôi hạ cánh lúc 1 giờ 15 rạng ngày 29 tháng 4. Vào đến Phòng Hành Quân chưa kịp uống ly cà phê, đã phải tối tâm mặt mủi khi những quả pháo kích của địch rót xối xả vào những phi cơ A-37 đang đậu trên đường di chuyển (taxi way).
Cộng quân tiếp tục pháo kích cho đến sáng, toàn bộ phi cơ A-37 của KĐ92CT hầu như bị phá hủy hoặc hư hại nặng, không còn có khả năng bay được nữa.
Ngày 29 tháng 4, Tân Sơn Nhất vô cùng hỗn loạn, người người xuôi ngược tìm phương tiện thoát thân. May mắn cho thiếu tá Vũ Ngọc Liễn tìm được phi cơ xuống SĐ4KQ và sau đó đã tìm được phương tiện đi Utapao, hiện đang cùng gia đình định cư tại miền nam California.
Riêng cá nhân tôi, Tr/tá Thi và Th/tá Chấn dù có tìm đường lặn lội xuống tới Rạch Giá vẫn không thoát được số “tù”. Rồi cả 3 bị bắt vào trại tù “cải tạo”. Anh Thi (3 lần vô ra trại tù) tổng cộng 13 năm tù, tôi 10 năm rưởi, Chấn 8 năm, ra tù và vượt biên năm 1983, hiện cư trú cùng gia đình tại tiểu bang Florida. Tôi vượt biên năm 1986, đến Mỹ năm 1987 và đang sống với gia đình tại miền bắc California. Anh Thi đi diện HO năm 1992, định cư ở Dallas (Texas). Anh đột ngột mất đi ngày 12 tháng 1 năm 1995 trong nỗi cô đơn nơi xứ người.
Tôi viết lại hồi ký nầy để tưởng nhớ đến anh Nguyễn Văn Thi, một người chỉ huy giỏi, dũng cảm, một người anh và là một người bạn chân thành. Cũng xin gởi đến 2 bạn Chấn và Liễn, những người bạn cùng khóa (63A/SVSQKQ) đã cùng sát cánh bên nhau cho đến ngày tàn cuộc chiến.
KQ Tạ Thượng Tứ
Tháng Tư Đen 2014
*****
Ghi chú: Phi tuần Phong Giao
Số 1: Thiếu tá Nguyễn Phấn Chấn, Phi Đoàn Phó PĐ548 Ó Đen
Số 2: Thiếu tá Vũ Ngọc Liễn, Phi Đoàn Phó PĐ 524 Thiên Lôi
Số 3: Trung tá Nguyễn Văn Thi, Phi Đoàn Trưởng PĐ 534 Kim Ngưu
Số 4: Thiếu tá Tạ Thượng Tứ Trưởng Phòng Huấn Luyện KĐ92CT/Phan Rang
- Details
- Category: Truyện VNAF
- Hits: 306