BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 4)

Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện

 

(tiếp theo)

* Những bộ nhớ thời “khuyết sử”

Như đã viết trong kỳ trước, trong việc biên soạn cuốn QSKQ, khó nhất là Chương I – Việc thành lập KQVNCH.

Khó bởi vì cuốn Flying Dragons của Robert C. Mikesh có nhiều điểm sai, cuốn South Vietnamese Air Force của Jim Mesko khá chính xác nhưng lại quá sơ lược. Trí nhớ của các niên trưởng thuộc hàng “khai quốc công thần” thì nhiều khi lại nhớ... khác nhau! Trước khi bắt đầu công việc, tôi đã có trong tay bài Ngày thành lập Không Quân VNCH của cựu Đại tá Huỳnh Minh Quang, nguyên Tham mưu phó Nhân Viên SĐ5KQ, và bài Các cấp chỉ huy đơn vị đầu tiên của KQVNCH của cựu Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, nguyên Tư Lệnh SĐ6KQ.

Theo lời ông Trần Phước Hội cũng như sự tìm hiểu của riêng tôi, có thể nói bài của viết của NT Phạm Ngọc Sang chính xác tới 99%, nhưng trong đa số trường hợp ông chỉ nhớ năm chứ không nhớ ngày tháng, còn bài viết của NT Huỳnh Minh Quang “rằng hay thì thật là hay...” (vì có nhiều chi tiết) nhưng lại thiếu chính xác về một số mốc điểm thời gian quan trọng.

Điển hình là thời điểm Thiếu tướng Lê Văn Tỵ được bổ nhiệm giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thay Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, và thời điểm Thiếu tá Trần Văn Hổ thay Trung tá Nguyễn Khánh trong chức vụ Phụ tá Không Quân (cho Tổng Tham mưu trưởng).

NT Huỳnh Minh Quang viết:

Rồi một biến chuyển quan trọng đã xảy ra trong QĐVNCH vào tháng 2-1956:
Trung Tướng Lê Văn Tỵ được Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ định thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh ở chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QĐVNCH.

Trong khi trên thực tế, theo cuốn Quân sử QLVNCH – Giai đoạn hình thành và mọi tài liệu chính thức của VNCH, việc này đã xảy ra hơn 1 năm trước đó khi ông Lê Văn Tỵ còn mang cấp bậc Thiếu tướng.

Một cách chi tiết, vào ngày 1 tháng 12 năm 1954, Đại tá Lê Văn Tỵ được Thủ tướng Ngô Đình Diệm thăng cấp Thiếu tướng và bổ nhiệm giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thay thế Trung tướng Nguyễn Văn Hinh.

Nếu tới tháng 2/1956 ông Lê Văn Tỵ mới được Tổng thống Ngô Đình Diệm chỉ định thay thế Trung tướng Nguyễn Văn Hinh thì làm sao ông có thể tới chủ tọa lễ nhận bàn giao CCKQ Nha Trang vào ngày 1/7/1955 như hình ảnh đã ghi lại!


Thiếu tướng Lê Văn Tỵ trong lễ bàn giao CCKQ Nha Trang, 1/7/1955


Từ cái sai nói trên đã dẫn đưa tới cái sai về thời điểm Trung tá Trần Văn Hổ thay thế Trung tá Nguyễn Khánh trong chức vụ Phụ tá Không Quân.

NT Huỳnh Minh Quang viết:

Tiếp theo đó (tháng 2/1956), lệnh của Tham Mưu Biệt Bộ Phủ Tổng Thống (Đại Tá Huỳnh Văn Cao) chỉ thị Văn Phòng Phụ Tá Không Quân gọi Trung Úy Trần Văn Hổ đang phục vụ tại Phi Đoàn Liên Lạc Việt Nam (ELAVN) Tân Sơn Nhất về trình diện Tham Mưu Biệt Bộ Phủ Tổng Thống...

Trong khi trên thực tế, Trung tá Nguyễn Khánh chỉ tạm thời giữ chức vụ Phụ tá Không Quân trong thời gian chưa đầy hai tháng (từ 1/7/1955 tới 20/8/1955) rồi bàn giao cho Thiếu Trần Văn Hổ.

Trước đó một tuần, ông Trần Văn Hổ còn mang cấp bậc Trung úy, làm Biệt đội trưởng Biệt Đội Quan Sát tham gia cuộc hành quân Atlante tiếp thu Quân khu 5 (chứ không phải “đang phục vụ tại Phi Đoàn Liên Lạc Việt Nam Tân Sơn Nhất”như NT Huỳnh Minh Quang viết) thì được Biệt Bộ Phủ Thủ Tướng (lúc đó ông Ngô Đình Diệm chưa làm Tổng thống) gọi về, thăng liền một lúc hai cấp: Đại úy thực thụ, Thiếu tá nhiệm chức, và được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân. (Chú thích 1)

Theo sự suy đoán của tôi, sở dĩ bài Ngày thành lập Không Quân VNCH của NT Huỳnh Minh Quang có nhiều chỗ sai về ngày tháng là vì ông chỉ vận dụng “bộ nhớ” của mình chứ không tham khảo tài liệu của người Pháp, người Mỹ cũng như cuốn Quân sử QLVNCH – Giai đoạn hình thành do Phòng 5 Bộ TTM ấn hành.

NT Huỳnh Minh Quang viết bài này khá sớm, khi chưa có Internet, và hầu như chưa có ai (trong KQVN) viết về lịch sử quân chủng cho nên bài viết của ông đã trở thành một sử liệu hiếm hoi, được nhiều người tìm đọc và tin theo.

Thật ra cũng có một số vị niên trưởng KQ thuộc hàng “khai quốc công thần” nhận những cái sai về thời điểm tôi nêu ra ở trên, trong đó có ông Trần Phước Hội và cựu Đại tá KQ Trần Phước, người cùng học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch với ông Trần Văn Hổ, nhưng ai cũng ngại lên tiếng sửa sai. Vì thế, cho tới nay bài Ngày thành lập Không Quân VNCH của NT Huỳnh Minh Quang vẫn được phổ biến rộng rãi trên Internet mà không có ai làm công việc hiệu đính.

Nhân tiện tôi cũng xin nêu ra những mâu thuẫn trong các tài liệu và “bộ nhớ” của các niên trưởng KQ liên quan tới cấp bậc của hai ông Trần Văn Hổ và Nguyễn Khánh vào thời điểm trên.

Trước hết là ông Trần Văn Hổ, nhiều vị niên trưởng KQ viết rằng ngày ấy Trung úy Trần Văn Hổ được thăng liền một lúc ba cấp: Đại úy thực thụ, Thiếu tá nhiệm chức, Trung tá giả định và được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân (năm 2002 khi biên soạn cuốn QSKQ chính tôi cũng viết như thế).

Tuy nhiên sau này tôi được biết không chỉ có cựu Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang (trong bài Các Cấp Chỉ Huy Đơn Vị Đầu Tiên Của KQVNCH) mà còn có ít nhất một vị niên trưởng KQ khác (tôi không nhớ tên), cũng như một số trang mạng uy tín viết rằng khi được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân ngày 20/8/1955, ông Trần Văn Hổ mang cấp bậc Thiếu tá, sau đó mới được thăng Trung tá.

Sau khi bỏ công tìm hiểu thêm một số tài liệu, tôi đã nghiêng về phía NT Phạm Ngọc Sang và suy đoán diễn tiến sự việc như sau:

Ngay sau khi được triệu về Phủ Thủ tướng, Trung úy Trần Văn Hổ đã được ông Trần Trung Dung, Bộ trưởng Phụ tá Quốc phòng, ký hai nghị định thăng cấp cùng một lúc: Trung úy lên Đại úy thực thụ, Đại úy thực thụ lên Thiếu tá nhiệm chức, và được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân thay ông Nguyễn Khánh; rồi sau đó (rất có thể vào dịp mừng ngày 26/10/1955 - ngày thành lập chính thể Việt Nam Cộng Hòa) mới được thăng cấp Trung tá giả định.

Theo lời kể lại của Đại tá Trần Phước, sau khi ông Trần Văn Hổ được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân, các cấp chỉ huy trong Không Quân được lệnh về Sài Gòn trình diện vị tân chỉ huy thì “Trung úy Trần Văn Hổ đã mặc quân phục đại lễ trắng với cấp bậc Trung tá bước vào phòng họp”.

Rất có thể vì tới lúc đó mới được diện kiến vị chỉ huy, các vị niên trưởng đó cho rằng ông Trần Văn Hổ đã được thăng liền một lúc ba cấp!

* * *

Tiếp theo, nói về cấp bậc của ông Nguyễn Khánh lúc nhận lãnh chức vụ Phụ tá Không Quân (ngày 1/7/1955). Theo Công Báo Quốc Gia Việt Nam thì Bộ Quốc Phòng đã bổ nhiệm Trung tá Nguyễn Khánh lúc bấy giờ đang là Thanh tra trưởng Nhảy Dù tạm thời giữ chức vụ Phụ tá Không Quân, và trong bản tiểu sử của tướng Nguyễn Khánh được phổ biến cho báo chí khi ông giữ chức vụ Thủ tướng Chính phủ vào tháng 2/1964, cũng ghi rõ cấp bậc của ông khi giữ chức vụ nói trên (Phụ tá Không Quân) là Trung tá.


Thủ tướng Nguyễn Khánh trên một trực thăng Alouette III của KQVN do đích thân
Thiếu tá Nguyễn Huy Ánh, Chỉ huy trưởng Phi đoàn 211, ngồi ghế hoa tiêu vào năm 1964


Chi tiết này phù hợp với tiểu sử của ông Nguyễn Khánh trên Wikipedia, theo đó sau khi chính thể Việt Nam Cộng Hòa được thành lập (26/10/1955), Quân Đội Quốc Gia Việt Nam được cải danh thành Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, Trung tá Nguyễn Khánh mới được thăng cấp Đại tá.

Một cách chi tiết, sau khi bàn giao chức vụ Phụ tá Không Quân cho Thiếu tá Trần Văn Hổ vào ngày 20 tháng 8, Trung tá Nguyễn Khánh được cử làm Chỉ huy phó Chiến dịch Hoàng Diệu (đánh dẹp Bình Xuyên) dưới quyền Đại tá Dương Văn Minh, Chỉ huy trưởng.

Chiến dịch này kết thúc vào ngày 24/10/1955, hai ngày trước khi ông Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Để tưởng thưởng công lao, sau đó Tổng thống Ngô Đình Diệm đã thăng cấp Thiếu tướng cho Đại tá Dương Văn Minh, và thăng cấp Đại tá cho Trung tá Nguyễn Khánh.

Việc nhiều người, trong đó có các NT Không Quân, kể lại rằng khi được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân, ông Nguyễn Khánh mang cấp bậc Đại tá, tôi cho rằng có lẽ cũng giống trường hợp cựu Trung tá KQ Nguyễn Phúc Tửng được người Việt ở Âu Châu gọi là Đại tá, mà tôi đã đề cập tới ở Phần 3.

Đó là khác với người Việt khi nói, viết có sự phân biệt rõ rệt giữa hai cấp bậc Trung tá (Lieutenant Colonel) và Đại tá (Colonel), người Pháp người Mỹ khi nói chuyện hoặc viết thư thường gọi tắt “Lieutenant Colonel” là “Colonel”.

Vào giữa thập niên 1950, đa số sĩ quan Việt Nam vẫn còn sử dụng tiếng Pháp cho nên cứ gọi ông Nguyễn Khánh là “Colonel” từ ngày ông còn mang lon Trung tá, đưa tới việc nhiều người hiểu lầm vị Phụ tá Không Quân là một Đại tá.

*Đại tá Phùng Văn Chiêu.

Nhưng cứ tạm cho rằng bài Ngày thành lập Không Quân VNCH của NT Huỳnh Minh Quang chính xác 100% thì cộng với bài Các cấp chỉ huy đơn vị đầu tiên của KQVNCH của NT Phạm Ngọc Sang cũng không thể giúp tôi biết được mọi diễn tiến quan trọng trong tiến trình thành lập KQVN.

Chúng tôi cần những nhân chứng sống, những vị niên trưởng thuộc thế hệ thứ nhất đã dự phần vào, hoặc có liên quan trực tiếp tới việc thành lập KQVN.

Nhưng một sĩ quan cấp úy trước năm 1975 chỉ phục vụ tại Pleiku và Biên Hòa, ra hải ngoại lại định cư ở Úc thì làm sao có thể quen biết các vị niên trưởng nói trên?

Cũng may, tuy không quen biết các vị niên trưởng ấy nhưng tôi lại quen biết hai vị “trung gian” quen biết nhiều là cựu Trung tá Võ Ý và cựu Đại tá Phùng Văn Chiêu.

Ông Võ Ý với tôi khá thân từ ngày còn ở Pleiku khi ông giữ chức Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 118 còn tôi giữ chức Sĩ Quan Báo Chí Pleiku; ông là đàn em Võ Bị Đà Lạt của ông cậu tôi đang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 20 CTCT bên Quân Đoàn II (cậu tôi khóa 13, ông Võ Ý khóa 17), và cộng tác với đặc san Đại Nghĩa của Tiểu Đoàn khá thường xuyên.

Trong Phần 1 của thiên hồi ký này, tôi đã nhắc tới ông Võ Ý khá nhiều lần, ở đây chỉ viết thêm: ra hải ngoại, mặc dù một người định cư ở Úc một người ở Mỹ nhưng tôi và ông Võ Ý vẫn liên lạc thường xuyên, để thăm hỏi nhau cũng như trao đổi bài vở, tài liệu về Không Quân.

Cựu Trung tá Võ Ý


Dù thân trâu chậm uống nước đục, sang Mỹ theo diện HO sau nhiều năm tù “cải tạo”, ông Võ Ý vẫn tích cực tham gia mọi sinh hoạt của KQVN tại hải ngoại, trở thành đầu mối cho tôi mỗi khi cần liên lạc với các đàn anh, niên trưởng ở Hoa Kỳ.

Còn cựu Đại tá Phùng Văn Chiêu, tôi được ông chiếu cố nhờ... thích nghe ông hát!

Sau này, khi ông Chiêu qua đời tại Hoa Kỳ vào đầu năm 2017, thay vì nhắc tới công sức phục vụ của ông trong quân chủng, tôi đã viết bài Phùng Văn Chiêu – “Tiếng hát thâm tình” để tướng nhớ.

Trước năm 1975, khi ông Chiêu giữ chức Không đoàn trưởng Không Đoàn Yểm Cứ Biên Hòa, SĐ3KQ, tôi đã được bạn bè bên đó cho biết ông có máu văn nghệ cùng mình và một giọng hát trầm ấm nhưng chưa có dịp nghe ông hát. Phải đợi tới sau khi ra hải ngoại, định cư tại Úc tôi mới được thưởng thức tiếng hát của ông qua CD.

Nguyên vào năm 2000, khi đã quá tuổi cổ lai hi, ông Phùng Văn Chiêu thu một CD gồm 12 ca khúc mang tựa đề “NHỮNG TÌNH KHÚC KỶ NIỆM với tiếng hát thâm tình Phùng Văn Chiêu”.

Bìa CD "NHỮNG TÌNH KHÚC KỶ NIỆM...”, Đại Phùng Văn Chiêu đang được Thiếu tướng
Tư lệnh phó KQ Võ Xuân Lành trao gắn huy chương tại CCKQ Biên Hòa


CD này không phát hành thương mại, chỉ để tặng bạn bè, người thân quen. Riêng tại Úc châu, ông Chiêu không quen thân ai ngoài Trung úy B, một tay cùng khóa 3/69 với tôi, trước năm 1975 phục vụ tại Liên Đoàn Phòng Thủ, Không Đoàn Yểm Cứ Biên Hòa. Ông Chiêu gửi cho hắn ba CD, hắn giữ một (vợ hắn yêu nhạc, hát khá hay), biếu bà già vợ một (bà cũng là người yêu nhạc, thích hát), còn lại một hắn gửi cho tôi.

Ít lâu sau, đầu năm 2001, nhận thấy sau hơn 25 năm vẫn không có ai viết về cuộc phá hủy CCKQ Biên Hòa chiều ngày 28 tháng 4, 1975 trước khi di tản, tôi quyết định kể lại trên giai phẩm xuân của đặc san Lý Tưởng – Úc Châu. Để cho bài viết đỡ bi thảm, tôi đã lấy một tựa đề hơi... cải lương: Nghe tiếng hát Phùng Văn Chiêu, nhớ những ngày cuối cùng của Biên Hòa.

Bài viết khá ăn khách! Khi liên lạc với anh Phạm Công Khanh (PĐ219), Liên hội trưởng Liên Hội Ái Hữu Không Quân Úc Châu, ông Phùng Văn Chiêu​ đã lịch sự gửi lời cám ơn tôi.​

Khoảng thời gian này cũng là lúc chúng tôi vừa cho phổ biến Thông Báo của Ban thực hiện QSKQ, ông Chiêu hứa sẽ cố gắng giúp đỡ trong phạm vi khả năng của ông. Và ông đã không hứa lèo!

Tại hải ngoại, ông rất có uy tín, quen biết nhiều. Có thể viết đa số các vị đại niên trưởng Không Quân đã giúp đỡ chúng tôi trong việc biên soạn phần đầu của cuốn QSKQ (việc thành lập, thời kỳ phát triển) là do công vận động, sự giới thiệu của ông.

* * *

Ông Phùng Văn Chiêu là dân Cần Giuộc, Long An, sinh cuối năm 1928.

Tôi không được biết ông xuất thân từ trường sĩ quan nào, chỉ biết khi chuyển sang Không Quân theo học Khóa 1 Quan Sát Viên tại TTHLKQ Nha Trang ông đã có thời gian phục vụ bên Lục Quân.

Xin trích vài đoạn trong bài Điểm Danh Các Bạn Già, Phần II: Khóa 1 Quan Sát Viên của cựu Đại tá Trần Phước:

... Khóa 1 Quan Sát Viên khai giảng vào đầu tháng 10-1952, lúc Khóa 1 Hoa Tiêu gần mãn khóa, chỉ còn huấn luyện giai đoạn chót nữa mà thôi.

Khóa 1 Quan Sát Viên dài 6 tháng, gồm 6 sĩ quan học viên:

- Phùng Văn Chiêu
- Nguyễn Đình Giao
- Lê Minh Luân
- Đỗ Khắc Mai
- Đinh Thạch On
- Trần Phước

Tất cả sáu người chúng tôi đều là sĩ quan của các quân trường: Sĩ Quan Khóa 2 Quang Trung, Huế, Khóa 1 Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định hay Thủ Đức và Khóa Sĩ Quan Nước Ngọt, ai cũng đã từng phục vụ bên Lục Quân ít nhất đôi ba năm...

Anh Phùng Văn Chiêu có tướng là con nhà võ hơn hết, từ dáng người, điệu bộ, và cách ăn nói. Anh người Nam, to lớn, đẹp trai, có giọng nói ồm ồm, nên khi anh đối đáp với các huấn luyện viên Pháp chẳng khác gì là dân Gaulois chính cống. Anh là con người mau mắn, hay tình nguyện làm những công việc thay cho cả lớp học...

Sau gần 20 năm cách biệt, bỗng một hôm, tôi nhận được thiệp mời đám cưới của cháu anh Phùng Văn Chiêu tại Houston, nơi tôi đang cư trú, tôi hết sức ngỡ ngàng, tôi nửa tin nửa ngờ vì bấy lâu chúng tôi bặt tin.

Nhưng tôi càng sửng sốt hơn nữa khi tôi gặp lại anh Chiêu tại tiệc cưới hôm đó. Hình dáng anh Chiêu thay đổi hẳn, chỉ có giọng nói vẫn như xưa. Nét đẹp trai, trẻ trung xưa kia biến đâu mất, nay khuôn mặt xương và nhiều nét nhăn ở cổ. Anh cho biết lúc đó anh đang bịnh và từ Pháp mới sang Mỹ để dự đám cưới này. Vì biết tôi đang ở Houston nên mới gửi thiệp mời. Trong dịp vui này, anh Chiêu đã trổ tài với nhiều bản nhạc tình Pháp tặng cô dâu chú rể. Thế mới biết, tuy bề ngoài hình dáng thay đổi nhưng tính tình vui nhộn của anh Chiêu vẫn như thuở xa xưa...

Nhân dịp vui, chúng tôi nhắc lại chuyện xưa, hồi năm 1954, khi Phi Đoàn 1 Quan Sát đóng tại sân bay Thành Nội, Huế, chúng tôi và nhiều anh em phi hành khác cùng phục vụ nơi đây. Hồi đó, chúng tôi khoảng 15 người, đang còn trẻ, dưới 25 trên 20. Ngoài giờ công vụ ra, anh em thường hay lái xe chở em út đi tắm biển Thuận An hay đi thăm lăng tẩm đền đài. Hoặc có nhiều anh trồng cây si ở các tiệm tạp hóa có người đẹp, nhưng chẳng có anh nào thành công nên vợ nên chồng...

Riêng anh Chiêu ở bên trong Đồn quân sự Mang Cá, ngày ngày chỉ tà tà cuốc bộ ra cổng, thỉnh thoảng gặp anh em lái xe đi ngang qua, mời lên xe, anh Chiêu từ chối, lấy lý do đi tản bộ cho khỏe người. Thật vậy, anh bách bộ có vẻ thảnh thơi thong dong lắm, nhưng nếu ai để ý, sẽ thấy anh thường ghé một nơi, ở đó đã có người đẹp chờ sẵn. Anh Chiêu dấu diếm cũng phải, vì sợ các bạn phá đám, và hơn nữa sợ bị lộ tẩy vì trong 6 anh em, chỉ có anh Chiêu và tôi có gia đình mà thôi. Chỉ trong một thời gian ngắn chớp nhoáng kỷ lục, anh Chiêu đã để khổ, để lụy, để sầu và để…lại cho người con gái Huế, khóc hết nước mắt ngày tiễn anh Chiêu rời Cố Đô, xuôi về Nam… (ngưng trích)

* * *

Sau khi tốt nghiệp, cả sáu sĩ quan quan sát viên được đưa tới Phi Đoàn 1 Quan Sát mới được thành lập cho KQVN, lúc đó còn do người Pháp chỉ huy và mang danh xưng tiếng Pháp Premier Groupe Aérien d'Observation et d'Accompagnement au Combat, viết tắt là GAOAC-1, rút gọn thành GAO-1; phía Việt Nam gọi là Phi Đoàn 1 Quan Sát & Trợ Chiến, hoặc gắn gọn là Phi Đoàn 1 Quan Sát (về sau trở thành Phi Đoàn 110).

[Trong cuốn Flying Dragons, tác giả Robert C Mikesh đã suy diễn GAO là viết tắt của ba chữ Group, Artillery Observationtrong tiếng Anh (Phi Đoàn Quan Sát, Hướng Dẫn Pháo Binh), thật ngớ ngẩn, tức cười, vì ông dư biết lúc đó người Mỹ chưa tới VN! Không biết khi tái bản ông có cho sửa lại không?]

Theo NT Trần Phước trong số sáu quan sát viên đầu tiên của KQVN chỉ có ba người bay hành quân nhiều là Nguyễn Đình Giao, Đinh Thạch On, và Trần Phước. Riêng ông Phùng Văn Chiêu vì “đau hệ thống hô hấp, bay cao bị nghẹt thở” cho nên về sau được đưa về làm yểm cứ.

Do kinh nghiệm tác chiến trước khi thuyên chuyển sang Không Quân, ông Chiêu được BTL/KQ trao phụ trách hồ sơ kế hoạch phòng thủ của các căn cứ KQ trong thời gian 7 năm trời, trước khi giữ chức Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ,Không Đoàn 33 Chiến Thuật (nguyên là Căn Cứ 3 Trợ Lực) vào năm 1964.

Trong kế hoạch phòng thủ hỗn hợp, căn cứ KQ Tân Sơn Nhất được gọi làYếu điểm Tân Sơn Nhất thuộc Yếu khu Hạnh Thông Tây - Tân Sơn Nhất. Bộ chỉ huy Yếu khu đặt tại Bộ TTM, Chỉ huy trưởng Tỗng hành dinh Bộ TTM kiêm nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Yếu khu.

Tới năm 1965, do nhu cầu phòng thủ căn cứ Tân Sơn Nhất trước sự gia tăng pháo kích, và các cuộc tấn công của Việt Cộng có thể xảy ra, Yếu khu Hạnh Thông Tây - Tân Sơn Nhất đã bị giải thể để thành lập một yếu khu mới: Yếu khu Tân Sơn Nhất. Bộ chỉ huy Yếu khu đặt tại Bộ chỉ huy Phòng thủ căn cứ TSN, sau khi có sự tham gia của phía Hoa Kỳ, trở thành Trung tâm Phòng thủ Hành quân Hỗn hợp (JDOC: Joint Defense Operation Center).

Trung tá Lưu Kim Cương, Tư lệnh KĐ33CT, kiêm nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Yếu khu Tân Sơn Nhất, Thiếu tá Phùng Văn Chiêu, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ, giữ chức vụ Chỉ huy phó kiêm Tham mưu trưởng Yếu khu.

Vì Trung tá Lưu Kim Cương quá bận rộn với công việc thường nhật của một vị tư lệnh không đoàn, có thể nói Thiếu tá Phùng Văn Chiêu đã được trao toàn bộ việc điều hành Yếu khu.

Trung tá Lưu Kim Cương và Đại tá Farley Peebles, Tư lệnh Không Đoàn 377 Yểm Cứ (377th Air Base Wing) của KLHK


Tân Sơn Nhất, 1967, từ trái, Thiếu tá Trần Đình Hòe, Đại tá Farley Peebles, Thiếu tá Phùng Văn Chiêu....


Trong trận Mậu Thân đợt 1, tại mặt trận Tân Sơn Nhất quân ta thắng lớn. Gần 1000 tên địch bỏ xác tại trận trong đó có 187 xác nằm bên trong hàng rào phi trường, do lực lượng phòng thủ hỗn hợp (KLHK + KQVN) ở tuyến B (hướng Bà Quẹo) bắn hạ.

Trong khi quân bạn (Hoa Kỳ, KQVN, Lục Quân VN...) chỉ có 55 người hy sinh, trong đó có 5 quân nhân KQVN.

Sau trận này, nhiều quân nhân trong Yếu khu đã được thăng cấp đặc cách mặt trận, trong số đó Trung tá Lưu Kim Cương lên Đại tá, Thiếu tá Phùng Văn Chiêu lên Trung tá.

Tới Mậu Thân đợt 2, nhờ tin tình báo chính xác, Bộ chỉ huy Yếu khu đoán biết Việt Cộng sẽ tấn công phi trường từ hướng đông nam (ngã tư Bảy Hiền) cho nên phòng bị chu đáo. Kết quả, quân ta đã phá vỡ các cuộc tấn công, không một tên địch nào lọt vào được phi trường, tất cả đều bị tiêu diệt bên ngoài vòng đai, nhưng rất tiếc Đại tá Lưu Kim Cương đã hy sinh trong lúc tham gia truy kích tàn quân địch ở Nghĩa trang Quân đội Pháp. (Chú thích 2)

Sau khi Đại tá Lưu Kim Cương hy sinh, Trung tá Phùng Văn Chiêu lên thay thế trong chức vụ Chỉ huy trưởng Yếu khu TSN, chức vụ Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng thủ TSN được trao cho Trung tá Lê Văn Triệu.

Ðầu năm 1970, khi Trung tá Chiêu được thuyên chuyển về Sư Đoàn 3 KQ làm Không đoàn trưởng Không Đoàn Yểm Cứ Biên Hòa, chức vụ Chỉ huy trưởng Yếu khu TSN được trao lại cho Ðại tá Phan Phụng Tiên, Tư lệnh Không Đoàn 33 Chiến Thuật (tới cuối năm 1971, KĐ33CT trở thành Sư Đoàn 5KQ).

(Còn tiếp)


CHÚ THÍCH

(1) Tiểu sử Đại tá Trần Văn Hổ

Ông Trần Văn Hổ sinh năm 1928 tại Chợ Lớn.

Tình nguyện nhập ngũ ngày 24/9/1949, theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại Trường Sĩ Quan Việt Nam ở Đập Đá, Huế (tiểu sử của ông trên Wikipedia ghi ông xuất thân Khóa 1 là sai).

Ngay từ trong quân trường, tên họ của ông được thêm chữ Paul phía trước để phân biệt với một bạn đồng khóa cùng tên họ có quốc tịch Pháp là Blanchard Trần Văn Hổ, sau này cũng mang cấp bậc Đại tá, có thời gian giữ chức vụ Giám đốc Nha Động Viên.

Trường Sĩ quan Đập Đá chính là tiền thân của Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Thành lập ngày 1/12/1948, sau hai năm đã đào tạo được hai khóa là Khóa 1 Phan Bội Châu (1948-1949) và Khóa 2 Quang Trung (1949-1950). Bắt đầu từ Khóa 3, trường dời về Đà Lạt.

Khóa 1 có bốn người sau này lên tới cấp Trung tướng là Nguyễn Văn Thiệu (Tổng thống), Tôn Thất Đính, Nguyễn Hữu Có, Đặng Văn Quang; trong số lên Thiếu tướng có các ông Bùi Đình Đạm, Tôn Thất Xứng...

Khóa 2 có hai người lên tới Trung tướng là Ngô Du, Nguyễn Văn Mạnh; lên Thiếu tướng có các ông Huỳnh Văn CaoLê Ngọc TriểnHoàng Văn Lạc...; đặc biệt có hai người trở thành vị chỉ huy đầu tiên của Không Quân là Đại tá Trần Văn Hổ và Hải Quân là Đại tá Lê Quang Mỹ.

Sau khi thuyên chuyển sang Không Quân, ông Trần Văn Hổ được gửi đi học Khóa 52F2 tại trường bay căn bản Marrakech ở Bắc Phi, cùng với hai sĩ quan khác là Nguyễn Cao Kỳ, Trịnh Hảo Tâm và 19 dân chính trong số đó có các ông Lưu Kim Cương, Phan Thanh Vân, Nguyễn Phúc Tửng.

Khóa này là đàn em của Khóa 51H (ông Lê Trung Trực) và Khóa 52F1 (các ông Huỳnh Hữu Hiền, Phạm Ngọc Sang, Huỳnh Bá Tính, Phan Phụng Tiên, Đinh Văn Chung...)

Tốt nghiệp phi công quan sát, về nước ông Trần Văn Hổ phục vụ tại Phi Đoàn 1 Quan Sát mới được người Pháp thành lập cho KQVN, Chỉ huy trưởng: Đại úy Nguyễn Ngọc Oánh.

Theo NT Phạm Ngọc Sang, vào thời điểm Trung úy Trần Văn Hổ được Biệt Bộ Phủ Thủ Tướng gọi về bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân thì KQVN đã có những sĩ quan sau đây mang cấp bậc Đại úy:

- Nguyễn Ngọc Oánh, Chỉ huy trưởng Phi Đoàn 1 Quan Sát
- Võ Dinh, Chỉ huy trưởng Phi Đoàn 2 Quan Sát
- Nguyễn Cao Kỳ, Chỉ huy trưởng Phi Đoàn 1 Vận Tải
- Đinh Văn Chung, Chỉ huy trưởng Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc
- Huỳnh Hữu Hiền, Chỉ huy trưởng Phi Đội Liên Lạc (ELAVN, còn gọi là Phi Đoàn VIP)
- Phạm Ngọc Sang, Phi Đội Liên Lạc (tới đầu năm 1956 làm Chỉ huy trưởng thay ông Huỳnh Hữu Hiền đi học khóa Huấn Luyện Viên Khu Trục tại Pháp)

Việc Trung úy Trần Văn Hổ được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân là do thời thế.

Thời gian này Thủ tướng Ngô Đình Diệm mới bổ nhiệm Thiếu tướng Lê Văn Tỵ giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thay thế Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, vốn là người thân tín của Quốc trưởng Bảo Đại. Việc này đã gây phân hóa trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp, khiến ông Ngô Đình Diệm phải hết sức thận trọng trong việc tìm người để trao trách nhiệm chỉ huy các đơn vị quân đội đang được người Pháp lần lượt chuyển giao, trong đó có Không Quân và Hải Quân.

Vì thế trong lúc chờ đợi tìm được người của Không Quân và Hải Quân, vào ngày 30/6/1955, ông đã tạm thời bổ nhiệm Thiếu tướng Trần Văn Đôn, Phụ tá Tổng tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia, kiêm nhiệm chức vụ Phụ tá Hải Quân, và qua ngày hôm sau, 1/7/1955, bổ nhiệm Trung tá Nguyễn Khánh vào chức vụ Phụ tá Không Quân.

Việc trao chức vụ Phụ tá Không Quân cho một sĩ quan Lục Quân cũng không gây khó khăn, trở ngại cho các hoạt động mang tính cách chuyên môn bởi vì cho tới lúc đó ngành Không Quân chưa có một bộ chỉ huy thống nhất, các phi đoàn còn là những đơn vị độc lập (thành lập do Quyết Định của Bộ TTM), có con dấu riêng, đồn trú tại căn cứ nào thì được nơi đó yểm trợ, cho nên Phòng Không Quân tại Bộ TTM thực chất chỉ là một cơ sở hành chánh.

Phải đợi gần hai tháng sau, ngày 20/8/1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm mới bổ nhiệm Trung úy Trần Văn Hổ vào chức vụ Phụ tá Không Quân thay Trung tá Nguyễn Khánh.

Hơn một tuần sau, ngày 28/8/1955, Thiếu tá Lê Quang Mỹ được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Hải Quân thay Thiếu tướng Trần Văn Đôn.

Điều đáng chú ý là ông Lê Quang Mỹ cũng xuất thân Khóa 2 Sĩ quan Hiện dịch (Đập Đá, Huế) với ông Trần Văn Hổ và Thiếu tá Huỳnh Văn Cao, người đang nắm giữ chức vụ Tham mưu trưởng Biệt Bộ Phủ Thủ Tướng!

Vì thế nhiều người tin rằng khi được ông Ngô Đình Diệm tham khảo ý kiến, ông Huỳnh Văn Cao đã “tiến cử” hai người bạn cùng khóa với mình.

Trung tá Trần Văn Hổ (không rõ xuất xứ hình và thời điểm)


Nhưng trong khi việc đề cử ông Lê Quang Mỹ ra vẻ hợp tình hợp lý vì lúc đó ông là đã sĩ quan cấp tá duy nhất trong Hải Quân và đang giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Giang lực (đơn vị duy nhất của Hải Quân do người Việt chỉ huy), thì việc đề cử Trung úy Trần Văn Hổ ra vẻ... hơi bất thường, vì ông chỉ là một trung úy và không nắm giữ một phi đoàn nào của KQVN lúc đó!

Qua năm 1956, Trung tá Trần Văn Hổ được vinh thăng Đại tá. Năm 1957, Trung tá Nguyễn Xuân Vinh lên thay Đại tá Trần Văn Hổ, chức Phụ tá Không Quân được đổi thành Tư lệnh Không Quân.

Chúng tôi không được rõ về các chức vụ của Đại tá Trần Văn Hổ sau năm 1957, chỉ biết đại khái ông phục vụ ở Bộ TTM.

Sau năm 1975, ông định cư tại Pháp và đã có lần sang Hoa Kỳ thăm bạn bè Không Quân.

Điều đáng tiếc là khi ông qua đời, tin tức không được loan tải rộng rãi, và hình như không có bài viết nào về cuộc đời của ông – vị chỉ huy đầu tiên của KQVN.

(2Bài chi tiết “Trận Mậu Thân 1968 tại CCKQ Tân Sơn Nhứt và cái chết của cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cuơng”

https://hoiquanphidung.com/forum/c%C3%A1c-chuy%C3%AAn-m%E1%BB%A5c/th%E1%BB%9Di-s%E1%BB%B1/qu%C3%A2n-s%E1%BB%AD-kh%C3%B4ng-qu%C3%A2n/4103-c%C3%A1i-ch%E1%BA%BFt-c%E1%BB%A7a-c%E1%BB%91-ch-t%C6%B0%E1%BB%9Bng-l%C6%B0u-kim-cu%C6%A1ng


PHỤ LỤC

Tiếng hát Phùng Văn Chiêu

Anh về với em
https://www.youtube.com/watch?v=s60ZtEvpmds

Cookies user preferences
We use cookies to ensure you to get the best experience on our website. If you decline the use of cookies, this website may not function as expected.
Accept all
Decline all
Analytics
Tools used to analyze the data to measure the effectiveness of a website and to understand how it works.
Google Analytics
Accept
Decline
Advertisement
If you accept, the ads on the page will be adapted to your preferences.
Google Ad
Accept
Decline
Save