BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 4)

Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện

Những người muôn năm cũ

*Những bộ nhớ thời “khuyết sử”

(tiếp theo)

Trong số những vị đại niên trưởng được ông Phùng Văn Chiêu vận động viết tiểu sử (và những gì còn nhớ về đời quân ngũ) gửi cho Ban thực hiện QSKQ, cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần, nguyên tư lệnh SĐ4KQ, là người... mau mắn nhất.

Trước năm 1972, tôi hoàn toàn không biết gì về NT Nguyễn Hữu Tần (không nghe tên, không thấy mặt) cho tới khi ông được BTL/KQ bổ nhiệm vào chức vụ Sư đoàn trưởng SĐ4KQ sau khi cố Thiếu tướng Nguyễn Huy Ánh tử nạn vào cuối tháng 4/1972.

Tôi không biết, không nghe vì trước kia ông Tần không hề làm Tư lệnh một Không Đoàn Chiến Thuật nào, và khi ông giữ chức Tham mưu phó Hành Quân BTL/KQ ở Tân Sơn Nhất thì tôi ở tận Pleiku, lại là dân không phi hành nên không có cơ hội nghe nhắc tới tên ông.

Ông Nguyễn Hữu Tần sinh năm 1930 tại Quảng Yên, Bắc phần, trong một gia đình khá giả. Lên bậc trung học ông được gửi về Hà Nội ăn học và tốt nghiệp bằng Tú Tài 1 chương trình Pháp.

Cuối tháng 9 năm 1951, theo lệnh tổng động viên, ông gia nhập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, theo học Khóa 1 Sĩ quan Trừ Bị Nam Định, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy.

[Từ khóa 1 đến khóa 5 Sĩ Quan Trừ Bị, tùy số điểm khi ra trường, học viên sẽ tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy, Chuẩn úy, hoặc Trung sĩ. Từ khóa 6 trở đi, tất cả những người tốt nghiệp đều mang cấp bậc Chuẩn úy]

Ông Nguyễn Hữu Tần là một trong số 12 sĩ quan tốt nghiệp Khóa 1 Nam Định được thuyên chuyển về Không Quân (con số mà tôi được biết), trong đó có các ông Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, Nguyễn Văn Lượng, Phan Phụng Tiên, Đặng Đình Linh, Vũ Thượng Văn...

Có khác chăng là sau khi ra trường vào giữa năm 1952, Thiếu úy Nguyễn Hữu Tần không xin về Không Quân mà tình nguyện đi tác chiến, giữ chức Trung đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 717 Khinh quân Việt Nam.

Năm 1953, ông thăng cấp Trung úy, giữ chức Đại đội trưởng; năm 1954 giữ chức Tiểu đoàn phó, và qua đầu năm 1955, thăng cấp Đại úy, giữ chức Tiểu đoàn trưởng. (Chú thích 1)

Giữa năm 1955, Đại úy Nguyễn Hữu Tần tình nguyện về quân chủng Không Quân, theo học Khóa 5 Hoa Tiêu Quan Sát tại TTHLKQ Nha Trang, và đậu Thủ khoa.

Mãn khóa, ông về phục vụ tại Phi Đoàn 1 Quan Sát, lúc đó do Đại úy Trần Phước làm Chỉ huy trưởng. Đầu năm 1959, đang giữ chức Chỉ huy phó Phi Đoàn 1 Quan Sát ông được thuyên chuyển sang Phi Đoàn 2 Quan Sát, cũng giữ chức Chỉ huy phó; Chỉ huy trưởng là Đại úy Võ Công Thống.

Đầu năm 1960, ông trở về Phi Đoàn 1 Quan Sát làm Chỉ huy trưởng, rồi tới năm 1962, quay về làm Chỉ huy trưởng Phi Đoàn 2 Quan Sát.

Đầu tháng 11/1963, sau khi xảy ra cuộc đảo chánh lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, Đại úy Nguyễn Hữu Tần bị cho ngồi chơi xơi nước tới tháng 2/1964, sau khi tướng Nguyễn Khánh “chỉnh lý” lật đổ tướng Dương Văn Minh, ông được thăng cấp Thiếu tá, giữ chức vụ Tư lệnh phó Không Đoàn 62 Chiến Thuật vừa được thành lập tại Pleiku, do Trung tá Trần Văn Minh làm Tư lệnh.

Như vậy, trong binh nghiệp của mình, ông Nguyễn Hữu Tần chỉ mang lon Thiếu úy 1 năm, Trung úy 2 năm, nhưng lon Đại úy thì mang tới... 9 năm!

Tuy nhiên tiền hung hậu kiết, sau đó hoạn lộ của ông thăng tiến rất nhanh: đầu tháng 11 năm 1965, sau khi Không Đoàn 62 Chiến Thuật di chuyển về Nha Trang, ông được đưa về Tân Sơn Nhất làm Chỉ huy trưởng Trung Tâm Hành Quân Không Quân (Tactical Air Control Center: TACC) thay Thiếu tá Vũ Thượng Văn; cuối năm 1967, ông được thăng cấp Trung tá, giữ chức Tham mưu phó Hành Quân BTL/KQ.

Cuối tháng 4/1972, ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm vào chức vụ Sư đoàn trưởng Sư Đoàn 4 Không Quân, thay cố Thiếu tướng Nguyễn Huy Ánh tử nạn phi cơ trực thăng tại CCKQ Bình Thủy.

Bản Tin Sư Đoàn 4 Không Quân


Ngày 1/4/1974 Đại tá Nguyễn Hữu Tần được vinh thăng Chuẩn tướng trong đợt gắn sao cuối cùng của Không Quân, cùng với các Đại tá Nguyễn Đức Khánh (SĐ1KQ), Phạm Ngọc Sang (SĐ6KQ).

Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần


Như vậy, ông Nguyễn Hữu Tần mang lon Đại tá chưa đầy 2 năm. Trong Không Quân trước đó chỉ có bốn vị Đại tá lên Chuẩn tướng nhanh hơn, gồm:

-Đại tá Nguyễn Cao Kỳ: 5 tháng
-Đại tá Nguyễn Huy Ánh: 8 tháng
-Đại tá Nguyễn Ngọc Loan: 12 tháng
-Đại tá Võ Xuân Lành: 18 tháng.

* * *

Trước năm 1975, tôi chỉ có dịp nhìn thấy ông Nguyễn Hữu Tần hai lần, một từ xa xa khi tháp tùng ông Từ Văn Bê về tham sự buổi họp của các ông đại đơn vị trưởng với BTL/KQ, một lần đứng rất gần khi tham dự lễ kỷ niệm Ngày Không Lực năm 1973 tại Tân Sơn Nhất mà tôi đã kể chi tiết trong một phần trước.

Đại khái là vào năm 1973, BTL/KQ đã tổ chức Ngày Không Lực 1 tháng 7 một cách trọng thể tại CCKQ Tân Sơn Nhất. Vì có phần tuyên dương công trạng 9 đại đơn vị, gồm 6 Sư Đoàn, TTHLKQ, BCH/HQKQ, BCH/KTTV/KQ, và gắn huy chương cho 9 ông sếp lớn cho nên đích thân các ông phải về tham dự.

Theo chương trình chi tiết, trước phần gắn huy chương, 9 ông sếp lớn sẽ rời ghế ngồi, xếp thành một hàng dọc phía bên phải khán đài rồi đi tới đứng trước hiệu kỳ của đơn vị mình, đối diện với khán đài. Sau khi Trung tướng Tư lệnh KQ gắn huy chương cho các ông xong và trở về khán đài, các ông sẽ đi hàng một trở về vị trí cũ (phía bên phải khán đài) rồi mới trở lại chỗ ngồi của mình.

Công việc đi đứng nói trên, với một sĩ quan mới ra trường 4, 5 năm như tôi chỉ cần nghe “briefing” 5 phút là xong ngay, nhưng với một ông chuẩn tướng hay đại tá đã rời quân trường trên dưới 20 năm thì... không bảo đảm, vì thế trước đó mấy ngày, các đơn vị phải cử người đại diện ông sếp lớn về TSN tập dợt, sau đó trở về đơn vị dợt lại cho sếp.

Xui cho ông Từ Văn Bê là trong danh sách 9 đại đơn vị, BCH/KTTV/KQ của ông đứng sau cùng cho nên khi xếp hàng một ông là người đứng cuối hàng, có bổn phận hô các khẩu lệnh “trước bước, bên trái quay, chào tay...”, gắn huy chương xong lại phải hô “chào tay, bên trái quay, trước bước...”

Sau khi lên TSN đóng vai sếp lớn để tập dợt, tôi trở về Biên Hòa dợt lại cho ông Từ Văn Bê.

Tới ngày 1 tháng 7, vì có phần tổng dợt trước buổi lễ, ông Bê bắt tôi theo sát ông để... nhắc tuồng. Vì thế tôi mới có dịp đứng gần các Chuẩn tướng Oánh, Lượng, Tính, Tiên và các Đại tá Khánh, Sang, Ước, Tần khi các ông sắp hàng thực tập.

* * *

NT Nguyễn Hữu Tần có viết thêm cho chúng tôi một chuyện vui vui là vào thời gian ông theo học Khóa 5 Hoa Tiêu Quan Sát tại TTHLKQ Nha Trang, Trung tá Nguyễn Khánh thuộc binh chủng Nhảy Dù sau khi được Thủ tướng Ngô Đình Diệm trao chức vụ Phụ tá Không Quân đã ra Nha Trang học bay trên “đầm già” MS-500.

Ông Nguyễn Khánh thường vào câu lạc bộ sĩ quan ăn uống, trò chuyện thân mật với anh em khóa sinh. Rất tiếc, sau khoảng 10 giờ bay ông bị một tai nạn nhẹ và bỏ cuộc.

Tuy nhiên sau này người ta lại thấy tướng Nguyễn Khánh luôn luôn mang cánh bay trên ngực áo. Ông nói rằng ông biết bay phi cơ quan sát là do học hỏi các hoa tiêu chở ông đi đây đó bằng loại phi cơ này; tương tự về sau có một vài vị tướng Lục quân học lái trực thăng UH-1 do phi hành đoàn biệt phái cho mình chỉ dạy.

Về cánh bay ông mang tên ngực, không hiểu ông mang... đại hay được Không Quân hợp thức hóa bằng cách nào đó. Nên nhớ ông Nguyễn Cao Kỳ một sớm một chiều từ Trung tá lên Chuẩn tướng và nổi như cồn là nhờ có ông Nguyễn Khánh đỡ đầu cho nên các sếp lớn trong Không Quân cũng phải biết điều!

Tuy nhiên gần đây, trong bài “Không Quân VNCH Thời Kỳ Hình Thành 1951-56” của tác giả Vương Hồng Anh, phổ biến trên Việt Báo ngày 22/01/2000 lại có đoạn viết:

“Trong một buổi lễ mãn khóa sĩ quan Không Quân tại Nha Trang vào năm 1964, tướng Khánh cho biết khi còn là sĩ quan cấp tá, ông đã tình nguyện theo học tại Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang và tốt nghiệp với vị thứ cao”.

Theo thiển ý, rất có thể người nào đó đã chế ra câu chuyện này, bởi danh sách các khóa sinh hoa tiêu quan sát của TTHLKQ Nha Trang từ Khóa 1 còn sờ sờ ra đó, ông Nguyễn Khánh dù sao cũng là một tướng lãnh tên tuổi, một chính khách hàng đầu (Quốc trưởng, Thủ tướng) không dám nổ sảng như thế đâu, bởi ông biết chắc chắn sẽ bị lộ tẩy.

Trung tướng Nguyễn Khánh với cánh bay trên ngực áo trái
(cũng may mà ông không mang “cánh có râu”)


Trở lại với Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần, tôi được bạn bè ở SĐ4KQ cho biết tính ông hiền, ít nói, làm việc tận tụy và công minh. Họ cũng nhấn mạnh ông hiền nhưng không dễ dãi; một tay bạn của tôi ở phi đội tải thương Hồng Điểu kể lại khi hắn làm đơn xin để râu mép đã phải vào trình diện Tư lệnh Sư Đoàn để ông xem có giống con giáp nào không, rồi mới đích thân ký giấy phép!

Sau năm 1975, ông Tần và gia đình định cư tại Bắc California.

Khoảng năm 2007, 2008 tôi được thấy ông xuất hiện trên sân khấu văn nghệ cùng với các chiến hữu QLVNCH trong một DVD hùng ca, và đã phải giật mình vì thấy ông già đi quá mau. Có điều an ủi là trông ông rất an nhiên tự tại.

Cũng nên biết hai ông bà đều là Phật tử thuần thành, có pháp danh là Tâm Luyện và Tâm Quảng.

Sau khi vị cựu Tư lệnh SĐ4KQ qua đời vào tuổi 78 giữa tháng 12/2008, tôi được nghe kể trước đó mấy năm, bà Tần đã lên chùa tu cho nên trưởng nam của ông đã thay mặt mẫu thân để cùng các em đứng ra tổ chức tang lễ cho thân phụ.

* * *

Vị đại niên trưởng thứ hai đáp lời mời gọi của ông Phùng Văn Chiêu là cựu Chuẩn tướng Nguyễn Văn Lượng, nguyên Tư lệnh SĐ2KQ.

Khác với ông Nguyễn Hữu Tần, trước năm 1975 tôi đã được nghe nói khá nhiều về ông Nguyễn Văn Lượng; lần đầu tiên là khi ông được bổ nhiệm vào chức vụ Sư đoàn trưởng Sư Đoàn 2 KQ vào tháng 7/1970.

Nguyên trong kế hoạch bành trướng Không Lực VNCH, bắt đầu vào năm 1970 các Không Đoàn Chiến Thuật hiện hữu (41, 62, 23, 33, 74) sẽ kết hợp với các không đoàn tân lập để trở thành các Sư Đoàn Không Quân.

Mặc dù không có văn kiện chính thức nào của BTL/KQ, mọi người đều hiểu ngầm rằng vị Tư lệnh Không Đoàn Chiến Thuật đương nhiệm sẽ lên nắm chức vụ Sư đoàn trưởng.

Bằng chứng là khi Sư Đoàn 4 KQ được thành lập vào tháng 3/1970 tại Bình Thủy, Đại tá Nguyễn Huy Ánh, người đang nắm chức vụ Tư lệnh KĐ74CT đã trở thành Sư đoàn trưởng SĐ4KQ; kế tiếp, tháng 5/1970 tại Biên Hòa, Đại tá Huỳnh Bá Tính, Tư lệnh KĐ23CT, trở thành Sư đoàn trưởng SĐ3KQ.

Nhưng tới tháng 7/1970, tại Nha Trang mọi việc đã không diễn ra như thế. Ít lâu trước ngày thành lập SĐ2KQ, Đại tá Vũ Văn Ước, Tư lệnh KĐ62CT, được lệnh bàn giao chức vụ cho Đại tá Nguyễn Văn Lượng, Chỉ huy phó TTHLKQ Nha Trang, để về Tân Sơn Nhất làm Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân.

Tính cho tới lúc đó, ông Nguyễn Văn Lượng không phải là nhân vật nổi tiếng cho lắm trong Không Quân, bởi vì cũng giống như ông Nguyễn Hữu Tần, trước kia ông chỉ làm Chỉ huy trưởng một phi đoàn quan sát chứ chưa từng nắm chức Tư lệnh một Không Đoàn Chiến Thuật nào.

* * *

Ông Nguyễn Văn Lượng sinh năm 1931 tại Kiến An (sau này thuộc Hải Phòng), động viên theo học Khóa 1 Sĩ quan Trừ Bị Nam Định, tức là cùng khóa với các NT Không Quân Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, Phan Phụng Tiên, Đặng Đình Linh, Nguyễn Hữu Tần, Vũ Thượng Văn, Trần Đình Hòe...

Ra trường giữa năm 1952 với cấp bậc Thiếu úy, ông phục vụ tại một đơn vị lục quân trước khi được tuyển về Không Quân vào cuối năm đó, theo học Khóa 2 Hoa Tiêu Quan Sát tại TTHLKQ Nha Trang, cùng với các bạn Khóa 1 Nam Định Nguyễn Ngọc Loan, Vũ Thượng Văn, Trần Đình Hòe, và ông Võ Xuân Lành của Khóa 1 Thủ Đức.

Mãn khóa tháng 8 năm 1953, ông phục vụ tại Phi đoàn 2 Quan sát (tiền thân của PĐ112) đồn trú tại Nha Trang; cuối năm 1955, ông được thăng cấp Trung úy và giữ chức Chỉ huy trưởng Phi đoàn thay thế Đại úy Võ Dinh.

Đầu năm 1959, ông được thăng cấp Đại úy. Tháng 11/1963, sau cuộc đảo chánh lật đổ TT Ngô Đình Diệm ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử đi làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn Khóa Sinh, TTHLKQ Nha Trang. Đầu năm 1967, ông được thăng cấp Trung tá, giữ chức vụ Chỉ huy phó Trung Tâm.

Tháng 7 năm 1970, ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm làm Sư đoàn trưởng SĐ2KQ vừa được thành lập tại Nha Trang, và ở chức vụ này cho đến tháng 4 năm 1975.

Ngày Quốc Khánh 1/11/1972, ông được thăng cấp Chuẩn tướng, cùng đợt với các Chuẩn tướng Võ Dinh, Đặng Đình Linh, Phan Phụng Tiên, Nguyễn Ngọc Oánh, Huỳnh Bá Tính, và Lê Trung Trực.

Chuẩn tướng Nguyễn Văn Lượng


* * *

Trở lại với năm 1970, ít lâu sau khi SĐ2KQ được thành lập tại Nha Trang, tại Pleiku Căn Cứ 92 trở thành Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku và một đơn vị tác chiến được thành lập: Không Đoàn 72 Chiến Thuật, gồm các phi Đoàn 530 khu trục, 118 quan sát, 229 và 235 trực thăng.

Như sau này tôi được biết, vào lúc đó (năm 1970) BTL/KQ đã có kế hoạch vào đầu năm 1972, sau khi tiếp nhận CCKQ Phù Cát từ tay người Mỹ sẽ thành lập Sư Đoàn 6 Không Quân, gồm các lực lượng đồn trú tại Pleiku và Phù Cát. Tuy nhiên vì tình hình chiến sự sôi động tại vùng Cao Nguyên, tiếp theo là Mùa hẻ đỏ lửa, tới cuối năm 1972 SĐ6KQ mới được thành lập.

Trong thời gian chờ đợi, Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku và Không Đoàn 72 Chiến Thuật tạm thời trực thuộc SĐ2KQ ở Nha Trang. Nhưng sự “trực thuộc” này chỉ có trên giấy tờ còn về hoạt động, hai không đoàn này gần như hai đơn vị biệt lập, nhận chỉ thị trực tiếp từ BTL/KQ.

Đại tá Nguyễn Văn Lượng trước một buổi lễ trao gắn huy chương cho quân nhân trong đơn vị


Trong thời gian hai năm Pleiku tạm thời trực thuộc Nha Trang ấy, tôi chỉ thấy vị Sư đoàn trưởng SĐ2KQ, Đại tá Nguyễn Văn Lượng, lên Pleiku hai lần.

Lần thứ nhất vào khoảng giữa năm 1971 nhân dịp Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku kỷ niệm một năm ngày thành lập, vì có Đại tá Võ Dinh, Tham mưu trưởng BTL/KQ, ra tham dự nên ông Lượng với tư cách Sư đoàn trưởng SĐ2KQ phải lên Pleiku để đón khách; chưa kể Đại tá Võ Dinh còn là anh ruột của Trung tá Võ Quế, Không đoàn trưởng KĐYC Pleiku.

Lần thứ hai vào đầu năm 1972, ông Lượng lên Pleiku chủ tọa lễ bàn giao chức vụ Không đoàn trưởng KĐ72CT giữa Đại tá Nguyễn Văn Bá và Trung tá Lê Bá Định. (Chú thích 2)

Lần thứ ba tôi được thấy ông Lượng là vào giữa năm 1973, lúc đó ông đã lên Chuẩn tướng, trong buổi kỷ niệm Ngày Không Lực năm 1973 tại Tân Sơn Nhất (tôi đã viết ở trên); lần thứ tư khi tôi tháp tùng ông Từ Văn Bê về tham dự buổi họp của BTL/KQ với các đơn vị trưởng, tổ chức tại phòng thuyết trình (briefing room) của BCH/HQKQ – niềm hãnh diện của Đại tá Vũ Văn Ước – do người Mỹ chuyển giao.

* * *

Sau khi được ông Phùng Văn Chiêu “móc nối”, NT Nguyễn Văn Lượng đã giúp Ban Thực Hiện QSKQ rất nhiều qua việc trả lời các Thư tham khảo, nhất là về những gì diễn ra tại CCKQ Nha Trang. Bởi vì có thể nói ông ở miền thùy dương cát trắng từ đầu mùa tới cuối mùa: khóa sinh Khóa 2 HTQS, hoa tiêu Phi Đoàn 2 Quan Sát, Chỉ huy trưởng (đời thứ hai) Phi Đoàn 2 Quan Sát, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn Khóa Sinh TTHLKQ, Chỉ huy phó TTHLKQ Nha Trang.

Thêm một thú vị bất ngờ là khi được (bị) ông Phùng Văn Chiêu yêu cầu viết tiểu sử cá nhân để cung cấp cho Ban Thực Hiện QSKQ, NT Nguyễn Văn Lượng đã viết tay vài dòng ngắn ngủi, rất dí dỏm, nguyên văn như sau:

“Tốt nghiệp Khóa 1 Nam Định 1951. Gia nhập KQ 1952. Kỷ niệm đẹp nhất trong đời quân ngũ là thời gian làm bạn với em Morane 500. Em thuộc loại gái quê cổ lỗ sĩ, thân hình thô kệch, chân cẳng dài thoòng nhưng luôn luôn gắn bó chung thủy và chưa từng làm tôi thất vọng.

Sau này có dịp làm bạn với các em khác như Lan 19 trẻ trung thon thả, em C-47 lực lưỡng đô con, hoặc các chàng dũng sĩ lực điền AD6 hay nho nhã thư sinh A-37, chàng nào cũng võ công bí kíp cùng mình nhưng rồi càng không thể nào quên được những đêm cùng em “đầm già” của tôi tình tự dưới trăng trên đèo Mang Yang, những buổi vật lộn với gió dập mưa vùi ngang đèo M Drak, hoặc những buổi đẹp trời thảnh thơi lướt sóng rửa chân trên biển Nha Trang thần tiên thơ mộng.”


* * *

Về con người và đường lối chỉ huy của NT Nguyễn Văn Lượng, vì không có cơ hội phục vụ dưới quyền, tôi chỉ xin ghi lại nhận xét của hai cựu quân nhân Không Quân trên FB “Không Lực VNCH”:

Thinh Q Tran
Tướng KQ Nguyễn Văn Lượng, một nhân cách lớn, đức độ, tài ba, trong sạch, thưởng phạt nghiêm minh!

Gia Dai
Thinh Q Tran Mình học quân sự ở SĐ2KQ. Binh thực nằm đối diện Sư đoàn bộ. Nghe nói buổi trưa ông hay vào đây ăn cơm nên ở đây nhà ăn rất ngon và sạch sẽ. Xung quanh gắn lưới ruồi và có một nhân viên giữ cửa tay cầm vợt đập ruồi. Ăn cơm xong có trà đá uống và được mút đầy bình đong.

* * *

Thời gian như bóng câu qua cửa, các vị niên trưởng tôi được hân hạnh liên lạc, trực tiếp hoăc gián tiếp, đã lần lượt về bên kia thế giới.

Tới đầu tháng 12 năm 2020, sau khi Chuẩn tướng Đặng Đình Linh, nguyên Tham mưu phó Tiếp Vận BTL/KQ qua đời, tôi mới giật mình nhận ra rằng Thập Lục Tướng Quân - tức 16 vị tướng được gắn sao khi đang tại vị - của KQVN giờ đây chỉ còn lại một mình Chuẩn tướng Nguyễn Văn Lượng và nhờ anh em KQ ở California dò hỏi tin tức, thì được cho biết từ mấy năm qua NT sống khép kín, không muốn liên lạc với ai, mình nên tôn trọng.

Chỉ tới ngày 23 tháng 12 năm 2024, qua đọc bản tin “Viếng Linh Cữu Niên Trưởng Nguyễn Văn Lượng” của KQ Trần Đình Phước, Hội Ái Hữu Không Quân Bắc Cali, trên Hội Quán Phi Dũng tôi mới biết ông đã qua đời ngày mồng 2 tháng 12, 2024.



Đại diện Hội Ái Hữu Không Quân Bắc Cali chào vĩnh biệt (hình KQ Trần Đình Phước)


Anh Phước cho biết “tang lễ Niên Trưởng được tổ chức trong phạm vi gia đình rất đơn giản theo ý nguyện của Niên Trưởng lúc sinh thời”.

(Còn tiếp)

CHÚ THÍCH

(1) Tiểu Đoàn Khinh Quân

Theo tài liệu của của Khối Quân Sử QLVNCH, từ năm 1949 Bộ Quốc Phòng Quốc Gia Việt Nam đã cho thành lập các tiểu đoàn Tiểu Đoàn Việt Nam, tiếng Pháp gọi là Bataillon du Vietnam, viết tắt là BVN.

Thời gian đầu, toàn bộ cấp chỉ huy của các BVN đều là các sĩ quan Pháp; về sau mới dần được chuyển sang cho các sĩ quan người Việt.

Tới năm 1953, trước tình hình chiến sự gia tăng và theo thỏa ước giữa Phái bộ viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam và Bộ Tư lệnh Lực lượng Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương, trong năm 1953 và năm 1954, Hoa Kỳ yểm trợ cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành lập các Tiểu Đoàn Khinh Quân (tiếng Pháp: bataillon léger). Đây là một việc làm gấp rút để đối phó trước tình thế khẩn trương lúc bấy giờ: Việt hóa chiến tranh, nhằm giao cho các tiểu đoàn khinh quân công tác bình định lãnh thổ, để các đơn vị chủ lực Pháp đảm nhiệm phần tiêu diệt lực lượng đối phương.

Các tiểu đoàn khinh quân đều là tân lập cho nên từ cấp chỉ huy đến binh sĩ đều là người Việt. Sĩ quan đa số là những quân nhân tốt nghiệp các khóa sĩ quan trừ bị. Hạ sĩ quan là những quân nhân nguyên là hạ sĩ trong các Tiểu Đoàn Việt Nam (BVN) và những thanh niên có trình độ học thức trung bình được tuyển chọn đưa đi huấn luyện thành cán bộ hạ sĩ quan Tiểu Đoàn Khinh Quân.

Theo kế hoạch, Bộ Tổng tham mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam dự trù thành lập 54 Tiểu Đoàn Khinh Quân và 14 đại đội trọng pháo với sự yểm trợ quân viện của Hoa Kỳ. Đến cuối năm 1953, tuy có 35 tiểu đoàn được thành lập nhưng vì thiếu thốn trang bị, chỉ có 24 tiểu đoàn hành quân được.

Bước sang năm 1954, một đợt các Tiểu đoàn Khinh quân được thành lập, tại miền Bắc có các Tiểu đoàn Khinh quân 713, 714, 715, 716, 717, 718 (lưu động), 719 (Bùi Chu), 720 (Hưng Yên).

Sau khi nền Đệ nhất Cộng hòa được thành lập, các Tiểu Đoàn Việt Nam và Tiểu Đoàn Khinh Quân được kết hợp thành các Sư Đoàn Bộ Binh.

(2) Video Lễ trao quyền chỉ huy Không Đoàn 72 Chiến Thuật (Cánh Thép Channel)

Đây là lễ bàn giao quyền chỉ huy Không Đoàn 72 CT giữa Đại tá Nguyễn Văn Bá và Trung tá Lê Bá Định diễn ra vào đầu năm 1972, chứ không phải năm 1970 như chú thích ở đầu video (năm 1970, cả ông Bá lẫn ông Định còn mang lon Thiếu tá).

Tôi được tham dự buổi lễ này với tư cách Sĩ Quan Báo Chí Pleiku. Lúc đó SĐ6KQ chưa thành lập, Pleiku còn tạm thời trực thuộc SĐ2KQ cho nên Đại tá Nguyễn Văn Lượng, Sư đoàn trưởng SĐ2KQ, mới tới chủ tọa.

Ở giữa video, có những ghi chú thiếu chính xác sau đây:

-“Trung tá” Nguyễn Văn Bá (khi ấy đã mang lon Đại tá)

-“229, 235 Thả Toán”. Hai phi đoàn trực thăng này thi hành mọi nhiệm vụ như bất phi đoàn UH-1 nào khác chứ không chỉ thả toán mà thôi.

-“530 Biệt Đội Cò Trắng C-47”. Phi Đoàn Khu Trục 530 danh hiệu Thái Dương (Jupiter), sử dụng A-1 Skyraider. Còn “Cò Trắng” là danh hệu của những chiếc C-47, C-123 sử dụng riêng cho những phi vụ đặc biệt thả các toán biệt kích thâm nhập lãnh thổ Bắc Việt.

Sở dĩ các phi vụ này được đặt tên “Cò Trắng” là vì những chiếc C-47, C-123 đã được tẩy xóa màu cờ, các huy hiệu, chỉ để lại toàn thân máy bay một màu nhôm trắng.

Cuối cùng cũng xin được ghi thêm chi tiết: tác giả câu đối “Trung kiên một lòng vì Tổ Quốc – Sắt son một dạ với Không Gian” là cố Trung tá Lê Bá Định, Không đoàn trưởng KĐ72CT.


https://www.youtube.com/watch?v=UvJltTb1Vm0&t=29s

Cookies user preferences
We use cookies to ensure you to get the best experience on our website. If you decline the use of cookies, this website may not function as expected.
Accept all
Decline all
Analytics
Tools used to analyze the data to measure the effectiveness of a website and to understand how it works.
Google Analytics
Accept
Decline
Advertisement
If you accept, the ads on the page will be adapted to your preferences.
Google Ad
Accept
Decline
Save