Những truyện ngắn khác của NT Nguyễn Thừa Bình đã đăng trong HQPD:
BẠN ÐỒNG MÔN KHÓA 2 CSQG
Chị Hai
Cho 46 năm họp mặt (Khóa 2 Học Viện CSQG)
Cái Giường Ðôi Quân Trường
Dự Lễ Phật Đản
Hoàng Hôn Bùng Sáng - Về 46 Năm Hội Ngộ của Khoá 2 Học Viện CSQG
Một Ðời Chiến Sĩ Dọc Ngang
Một Đời Lận Đận Chiến Tranh
Nỗi Đau Bẽ Bàng
Nỗi Đau Một Mình
Người Già Cả, Người Bệnh Tật
Những Chuyện Trời Ơi!
Niềm Vui Quân Trường
Người Bạn Khóa 2 Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia
Phan Bội Châu, Trường Tôi Ngày Đó
Quân Trường
Quà cho con trong tù
Tiếc thương
Thuốc Lào Trong Tù "Học Tập Cải Tạo"
Thêm ba con số không
BẠN ÐỒNG MÔN KHÓA 2 CSQG
Chị Hai
Cho 46 năm họp mặt (Khóa 2 Học Viện CSQG)
Cái Giường Ðôi Quân Trường
Dự Lễ Phật Đản
Hoàng Hôn Bùng Sáng - Về 46 Năm Hội Ngộ của Khoá 2 Học Viện CSQG
Một Ðời Chiến Sĩ Dọc Ngang
Một Đời Lận Đận Chiến Tranh
Nỗi Đau Bẽ Bàng
Nỗi Đau Một Mình
Người Già Cả, Người Bệnh Tật
Những Chuyện Trời Ơi!
Niềm Vui Quân Trường
Người Bạn Khóa 2 Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia
Phan Bội Châu, Trường Tôi Ngày Đó
Quân Trường
Quà cho con trong tù
Tiếc thương
Thuốc Lào Trong Tù "Học Tập Cải Tạo"
Thêm ba con số không
Vì thấy tinh thần phục vụ của anh em trong Hội Quán Phi Dũng có mục đích cao cả Quốc Gia như tâm lòng của mình, tôi Nguyễn Thừa Bình lần đầu tiên xin được làm quen và gởi một chuyện ngắn NGƯỜI BẠN 101 đến để quý anh em đọc lúc một ngụm trà, một điếu thuốc, một ngụm cà phê mà nhớ thời chinh chiến, tù đầy và lưu lạc.... NGƯỜI BẠN 101 là một Ðại Úy của Ðơn Vị 101 trong ngành Quân Báo của Quân Lực VNCH. Xin kính chúc toàn thể anh em trong HỘI QUÁN PHI DŨNG được nhiều sức khỏe, mạnh cách bằng tung mây, lướt gió. Mến, Nguyễn Thừa Bình.
Người bạn 101
“Chạy đâu cho khỏi nắng”, ông bà mình ngày xưa nói đúng quá. Ðúng hay không đúng với ai thì tôi không biết, nhưng đúng với tôi tới một trăm phần trăm. Tôi bỏ Gia Nghĩa của Quảng Ðức chạy qua Lâm Ðồng. Bỏ Lâm Ðồng, tôi chạy xuống Nha Trang. Tôi bỏ Nha Trang theo tàu thủy vào Sài Gòn. Tới Bến Bạch Ðằng, lên tàu nghĩ lại “không lẻ đi một mình”, tôi xuống tàu ỏ lại Việt Nam.
(hình trái: Tu nghiệp ở Okinawa )
Ngày 27 tháng 6 năm 1975 tôi xách hành trang tình nguyện đi “học tập cải tạo” ở Nam, ở Bắc thiếu gần 2 tháng là đủ 9 năm ròng rã. Ðoạn đường dài ở tù của Việt Cộng, bạn bè tôi có ở Biên Hòa, ở Yên Bái, ở Lào Cai, ở Vĩnh Phú, ở Thanh Hóa và ở Hàm Tân trước khi được thả về nhiều kể không hết. Nhưng có một người bạn khi nói về đời tù, khi nói về tình nghĩa anh em bầu bạn thì không bao giờ tôi không nhắc đến. Người bạn, chúng tôi biết nhau mà không thân nhau năm đó 1976 cùng tuổi 34 ở Trại 6, Liên Trại 1 Ðoàn 776 ở Xã Việt Cường, Huyện Trấn Yên Tỉnh Yên Bái. Anh ta, lúc bấy giờ vẫn còn là một thanh niên tuấn tú, hùng dũng, vui vẻ, rất dễ mến và đặc biệt là nụ cười thường nở toe toét trên hai mội dầy…Người bạn tôi đó Nguyễn Minh Chánh, Ðại Úy Ðơn Vị 101 mà tôi muốn nói tới với một tâm tình quý mến tri kỷ.
(Hình phải: Núi đồi Huyện Trấn Yên Tỉnh Yên Bái)
Chắc là tháng 8 năm 1976, Chánh từ Trại Long Giao, Long Khánh và tôi từ Suối Máu, Biên Hòa xuống Tàu Sông Hương dơ dáy, chật ních ở Tân Cảng Sài Gòn để chuyển trại ra Bắc. Ði tàu thủy, đi ghe, đi xe lửa, đi phà, đi Molotova, chúng tôi tới trại vào một sáng mù mờ sương mai. Những ngày đầu ở đây, rừng núi, đồi hoang, trời đất cô liêu, u tịch…chúng tôi thấy trần truồng nỗi đau tột cùng. Mới ngày đầu đã có ngưòi chết vì chặt cây làm nhà. Mấy ngày sau, hằng chục người bị cấp cứu vì “sốt vàng da”. Chặt giang, chặt nứa, chặt cây làm “láng” ở, đốt rừng, “bứng gốc”, cắm tiêu, đào hố chè, “sụt bùn”, “lên luống” và đêm nào như đêm nấy phê bình, kiểm điểm đến hụt hơi sống. Nơi đó, Nguyễn Minh Chánh cao, to, linh hoạt, vui vẻ, cười những nụ cười bâng quơ, ngạo nghễ đã nổi bật lên “trong đám xuân xanh ấy” như một người ai ai cũng muốn giao du, muốn kết thân làm bạn. Tôi ở khác Ðội với Chánh, nhưng khuôn viên Trại 6 đã không lớn là bao mà còn bị mấy nhóc Bộ Ðội nhắc tới nhắc lui “ê anh kia đi đâu ra xa” nên chúng tôi gặp nhau thường nhưng chưa thân quen và chẳng chuyện trò, nhưng dĩ nhiên là biết nhau. Chánh đào hố chè là những rãnh sâu 6 tấc rộng 6 tấc và dài thì nhiều chục mét chạy quanh trôn ốc từ chân đồi lên đến đỉnh một cách mau lẹ nhưng không bao giờ chịu “vượt chỉ tiêu”, không bao giờ muốn hơn anh em bạn tù với mình để được là “người tốt, việc tốt”. Rồi tôi với Chánh lại cùng vô Trại 9 dưới Dốc Cây Ða mà ở trên có Trại 12 và trong kia có Trại 13, Trại 14 và xa xa là Hang Dơi, Núi Nả. Chúng tôi vẫn ở hai Ðội khác nhau, hằng ngày hoặc bị tụi Bộ Ðội lùa về trại cũ đào hố chè, phát hoang, đốt rừng, cuốc lỗ trồng “sắn” hoặc “tự giác” đi chặt giang, chặt nứa, chặt cây làm cột nhà cho Cốc. Cốc là Trại Trung Ương Sô 1 của Ðoàn 776 giam giữ Tướng, Tá của “Tù Học Tập Cải Tạo”. Làm cách nào làm, tới Trại chúng tôi mà quăng bó nứa, bó giang hay cây to làm cột nhà xuống đất thì trăm lần như một lại thấy người bạn của tôi đó đã thong dong ngồi hút hết một, hai điếu thuốc rồi. Chánh đã mạnh lại lanh và mưu lược nên bỏ lại đằng sau chúng tôi là đương nhiên. Khoảng một năm sau ngày ra Bắc, chúng tôi lại bị mấy nhóc con“Bộ Ðội Bác Hồ” lùa vào xe Molotova rồi tống vô xe lửa và bắt đi bộ lên Cổng Trời của Rặng Fansipan qua bên kia miền ngược Xã Dương Quỳ của Huyện Văn Bàn là “cõi chết nghìn trùng”. Láng trại ở đây là chuồng trâu, chuồng bò của Hợp Tác Xã Người Tầy để lại. Nơi đây, cái chết treo lủng lẳng trên đầu từng giờ vì con người dã man với con người đã đành mà trời đất còn làm ra rừng thiêng nước độc trùng trùng oan khiên hành hạ những người tù rồi đây sinh Nam tử Bắc!? Chánh đã to con lớn xác mà lao động thì vô cùng đời tù. Cơm thường lưng một “Chén Tàu” có khi là bo bo, có khi là bắp hầm, có khi là “sắn duôi” hay 2, 3 khúc khoai mì cụt ngủn hoặc một “bánh xe lảng tử” cỡ nắm tay…thì làm sao chịu nổi. Và không phải chỉ Chánh mà hết thảy những người tù từ Xuôi đưa lên Ngược nầy đều đói như sống chờ chết. Ngồi bên ăn với nhau, cái gì của trại phát thì “lủm một cái” là hết, Chánh có thêm một nón sắt “rau tập tàng” và tôi cũng “hổ lốn” ba thứ tàu bay, cải trời. Ăn tầm bậy mà không chết tầm bạ cũng may! “Có ai nghĩ ngày nào như hôm nay mình ra nông nỗi nầy”, ngậm ngùi, chúng tôi thường nói với nhau có khi ứa những giọi nước mắt sống! Ở đâu, các trại tù Việt Cộng, người tù cũng chun vô rừng giống nhau.
Ở Văn Bàn, người tù hằng ngày cứ phải băng rừng, lội suối với Người Mèo, Người Mán mà chặt và khiêng về những cây vầu dài 10 mét trở lên và gốc to cả 2 gang tay người ta vòng lại và chung đụng với muỗi rừng, vắt đói, ruồi vàng, rắn độc… hăm he hút cho hết chút máu ít ỏi không còn bao nhiêu trong thân người xơ xác của mình. Khoảng giữa năm 1978, chúng tôi lại bị lùa lên lần nữa Cổng Trời cao 2000 mét trên ngọn Fansipan cao nhất Nước Việt Nam để qua Phà Âu Lâu cũ kỹ trên Sông Hồng mà về lại Liên Trại 1 Yên Bái như hồi trong Nam mới ra. Bây giờ, tôi với Chánh cùng ở chung một Ðội Nông Nghiệp và hai đứa ăn uống chung cùng với nhau những lúc “lao động là vinh quang” trong rừng hay trong lòng Trại 1 ở Cốc và bấy giờ, tình thân đã như thủ túc. Dù ít nói về mình, nhưng có nhiều năm gần gũi ngọt bùi, chúng tôi cũng biết nhau ít nhiều. Thân sinh của Chánh, Trung Úy Nhảy Dù mất năm 1954, thời Cao Văn Viên, Phan Trọng Chinh đóng lon Ðại Úy cùng binh chủng. Thân mẫu côi cút, một mẹ nuôi sáu trai, một gái đều lớn khôn và không đến nổi nào với người ta. Chắc như vậy nên nói tới mẹ, Chánh bao giờ cũng tỏ ra đứa con có hiếu, kính trọng, tôn thờ và nhiều khi rưng rưng nước mắt. Ai nói người lính không có nước mắt, không có tấm lòng?
(Chánh với con rể)
Là học sinh Trường Trung Học Pétrus Ký, đậu Tú Tài 2, không lên Ðại Học vì “ bầy em và mẹ già” hay vì “con ông không giống lông cũng giống cánh”? Chắc cả hai, Chánh vào Khóa 17 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức năm 1963, vừa tròn 21 tuổi. Các em của Chánh, một Ðại Úy Nhảy Dù, một Trung Sĩ Sư Ðoàn 23, một Trung Sĩ Thủy Quân Lục Chiến… cũng là giòng máu quân đội, lấy chiến trường làm thế sự, lấy anh em làm chiến hữu sống chết chí tình. Thật vậy, sống từ Văn Bàn thời Quân Quản đến Trại Trung Ương Số 1 Lào Cai và Tân Lập Vĩnh Phú thời Công An, chúng tôi đã chia nhau chỗ nằm, san sẻ cho nhau miếng đường, hột muối…đời “tứ hải giai huynh đệ”. Và những lúc tưởng như sắp chết, luôn luôn chúng tôi cứ một lòng giữ lấy lời “chúng ta còn đấng sinh thành, còn vợ, còn con, còn liêm sỉ của kẻ sĩ và dũng khí của một Sĩ Quan Việt Nam Cộng Hòa thì không bao giờ và mãi mãi không bao giờ để mất danh dự và ô uế thanh danh”. Giữ được như vậy trong Trại Tù Cộng Sản chết vì miếng ăn, chết vì lời nói và chết vì việc làm thì không phải dễ chút nào. Và chúng tôi đã giữ được lòng, với tôi gần 9 năm và Chánh 15 năm rưỡi đời tù “học tập cải tạo”. Ra trường năm 1964, Chuẩn Úy Chánh về Biệt Ðoàn 300 là đơn vị Tình Báo Chiến Trường mà Chỉ Huy Trưởng là Thiếu Tá Hồ Văn Kiệt lúc bấy giờ. Chánh tu nghiệp Khóa Tình Báo Sưu Tập 2 tháng tại Trường FOI USARPACINTS ở Okinawa, Nhật Bổn. FOI là chữ tắt của Field Operation Intelligence có nghĩa Tình Báo Sưu Tập Tin Tức Chiến Trường và USARPACINTS cũng là chữ tắt của United States Army Pacific Intelligence School là Trường Tình Báo Thái Bình Dương của Quân Ðội Hoa Kỳ. Chánh nhớ một ít kể lại; tôi nhớ một ít viết lại có thể không đủ, không nhiều chính xác. Và anh ta không khỏi ngậm ngùi nói với tôi hoài: “Ngành Tình Báo, như ông bạn cũng Ngành Tình Báo, dư biết chúng ta chiến đấu âm thầm mà chết cũng âm thầm; ai biết ai là bạn; ai biết ai thành bại mà chia chác vinh nhục”!? Biệt Ðoàn 300, hơn một năm sau đổi tên là Liên Ðoàn Yểm Trợ 924 và từ năm 1968 đổi ra là Ðơn Vị 101 cho tới 30 tháng 4 năm 1975 dưới quyền chỉ huy của Ðại Tá Lê Ðình Luân. Và Chánh từ Chuẩn Úy đến Ðại Úy cứ ở lì một chỗ và cứ Sĩ Quan Liên Lạc dù tên có đổi, chỗ có dời để cuối đời binh nghiệp thì dưới quyền của Trung Tá Lục Khương Ninh, Chỉ Huy Trưởng Ðoàn 69 Biệt Khu Thủ Ðô. Người ta, các khóa đàn em xa vời vợi sau nầy cũng là Ðại Úy, là Thiếu Tá, thậm chí có người như vì sao xẹt vụt lên Trung tá rồi nhưng “mầy sao khoái Ðại Úy Muôn Năm vậy Chánh”? Tôi có khi hỏi đùa với Chánh trong những ngày giờ hai đứa đói nhăn răng và lăn lóc nỗi đau đời mạt rệp trong tù.
Nói vậy chớ, ở thành phố nhỏ Kansas City của tôi cũng có những ông Khóa 16, cả Khóa 13 nữa, cứ nằm lì cái lon Ðại Úy thì tại làm sao bây giờ? Chơi với nhau, tôi cũng hiểu một phần lý do tại làm sao. Tại Người Bạn 101 của tôi làm thì làm cũng dữ mà chơi thì chơi cũng dữ nhưng không dữ thói chạy chọt, bon chen, cầu cạnh và sẳn dàng “xẵng” với xếp. Ðơn giản và hết sức đơn giản là vậy mà không dễ mau lên lon. Có điều tôi đoan chắc, Chánh rất được lòng bạn bè vì tánh tình hết sức vui vẻ, cởi mở, trong sáng và tấm lòng tâm giao, tri kỷ. Với tôi và với những người bạn tù Yên Bái, Lào Cai, Vĩnh Phú… đã đi qua với Chánh, đã thấy như vậy đó tận mắt, tận tai. Có một điều, có lẻ cũng là một điều cốt cách cho người hoạt động tình báo là Chánh rất cần cù, thông minh, kiên định, can đảm. Trong tù, thỉnh thoảng có anh em nào lỡ lời nói tốt, có thể là vô tình một tên cán bộ nào đó thì một trăm phần trăm Nguyễn Minh Chánh sẽ nặng lời mắng mỏ, sỉ vã và nếu cần “tao cho một đá bây giờ”. Thấy những người anh em được Trại cho làm Ban Trật Tự hay làm Ðội Trưởng quá sức hắc ám, hung hãn, Chánh tức lắm “để tao làm”. Nói thì nói vậy, “đâu dễ mậy”, tôi nói với Chánh. Sau khi tu nghiệp ở FOI USARPACINTS về, Chánh kết hôn với người bạn gái, nữ sinh Trường Trung Học Tư Thục Nguyễn Bá Tòng, nhà gần với nhau trên Ðường Hồng Bàng Chợ Lớn vào năm 1965. Hai người lấy nhau được một trai, hai gái thì Chánh để ba con lại cho vợ nuôi không có một chút vốn liếng đồng tiền mà rảnh cẳng thênh thang con đường tù tội như nói ở trên lâu đến 15 năm rưỡi. Và tôi cũng không khác gì. Tôi đi, vợ mới 21 tuổi với ba con mà nhỏ nhất chưa tới một tuổi, tiền không có, nhà không có. Vợ con, nay “tạm trú” bên nhà chồng ở Phan Thiết, mai “tạm trú” với nhà mẹ ruột ở Sài Gòn. Một sự đổi đời thê lương, thê thảm…Chúng tôi biết vậy, dẫu có gì trong tù cũng không bao giờ hé môi một lời yêu cầu “thăm nuôi”, “quà cáp”. Chánh cứ nhắc hoài, “mình khổ một, vợ khổ cả trăm, cả ngàn”. “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, tôi bắt chước lời nói trong Truyện Xuân Tóc Ðỏ của Vũ Trong Phụng nói lại với Chánh mà trong lòng không khỏi xót xa. Chị Chánh, quả là một người đàn bà Việt Nam thuần túy, đích thực cao thượng theo truyền thống dân tộc. Với bàn tay trắng và bụi phong trần chưa quen gió cát, chị tảo tần nuôi con lớn khôn theo từng ngày và ngồi đếm thời gian tháng năm chồng đi, đi mãi không thấy về. Nghe Băng Tâm ca Bài Ca Cái Cò của Nguyệt Ánh “thương em dạ sắt lòng son, một thân đơn chiếc nuôi con, thăm chồng” mà nhớ lại cảnh người vợ của ông bạn tôi hồi đó sao mà truân chuyên quá sức.
Cuối năm 1977, chúng tôi lại qua Sông Hồng lần thứ tư để “chuyển trại” lên núi rừng Vùng Việt Bắc tới Trại Trung Ương Số Lào Cai kế bênTrung Quốc. Ði đâu đi, chúng tôi bao giờ cũng bị “biên chế” vào những Ðội trời ơi đất hỡi. Hai đứa vào Ðội Gạch đạp đất, đóng gạch, đốt gạch, chất gạch “hộc gạch” luôn. Bấy giờ đã vào Mùa Ðông lạnh tím người, bụng luôn luôn trống trơn và công việc thì nặng như trời như đất. Cái chết mong manh hơn chỉ mành treo chuông. “Trời kêu ai nấy dạ” biết sao bây giờ! Một hôm, Chánh đưa tôi một khúc rễ cây mới đào lên và nói: “ăn cho đỡ đói”. “Ăn cho đỡ đói”, hai đứa cứ đào, cứ ăn và cây đã ngã đùng ra chết một cách tức tưởi, oan khiên. Ðời tù rồi cũng sẽ ra đi một cách âm thầm, cô quạnh nơi một góc rừng núi thăm thẳm âm u nào đó có ai biết là ở đâu. Bạn tôi, Người Bạn Ðơn Vị 101 nụ cười hình như đã mõi mòn; sức lực như bị trút dần theo bước chân tù và thân người chắc chắn ngày một nhỏ con lại mà Chánh Mập như tên gọi từ xa thật là xa vọng lại mới chợt nhớ ra là tên mình. Mỗi lần Giới, tên Cán Bộ Công An ngọng ngọng nghịu nghịu nói “học tập tốt, sớm về với gia đình” là y như rằng, Chánh cứ văng tục ra mà nhái theo giọng của cụ Trần Văn Hương lời nói của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu “đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm”. Ở đây, lại thêm một cái Tết Mậu Ngọ 1978 mênh mông nỗi buồn nữa đi qua và lãng đãng cái chết không rời. Rồi tin Tàu sẽ đánh, dù cận kề Tết Kỷ Mùi 1979, chúng lại chuyển tù chúng tôi từ Lào Cai về K5 Tân Lập Vĩnh Phú. Ăn Tết chưa tới một tháng thì ngày 17 tháng 2 tụi Tàu đánh vào 6 tỉnh Miền Bắc Việt Nam thiệt. Trưởng Trại, tên Thiếu Tá Nguyễn Thùy, loại ngụy quân tử thường rêu rao “Lao động là vinh quang”, Chánh thường đáp lại “vinh quang cái đầu Bác mầy chớ vinh quang”. Ở đây, những người anh em tù của mình tên Bình, Hùng, Uyễn làm Ban Trật Tự với một tên tù hình sự Bích làm trưởng ban đã gây kinh hoàng, khíp vía biết mấy. Ma le, Chánh đóng kịch làm người bệnh hay hơn tài tử điện ảnh Hollywood và những tên tuổi gạo cội Broadway của Mỹ nên, ai đi đâu thì đi, Chánh cứ ngủ, cứ nghỉ và cứ nói: “ngu sao đi làm”. Vài tháng sau, ông ta làm thầy, dạy tôi đóng kịch, đóng vai người bệnh. Và tôi cũng được ở nhà với lý do đủ thứ bệnh. Ðội Nông Nghiệp, từ anh bạn Trần Trọng Thuyên Ðội Trưởng đến bác Cát Hội Ðồng Tỉnh Gò Công, ông Biện Lý Trần Huỳnh Mai ở Gia Ðịnh…ai mà không biết hai thằng trời đánh nầy “trây lười lao động chớ bệnh hoạn gì, bệnh giả đò thì có”. Ngặt một cái, hai thằng thiên lôi ngang ngược “đụng tới tụi nó chi cho rắc rối”.
(hình: Vợ chồng trong tiệm phở của mình ở Houston).
Vậy mà, Chánh được nghỉ ngơi cả 9 tháng trời và tôi cũng ăn ké được 6 tháng ở nhà đi vô đi ra không phải lao động lao điếc gì cả. Có điều, cái bọn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hay bấy giờ là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tính toán và hành hạ người tù rất là chi li. Chúng cho chúng tôi ăn theo “chế độ” 13 kí lô rưỡi lương thực một tháng. Nếu ăn cháo thì được 2 chén cháo lỏng le một ngày. Nếu ăn khoai mì thì được một khúc rưỡi ngắn và nhỏ cho một bửa ăn. Chánh cứ nói: “ráng chịu đói mà sống còn hơn ăn không no mà lao động khổ sai là chết sớm”. Nhiều khi trên Trạm Xá, Ðại Úy Hiệp, một Sĩ Quan Quân Y Việt Nam Cộng Hòa cũng là Tù Học Tập Cải Tạo cho thuốc uống hay bắt chích thuốc, tôi ngại ngại, nhưng Chánh thì “không trị bệnh nầy cũng trị bệnh kia; không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc, làm gì mà sợ”. Ở khoảng một năm, qua Tết Canh Thân năm 1980, chúng lại lùa chúng tôi lê lết qua Trại K1 cũng trong hệ thống Trại Tân Lập Vĩnh Phú. Tôi với Chánh trong một đội, Ðội Chè với các đàn anh hết thảy là Trung Tá. Trung Tá Thiện không nhớ họ làm Ðội Trưởng. Ngày ngày gánh nước tưới “chè” mới biết “nước sông công tù”. Một bạn tù đàn anh mệt thì mệt mà cứ “công đâu công uổng công thừa; công đâu gánh nưóc tuới dừa Tam Quan!”. Ðêm ngủ mấy chục người trong một cellule nhỏ chút xíu không đủ không khí mà thở và rệp thì bò khắp châu thân tìm ăn. Tôi với Chánh phải ngủ cùng trong một cái mùng nylon cá nhân của thời Việt Nam Cộng Hòa. Cũng vì sự thân thiện quá đáng của giòng họ ba đời rệp đói cứ tìm mình lân la mà đêm ngủ phải cột kín mít toàn thân con người lại như thây ma. Ngán thiệt đời tù Cộng Sản, ăn cũng khổ, làm cũng khổ mà ngủ cũng khổ. Tháng 12 năm 1980 chúng tôi không còn ở tù chung với nhau nữa nhưng vẫn hứa với nhau là anh em kết nghĩa không thằng nào làm anh và không thằng nào làm em, mầy tao mà thôi. Chánh ở lại và tôi vào Thanh Phong rồi Thanh Lâm thuộc Huyện Như Xuân của Tỉnh Thanh Hóa. Ðời tù, thằng nào thằng nấy lo.
Vào cuối tháng 4 năm 1982, tôi lại “chuyển trại” về Z.30C Hàm Tân thuộc Tỉnh Thuận Hải. Dù có xa nhau nhưng tôi vẫn ngóng tin về người bạn của tôi, người bạn có vui có buồn, có đói có khổ, có sống có chết với nhau nhiều năm dãi dầu, oan nghiệt. Nghe bên kia ngọn đồi nhỏ có Z.30D cũng giam tù ngoài Bắc chuyển vào, tôi lò dò đi tìm. Nhưng được một đoạn trong rừng thì bị mấy ông bạn tù kéo về, “bộ mầy muốn trốn trại?” và mấy Công An “ê, anh kia đi đâu, đi lui?” Ngày 7 tháng 5 năm 1984 tôi ra tù dù Giấy Ra Trại ký ngày 23 tháng 4 năm 1984, tôi mới biết đích xác rằng Chánh còn trong tù ở Trại Z.30D Hàm Tân. Chị Chánh có khốn khổ bao nhiêu cũng ráng “thăm nuôi” chồng thường xuyên. Có như vậy, Chánh Mập mới hoàn hình Chánh Mập. Không như ngoài Bắc là “con bà sơ”, “tao phải ăn thịt tao” để Chánh bị đổi danh là Chánh Ròm. “Tao phải ăn thịt tao” lấy từ câu nói của anh bạn tù tên Dũng, Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến đanh đá trả lời với nhóc con Cán Bộ Dẫn Giải hăm he “bắn bỏ”. Rằng: “tao phải ăn thịt tao vì trước khi vào tù, tao 152 kí lô mà bây giờ cân đong đo đếm, tao không quá 35 kí lô”. Một ngày Mùa Thu năm 1985 tôi theo chị Quyền, người vợ thủy chung của Chánh vào Z.30D thăm Chánh đang còn ở tù. Anh em gặp nhau, vui cũng có vui mà buồn thì thiệt nhiều. Chánh vẫn nụ cười toe toét miệng, rổn rảng, sảng khoái, tôi thấy trong đó hình như không dấu hết được mênh mông nỗi buồn thúi ruột! Một đêm ngủ lại với bạn, anh em không khỏi không có những giọt nước mắt. Cuối năm 1990 tính ra cũng tròn 15 năm rưỡi ở Tù Học Tập Cải Tạo, Chánh mới về với gia đình…Thân mẫu không còn ưu phiền, sợ thằng con không biết nó sẽ bỏ xác nơi đâu. Vợ và con bây giờ một nhà đoàn tụ, hạnh phúc hiện tại và lo liệu tương lai. Những bạn tôi “Ngụy Quân Ngụy Quyền” đi tù về có việc gì mà làm? Làm nghề đạp xích lô, nghề bốc xếp, nghề bán giấy số…cũng không dễ mà làm. Tôi bày ra cơ sở làm nhang bỏ mối và cho vợ ngồi ở sạp trong Chợ Phan Thiết bán. Chánh lúc tù mới ra phụ thợ hồ kiếm chút cháo cơm khắp nơi và cho có công ăn việc mà tránh những con mắt cú Cộng An “một năm quản chế”. Là một người linh hoạt, vài tháng sau Chánh dụ vợ mở quán Bún Bò Huế nhỏ nhỏ. Tôi không biết ổng bả Người Nam chính gốc làm sao mà nấu cho được tô Bún Bò Huế rất Huế mà bán buôn với người ta nhỉ? Ổng cứ chỉ vào cái đầu tóc tai bù xù như người nghệ sĩ dính bụi giang hồ tứ chiếng và chỉ vào cái bụng đã bắt đầu có da có thịt mà nói: “cũng vì cái trí nghĩ ra và cái bụng đói phải bò”. Chúng tôi hai gia đình dù Phan Thiết với Sài Gòn nhưng thường gặp nhau nói chuyện đời nay, nói chuyện đời xưa. Chuyện đời xưa hai đứa kết nghĩa anh em, đòi con cháu “cho tụi nó lấy nhau”. “Ngôn dị hành nan”, người xưa nói đúng. Lấy nhau con khỉ khô. Tụi nó bây giờ lấy ai là tùy ý tụi nó. Mình làm cha mẹ “con đặt đâu, ngồi đó”, làm sao nói “cho tụi nó lấy nhau” được? Giữa tháng 11 năm 1992, hai vợ chồng tôi và 5 đứa con theo HO 14 qua Mỹ, định cư ở Thành Phố Kansas City cho đến nay cũng đã 20 năm thêm gần 1 tháng. Chánh qua Mỹ khoảng tháng 7 năm 1993 tức sau tôi chừng 8 tháng. Ban đầu bồng bế nhau định ở lâu nơi Tiểu Bang Washington giàu, đẹp. Sau “cũng vì cái trí nghĩ ra và cái bụng đói phải bò”, hai vợ chồng bỏ mấy đứa con đã lập gia đình ở lại, nắm tay nhau về xứ nóng chang chang Houston mở tiệm Phở sống đời ông bà chủ buôn bán “lấy công làm lời”. Tôi cũng chẳng lạ lùng gì cái tài xoay sở của ông bạn già của tôi khi hai đứa ở tù với nhau ngoài Bắc hồi đó. Ngày xưa trong Ðơn Vị 101, ổng đã nhờ khéo léo, mưu chước và kiên trì mà nhiều năm làm việc với những công việc kín, hở tưởng như không hoàn thành mà hoàn thành một cách xuất sắc, tốt đẹp là khác. Tiệm Phở không lấy tên những tên nổi tiếng như Phở Hòa, Phở Pasteur, Phở Tàu Bay…mà chỉ là The Vietnamse Noodle như thể không có tên gì cả. “Cũng có đồng vô đồng ra với người ta, không giàu nhưng khắc khoải được”, Chánh thường nói như vậy. Nhưng tôi nghĩ, có làm ăn phát đạt tới cỡ nào, trước sau gì vợ chồng Chánh cũng sẽ về lại Washington, nơi có đầy đủ một đứa con trai, hai đứa con gái và bây giờ thêm mấy đứa cháu ngoại. Ông Chánh, Bà Quyền sao mà đi xa, đi biền biệt không về cho được, không về cho đành.
Và không sai chút nào, ông bà đã về lại Lynnwood, Tiểu bang Washington mà yên bề tuổi già bên con bên cháu những ngày cuối đời thong dong, hạnh phúc. Nhìn lại những tấm hình Chánh mới gởi cho, thấy người bạn mình già đi nhiều nhưng nét cười vẫn lạc quan tươi trẻ đọng trên đôi môi dầy như thuở nào ba, bốn chục năm qua. Già, dĩ nhiên mình còn trẻ gì đâu. Hai đứa cuộc đời đang mon men bước qua cái tuổi “thất thập cổ lai hi” một tuổi thêm rồi còn gì!
Gần 9 năm trong đời “Tù Học Tập Cải Tạo” ở Biên Hòa, ở Yên Bái, ở Lào Cai, ở Vĩnh Phú; ở Thanh Hóa và ở Thuận Hải thiếu ăn thì có, thiếu mặc thì có nhưng không thiếu bạn bè tù. Bạn bè tù không giống bạn bè thời học sinh cắp sách đi học là đồng song, đồng môn; không giống bạn bè cùng xông ra trận sống chết với kẻ thù hồi nào Quốc-Cộng là chiến hữu, là đồng đội. Bạn bè thời học sinh cắp sách đi học không thấy bao nhiêu tinh thần bất khuất với khuất phục kẻ thù là Việt Cộng. Bạn bè cùng xông ra trận sống chết với kẻ thù ai ai cũng thấy một lòng với Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm. Nhưng bạn bè tù có lẻ bắt chước và làm theo câu nói học thuộc lòng ngày xưa học Pháp Văn, rằng “À Rome, fais comme les Romes” mà ông bà ta thuờng dạy “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” nên hãy coi chừng những bạn bè của ta “nói dzậy mà không phải dzậy” mình chết như chơi. Con người khi vào ngõ cụt dễ suy bì hơn thiệt và chỉ làm những gì có lợi cho mình mà thôi, bất kể là ai và ra sao thì ra. Cho nên trong tù, người ta quen biết nhau đông thiệt là đông hằng trăm, hằng ngàn nhưng bạn bè nhất là bạn bè tri kỷ thì hiếm hoi đếm trên đầu ngón tay. Không phải vì “Ami de plusieurs, ami de nul” như năm 1967, ông bạn Huỳnh Hồng Quang, Biên Tập Viên Khóa 2 Học Viện Cảnh Sát Quốv Gia của tôi thường nói “bạn bè nhiều quá thì không có bạn bè nào”. Tôi có người bạn Huỳnh Ngọc Thuận, Ðại Ðội Trưởng Cảnh Sát Dã Chiến giữ Ðài Truyền Hình trên Ðường Hồng Thập Tự “vì đói quá chịu không nổi” đã vắt hết sức lực mình ra để đổi lấy phần ăn 23 kí lô một tháng. Tôi có người bạn đồng hương, Ðại Úy Trần Ngọc Nhã, Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu đói thì đói cũng ráng nhịn đến chết đi được, lấy phần ăn đổi áo, đổi quần “để khi về có mà mặc với người ta”. Nhưng với Chánh, người xưa nói “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” thì không trật môt chút nào. Chúng tôi trong tù, phản ứng trước nghịch cảnh, hai đứa gần như giống nhau hoàn toàn. Gần như giống nhau hoàn toàn có lẻ xuất phát tự đáy lòng lương thiện và tâm hồn sáng như trăng sao vằng vặc không cần phải khoe ra mà ai cũng đã thấy rồi. “Người ta có thể ghét mình vì bản tính nhưng không khinh mình vì bản chất”, hai đứa cứ nhắc nhở nhau mà giữ gìn. Và giữ gìn cho đến hôm nay, bạn bè ghét thì có nhưng chắc chắn bạn bè không có ai khinh. Và chúng tôi, tôi với Nguyễn Minh Chánh tình anh em bạn tri kỷ vẫn không bao giờ biến dạng, thay đổi, suy suyển…
NGUYỄN THỪA BÌNH
Cuối Thu Nhâm Thìn, Năm 2012

(hình trái: Tu nghiệp ở Okinawa )Ngày 27 tháng 6 năm 1975 tôi xách hành trang tình nguyện đi “học tập cải tạo” ở Nam, ở Bắc thiếu gần 2 tháng là đủ 9 năm ròng rã. Ðoạn đường dài ở tù của Việt Cộng, bạn bè tôi có ở Biên Hòa, ở Yên Bái, ở Lào Cai, ở Vĩnh Phú, ở Thanh Hóa và ở Hàm Tân trước khi được thả về nhiều kể không hết. Nhưng có một người bạn khi nói về đời tù, khi nói về tình nghĩa anh em bầu bạn thì không bao giờ tôi không nhắc đến. Người bạn, chúng tôi biết nhau mà không thân nhau năm đó 1976 cùng tuổi 34 ở Trại 6, Liên Trại 1 Ðoàn 776 ở Xã Việt Cường, Huyện Trấn Yên Tỉnh Yên Bái. Anh ta, lúc bấy giờ vẫn còn là một thanh niên tuấn tú, hùng dũng, vui vẻ, rất dễ mến và đặc biệt là nụ cười thường nở toe toét trên hai mội dầy…Người bạn tôi đó Nguyễn Minh Chánh, Ðại Úy Ðơn Vị 101 mà tôi muốn nói tới với một tâm tình quý mến tri kỷ.
(Hình phải: Núi đồi Huyện Trấn Yên Tỉnh Yên Bái)Chắc là tháng 8 năm 1976, Chánh từ Trại Long Giao, Long Khánh và tôi từ Suối Máu, Biên Hòa xuống Tàu Sông Hương dơ dáy, chật ních ở Tân Cảng Sài Gòn để chuyển trại ra Bắc. Ði tàu thủy, đi ghe, đi xe lửa, đi phà, đi Molotova, chúng tôi tới trại vào một sáng mù mờ sương mai. Những ngày đầu ở đây, rừng núi, đồi hoang, trời đất cô liêu, u tịch…chúng tôi thấy trần truồng nỗi đau tột cùng. Mới ngày đầu đã có ngưòi chết vì chặt cây làm nhà. Mấy ngày sau, hằng chục người bị cấp cứu vì “sốt vàng da”. Chặt giang, chặt nứa, chặt cây làm “láng” ở, đốt rừng, “bứng gốc”, cắm tiêu, đào hố chè, “sụt bùn”, “lên luống” và đêm nào như đêm nấy phê bình, kiểm điểm đến hụt hơi sống. Nơi đó, Nguyễn Minh Chánh cao, to, linh hoạt, vui vẻ, cười những nụ cười bâng quơ, ngạo nghễ đã nổi bật lên “trong đám xuân xanh ấy” như một người ai ai cũng muốn giao du, muốn kết thân làm bạn. Tôi ở khác Ðội với Chánh, nhưng khuôn viên Trại 6 đã không lớn là bao mà còn bị mấy nhóc Bộ Ðội nhắc tới nhắc lui “ê anh kia đi đâu ra xa” nên chúng tôi gặp nhau thường nhưng chưa thân quen và chẳng chuyện trò, nhưng dĩ nhiên là biết nhau. Chánh đào hố chè là những rãnh sâu 6 tấc rộng 6 tấc và dài thì nhiều chục mét chạy quanh trôn ốc từ chân đồi lên đến đỉnh một cách mau lẹ nhưng không bao giờ chịu “vượt chỉ tiêu”, không bao giờ muốn hơn anh em bạn tù với mình để được là “người tốt, việc tốt”. Rồi tôi với Chánh lại cùng vô Trại 9 dưới Dốc Cây Ða mà ở trên có Trại 12 và trong kia có Trại 13, Trại 14 và xa xa là Hang Dơi, Núi Nả. Chúng tôi vẫn ở hai Ðội khác nhau, hằng ngày hoặc bị tụi Bộ Ðội lùa về trại cũ đào hố chè, phát hoang, đốt rừng, cuốc lỗ trồng “sắn” hoặc “tự giác” đi chặt giang, chặt nứa, chặt cây làm cột nhà cho Cốc. Cốc là Trại Trung Ương Sô 1 của Ðoàn 776 giam giữ Tướng, Tá của “Tù Học Tập Cải Tạo”. Làm cách nào làm, tới Trại chúng tôi mà quăng bó nứa, bó giang hay cây to làm cột nhà xuống đất thì trăm lần như một lại thấy người bạn của tôi đó đã thong dong ngồi hút hết một, hai điếu thuốc rồi. Chánh đã mạnh lại lanh và mưu lược nên bỏ lại đằng sau chúng tôi là đương nhiên. Khoảng một năm sau ngày ra Bắc, chúng tôi lại bị mấy nhóc con“Bộ Ðội Bác Hồ” lùa vào xe Molotova rồi tống vô xe lửa và bắt đi bộ lên Cổng Trời của Rặng Fansipan qua bên kia miền ngược Xã Dương Quỳ của Huyện Văn Bàn là “cõi chết nghìn trùng”. Láng trại ở đây là chuồng trâu, chuồng bò của Hợp Tác Xã Người Tầy để lại. Nơi đây, cái chết treo lủng lẳng trên đầu từng giờ vì con người dã man với con người đã đành mà trời đất còn làm ra rừng thiêng nước độc trùng trùng oan khiên hành hạ những người tù rồi đây sinh Nam tử Bắc!? Chánh đã to con lớn xác mà lao động thì vô cùng đời tù. Cơm thường lưng một “Chén Tàu” có khi là bo bo, có khi là bắp hầm, có khi là “sắn duôi” hay 2, 3 khúc khoai mì cụt ngủn hoặc một “bánh xe lảng tử” cỡ nắm tay…thì làm sao chịu nổi. Và không phải chỉ Chánh mà hết thảy những người tù từ Xuôi đưa lên Ngược nầy đều đói như sống chờ chết. Ngồi bên ăn với nhau, cái gì của trại phát thì “lủm một cái” là hết, Chánh có thêm một nón sắt “rau tập tàng” và tôi cũng “hổ lốn” ba thứ tàu bay, cải trời. Ăn tầm bậy mà không chết tầm bạ cũng may! “Có ai nghĩ ngày nào như hôm nay mình ra nông nỗi nầy”, ngậm ngùi, chúng tôi thường nói với nhau có khi ứa những giọi nước mắt sống! Ở đâu, các trại tù Việt Cộng, người tù cũng chun vô rừng giống nhau.
Ở Văn Bàn, người tù hằng ngày cứ phải băng rừng, lội suối với Người Mèo, Người Mán mà chặt và khiêng về những cây vầu dài 10 mét trở lên và gốc to cả 2 gang tay người ta vòng lại và chung đụng với muỗi rừng, vắt đói, ruồi vàng, rắn độc… hăm he hút cho hết chút máu ít ỏi không còn bao nhiêu trong thân người xơ xác của mình. Khoảng giữa năm 1978, chúng tôi lại bị lùa lên lần nữa Cổng Trời cao 2000 mét trên ngọn Fansipan cao nhất Nước Việt Nam để qua Phà Âu Lâu cũ kỹ trên Sông Hồng mà về lại Liên Trại 1 Yên Bái như hồi trong Nam mới ra. Bây giờ, tôi với Chánh cùng ở chung một Ðội Nông Nghiệp và hai đứa ăn uống chung cùng với nhau những lúc “lao động là vinh quang” trong rừng hay trong lòng Trại 1 ở Cốc và bấy giờ, tình thân đã như thủ túc. Dù ít nói về mình, nhưng có nhiều năm gần gũi ngọt bùi, chúng tôi cũng biết nhau ít nhiều. Thân sinh của Chánh, Trung Úy Nhảy Dù mất năm 1954, thời Cao Văn Viên, Phan Trọng Chinh đóng lon Ðại Úy cùng binh chủng. Thân mẫu côi cút, một mẹ nuôi sáu trai, một gái đều lớn khôn và không đến nổi nào với người ta. Chắc như vậy nên nói tới mẹ, Chánh bao giờ cũng tỏ ra đứa con có hiếu, kính trọng, tôn thờ và nhiều khi rưng rưng nước mắt. Ai nói người lính không có nước mắt, không có tấm lòng?
(Chánh với con rể)Là học sinh Trường Trung Học Pétrus Ký, đậu Tú Tài 2, không lên Ðại Học vì “ bầy em và mẹ già” hay vì “con ông không giống lông cũng giống cánh”? Chắc cả hai, Chánh vào Khóa 17 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức năm 1963, vừa tròn 21 tuổi. Các em của Chánh, một Ðại Úy Nhảy Dù, một Trung Sĩ Sư Ðoàn 23, một Trung Sĩ Thủy Quân Lục Chiến… cũng là giòng máu quân đội, lấy chiến trường làm thế sự, lấy anh em làm chiến hữu sống chết chí tình. Thật vậy, sống từ Văn Bàn thời Quân Quản đến Trại Trung Ương Số 1 Lào Cai và Tân Lập Vĩnh Phú thời Công An, chúng tôi đã chia nhau chỗ nằm, san sẻ cho nhau miếng đường, hột muối…đời “tứ hải giai huynh đệ”. Và những lúc tưởng như sắp chết, luôn luôn chúng tôi cứ một lòng giữ lấy lời “chúng ta còn đấng sinh thành, còn vợ, còn con, còn liêm sỉ của kẻ sĩ và dũng khí của một Sĩ Quan Việt Nam Cộng Hòa thì không bao giờ và mãi mãi không bao giờ để mất danh dự và ô uế thanh danh”. Giữ được như vậy trong Trại Tù Cộng Sản chết vì miếng ăn, chết vì lời nói và chết vì việc làm thì không phải dễ chút nào. Và chúng tôi đã giữ được lòng, với tôi gần 9 năm và Chánh 15 năm rưỡi đời tù “học tập cải tạo”. Ra trường năm 1964, Chuẩn Úy Chánh về Biệt Ðoàn 300 là đơn vị Tình Báo Chiến Trường mà Chỉ Huy Trưởng là Thiếu Tá Hồ Văn Kiệt lúc bấy giờ. Chánh tu nghiệp Khóa Tình Báo Sưu Tập 2 tháng tại Trường FOI USARPACINTS ở Okinawa, Nhật Bổn. FOI là chữ tắt của Field Operation Intelligence có nghĩa Tình Báo Sưu Tập Tin Tức Chiến Trường và USARPACINTS cũng là chữ tắt của United States Army Pacific Intelligence School là Trường Tình Báo Thái Bình Dương của Quân Ðội Hoa Kỳ. Chánh nhớ một ít kể lại; tôi nhớ một ít viết lại có thể không đủ, không nhiều chính xác. Và anh ta không khỏi ngậm ngùi nói với tôi hoài: “Ngành Tình Báo, như ông bạn cũng Ngành Tình Báo, dư biết chúng ta chiến đấu âm thầm mà chết cũng âm thầm; ai biết ai là bạn; ai biết ai thành bại mà chia chác vinh nhục”!? Biệt Ðoàn 300, hơn một năm sau đổi tên là Liên Ðoàn Yểm Trợ 924 và từ năm 1968 đổi ra là Ðơn Vị 101 cho tới 30 tháng 4 năm 1975 dưới quyền chỉ huy của Ðại Tá Lê Ðình Luân. Và Chánh từ Chuẩn Úy đến Ðại Úy cứ ở lì một chỗ và cứ Sĩ Quan Liên Lạc dù tên có đổi, chỗ có dời để cuối đời binh nghiệp thì dưới quyền của Trung Tá Lục Khương Ninh, Chỉ Huy Trưởng Ðoàn 69 Biệt Khu Thủ Ðô. Người ta, các khóa đàn em xa vời vợi sau nầy cũng là Ðại Úy, là Thiếu Tá, thậm chí có người như vì sao xẹt vụt lên Trung tá rồi nhưng “mầy sao khoái Ðại Úy Muôn Năm vậy Chánh”? Tôi có khi hỏi đùa với Chánh trong những ngày giờ hai đứa đói nhăn răng và lăn lóc nỗi đau đời mạt rệp trong tù.
Nói vậy chớ, ở thành phố nhỏ Kansas City của tôi cũng có những ông Khóa 16, cả Khóa 13 nữa, cứ nằm lì cái lon Ðại Úy thì tại làm sao bây giờ? Chơi với nhau, tôi cũng hiểu một phần lý do tại làm sao. Tại Người Bạn 101 của tôi làm thì làm cũng dữ mà chơi thì chơi cũng dữ nhưng không dữ thói chạy chọt, bon chen, cầu cạnh và sẳn dàng “xẵng” với xếp. Ðơn giản và hết sức đơn giản là vậy mà không dễ mau lên lon. Có điều tôi đoan chắc, Chánh rất được lòng bạn bè vì tánh tình hết sức vui vẻ, cởi mở, trong sáng và tấm lòng tâm giao, tri kỷ. Với tôi và với những người bạn tù Yên Bái, Lào Cai, Vĩnh Phú… đã đi qua với Chánh, đã thấy như vậy đó tận mắt, tận tai. Có một điều, có lẻ cũng là một điều cốt cách cho người hoạt động tình báo là Chánh rất cần cù, thông minh, kiên định, can đảm. Trong tù, thỉnh thoảng có anh em nào lỡ lời nói tốt, có thể là vô tình một tên cán bộ nào đó thì một trăm phần trăm Nguyễn Minh Chánh sẽ nặng lời mắng mỏ, sỉ vã và nếu cần “tao cho một đá bây giờ”. Thấy những người anh em được Trại cho làm Ban Trật Tự hay làm Ðội Trưởng quá sức hắc ám, hung hãn, Chánh tức lắm “để tao làm”. Nói thì nói vậy, “đâu dễ mậy”, tôi nói với Chánh. Sau khi tu nghiệp ở FOI USARPACINTS về, Chánh kết hôn với người bạn gái, nữ sinh Trường Trung Học Tư Thục Nguyễn Bá Tòng, nhà gần với nhau trên Ðường Hồng Bàng Chợ Lớn vào năm 1965. Hai người lấy nhau được một trai, hai gái thì Chánh để ba con lại cho vợ nuôi không có một chút vốn liếng đồng tiền mà rảnh cẳng thênh thang con đường tù tội như nói ở trên lâu đến 15 năm rưỡi. Và tôi cũng không khác gì. Tôi đi, vợ mới 21 tuổi với ba con mà nhỏ nhất chưa tới một tuổi, tiền không có, nhà không có. Vợ con, nay “tạm trú” bên nhà chồng ở Phan Thiết, mai “tạm trú” với nhà mẹ ruột ở Sài Gòn. Một sự đổi đời thê lương, thê thảm…Chúng tôi biết vậy, dẫu có gì trong tù cũng không bao giờ hé môi một lời yêu cầu “thăm nuôi”, “quà cáp”. Chánh cứ nhắc hoài, “mình khổ một, vợ khổ cả trăm, cả ngàn”. “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, tôi bắt chước lời nói trong Truyện Xuân Tóc Ðỏ của Vũ Trong Phụng nói lại với Chánh mà trong lòng không khỏi xót xa. Chị Chánh, quả là một người đàn bà Việt Nam thuần túy, đích thực cao thượng theo truyền thống dân tộc. Với bàn tay trắng và bụi phong trần chưa quen gió cát, chị tảo tần nuôi con lớn khôn theo từng ngày và ngồi đếm thời gian tháng năm chồng đi, đi mãi không thấy về. Nghe Băng Tâm ca Bài Ca Cái Cò của Nguyệt Ánh “thương em dạ sắt lòng son, một thân đơn chiếc nuôi con, thăm chồng” mà nhớ lại cảnh người vợ của ông bạn tôi hồi đó sao mà truân chuyên quá sức.
Cuối năm 1977, chúng tôi lại qua Sông Hồng lần thứ tư để “chuyển trại” lên núi rừng Vùng Việt Bắc tới Trại Trung Ương Số Lào Cai kế bênTrung Quốc. Ði đâu đi, chúng tôi bao giờ cũng bị “biên chế” vào những Ðội trời ơi đất hỡi. Hai đứa vào Ðội Gạch đạp đất, đóng gạch, đốt gạch, chất gạch “hộc gạch” luôn. Bấy giờ đã vào Mùa Ðông lạnh tím người, bụng luôn luôn trống trơn và công việc thì nặng như trời như đất. Cái chết mong manh hơn chỉ mành treo chuông. “Trời kêu ai nấy dạ” biết sao bây giờ! Một hôm, Chánh đưa tôi một khúc rễ cây mới đào lên và nói: “ăn cho đỡ đói”. “Ăn cho đỡ đói”, hai đứa cứ đào, cứ ăn và cây đã ngã đùng ra chết một cách tức tưởi, oan khiên. Ðời tù rồi cũng sẽ ra đi một cách âm thầm, cô quạnh nơi một góc rừng núi thăm thẳm âm u nào đó có ai biết là ở đâu. Bạn tôi, Người Bạn Ðơn Vị 101 nụ cười hình như đã mõi mòn; sức lực như bị trút dần theo bước chân tù và thân người chắc chắn ngày một nhỏ con lại mà Chánh Mập như tên gọi từ xa thật là xa vọng lại mới chợt nhớ ra là tên mình. Mỗi lần Giới, tên Cán Bộ Công An ngọng ngọng nghịu nghịu nói “học tập tốt, sớm về với gia đình” là y như rằng, Chánh cứ văng tục ra mà nhái theo giọng của cụ Trần Văn Hương lời nói của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu “đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm”. Ở đây, lại thêm một cái Tết Mậu Ngọ 1978 mênh mông nỗi buồn nữa đi qua và lãng đãng cái chết không rời. Rồi tin Tàu sẽ đánh, dù cận kề Tết Kỷ Mùi 1979, chúng lại chuyển tù chúng tôi từ Lào Cai về K5 Tân Lập Vĩnh Phú. Ăn Tết chưa tới một tháng thì ngày 17 tháng 2 tụi Tàu đánh vào 6 tỉnh Miền Bắc Việt Nam thiệt. Trưởng Trại, tên Thiếu Tá Nguyễn Thùy, loại ngụy quân tử thường rêu rao “Lao động là vinh quang”, Chánh thường đáp lại “vinh quang cái đầu Bác mầy chớ vinh quang”. Ở đây, những người anh em tù của mình tên Bình, Hùng, Uyễn làm Ban Trật Tự với một tên tù hình sự Bích làm trưởng ban đã gây kinh hoàng, khíp vía biết mấy. Ma le, Chánh đóng kịch làm người bệnh hay hơn tài tử điện ảnh Hollywood và những tên tuổi gạo cội Broadway của Mỹ nên, ai đi đâu thì đi, Chánh cứ ngủ, cứ nghỉ và cứ nói: “ngu sao đi làm”. Vài tháng sau, ông ta làm thầy, dạy tôi đóng kịch, đóng vai người bệnh. Và tôi cũng được ở nhà với lý do đủ thứ bệnh. Ðội Nông Nghiệp, từ anh bạn Trần Trọng Thuyên Ðội Trưởng đến bác Cát Hội Ðồng Tỉnh Gò Công, ông Biện Lý Trần Huỳnh Mai ở Gia Ðịnh…ai mà không biết hai thằng trời đánh nầy “trây lười lao động chớ bệnh hoạn gì, bệnh giả đò thì có”. Ngặt một cái, hai thằng thiên lôi ngang ngược “đụng tới tụi nó chi cho rắc rối”.
(hình: Vợ chồng trong tiệm phở của mình ở Houston). Vậy mà, Chánh được nghỉ ngơi cả 9 tháng trời và tôi cũng ăn ké được 6 tháng ở nhà đi vô đi ra không phải lao động lao điếc gì cả. Có điều, cái bọn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hay bấy giờ là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tính toán và hành hạ người tù rất là chi li. Chúng cho chúng tôi ăn theo “chế độ” 13 kí lô rưỡi lương thực một tháng. Nếu ăn cháo thì được 2 chén cháo lỏng le một ngày. Nếu ăn khoai mì thì được một khúc rưỡi ngắn và nhỏ cho một bửa ăn. Chánh cứ nói: “ráng chịu đói mà sống còn hơn ăn không no mà lao động khổ sai là chết sớm”. Nhiều khi trên Trạm Xá, Ðại Úy Hiệp, một Sĩ Quan Quân Y Việt Nam Cộng Hòa cũng là Tù Học Tập Cải Tạo cho thuốc uống hay bắt chích thuốc, tôi ngại ngại, nhưng Chánh thì “không trị bệnh nầy cũng trị bệnh kia; không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc, làm gì mà sợ”. Ở khoảng một năm, qua Tết Canh Thân năm 1980, chúng lại lùa chúng tôi lê lết qua Trại K1 cũng trong hệ thống Trại Tân Lập Vĩnh Phú. Tôi với Chánh trong một đội, Ðội Chè với các đàn anh hết thảy là Trung Tá. Trung Tá Thiện không nhớ họ làm Ðội Trưởng. Ngày ngày gánh nước tưới “chè” mới biết “nước sông công tù”. Một bạn tù đàn anh mệt thì mệt mà cứ “công đâu công uổng công thừa; công đâu gánh nưóc tuới dừa Tam Quan!”. Ðêm ngủ mấy chục người trong một cellule nhỏ chút xíu không đủ không khí mà thở và rệp thì bò khắp châu thân tìm ăn. Tôi với Chánh phải ngủ cùng trong một cái mùng nylon cá nhân của thời Việt Nam Cộng Hòa. Cũng vì sự thân thiện quá đáng của giòng họ ba đời rệp đói cứ tìm mình lân la mà đêm ngủ phải cột kín mít toàn thân con người lại như thây ma. Ngán thiệt đời tù Cộng Sản, ăn cũng khổ, làm cũng khổ mà ngủ cũng khổ. Tháng 12 năm 1980 chúng tôi không còn ở tù chung với nhau nữa nhưng vẫn hứa với nhau là anh em kết nghĩa không thằng nào làm anh và không thằng nào làm em, mầy tao mà thôi. Chánh ở lại và tôi vào Thanh Phong rồi Thanh Lâm thuộc Huyện Như Xuân của Tỉnh Thanh Hóa. Ðời tù, thằng nào thằng nấy lo.
Vào cuối tháng 4 năm 1982, tôi lại “chuyển trại” về Z.30C Hàm Tân thuộc Tỉnh Thuận Hải. Dù có xa nhau nhưng tôi vẫn ngóng tin về người bạn của tôi, người bạn có vui có buồn, có đói có khổ, có sống có chết với nhau nhiều năm dãi dầu, oan nghiệt. Nghe bên kia ngọn đồi nhỏ có Z.30D cũng giam tù ngoài Bắc chuyển vào, tôi lò dò đi tìm. Nhưng được một đoạn trong rừng thì bị mấy ông bạn tù kéo về, “bộ mầy muốn trốn trại?” và mấy Công An “ê, anh kia đi đâu, đi lui?” Ngày 7 tháng 5 năm 1984 tôi ra tù dù Giấy Ra Trại ký ngày 23 tháng 4 năm 1984, tôi mới biết đích xác rằng Chánh còn trong tù ở Trại Z.30D Hàm Tân. Chị Chánh có khốn khổ bao nhiêu cũng ráng “thăm nuôi” chồng thường xuyên. Có như vậy, Chánh Mập mới hoàn hình Chánh Mập. Không như ngoài Bắc là “con bà sơ”, “tao phải ăn thịt tao” để Chánh bị đổi danh là Chánh Ròm. “Tao phải ăn thịt tao” lấy từ câu nói của anh bạn tù tên Dũng, Ðại Úy Thủy Quân Lục Chiến đanh đá trả lời với nhóc con Cán Bộ Dẫn Giải hăm he “bắn bỏ”. Rằng: “tao phải ăn thịt tao vì trước khi vào tù, tao 152 kí lô mà bây giờ cân đong đo đếm, tao không quá 35 kí lô”. Một ngày Mùa Thu năm 1985 tôi theo chị Quyền, người vợ thủy chung của Chánh vào Z.30D thăm Chánh đang còn ở tù. Anh em gặp nhau, vui cũng có vui mà buồn thì thiệt nhiều. Chánh vẫn nụ cười toe toét miệng, rổn rảng, sảng khoái, tôi thấy trong đó hình như không dấu hết được mênh mông nỗi buồn thúi ruột! Một đêm ngủ lại với bạn, anh em không khỏi không có những giọt nước mắt. Cuối năm 1990 tính ra cũng tròn 15 năm rưỡi ở Tù Học Tập Cải Tạo, Chánh mới về với gia đình…Thân mẫu không còn ưu phiền, sợ thằng con không biết nó sẽ bỏ xác nơi đâu. Vợ và con bây giờ một nhà đoàn tụ, hạnh phúc hiện tại và lo liệu tương lai. Những bạn tôi “Ngụy Quân Ngụy Quyền” đi tù về có việc gì mà làm? Làm nghề đạp xích lô, nghề bốc xếp, nghề bán giấy số…cũng không dễ mà làm. Tôi bày ra cơ sở làm nhang bỏ mối và cho vợ ngồi ở sạp trong Chợ Phan Thiết bán. Chánh lúc tù mới ra phụ thợ hồ kiếm chút cháo cơm khắp nơi và cho có công ăn việc mà tránh những con mắt cú Cộng An “một năm quản chế”. Là một người linh hoạt, vài tháng sau Chánh dụ vợ mở quán Bún Bò Huế nhỏ nhỏ. Tôi không biết ổng bả Người Nam chính gốc làm sao mà nấu cho được tô Bún Bò Huế rất Huế mà bán buôn với người ta nhỉ? Ổng cứ chỉ vào cái đầu tóc tai bù xù như người nghệ sĩ dính bụi giang hồ tứ chiếng và chỉ vào cái bụng đã bắt đầu có da có thịt mà nói: “cũng vì cái trí nghĩ ra và cái bụng đói phải bò”. Chúng tôi hai gia đình dù Phan Thiết với Sài Gòn nhưng thường gặp nhau nói chuyện đời nay, nói chuyện đời xưa. Chuyện đời xưa hai đứa kết nghĩa anh em, đòi con cháu “cho tụi nó lấy nhau”. “Ngôn dị hành nan”, người xưa nói đúng. Lấy nhau con khỉ khô. Tụi nó bây giờ lấy ai là tùy ý tụi nó. Mình làm cha mẹ “con đặt đâu, ngồi đó”, làm sao nói “cho tụi nó lấy nhau” được? Giữa tháng 11 năm 1992, hai vợ chồng tôi và 5 đứa con theo HO 14 qua Mỹ, định cư ở Thành Phố Kansas City cho đến nay cũng đã 20 năm thêm gần 1 tháng. Chánh qua Mỹ khoảng tháng 7 năm 1993 tức sau tôi chừng 8 tháng. Ban đầu bồng bế nhau định ở lâu nơi Tiểu Bang Washington giàu, đẹp. Sau “cũng vì cái trí nghĩ ra và cái bụng đói phải bò”, hai vợ chồng bỏ mấy đứa con đã lập gia đình ở lại, nắm tay nhau về xứ nóng chang chang Houston mở tiệm Phở sống đời ông bà chủ buôn bán “lấy công làm lời”. Tôi cũng chẳng lạ lùng gì cái tài xoay sở của ông bạn già của tôi khi hai đứa ở tù với nhau ngoài Bắc hồi đó. Ngày xưa trong Ðơn Vị 101, ổng đã nhờ khéo léo, mưu chước và kiên trì mà nhiều năm làm việc với những công việc kín, hở tưởng như không hoàn thành mà hoàn thành một cách xuất sắc, tốt đẹp là khác. Tiệm Phở không lấy tên những tên nổi tiếng như Phở Hòa, Phở Pasteur, Phở Tàu Bay…mà chỉ là The Vietnamse Noodle như thể không có tên gì cả. “Cũng có đồng vô đồng ra với người ta, không giàu nhưng khắc khoải được”, Chánh thường nói như vậy. Nhưng tôi nghĩ, có làm ăn phát đạt tới cỡ nào, trước sau gì vợ chồng Chánh cũng sẽ về lại Washington, nơi có đầy đủ một đứa con trai, hai đứa con gái và bây giờ thêm mấy đứa cháu ngoại. Ông Chánh, Bà Quyền sao mà đi xa, đi biền biệt không về cho được, không về cho đành.
Và không sai chút nào, ông bà đã về lại Lynnwood, Tiểu bang Washington mà yên bề tuổi già bên con bên cháu những ngày cuối đời thong dong, hạnh phúc. Nhìn lại những tấm hình Chánh mới gởi cho, thấy người bạn mình già đi nhiều nhưng nét cười vẫn lạc quan tươi trẻ đọng trên đôi môi dầy như thuở nào ba, bốn chục năm qua. Già, dĩ nhiên mình còn trẻ gì đâu. Hai đứa cuộc đời đang mon men bước qua cái tuổi “thất thập cổ lai hi” một tuổi thêm rồi còn gì!Gần 9 năm trong đời “Tù Học Tập Cải Tạo” ở Biên Hòa, ở Yên Bái, ở Lào Cai, ở Vĩnh Phú; ở Thanh Hóa và ở Thuận Hải thiếu ăn thì có, thiếu mặc thì có nhưng không thiếu bạn bè tù. Bạn bè tù không giống bạn bè thời học sinh cắp sách đi học là đồng song, đồng môn; không giống bạn bè cùng xông ra trận sống chết với kẻ thù hồi nào Quốc-Cộng là chiến hữu, là đồng đội. Bạn bè thời học sinh cắp sách đi học không thấy bao nhiêu tinh thần bất khuất với khuất phục kẻ thù là Việt Cộng. Bạn bè cùng xông ra trận sống chết với kẻ thù ai ai cũng thấy một lòng với Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm. Nhưng bạn bè tù có lẻ bắt chước và làm theo câu nói học thuộc lòng ngày xưa học Pháp Văn, rằng “À Rome, fais comme les Romes” mà ông bà ta thuờng dạy “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” nên hãy coi chừng những bạn bè của ta “nói dzậy mà không phải dzậy” mình chết như chơi. Con người khi vào ngõ cụt dễ suy bì hơn thiệt và chỉ làm những gì có lợi cho mình mà thôi, bất kể là ai và ra sao thì ra. Cho nên trong tù, người ta quen biết nhau đông thiệt là đông hằng trăm, hằng ngàn nhưng bạn bè nhất là bạn bè tri kỷ thì hiếm hoi đếm trên đầu ngón tay. Không phải vì “Ami de plusieurs, ami de nul” như năm 1967, ông bạn Huỳnh Hồng Quang, Biên Tập Viên Khóa 2 Học Viện Cảnh Sát Quốv Gia của tôi thường nói “bạn bè nhiều quá thì không có bạn bè nào”. Tôi có người bạn Huỳnh Ngọc Thuận, Ðại Ðội Trưởng Cảnh Sát Dã Chiến giữ Ðài Truyền Hình trên Ðường Hồng Thập Tự “vì đói quá chịu không nổi” đã vắt hết sức lực mình ra để đổi lấy phần ăn 23 kí lô một tháng. Tôi có người bạn đồng hương, Ðại Úy Trần Ngọc Nhã, Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu đói thì đói cũng ráng nhịn đến chết đi được, lấy phần ăn đổi áo, đổi quần “để khi về có mà mặc với người ta”. Nhưng với Chánh, người xưa nói “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” thì không trật môt chút nào. Chúng tôi trong tù, phản ứng trước nghịch cảnh, hai đứa gần như giống nhau hoàn toàn. Gần như giống nhau hoàn toàn có lẻ xuất phát tự đáy lòng lương thiện và tâm hồn sáng như trăng sao vằng vặc không cần phải khoe ra mà ai cũng đã thấy rồi. “Người ta có thể ghét mình vì bản tính nhưng không khinh mình vì bản chất”, hai đứa cứ nhắc nhở nhau mà giữ gìn. Và giữ gìn cho đến hôm nay, bạn bè ghét thì có nhưng chắc chắn bạn bè không có ai khinh. Và chúng tôi, tôi với Nguyễn Minh Chánh tình anh em bạn tri kỷ vẫn không bao giờ biến dạng, thay đổi, suy suyển…
NGUYỄN THỪA BÌNH
Cuối Thu Nhâm Thìn, Năm 2012



Chữ cải của mấy anh, mấy chị “đốt đuốt soi rừng” có người tìm không ra một chữ học hành nên lạ đời, tréo ngoe. Ai đời, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa biết gì kinh tế mà làm cuộc cải tạo công thương nghiệp cho công thương nghiệp đang phát triển của Miền Nam Việt Nam tàn tạ, tan tành theo mây khói một sớm một chiều! Ủy Ban Quân Quản bắt “Ngụy Quân, Ngụy Quyền” Sài Gòn đi cải tạo là tẩy não để tuân phục, nhưng năm năm, mười năm, mười lăm năm hay lâu hơn nữa ai cải tạo được ai mà thù hận thì càng chất ngất!? Trong tù ở Trại An Dưỡng Biên Hòa, những miếng ván lượm mót ghép lại trên bốn bánh xe là bốn khúc gỗ cao su mới cưa ra thì gọi là xe cải tiến. Nhìn lại cải cách ruộng đất ở Bắc giữa các năm 1953 đến năm 1956 chết vài chục ngàn người và đi tù vài trăm ngàn người mà ruộng đồng xơ xác, nông dân nghèo tận mạng! Tôi đọc những truyện sách kể về đời những “Ngụy Quân, Ngụy Quyền” Sài Sòn đi tù Việt Cộng bị đối xử phi nhân, vô đạo như thế nào nhưng ít được nghe kể nhiều về nỗi “đoạn trường” mưu sinh thoát hiểm đầy nỗi xót xa, thê thảm biết chừng nào của họ. Mưu sinh thoát hiểm ở đây xin được hiểu theo nghĩa là người ta đói không chịu nổi phải đi tìm một thứ gì đó ăn vào bao tử để nuôi sự sống mỏi mòn không biết ngày nào chết.
Một hôm nhóm “Tứ Hùng” nầy xông khói, đào xới… bắt được ba con chuột cống nhum to lớn. Một bữa cơm thịnh soạn, các anh ăn ngon lành trước mắt thèm thuồng cũng có mà ngao ngán cũng có của nhiều người bạn tù ôm cái bụng lỏng le đi tới đi lui. Vào tù dẫu chưa được bao lâu, nhưng ai ai cũng đói meo và nghĩ rằng “cái gì nhúc nhích” đều ăn được để có “calorie” mà sống và cho khỏi cồn cào ruột gan. Suy nghĩ nầy không phải chỉ những người vu vơ y khoa như chúng tôi đâu có học y dược ngày nào mà ngay những người anh em bạn tù của tôi là những Bác Sĩ Quân Y, Bác Sĩ Cảnh Sát Quốc Gia, Bác Sĩ Bộ Y Tế hay Bác Sĩ dân sự... Tôi nhớ anh Phạm Ngọc Jean, anh của thằng bạn học tôi Phạm Ngọc Phi nói “con gì ăn cũng được, nhớ bỏ ruột gan và nấu chín”. Anh Jean , Ðại Úy Quân Y nay không còn vì vượt biên đường biển đã ra người thiên cổ từ lâu! Việc anh em hiếm hoi bắt được mấy con chuột là may, là mừng! Còn hơn bác Nhờ một đêm ngồi rình chuột nơi hố rác tối om om đã không đánh được một con nhắt nào mà còn một chút nữa bị hai người bạn trẻ sớn sác đái lên đầu.
“Ăn không sao đâu” mà độn cho no bụng thì “tao đâu có ngán”. Mấy đứa bạn tôi tù ở đây, đứa nào lại không hái rau tàu bay làm món rau sống, món rau luộc, món canh với nước muối, ngay cả món kho với vài con nhái bầu? Rau tàu bay, một loại thảo mộc nơi vùng hoang địa nầy ăn cũng không đến nỗi nào. Mùi thơm thơm theo tôi, nhưng có người chê là khó chịu. Nghe anh em bảo với nhau rằng “ăn nhiều sẽ bị mất máu và sốt rét”. Mấy tên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam trẻ con mang “đôi dép râu dẫm nát đời trai trẻ” và đội “nón tai bèo che khuất nẻo tương lai” cũng xía vô mấy lời “thời chống Mỹ cứu nước, trong rừng chúng tôi cũng sống nhờ những rau tàu bay nầy”. Dĩ nhiên ngoài rau tàu bay ra, anh em mưu sinh thoát hiểm còn tìm tòi ra những loại rau rừng khác nữa. Một loại dây leo mà tôi biết từ hồi nhỏ là cây chùm bao. Hồi đó, chúng tôi mấy đứa nhỏ cầm nạn thun đi bắn chim thường tìm trái chín vàng của nó mà ăn. Bây giờ, bạn bè tôi đây hái đọt non luôc ăn và bứt cả dây, lá về phơi khô làm thuốc uống. Cây chùm bao có người gọi là cây lạc tiên, là cây nhãn lồng. “Chim quyên ăn trái nhãn lổng. Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi” có dính dáng gì không cây chùm bao?
Những loại cây cỏ anh em bứt ăn có thứ tôi biết được mà cũng có thứ lần đầu tiên mới nghe tên. Cây bùm bụp mà chúng tôi hồi nhỏ ở Phan Thiết thường gọi là cây lồng đèn hay cây thù lù thường ăn những trái chín màu đỏ hay màu đen treo tòn teng trên cành bên bờ ruộng hay trong vườn tược, nhưng chưa bao giờ đụng tới thân và lá của nó. Có mấy anh em tỏ ra hiểu biết về Ðông Y nói là nó tốt cho lợi tiểu, tiêu đàm và đau nhức. Cây me đất “chua như me” mảnh khảnh có lá hình ba trái tim xanh xanh chụm lại, có nhiều bông vàng năm cánh, mọc quanh bờ mương bấy giờ mới biết và chưa từng ăn. Cây rau trai lá thuông dài, có lông tơ, cọng mềm nhiều nước và bông màu tím tím nhạt tôi biết được từ thời ở nhà quê vùng Hàm Thuận, Bình Thuận. Tôi thường nghe ba má tôi nói, nó giải nhiệt được, kháng viêm được. Nghe thì nghe vậy nhưng chưa bao giờ ăn thử, nói gì ăn thiệt. Chưa nói những loại như rau dền không có gai mọc hoang từng đám nơi nầy, nơi kia ven rừng, ven ao nước ngay chỗ hằng ngày chúng tôi “lao động là vinh quang”. Những loại rau sam có cọng mềm màu đỏ, lá màu xanh và bông màu vàng, ăn hơi chua chua, nhớt nhớt cũng không thiếu mọc quanh con suối chúng tôi tắm mỗi chiều. Nhà tôi hồi đó ở thôn quê thường ăn hoăc rau dền hoặc rau sam nầy bằng cách luôc chín chấm với nước mắm ruốc bình dân, không phải Mắm Ruốc Bà Giáo Thảo trộn với một chút đường và nhiều ớt thật cay. Cây rau dừa nước có lá xanh xanh đậm mọc so le, hơi giống rau sam có điều nhiều rễ hơn và nổi lềnh bềnh trên mặt nước, ăn có vị nhạt nhạt ngọt. Người Miền Nam Sông Nước ai lại không biết, không quen, không một lần ăn ngọn rau dừa nước dân dã nầy? Một loại cây mà hồi nhỏ chúng tôi thường hái trái còn xanh hay đã chín đỏ chia phe quăng nhau là cây bát bát. Cây bát bát hồi đó chúng tôi có thấy ai ăn lá và trái của nó bao giờ. Bây giờ vào đây đất trời tù đầy, tôi mới thấy anh em tranh nhau hái lá và trái mà ăn ngon lành còn nói nó là vị thuốc nầy vị thuốc nọ nữa. Nói gì những thứ như rau má, lá khoai lang, đọt khoai mì… chạy đâu cho khỏi hai con mắt tìm tòi, lục lọi ăn thêm vào cái bụng lúc nào cũng cảm thấy không có thứ gì ở trỏng. Việc đi hái những rau trời cải đất đối với người tù đâu được tự do, thường bị những cai tù là kẻ thắng cuộc cấm cản, bảo rằng như vậy là “cải thiện linh tinh” không được phép, có khi còn lên đạn hăm he đòi bắn bỏ; chưa nói bị cỏ may đan đầy áo quần châm vào người chịu không nỗi hay bị xước bởi những cây gai rừng, nhiều nhứt vẫn là những cây mắc cỡ đau biết chừng nào!? Ông bà mình nói đúng “muốn ăn thì lăn vô bếp” hay “khi đói đầu gối phải bò, cái chân hay chạy, cái giò hay đi” là vậy.
Sắp sửa ngày 2 tháng 9 thì anh bạn Nhạc Sĩ Minh Kỳ với anh Lê tôi quên họ của ảnh là gì bị quăng lựu đạn chết với ông anh bạn cùng quê của tôi cụt một giò. Những người tù từ Ka Tum chuyển về cứ nghe mìn nổ và cứ nghe bị chết, bị thương hoài! Thời gian đã mấy tháng qua trong tù, đói thì đã quá đói và áo quần cứ rách chỗ nầy lại rách chỗ kia nát tươm! May ở đây là vòng đai an ninh của Phi Trường Biên Hòa ngày xưa còn để lại nhiều “tàn dư của Mỹ Ngụy” mà anh em moi móc ra nhiều hầm hố chôn đầy bao cát còn mới. Có bao cát, những người tù khổ hạnh “sáng tạo”, “cải tiến” ra những cái áo đủ kiểu, những cái quần đủ mốt, nếu không, lấy gì đâu mà che thân? Rồi còn phải làm ra những cái khăn lau mồ hôi, lau mặt những ngày lao động dưới trời nắng nóng như thiu như đốt da thịt. Và đây đã gần Tết Nguyên Ðáng Bính Thìn 1976, anh em phải làm ra những cái mền đắp Mùa Ðông năm đó sao lạnh dữ. Và nơi nầy vùng đất hoang dã anh em còn phải làm ra những cái mùng chống những con muỗi rừng đói ăn, hút máu một cách tham lam táo tợn. Và còn phải nghĩ tới mà làm ra những tấm chắn hay những mái che trời mưa trời nắng và gió bụi thốc từng cơn từng cơn làm thân còm cõi người tù chịu không thấu.
Năm sau, những người tù chúng tôi ở đây được chuyển ra Xã Việt Hồng thâm sơn cùng cốc bên kia Sông Hồng trùng trùng núi rừng đèo heo chướng khí của Huyện Trấn Yên, Tỉnh Yên Bái. Chúng tôi tất cả đồng cấp Ðại Úy bị lùa vào hai dẫy nhà dài tranh nứa ọp ẹp mới cất thô sơ nói là Trại 6 của Liên Trại 1 thuộc Ðoàn 776. Trong Nam dù gì thì dù cũng quen phong thổ, trời đất và nhất là con người. Ở đây, tất cả sao lạ hoắc lạ huơ. Ðàn bà nào cũng chỉ cái quần dài màu đen phơn phớt đỏ vì cũ, cái áo cụt màu nâu sồng sờn vai rách gấu và trên đầu cứ vải cuốn tròn mấy lọn tóc như con rắn gọi nhau là khăn mỏ quạ. Ðàn ông nào cũng chỉ một bộ đồ tây màu olive bạc thếch vải Kaki Nam Ðịnh may vụng về, chân đi trần và đầu đội nón cối bung viền, rách vải. Tứ bề trông nghèo đói, rách nát, xơ xác…Ðói người ngoài đời xã hội làm sao no người trong tù “học tập cải tạo” và có trách gì đất đai, sông suối có gì, còn gì mà “cải thiện linh tinh”? Mới được thả đi chặt nứa ngày đầu, một anh to con lớn xác đã vác về một buồng chuối rừng nhiều nải, trái no tròn đầy đặn, ai thấy cũng thèm thuồng. Ảnh treo lên chờ chín. Anh em theo dõi chờ xem. Nhưng mấy ngày, chuối rừng là chuối rừng không ăn được, ảnh là Ðại Úy Tuyên Úy Phật Giáo của Thủy Quân Lục Chiến phải mất công “đem quăng đi cho rồi”. Anh bạn Huỳnh Ngọc Thuận của tôi từ Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia, từ Trường Bộ Binh Thủ Ðức cũng ra đây, một hôm cây dừa bên hông “láng” của tôi được một cán bộ trại bảo “phải đào gốc bỏ đi”, Thuận đã cuốc, bới và lấy được một củ hủ to bằng vành tròn miệng “cái chén tàu”. Bửa, chẻ thân cây dừa ra, Thuận cười hì hì và la to “có một con đuông to tổ bố”. Con đuông, Thuận vừa bốc ra vừa nói “nó chính là con của con kiến dương, ăn đã ngon lại còn béo còn bổ nữa các bạn ạ”. Tôi cũng như Thiện nhìn thấy anh ta hí hững cũng vui lây, nhưng dòm con đuông hình thù như một con sâu to lớn lại sợ thì nói gì ăn uống, huống gì chỉ có một con chớ mấy mà ba miệng ăn thì còn gì cho Thuận “ùm một miếng ngon lành”. Thuận, người Bình Ðiền Chợ Ðệm nhà trồng nhiều dừa, việc rành tàu hủ dừa và đuông dừa là nghề của chàng nhà quê, chúng tôi người thành thị Phan Thiết thì xin chịu thua những cái gì nơi đồng áng, miệt vườn…Ở đây, chúng tôi không có gì, thôi thì cứ bẻ một, hai đọt non tre, giang, nứa…những thứ có ai ăn bao giờ đâu, rồi xắt dọc xắt ngang kho với nước mắm tôi cắc ca cắc củm bưng từ Biên Hòa ra. Nước mắm nầy chúng tôi cứ gọi là nước mắm cho có tên tuổi một chút, thực ra là hỗn hợp của mang cá ngừ, ruột cá ngừ, máu cá ngừ nhà bếp quăng đi, tôi lượm lại trộn trong muối, đậy kín lâu cũng cả hai tháng rồi. Loại nước mắm nầy chỉ có trong tù “học tập cải tạo” của tôi mà thôi, ăn mặn là cái chắc nhưng cũng có chút mùi nước mắm thum thũm. Chắc dân ở đây quá cơ cực nên cái gì ăn được trời đất ban cho người trần gian thì tìm rát con mắt may ra còn sót lại mà thấy. Ðã mấy tháng ở đây rồi, có cái gì để “mưu sinh thoát hiểm”, để “cải thiện linh tinh”? Hương đồng cỏ nội, trời ơi? Rau tàu bay, rau dền, rau sam, rau dừa, rau má, dây bát bát, dây chùm bao, lá me đất, rau chua lẻ, rau trai…không thấy đâu. Những con chim, con cá, con rắn, con ếch, con cóc, con nhái, con cua đồng, con ốc bu, con ốc leng,…không tìm ra bóng dáng!
“Chó táp nhầm ruồi”, một hôm Thuận chụp đâu được một con ễnh ương mén đem về mà Thiện bảo là con ếch, nhưng một cán bộ già tên Tuấn nhìn thấy, nói là con chẫu chuộc. “Chẫu chuộc”, cái tên lạ lùng tôi mới nghe lần đầu. Lửa đang cháy, Thuận bỏ con ễnh ương vào nướng. Lấy ra, móc ruột bỏ, phủi tro bụi, thổi phì phà cho nguội một chút rồi bỏ cả con ễnh ương chín đen vào miệng “ùm một miếng ngon lành” và cười hả hê! Trong “mưu sinh thoát hiểm” ở đây, ngoài “cải thiện linh tinh” anh em bạn tù còn giao tiếp bí mật với dân làng để mua bán, đổi chác mà bọn cai tù là Quân Ðội Nhân Dân của cái gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thời bấy giờ thêm mắm thêm muối cho ra mấy chữ “quan hệ linh tinh” mà cấm đoán những người tù khổ sai biệt xứ. Dân Xã Việt Cường nầy nghe nói thời Cải Cách Ruộng Ðất, Nhân Văn Giai Phẩm…bị tống khứ lên đây mà đong đưa ngày tháng đói nghèo đến bây giờ. Họ thiếu ăn lại thiếu mặc nên thèm thuồng biết chừng nào “quần xi”, “áo lon” của người tù Miền Nam đem ra. “Quần xi”, “áo lon” là thứ quần áo anh em Người Miền Nam mặc thường ngày từ Vĩ Tuyến 17 trở vào, có gì đâu lạ. Một cái quần tây dài với một cái áo chemise dài tay đổi một con gà mái luộc, xôi nấu hai, ba cân gạo nếp với muối vừng và một bidon rượu. Ðói, cái mạng còn đổi được huống gì áo với quần, anh em ai không đổi!? Thỉnh thoảng bạn bè tôi mất cả chai lẫn chì vì đang lén lút bày gà ra, bày xôi ra, bày rượu ra chuẩn bị hưởng thụ thì bị mấy “bộ đội” là thứ cháu ngoan lưu manh của Bác Hồ quỷ quái nhào vô chụp ăn. Chạy thoát là may nói gì kiện cáo ai! Chỉ tội mấy anh tù đói mất quần áo, mất cái ăn thì không gì buồn hơn!? Mấy tháng sau, chúng tôi “chuyển trại” tới Trại 9 nằm cạnh bên Dốc Bá Thở, dưới Cây Ða, đường vào Trại 12 và các Trại 13, Trại 14 phía bên trong. Bây giờ, đã có khoai mì, khoai lang của trại trồng và của hợp tác xã. Ðói quá, anh em liều “mưu sinh thoát hiểm” là lén ăn cắp từng phen mà luộc ăn, mà nướng ăn, mà cũng có thể ăn sống cho êm cái bụng cồn cào có chịu nổi đâu. Chia từng bộ phận “cảnh giác”, “quan sát”, “nhiên liệu”, “hành động”, “báo động”,… nhưng cứ bị “bể ổ” hoài bởi mấy thằng nhóc bộ đội, mấy xã viên hợp tác xã, có khi còn một chút nữa là bị bắt tại trận là toi mạng sống. Toi mạng sống ở đây là, nếu bị bắt sẽ bị “đấu tố” mà bị đánh cho tới chết một cách dã man như cầm thú. Nghĩ cho cùng, con người có khi không hơn một con vật. Tôi có một lần làm gan tham gia với bảy, tám anh em trên đồi “sắn” nằm sát Trại 9, “phi vụ” trót lọt, chúng tôi được một bữa ăn phủ phê. Ðêm đó, tôi với anh bạn Hùng, Ðại Úy An Ninh Quân Ðội bị “say sắn”, đau bụng quá trời. Hai đứa phải đi đại tiện mỗi đứa một đống to như của mấy con voi ngay trong “láng” anh em đang ngủ làm họ phải thức suốt đêm tránh sao không cằn nhằn cẳng nhẳng! Một buổi sáng, có ba, bốn anh em cũng tù với nhau vừa đi vừa la ơi ơí. Tôi nhìn thấy người đi trước hai tay cầm hai chân một con vật giống như một con chuột đã bị đánh chết, nhưng lớn gấp ba bốn lần con chuột cống nhum trong Nam. Mấy đứa nhỏ “quân đội nhân dân” của Bác và Ðảng nói là con cúi. “Con cúi” thì biết là con cúi vậy thôi, ai biết “con cúi” là con gì? Tới gần, tôi xem “con cúi” như thế nào, thì thấy nó có khác về kích thước, nhưng giống giống như con bọ, con chuột, con heo con. Hèn gì ở đây, trên những đồi hoang còn để lại nhiều hố hầm người ta đào bắt “con cúi”. Gì gì, mấy anh em bắt được “con cúi” nặng cũng có ba, bốn ký lô trưa đó cùng nhau đã có một bữa có thịt ăn với mấy khúc khoai mì là “sắn” của trại phát cho!
Năm 1977, một số tù ở đây bị chuyển lên một nơi còn “thâm sơn cùng cốc” hơn Huyện Trấn Yên của Tỉnh Yên Bái nữa. Chúng tôi tới Xã Dương Quỳ, Huyện Văn Bàn, Tỉnh Lào Cai một chiều Hè, mưa rừng xối xả không thấy đất trời mà không có được một mái lều, một nóc nhà để đụt, anh em ai nấy ướt như chuột lội nước. Tôi không còn nhớ một vài anh bạn nào đó ngay ngày hôm sau đã vác về mỗi người một mụt măng “đấy là măng vầu”, theo Người Tày ở đây nói cho biết, đắng quá không ăn được dù có tiếc cũng đành phải bỏ đi. Vầu, một loại tre, nứa nhưng rất cao, rất to và dầy ruột hơn cho nên măng của nó có những mụt to như cái bắp vế của một người đàn ông mập mạp. Văn Bàn, Trấn Yên, Lào Cai hay Yên Bái cũng là đất của cái gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì giống nhau là “có gì đâu mà cải thiện”. Trại tôi đang bị giam giữ chắc là Phân Trại 4 nằm kế Trụ Sở Xã Văn Bàn có cây cầu treo bắc qua bên kia Làng Người Mán ở lưng chừng núi và phía dưới cầu nước chảy là con Suối Nậm Chăn? Ở đây, mình đã đói khổ, đã nhức nhối nỗi đau buồn phiền biết chừng nào mà cứ phải nghe thánh thót đâu đó tiếng con chim rõ ràng ràng như tiếng người kêu la “bắt cô trói cột”, “bắt cô trói cột”. Cứ như vậy, người tù thì “hết khoai tới bột”, “hết bột tới bo bo” mà nhìn trời hiu quạnh với núi rừng đìu hiu trùng trùng! Cái đói của người tù “học tập cải tạo” là cái đói triền miên ngày sáu khắc, đêm năm canh. Tìm cái ăn là tìm bất cứ “con gì nhúc nhích” và cây trái gì hoang dã rừng rú…để nhét vào cái bao tử réo gọi từng tích tắc kim đồng hồ rằng “chắc chết đói quá” và thân xác tàn tạ như bóng ma trơi vất vưởng chờ ngày về với ông bà ông vải! May cho tôi một lần chặt nứa, bắt gặp được một cây Vả Rừng có vài trái chín đỏ tươm mật ngọt. Tôi hái và ăn một trái ngay tại chỗ, còn lại hai, ba trái dấu kín mang về trại. Vả chín ngon ngọt biết chừng nào, có điều ăn cỡ hai trái là bỏ bữa ăn luôn một ngày, chắc vì chất đường trái cây fructose của nó chăng? Ông bạn Ðại Úy Tiên của tôi cũng ăn trái cây rừng nhưng không phải trái vả rừng to như miệng cái chén mà là trái vải rừng nhỏ như ngón chưn người ta. Còn một chút nữa là ảnh đã về âm ty địa phủ mà ngàn năm vĩnh biệt trần gian.
Vài tháng sau không biết vì lẻ gì, chúng tôi lại một lần nữa lên Cổng Trời trên Rặng Hoàng Liên Sơn về lại Liên Trại 1 ở Xã Việt Hồng của Huyện Trấn Yên, Tỉnh Yên Bái của năm ngoái 1976 mới ra Bắc. Chúng tôi ở Trại 13 gần Hang Dơi, bên kia là Trại 14 thường gọi là Trại Hạ Sĩ Quan nhốt những Xã Trưởng, Hạ Sĩ Quan Quân Ðội, Hạ Sĩ Quan Cảnh Sát…Chính sách của cái gọi là Ðảng Cộng Sản Việt Nam đến giờ phút nầy vẫn chưa cho “thăm nuôi” nên cái đói đã vắt khô sự sống mõi mòn của người tù “học tập cải tạo” cùng kiệt đến mức nào! Ăn thì tới lui cũng mấy củ khoai lang, mấy khúc sắn, một cục bột mì, một chén bo bo, thỉnh thoảng lưng nửa chén cơm gạo rẻ tiền với vài cọng rau nấu canh nước muối và hai, ba con vịt hay gà bệnh ốm tong teo cho cả trại gần một ngàn người ăn. Ăn lúc nào cũng như chưa ăn. Cái bụng bao giờ cũng trống trơn. Thần thánh cũng phải kêu la đói, cũng có thể chết bất cứ lúc nào, nói gì “ngụy quân, ngụy quyền” chưa bao giờ trải qua cảnh đời “xuống chó” bi thảm cùng khốn đến như vậy! Một hôm đi chặt cây nhỏ về ủ làm “phân xanh”, vào rừng tôi gặp anh bạn Huỳnh Văn Thiện đang lom khom trong rẫy dong riềng đi ra với dáng vẻ vui tươi, hăng hái. Thiện nói: “tao ăn một bửa ăn dong riềng no nê. No nê cho nên tao vo, tao vọc, tao vung tứ tung như một tiềm thức trổi dậy xúc xiểm tao hành động một cách ác cảm vu vơ có ý thức sai khiến”.
Cuối năm 1977, chúng tôi bị còng tay hai người lại một lên xe molotova chở lên Trại Trung Ương Số 1 Lào Cai ở Phố Lu trong Huyện Bảo Thắng nằm phía Bắc của Yên Bái và giáp ranh với Tàu. Từ đây, chúng tôi không còn “đi diện rộng” như ở những “láng trại” do bộ đội “quản lý” nữa mà sự giam giữ nghiêm ngặt hơn do cái gọi là Công An Nhân Dân “bò vàng” làm cai tù đảm nhiệm toàn bộ. Nơi đây, anh em giang hồ tứ chiếng đời tù bốn phương gặp nhau. Họ tù từ những Trại Cần Thơ, Long Giao, An Dưỡng, từ Cốc đến Thác Bà, từ Nghĩa Lộ qua Việt Hồng…gặp nhau đây biết kẻ còn người mất rồi lại tiếp tục “lao động là vinh quang”, “học tập tốt, lao động tốt sớm đoàn tụ với gia đình” mà cái chết đã cận kề giũa mòn, trù ẻo sự sống hắt hiu. Ở đây chẳng có vết chân người lai vãng ngoài cô liêu mây rừng gió núi vi vu với người tù “học tập cải tạo”. Ði một vòng xa ngàn dặm từ Việt Cường, Trấn Yên, Yên Bái đến Dương Quỳ, Văn Bàn, Lào Cai rồi Phố Lu, Bảo Thắng, Lào Cai, anh em tù thì thầm “sinh Nam tử Bắc” là cái chắc. Cũng như những trại đã đi qua, ở đây “có gì đâu” mà “cải thiện linh tinh”, “có gì đâu” mà mưu sinh thoát hiểm!? Một màu trời âm u, xám xịt! Mùa “thu hoạch” bắp đầu tiên ở đây, anh em bảo nhau “ăn bắp sống vừa ngon lại vừa bổ”, thật ra chỉ là bất đắc dĩ. Ai cũng ăn thử và ăn thiệt no một bao tử đói thức ăn bên trong. Ðã ăn cành hông anh em còn khuyến khích nhau dấu đem về buồng. Chắc đói, ăn cái gì không chết là ăn hết và ăn ngon vô cùng. “Ăn bắp sống vừa ngon lại vừa bổ” thật, ngày mai ngủ dậy khỏe re, có ai bị gì đâu? Tết Mậu Ngọ năm 1978 ở đây, trại phát cho mỗi tù “học tập cải tạo” một gói Thuốc Lá Ðiện Biên. Có người để lại phì phà với Xuân, nhưng đa số nhứt định “quan hệ linh tinh” với tù hình sự bên kia hàng rào “đổi chác” lấy cái bánh chưng tết hay vài lon gạo hay vài “bò lạc” để sống bớt cơ cầu. Tôi mau chưn lấy được cái bánh chưng còn nóng hổi. Bạn bè tôi người thì có vài “bò lạc” là vài lon sữa bò đậu phụng; người thì có một bọc gạo chừng một, hai ký lô. “Phi vụ” mần ăn với mấy tay tổ gian manh hình sự, thật thà dễ bị trắng tay tay trắng là thường. Mấy anh bạn tôi, có anh nhận gạo là một bịch sạn, cát, vữa của thợ hồ; có anh nhận bịch đậu phụng toàn là vỏ trộn trạo với gạch, đá vụn; có anh bị “bò vàng” bắt tại trận đang “quan hệ” thì mất hết đã đành còn bị “giũa” nặng lời và bị “ăn tiêu chuẩn 13 kí lô gam” trong một tháng trời. Tôi trong Ðội Gạch chuyên đạp đất, đóng gạch, nấu gạch…với các ông bạn Ðại Úy Chánh 101, Cảnh An Ninh Quân Ðội, Nhả Phòng 2, Thuận Cảnh Sát Dã Chiến, Ðiển Quân Pháp, vân..vân… rủ nhau ăn từ ngày nầy qua ngày kia, ăn hết rể lớn tới rể nhỏ của một cây rừng không biết tên là gì cho tới một ngày nó ngã đổ xuống giòng suối trôi đi. Mùa Ðông rừng núi Vùng Việt Bắc lạnh thấu xương tủy, chúng tôi đốt lửa ngồi cho ấm, ông bạn Ðiển với ông bạn Sơn nướng hai con trùn đất ăn. Có gì con trùn đất ngoài cái miệng của hai ông dính toàn tro than đen thui với bùn đất dơ dấy! Ðói, con gì, cái gì người ta cũng có thể ăn!
Cuối tháng 12 năm 1978 chúng lại “chuyển trại”, đưa chúng tôi về K5, Trại Tân Lập Vĩnh Phú. Hai tháng sau, ngày 27 tháng 2 năm 1979, bọn Tàu đánh 6 tỉnh Miền Bắc nói là “dạy Việt Nam một bài học”. Năm đó Mùng Một Tết Kỷ Mùi nhằm ngày 28 tháng 1 năm 1979 trời không Xuân chút nào mà lạnh quá lạnh làm trâu, bò, dê, ngựa chết nhiều và tù “học tập cải tạo” cũng chết không thua gì vì đói rét, vì bệnh hoạn và vì nỗi đau moi ruột moi gan! Một buổi sáng mưa dầm gió Bấc, “Chánh 101” là người bạn tù thân thiết với tôi bắt đâu được một con cóc vàng rất to, bảo “thịt cóc ăn bổ lắm mầy, ăn mát lắm mầy”. Tôi ừ hữ! Chánh lột da, móc bỏ ruột gan, con cóc trắng phêu thịt như con ếch. Vậy là lần đầu tiên trong đời, tôi ăn lưng lưng một chén nhỏ nhỏ cháo cóc, cảm thấy ngon chi lạ. Mấy hôm sau, anh Lê Văn Rự là một Nghị Viên Hội Ðồng Tỉnh cũng chộp được một con cóc tía cái nhỏ hơn. Ảnh chỉ bỏ mỗi cái túi mật, còn hết thẩy da, gan, trứng, phèo phổi…nướng hết mà ăn, cũng chẳng chết thằng Tây nào. Một đêm gần sáng có nhiều tiếng cải lộn cách chỗ tôi nằm khoảng bốn, năm người. Thì ra, anh Khánh chỉ tay qua phía anh Dũng nói “nó ăn cắp đồ ăn của tôi”. Anh Dũng đưa hai tay ra phân trần “trời ơi, mình đói thấy mẹ, nửa đêm ổng cứ nhai nhai, nuốt nuốt làm sao mình chịu nỗi”. Anh em chê ông Khánh “ăn kín kín chút cha” và trách ông Dũng “đói ráng chịu ông nội”. Con người cũng là một động vật có bản năng sinh tồn nên việc mưu sinh là tất nhiên nhưng có suy nghĩ trước khi hành động. “Ðoạn trường ai có qua cầu mới hay” thì sự trách móc, chê bai cũng xin châm chước cho. Ai đời tháng nầy qua tháng kia cái bụng lúc nào thấy cũng trống trơn như không có một thứ gì ở trỏng thì sự liêm sỉ có người cũng khó giữ. Thức ăn phân phát cho tù “học tập cải tạo” họa chăng chỉ đủ cho sống để chờ chết đói. Sự chi li “cân, đong, đo, đếm” đối với anh em là mẫu số chung cho sự công bằng không ai phiền hà ai. Người ta làm ra những cái cân tiểu ly sơ sài để “cân” đồ ăn cho không ai bị thiệt hơn ai. Người ta làm ra một hột tào cáo, có người cãi là hột xí ngầu, có người nói là hột xúc xắc để “đổ” ra “nhứt, nhì, tam, tứ, ngũ, lục” đố ai làm sao cho mình thủ lợi được. Người ta làm ra những cái “thẻ xin xăm” lắc tới lắc lui ra một con số cho công bằng không ai nhiều hơn ai mà cũng không ai ai ít hơn ai. Người ta “xin số” từ ai đó cho không để tự mình chọn cho mình phần to nhất, nhiều nhất, ngon nhất”…Tại K5 Tân Lập Vĩnh Phú trước những tháng giữa năm 1979 được thân nhân trong Nam ra “thăm nuôi”, những người tù “học tập cải tạo” đã sức cùng lực kiệt thèm ăn từng cục kẹo, miếng đường, muỗng bột, củ khoai, khúc sắn, con ếch, con nhái, con rắn, con rít, con chuột, con cào cào, con châu chấu…bất cứ cái gì, vật gì, con gì ăn được! Một hôm “thu hoạch” khoai lang, dĩ nhiên chẳng thằng tù nào lại chẳng vừa phủi bụi cát lại chẳng vừa kín đáo cắn rào rào những củ khoai lang sống còn nóng đất mới đào lên. Tôi và vài người bạn đào gặp những con sùng đất to bằng ngón tay cái, anh em bảo nhau: “ăn không chết đâu mà sợ”, còn “béo, bổ lắm đó”. Nghe lời, ngắt bỏ khúc đuôi đen đen, chùi sạch sẻ đất đai, tôi nhắm mắt bỏ vào miệng nhai mau mau mà “ực” một cái xuống cuống họng. Ớn thiệt! Ðằng kia Lắm, Dũng, Keng, Hưng cũng đang nhai sống ngon lành mấy con châu chấu, cào cào vừa mới chộp được.
Một hôm tôi bẫy được một con chim mỏ nhác lớn gần bằng con gà ri. Mừng quá, chúng tôi những Ðặng Vân Anh, Bùi Hữu Bằng, Trần Nhật Sô, Lê Mậu Minh và tôi “chấm mút”với nhau một hai miếng thịt chim trong tù với hai khúc sắn gần một gang tay mà hả hê nụ cười. Xã Thanh Lâm từ Xã Bãi Trành trên Ðường Mòn Hồ Chí Minh đi vào là vùng rừng sâu núi thẩm tứ bề không thấy ánh sáng tương lai đường về. Ai ai cũng bảo nhau chắc mình bỏ xác nơi đây rồi mà bi quan lời than thở “cũng đành nhắm mắt đưa chân, thử xem con Tạo xoay vần đến đâu”? Một vài con rít rừng to lớn màu vàng long lánh, chưn cẳng râu ria tùm lum thấy mà sợ, nhưng không, “đó là con ngô công, bách túc trùng, thiên long, bách cước… là thuốc quý “tức phong chỉ kinh”, “thông lạc chỉ thống” đó mấy ngài” một anh bạn làm thầy thuốc Bắc nói. “Là thuốc quý” hay không là thuốc quý, đã năm, sáu năm tù rồi, anh em đố ai mà bỏ con rít to lớn quá như vậy bao giờ? Gặp nó là cứ đập, cứ bỏ vào lửa, cứ bỏ vô miệng nhóp nhép ngon lành. Một hôm đang cuốc đất lên luống khoai lang, một con “ếch bà” vô phước nhảy vào vòng tử địa của những người tù đói khát. Một tiếng hô “ếch bà” thì đồng loạt năm người rồi mười người và có đến cả hai chục người nhảy vào chụp. Con ếch bị xé mủn xé mụn ra và người chụp ếch, có kẻ chảy máu tay, có kẻ u cái đầu, nặng nhứt có người vẹo chưn đi không được cả tháng trời, than trời thở đất “ếch ơi là ếch”. Một hôm dọn kho gạo nhà tù Trại Thanh Lâm, chúng tôi nhiều người mà bây giờ chỉ nhớ có một mình Thiện chắc giống tên họ với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện? Nhiều con chuột cha, chuột mẹ, chuột con ăn gạo nhà kho mập thù lù bị mấy anh tù “học tập cải tạo” vây bắt gần hết. Thiện người miệt dưới Cà Mau, việc bắt chuột là “nghề của chàng” nên anh ta “chốp” được nhiều, tôi chỉ vài con. Vài con, tôi giao cho Thiện làm thịt và nấu nướng thiệt là ngon. Chúng tôi sáu người ba con chuột nướng chia nhau mỗi người một nửa con. Lần đầu tiên trong đời, tôi ăn thịt chuột cũng như thịt cóc, thịt ễnh ương, thịt sùng đất, thịt rít…và các loại rau rừng hoang dã.
Hè năm 1982 chúng tôi rời Thanh Lâm tưởng chừng chôn xác nơi đây mà xuôi Nam theo xe lửa “Tàu Thống Nhất 3” về Gia Ray rồi molotova vào Z.30C Hàm Tân, gần Căn Cứ 6 ngày xưa thời Việt Nam Cộng Hòa. Ðây cách quê tôi Phan Thiết độ chừng vài chục cây số. Ngày xưa con đường Quốc Lộ 1, khu nầy rừng lá là ổ phục kích, đào đường, đắp mô, gài mìn của mấy tên du kích Việt Cộng. Ở đây trong Nam, anh em được thân nhân “thăm nuôi” nhiều hơn, đều đặn hơn nên ai nấy nhìn có vẻ “phương phi” một chút. Nếu không có gia đình nuôi sống từ lâu thì những người tù đã “ra đi” từ những năm 1979, 1980, đâu còn phải “ăn báo cô” đến bấy giờ! Ở đây có nhiều thứ “cải thiện linh tinh” hơn ngoài Bắc đâu có gì. Núi Mây Tào ở đây nhiều rắn, cá, chim, chuột, lươn, ếch,…nhưng có một loại đặc sản chỉ có nhiều ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy là con dong. Dong dễ bắt, dễ làm thịt và ăn ngon. Nhưng thật tình, tôi chưa bao giờ ăn thịt con dong nầy một lần, ngay trong thời gian ở tù hai năm nơi đây, có lẻ lúc đó đã được bà vợ sắp cưới của tôi “thăm nuôi” đều đặn mỗi hai tháng một lần. Nếu không thì mấy con dong nầy chạy đâu cho khỏi tay tôi lột da, chặt đầu, moi ruột gan mà nướng ăn ngon lành. Một hôm anh em đang làm cỏ ruộng lúa nương bìa rừng, một con nưa dài gần hai thước trườn qua. Ai nấy sợ hãi! Tên Thiếu Úy Công An Nhân Dân là Tuấn làm “Cán Bộ Giáo Dục” của Ðội Trồng Trọt thậm thò thậm thụt rút súng lục ra bắn mấy phát, nưa cứ từ từ bò, trườn như thường. Tôi lấy cây cuốc, búa một “cuốc” xuống, con nưa bị thương nặng, giãy giụa. Vài anh bạn dùng những thanh cây to tiếp theo “phạng” mạnh vào đầu, vào mình làm con nưa không còn con đường sống. Chiều phải mất hai người cột vào cây khiêng về. Mấy anh em nấu cháo mỗi người được một tô với một khúc thịt thân con nưa bằng một phần tư gang tay. Ngày xưa nghe ba má tôi nói ăn thịt con nưa có bảy lỗ mũi sẽ chết, nên tôi đã ngần ngừ, chờ anh em ăn sao đã rồi tôi mới ăn. Một số anh em ở đây làm bẫy bắt thỏ rừng, chim quành quạch, bìm bịp, cu, sáo, cưởng, le le, vịt trời…thỉnh thoảng cũng bắt được con nầy, con kia. Cũng như những con dong, những con chuột đồng hay ngay cả những con rắn nhiều loại anh em bắt được vì đã có gia vị nên nướng, xào, chiêng hay cả nấu canh, nấu cháo…thấy cũng ngon vô cùng. Thỉnh thoảng tôi cũng bắt được những con rắn mối to trong những đống rơm rạ, hốc cây, bụi chuối hay một, hai con cắc kè da sần sùi màu xanh đỏ trong bọng cây, khe đá…nướng ăn, thịt vừa thơm lại vừa dai như thịt “gà đi bộ”.
Tôi cố bắt cho được hai loại con nầy vì nghe nói thịt của chúng trị được bệnh hen suyễn của tôi. Rắn ở đây cũng nhiều, anh em bắt được nay thứ nầy mai thứ khác: rắn lục, rắn chàm quạp, rắn nước, rắn bông súng, rắn ri cá, rắn hổ hành, rắn hổ đất, rắn lục, rắn roi, rắn rồng, rắn mai gầm… đều lột da bằm nấu cháo hay để nguyên con nướng hoặc cắt khúc chiêng, xào, kho, nấu canh…không chừa thứ nào, chưa nói lấy cái mật xanh đắng nghét nuốt sống với chút nước nóng “là thuốc đại bổ đó nghen”, anh em thường cười cười nói nói với nhau như vậy và thêm rằng “rắn, thức ăn cao cấp”, thì có bao giờ bỏ lỡ cơ hội mà khen chê rắn nầy rắn kia ngon dỡ, độc hiền! Tháng 4 năm 1984 chúng tôi đưọc lệnh thả ra, nhưng phải ở lại trại đến nửa tháng trời để “trả nợ cô hồn, quỷ thần”. Vài anh em rủ nhau xuống suối câu cá, bắt tôm hay vào rừng tìm tổ ong, bẫy chim. Tôi khoái “cải thiện linh tinh” nên cũng xuống bờ suối mò bắt hến. “Hến ở đây vỏ đen rất to, thịt nhiều, ngon ngọt”, chúng tôi làm món bông so đũa xào tép mỡ với mấy con hến mới bắt được, ăn lạ miệng thấy cũng ngon ngon. Cây so đũa ở K.2 của Z30C Hàm Tân tôi đang ở, từ thời nào trước khi tôi về, người ta đã trồng chung quanh trại rất nhiều, tới mùa bông nở màu trắng phếu mà mỗi sáng, thấy lấp lánh những giọt sương mai và thoang thoảng hương thơm dìu dịu trong đêm trường tịch mịch núi rừng.














































Comment