Photo by Hoài Hương (cell phone)
Lữ Khách
Nhạc: Phạm Thiên Tứ
Lời: Phạm Kim Khôi
Vua Quang Trung NGUYỄN HUỆ (1753 – 1792)
Nhà chính trị lỗi lạc & quân sự tài ba kiệt xuất.
*
Tình Hoài Hương
Phân tranh giữa Nam Triều & Bắc Triều
(theo thiên-niên-kỷ)
Phần 1* Quân Trịnh tiến vô Đàng Trong.
Phần 2* Tây Sơn đi đánh thành Gia Định.
Phần 3* Trận đánh oanh liệt ở Rạch Gầm & Xoài Mút.
Phần 4* Kế-hoạch điều phối & tấn công của quân Tây Sơn
Phần 5* Trận Đống Đa, Hà Hồi, Ngọc Hồi
Phần 6* Tây Sơn & đoàn quân viễn chinh: Pháp + Miên + Xiêm La.
Phần 7* Sự rùng rợn dã man khi "người thắng cuộc" trả thù.
***
Phần 4* Kế-hoạch điều phối & tấn công của quân Tây Sơn
Triều đại xưa một thời ôi hưng phế
Tỉnh giấc nồng dụi mắt nhớ thương nhau
Thềm lục địa bên trời em khan cổ
Gởi lời ru ta con sóng bạc đầu
Có những lúc muốn vá trời lấp biển
Vác kiếm qua sông dựng lại ngọn cờ
Ngày tháng qua rồi, cả một đời ta
Nợ áo cơm vướng vai từng thân phận
Một đời người qua vội, có gì đâu?
Dẫu ngàn năm không vơi được nỗi sầu… (1)
*
Sông La ở gần cửa biển tên La Hà, thuộc Quảng Bình, rộng 170 trượng, gồm có ba nguồn hợp lưu tạo thành: Nguồn 1: có 70 dặm bắt đầu từ Tây Nam Hà Tĩnh chảy tới sông Lổ Cảng mà nhập thành. Chi nhánh phía Bắc 13 dặm nước chảy đến An Lệ. (Từ làng Văn Phú, phía Nam Cao Lao, và phía Tây sông Cổ Bồng: Tất cả những chi nhánh sông ấy chảy về hướng Đông Nam, tạo thành sông Gianh). Nguồn 2: nước từ Kim Linh chảy vô La Hà. Nguồn 3: từ sông An Niệu. Tất cả ba nguồn sông trên đã hợp lại mà tạo thành Sông La, tuy sông không rộng lắm, nhưng mùa nước lũ thì lòng sông rất sâu, dòng sông nước chảy xiết.
- “Lũy Thầy” là do ông Đào Duy Từ đắp từ năm 1630, thuộc thời Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, để chống cự với quân Trịnh Tráng. Lũy Thầy ở vùng đất hiểm trở được làm rất chắc chắn, kiên cố. Lũy Thầy bắt đầu đắp, xây từ làng Trường Dục (Huyện Phong Lộc, Tỉnh Quảng Bình) chạy dài dọc theo sông Nhật Lệ và hữu ngạn sông Rào Đá, qua các làng: Động Hải. Quảng Xá. Trường Dục. Xuân Dục. Cổ Hiền, cuối cùng lũy thành rẽ về đông cuả hướng Bình Thôn. Năm 1672 quân Trịnh đại chiến với quân Nguyễn bảy lần. Nhưng nhờ có lũy Thầy nầy, nên quân Trịnh muốn tiến quân vô Phú Xuân hoài, vẫn thất bại không thể nào lọt vô thành, do đó bên phía Nguyễn đã gìn giữ trọn vẹn lãnh thổ. Đó là vua Quang Trung NGUYỄN HUỆ nhà chính trị lỗi lạc & quân sự tài ba kiệt xuất.
*Kỷ thuật điều-phối-quân của vua Quang Trung
Quân Tây Sơn với danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh", làm một chuyến ra Bắc chỉ trong chớp mắt. Khi biết tin Nguyễn Nhạc ra Bắc, Nguyễn Hữu Chỉnh khuyên vua Chiêu Thống sắp sẵn ngọc tỷ để ra hàng, Chỉnh lại giục quan văn trong triều thảo gấp tờ biểu xin hàng. Triều thần bàn bạc mấy ngày chẳng xong, mọi người ngơ ngẩn nhìn nhau không ai dám hạ bút trước. Khi vua Thái Đức ra đến nơi, vua Lê thân hành đi đón Thái Đức ở cửa Nam, vua Lê đứng sẵn bên trong cửa ô, vua sai hoàng thân là Thanh Nguyên Hầu quỳ ở bên trái ngoài đường, để chào Thái Đức mà Mguyên Hầu nói thay mình. Vua Thái Đức cứ thế đi qua cửa ô không đáp lễ, vua giục ngựa đi thẳng, Thái Đức cho một người quay lại nói rằng:
- Quả nhân thấy nhà vua lễ độ quá, sợ rằng nếu xa giá ở lại chậm trễ. Hoặc giả quả nhân làm phiền quý thể phải quỳ lạy mệt nhọc. Thì quả nhân mang tiếng suốt đời là thất lễ. Bởi thế, quả nhân vội vã đi ngay. Xin ngự giá hãy cứ về cung nghỉ ngơi, ngày khác thong thả ta sẽ cùng gặp nhau.
Vua Lê nghe vậy, biết là vua Tây Sơn còn ưu đãi mình, mới không bàn đến việc đầu hàng nữa.
Ngày hôm sau, mùng sáu tháng Tám âm lịch, vua Thái Đức sai bày ở phủ đường của Nguyễn Huệ ba chỗ ngồi. Chính giữa phủ kê sập của vua Thái Đức, bên trái là ghế của vua Chiêu Thống, bên phải là ghế của Nguyễn Huệ. Như thế, đủ chứng tỏ vua Lê cũng biết điều, nhún nhường, rất có nhân cách cầu hoà cuả một người giữ tiết độ khoan hoà và khoan đãi có khả trung tín trực. Dẫu sao thì do vua dấu nỗi buồn riêng khi quá yếu thế, bất lợi mọi mặt và để bảo vệ ngai vàng cuả mình, nên vua Lê Chiêu Thống phải đi cầu viện quân Thanh, (mà có người cho hành động đó là “cõng rắn cắn gà nhà”):
Dấu mưa sa tôi vuốt mặt âm thầm
Cơn mưa dầm xanh thêm đám mạ
Luống cày vở đất mềm, tôi đau xót
Con trâu già đứng gậm nổi buồn riêng (1)
Vua Càn Long (nhà Thanh) liền lợi dụng cơ hội ấy, muốn lạm dụng “kẻ đàn anh” có uy thế quyền hành, nhân tiện ấy đi xâm lược nước ta, Càn Long đã cử Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân Thanh tới nước Nam, ngoài miệng leo lẻo thơn thớt mượn cớ giúp nhà Lê, nhưng thực tâm tà ý là chúng muốn xâm lăng chiếm đoạt và cai trị dân nước ta:
Ngày 21-12-1788, đô đốc Nguyễn Văn Tuyết ngày đêm phi ngựa vô tại Phú Xuân, báo tin lâm nguy cấp bách về việc “rước voi về dày mã tổ”. Được tin ấy, mượn cớ phò Lê, Nguyễn Huệ làm lễ chính thức đăng quang tại núi Bân lên ngôi hoàng đế, ông đặt niên hiệu là Quang Trung. Vua lập tức hạ lệnh xuất quân, tự thống lãnh mười vạn quân thủy, bộ, ngày đêm xuất quân tiến ra Bắc, để đánh Bắc Hà.
Ngày 15-l-1789, trên đường hành quân từ Phú Xuân ra Tam Điệp, Nguyễn Huệ tăng cường tuyển dụng quân số, mọi sự phát triển rất mau, thành một binh chủng hùng hậu, họ tiến công đột phá cao độ. Quân Tây Sơn có tác dụng ưu việt hơn quân địch (Thanh), vì tình cảm và tư tưởng quân dân Việt đều có truyền thống thiết tha yêu nước mãnh liệt, khi đất nước lâm nguy thì tình cảm ấy đã tác động sâu sắc đến tinh thần dân tộc, họ có ý thức về bổn phận, trách nhiệm & quật khởi, quân dân quạt bùng ngọn lửa đấu tranh bất khuất dâng tràn, ưu thế vượt trội là họ cùng chung một lòng đoàn kết, quật cường chiến đấu trong gian nan khổ cực trăm bề nằm sương gối đất, đói khát nhọc nhằn, họ vẫn dũng cảm cương quyết xua tan quân cướp bạo tàn, phát huy khí thế tiến công mãnh liệt như vũ bão.
Đại quân Bộ-binh Tây Sơn tập hợp tại phòng tuyến Tam Điệp, vùng Huyện Hà Trung, Tỉnh Thanh Hóa. Thủy-binh tập hợp tại Biện Sơn. Gò Bia, đồi ông Đùng, Pháo-binh Tây Sơn tập bắn. Tại Thung Voi –nhốt voi chiến. Đồng Cắm quân tại làng Gạo chứa lương thực tại đồng Cán Cờ, đồng Con Chuối: là nơi tập trận, tập chém chuối, v.v...
Trong buổi nói chuyện bàn về mưu kế đánh giặc giữa vua Quang Trung với Nguyễn Thiếp, (một danh sĩ có tiếng của đất Nghệ An), ông Nguyễn Thiếp nói với vua Quang Trung:
- “Bây giờ trong nước trống không, lòng người tan rã. Quân Thanh ở xa tới đây, không biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, chúng sẽ không thể hiểu rõ nên đánh ta, hoặc nên giữ yên giống hiện tại ra sao. Tôi nghĩ chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày thì giặc Thanh bị dẹp tan”.
Khi tiến quân ra đến Nghệ An, Thanh Hóa, vua Quang Trung sai người đưa thư đến Tôn Sĩ Nghị xin đầu hàng, lời lẽ vua viết trong thư nhún nhường, nhã nhặn, khiêm tốn. Khiến Tôn Sĩ Nghị cứ tưởng Nguyễn Huệ yếu kém, nhút nhác, hèn & dở tệ như vậy. Tôn Sĩ Nghị càng tỏ ra ngạo mạn, vênh váo khinh khi vua Quang Trung ra mặt, hắn ra lệnh cho vua Quang Trung:
- Hãy rút quân về Thuận Hóa, chờ ta phân xử.
Biết rõ ý đồ cuả Tôn Sĩ Nghị, vua Quang Trung quyết định mở chiến lược tập kích chớp nhoáng, bất ngờ trước ngày 6 tháng Giêng, Tết Kỷ Dậu. Khi vua Quang Trung làm lễ “thệ sư” tại Thọ Hạc (Thanh Hóa), vua đã dõng dạc nói những lời tuyên bố đanh thép trước ba quân, vua Quang Trung biểu lộ ý chí quyết tâm tiêu diệt địch, mong đất nước mau chóng được tự do, độc lập, tự chủ, tự cường:
- Trẫm đứng trước ba quân động viên tinh thần thượng võ của mọi người, ta nâng cao ý chí quyết chiến quyết thắng, gieo cho toàn quân binh có ý thức nhận được trọng trách, bổn phận của người công dân khi đất nước lâm nguy, thất phu hữu trách. Trẫm hai lần gây dựng họ Lê, thế mà tự quân họ Lê không biết giữ xã tắc, bỏ nước đi bôn vong; sĩ dân Bắc Hà không hướng về họ Lê, lại trông mong vào Trẫm.
Tại trấn doanh Nghệ An (thành phố Vinh), vua Quang Trung tổ chức một cuộc duyệt binh lớn, vua đọc bài hịch kêu gọi quân sĩ đã khẳng định sự tồn tại bền vững của đất nước:
- Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao nấy, đã phân biệt rõ ràng, thì phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị cho thuận lòng người, dấy nghĩa quân, chỉ đánh một trận là thắng, mà đuổi chúng về phương Bắc. Nay người Thanh lại quá mưu đồ độc ý chiếm lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết noi gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng…”
Hoặc:
- Bớ chư quân! Phàm ai bằng lòng chiến đấu, hãy vì ta giết sạch quân giặc Thanh. Nếu ai không muốn, hãy xem ta giết vài vạn người trong một trận, đó không phải là chuyện hiếm lắm đâu.
Đại quân Tây Sơn đi theo hai đường: thủy, bộ, tiến ra Bắc. Vua Quang Trung có sáng kiến khá thông minh, tuyệt chiêu & độc đáo: Toán quân đi bộ thì ba người một nhóm đi theo thế liên hoàn, cho hai người khiêng võng, để một người nằm nghỉ ngơi trên võng đung đưa dưỡng sức cho khoẻ, họ thay phiên nhau mà xoay vần. Cứ như vậy bộ binh đông đảo từ Quy Nhơn rầm rộ ra Bắc chớp nhoáng chỉ mất ít ngày.
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay.
Hà Lương chia rẽ đường này,
Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi.
… Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,
Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon.
Ôm yên gối trống đã chồn,
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh. (2)
Vua Quang Trung chuẩn bị cả những phương tiện chống lại hoả lực của địch, đó là những tấm mộc từ tấm ván gỗ phản, cửa nhà, cửa đình, cửa chùa… ghép chặt lại, phía ngoài quấn rơm ướt dày. Những tấm ván gỗ đó do dân địa phương tự nguyện đóng góp giúp quân Tây Sơn đánh thắng giặc ngoại xâm. Vua Quang Trung có sáng kiến ở các trận đánh công hãm đồn giặc dùng hỏa công tượng quân: lấy rơm bọc đuôi voi rồi đốt, khiến cho voi nóng rát sợ hãi, chúng liền quơ vòi quay mòng mòng đập đuôi vô chân mà chạy đâm sầm tới thành lũy đồn giặc. Trong khi đó cứ mười người bộ binh khiêng một tấm ván dày làm mộc, toán quân đi phiá sau tấm ván ào ạt xung phong chạy tiến lên.
Thủy-binh Tây Sơn giữ vai trò quan trọng khi vận chuyển tốc độ mau, hành quân nhanh, được trang bị nhiều hỏa hồ (súng phun lửa) đại bác các cỡ đặt trên chiến thuyền. Thủy-binh được trang bị nhiều loại thuyền chiến và thuyền vận tải lớn chở 100 voi chiến, các thuyền mang được 60 khẩu đại bác (loại 24 livres), chở 700 người*. Theo thư Barizy gởi Letondal trong Archives des Missions étrangères de Pari, Cochinchine, một sĩ quan người Pháp Jean Baptiste Chaigneau, khi chạm trán với Thủy-quân Tây Sơn, ông đã thán phục và thừa nhận:
- “Trước khi tận mặt thấy Thuỷ-quân của địch (tức quân Tây Sơn), tôi có ý khinh thường, nhưng bây giờ xin thú thực là tôi đã lầm, địch có những tàu mang đến 50, 60 khẩu đại bác…”
Trên đất liền thì họ đặt đại bác lên lưng voi chiến, như một thứ “pháo tượng hành binh”.
Cuối tháng Chạp năm Mậu Thân, vua Quang Trung mở tiệc khao cho quân binh ăn Tết Nguyên Đán trước thời gian. Trong bữa tiệc khao quân trước giờ xuất trận, Quang Trung khẳng định lại một lần nữa quyết tâm đánh tan quân giặc, chiếm thành Thăng Long, để ngày mồng 5 tháng Giêng một lần nữa sẽ mở tiệc ăn mừng chiến thắng vẻ vang giữa kinh thành tráng lệ:
- Người Thanh nghe quân ta ra Bắc, tất nhiên hắn sẽ tập trung hết quân tinh nhuệ xuống phía Nam mà giữ Thượng Phúc, Phú Xuyên. Vậy thì ta sẽ xuất kỳ bất ý chia quân chẹn ở Thái Nguyên, Lạng Sơn… Lần này ta thân hành cầm quân tiến đánh quân Thanh, thì ta đã tính sẵn, chẳng quá mười ngày là đuổi được người Thanh.
Trong buổi lễ bừng bừng khí thế chống xâm lăng đó, vị thống soái trẻ trung lừng danh gang thép ấy mới 36 tuổi đã tuyên bố trước ba quân về ý chí sắt đá, quyết tâm phải san bằng mọi khó khăn, gian khổ, không tiếc hy sinh, để quét sạch giặc ngoại xâm ra khỏi đất nước. Một lần nữa Quang Trung kêu gọi quân sĩ:
- Nhà Thanh, từ khi vua Càn Long lên ngôi đến nay, luôn luôn mưu toan khuếch trương bờ cõi, đã chiếm phía Tây, lại toan lấn áp phía Nam. Sự mất còn của nước ta là do quyết định ở trận nầy. Nay chúng ta hãy làm lễ ăn Tết Nguyên đán trước, đợi đến sang xuân ngày mổng 7 vào thành Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta nói xem có đúng thế không?”
***
* Quân Thanh có 29 vạn quân Thanh, trong số đó có hai vạn quân “cần vương” của “bù nhìn” Lê Chiêu Thống bao gồm nghĩa binh “quân lính mới” tuyển mộ các đạo và “cựu binh” (quân lính vua Lê, chúa Trịnh (trước gọi là “ưu binh”, hay “quân tam phủ”, hay “quân Thanh Nghệ” bị tan rã, nay tập hợp lại).
Khi Tôn Sĩ Nghị được Trần Nguyên Nhiếp cho tin vua Quang Trung đang ráo riết tuyển quân rầm rộ ở Nghệ An, Thanh Hóa, để chuẩn bị tiến công ra Bắc, thì Sĩ Nghị mới bật ngửa ra, giật mình rối rắm bao âu lo hãi hùng, Y quýnh quáng truyền lệnh:
- Đề phòng địch gấp, cho quân đi đóng giữ các nơi hiểm yếu khắp bốn ngả đường.
Ngày 23 tháng chạp âm lịch (18-l-1789) khi biết tin quân Tây Sơn trên đường tiến ra Bắc, Tôn Sĩ Nghị bồn chồn hạ lệnh cho đại quân sáng chiều tập dượt để chuẩn bị tác chiến, và tăng thêm quân đóng giữ các đồn lũy, tăng thêm quân sĩ chia nhau đi tiếp ứng các đồn, phòng giữ trên bốn ngả đường. Từ cửa ô Thăng Long đến Hà Hồi, quân Thanh phòng bị rất cẩn thận, sửa sang doanh trại đóng thêm đồn, lũy, trang bị súng đại bác, ngoài đồn đặt ngầm địa lôi”.
Phía Nam Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị sai thành lập nhiều đồn lũy phòng thủ dài gần 90 ki-lô-mét từ Gián Khẩu (Ninh Bình) Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, Hà Hồi đến Thăng Long. Nhứt là Hà Hồi giữ một vị trí quan trọng, có binh lực lớn, chốt nầy có công sự kiên cố, là cứ điểm then chốt khi quyết định mọi việc.
- Đạo quân chủ lực Sầm Nghi Đống giữ vị trí quan trọng ở Đống Đa, vì những cự ly nhứt định trên đường thiên lý càng gần Thăng Long, thì có chiều sâu càng dày, vã lại ưu điểm ở Đống Đa kiên cố, có trọng điểm & có binh lực lớn hơn mấy chỗ khác. Tuy vậy nhược điểm của Đống Đa là hai bên mạn sườn bị “hở hang lồ lộ” ở trên đường thiên lý. Tôn Sĩ Nghị để bốn đạo quân Thanh đóng ở bốn vị trí: Tây Long, Đống Đa, Hải Dương, Sơn Tây.
- Đội quân quan trọng cuả Lê Chiêu Thống đóng trong nội thành Thăng Long, số khác chia ra đóng giữ ở Bắc Hà.
- Quân Thanh ở Thăng Long tập trung binh lực phòng thủ ở cung Tây Long, & đại quân chủ lực tinh nhuệ do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp chỉ huy, thì đóng ở hai bên bờ sông Nhị.
- Hai đạo quân Thanh đóng ở Sơn Tây và Hải Dương, bảo vệ hai cạnh sườn phía Tây – Bắc và Đông – Nam của Thăng Long.
Đồng thời Tôn Sĩ Nghị lập ba đồn lũy không kém phần quan trọng khác: Ngọc Hồi (Thường Tín, Hà Tây), đồn Nhật Tảo (Duy Tiên, Nam Hà), đồn ở bờ Bắc sông Nguyệt Quyết (Thanh Liêm, Nam Hà).
***
* Kế hoạch tấn công của quân Tây Sơn
* Trong khi đó tại Phú Xuân, quân đội Tây Sơn chỉ có khoảng 6 vạn quân (theo thư của Doussain gởi Blandi ngày 6-6-1787, nguyên bản L. Cadière, dẫn trong Documents relatifs à l’epoque de Gia Long). Tất nhiên Nguyễn Huệ cần để một số quân ở lại bảo vệ Phú Xuân, đề phòng Nguyễn Ánh ở Đàng Trong (miền Nam). Nguyễn Huệ biết rằng: “quân lính thì cốt hòa thuận không cốt đông, cốt tinh nhuệ không cốt nhiều” và… thắng bại của chiến tranh “không phải lấy mạnh đè yếu, lấy nhiều hiếp ít”.
1. Đạo quân chủ lực của vua Quang Trung gồm: tiền quân, trung quân, hậu quân. Đạo quân chủ lực: tập trung lực lượng Bộ-binh đột kích, Tượng-binh voi chiến, Kỵ-binh hỏa hổ, đại bác do vua Quang Trung trực tiếp đảm nhiệm chỉ huy tiến công mau, mạnh, gồm: đại tư mã Ngô Văn Sở, nội hầu Phan Văn Lân, Hám hổ hầu tức Chiêu Viễn tướng quân tiến công thẳng vô hệ thống phòng thủ ở phía Nam mặt trận chính của quân Thanh.
2.- Chỉ huy đạo quân thứ hai: do đô đốc Đặng Tiến Đông, đảm nhiệm gồm Bộ-binh và Tượng-binh, lực lượng khá mạnh và cơ động. Đạo quân thứ hai và thứ ba gồm hữu quân.
Từ Tam Điệp ra Thiên Quan (Nho Quan, Ninh Bình), xuyên qua (Chương Đức, Chương Mỹ, Hà Tây), vua & quân binh tiến thẳng đến Nhân Mục (nay thuộc Nhân Chính, Từ Liêm, Hà Nội), đô đốc Đông bất ngờ bao vây tiêu diệt đạo quân Sầm Nghi Đống ở Đống Đa, rồi qua cửa Tây – Nam (ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội) thọc sâu vào thành Thăng Long, làm rối loạn khu trung tâm phòng thủ của dịch, uy hiếp đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị.
3.- Đạo quân thứ ba gồm hữu quân: đi theo đường nhỏ nằm giữa hướng tiến công chủ yếu, và thứ yếu, gần nơi tiến quân của đạo quân chủ lực qua Sơn Minh (Ứng Hòa, Hà Tây) tiến ra Đại Áng (Thường Tín, Hà Tây) ở phía Tây – Nam đồn Ngọc Hồi, do đại đô đốc Bảo chỉ huy lực lượng cơ động gồm Kỵ binh, Tượng binh, có đội voi chiến mạnh.
4.- Đạo quân thứ tư & đạo quân thứ năm- là tả quân. Thủy, do đô đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy vượt biển vào sông Lục Đầu, để tiếp ứng dưới mặt Đông & phối hợp với hướng tiến công chủ yếu, thứ yếu, tiêu diệt lực lượng quân địch đóng ở Hải Dương, và đánh vô Thăng Long, uy hiếp quân chủ lực Tôn Sĩ Nghị.
5.- Đạo quân thứ năm: đạo quân Thủy-binh vượt biển tiến vào sông Lục Đầu do đại đô đốc Lộc chỉ huy từ Lục Đầu, đạo quân nầy mau chóng tiến lên vùng Lạng Giang, Phượng Nhãn, Yên Thế, bí mật tiến sau lưng địch, là một mũi vu hồi chắn ngang, bịt kín đường tháo rút của địch, chặn đường chạy của quân Thanh từ Thăng Long về Quảng Tây.
***
Đêm giao thừa đến kết thúc năm cũ, nàng Xuân hân hoan rộn ràng tưng bừng đón chào năm mới. Tại cung Tây Long bên bờ sông Nhị, Tôn Sĩ Nghị cùng bọn tướng soái quân sĩ Thanh đang mở “yến tiệc tưng bừng truy hoan hát xướng ngây ngất vui thú” trong không khí “hào hứng chiến thắng” và Tết nhất. Thì giữa đêm 30 tết – đạo quân chủ lực của vua Quang Trung ồ ạt vượt sông Gián Khẩu, hăng hái đi đại phá quân Thanh. Trước tiên quân Tây Sơn tấn công một đồn do đội quân Lê Chiêu Thống đóng giữ, rồi bất ngờ đánh úp quân Thanh ở tiền đồn nầy, quân Tây Sơn hùng dũng đánh phá quyết liệt.
Quá đột ngột bàng hoàng sửng sốt, vì vậy chúng không thể chạy đi báo tin cho đồng bọn biết, nên chỉ trong chớp nhoáng địch hoảng sợ, tan vỡ hàng ngũ và bỏ chạy tứ tán. Vua Quang Trung ra lệnh truy kích ráo riết đuổi theo chúng đến Phú Xuyên, (Hà Tây) thì bắt gọn được toàn bộ tàn quân và bọn lính do thám của địch, không một tên nào trốn thoát. Quân Thanh ở tiền đồn nầy đã bị tiêu diệt trọn ổ. Quân Tây Sơn thừa thắng xông lên mau chóng tiến đi tiêu diệt luôn các đồn quân Thanh ở bờ Bắc sông Nguyệt Quyết và Nhật Tảo.
***
Tình Hoài Hương
(1) thơ Đông Quyên
(2) Chinh Phụ Ngâm
***
Tôi xin mạn phép kể hầu quý vị (và riêng các em học sinh) về những chiến tích oai hùng, những kỳ công anh dũng, quật cường của tổ tiên chúng ta: đã dày công xây dựng đất nước, giữ gìn non sông gấm vóc Việt Nam hưng thịnh trường tồn. (Bài viết nầy được trích riêng ra từ quyển vở: “Soạn Bài Dạy” cuả Hoài Hương & biên soạn; dựa theo lịch sử Việt Nam qua:
* Biên soạn bài viết theo lịch sử Việt Nam, từ:
* ít sách trong Bộ Giáo Dục V N C H
* Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim).
* Nam Hải Dị Nhân (Phan Kế Bính).
* Đại Cương Lịch sử Việt Nam (Nguyễn Khắc Thuần).
* Notion d’ Histoire d’ Annam, par Maybon et Ruissier.
* Abrégé de l’ Histoire d’ Annam, par Shreiner.
* L'Empire d' Annam, par Goselin.
* L'ínurrection de Gia Dinh, par J. Silvestre.
* ít nghiên cứu từ Wikipedia.
- Sử quán triều Nguyễn, "Đại Nam thực lục".
- Sách “Tây Sơn thực lục”.
- Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ...
- (Đại Nam chính biên liệt truyện).
***
Tình Hoài Hương
Comment