Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Đặc San Hội Ngộ kỳ III

Collapse
X

Đặc San Hội Ngộ kỳ III

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    CON NGỗNG



    Lúc nhỏ tôi thường đuổi gà, đuổi vịt, rượt bắt để làm thịt nấu cháo trong những đám tiệc của họ hàng thân tộc, nhưng tới lúc lớn lên đi lính thì hởi ôi tôi phải có trách nhiệm săn sóc kỷ càng con ngỗng.

    Là Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân khi tình nguyện gia nhập quân đội tôi không ngờ cuộc đời mình thê thảm như vậy, cứ ngỡ rằng cố gắng học hành, tuân hành kỷ luật răm rắp thì mình sẽ thỏa mộng mây trời, sẽ bay bổng và lã lướt không gian, oai phong của chàng trai thời đại, chết cũng vui , khoe khoang tán gái, tự hào về thể lực của mình, nhưng trời đã phụ lòng người, đi dọc theo phòng tuyến Long Thành vai mang súng, đầu đội nón sắt, chân mang giày trận, với lưới lê bên hông phải, bình ton nước bên trái, giây đạn đầy người, thêm vài trái lựa đạn lủng long tòn teng, ai ở ngoài nếu nhìn thấy hình ảnh đó của tôi thì đúng là một chiến sỉ thứ thiệt, nhưng hôm nay tôi lại có một hình ảnh lạ đời vì đôi tay ôm thêm con ngỗng,

    Kỷ luật quân đội là thi hành trước khiếu nại sau, làm sao mà khiếu nại đây khi mà mình bắt thăm nhằm chữ "ngỗng,"

    Mỗi buổi chiều, bọn tôi phải chia nhau canh gác chung quanh phòng tuyến của quân trường, phải lo gài những trái sáng, trái khói, lựa đạn, mìn claymore, trong khu vực trách nhiệm của mình, là lính thì xử dụng vũ khí là lẽ đương nhiên, không ai phàn nàn gì cả, nhưng không biết sáng kiến cao minh của ai mà quân trường lại có thêm rất nhiều chuồng ngỗng dọc theo tuyến thủ, được đánh số thứ tự đàng hoàng, được đặt phía ngoài tuyến không xa lắm khoảng 10, 15 thước, nói rằng nó sẽ kêu khẹc khẹc khi quân địch bò vào, quân phòng thủ phát giác kịp thời mà nả súng, mìn và lựa đạn thì mọi người ai nầy đều vui vẽ nhận công, còn mấy con ngỗng quái ác kia thì phải bắt thăm vì ai nấy cũng không có tấm lòng yêu thương ngỗng, ai không may mắn mà bắt thăm nhằm chử ngỗng có con số đính kèm, thì lên gặp thằng Minh Đại Khí, nó có trách nhiệm giữ vũ khí kiêm luôn chủ trại ngỗng, những con ngỗng nầy là chiến sĩ tiền sát chuyên phục kích ban đêm, được ăn uống đầy đủ và đúng giờ, là tài sản quốc gia, không được sơ sót, tôi phải trình giấy ký tên rồi nhận một con ngỗng ôm ấp vào mình vì nếu nó xảy mất thì mình khốn nạn, theo con số chuồng mà mình bắt thăm trúng phải, lội dọc theo tuyến tìm cho đúng số rồi bỏ nó vào trước khi trời tối, sáng hôm sau trở lại ôm ngỗng đem trả lại có ký giấy đàng hoàng, nếu ai xui mà có con số quái ác phải lội tìm xa xôi rả cẳng, khi về tới trạm gác của mình thì mồ hôi ướt đẫm đầm đìa.

    Trong đời thỉnh thoảng tôi có đọc những sách về chiến tranh, tấn công hay phòng thủ, chiến lược, chiến thuật, nhưng những kỳ công của con ngỗng thì chưa có ai nhắc đến bao giờ, nếu con ngỗng mà thay được người lính gác, thì cấp chỉ huy nên cho binh sĩ ngủ ngon chứ canh gác để làm gì, có nhiều lần gác gần chuồng ngỗng tôi để ý nó im re không lên tiếng cho tới sáng, có lẻ nó có những giấc ngũ
    ngon lành vì không có bạn bè chen chúc chung quanh, không biết cấp chỉ huy nghiên cứu từ đâu mà có sáng kiến lạ đời, nếu có hiệu quả thì tại sao toàn quân lực không cho ngỗng canh gác ở những tiền đồn hẻo lánh hoặc tất cả những căn cứ trên toàn cỏi quốc gia, theo tôi lựa giữa chó và ngỗng để canh gác thì tôi chọn chó, thính giác của nó không tệ và khỏi ẩm bồng.

    Lúc ôm con ngỗng trong lòng, tôi tự an ủi vì đâu phải chỉ có một mình ta mà trong cái Tiểu Đoàn Không Quân nầy tối nay có rất nhiều thằng xấu số cũng đang như mình, biết đâu tụi nó còn tệ hơn phải ôm con ngỗng quá mập.


    Minh Khải
    Last edited by hung45qs; 10-13-2010, 08:20 PM.
    Hung45HTQS

    Comment


    • #17
      CổNG Số 9 TRƯỜNG BỘ BINH LONG THÀNH
      NGÀY 30 THÁNH 4 NĂM 75


      NT 73F THÂN MẾN!

      Đọc bài "Trận đánh không có Đại bàng" cùng ký tên của ba người là: Lê Nguyễn, Trần văn Trung và Hải Triều, đọc xong tôi nhận thấy cần phải bổ túc thêm cho chính xác, vì khóa 73F của chúng ta và một số ít SVSQ/KQ khóa khác là quân chủ lực của Trường Thủ Đức trong ngày 30-4-1975, bản thân tôi xin kể lại những gì mà mình nhớ được trong trí nhớ của mình.


      Tiểu đoàn Không Quân của trường Bộ Binh Long Thành gồm những SVSQ từ khắp mọi nơi qui tụ về, từ những chàng đang học bay bên Mỹ, từ những chàng đã đậu Anh ngử và đang chờ đi Mỹ cùng các bạn ở Macv, Nha Trang v..v đều có cùng chung số phận vì sự bôi tín mà Hoa kỳ đã cúp ngang ngân khoảng viện trợ từ 600 triệu US $ xuống 300 và triệt tiêu ở con số zero, mộng bay bổng tan tành, Tiểu đoàn Không Quân được thành lập tại Trường Bộ Binh Long Thành vào đầu năm 1974.

      Giai đoạn thụ huấn của SVSQ Thủ đức là 9 tháng, cho nên trong vài ngày cuối của cuộc chiến, các khóa khác đã ra trường, còn lại Không Quân là khóa sinh kỳ cựu, hơn nửa tính từ ngày nhập ngủ đến tháng tư đen chúng ta ai cũng tròm trèm gần ba tuổi lính, có một số khóa đàn anh tuổi lính càng cao hơn, còn Sinh viên của trường Võ Bị Đà Lạt và trường Chiến tranh Chính trị chạy về thì phong độ không còn, có một khóa làm lể ra trường tại Long Thành chỉ học có 3 năm, các Sỉ Quan học Bộ Binh Trung cấp thì không có súng ống gì, các trường khác như Tình báo cũng vậy, di tản từ Long Thành về Thủ Đức vào ngày 28-4-75, Sinh viên Sỉ Quan Không Quân được phân chia làm kháng tuyến chính án ngử bốn mặt của quân trường, được trang bị một hỏa lực tối đa ngoài cấp số, hơn hẳn những cấp số 2, 3 của những đơn vị tác chiến ngoài chiến trường mà chúng ta được biết.

      Tất cả những đơn vị khác là khách cho nên được ở bên trong làm quân trừ bị, được gọi là Kháng tuyến phụ, ngoài M72 còn được phát thêm nhiều thùng đạn M79 chống chiến xa đầu đạn dài hơn đạn thường bắn vào vùng tử giác, mìn, lựu đạn M26 thì quá nhiêu ,theo bài bản quân trường thì hỏa lực của chúng ta được trang bị kinh hồn, hơn nửa chúng ta từng đã học Quân sự taị trường Phi Dũng của Không quân, mượn những bải tập của trường Đồng Đề, về Bộ Binh sơ cấp , cấp trung đội trưởng chúng ta bị đã học tới học lui đến binh pháp lào thông, nhàm chán, có thể làm huấn luyện viên về môn cơ bản thao diển, chưa ra trường nhưng chúng ta đủ trình độ của một anh lính chuyên nghiệp để bắn đủ loại súng, không hoang mang khi thấy chiến xa T54 địch đang rầm rì tiến vào căn cứ với đại bác to nòng đang pháo ầm ì.

      Thông thường thì Trung uý Sáng, Sĩ Quan Liên Lạc Không Quân phát lương vào ngày 20 hoặc 21 mỗi tháng , nhưng tháng tư 75 chờ mãi không thấy, để trả nợ và chi phí cho bao tử nên khi vừa về tới Thủ Đức tôi phải cầm ngay cái đồng hồ Rado kỷ niệm, địa hình địa vật của trường nầy tôi không biết nhiều vì phải canh gác và túi thì rổng tuyếch, vì ở đây chỉ có vài ngày phù du.

      Dưới quyền Đạị úy Thu, Đại Đội Trưởng, Trung Úy Triều Trung Đội Trưởng, đại đội 4 mang khăn màu vàng trong đó có tôi được đóng quân ngay cổng số 9 của quân trường Thủ Đức, cổng số 9 phía trước có những thùng phuy làm hàng rào cản, dọc theo tuyến là một hàng rào kẽm gai, ngoài lớp kẽm gai là một giao thông hào lớn giống như trường Long Thành mà khi chúng ta mới về được Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi thay thế Trung Tướng Nguyễn văn Minh, Tướng Nghi đã cho một tiểu đoàn công binh đào chung quanh căn cứ Long Thành, bề ngang rộng và sâu để cản chiến xa, tank sẽ bị sụp hầm nếu càn qua, xa hơn là một khoảng đồng trống và xa hơn nữa là một xóm nhà với những nóc nhà màu trắng xen kẽ đỏ xám, trộn lẩn với cây cối xanh rì, tầm xa khoảng 700 đến 1km, đêm 29 ngồi gác nghe rỏ những âm thanh của phèn la, chiên trống , tiếng phát loa văng vẳng từ xóm nhà trước mặt, có lẻ là họ tổ chức biểu tình.

      Hai cái poncho kết lại thành túp lều lý tưởng, lều chõng được giăng bên trong tuyến rợp rời, kế sát một giao thông hào nhỏ chạy dài theo tuyến thủ, nón sắt, lưỡi lê, balo, mìn , lựu đạn, M72, M79, M26, M16, M60, những thùng lựu đạn, thùng là thùng, thùng đại liên , những dây đạn được mang đầy mình vì ai đó tung tin rất có lý là sẽ chống miểng hay đạn ghim vào người, đầy đủ quân số, cấp số dư thừa, hỏa lực đủ niềm tin khi giáp trận.

      Trong khí thế sẳn sàng, trận chiến đang hồi hộp không biết sẽ xãy ra trong giây phút nào, tin Biên Hòa Thất thủ, tất cả những phi cơ đủ loại bay rợp trời về hướng Sài gòn trong đêm tối, những tiếng đì đùng ầm ĩ vang vọng từ xa, những ánh lửa nháng lên tứ phía, tin nghe được Long thành bị mất, Long Bình kho đạn bị nổ, Thủ đức đã kề bên, súng đạn đã lên nòng trong hồi họp lo âu, thì hởi ôi một tiếng nổ lớn đau lòng đã làm bay nguyên một bàn tay của AC Nguyễn văn Bình do cây M72 mà anh giương sẳn kế lều của tôi, NT Bình từ Mỹ về đang học bay trực thăng và cùng chung Trung đội với tôi, anh ta có cái răng vàng duyên dáng, giọng nói miền Trung, tôi không biết anh thuộc khóa nào của Không Quân chúng ta, giờ nầy anh ra sao ?

      Chỉa súng ra ngoài , về hướng phải của cổng số 9 khoảng 150 m có một cái lô cốt bằng xi măng lớn có nhiều lổ châu mai, Tuần sự đại đôi 4 khăn vàng đóng đô tại đó, có máy truyền tin , chất chứa rất nhiều thùng đạn dự trữ đủ loại, lều của tôi căng ngay tại đó.

      Tình hình căng thẳng nên sự canh gác rất cẩn mật, những diển tiến chung quanh quân trường Thủ Đức tôi không biết gì, những Đại Đôi khăn đỏ, khăn xanh , khăn tím của Không Quân đóng ở tuyến số mấy bao quanh quân trường tôi không biết được, nhờ quý NT bổ túc, hơn nửa chúng ta không phải là cấp chỉ huy nên tình hình càng mù tịt, làm sao mà nghe những mẫu đối thoại giữa cán binh nói chuyện và bàn tính với nhau, làm sao biết được những ý định của địch, làm sao biết hết tình hình trận địa, do đó tôi chỉ nói về cổng số 9 của sáng 30.

      Tiếng súng cắt bùm hòa lẩn những tràng liên thanh hàng loạt thỉnh thoảng vang lên cộng thêm tiếng phèn la phát ra từ xóm nhà trước mặt, Đạị Đội 4 không tài nào ngủ được trong cái đêm 29 nầy, thằng gác cũng như thằng ngủ đều chập chờn căng thẳng cho đến rạng sáng 30.

      Mờ sáng nhưng không nhìn thấy được gì ngoài đám sương mù dày đặc trắng xóa che mất tầm nhìn trước mặt, được tan dần theo ánh nắng mặt trời le lói chiếu nhẹ nhàng trong buổi sáng nhiều sương, từ từ nhìn được khoảng cách xa hơn, 10m, 20m , rồi 30m, bổng nhiều tiếng la hốt hoảng " xe tăng xe tăng " vang lên dọc theo tuyến thủ, đang ngồi trong lo cốt tôi chạy ra ngoài nhìn ra chẳng thầy gì hết mà chỉ nghe tiếng rầm rì của xe tăng đang lăn bánh, vài phút sau thì hiện rỏ ra một chiếc tank đang chạy về hướng quân trường, ngay trước mặt tôi, nhìn kỷ hơn thì thấy một lá cờ xanh đỏ với ngôi sao vàng nhấp nhô trong những bụi chà chôm của những cành cây ngụy trang trên xe, khoảng cách chừng 30 tới 40m, không biết lệnh lạc từ đâu súng đã nổ dòn tan dọc theo tuyến của cổng số 9, rồi thì trận địa bắt đầu, nòng súng của chiếc T54 phun ra lửa khói, tiếng đạn rít ngang đầu bay vào bên trong liên tục, tiếng ngói đổ rì rào sình đất bay tứ tung , đủ loại tiếng nổ và ánh sang nhấp nhóe tạo nên chiến trường thật sự, lửa đủ màu bay quanh chiếc tank mà nó cứ tiếp tục lăn bánh gần sát giao thông hào, những ngọn lửa của M72 che khuất chiếc xe cùng theo những tiếng "cháy rồi, cháy rồi " inh ỏi, lửa tắt bánh xe vẫn còn lăn, nhiều ngọn lửa khác tiếp tục, nòng đại bác của tank vẫn đều đều phun lửa, tiếng ì ầm vẫn rền vang toàn khu vực, tôi bò ra ngoài giao thông hào vì sợ nó quay nòng vào lô cốt thì mình phải chầu diêm vương, ai bắn mặc ai tôi cứ mò mẩm chung quanh thân mình để coi đã bị thương chổ nào rồi , may quá chỉ là sình đất mà thôi, vài phút tỉnh hồn ngẩng đầu lên thì chiếc tank vẫn còn nổ máy đang trước mặt mình vài thước, nó bị khựng lại bởi giao thông hào cứu mạng, tôi giương cây M72 của mình chỉa thẳng vào xe và nhấn nút, ngọn lửa đã phà bít chiếc xe và chính miệng tôi cũng reo vang " cháy rồi " rất lớn, máy xe vẫn còn nổ và nòng súng vẫn còn phun lửa, Kỳ nầy chết chắc thật rồi, tôi than thầm trong bụng và chưởi thề mấy thằng quỷ bạn cách vài chục thước hai bên trái phải của tôi sao không chịu bắn vào giây xích với góc độ 60 độ ,như những lần thực tập, mà cứ bắn trợt qua trợt lại, nhìn lên chiếc tank xuyên qua miếng sắt chắn đạn tôi thấy ánh mắt hốt hoảng của anh tài xế xe tank, cứu mạng tôi thì anh phải chết, tôi nâng cây M16 lên và nhắm vào mắt của anh bò bóp cò từng viên một, anh cho xe thụt lùi và chạy nhanh qua cổng số 9 ngay chổ của đám Huỳnh Phú Hiếu vào bên trong sau lưng bọn tôi, chúng tôi không biết phải làm gì, tiếng súng tại cổng 9 không còn nửa và chiếc tank nầy bị bắn cháy gần cổng số 1, do Đại Đội mấy của Không Quân bắn thì tôi không biết được.

      Lệnh đầu hàng từ lúc nào không ai được biết, Sỉ Quan trực không liên lạc được một ai, tôi chỉ nhớ có một ông Thiếu tá rất nhỏ con, có râu, mang ống dòm với huy hiệu trường Võ Bị Đà Lạt, lái chiếc xe Jeep thắng lại cổng 9 và khen rằng: "Mấy anh Không Quân hay quá ", rồi khui một thùng Ruby Quân Tiếp vụ tặng thưởng, tôi được một gói trước khi tan hàng, khoảng 2 giờ trưa ngày 30-4-75.

      Thằng Nguyễn Văn Quới cùng lều với tôi đã khóc sướt mướt, nó còn lay quay lo gài lựu đạn và mìn, tôi phải khuyên nó gài chốt lại.

      Lạc Vệ Hùng rất ba gai trong Đại Đội 4, nên được chọn là Trưởng ban Kỷ Luật, nó vẫn ba gai chạy tới, chạy lui theo tuyến, trong lúc mọi người dưới giao thông hào, hình ảnh đó thật khó quên, không biết nó có cùng khóa 73F của chúng ta hay không?

      Sau nầy nghe kể lại thì Trịnh Văn Tá của khoá 73F và một số Sinh viên sĩ Quan của khóa khác đã tử thương trong trận chiến giờ thứ 25 nầy vì đạn pháo của tank 54 bắn trực xạ không có mục tiêu nhứt định, hơn nửa nó đang hốt hoảng chạy chết, khi tank 54 bị bắn đứt giây sên nằm ỳ một chổ thì có hai Sinh viên Sĩ Quan Không Quân rút chốt lựu đạn nhảy tới và trèo lên mở nấp tung lựu đạn M26 vào , theo lời kể của NT C thuộc đại đội khăn đỏ thì màn nầy còn hấp dẩn hơn xi- nê của HOLLYWOOD rất nhiều, vì xảy ra trong tích tắc, nhanh va chính xác, sau đó thì thép của Nga Sô đã bốc cháy dể dàng.

      Trong tâm trạng là một xác người biết đi, tôi cởi bỏ áo trận chỉ còn áo thun trắng, vẫn mang đôi giày bố cùng một đám bạn rời bỏ Trường Thủ Đức lội bộ về tới Sài Gòn thì màn đêm đả xuống, đài phát thanh Thủ Đô không còn những tiếng nói quen thuộc nữa mà thay vào những âm thanh chát chúa lanh lãnh khó nghe, lòng rối bời chua xót cho vận nước, cho cuộc đời và cho cả bản thân tôi, từ ngày đó tôi biết được danh từ Tù được thay bằng cái tên hoa mỹ là Học tập cải tạo, tôi biết được rừng tràm U-minh mà từ lâu chỉ nghe tiếng, Độc lập, Tự do, Hạnh Phúc dân Việt chưa bao giờ có được từ ngày đó.

      Thân mến


      Minh Khải
      Last edited by hung45qs; 10-14-2010, 12:53 AM.
      Hung45HTQS

      Comment


      • #18
        Dòng Thơ Trần Thanh Quang 72F - Phần I


        Tranh Thương Nhớ - Lê Khánh Thọ - France

        Vô đề

        Nếu là một chút hương bay
        Thì xin đọng mái tóc mây của người
        Nếu là một chút nắng trời
        Thì xin rụng xuống mảnh đời của nhau.



        Lời ru cuối

        Ru em ru một đời tình
        Ngã nghiêng ta hát mới mình ta chơi
        Ru em ru tiếng à ơi
        Câu ca khẻ rụng thành lời dấu yêu
        Ru em ru sớm ru chiều
        Ru điên ru dại ru xiêu xát lòng
        Ru em tịnh cõi hư không
        Mãn khai thành triệu đóa hồng cho ai
        Ru em ru suốt đêm dài
        Hòa âm cùng gió ru khai tử tình.



        Chân dung

        Ta thân ngựa một đời rong ruỗi phố
        Móng khua vang đánh thức mấy con đường
        Máu luân lạc trong trái tim loang lổ
        Cõi ta bà sao cứ mãi vấn vương

        Ta thân ngựa một đời mơ bóng núi
        Bóng mù xa mà bóng lại gần
        Chân rời rã lòng còn ôm gối mộng
        Ở nơi nào ta vét chút tình thân

        Ta thân ngựa một đời mơ về biển
        Mộng phù du in dấu cát phiêu bồng
        Chân nghiệt ngã trước hồn nhiên của sóng
        Hạt muối nào mặn chát giữa hư không

        Ta thân ngựa một đời làm thân ngựa
        Bờm rụng rơi theo gió thốc của đời
        Cỏ rũ mục trên thảo nguyên xa tít
        Biết khi nào ta ngã ngựa em ơi !



        Hành Trình

        Những chuyến xe đời long lóc đi qua
        Để lại khói đen bùn nhơ và cỏ rác
        Dăm nụ cười khan vài lời thô thốc
        Rớt xuống ta nỗi chết muôn trùng

        Buổi sáng hoàng hôn rớt trên mặt người dưng
        Bình minh trong ta nói lời hoan hĩ
        Những khúc thức trường canh giai điệu
        Biến tấu ca từ xô lệch nhân gian

        Chốn xa xăm em ngân khúc thiên đàng
        Em tránh nỗi đau né lời rao giảng
        Ta ngập ngụa trong thánh kinh xa lạ
        Đạo đức giải lên ngôi xé toạc tim người

        Đôi khi thấy đời như một cuộc chơi
        Sinh – tử – thiệt – hơn vờn trên sân bóng
        Kẻ thủng lưới chưa hẵn người chiến bại
        Bục vinh quang đừng thắm máu con người.



        Vô cùng

        Ta đi hoang một đêm
        Em giận ta một kiếp
        Ta đi hoang một đời
        Mẹ vẫn thứ tha

        Cái nghịch lý vẫn là điều nghịch lý
        Cái vô cùng muôn thuở vẫn vô cùng.



        Bên bờ sông tím

        Em yêu ạ, trăng đã già mấy lứa
        Mối tình đầu se sắt nữa đời thôi
        Ta vẫn đợi bến bờ xa quạnh quẽ
        Con nước nào thê thiết một dòng trôi

        Em yêu ạ, tóc đã vài sợi nhớ
        Phả một màu thánh khiết cuộc tình thơ
        Em bến lạ sông đời đừng xoáy lỡ
        Để an nhiên ta hiu hắt bóng chờ

        Em yêu ạ, giá ta đừng rất Huế
        Nghìn trùng xa không cạn một mùa yêu
        Không ngăn cách ta em và mãi mãi
        Tội tình chi giọng nói gọi là kiêu

        Em yêu ạ, thôi thì xa xa mãi
        Hoa cúc này ta gởi lại sông xưa
        Xin mặc khải khối tình mình dấu ái
        Chuyến đò đời ai cũng một lần đưa.



        Mùa trinh nguyên

        Em từ độ trăng rằm thôi xõa tóc
        Cây trăm năm lá chết cuộc tình phai
        Mắt khô đục ôm buổi chiều xám ngắt
        Tay mênh mông gầy với những ngày dài

        Em từ độ ngày đi không biết hẹn
        Nụ hoàng hôn theo gió rụng sân đầy
        Hoa vàng úa ngập chân đồi hoang mộng
        Cuộc tình xanh xưa đọng xuống vũng lầy

        Em từ độ lấy chồng bên quê nội
        Ngày xuân buồn loang tím một nguồn sông
        Đêm thu khóc thương người xa quá đỗi
        Con thuyền trôi bến đục xót nao lòng

        Em từ độ bỏ ta vời chốn mộng
        Mùa Trinh nguyên bạc tóc xám chân đời
        Thân ngựa chạy rạc rời bao con phố
        Vẫn mong nằm trong tay nhỏ buông lơi.
        Last edited by hung45qs; 10-14-2010, 08:54 PM.
        Hung45HTQS

        Comment


        • #19
          Đại Bàng Gãy Cánh

          Nghe nói ngày trước, khi tuyển một khóa sinh Không Quân, ngoài phần khám y khoa, còn có mục khảo sát về thẩm mỹ ngoại hình. Chẳng biết tin này có thiệt hay không, nhưng năm 1969 không còn thấy áp dụng nữa. KQ lúc này không còn ròng rã là những đấng hào hoa đẹp trai, mà đã lẫn lộn vào đó là vài khuôn mặt không mấy rạng rỡ. Nhân cơ hội này, Tú, Lương và tôi đã trà trộn vào thành phần "Thượng lưu của quân đội".


          Diễn tả lại dung mạo của thằng Tú, không gì điển hình hơn là nhắc lại câu nói của niên trưởng ngày huấn nhục ở Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang:
          - Không hiểu ban tuyển mộ KQ mù cả hay sao mà ông lại lọt được vào đây!
          Thật ra thằng Tú không đến nỗi xấu, nó chỉ bị rỗ hoa, miệng lúc nào cũng toe ra cười như cái loa của Tổng Lãnh Thiên thần Mi ca e. Nó nhỏ con nhưng có đặc tính là hễ giận ai thì hay nói:
          - Ông vặn cổ mày bây giờ.
          Hỗn danh nó là thằng Hố Lai, tuy nhà nó ở Sài Gòn. Phần tôi không biết căn cứ vào sách tướng số nào, mà thằng Tú nói tôi là thằng lừa thầy phản bạn, tiểu nhân và ra đời đụng đâu thua đó. Thằng Lương thì ngược lại, nó to con, da ngăm đen và có gương mặt rất nông dân chân chính, nên bọn tôi gọi nó là Võ Tòng Sát Tẩu. Con gái nhìn thấy nó cứ phải len lén quay đi chỗ khác, vì sợ nó tán nhầm.

          Ba đứa chúng tôi thi nhau làm lung lay cái huyền thoại hào hoa của quân chủng. Nhập khóa 69A ở Nha Trang, Lương lớn nhất nên được tôn là sư huynh. Có một niên trưởng rất hắc ám tên là Thái hay phạt thậm vô lý nên Lương ra lệnh cho tụi tôi:
          - Tao đặt tên cho thằng Thái là Dúi, nhưng tụi mày chỉ nên kêu nó là Dúi thôi chứ kêu Thái Dúi, nó biết nó phạt cho thì toé khói.
          Tính Lương rất vui, một bữa kia nó thấy thằng Liên đang lau súng để gác đặc công gài chất nổ trong barrack (Chắc mọi người còn nhớ năm 1969 VC đã dùng plastic nổ doanh trại Trường HSQ Đồng đế làm chết rất nhiều khóa sinh) nó đến gần nhỏ nhẹ hỏi:
          - Ê Leng, ke đẹ leng béng nghe bèng bèng hỉ?
          (Ê Liên, cây đại liên bắn nghe bằng bằng hả)
          Liên gốc người Quảng Nam nên nổi tam bành, xách súng đuổi Lương chạy vòng vòng trong barrack, miệng liên tục chửi:
          - Tau béng xí mẹ thèng Béc Kỳ.
          (Hình như nó nói: Tao bắn thấy mẹ thằng Bắc Kỳ) làm náo loạn cả Phi đội.
          Mãn khóa quân sự trở về TSN, thi xếp lớp Anh ngữ, Lương học lớp 1100, tức lớp Anh ngữ vỡ lòng. Tôi rất ngạc nhiên vì trước khi sang KQ, Lương đã là Tr/s Thông Dịch Viên, nhưng nó tâm sự:
          - Làm Thông Dịch Viên dễ hơn là học Anh Văn để du học. Hồi tao đi theo toán Dân Sự Vụ vô làng nọ để khám bệnh, phát thuốc cho dân chúng, có một bà khai bị bịnh mất ngủ, tao không biết dịch thế nào, nghĩ mãi mới ra câu; "Xi nô xì líp. Xi nít áp bờ rin". Không biết thằng cha BS Mỹ có hiểu tao nói "She no sleep. She need aspirin" không mà nó cũng phát cho bà ta một bốc thuốc.
          Thấm thoát mấy tháng ở trường Sinh ngữ cũng qua mau, cả ba thằng chúng tôi lại gặp nhau ở Lackland, San Antonio, TX. Không biết thằng Lương kiếm ở đâu ra mà nhiều "bùa" lắm. Hôm trước khi thi test, nó mò xuống phòng tôi rồi bảo:
          - Mày nhớ kỹ câu này "Có con chó cái cắn bạn đau chẳng ai đền. Bốn anh công an đi bên đường đỡ cho bạn".
          Tôi cũng chưa hiểu công dụng của lá bùa thì nó giải thích thêm:
          - Cứ theo mẫu tự câu bùa mà khoanh vào. Có con chó cái nghĩa là bốn câu đầu là c, c, c và c; cắn bạn đau chẳng ai đền là c, b, d, c, a và d.
          Quả thật bùa của nó rất linh, hôm đó tôi được 20/20. Lương xuống BX (Base Exchange) mua sắm, nó muốn mua một bộ đồ ngủ để mặc buổi tối. Ông nông dân này muốn đóng vai phú hộ trưởng giả ngày xưa. Nó ôm về một bịch ni lông trên đó đề rõ ràng chữ Pajama, nhưng mở ra thì cái quần cụt ngang đầu gối và cái áo cổ trái tim! Lương mặc vô trông rất cũn cỡn, nó chữa thẹn bằng câu khen: "Hết xẩy" rồi uốn éo đi tới đi lui như một tên GAY chính hiệu.
          Đến nay hơn 30 năm đã trôi qua mà tôi vẫn còn hình dung được cái dung nhan Uất Trì Cung của nó rất tương phản với bộ đồ ngủ, mà tôi cứ ngờ ngợ là dành cho đàn bà. Lương ở khu GOẠP trong căn cứ (WAF: Woman Air Force) nhưng hầu như tuần nào nó cũng đón xe bus lên chỗ chúng tôi ở, những lúc này là lúc bạn bè tâm sự nhiều nhất, và cũng là lúc nó chọc thằng Tú nhiều nhất. Nó hỏi:
          - Ê Hố Lai (Hố Nai) nghe nói ông cố nội mày ở gần nhà bà hàng xóm ông thầy đồ phải không?
          Thằng Tú không hiểu nó muốn nói gì, nhưng cũng vặn lại:
          - Ừ rồi sao?
          - Vậy chắc mày rành điển tích lắm. Mày có biết ông Lê Quý Đôn than rằng "Phi công nghèo lắm ai ơi. Áo thời thiếu nút quần thời thiếu lưng" không?
          - Xạo vừa vừa thôi bố, thời đó làm gì đã có máy bay.
          Lương gân cổ lên:
          - Thằng nhãi ranh, nói có sách mách có chứng đây này. Ông Lê Quý Đôn có nói: Phi trí bất hưng. Phi công bất phú. Phi nông bất ổn. Phi thương bất hoạt. Phi công bất phú không phải lái máy bay nghèo mạt rệp là gì?


          Thời gian du học sung sướng trôi qua nhanh, chúng tôi đều tốt nghiệp rồi về nước nhưng mỗi đứa một nơi. Lương ra Nha Trang lái A37; Tú lái trực thăng ở Phù Cát còn tôi Biên Hòa. Hôm Lương về SG rủ tôi xuống xứ Bùi Thái thăm thằng Trinh, bạn cùng khóa 69A nhưng sau thiếu sức khoẻ phi hành nên đổi ra Bộ Binh. Lương nghe đồn là kế bên nhà Trinh có ông bán bánh mì bị ma bắt.
          Câu chuyện thật hoang đường nhưng sự kiện thì rất khó giải thích theo khoa học. Khi chúng tôi đến Bùi Thái thì ông bán bánh mì vẫn còn nằm trong buồng, đầu tóc rụng trọc lóc. Người nhà kể trước đây ông vẫn lên chợ Thủ Đức lúc ba bốn giờ sáng lấy bánh mì về bán rong. Hôm ấy như thường lệ ông chở một sọt đầy bánh mì đem về, khi chạy ngang Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa thì có người gọi lại mua cả sọt. Ông nhìn mặt quen quen nhưng không nhận ra là ai. Mừng vì hôm nay được nghỉ sớm, ông ngủ một giấc nữa rồi ngồi dậy móc tiền ra đếm thì hỡi ơi, toàn là tiền vàng mã, loại để cúng người chết.
          Lúc này ông mới sực nhớ lại khuôn mặt người mua bánh lúc sớm, đúng y như bức tượng Thương Tiếc mà ông vẫn thấy mỗi ngày khi chạy ngang qua nghĩa trang! Ông Bánh Mì hồn phi phách lạc, ông ốm luôn và mấy hôm sau thì tóc rụng sạch.
          Lương trầm ngâm nói:
          - Nghĩa Trang Quân Đội linh lắm. Nếu có chết, tao thích nằm ở đó hơn là nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.
          Vài tuần sau trong lúc ngồi hớt tóc, tôi đọc báo thấy phân ưu kín cả trang cuối, đọc kỹ thì ra đó là thằng Tú, vừa gãy cánh ở Phù Mỹ, Qui Nhơn. Tôi lặng người, thương tiếc một đứa bạn thân vừa hy sinh cho dân tộc.
          Năm 1973 Lương đang bay A37 ở Nha Trang thì chuyển về phi đoàn F5 Biên Hòa. Nó tâm sự là tuổi mình cũng đã lớn, gia đình muốn nó "có nơi có chốn để gửi tấm thân", nên lập gia đình với một người mà Lương mô tả là hết xẩy. Khoảng hơn năm sau, có đứa con trai đầu lòng nó khoe với tôi:
          - Tao đặt tên con là Vũ, chữ vũ là mạnh, là mưa, là... nhiều nghĩa lắm.
          Tôi chọc nó:
          - Ừ "Vũ ỷ mạnh, Vũ ra Vũ múa. Vũ gặp mưa Vũ ướt hết lông".
          Lần cuối cùng tôi gặp Lương ở quán cà phê của phi đoàn nó, hôm đó nó đang trực hành quân. Tôi hẹn hai ngày nữa gặp nhau ở nhà Lương ngoài Tân Mai nhậu chơi.
          Vài hôm sau, khoảng 5g chiều tôi từ SG lên Biên Hòa, vừa quẹo vào con hẻm nhỏ thì thấy chị của Lương. Tôi chưa kịp hỏi thì chị òa lên khóc:
          - Thằng Lương nó đi hai ngày rồi không về.
          Tôi tưởng nó biệt phái vùng khác nên nói:
          - Biệt phái ít ngày rồi về chứ có gì đâu mà khóc.
          - Không phải cậu ạ. Người ta nói nó nhảy dù khi máy bay bị bắn rớt.
          Đoán là đã có chuyện khẩn cấp nên tôi hỏi vài câu rồi vọt vô phi đoàn, thấy Phi vụ lệnh có chiếc sẽ đi rescue chiếc F5 bị rớt tôi tình nguyện đi liền.
          Khi chúng tôi đáp ở Bộ Tư Lệnh QĐ III để nhận tin tức của Quân Báo, thì vị Th/tá Trưởng phòng nói:
          - Thôi anh về đi. Tin nhận được là tụi Trung Đoàn 24 Chiến xa BV đã bắt được phi công rồi!
          Tôi trở về phi trường, lấy xe chạy ra nhà Lương thì chỉ gặp cô Mừng, cháu gái của Lương đang coi nhà. Tôi cũng không biết báo tin thế nào cho ổn nên xã giao vài câu rồi ra xạp báo đầu đường mua tờ Tuổi Ngọc, trở lại đưa cho cô bé, trong đó có kẹp tờ giấy ghi vài dòng: "Cậu Lương đã bị VC bắt. Báo cho ba má cháu biết".
          Hôm ấy đứa con trai của Lương mới được 20 ngày.
          Đời phi công, có lẽ khổ tâm nhất là lúc đi báo cho thân nhân biết bạn bè mình gẫy cánh. Có một lần tôi phải ra Biên Hòa báo tin là thi hài Đ/úy Hoài đã tìm thấy ở Hạ Lào. Tôi cứ đinh ninh rằng gia đình ông đã biết Đ/úy Hoài chết trước đó cả tuần lễ. Thực ra BTL/KQ chỉ báo là ông bị mất tích vì chưa lấy được xác. Khi tôi báo tin xong, cô em gái Hoài la lên:
          - Má ơi, anh Hoài chết thật rồi.
          Cô ngã ra bất tỉnh. Cả nhà vang tiếng khóc.
          Khi tôi đổi ra Phù Cát, nghe đồn là SĐ 25BB có thấy một xác chết lâu ngày ở trong rừng, còn mặc đồ bay, tôi cứ ngờ ngợ, không biết có phải là xác của Lương không.
          Năm 1978 sau khi đi tù về, tôi bị quản chế nên thường bị Công an gọi tập trung lên Huyện, gặp một người trông quen lắm, anh ta gọi tôi:
          - Ê Toàn, tao là Hà Diên Tuynh bạn học ngày xưa đây. Có phải mày quen thân với thằng Lương lái F5 không?
          Thì ra trước đây tôi cũng tưởng thằng Tuynh đi BB tử trận ở Bù Na gần Đồng Xoài.
          Tôi ngạc nhiên sao thằng này lại biết Lương (?)
          Nó kéo tôi ra xa xa rồi kể:
          - Tao bị bắt làm tù binh rồi bị đưa ra Bắc, nhốt chung một chỗ với thằng Lương lâu lắm. Khi biết nó là pilot, tao mới hỏi nó có biết mày không, thì ra tụi mày là bạn cùng khóa. Thằng Lương gan cóc tía, mấy tay quản giáo đì nó lắm vì nó là "Lãnh tụ" trong tù của bọn tao đó. Cũng vì vậy mà hiện nay nó vẫn còn bị tù ngoài Bắc đấy. Hôm tao về có ghé nhà nó đưa thư.
          Tôi mừng khi nhận được tin này, nhưng cũng buồn cho số phận hẩm hiu của Lương, sau bao nhiêu năm tù tội mà vẫn chưa được thả cho về.
          Tỵ nạn tại Mỹ, một lần trong giấc mơ tôi gặp lại Lương. Nó ôn chuyện cũ với tôi, về những lần đánh xe tăng vào Mùa Hè Đỏ lửa, về chuyện nó ốp thằng Trung (Nguyễn Thành Trung thả bom Dinh Đọc Lập) khi bắt gặp thằng này đi trượt patin ở Bình Triệu mà mặc đồ bay. Tôi mất liên lạc với gia đình Lương đã lâu, nhưng vẫn mường tượng bạn mình đã chết trong tù. Tôi mong mỏi có ngày nào đó được tin xác thực của Lương.
          Vào đầu tháng Giêng năm 2004, Email của Khóa 69A có bản tin nói rằng ít tháng trước khi mất nước, tại núi Bà Đen Tây Ninh, có một phi công trực thăng thuộc khóa 69A đã cứu được Phan Huy Bách cùng khóa với mình (Bách là con của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát) khi chiếc A37 bị bắn rơi và Bách kịp bung dù. Còn hai phi công nữa cũng lái A37 thì bị VC bắt, trong đó có Trần Văn Lương, tự Lương Răng Vàng.
          Tôi trả lời email trên là Lương Răng Vàng không rớt tại núi Bà Đen; Lương cũng không còn lái A37 nữa mà vào năm 74 nó đang lái F5 và rớt khi đang lái loại máy bay này, chứ không phải mãi đến năm 75 mới bị bắn rơi với chiếc A37.
          Ít lâu sau, Nguyễn Tài Cơ cho tin đích xác: Lương đã chết trong một trại tù miền Bắc. Hoàng Gia Viễn bạn học cùng khóa T28 với Lương còn cho biết chị Lương đang sống ở Washington và cho số phone để anh em liên lạc.
          Cuối cùng tôi đã liên lạc được với chị Lương. Hiện nay chị đang sống với người em tại Seattle. Cháu Vũ đã học thành tài và đang làm việc ở California. Chị cho tôi biết kể từ khi Lương bị bắt, gia đình không được một tin tức gì, cho mãi đến sau ngày mất nước mới nhận được tin chồng còn sống và bị giam ở ngoài Bắc. Qua bao nhiêu khổ ải chị mới tìm ra chỗ trại giam, lúc này Lương đã bị bịnh thật nặng, chỉ còn da bọc xương, bạn bè phải cõng ra chỗ thăm nuôi.
          Trở về SG, chị vội vã mua thuốc men để ra thăm lần nữa, nhưng không kịp nữa rồi, có người được thả về tới báo tin anh Lương đã nằm xuống vĩnh viễn ngay vào ngày kỷ niệm hôn nhật của hai người, tại một vùng đất có tên là trại Đô Lương, Nghệ Tĩnh, có ám số là AH 118 NT K2. Chị Lương đã nhiều lần cố gắng tìm hài cốt của chồng nhưng chưa kết quả. Chị hy vọng một ngày rất gần sẽ kiếm được mộ phần của chồng để di chuyển về miền Nam.
          Vậy là hơn 30 năm, chúng tôi đã nhận tin tức chính xác về Lương, đêm hôm đó tôi ngủ mơ gặp lại nó đang đứng cười, không nhận ra hai đứa đang ở đâu, nhưng cả hai đều vui vẻ lắm. Nơi cõi thiên thai nào đó có phải Lương đang hài lòng vì cuối cùng, toàn thể các bạn đồng khóa cũng đã biết số phận của Lương, tuy buồn thương nhưng cũng thật dũng cảm, một cánh đại bàng đã gãy cánh nơi chiến trường, sa vào tay địch, vẫn ngửng cao đầu lên đến ngày cuối của cuộc đời.
          Lương, anh hồn mày nơi vĩnh hằng xin về với chúng tao, cả khóa 69A họp mặt lần thứ 40 kể từ ngày bọn mình quen nhau, để tưởng nhớ đến mày, thằng Tú, thằng Toản, thằng Sương... Và nhiều đứa bạn khác đã nằm xuống cho quê hương mình. Bọn tao đã liên lạc được với gia đình mày. Xin chúc mừng con mày, không hổ danh là con một phi công, cháu Vũ đã thành đạt nơi xứ người, tiếng Anh hẳn là lưu loát không còn phải nói "Xi nô xì líp" như mày ngày nọ. Vợ mày, chị Lương đã ở vậy thờ chồng nuôi con khôn lớn từ ngày mày nằm xuống, cho dù lúc ấy tuổi mới ngoài hai mươi.
          Hãy cùng chúng tao cầu nguyện cho quê hương mình mau quang phục, để chúng tao và những người thân của mày có dịp về lại Việt Nam, đón rước thi hài đại bàng gãy cánh trở về, cùng với hài cốt của những đồng đội đã bị tứ tán mọi nơi về an táng tại Nghĩa Trang Quân Đội, nơi mày từng ao ước được nằm bên cạnh những chiến hữu chung một màu cờ.


          Phương Toàn
          Last edited by hung45qs; 10-15-2010, 10:27 PM.
          Hung45HTQS

          Comment


          • #20
            Đoạn đường Alpha



            Những ngày tháng chờ khóa học thật là dài và chán nản, không hiểu sao khu tạm trú Tân Sơn Nhất không gợi cho tôi một ấn tượng tốt đẹp nào cả. Có lẽ nằm không rồi cũng chán thì phải. Thôi thì ngày nào cũng như ngày nào...Sáng 8 giờ tập họp điểm danh, tiếp đến là phần điểm tâm rất ư là thịnh sọan...Một phần ba ổ bánh mì(Khi thì đường, lúc thì chuối, khi thì sửa hộp ) Sau phần điểm tâm là những thủ tục giấy tờ như : Ký Khế ước phục vụ trong Không Quân, lãnh quân trang...Và sau đó thì...Tự do nghĩ.....mặc tình mà khuây khỏa cho đến 11 giờ lại phải khăn gói đến Nhà Bàn (Nhà ăn) làm phận sự cho cái dạ dầy đòi hỏi. Hỡi những ai từng ở khu tạm trú của Thượng sĩ Tiến chắc hẳn cũng biết đoạn đường đi đến Nhà Bàn dài như thế nào rồi nhỉ! Thú thật với các bạn cái tính lười biếng cố hữu đời học sinh còn vướng vào tôi khá nhiều, cho nên chỉ nghĩ đến cái nắng gay gắt của ban trưa và đoạn đường dài xa tít đó là tôi đủ lắc đầu rồi. Vì vậy không còn con đường nào tốt nhất bằng cách nhờ bạn bè “Chôm” cơm về phòng ăn. Như thế các bạn sẽ cho tôi là lợi dụng bạn bè chứ gì? Không đâu thưa các bạn! Đời có qua có lại mà! Mỗi lần đem cơm về, tên nào cũng than thở nào là:
            -Hôm nay các bộ kiểm soát dữ lắm! Phải là tao mới đem về được.
            Hoặc là:
            -Mệt quá! Tới ba bốn thằng nhờ lấy cơm nên chẳng ăn được bao nhiêu...
            ...vân vân và vân vân...


            Nghe bạn bè than như vậy, ai mà không cảm động phải không các bạn! Thế rồi những món ăn mang theo từ gia đình nào là: Thịt kho, chà bông, đồ hộp......mang ra mà chiêu đai. Cơm đem về thì chẳng bao nhiêu, mỗi người một ít, thì các bạn cũng dư biết thân hình tôi càng ngày càng tiều tụy như thế nào rồi. Thôi! Than thở mà làm gì! Đã lỡ mang bệnh lười thì đành chịu chứ biết than với ai bây giờ...Thế là xong một buổi sáng rồi đó. Bây giờ thì mặc tình mà đi tắm (Thật ra là tránh né một chút chứ không phải công khai) hoặc tán gẫu với bạn bè cho vui, thường thì chủ đề xoay quanh những ngày sắp tới, những tương lai thật gần...Tất cả cũng chỉ là tưởng tượng và là những tưởng tượng hoàn toàn không giống chút nào hết sau này...
            Buổi sáng rồi cũng qua nhanh. Sau giấc ngủ trưa khá dài, đến 02 giờ thì lại phải tập họp lần thứ hai trong ngày. Tập họp trưa là điều mà chúng tôi ngao ngán nhất...Tuy nhiên cũng có ngày cán bộ thấy vui vì một chuyện nào đó nên cho tập họp trong phòng..Khoan khoái nhất và sung sướng nhất, vì chỉ việc điểm danh xong là rung đùi nghe nhạc bên tách cà phê trong câu lạc bộ, hoặc lang thang ngoài chợ trời, và có thể ...tại gia...tùy ý thích. Buổi tối, lần tập họp cuối cùng trong ngày cũng chỉ điểm danh rồi tha hồ mà...Im lặng nghĩ và Tự do nghĩ...
            Rồi thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, những tháng ngày chờ đợi, những một ngày như mọi ngày rồi cũng trôi qua êm ã.Hơn nữa tháng trời “Đi lính” vẩn chưa thấy gì là lính, ngoại trừ bộ quân phục kaki xanh, với hai mảnh vải màu đỏ chữ trắng hai bên ngực. Một bên là bảng tên, một bên là hàng chữ SVSQ (Có thằng gọi đùa là sợ vợ sút quần) Thôi thì chưa có lúc nào chán như lúc này. Các bạn thử nghĩ xem: Giã từ một ghế ngồi nơi trường sư phạm, bỏ lại sau lưng tuổi học trò vàng son yêu dấu,
            và ngay cả can đảm xa rời người yêu để tình nguyện vào Không Quân, vào đây để mong thực hiện được ước mơ của những ngày còn thơ ấu. Vậy mà đến giờ phút này chẳng thấy gì gọi là bay bổng, chẳng thấy gì là những phi công với bộ đồ bay ngang tang đi mây về gió hết. Tất cả chỉ có ....chờ đợi ...và...chờ đợi...
            Sau một đêm Giáng Sinh với những niềm vui trọn vẹn. Chúng tôi càng hạnh phúc hơn khi được hưởng một đêm Giao thừa Dương Lịch bên những người thân trong gia đình và cả những bạn bè còn đi học. Niềm hạnh phúc sau cùng của đời học sinh của chúng tôi là đây...Thời gian lại trôi qua êm ã...


            Ảnh của niên trưởng Phạm quang Khiêm

            Tôi còn nhớ! Một sáng thứ ba trời nắng đẹp .Chúng tôi đã sẳn sàng khăn gói đến bãi chờ phi vụ đi Nha Trang. Khí hậu lành lạnh của một sáng Sài Gòn những ngày giáp Tết làm chúng tôi thấy dễ chịu là lạ. Cùng chuyến đi với khóa tôi có vài mươi mạng khóa đàn anh 72E (Các ngài về Sài Gòn để thi Anh ngữ) Chao ôi! Nhìn Alpha trước ngực các ngài mà ước ao mà thèm muốn .Tôi nhủ thầm: Sau một tháng huấn nhục thì mình cũng Alpha, cũng ta đây chứ có thua gì các ngài đâu. Nhưng mà ...chỉ nghĩ đến ...Huấn nhục...tôi bất chợt rùng mình...Ba mươi ngày huấn nhục, ba mươi ngày chịu đựng những hành hạ xác than, ba mươi ngày để không biết mình là ai, để tôi luyện, để trưởng thành...Ba mươi ngày......Thời gian sao mà dài ghê gớm quá! Dù sao thời gian chờ phi cơ cũng là dịp để chúng tôi hỏi thăm về những gì sẽ xảy đến cho mình. Thôi thì khỏi nói! Các đàn anh tha hồ vẽ rồng vẽ rắn với chúng tôi...Mặc dù chúng tôi cũng biết khá nhiều về quân trường sắt thép đó, qua những gì tìm hiểu trước khi vào lính. Vậy mà bây giờ chính những người đi trước chúng tôi đang kể lại, đang liệt kê những món ăn chơi mà mình sẽ thưởng thức càng làm cho chúng tôi lo âu và chán nản hơn bao giờ. (Lúc này mà gửi khám ECG thì Inapte là cái chắc).


            Phi trường Nha Trang

            Dù sao thì việc gì đến rồi cũng đến. Khi ánh nắng vỡ tan, phá loãng đi màn sương mù còn vướng lại. Bọn chúng tôi kẻ đứng người ngồi đã sẳn sàng nơi phi đạo. Vậy mà đến tận 12 giờ trưa mới có tàu về Nha Trang. Hai chiếc vận tải C130 khổng lồ từ từ hiện đến gầm gừ như đe dọa nuốt trọn chúng tôi vào hai con cá mập khổng lồ này. Tôi không may hơn các bạn mình, nên hân hạnh cùng đàn anh đi chuyến trước và...
            -Đi trước thì rách trước.
            -Kiến vàng chờ đầy dưới phi đạo đó! (Là những đàn anh mặc quân phục kaki vàng)
            -Ít lắm cũng vài mươi mạng đi bệnh xá.
            -Khóa đàn anh 72C có 2 người tự tử. Thế nào mấy ông cũng có dịp lên núi thăm mồ niên trưởng...
            Thôi thì tràn ngập những lời hăm dọa, những lời an ủi...Tôi cố làm ra vẽ thản nhiên vác sắc (Túi quân trang) bước vào lòng con cá mập khổng lồ. Ba phi công người Mỹ đã sẳn sàng và sau vài dấu hiệu riêng biệt, cửa phi cơ từ từ đóng lại ngăn cách chúng tôi với thế giới bên ngoài. Đúng 12 giờ 5 phút phi cơ từ từ cất cánh .Tôi nhổm dậy nhìn qua ô cửa kiếng. Sài Gòn đẹp như những lời ca ngợi nó thời tôi còn là học sinh tiểu học. Từng khu phố cao vời vợi như có bàn tay khổng lồ nào sắp xếp một cách ngăn nắp giữa những con đường ngập nắng. Tôi đưa mắt nhìn những hình ảnh yêu dấu đó lần cuối rồi ngồi xuống và không quên thốt lên lời giã biệt:
            -Sài Gòn ơi! Tạm biệt mi Sài Gòn nhé! Hẹn ngày ta trở lại với màu áo Sĩ quan...
            Phi cơ bay được khoảng 30 phút, mọi người đa số đều lim dim đôi mắt, hoặc gục đầu trong giấc ngủ gượng gạo. Tôi thì không .Có lẽ hơi lạnh của chiếc máy trong tàu làm tôi thấy thoải mái và dễ chịu. Thỉnh thoảng tôi còn nhóm dậy hầu tìm kiếm một vài hình ảnh thơ mộng của quê hương Việt Nam yêu dấu...
            Mới đấy mà đã gần đến 01 giờ, bên dưới cánh máy bay là vịnh Cam Ranh tuyệt đẹp. Màu xanh của biển ngăn cách bởi những bãi cát trắng phau phau, đẹp không bút mực nào diển đạt nỗi. Phi cơ giảm dần cao độ, tiếng xôn xao bắt đầu vang vọng trong lòng tàu. Phi trường Nha Trang dần dần hiện rõ dưới mắt tôi. Từng trái núi màu xanh chạy lùi lại phía sau. Khuôn mặt chúng tôi bắt đầu lo sợ thật sự. Tiếng bánh xe chạm nhẹ vào phi đạo đã đánh thức nỗi lo, nỗi sợ, tiếng thở dài và cả tiếng cười méo xệch...
            Cửa phi cơ từ từ bật xuống. Một luồng gió mang đầy chất mặn của biển cả thổi thoáng qua, như mời mọc, như chào đón chúng tôi đến để chiêm ngưỡng cái nắng, cái mỹ miều của miền Thùy Dương cát trắng...


            Xuống phi cơ chúng tôi tập họp thật nhanh. Một vài ca khúc lại trỗi lên:
            -Ũa! Sao không thấy kiến vàng nào hết vậy?
            -Chắc mấy ổng gần tới rồi! Chuẩn bị đi...
            Tôi lầm chăng? Không! Đôi mắt của tôi đã qua phòng khám của Trung Tâm Y khoa Không Quân (Nơi mà biết bao thanh niên phải vỡ mộng mây trời vì mắt yếu)
            Làm sao mà tôi nhìn lầm được. Nhưng sự thật thì vẫn chưa thấy một bóng áo vàng nào cả. Sự trống vắng càng tăng thêm phần hồi hộp cho chúng tôi. Một vài giọng đàn anh chỉ vẽ:
            -Mấy ổng chưa tới thì ăn uống xã giản đi tôi gì mà nhịn đói.
            -Ăn cho đã đi chút nữa không còn dịp đâu.
            Như chợt nhớ ra điều chí lý này. Chúng tôi chen nhau vào một nhà ăn gần đó. Thôi thì bánh mì và nước ngọt thay nhau mà mời mọc. Tôi mới gặm được nữa ổ bánh mì, là đã thấy một trước mặt một xe buýt màu xanh Không Quân và một GMC mui trần vừa đậu lại. Vội quá! Tôi đã phải mắc nghẹn đến hai ba lần phần bánh mì mới vơi đi chút ít. Bấy giờ giọng nói ẻo lã của Thiếu úy Hoàng người hướng dẫn chúng tôi (Thực ra đây là sinh viên sĩ quan đàn anh bị Inapte an ninh hay cái gì đó, chưa được đi học nên lo nhiệm vụ hướng dẫn khóa sinh ra đây. Chúng tôi gọi đùa Thiếu Úy để an ủi ông đàn anh bất hạnh này) vang lên:
            -Toán đi đầu lúc nảy lên xe buýt trước. Còn khóa 72E đi GMC về Ngân hà. Một lần nữa tôi lại than thầm trong bụng:
            -Ôi! Hôm nay sao mà xui xẻo thế!


            Miệng thì lầm bầm như vậy, mà chân thì cứ bước đều đến cửa xe. Chiếc GMC chạy trước, vài cánh tay đưa lên vây vẩy chúng tôi. Toán còn lại cũng bắt chước cái màn tạm biệt ấy. Xe từ từ lăn bánh, tôi ngồi gần bên cửa nên tha hồ mà trố cặp mắt ếch ra nhìn cảnh lạ. Cảnh vật đối với tôi hoàn toàn xa lạ, từ cành cây đến ngọn cỏ.
            -Nhưng sao chỉ toàn là núi và trại lính trông đến phát khiếp vậy!
            Tôi nhủ thầm trong bụng, tai vẫn nghe tiếng trả lời của bác tài xế già:
            -Gần tới rồi đàn anh chờ đông lắm!
            Than ôi! Chỉ nghe như thế là đủ thấy nổi da gà rồi. Một giọng nói từ cuối xe vọng lên:
            -Về Phi Dũng hay Ngân Hà bác tài?
            Tiếng ông lính già thật cộc lốc:
            -Phi Dũng.
            Vài tiếng ồ vang lên. Một giọng nói có vẽ ta đây thành thạo lắm:
            -Xui quá! Chừng qua Ngân Hà lại rách một lần nữa.


            Trại Phi Dũng

            Mặc những tiếng nói bên tai. Tôi khép kín đôi mắt lại, thầm mong cho đoạn đường dài thật là dài, và chuyến xe cứ chạy mãi như vậy. Nhưng rồi xe cũng có bến và tàu cũng có bờ. Những tiếng ồn ào lại trỗi lên khiến tôi phải bừng mắt dậy. Từ xa xa xuất hiện một trại lính, mang dòng chữ Phi Dũng vừa cũ kỹ vừa trơ trọi trông phát ghét. Xe từ từ dừng lại, hàng chục chiếc áo vàng ùa đến như là cọp tìm thấy mồi vậy.
            -Xuống xe nhanh lên coi. Mấy ông lè phè phải không?
            -Tôi đếm ba tiếng đếm tập họp không xong là rách như cái mền đó!
            -Đến đây mấy ông đừng mong về Sài Gòn nữa.
            -Tập họp như vầy phải không? Một trăm công lực coi...
            -Ông nào liếc đâu? Ông này nè! Rã đây coi...

            Thế rồi xen lẫn trong tiếng thét, tiếng đập vào thành xe, là những tiếng nhảy bình bịch của chúng tôi vang lên đều đều như nhịp trống quân hành .Thôi thì người bò, người nhảy, người chạy...Những con người ướt đẫm mồ hôi của chúng tôi đang bắt đầu viết lên trang đầu tiên của con đường Alpha đầy gian khổ này. Thế rồi!” Đi trước thì rách trước” kéo dài cho đến khi hai chuyến xe nữa đỗ các bạn tôi đến đầy đủ, thì mới bắt đầu làm thủ tục chào quân trường .Vừa vác sắc chạy vào đến cổng .Chúng tôi phải rùng mình khiếp đãm vì những tiếng hét cùng vang lên một lượt:
            -Bò xuống! Bò xuống hết coi...
            Hai tay ôm túi quân trang tôi vừa định” Ăn gian” bò bằng hai bàn tay thì...
            -Bò thấp xuống coi! Ông nào ma giáo đâu ra đây...
            -Bò bằng hai cánh chõ biết không! Ông nào không biết ra đây...

            Than ôi! Vừa nắng vừa bụi, vừa xót xa bởi hai cánh tay rướm máu vì những viên đá xanh lót đường. Thú thật với các bạn! Tôi quá ngao ngán hào quang lấy không gian làm lý tưởng rồi. Trong tôi bây giờ không còn anh chàng pilot hào hoa phong nhã, không còn mộng mây trời đi mây về gió ,chỉ mong có một phép lạ nào đó cho chúng tôi được bình yên , được bình thường như mọi người....Có hối hận , có muốn ra bộ binh , hay muốn xin về dân sự ...Tất cả đã muộn màng...


            Ôi! Không gian giờ đây ta mới biết,
            Mộng mây trời đã giết chết đời ta.
            Hối hận ư! Thôi đã muộn rồi!
            Ta thèm khát một khung trời thoải mái...
            Vừa bị phạt vừa ngâm câu thơ đàn anh dạy cho sao mà bất mãn quá!
            Chạy đi ông đừng tà tà ở đó!
            Bò đi ông đừng có lếch có la...
            Không quân này không chấp nhận bê tha,
            Ông ở đó là ông thác đó!...


            Chưa hết......
            Trăm công lực mặt mày tôi méo mó
            Chống thế chờ rát bỏng cả hai tay
            Cán bộ ơi! Hành xác đã dài dài
            Xin cho được một vài giây khuây khỏa...
            Đoạn đường “Chiến binh” từ cổng vào đến sân tập họp dài khoảng hai trăm mét. Còn đường không dài, nhưng hình phạt thì không sao kể hết...Nhảy công lực, nhảy xổm, hít đất, quay sắc, gà chết, Quan Công ngồi ghế đẩu...Toàn là những tên gọi nghe là thấy lạnh mình.
            Ấy vậy mà trong giờ phút bi đát này, có bạn nào không may ngất xĩu (Dù thật hay giả) đều bị cởi áo và kéo dài trên sân ximăng, hoặc đổ nước vào mũi. Khóa tôi có Nguyễn duy Kim không may gặp một đàn anh kéo ra “ưu ái” ,và sau màn mến bạn ấy suốt tuần lễ Kim chỉ có ở trần và nằm xấp.( Chắc hẳn sau này Kim sẽ có dịp kể lại cho người thân nghe về những chứng tích, kỷ niệm còn vương lại trên tấm lưng của mình)Những hình phạt cứ thế tiếp diển đều đều cho đến 08 giờ tối, chúng tôi mới được bò vào Phạn Xá dùng cơm (Nhà ăn).Suốt nữa ngày trời mệt nhoài dưới nắng, đôi môi tôi đã khô và nứt nẻ tự bao giờ. Phần cơm trong mâm đã được tôi thanh toán một cách vội vã. Nhưng nào có yên được đâu:
            -Mấy ông uống hết nước mắm coi.
            -Ông nào uống canh nhiều là Inapte tim đó!
            -Mấy ông không muốn bay bổng phải không?
            -Uống nước mắm để giữ mồ hôi, mấy ông uống nhiều lên coi...


            Phần mệt, phần đói và khát, cơm nuốt còn không nổi làm sao mà uống nước mắm đây. Một anh bạn ngồi trước mặt tôi vừa uống một muỗng nước mắm là ói cả thức ăn ra bàn...
            -Trời ơi! Ông chê cơm Phạn Xá phải không?
            -Tư cách của ông như vầy phải không?
            -Trong ba tiếng đếm ống nuốt vào coi...
            Hai ba niên trưởng (Niên trưởng chăm sóc ăn uống là khóa 72G) ùa đến và ra lệnh cho anh bạn nuốt phần thức ăn vừa ói trên bàn...Chao ôi! Trong gia đình cha mẹ có bắt buộc chắc củng chẳng ai thi hành. Ấy vậy mà anh bạn tôi làm ngon ơ.
            Có bao giờ các bạn thấy cảnh này chưa? Tôi và các bạn ngồi gần đấy đang muốn tống hết những gì trong bụng mà ban trưa cố nhét vào....Bây giờ thì đang đưa tay lên cổ mà chận mà đè nén lại. Đứng trước cảnh tượng này, không anh chàng nào đủ can đảm đóng vai chính như anh bạn vừa rồi. Dùng cơm xong, về phòng chúng tôi lại phải qua một màn kiểm soát quân trang nữa. Ôi thôi! Đủ thứ tạp nhạp nào là: Bánh ngọt, chà bông, dao làm, thuốc bổ... đủ mọi thứ trên đời...Cán bộ của chúng tôi lại có thêm một màn vui vẽ nữa...Tất cả những thức ăn, quà bánh mang theo đều phải mang ra mời bạn dùng (Thời gian huấn nhục không cho ăn uống bất cứ món gì ngoại trừ cơm và bánh mì buổi sáng)


            Hôm đó tôi đúng là bị sao quả tạ chiếu. Bạn bè trước mặt được nếm mùi chanh ngon đáo để, đến phiên mình được tặng ngay vào họng miếng bánh to tổ bố mà còn phải cám ơn bạn nữa chứ! Nếu không có cán bộ là tôi đã có màn nói tiếng Đan Mạch rồi. Đêm đó gần 11 giờ chúng tôi mới được tạm yên để đi ngủ. Một giấc ngủ mệt nhọc đầy kỹ niệm nhớ đời vừa trôi qua rồi đó!
            Sáng thứ tư! Mới 06 giờ sáng là những tiếng quát tháo ầm ĩ vang lên khắp phòng. Không hiểu một động lực nào trợ giúp, mà chúng tôi thật nhanh chóng có mặt ngay đầu giường. Nhưng nào có yên được đâu...
            -Trưởng phòng đâu! Cho cả phòng 100 công lực cho tỉnh ngủ coi.


            Thế là những tiếng nhảy bình bịch lại trỗi lên, mở đầu cho bản nhạc số 2 của bản trường ca 30 tập. Sau phần tỉnh ngủ, mỗi người được điểm tâm bằng một ổ bánh mì với chuối. Không được đánh răng, súc miệng vậy mà tôi ăn bánh mì ngon hơn bao giờ hết. Buổi sáng vẫn những hình phạt hôm qua tái diển, cho đến khi dùng cơm trưa xong thì được lệnh lên giường ngủ một giấc khuây khỏa. Lúc này tôi chợt nghĩ huấn nhục mà như vầy thì không sao, mình chịu đựng được. Tôi lầm! Vâng một cái lầm to lớn. Đang mơ màng trong giấc ngũ, tôi giật mình vì những tiếng hét, tiếng dậm chân từ ngoài cửa vọng vào...
            -Thức dậy hết coi! Trời ơi! Huấn nhục mà ngủ phải không?
            -Trong ba tiếng đếm tất cả đứng hết đầu giường coi...
            -Trưởng khóa đâu! Cho cả phòng một trăm công lực coi...
            Thế là từng nhịp điệu lại vang lên trong Phi Dũng 13.Sau phần tỉnh ngủ, bây giờ mới vào phần chính: Vác sắc đi “Chào Đại bàng” Ôi! Con đường đi đến Thần ó sao mà dài thăm thẳm quá! Tôi không biết là dài bao nhiêu cây số, chỉ biết sau này có dịp đi bộ mỏi nhừ cả đôi chân. Sau khi được Thiếu tá Liên đoàn phó Liên đoàn khóa sinh chấp nhận lời tuyên thệ: Trung thành với Tổ Quốc và Không Gian...Chúng tôi lại phải 1,2....3,4...chạy về trại.


            Thề Trung Thành với Tổ Quốc và Không gian

            Trên đường về có vài cánh chim 73A ngất xỉu phải nằm lên xe chở về trại. Tôi gắng lắm mới lết được thân tàn về đến trại. Hình ảnh của ngày hôm qua lại tái diễn. Hôm nay thì có quá nhiều người đi bệnh xá, và cũng chính từ hôm nay chúng tôi mới chính thức là Tân Khóa sinh của binh chủng Không Quân....
            Những ngày dài gian khổ cứ thế lần lượt trôi qua. Một ngày như mọi ngày...Sáng sớm tập thể dục ngoài phi đạo, cả ngày học quân sự, chiều về tập cơ bản thao diễn...tối thì dành cho phạt và phạt.....Thời gian cứ trôi và chúng tôi như là nhũng người máy, bấm nút vận hành và vận hành...Nhưng rồi cũng có một ngày phá bỏ lời hăm dọa của cán bộ:
            -Tư cách mấy ông như vầy còn lâu lắm mới gắn Alpha...
            -Ngày Alpha của mấy ông còn xa lắm!
            -...................................
            Hôm đó! Sau một chiều đi học quân sự về. Chúng tôi được nghĩ tập cơ bản thao diễn như thường lệ. Các bạn ơi! Niềm vui chờ đợi cả tháng trời là đây....
            -Đêm nay sẽ là đêm lột xác khóa 73A. (Từ bỏ kiếp Tân khóa sinh để trở thành Sinh Viên Sĩ Quan)
            Khẩu lệnh của cán bộ sao mà dễ thương quá! Có lẽ đây là lần duy nhất trong 30 ngày qua khẩu lệnh này được hoan nghênh nhiệt liệt. Lột xác là gì nhỉ! Tại sao chúng tôi mừng vui? Thì đây mời các bạn....Trước hết là phần trao găng tay vào lúc 10 giờ đêm. Buổi lễ này có lẽ còn trang nghiêm hơn cả lễ gắn Alpha. Nhìn những khuôn mặt hồi hộp lo âu và bẽn lẽn trong bộ kaki vàng còn thơm mùi vải mới. Tôi thật sự xúc động! Có một điều gì đó lâng lâng trong lòng mà không sao diễn đạt được. Một cán bộ đại diện (Niên trưởng Phạm Tưởng khóa 72A không phi hành) đứng ra chủ trì buổi lễ. Sau đôi lời phi lộ và cả lời mời gọi linh hồn những đàn anh đã mất về chứng kiến buổi lễ. Giờ trao găng bắt đầu. Cán bộ và đàn anh lần lượt đeo găng tay cho từng người. Trong không khí tĩnh mịch và im lặng giửa những ánh đèn cầy chập chờn theo gió.(Theo truyền thống ai mà bị tắt đèn sẽ gẩy cánh sớm)Chao ôi! Ai mà không sợ! Tim của tôi cũng lập lòe theo từng ánh chớp của ngọn đèn. (Phi dũng 13 nằm ngay vòng đai phi trường lại cạnh những đồi núi chập chùng nên gió lúc nào củng mạnh và đều đều(Không biết tắt đèn có gẩy cánh hay không chỉ biết đừng tắt là hay hơn hết).Buổi lễ kết thúc trong đơn sơ và trân trọng. Bấy giờ thì tắt đèn đi ngũ. Hình ảnh tươi đẹp của ngày mai, sẽ lột xác để trở thành SVSQ khiến tôi không sao chợp mắt được..



            Lễ Gắn Alpha (Con đường Alpha đã đến đích rồi đó)

            Những tiếng la hét quen thuộc của cán bộ ngoài đầu phòng lại vang lên. Chúng tôi đã sẳn sàng túi quân trang trên vai để chuẩn bị thi hành lệnh phạt. Trước Phạn xá tối hôm đó. Khóa tôi được các cán bộ niên trưởng cho tìm lại những kỹ niệm nhớ đời trong thời gian Huấn nhục. Không một hình phạt nào không được chúng tôi xào lại cả. Tuy cả người đã ướt đẫm mồ hôi, và thể xác mệt nhoài...chúng tôi vẫn vui, không buồn và bất mãn như những ngày mới đến. Gần 03 giờ sáng! Chúng tôi được trở về phòng tạm nghĩ, khoảng 30 phút lại trở ra sân và tiếp tục cho đến khi trời sáng .Trong lần này thì hoàn toàn tự giác, mọi người cứ thi hành lệnh phạt hết sức mình. Ai không còn sức có quyền ra khỏi hàng nghĩ. Thôi thì đủ thứ: Toán này một ngàn nhảy xổm, toán kia tám trăm công lực, toán nọ một ngàn hít đất...trông như một cuộc ganh đua trong ngày hội thể thao vậy. Đặc biệt khóa tôi không có tiết mục đi phá rối các niên trưởng (Gọi các đàn anh khóa khác thức dậy không cho ngủ) Đêm đó có lẽ các đàn anh khóa khác cũng một đêm không yên giấc.
            Sáng thứ bảy, mặt trời lên rất chậm. Bọn tôi được đi tắm để rửa sạch những ba mươi ngày gian khổ, nhưng gợi lại chúng tôi khá nhiều kỹ niệm. Chiều hôm đó! Một chiều 30 Tết! Tôi được hân hạnh nằm trong toán gắn Alpha ngoài sân lễ và thật hồi hộp khi nghe:
            -Các Tân khóa sinh tiến đến vị trí hành lễ. Đằng trước ....bước.
            Cảm động tràn trề:
            -Quỳ xuống các Tân Khóa sinh.
            Và ấn tượng không bao giờ quên khi trên vai một đôi Alpha vừa được lắp vào.
            -Đứng dậy các Tân Sinh Viên Sĩ Quan.
            Cả tháng trời qua đây là lần đầu tiên tôi cảm nhận đầy đủ niềm vui và sung sướng. Mặc dù hiện tại hai đầu gối tôi đau buốt vì những viên đá xanh kiêu hãnh làm nệm lót đường. Cán bộ và niên trưởng đến bắt tay và chia vui cùng chúng tôi trong ngày trọng đại này. Bây giờ thì những ác cảm, những bất mãn của chúng tôi với khóa 72C Không phi hành hoàn toàn biến mất. Có lẽ chúng tôi đã ý thức được tất cả những hình phạt cũng chỉ vì huấn nhục, không hề có một ganh ghét hay một thù oan riêng tư nào. Đoạn đường Alpha của tôi đã tới đích rồi đó! Nhìn lại mới ngày nào, cũng trên con đường này. Thân xác tôi đã từng hôn lên nó, cánh tay tôi đã chia sớt những giọt máu hồng .Thế mà bây giờ cũng nó đây! Nhưng còn tôi....Tôi đã đổi khác thật rồi! Tôi đã là một Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân hào hùng và độc đáo. Tôi chợt nhớ tới lời dặn dò của Thiếu Tá Liên Đòan Trưởng Liên Đòan Khóa Sinh (Thiếu Tá Tôn Thất Lăng).Người đã chấp nhận lời tuyên thệ của chúng tôi:
            “....Các anh đã bước lên được một nấc thang đầu của con đường binh nghiệp. Trong tương lai các anh còn bước thêm nhiều nấc thang nữa. Vậy hảy xem huấn nhục như là cái nền cơ bản, để tạo cho con người các anh cứng cáp thêm hầu chịu đựng đựợc nhiều gian khổ sau này....”
            Những lời nói đó tôi còn nghe hình như đang thoang thoảng đâu đây trong gió....


            Trại Thùy Dương, chiều 23/3/1973
            Trong phiên gác cuối tuần.


            *Đoản văn Đoạn Đường Alpha đăng trong Bích Báo Thùy Dương 9 đoạt Giải I Không đoàn SVSQ.
            (Ban Biên tập: Lê văn Hải-Nguyễn duy Kim-Thái tâm Ngọc)
            *Được chọn đăng trong đặc san Cánh Én của TTHL/KQ.
            *Được thưởng 4 ngày phép đặc biệt của Chuẩn Tướng Chỉ Huy Trưởng TTHL/KQ (Nguyễn Ngọc Oánh)


            Thái Tâm Ngọc
            Last edited by hung45qs; 10-19-2010, 04:32 PM.
            Hung45HTQS

            Comment


            • #21
              Dòng Thơ Trần Thanh Quang 72F - Phần II



              Tranh A37 - Lê Khánh Thọ - France

              Mặt nạ

              Những mặt nạ hình người
              Hình Tiên ông quỷ sứ
              Hình cọp ngựa đười ươi
              Mặt hiền và mặt dữ

              Chẳng biết chọn mặt nào
              Mẹ chọn hình mặt Bụt
              Chòm râu dài trắng phau
              Một đời luôn cứu giúp

              Con chọn mặt Sa tăng
              Có nanh dài râu ngược
              Mắt lộ khí đằng đằng
              Không ai bắt nạt được

              Mẹ ơi, những mặt nạ
              Vẫn là mặt nạ thôi
              Con không thích trò chơi
              Trò chơi đeo mặt nạ.



              MỘT NGỌN TÌNH trên đồi hoang mộng

              Em dấu ai một đời mộng mị
              Ta rong rêu mục ruỗng thiên đường
              Thân biệt xứ lưu đày chốn lạ
              Níu hồn hoang trong giấc mộng thường

              Em dấu aí một đời tiếc nhớ
              Ta huênh hoang trên ngọn cỏ thơ
              Quê chốn cũ ai ngồi đứng đợi
              Cây trăm năm vẫn mãi ơ hờ

              Em dấu ái một đời tạ tội
              Ta cầu kinh trong nỗi ê chề
              Chúa độ lượng găm mình trên giá
              Để hôm nay mở lối ta về

              Em dấu ái một đời dấu ái
              Ta cúi đầu trước mộ tình xưa
              Phật hỷ xả em nào nỡ đoạn
              Tình mù xa ru mấy cho vừa.



              Ngồi ru tình xuân

              Ta ngồi dưới cội mai già
              Nhẩm lời ru cũ nhạt nhòa tình xưa
              Cải vàng chớm nụ lưa thưa
              Ngỡ màu áo của chiều mưa xuân thì
              Dẫu rằng người đã ra đi
              Nơi đây vẫn nặng nỗi si mê đầy
              Rượu xuân không uống mà say
              Thơ xuân chưa viết lại gầy hắt hiu
              Thôi thì ném nỗi buồn thiu
              Về bên sông hát ru chiều với ta.



              GIÒNG THƠ LỤC BÁT TÌNH

              1.
              Ta về ru giấc ngủ thôi
              Tĩnh ra sẽ thấy một trời bình yên
              Ta về trút hết ưu phiền
              Thênh thang gót nhẹ lên triền đồi xa
              Ta về soi lại chính ta
              Thấy u ám quyện ố tà áo xanh ...
              Ta về thôi dạ cũng đành
              Nói lời sám hối bên cành từ bi.

              2.
              Ta về đốt nỗi buồn kia
              Ném tro ra biển chạy dzìa (với) má thôi...
              Ta về ôm gối ngủ vùi
              Tìm trong chăn dạ một mùi thân quen
              Ta về thắp sáng ngọn đèn
              Đề giòng thơ tặng người em xưa nào
              Ta về rũ áo chiến bào
              Tìm bình an thay chiến hào rối ren
              Ta về bóng ngã chênh vênh.

              3.
              Ta về tựa gốc thị già
              Nơi, em bảo để gọi là nhớ thương
              Bây chừ mùa thị tỏa hương
              Còn em đi lạc ở phương trời nào
              Vẳng nghe tiếng gió lao xao
              Ngỡ chân em bước bên rào cỏ may
              Bây chừ chim én về đây
              Vắng em cúc cũng héo gầy với xuân ......

              4.
              Em ngồi xõa tóc chờ ai
              Để ta rơi rụng một vài câu thơ
              Em ngồi dấu mặt ơ thờ
              Để ta đọng vọng nổi chờ trăm năm.

              5.
              Ta về rũ áo phong sương
              Gói từng hạt bụi yêu thương của đời
              Ta về ngước mặt lên trời
              Thấy mênh mông tận ngàn lời thiết tha
              Ta về ngồi dưới hiên nhà
              Tịnh tâm nở những đóa hoa nhân tình
              Ta về tìm lại chính mình
              Não nề còn đọng trong hình hài khô.
              Last edited by hung45qs; 10-19-2010, 04:48 PM.
              Hung45HTQS

              Comment


              • #22
                GỢI NHỚ!



                Có một buổi tôi về ngang phố nhỏ
                Thăm đường xưa nhớ lại tiếng quân đi
                Hàng cây xanh sao lặng lẽ bên đường
                Không rộn rã như những ngày xưa cũ.

                Có một thoáng tôi mơ về chốn cũ,
                Trại Thùy Dương, Phi Dũng đến Thiên Nga
                Trời Nha Trang gay gắt nắng Ngân Hà
                Bao kỹ niệm biết bao là nỗi nhớ.

                Có một sáng tôi khó mà quên được
                Ngày đầu tiên làm bạn với trời xanh
                Hồn lâng lâng ngây ngất giữa lưng trời
                Vớt mây trắng mang về làm kỹ niệm.

                Rồi chợt nhớ tôi quay về thực tại
                Cũng đường xưa phố cũ vẫn còn đây
                Bạn bè xưa! Giờ ai mất ai còn?
                Đường bay đó! Biết bao giờ trở lại
                .


                Thái Tâm Ngọc
                Last edited by hung45qs; 10-20-2010, 05:50 PM.
                Hung45HTQS

                Comment


                • #23
                  Hè 1972 - Ngày tháng cũ


                  Tôi viết bài này để xin được tưởng nhớ đến hai người bạn cùng nhập ngũ năm 1972:

                  1. Cố Thiếu úy Trần Tiến Lộc SVSQ KQ khóa 72H đã gẫy cánh trong một phi vụ trên vùng trời Đà Nẵng.
                  2. Cố Thiếu úy Ngô Quốc Huy SVSQ khóa 7/72 Võ Bị Thủ Đức đã hy sinh tại Vùng 4 năm 1973.



                  Ngược dòng thời gian của 38 năm về trước, các bạn cùng lứa tuổi đôi mươi ngày ấy, chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ quên được mùa hè năm 72. Cái năm đã mang một dấu móc quan trọng trong cuộc đời, đã đánh dấu một đổi thay quan trọng trong lý tưởng về sự trưởng thành của chúng ta. Những ngày tháng rời bỏ đời sống dân sự, rời bỏ mái ấm gia đình, trường học và bạn bè, bỏ cả người tình học trò nho nhỏ mới quen, vừa được nàng cho phép nắm tay băng qua đường, nụ hoa dại ép cho nàng chưa kịp khô đã vội chia tay…. Bao nhiêu là kỷ niệm của một thời quần xanh áo trắng, với điếu Pallmall trên môi như để chứng tỏ cho sự trưởng thành.

                  Hôm nay trên đường đi làm về, trên radio tầng số FM 101.1 được nghe lại bản Bridge over trouble water do Simon và Gasunklel chơi, bản nhạc năm 1972 một thời thanh niên Sài gòn say mê và trên đài FM của quân đội Mỹ ở Việt Nam) Ôi bao nhiêu hình ảnh ngày tháng cũ trở về trong ký ức.


                  Đường Tự Do, Trung Tâm Thủ Đô Sài Gòn năm 1972

                  Miền nam chúng ta chỉ có hai mùa mưa và nắng, tôi còn nhớ Saigon trời tháng năm, những cơn mưa đầu mùa đã bắt đầu với cái hầm hầm oi bức trước cơn mưa, lúc này không khí của các thành phố miền nam như sôi sục đầy không khí chiến tranh. Khắp nơi từ thành thị đến thôn quê, đi đâu ta cũng thấy quân nhân mọi binh chủng, ra đường phố, xe Jeep và quân xa nhiều hơn xe dân sự, đâu đó khắp mọi nơi, những trại lính, cơ quan chính phủ với những bao cát chồng chất, vọng gác và hàng rào kẽm gai. Không xa thành phố lắm, những căn cứ của quân đội Hoa Kỳ hoặc Đồng Minh, xung quanh những nơi này thì cả là một sinh hoạt náo nhiệt, nào là quán rượu, hớt tóc, may mặc, giặt ủi, khu chợ trời bán hàng hóa của Mỹ từ bánh kẹo, đồ hộp, rượu, thuốc lá đến máy móc vân vân….. Dọc con đường Kỳ Đồng, khu Dân Sinh, Tân Sơn Nhất là nơi ồn ào náo nhiệt nhất, từ đâu đó một anh lính Mỹ đang ngây ngất bước ra từ quán Bar rượu bên cạnh người con gái Việt mặc mini jupe nhỏ bé dập dìu tiếng nhạc vọng từ trong các quán Bar, ở góc đường gần đó là xe quân cảnh MP hỗn hợp giữ an ninh những nơi thường có quân nhân Mỹ lui tới, được biết lúc này quân đội Hoa kỳ có mặt tại Việt Nam đã lên đến con số cao nhất (nửa triệu)


                  Xe tuần tiểu của MP Mỹ ở đường Hai Bà Trưng tại Sài Gòn năm 1972

                  Riêng Sài Gòn thủ đô Việt Nam, tuy không nên thơ như Huế, không mặn nồng như Nha Trang, không sương gió cao sa như Đà Lạt, không mộc mạc như Cần Thơ, Mỹ Tho nhưng Sài Gòn vẫn là hòn ngọc yêu quí trong lòng mọi người. Sài gòn có những hàng cây xanh dọc hai bên đường, những cành Phượng Vĩ nở rộ mỗi khi hè đến, mùi Dạ Lý Hương thơm nồng ngây ngất những ai đi về quá đêm qua những biệt thự vắng, những quán cafe ngon quanh Sài gòn như Văn Hoa, Dakao, Hầm Gió, Pénse Nguyễn thiện Thuật đầy ấp những sinh viên học sinh ngoài việc thưởng thức cà phê còn được nghe những bài nhạc thịnh hành Pháp Mỹ. Sang hơn, những Crystal Palace, Grival, La Pagoda, những Rex, Eden cứ vẫn dập dìu tài tử giai nhân vào những ngày cuối tuần, Sài Gòn vẫn là Sài Gòn dù đang chiến tranh. Mặt trái của Thủ Đô hoa lệ xảy ra không quá xa nơi ngoại ô, đêm đêm người dân thành phố vẫn nghe tiếng pháo vọng về, những trái hỏa châu sáng tỏa cả góc trời, những chiếc trực thăng bay tuần thật thấp làm thức giấc mỗi đêm khuya, từng đoàn công voa băng xuyên qua phố để lại đám bụi mờ… Đâu đó từ trong ngõ hẻm sâu vắng chợt nghe tiếng kèn, tiếng đàn cò réo rắc hòa với tiếng nghẹn ngào nức nở của người thiếu phụ trẻ đang quằn quại bên quan tài người chồng vừa hy sinh, những hình ảnh ta thấy hằng ngày…


                  Đường Lê Văn Duyệt trong giờ cao điểm tại Sài Gòn năm 1972

                  Một vài sự kiện xảy ra trong năm 72, trước hết, phải nói về nền kinh tế xã hội, mặc dầu là một nước đang có chiến tranh nhưng nhờ sự giúp đỡ và viện trợ của khắp nơi trên thế giới, Nam Việt Nam có nhiều nhà máy sản xuất có tầm cỡ quốc tế như nhà máy xi măng, đường, bột ngọt, dệt, đặc biệt về gạo, nhờ sự thành công của chánh phủ qua chương trình Người Cày Có Ruộng, không bỏ đất hoang và sự thành công của giống lúa Thần Nông, đây là loại lúa mà hội Lương Nông Quốc Tế đã thành công ở Phi luật tân, đặc điểm của loại lúa này là dân đồng bằng miển nam có thể thu hoạch được 3-4 vụ mùa trong năm thay vì lúa mùa chỉ có 1-2 vụ mùa . Tuy ăn không ngon như gạo mình nhưng đạt về năng xuất nên dân Việt Nam có đủ gạo ăn mà còn xuất cảng sang Nam Dương và In Đô.. Ở thời điểm năm 1972 nếu so sánh với các nước láng giềng như Lào, Cam Bốt, Thái Lan, In Đô và Phi Luật Tân thì Nam Việt Nam văn minh và hùng mạnh vượt trội trên nhiều phương diện, sông ngòi biển cả rộng mênh mông, dù đang chiến tranh nhưng chưa có một chiếc ghe thuyền nào ra khơi tìm đường tị nạn, Sinh Viên Việt Nam du học năm châu đã trở về quê hương phục vụ, đây là điểm son của người dân sống trong chế độ tự do …

                  Một sự kiện quan trọng nữa trong năm 1972 là Hội Đàm Paris, cho đến tháng chín năm đó theo báo Times có tất cả 501 buổi họp công khai, 45 buổi họp kín các bên (Nam Việt Nam, Cộng Sản và Hoa Kỳ) có 500 cuộc họp báo, 1000 cuộc phỏng vấn nhưng vẫn cù cưa chưa có kết thúc dù rằng các bên đang chạy đua nước rút. Riêng Cộng Sản Bắc Việt coi hội nghị Paris không những là cuộc đàm phán ngoại giao, mà còn là mặt trận tuyên truyền, những phong trào phản đối chiến tranh Viet Nam khắp nơi mà giới nằm vùng Cộng Sản đã khuynh đảo để làm nản lòng các Đồng Minh Nam Việt Nam. Trong ngạn ngữ của người Hy Lạp có câu “Có lúc ném đá đi, có lúc phải nhặt đá lại, có lúc ôm nhau phải có lúc buông nhau ra” và người Mỹ đồng minh của chúng ta lúc này đang buông ta ra.


                  Kissinger bắt tay cáo già Lê đức Thọ

                  Vào đầu tháng ba 1972, những cơn nóng như thiêu đốt ở miền địa đầu, lợi dụng mùa khô bắt đầu, Cộng Sản Bắc Việt đồng loạt tấn công các miền giới tuyến như An Lộc, Đông Hà, Quảng Trị cùng với các tỉnh miền nam mà nhà văn Phan Nhật Nam gọi là mùa hè đỏ lửa, dù thất bại trên các mặt trận nhưng Việt Cộng vẫn lấy đó làm tiếng vang cho hội nghị Paris làm áp lực Hoa Kỳ.

                  Tháng sáu năm 1972, sinh viên học sinh miền Nam đã bắt đầu vào hè, những cuộc thi cử như Tú Tài, các Phân Khoa Đại Học đã xong, vì cuộc chiến leo thang, Hoa Kỳ đang chuẩn bị chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, Nha Động Viên, Bộ Quốc Phòng ra lệnh Quốc Gia Tổng Động Viên, khi lệnh này ban ra tức thời một số lớn thanh niên miền nam không còn đủ tuổi để được hoãn dịch tiếp tục học, thế là hàng trăm ngàn thanh niên hoang mang đua nhau hoặc tình nguyện đầu quân vào các binh chủng chuyên môn trước khi giấy hoãn dịch hết hạn, được biết sau ngày 23 tháng 9 năm 1972 ai bị bắt sẽ coi như tội trốn quân dịch sẽ không được khoan hồng . Năm 1972 là năm có lệnh Tổng Động Viên lần thứ hai sau lệnh Tổng Động Viên tết Mậu Thân 1968. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa lên tới con số một triệu.


                  Rạp Casino đường Paster Sài Gòn vào một buổi sáng năm 1972

                  Cũng vào tháng sáu năm đó, hai binh chủng nghành Không Quân và Hải Quân cũng phát đơn và tuyển mộ, riêng Không Quân, nơi có Bộ Tư Lệnh ở Tân Sơn Nhất, hàng ngàn thanh niên ăn ngủ tại chỗ để được lấy đơn khám sức khỏe vào các ngành Kỹ Thuật, Phi Hành và Không Phi Hành. Riêng tại trường Võ Bị Thủ đức số SVSQ thụ huấn quá đông, một số chuyển qua trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế Nha Trang và một số phải đi chiến dịch ở các vùng nông thôn.
                  Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, sau những ngày ròng rã khám sức khỏe tôi đã được nhận vào Không quân nghành phi hành. Cầm tờ giấy hoãn dịch còn hạn trong tay, tôi được dịp hưởng những ngày tháng cuối cùng của đời sống dân sự . Hình như những ngày tháng này trong năm, phố xá có vẻ vắng đi nhất là thanh niên, thay vào đó màu áo xanh của lính xuất hiện nhiều hơn ở khắp nơi.

                  Cuối tháng 10 năm 1972, tôi làm thủ tục nhập khóa tại Tân Sơn Nhất cùng với các anh em đã đậu sức khỏe ở Đà Nẵng và Nha Trang tổng cộng có 119 khóa sinh thành lập ra khóa 72H, khóa cuối cùng của năm 1972.

                  Sau 4 tuần huấn nhục, làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống từ một thanh niên ngoài việc ăn học, rong chơi vô tư, nay đã trở thành một quân nhân, không biết có nhiều nhiệt huyết bao nhiêu nhưng bây giờ thì rắn chắc, đi đứng nói năng nghiêm chỉnh, mặt lúc nào cũng ngước lên (vì nhìn xuống đất, đàn anh cho là đi tìm bạc cắc.


                  Hôm nay trong không khí lành lạnh của những ngày cuối năm, nghe tiếng thông reo vi vu quanh doanh trại Phi Dũng, báo hiệu một buổi giao mùa những ngày tháng của năm 1972 sắp hết. Đứng trước tấm gương lớn trước trại SVSQ với hàng chữ lớn “Nhìn quân phục biết tư cách” tôi chỉnh lại đôi Alpha mới gắn, nhìn lại đôi giầy đen bóng trước khi đi phép, cái phép ra phố đầu tiên của một SVSQ với cái hân hoan khó tả. Bước ngang qua phạn xá (nơi ăn cơm của SVSQ) tôi thấy khóa 73A còn đang bị huấn nhục, cả khóa đang chống thế chờ, nhìn lên nóc của cây cột lớn tôi thấy Tân Khóa Sinh 73A Trần Đường Vinh đang bị Niên trưởng Cán Bộ 72C Ninh Việt Bình cho thi hành hình phạt “Dơi ngủ mùa đông” với hai chân treo ngược trên cột. Vinh nhìn tôi đi phép với cặp mắt thèm thuồng, tôi thầm nói “Thôi ráng đi cưng, anh mày đã từng nếm qua mùi này rồi, chắc là nổ quá nên bị móc ra phạt riêng!!” Vinh bây giờ là tay Guitar thường đệm cho anh em hát trong những ngày tuổi gần “xế chiều”.

                  38 năm trôi qua, khoảng cách của một nửa đời người rồi còn gì nữa, mọi việc cứ tưởng như xảy ra ngày hôm qua khi mà cả ngàn mái đầu xanh lần lượt quỳ dưới cánh Đại Bàng xin lấy Không Gian làm Tổ Quốc.... Cũng theo dòng thời gian và định mệnh mà mỗi chúng ta mang theo, dù gì đi nữa cũng xin cám ơn cuộc đời, trong đó đã cho chúng ta đôi Alpha gắn liền với định mệnh đó. Vì vậy hôm nay khi mái tóc đã ngã màu, mỗi khi gặp lại nhau, nhắc đến nhau, dù vài năm không gặp hoặc gặp lại nhau ở khoảng cách hai bờ đại dương, vẫn cái chọc phá, mạnh thằng nào thằng đó nổ, cuối cùng vẫn cái khắn khít, giúp đỡ nhau khi cần thiết, như ngày xưa đã từng cover cho nhau....

                  Những vui buồn đó chỉ có SVSQ KQ mới có, chắc chắn chúng ta sẽ còn giữ mãi ký ức của ngày tháng cũ đó, như một "Trang Sử Nhỏ", trong đó có trang in đậm nét “Một thời để nhớ” ...... Tưởng chừng đã quên….


                  Hè 1972-2010
                  Nguyễn Tấn Hùng
                  Last edited by hung45qs; 10-21-2010, 03:03 AM.
                  Hung45HTQS

                  Comment


                  • #24
                    Hào Hùng Độc Đáo



                    Là Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân ít nhiều ai cũng bị phạt te tua trong những ngày đầu bỡ ngỡ khi vào Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, các Niên Trưởng đàn anh hạch hỏi bất ngờ không theo thứ tự nào một trong mười điều tâm niệm của SVSQ/KQ, có rất nhiều lý do bị phạt trong thời gian huấn nhục, nhưng10 điều tâm niệm Tân Khóa Sinh bắt buộc phải thuộc nằm lòng, ai mà ấm ứ thì trở thành cái mền rách, có thể bị hành xác cả ngày vì không trả lời đúng theo điều tâm niệm thứ mấy mà Niên Trưởng cán bộ nêu ra.

                    Dù ai có lãng trí đến đâu đi nửa mà quên đi tất cả 9 điều tâm niệm còn lại, chắc rằng không một ai quên được điều tâm niệm số 1 của SVSQ/KQ
                    là HÀO HÙNG VÀ ĐỘC ĐÁO.

                    Ngoài các điều Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm, Tự Thắng, Tự Giác, Tự Chỉ Hay, v.v,, như những SVSQ của các quân trường bạn, riêng SVSQ/KQ phải
                    Hào Hùng và Độc Đáo trước tiên, điều tâm niệm quan trọng số một, không có lời giải thích nào mà tự bản thân của mỗi cá nhân phải tự hiểu cho riêng mình, phải Hào Hùng và Độc Đáo, phải Hào Hùng trên mọi bình diện và phải Độc Đáo trên mọi hoàn cảnh, trong cuộc sống và ngay cả trong cái chết, trong huy hoàng hoặc trong cùng tận của đau khổ, gian lao, cộng thêm sự huấn nhục cực kỳ gian khổ mà mỗi SVSQ/KQ rất tự hào đã trải qua, sự luyện tập nầy là hành trang vào đời sống gian nguy trong thời binh lửa, của một quân nhân sẵn sàng ra trận, phải có hào khí ngất trời , phải hùng dũng ra trận mạc, phải độc đáo với mọi người, mọi hoàn cảnh và trong mọi tình huống.

                    Người ngoài đâu có ai ngờ rằng sự luyện tập thể lực kinh khiếp đến chết người của những SVSQ/KQ trông bề ngoài bình thường , là những anh lính chiến tương lai, chỉ có chúng ta tự biết Hào Hùng và Độc Đáo ngay cả trong thời gian huấn luyện, khổ luyện trong tất cả các bộ môn, những bài học đáng quý tại các quân trường và Trung tâm huấn luyện trong thời là SVSQ/KQ

                    SINH VIÊN SĨ QUAN KHÔNG QUÂN

                    Hào hứng như mùa xuân bất tận,
                    Hào hiệp với những kẻ không thân
                    Hào hoa có chết cũng bất cần
                    Hào nhoáng bề ngoài dù túi rỗng
                    Hào phóng thói quen trong cuộc sống
                    Hào khí ngất trời luôn trong mộng
                    Hào kiệt noi gương bậc tiền nhân
                    Hào quang chiếu rọi khi banh xác
                    Hào cường trong tươi mát tuổi xanh

                    Hùng dũng nguyện đi khắp mọi vùng
                    Hùng tâm dù chết vẫn ung dung
                    Hùng hỗ hăng say ra trận tuyến
                    Hùng anh nguy hiểm vẫn không chùng

                    Hùng cứ trên không mộng thiếu thời
                    Hùng tài rèn luyện đến tả tơi
                    Hùng vĩ giang sơn non nước Việt
                    Hùng cường dân chúng được thảnh thơi

                    Hùng khí bất khuất sống trên đời
                    Hùng tráng giữ đất rộng , biển khơi
                    Hùng hồn tuyên bố trong tâm tưởng
                    Hùng hậu đoàn quân tung khắp nơi

                    Độc, có nghĩa duy nhất ai ơi
                    Đáo, là đáo để hết chỗ chê
                    Sinh Viên tâm nguyện một lời thề
                    Trau giồi cho đến phút hết hơi


                    Hào Hùng và Độc Đáo của thời trai trẻ, giờ đây chúng ta chỉ còn Hào hùng trong tim óc, có một điều duy nhất chắc chắn là rất độc đáo với tình bạn, tình đồng đội và tình thắm thiết của Không Quân,


                    AC ĐỊNH 73F
                    Last edited by hung45qs; 12-23-2010, 01:37 AM.
                    Hung45HTQS

                    Comment


                    • #25
                      Hoàng Kỳ Ca



                      Nghìn thuở trước, khi cha ông dựng nước
                      Lấy Cờ Vàng làm biểu tượng Giang Sơn
                      Ngọn cờ thiêng liêng thắm đượm Quốc hồn
                      Mà Quốc Tổ Hùng Vương từng soi bóng

                      Từ Bà Trưng, Cờ Vàng bay lồng lộng
                      Đến Ngô Quyền lừng lẫy Bạch Đằng Giang
                      Nơi biên cương, Lý Thường Kiệt ngâm vang
                      Đất Nam, trời Nam, dân Nam làm chủ

                      Hưng Đạo Đại Vương lòng như thác lũ
                      Đã cuốn trôi trăm ngàn vạn quân Nguyên
                      Muôn đời sau, sử sách vẫn lưu truyền
                      Tài thao lược Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ

                      Trải năm tháng, qua dần bao thế hệ
                      Đất nước ta không hề đổi màu cờ
                      Dù ngàn xưa, mai nữa, hoặc hiện giờ
                      Ta mãi mãi chỉ màu Vàng óng ánh

                      Cờ Vàng! Cờ Vàng! Oai linh thần thánh!
                      Dân Nam ta gìn giữ sắc dân ta!
                      Dù phiêu lưu bốn bể vẫn một nhà
                      Vẫn giữ vững Cờ Vàng làm biểu tượng

                      Khi gặp nhau, nếu hoài nghi chân tướng?
                      Căn cước ư? Chỉ một lá Cờ Vàng!
                      Là đủ nhìn thấu suốt tận tâm can
                      Đủ nhận biết: ai người chung Tổ Quốc!

                      Bốn nghìn năm, ta chưa từng đổi nước
                      Ta chưa từng thay màu sắc Quê hương .
                      Ta chưa từng biến chuyển ánh huy hoàng
                      Của lá Cờ Vàng rộn ràng lóng lánh

                      Những kẻ mộng du đi tìm ảo ảnh
                      Đi đêm với ma, chực đổi sắc cờ
                      Hận nghìn đời, lịch sử sẽ không tha
                      Kẻ phản bội thù nhà và nợ nước

                      Dân Nam ơi! Hỡi hồn thiêng Tổ quốc!
                      Nhớ rằng ta có truyền thống huy hoàng
                      Cội nguồn ta bền vững bởi Cờ Vàng
                      Nên không thể nhất thời thay thế được!


                      Tường Vân
                      Hung45HTQS

                      Comment


                      • #26
                        BBT xin ngỏ lời cám ơn đến Cựu Th/Tá Nguyễn Văn Bé, người đã gửi thư trả lời theo thiệp mời của BTC Hội Ngộ Liên Khóa 72/73 kỳ III. BBT dự định đăng vào Đặc San nhưng vì nhận được quá trễ nên không thực hiện được, nhân dịp này BBT xin đăng vào trang Đặc San này để mọi người cùng xem. Một lần nữa BBT xin chân thành cám ơn và cũng xin tạ lỗi là đã không kịp đăng vào Đặc San.

                        Xin kính chúc anh và gia đình được an bình

                        Thay mặt BBT

                        hung45qs





                        Last edited by hung45qs; 03-03-2011, 07:23 AM.
                        Hung45HTQS

                        Comment


                        • #27
                          Kỷ Niệm Đời Khóa Sinh


                          Khổ vì gái 1

                          Lớn lên trong chiến tranh, nhất là con trai, nếu không có lý do chính đáng để được miễn dịch thì sẽ phải thi hành nghĩa vụ công dân, nói thẳng ra là phải đi lính. Binh chủng nào cũng cần nhân lực cả, bạn bè tôi đứa vào KQ, đứa vào HQ, thằng đi BB, kẻ vào LH, rồi PB, TQLC, ND, BDQ…. Tôi may mắn được KQ chấp nhận dù rằng kết quả sức khỏe cho biết là tôi bị thiếu hơn 2 kg mới đủ tiêu chuẩn. Ba vị BS trong HDYK đã ban cho tôi ân huệ đó sau khi xem qua hồ sơ của tôi và cẩn thận cân nhắc mọi vấn đề.


                          Đoạn đường Alpha là những nấc thang đã được vạch sẵn mà chúng tôi là thân phận khóa sinh chỉ biết nương theo, nào là huấn nhục, nào là quân sự, nào là sinh ngữ. Đậu sinh ngữ, đi Mỹ học bay, theo tôi đây là niềm mơ ước của tất cả SVSQ, ai lại không muốn đi Mỹ học bay. Rớt sinh ngữ, học bay quốc nội, lúc đó KQ mình có vài tài khóa quốc nội là TT, HTQS, A37 và QSV. Riêng trường hợp của tôi, hơi khác thường một tí, sau 3 lần đậu ECL đủ điểm để đi Mỹ mà vẫn không được gọi để khám sức khỏe tôi hơi phân vân về tương lai của mình, may có người bạn tên Hoàng Huy Lãnh (Lãnh CoCa) về nhờ bố xem hộ hồ sơ, tôi khám phá ra mình bị kẹt an ninh, sẽ không bao giờ được đi Mỹ. Bố của Lãnh có khuyên tôi nên làm đơn tự loại ra khỏi trường SNQĐ nếu muốn đi học bay quốc nội, ông cho biết sắp có khóa HTQS ngoài Nha Trang. Bây giờ tôi mới biết là sau khi học hết cuốn 2400, đậu đủ điểm thì họ vẫn tiếp tục cho mình học, không loại mình ra dù biết rằng mình sẽ chẳng bao giờ được đi Mỹ cả.


                          Một tuần sau khi làm đơn tự loại, tôi được Sự Vụ Lệnh về nằm thặng số ở Trại Tương Lai – Biên Hòa để chờ ngày đi học bay. Nơi đây tôi gặp một thằng bạn cũ cùng khóa tên Phạm Văn Hạnh (Hạnh bao tử), nó vừa có Sự Vụ Lệnh đi học địa huấn cho khóa bay Trực Thăng Quốc Nội. Nó bàn giao lại cho tôi công việc cũ của nó là canh gác trại Tương Lai cũ, chỉ có ăn với ngủ, khỏi canh gác ngoài vòng đai ban đêm. Công việc cần 4 mạng, tôi tuyển được 3 tên quê ở miền Trung, như vậy không sợ tụi nó đòi trốn về phép cuối tuần, tụi nó sẽ ở trong trại để coi trại 24/24, riêng tôi, tôi phải ở ngoài trại để….lo cho tụi nó. Mỗi tuần tôi sẽ vào trại một lần để đem thức ăn và sách truyện tiểu thuyết cho tụi nó đọc, thương bạn bè vậy thôi chứ. Chúng tôi ký giấy tờ, đi lãnh súng ống rồi dắt nhau sang trại Tương Lai cũ để bắt đầu công tác mới.

                          Đất Biên Hòa hình như hợp với tôi vì tôi cảm thấy toàn những chuyện may mắn xảy ra. Tôi được 4 ông đàn anh bay F5 ở Biên Hòa thương tình cho về ở chung (Châu, Thanh, Hưng và 1 người tôi quên tên), căn nhà rất nhỏ (hình như chỉ có 1 phòng ngủ) nhưng đầy tình huynh đệ, mỗi ngày đàn anh thay phiên nhau để lại 1 xe gắn máy cho tôi xử dụng. Tôi ở Biên Hòa được đúng một tháng, nẩy nở được ba mối tình, với cái tuổi mới lớn, cả ba mối tình đều đến trong vội vã, háo hức nhưng rất thản nhiên. Trong thâm tâm, tôi tự nhủ tình đến rồi tình sẽ đi, tôi sẽ không nuối tiếc, không giận hờn và không trách nhiệm.

                          Tôi có Sự Vụ Lệnh ra Nha Trang để học khóa HTQS, tôi tự an ủi thôi không được học ở Mỹ thì Học ở Việt Nam vậy, rồi cũng trở thành Pilot thôi. Trước ngày ra Nha Trang, bốn ông đàn anh F5 làm một cái tiệc nho nhỏ để tiễn thằng đàn em đi học bay, tôi mời cả ba mối tình đến để chia tay một lượt... Thoạt đầu không ai biết ai, chị chị em em cười nói vui vẻ, đến lúc vỡ lẽ ra thì… tôi nghĩ các bạn có thể đoán ra là chuyện gì đã xảy ra rồi. Coi như bữa tiệc biệt ly thành công mỹ mãn, cả ba mối tình đều chấm dứt cùng ngày, cùng lúc, hình như cả ba đều không còn chút gì để nhớ với tôi nữa… Hy vọng là vậy.


                          Sau một thời gian học xong địa huấn, tôi có tên trong danh sách của khóa 45 HTQS, ông thầy dạy bay tên là Dương Đình Hoàng, so với những người bạn cùng khóa, tôi cho đây là một trong những may mắn trong cuộc đời bay bỗng ngắn ngủi của tôi. Đúng là đất Nha Trang khô cằn xỏi đá vì cho đến ngày hôm nay tôi vẫn chưa tìm được mối tình nào cả, mỗi cuối tuần lấy phép đi phố chỉ để nhìn thiên hạ hạnh phúc thôi, số phận cả. Rồi tôi cũng được thầy Hoàng thả solo, tôi muốn thầy cho tôi solo đầu tiên nhưng không được, cái háo thắng của tuổi trẻ cứ làm cho tôi lúc nào cũng nghĩ mình bay hay cả, sự thật sau này tôi mới biết… Chẳng hơn ai cả.


                          Một ngày đẹp trời, trên loa phóng thanh của Trại Hoàng Yến:
                          “SVSQ Nguyễn Việt Hùng ra phòng tiếp tân gấp có người nhà muốn gặp”.
                          Tôi không nghĩ là mình nhưng không lẽ có hai Nguyễn Việt Hùng mà mình không biết, thôi cứ ra đó xem sao. Từ từ ra đến phòng tiếp tân, tôi lén nhìn vào bên trong, một hình ảnh quen thuộc làm tôi phải buột miệng:
                          “Chết mẹ, khổ rồi!!! Khổ rồi!!!”

                          Một trong ba mối tình mà tôi ngỡ đã chấm dứt ở Biên Hòa đang ngồi chờ tôi, tôi đứng lặng người thật lâu, không nói nên lời. Sau khi hoàn hồn, tôi bước vào phòng tiếp tân để chào nàng, tôi đón tiếp nàng trong ngạc nhiên, trong phân vân và trong lo sợ. Ngạc nhiên vì tưởng rằng đã mối tình đã chết mà nàng lại ra thăm, phân vân vì không biết phải xử lý ra sao và lo sợ vì trong túi không có một xu. Làm sao đây bây giờ, chưa bao giờ tôi lại bị lâm vào tình trạng khó xử như vậy, sau khi hút tất cả không khí còn xót lại vào lồng ngực mà tôi cứ ngỡ là không còn để thở, tôi thở một hơi thở dài và quyết định… chuyện tới đâu hay tới đó. Tôi nói nàng ngồi chờ rồi trở về trại để hỏi ý kiến bạn bè, đây là lúc tôi cảm nhận được tình bạn quân trường, thiêng liêng và vô giá. Những cuốn truyện tiểu thuyết bạn bè đang đọc được gom lại đưa cho tôi để đem ra trả lấy lại tiền đặt cọc, những tình cảm thương yêu của bạn bè đánh đổi cho tôi được bốn ngày sống với nàng ngoài phố Nha Trang.

                          Ngày cuối cùng tôi gọi cho anh của nàng là một Đ/Úy lái vận tải ngoài Đà Nẵng vào Nha Trang để đón nàng. Từ trong rạp Cine, chúng tôi tay trong tay bước ra thì được ông anh nàng đang đứng chờ để tiếp đón ở bên ngoài. Tôi vẫn không hiểu là sao ông ta tìm được chúng tôi dễ dàng như vậy, chắc có tình báo. Anh hỏi, tôi trả lời, anh biết tôi học khóa 45 HTQS, tôi biết anh là bạn thân của Th/tá Tâm trường Phi Hành. Chúng tôi chia tay nhau từ đó, chấm dứt một cuộc tình ngây dại (lần thứ hai) và bắt đầu cho một đoạn đường đầy chông gai cho đời khóa sinh của tôi.

                          Tôi không biết tôi được gửi gấm như thế nào mà sau đó ba ngày tôi được lệnh “thưởng” là cạo đầu mỗi 4 ngày và ở tù suốt khóa bay từ Th/tá Bé. Cuộc đời bay bỗng chưa bị gián đoạn vì tôi vẫn được đi học bay, chỉ khác với mọi người là tôi không được ăn uống cùng bàn, không được ngủ cùng phòng với các bạn cùng khóa và đi học bay có QC đưa đón. Tôi tự an ủi lấy: mình bây giờ quá thoải mái, ngủ có phòng riêng, ăn uống có người bưng tới phòng, đi bay có ngưòi đưa đón, không bận tâm chuyện canh gác và tha hồ viết thư và đọc truyện.

                          Có thể tại thế mà tôi không có nhiều hình kỷ niệm đời Quân Trường của mình, đầu trọc lóc nên không dám gửi hình về cho gia đình xem, mẹ tôi tính hay lo nên tôi không muốn mẹ buồn, tất cả các bất hạnh trong cuộc đời quân ngũ tôi đều âm thầm chịu đựng. Sau một thời gian, cửa tù hình như không khóa nữa, tôi vẫn phải ỡ trong tù nhưng hình như các sĩ quan trực đều nhìn sang hướng khác để cho tôi có một tự do tối thiểu. Không ai nói thẳng với tôi là tôi được tù thả lỏng nhưng với những dữ kiện xảy ra hằng ngày, tôi cảm nhận ra điều đó. QC không còn đón đưa tôi đi bay nữa, tôi thử đi phố, đi câu lạc bộ, không ai nói gì cả, tưởng rằng đã qua cơn hoạn nạn, không ngờ……

                          Giờ bay huấn luyện T41 bị cắt giảm, học chưa đủ giờ nhưng coi như đủ, chúng tôi phải đậu T41 mới được qua học L19. Tôi được cắt bay với TR/Úy Phúc. Trước giờ bay khoảng 15’, tên Tr/Úy Phúc bị xóa bỏ và được thay vào bằng Th/Tá Tuấn. Rời Phi trường Nha Trang, ông bảo tôi bay ra vùng 6 với cao độ 3000 bộ, ra đến nơi, ông bảo tôi bay theo chỉ thị mà tôi đã học rồi bay về. Tôi cảm thấy tự tin vì không thấy quờ quạng gì cả, trong lòng hơi hớn hở và tôi mỉm cười trong lòng, L19 đang chờ tôi.... Ra khỏi phi cơ, ông báo cho tôi biết là ông mới đánh rớt tôi và báo cho tôi biết nếu tôi bị rớt một lần nữa tôi sẽ bị loại ra bộ binh. Tôi vẫn không tin là mình bị đánh rớt, mình bay có thua ai đâu mài lại bị đánh rớt. Hay là… Thôi đúng rồi, chắc lại bị gửi gấm nữa rồi…Tôi nghĩ vậy!!

                          Hai tuần sau tôi có tên đi thi lại lần thứ nhì nhưng không có tên của vị Sĩ Quan nào sẽ bay với tôi, tôi kiên nhẫn chờ đợi, hồi hộp và âu lo… rồi chuyện gì đến cũng phải đến. Th/Tá Tuấn bước vào rồi ghi tên ông vào chỗ vị Sĩ Quan sẽ bay với tôi, tim tôi như ngừng đập, không thể tưởng tượng cuộc đời bay bỗng của mình chấm dứt từ đây. Tôi không nói gì cả, lặng lẽ đi về cái nhà tù thương yêu của tôi để suy nghĩ, để chán đời và để chấp nhận cái không may của mình, tất cả chỉ vì…gái.
                          Một đoạn phim ngắn ghi lại cuộc đời Quân Ngũ của tôi từ từ hiện ra trong bộ óc phân vân không định hướng của tôi. Đang suy nghĩ, đang mơ màng thì…

                          Thằng bạn tôi chạy vào trại tù của tôi, thở hổn hển..
                          - Ê mày, lên trường Phi Hành gấp, Th/Tá Thiếc kêu
                          - Thôi, lên làm chi, trước sau cũng rớt. - Tôi trả lời.
                          - Th/Tá Thiếc gạch tên ông Tuấn đi rồi, ỗng ghi tên ỗng vô, mày sẽ bay với ỗng…đ.m. lẹ lên trước khi ỗng đổi ý - Nó la lên
                          - Thiệt không mày?
                          - Mẹ mày, tao chạy về đây để giỡn với mày hả?

                          Hai thằng tôi cắm đầu cắm cổ chạy, vừa chạy nó vừa cố gắng kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra, tôi nghe tiếng mất tiếng còn nhưng cũng hiểu đại khái, thì ra trời cũng còn thương tôi.

                          Tôi theo Th/Tá Thiếc ra tàu, ông đứng chờ tôi kiểm tàu mà không nói tiếng nào cả. Tôi cất cánh, ông bảo tôi ra vùng và cao độ theo bảng cắt bay rồi cứ bay cho ông thấy những gì tôi đã học được. Tôi cứ thế mà bay, thỉnh thoảng liếc xem ông có phản ứng gì không…. Mọi việc đều tốt đẹp, tôi được chấm đậu T41 để qua L19, hú hồn… Tôi và mối tình tù tội đấy mất liên lạc, chẳng còn gặp nhau nữa.


                          Chưa kịp solo L19 thì vì xăng nhớt giới hạn, chúng tôi phải tạm ngừng học bay, trong thời gian chờ đợi chúng tôi được gửi sang Trại Phi Dũng để học khóa 65 ĐCSQ, mở đầu cho một đoạn trường thứ hai trong cuộc đời quân ngũ của tôi,
                          Xin hãy tạm gọi là


                          Khổ vì gái 2

                          Làn sóng SVSQ học bay quốc ngoại về rất đông, tất cả chúng tôi phải chịu 16 tuần huấn luyện thay vì 3 đến 4 tuần như lúc trước. Tôi cảm thấy may mắn là vẫn còn được huấn luyện dưới mái trường của TTHLKQ Nha Trang thay vì Đồng Đế, Long Thành hay Thủ Đức như một số bạn tôi phải gánh chịu.

                          Cuộc đời đưa đẩy, tôi quen một cô bạn gái người Nha Trang, nàng là nữ ca sĩ của trường HSQ Đồng Đế… vì thế bao tai ương đang chờ đợi để trút xuống cuộc đời không may mắn với nữ giới của tôi. Đã biết khổ mà sao vẫn không màng vì nếu màng thì làm sao biết khổ và chuyện xảy ra như sau:

                          Trong khóa chúng tôi có mấy thằng dân Nha Trang nên tụi nó có đem vào một chiếc xe đạp Mini gửi ở một quán nhậu ngoài cổng trại Phi Dũng. Thông thường thì chúng tôi thích đi bộ hơn nhưng hôm ấy không hiểu sao tôi lại đổi ý, tôi đạp chiếc xe đạp mini tà tà đến nhà nàng. Vừa đến nơi thì đúng lúc nàng cũng vừa định leo lên chiếc xe Jeep lùn của một ông bộ binh mang lon Đ/úy, tôi nghĩ ông này chắc là quan lớn của trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế. Vừa thấy tôi nàng ngừng lại, quay sang nói với ông ta gì đó rồi tiến về phía tôi, leo lên ngồi đàng sau chiếc xe đạp bé nhỏ của tôi. Ông Đ/Úy xuống xe nhìn tôi với đôi mắt không thiện cảm, tuy không nói với nhau tiếng nào nhưng tôi có thể đoán là không phải ông xuống xe là vì muốn làm bạn với tôi. Chúng tôi ra phố Nha Trang, vui vẻ như không có chuyện gì xảy ra, tối ấy tôi về nhà nàng ăn cơm tối rồi tôi về trại.

                          Cuối tuần đó, tôi đi uống café với vài người bạn, sắp sửa ra về thì cô hàng café đến rủ tôi đi ăn tối, nổi máu KQ, tôi nhận lời. Nàng cũng có một chiếc xe đạp mini, chúng tôi đèo nhau đi dạo phố, dạo biển và cuối cùng ghé vào một quán cơm ở trước cổng Quân Y Viện Nguyễn Huệ để ăn cơm tối. Ăn chưa xong bữa cơm thì tôi thấy có 4 tên lính Lôi Hổ vào quán và chia nhau ngồi 4 bàn chung quanh bàn tôi . Tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra nên tôi khuyên nàng đi hãy rời quán và liếc quanh quán để tìm đồng minh, may quá có 3 KQ ngồi ở cuối quán, 4 thằng chơi 4 thằng thì đồng đều, không ức hiếp ai cả.

                          Tôi móc điếu thuốc ra hút thì một tên đứng lên tiến đến bàn tôi, tôi cũng đứng lên dựa lưng vào vách để chuẩn bị chiến đấu, nhìn qua bàn của 3 người bạn KQ để cầu cứu thì họ không còn đó nữa. Thôi thì đổi chiến thuật,1 chọi 4 thì hơi thất thế nhưng tôi đang ở trong tư thế không có sự lựa chọn, chơi luôn, tới đâu hay tới đó. Đấm đá nhau chưa được bao lâu thì tôi cảm thấy có một cái gì vừa đập vào đầu tôi, tôi nhìn sang thì thấy một tên đang cầm trên tay một cổ chai đã vỡ nát. Thì ra nó vừa đập vào đầu tôi bằng 1 chai xá xị, máu trên đầu đã tuôn xuống cái áo 4 túi của tôi, tôi đưa tay lên bịt vết thương, trong đầu thì đang nghĩ không nhớ lúc nãy bỏ cái hộp quẹt Zippo ở đâu. Bốn tên bỏ chạy ra khỏi quán, bà chủ quán đem khăn lên cho tôi lau vết máu, ba chàng KQ vừa trở lại với vũ khí trong tay, tôi vẫn đang đi tìm cái hộp quẹt Zippo của tôi.

                          Họ dìu tôi đi thẳng vào QYV Nguyễn Huệ, nơi đây họ không cho tôi vào vì tôi đang mặc đồ KQ, họ bảo tôi phải vào bệnh viện của KQ. Tận dụng cái thông minh tối thiểu của mình tôi giả vờ xỉu, ông y tá trưởng nhấn còi báo động, y tá chạy đến cho tôi vào phòng để chuẩn bị may vết thương. Họ cạo chung quanh vết thương, rửa sạch sẽ và bắt đầu may mà không dùng thuốc mê gì cả. Tôi vì giả vờ xỉu nên nằm chịu trận luôn, đau mấy cũng nằm yên, sợ bể ra họ không may nữa thì chết. Khi biết đã may xong, tôi tỉnh dậy, họ khuyên tôi nên vào bệnh viện của KQ để chụp hình X-ray. Họ quấn đầu tôi như một ông Ấn Độ, cho tôi vài viên thuốc rồi cho tôi ra về, có lẽ họ không muốn có trách nhiệm, dù sao tôi cũng xin cám ơn họ đã cầm máu được cho vết thương của tôi.

                          Cô hàng café trở lại đúng lúc, nàng nói nàng chạy đi tìm QC nhưng không ra, tôi nhờ nàng chở tôi về trại Phi Dũng. Tôi ngồi sau chiếc xe đạp mini, hồi tưởng lại để tìm hiểu đầu đuôi câu chuyện, toàn là những giả thuyết mông lung nhưng giả thuyết nào nghe cũng có lý cả. Trên đường vào trại có 2 trạm gác, toàn bạn bè cả nên thằng nào cũng mở cổng cho tôi qua, cô hàng café chở tôi vào đến tận phòng. Chưa kịp nói lời chia tay là vị Sĩ Quan trực đã có mặt ở phòng, ông ra lệnh cho cô hàng café rời trại, gọi xe từ bệnh xá đến đón tôi, tôi nhập viện lúc 1 giờ sáng.

                          Hai hôm sau, Tr/Tá Lăng có vào bệnh viện thăm tôi, ông hỏi tôi đầu đuôi câu chuyện, lấy tên tuổi, khóa học rồi từ giã. Hôm sau bệnh xá cho tôi xuất viện, họ cho tôi biết là tôi nứt sọ, rất nhỏ nhưng phải cẩn thận , hình như họ có khuyên không nên đánh lộn nữa. Về đến trại, chưa kịp nghỉ ngơi tôi đã nhận được Sự Vụ Lệnh trục xuất tôi ra khỏi KQ, ra trình diện trường HSQ Đồng Đế (cơ hội để gặp ông bạn Đ/Úy) và sẽ xuống Trung Sĩ khi ra trường vì lý do kỷ luật ký bởi Ch/Tướng Nguyễn Xuân Oánh, Chỉ Huy Trưởng TTHL KQ Nha Trang. Cả một bầu trời KQ mơ mộng xụp đổ, bao nhiêu mơ ước đã trở thành mây khói, tôi hơi đau khổ nhưng không biết làm sao hơn, thôi thì tạm chấp nhận cho số phận của mình vậy.

                          Một lần nữa, tôi quyết định sẽ không báo cho nhà biết, tôi chỉ viết một bức thư về cho thằng bạn thân trong Trung Học, đại khái là báo cho nó là “khi mày nhận được thư này thì tôi đã có thể tao đã về Bộ Binh”. Bây giờ tôi mới tin con người đếu có số phận cả, mình có muốn cũng không được và không muốn thì cũng không tránh khỏi. Thằng bạn nhận thơ ngày thứ sáu cũng đúng là ngày ông bố tôi sang nhà nó để hỏi thăm về tin tức của tôi, tôi nghe kể lại là hai người đang nói chuyện thì ông phát thư đến. Sau khi đọc thư xong bố tôi về nhà và tìm phương tiện ra Nha Trang, trưa thứ bảy bố có mặt ở Nha Trang, đến trại Phi Dũng bố vào gặp Tr/Tá Trung, hai người đi gặp Ch/Tướng Oánh.

                          Theo Sự Vụ Lệnh thì tôi sẽ rời KQ ngày thứ ba, sáng thứ hai tôi có Sự Vụ Lệnh mới hủy bỏ Sự Vụ Lệnh cũ, tôi được ở lại KQ, dù rằng chẳng bao lâu sau thì cũng phải gián đoạn vĩnh viễn nhưng tôi vẫn cảm thấy may mắn là được mặc bộ đồ KQ cho đến ngày cuối cùng.

                          Người ca sĩ của trường HSQ Đồng Đế bỗng dưng trở thành người xa lạ, cô hàng café bỗng dưng trở thành người tình cho đến ngày tôi rời bỏ Nha Trang ngày 1 tháng 4 năm 1975. Tôi rời Sài Gòn ngày 30 tháng tư năm 1975 trên chiếc tàu Trường Xuân mang theo một mối tình thật ngắn ngủi nhưng đầy những cam go của một con người mang số phận……”Khổ vì gái


                          hung45qs
                          Last edited by hung45qs; 04-28-2011, 07:58 PM.
                          Hung45HTQS

                          Comment


                          • #28
                            Kỷ niệm một mùa Xuân


                            Từ Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang vừa làm lễ mãn khóa 2 Hoa Tiêu Trực Thăng, khoá này được huấn luyện tại Phi Đoàn 211 Thần Chùy tại căn cứ Trà Nốc, Cần Thơ sau khi tốt nghiệp chương trình Giai Đoạn II Quân Sự tại đây, tôi bốc thăm trúng về Sư Đoàn IV Không Quân tại Cần Thơ. Quê tôi ở miền Trung, đúng ra thông thường bạn bè có gia đình ở miền Nam muốn được gần gia đình thường trao đổi nhau và có bù thêm một số tiền. Tuy nhiên, tôi quyết định mình bốc thăm trúng nơi nào thì về nơi đấy vì tôi tin rằng đây cũng là số Trời đã chỉ định mặc dù nếu về Vùng I tôi có mấy cái lợi, vừa được phục vụ gần gia đình mà vừa lại có chút tiền còm.

                            Nhận được Sự Vụ Lịnh của Bộ Tự Lệnh Không Quân đi nhận nhiệm sở mới: Phi Đoàn 225, Sư Đoàn IV KQ tại Căn Cứ Trà Nóc, Cần Thơ mà Tết lại gần kề. Ý nghĩ lúc bấy giờ là “đi về quê ăn Tết thay vì đi thẳng ra đơn vị mới,” chợt đến trong trí tôi, kỷ niệm những ngày Tết với gia đình sống lại làm tôi phân vân và đắn đo mãi. Một bên là tình cảm gia đình và một bên là quân kỷ đang dằng co mãnh liệt trong tôi.

                            Cuối cùng, tôi quyết định đến trạm Hàng Không Dân Sự Việt Nam Nha Trang để mua vé. Nhân viên bán vé từ chối vì lý do là Sự Vụ Lệnh của tôi đi về Cần Thơ mà lại mua vé về Quảng Ngãi. “Lính tàu bay” bây giờ phải chọn con đường đi bằng xe đò. Thật là một cuộc mạo hiểm, chiến sự lúc bấy giờ bỗng trở nên yên tĩnh, chờ đợi, nhưng thật là trầm trọng, những đoạn đường phải đi qua như Bồng Sơn, Tam Quan ở Bình Định, Diên Trường, Mỹ Trang ở Đức Phổ, Quảng Ngãi, v.v… làm chùng bước chân tôi. Nhưng Tết với gia đình lại tiếp tục thôi thúc mãi trong tôi. Cuối cùng, tôi quyết định mua vé xe đò trực chỉ về Quảng Ngãi, mặc dù trong lòng vẫn hồi hộp lo âu không biết “vẹm” đón đường lúc nào và nếu có phải phản ứng ra sao. Một liều thì ba bảy cũng liều cầu xin Trời Phật phù hộ.


                            Tết! Chỉ một tiếng cụt thế thôi đã cho nỗi nhớ nhung vời vợi vì đã lâu chưa có dịp về thăm gia đình, làm cho tôi bất chấp hậu quả để có được một thời gian thật ngắn ngủi với cha mẹ, chị em, bà con thân tộc, xóm làng trong dịp Xuân về. Lòng miên man suy nghĩ như nghe văng vẳng trong mơ tiếng hát Duy Khánh vang lên: ...nếu con không về chắc Mẹ buồn lắm … đàn trẻ thơ ngây chờ mong anh trai”…. trong bản nhạc “Xuân này con không về”, tôi nghe chừng như xúc động quá nhiều. Quê hương ơi! Những bà Mẹ Việt Nam, những em thơ mừng đón Xuân về trông mỏi mòn chờ đợi…
                            Hành trang chỉ có vài bộ đồ lính và những vật dụng cần thiết. Trên đường đi, có nhiều khúc gập ghềnh, hư hại do bọn Việt Cộng đặt mìn phá hoại, đôi khi xe đò phải chạy vòng xuống ruộng thay vì chạy trên quốc lộ. Xe đi được hơn nửa ngày, bỗng dưng nghe tiếng súng cách đó không xa nổ vang, tài xế thình lình cho dừng xe lại rồi mọi người vội vã xuống xe tìm chỗ trú thân ở các bờ ruộng dọc theo quốc lộ. Một lúc sau, tiếng súng thưa dần rồi chấm dứt, xe đò lại tiếp tục đi trên con đường cái quan đầy bất trắc này. Tôi ngồi trên xe như ngồi trên lò lửa, trong lòng hồi hộp từng giây từng phút và mong sao được tới nơi đến chốn bình an…

                            Trên suốt lộ trình này, tôi đã chứng kiến những cảnh cửa nát nhà tan, ruộng vườn hoang tàn bỏ ngỏ, không khí nặng nề của chiến tranh, của chết chóc, của hận thù làm tôi thấy thương quê hương, thương đồng bào, những người dân cần cù chất phác sống với làng mạc ruộng vườn và mồ mả tổ tiên phải di tản tìm nơi an toàn hơn hay phải sống trong âu lo hàng giờ dưới hầm hố để tránh bom đạn. Càng thương quê hương, càng thương cho kiếp sống đau thương của đồng bào tôi, tôi lại càng căm thù những tên lãnh đạo Cộng Sản bấy nhiêu…

                            Miên man suy nghĩ mãi, rồi trước mặt là xứ Quảng thân yêu càng lúc càng hiện rõ, qua những nơi mà tôi khó khăn lắm mới nhận diện nổi. Xe qua khỏi Sa Huỳnh, nơi có nhiều ruộng muối, qua khỏi đèo Mỹ Trang là tới quận lỵ Đức Phổ. Tôi cố gắng nhận diện những nơi mà thuở “khi xưa ta bé” với nhiều kỷ niệm. Đây rồi, tại ngã ba con đường rẽ tay phải dẫn đến trường tiểu học Phổ Hưng A nơi tôi theo học, đi thêm một khoảng nữa là trường tiểu học Phổ Hưng B, bên trái là trụ sở Hội Đồng Xã Phổ Hưng. Lúc xưa, trong giờ nghĩ, tôi thường qua đó chơi và làm quen với ông Huỳnh, vị Đại Diện Xã Phổ Hưng.
                            Ông dáng người to lớn phải nói là quá cỡ so với người Việt Nam. Tuy vậy, ông lại thích trò chuyện với tôi. Đây là một trong những kỷ niệm làm tôi thích thú - một chú bé tiểu học bạo gan làm quen với một vị Đại Diện Xã mà giờ đây mỗi lần nhắc lại, tôi không khỏi tự hào về sự “quen biết” đó.

                            Tôi bùi ngùi không thấy căn nhà trọ xưa, không biết gia chủ và những người tôi quen đã mất còn hay đã trôi dạt phương nào. Nhà trọ này là nơi có nhiều kỷ niệm của cha con tôi. Quán bên đường, món thịt gà hon, mềm, cay cay mà tôi ưa thích, nơi ăn trưa của cha con tôi trong suốt thời gian Ba tôi dạy học ở trường Đăng Khoa và thời gian học hành của tôi ở trường tiểu học Phổ Hưng A.
                            Kia là trường trung học Đăng Khoa bên cạnh dòng sông đào nhỏ bé, ngôi giáo đường, tháp chuông giờ đây không còn nữa và khuôn viên trường chỉ là những đống gạch vụn, quan cảnh thật hoang tàn. Trường Đăng Khoa do Linh Mục Bích sáng lập và nơi đây Ba tôi đã dạy học và có lắm học trò ngày nay vẫn còn thương mến ông.

                            Qua khỏi cầu đúc nho nhỏ là thị trấn Trà Câu. Chợ Trà Câu sầm uất ngày nào, những tiệm buôn hai bên quốc lộ 1 nhộn nhịp một thời không còn nữa. Chiến tranh đã cướp mất sự sống. Bên trái, một hương lộ chạy theo cánh đồng ruộng qua chợ Liên Chiểu, bên bầu sen bát ngát - Liên Trì Dục Nguyệt, một trong 12 thắng cảnh của Quảng Ngãi – là đến trạm xe lửa Trà Câu, nơi đây bà Mợ tôi làm trạm trưởng, con đường tiếp tục qua bên kia đường xe lửa đến Phố Nghĩa, Phổ Phong… Tôi nhớ Mợ tôi vì bà rất thân thiết và gần gũi với Má tôi như hai chị em ruột.

                            Tưởng cũng cần nhắc lại là gia đình bên Ngoại tôi đều là nhân viên hỏa xa nên gia đình tôi đi xe lửa không phải mua vé. Ông Ngoại tôi đã về hưu, lúc xưa là nhân viên phát lương và sau đó làm Thanh Tra cho sở Hỏa Xa và sau nầy Má tôi làm trưởng ga Mộ Đức sau nầy đổi tên là ga Thạch Trụ.

                            Nhớ lại những chuyến tàu chợ, tàu suốt, kẻ đón người đưa, cảnh ga chiều làm lòng dạ tôi cũng lắm miên man. Những năm thanh bình vào giữa thập niên 1950’s, đường xe lửa lúc đó ít khi bị Việt Cọng đặt mìn, cứ mỗi lần Tết Trung Thu, sở Hỏa Xa cho một chuyến xe lửa đặc biệt để chở con em nhân viên hỏa xa đi du ngoạn và phát quà. Sau đó, chúng tôi được chở đi vào Tam Quan để dự Tết Trung Thu. Thị trấn Tam Quan bóng dừa rợp nắng tôi không thể nào quên được và tôi bắt đầu mơ mộng… Trung Thu chúng tôi được xem nhiều cuộc vui chơi nhưng mục “mô-tô bay” là không thể nào tôi quên được.

                            Rời Trà Câu, nơi đây tôi thuở bé đã mài đũng quần để bắt đầu cho sự nghiệp làm "lính tàu bay”, qua khỏi làng Quạ Kêu, Vinh Hiển, đến cầu Suối Giới, chuyến xe đò từ từ vào thị trấn Mộ Đức. Tại đây gọi là ngã tư Thạch Trụ là nơi phát xuất tỉnh lộ chạy về hướng Tây qua ga Mộ Đức dẫn đến Ba Tơ lên Kontum miền cao nguyên Trung Phần. Nhà Ba Má tôi ở sát ga Mộ Đức, nơi tôi đã sống phần thời thơ ấu cùng các chị em tôi, bà con thân tộc, xóm làng. Những năm thanh bình, nhiều chuyến xe lửa về đêm làm tôi lại mơ mộng viễn du… Tôi nhớ ngày xưa quá, ngày xưa còn bé nhìn nắng hồng vươn sườn núi Thụ của làng tôi. Tại vùng này có một chỗ người dân ở đây quen gọi "Vũng Nước Sôi". Vũng Nước Sôi là vùng đất có mấy hồ nước nóng liên tục chảy ra từ lòng đất cũng giống như ở Yellowstone National Park nhưng nhỏ hơn nhiều.
                            Nơi đây ông Bảy Tròn, người địa phương chuyên đúc bằng xi măng các chậu kiểng trồng bông hay những kệ có hình các con thú như con voi, sư tử...

                            Ông xây những con mương để dẫn nước lạnh và nước nóng vào một hồ tắm xây bằng xi măng và đá để tắm. Gia đình tôi cũng như dân chúng trong vùng thường đến đây để tắm, nước có nhiều khoáng chất tốt cho da và chữa bịnh ngoài da. Trầm mình trong hồ tắm nước ấm áp cũng có thể bớt những bịnh tứ thời cảm mạo. Đôi khi dân làng còn mang cả gà heo ra chỗ vũng nước sôi để cạo lông, nhổ lông thật tiện lợi vì không cần phải đun nước.

                            Thạch Trụ là một trong những địa danh lừng lẫy của QLVNCH nói chung, một chiến tích oai hùng của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân nói riêng. Nơi đây khi xưa, Thiếu Tá Sơn Thương, vị Tiểu Đoàn Trưởng cùng với các chiến sĩ Biệt Động Quân can trường đã đánh tan tành ba Trung Đoàn Cộng Sản Bắc Việt, giữ vững hậu cứ, bảo vệ thị trấn không để lọt vào tay giặc, duy trì an ninh cho đồng bào.

                            Tôi đã buồn thật nhiều, cái buồn vu vơ, tôi đã luyến nhớ từ con đường mòn, bạn bè, nỗi sợ hãi vào những đêm khi nghe tiếng chó sủa báo hiệu các "ông kẹ" về.

                            Không xa lắm là núi Thụ cũng gọi là núi Đất vì phần trên đỉnh núi trơ trọi không cây cối, chơ vơ trơ trụi đang ngắm nhìn những thay đổi của cuộc đời. Trăng thanh bình đã bị lũ mờ bởi khói lửa chiến tranh. Từ đó tôi bắt đầu băn khoăn về cuộc đời.

                            Phố xá buồn tênh vương vấn, cảnh vật đìu hiu, sự sống hầu như không còn nữa. Những căn nhà còn lại loang lỗ những vết đạn như những vết thương lòng…

                            Xe qua quận ly Đồng Cát, thị trấn Thi Phổ, Liên Khương, Sông Vệ, rồi đến La Hà - La Hà Thạch Trận cũng là một trong 12 thắng cảnh của Quảng Ngãi -, núi Thiên Bút, cống Kiểu. Và cuối cùng chuyến xe đò đã đổ bến. Tôi đã trải dài những kỷ niệm tuổi thơ suốt con đường từ Nha Trang về Quảng Ngãi. Tôi đã mơ trong nỗi lo âu… Tôi thở phào nhẹ nhõm, tôi dâng lời cảm ơn Trời Phật đã phù hộ và đã cho tôi trọn ước mơ nhỏ bé là được sum họp với gia đình trong ba ngày Tết.


                            Niềm vui khó tả, tôi vội vàng đón xe ôm chở về nhà. Vừa đến nhà, Ba Má tôi ngạc nhiên mừng rỡ, các em tôi sung sướng được gặp lại người anh lớn đã lâu chưa về thăm nhà.

                            Nhà cửa được quét dọn và trang hoàng sửa soạn đón Xuân. Bộ lư hương, tam sự được cẩn thận lau chùi cho bóng loáng. Bàn thờ gia tiên, nơi gặp gỡ của tổ tiên và đàn con cháu, nơi khói hương nghi ngút mang quá khứ về hiện tại và mang hy vọng đến tương lai… sự giao cảm mật thiết của đại gia đình trải qua từ đời này đến đời nọ, con cháu tiếp nối mãi mãi về sau… đang được sửa soạn lại cho ngay ngắn.

                            Má tôi và chị tôi lo làm đủ loại bánh mứt. Bánh nổ là món tôi ưa thích nhất. Nếp rang nổ xong, lựa cho sạch trấu. Nước đường được xên với gừng cho thơm, trộn đều nổ và nước đường xên gừng vào một cái thau, đổ vào cái khuôn gỗ hình khối vuông dài độ hơn nửa thước, nện cho chặt đều tay, gỡ khuôn ra, khối bánh được sấy khô và sau đó dùng dao thật bén cắt ra từng miếng vuông mỏng. Sau đó được cắt xén từng bánh nổ cho vuông vức, phần rìa gọi là đầu đày là phần tôi và các em tôi có thể "xơi" ngay được và không có gì ngon và thú cho bằng. Ngoài ra còn có bánh thuẩn, mứt gừng, mứt dừa, mứt bí, dưa món, củ kiệu và những món thịt cá được Má và chị tôi đã lo sẵn mấy ngày trước Tết.

                            Bánh chưng hộc dừa (hộc là khối vuông nhỏ) phải có trong dịp Tết. Những năm chưa xa nhà, tôi thường đi hái là dừa non ở khuôn viên trường Bồ Đề về làm hộc để gói bánh. Những năm sau này, vì không còn ở nhà nên tôi không còn được làm công việc thích thú này nữa. Các em tôi phụ Má trong công việc này. Năm nay, tôi có dịp cùng em tôi xuống trường Bồ Đề để hái lá dừa như những năm trước vì dừa được trồng chung quanh khuôn viên trường. Lúc xưa, chị em tôi theo học ở bậc trung học đệ nhất cấp và Ba tôi dạy học tại đây.

                            Lá dừa phải chọn lá non và bề ngang phải đầy. Bánh chưng gói bằng lá dừa khi nấu chín có mùi thơm đặc biệt và khi chưng bày trên bàn thờ trông thật đẹp mắt vì sự ngay ngắn và vuông vức như biểu hiện cho sự trọn vẹn cao quí. Tôi không quên được đêm hôm đó ngồi nấu bánh chưng cùng em gái kế tôi suốt đêm. Anh em tôi đã nói chuyện nhiều về những kỷ niệm xưa. Bên ngoài, Tết tiết trời lành lạnh, lửa củi cháy sáng, bập bùng trong đêm trừ tịch. Đêm nay, mọi người nôn nao để tống cựu nghênh tân, đón giao thừa. Bàn thờ nhỏ được sắp ngoài sân để cúng giao thừa, tôi suy nghĩ mông lung và nghĩ về những người lính xa nhà, họ nghĩ gì, họ đón giao thừa bằng phiên gác đêm.

                            Tiếng pháo nổ trong giờ giao thừa như xua đuổi tà ma… nhưng không, pháo không được đốt vì lý do an ninh vào những năm sau này, nhưng súng nổ vang trời từ những căn cứ quân sự, hỏa châu soi sáng cả vòm trời. Súng đuổi giặc thay pháo, ánh sáng hỏa châu làm mất đi cái tịch mịch của đêm ba mươi. Nhưng nó chiếu sáng trên quê hương như để chiếu sáng những con người đang rình rập cướp lấy những ngày Tết thiêng liêng của dân tộc. Giờ giao thừa là giờ rất quan trọng, giờ chuyển từ củ sang mới, giờ nghe ngóng con vật gì ra đời và đặc tính con vật là biểu hiệu những gì xảy ra cho năm mới. Tôi không biết con gì ra đời nhưng dù con gì đi nữa thì chiến tranh vẫn tiếp diễn và quê hương vẫn còn chìm đóng trong khói lửa chiến tranh. Thanh bình thật xa vời!

                            Sáng mồng một Tết, tất cả anh chị em chúng tôi quần áo tươm tất thay phiên nhau chúc Tết mừng tuổi ông bà Ngoại và Ba Má sau đó cùng nhau đi lễ Chùa hái lộc đầu năm tại Chùa Tỉnh Hội. Trong dịp Tết này, Ba tôi có thực hiện một cuốn băng sinh hoạt gia đình. Anh chị em chúng tôi thay phiên nhau hát những bản nhạc Xuân ưa thích. Sau này tôi được biết Ba tôi vẫn giữ cuốn băng nhạc ấy, thỉnh thoảng ông đem ra nghe lại giọng hát của chúng tôi, và có lẽ là muốn nghe lại "tiếng nói" của tôi cho thỏa lòng thương nhớ vì cách xa.

                            Ba ngày Tết ngắn ngủi quá mau, phút chia tay thật bùi ngùi, tôi phải khăn gói lên đường để trở về đơn vị mới, trễ phép vì đáng lẽ tôi phải trình diện trước Tết. Qua sự quen biết địa phương nhà nên tôi đã mua được vé máy bay vào Saigon không mấy khó khăn. Những năm gần đây, Phi trường Dân sự Quảng Ngãi không sử dụng nữa vì thường bị Việt Cộng pháo kích nên được dời vào Căn cứ Quân sự Chu Lai cho an toàn. Đứa em gái kế tôi muốn tiễn đưa tôi tận phi trường nên cùng tôi xuống trạm Hàng Không để đi xe buýt ra Chu Lai .

                            Vì lý do an ninh và số ghế giới hạn nên em tôi không được đi theo, chúng tôi nhìn nhau buồn vời vợi. Tôi đã nhìn em tôi thật lâu trước khi xe chuyển bánh. Tôi nhớ mãi giây phút này, tôi nhớ mãi những ngày Tết mà hình ảnh thân yêu êm đẹp vẫn còn ghi khắc vào tâm tư tôi. Tôi nhớ và tôi nhớ!!!

                            Xe lăn bánh xa dần thị xã Quảng Ngãi, qua cầu Trà Khúc giòng nước lặng lỡ trôi cùng năm tháng. Sừng sững bên phải là núi Thiên Ấn biểu tượng một uy quyền Trời ban cho xứ Quảng đang ngắm nhìn biển Đông.

                            Đến Châu Ổ, qua những thị trấn cực Bắc của tỉnh nhà, xe vào căn cứ Chu Lai. Tất cả hành khách phải trình giấy tờ tại trạm Kiểm Soát. Dân sự đứng một bên trình cho Cảnh Sát, quân nhân đứng một bên trình cho Quân Cảnh. Ở Mỹ Murphy’s Law nói rằng: Chuyện gì có thể xảy ra thì nó sẽ xảy ra” và cũng đúng với câu: "chạy trời không khỏi nắng" của người Việt nam. Anh Trung sĩ Quân Cảnh đến lược xem giấy tờ của tôi, tôi hồi họp theo dõi. Sau khi xem xong, anh "lịch sự" ra lệnh cho tôi đứng riêng và mang giấy tờ vào trình xếp lớn của anh. Sau đó, anh mời tôi vào gặp vị Đại Uý Quân Cảnh. Tôi chào kính xã giao, ông Đại Uý muốn biết lý do tại sao tôi lại đi ngược đường và trễ phép không như trong Sự Vụ Lệnh cấp.

                            Tôi thật tình “khai báo sự thật" rồi ông nhìn tôi hồi lâu, mỉm cười cho tôi đi. Tôi chỉ biết cảm ơn rồi vui mừng vội vã ra sân bay bước lên phi cơ. Sự thông cảm của ông, có lẽ phát xuất từ tình chiến hữu, tình quê hương, và những ngày đầu năm có lẽ lòng người rộng rãi và dể tha thứ hơn.

                            Phi cơ từ từ chuyển bánh ra phi đạo cất cánh, bỏ lại sau lưng vùng trời miền Trung xứ Quảng thân yêu. Phi cơ bay vòng để lấy cao độ, từ trên nhìn xuống, tôi thấy dòng sông Trà Khúc vẫn lặng lỡ trôi, cầu Trà Khúc vẫn còn đó bên cạnh núi Thiên Ấn hùng vĩ từ từ nhỏ dần và che khuất trong những đám mây trắng. Lòng tôi cảm thấy một nỗi buồn khôn xiết vì không biết ngày nào tôi trở lại. Tôi suy nghĩ vẫn vơ rồi thiu ngủ lúc nào không hay đến khi giọng nói cô chiều đãi viên trên máy cho biết phi cơ sắp đáp xuống Tân Sơn Nhất. Máy bay đổi cao độ từ từ thấp dần rồi đáp xuống phi đạo.

                            Thủ đô Sài Gòn về đêm muôn màu thật đẹp, giòng sông Sài Gòn chảy ngang qua như cánh tay người tình trải dài ôm ấp người yêu. Sài Gòn thật an bình dù chiến tranh đang xảy ra khốc liệt đó đây. Không biết người dân thủ đô có hiểu được cái giá của sự an vui mà họ đang hưởng. Và dù không, thì người “trai thế hệ" cũng không màng đến. Đến Sài Gòn bình an, sau đó tôi đáp xe đò xuống Cần Thơ. Đến đơn vị mới, lòng hồi họp lo sợ bị "ký củ". Bị ký củ nhiều thì đường binh nghiệp xem chừng không khá lắm. Phòng Nhân Viên làm tất cả thủ tục đáo nhận đơn vị mới cho tôi mà không có điều gì thắc mắc. Thế là mọi chuyện được êm xuôi, không có chuyện gì xảy ra. Một lần nữa, tôi thở phào nhẹ nhõm, Trời Phật lại phù hộ cho tôi.

                            Nếu không có gian truân và kỷ niệm thì làm sao con người có thể gắn liền với quê hương… giờ thì quê hương tôi rộng lớn hơn. Tôi thực sự biết thêm về quê hương mình, quê hương miền Nam với những ruộng đồng bát ngát, những kênh lạch, giòng Tiền Giang và Hậu Giang mang màu mỡ tưới lên ruộng đồng bao la. Tôi đã đi bay trên các nơi thuộc Vùng IV Chiến Thuật như Sóc Trăng, Long Xuyên, Rạch Giá, Hà Tiên, Châu Đốc, Cà Mau, v.v.. mỗi "quê hương" có những nét đặc thù riêng và tất cả đều đẹp cả. Người miền Nam hiền hòa, dễ dãi. Những chiều buồn trên bến Ninh Kiều tôi lang thang tìm ý nghĩa cuộc đời.

                            Quả thật, thế hệ chúng tôi đang bảo vệ quê hương nhưng rồi cuộc chiến bỗng dưng chấm đứt trong tủi nhục, lệnh đầu hàng do vị Tổng Thống cuối cùng – Dương Văn Minh – tuyên đọc, ngày 30 tháng 4 năm 1975. Lúc đó tôi đang là Sĩ Quan trực của Phi Đoàn có nhiệm vụ phân công các phi vụ bay yểm trợ các đơn vị Bộ Binh bạn đang hành quân. Được tin Chuẩn Tướng Tần, Tư Lịnh Sư Đoàn IV KQ vừa rời bỏ đơn vị, trước tình cảnh này, chúng tôi quyết định vội vã ra đi mà trong lòng thầm oán trách các cấp chỉ huy và lãnh đạo.
                            Từ trực thăng nhìn xuống, tôi nhìn lại quê hương tôi lần chót, giòng Cửu Long như những con rồng uốn khúc, xuyên qua cánh đồng ruộng bao la. Phố xá xưa, tiếng cười vui rộn rã và tất cả thực sự mất rồi.

                            Tôi may mắn được sống trên đất nước tự do, còn lại đồng bào tôi, bạn đồng đội tôi, những người thân yêu tôi còn ở lại phải sống dưới cai trị độc tài của tập đoàn Cộng Sản vô thần. Tôi hoang mang đến tận cùng. Quê hương yêu dấu ơi! Đã hơn ba mươi lăm mùa Xuân lạnh lùng trôi qua, tôi vẫn nhớ đến quê hương tôi, nơi tôi đã được sinh ra, lớn khôn bằng sữa Mẹ và "đã phục vụ". Tôi ấp ủ những kỹ niệm vui buồn hòa lẫn đắng cay và mơ ước một mùa Xuân thanh bình thực sự cho quê hương mình

                            Tết lại về, Tết về trong giá lạnh, tuyết trắng nơi đây mà cứ ngỡ như màu tang trắng phủ kín quê hương mình, tôi nhớ mãi cái Tết năm xưa. Má ơi! Con đâu ngờ đó là cái Tết cuối cùng của con với Má và cũng là lần Má vĩnh biệt con. Má yêu!


                            Hiệp An Nguyễn Thanh Bình
                            Xuân 2010
                            Last edited by hung45qs; 10-25-2010, 09:22 PM.
                            Hung45HTQS

                            Comment


                            • #29
                              Lịch sử Việt Nam



                              Nhớ lại lúc Lạc Long Quân dựng nước
                              Cùng Âu Cơ thành lập họ Hồng Bàng
                              Mười tám đời kế tiếp ở Văn Lang
                              Danh Phù Đổng Thiên Vương truyền hậu thế
                              Nước Âu Lạc theo lao thành đổ bể
                              Gươm Lữ Gia còn vấy máu Ai Vương
                              Trải ngàn năm Bắc thuộc chịu đau thương
                              Dân tộc Việt đã nhiều phen quật khởi
                              Mấy đời sau thêm nữ tướng Nhụy Kiều
                              Từ Cửu Chân vùng dậy cỡi voi theo
                              Lý Nam Đế trao quyền cho họ Triệu
                              Đầm Dạ Trạch, lừng danh nơi hiểm yếu
                              Mai Thúc Loan rồi kế đến Phùng Hưng
                              Đất Giao Châu, Dương Viên Nghệ vang lừng
                              Phá Bắc Tống lai có Hầu Nhân Bảo
                              Lý Thường Kiệt tiến quân như vũ bảo
                              Hạ Khâm, Liêm rồi vây hãm Ung châu
                              Hội nghị Diên Hồng tính kế cùng nhau,
                              Phá Mông Cổ, anh hùng Trần Quốc Tuấn
                              Hưng Đạo Vương với trận Bạch Đằng Giang
                              Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp phải tan hàng
                              Mấy đời sau, Bắc Binh Vương Nguyễn Huệ
                              Xuân Kỷ Dậu, với tri tài thông tuệ
                              Thăng Long Thành, Tôn Sĩ Nghị phải chui
                              Ống đồng là phương tiện để rút lui
                              Nước Nam ta có quá nhiều Hào kiệt
                              Trần Bình Trọng với một câu oanh liệt
                              Ta thà làm Quỷ của nước Việt Nam
                              Còn hơn làm Vua của người phương Bắc
                              Phạm Ngũ Lão bị đâm không thắc mắc
                              Chuyện nước nhà đã đầy trong trí não
                              Nguyễn Trung Trực tấn conga bằng lửa bão
                              Đốt tàu Pháp trên giòng sông Nhựt Tảo
                              Chứng minh rằng trong nước Việt Nam ta
                              Biết bao người cùng bảo vệ Sơn Hà
                              Quyết giử gìn mảnh đất của ông cha
                              Xá gì những đảo nhỏ thuộc Trường Sa
                              Sẽ không mất được, hỡi dân nước Việt


                              AC DINH NGUYEN 73F
                              Last edited by hung45qs; 10-26-2010, 08:59 PM.
                              Hung45HTQS

                              Comment


                              • #30
                                LỜI CUNG CHÚC MUỘN MÀNG



                                Em thương yêu,
                                Lẽ ra những lời chúc cầu này phải đến với em vào lúc không giờ, khi bắt đầu một ngày mới của năm , cũng như lúc khởi đầu cho một ngày tình yêu của chúng ta – Ngày Valentine đầu tiên của chúng mình sau những tháng năm đằng đẳng khổ đau trong anh. Vậy mà đến tận bây giờ, khi sắp hết một ngày mới, khi ánh sáng của bình mình sắp lụi tàn anh mới có chút thời gian rảnh rỗi để viết cho em

                                Em thương yêu,
                                Anh đang tưởng tượng ra khuôn mặt lạnh lùng, bất cần đời và giận dỗi của em khi cả ngày không có một lời nhắn nhủ, một cuộc điện thoại nào của anh, cái nết giận dỗi của em thật đáng sợ, cho đến tận bây giờ, cái phụng phịu dỗi hờn thời tuổi trẻ của em vẫn còn nguyên như ngày cũ; nhưng dù sao anh cũng còn được an ủi là tình yêu trong em dành cho anh còn cao hơn nhiều so với cái dỗi hờn của em

                                Em thương yêu,
                                Chắc chắn em lại trách móc, lại suy diễn và lại khóc nhè vì những suy nghĩ chỉ của riêng em, anh đã nói trăm vạn lần với em, thậm chí còn phải mượn lời của nhạc sĩ Từ Công Phụng , và tiếng hát của đàn anh không quân, đại tá Vũ văn Ước “Nếu có điều gì vĩnh cửu được, thì em ơi đó là tình yêu chúng ta, dù mai sau hương sắc có phai nhòa, anh vẫn yêu như ngày đôi ta mới biết. . .. . để “thay lời muốn nói “ với em mà em cứ mãi không tin, cứ mãi lo buồn vì những chuyện không đâu. Hình như điều đó là bản chất của phụ nữ, phải không em.

                                Em thương yêu,
                                Anh không hề muốn nhắc lại chuyện xưa cũ, vì em đã nói với anh ngày hôm qua, khi hai chúng mình thắp hương trước bàn thờ của ba, anh đã thưa với ba dù chúng mình gặp lại nhau trong muộn màng tiếc xót, nhưng chúng con nguyện yêu thương nhau cho đến ngày con nhắm mắt, và em cũng đã nói với anh trong nước mắt muộn màng là đừng nhắc lại thời đã qua, những lỗi lầm tuổi trẻ, nhưng đúng là cũng phải mượn lời nhạc của Từ Công Phụng để trách cứ em thêm một lần cuối, chỉ tại em ngày xưa : “Sao khi không người ngoảnh mặt kiêu sa ?!” Giá như ngày xưa em đừng như thế thì ngày nay đâu phải sót sa . . .

                                Em thương yêu,
                                Nói thì thế thôi nhưng anh nghĩ là em hiểu anh, vì ngoài công việc anh không còn nhớ tưởng đến ai ngoài em ra, em nói với anh trái tim đàn ông có tới bốn ngăn : tình yêu, công việc, bạn bè và giải trí , vậy thì em ráng thông cảm nghe em. . . Anh cũng biết trái tim phụ nữ chỉ có một ngăn, anh cũng biết em lúc nào cũng chỉ nghĩ đến mình anh . . Đó chính là động lực thúc đẩy anh sống và làm việc- thế nên, yêu là thứ tha và thông cảm, yêu là không vênh vang, không tự đắc nhưng cũng đừng tự ái thái quá nghen em

                                Em thương yêu,
                                Anh lại lan man giống em rồi đó, tha lỗi cho những lời chúc muộn màng của anh, và tha lỗi cho anh nghe em




                                HAPPY VALENTINE, MY DEAREST !

                                (Viết thay cho nỗi lòng của một người bạn)
                                AC Tan
                                Last edited by hung45qs; 10-26-2010, 09:26 PM.
                                Hung45HTQS

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X