Cái Chết Trên Ruộng Lúa - Ba mươi năm chiến tranh Đông Dương
Peter Scholl-Latour / Phan Batrích dịch
Peter Scholl-Latour sinh năm 1924 ở Bochum, Đức. Năm 1945/46 ông phục vụ trong Commando Parachutiste Ponchardier, một đơn vị Nhảy Dù của Pháp đã tham chiến ở Đông Dương. Sau đó, ông học đại học và kết thúc với bằng tiến sĩ tại các trường Đại học Mainz ở Đức, Đại học Sorbonne ở Paris và Université Saint-Joseph tại Beirut. Ông là người thành lập (năm 1963) và là giám đốc chi nhánh ở Paris của đài truyền hình nhà nước Đức ARD (cho tới 1969), sau đó là sếp thông tín viên của đài truyền hình nhà nước Đức ZDF (cho tới 1983). Từ Paris, Scholl-Latour thường xuyên sang Việt Nam dưới tư cách là thông tín viên đặc biệt, từng bị Việt Cộng bắt tạm giam một tuần năm 1973. Ông sang Việt Nam thêm một lần nữa vào năm 1976, sang Campuchia năm 1980, Trung Quốc và Afghanistan năm 1981. Bắt đầu từ năm 1983, ông chuyển sang hoạt động trong giới truyền thông tin, là tổng biên tập và nhà xuất bản tuần báo stern, và từ 1988 là tác giả tự do. Ông qua đời vào ngày 16 tháng Tám năm 2014.
Ghi chú mở đầu
Quyển sách này được viết lại từ hồi tưởng và thể hiện một trải nghiệm cá nhân. Trong ba mươi năm Đông Dương, tôi đã rút ra kinh nghiệm rằng tường thuật chủ quan thường là phương pháp chân thật nhất để tiếp cận tới hiện thực hay – khi người ta không e ngại từ ngữ to lớn đấy – với sự thật.
____________________________
1. Nỗi buồn trên Sài Gòn
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 1976
Mưa rơi không ngưng từ sáng sớm. Tầm nhìn xuống sông Sài Gòn bị che phủ bởi một màn ẩm ướt hôi mốc. Chỉ có vài chiếc tàu chở hàng có tải trọng thấp và không được bảo trì tốt là đang đậu lại ở bến tàu, ở nơi mà chiếc tàu bệnh viện “Helgoland” đã kín đáo giương cao lá cờ Đức trong chiến tranh và tuyên bố tình đoàn kết với người Mỹ, một tình đoàn kết mà ngày càng trở nên dè dặt hơn trong diễn tiến của sự thay đổi ý kiến chung. Những ánh đèn ít ỏi đầu tiên được bật lên và phản chiếu trên nhựa đường ướt nước của Rue Catinat. Con đường mua sắm sang trọng của Sài Gòn có tên là như thế dưới thời của người Pháp, trước khi nó trở thành khu quán rượu và nhà chứa của người Mỹ dưới tên “đường Tự Do”. Bây giờ, nó được những người chiến thắng đỏ từ miền Bắc đổi tên thành “Đồng Khởi”, “lần nổi dậy của nhân dân”, và người miền Nam tự hỏi rằng không biết đó là lần nổi dậy nào của nhân dân.
Đường Tự Do năm 1961
Là khách Phương Tây, chúng tôi được nhà cầm quyền mới của cộng sản đưa vào khách sạn “Majestic”. Trú ngụ trong “Continental”, khách sạn đã phục vụ như trại đóng quân của các thông tín viên từ khắp nơi trên thế giới trong những năm dài của Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và thứ hai, bây giờ là cán bộ và quan chức cấp cao của Đảng từ Hà Nội. Hàng hiên của “Continental”, thời trước là nơi gặp gỡ, chợ tin tức và chợ tình yêu của giới nhà báo ồn ào, mới đây đã được che chắn trước giới công cộng bởi một lưới sắt mà ở sau đó, giới quan chức của chính quyền mới hưởng thụ những đặc quyền nhỏ bé của họ. Từ cửa sổ khách sạn của tôi trong “Majestic”, tầm nhìn lướt qua những cánh đầm lầy rừng đước bất tận mà con sông Sài Gòn lượn lờ qua đó như một con rắn vàng béo mập. Một chiếc tàu vận tải đầy lính của Quân đội Nhân dân Việt Nam rời bến và đi về hướng Vũng Tàu. Phải mất một lúc lâu, cho tới khi những bộ quân phục màu xanh và những chiếc nón cối, cái mà các nhà cách mạng Việt Nam đã giữ lại như một di vật lỗi thời của thời thuộc địa, mới biến mất sau khúc quanh kế tiếp của dòng sông. Vào buổi chiều tối của ngày hôm đó, tôi còn chưa biết rằng mục tiêu của lần tăng cường lực lượng này là biên giới bị tranh cãi với Campuchia.
Màn đêm buông xuống với sự vội vã của miền nhiệt đới. Ở phía thượng lưu, bầu trời đã tách ra thành ánh hồng ban chiều cuối cùng. Giống như lửa đang bốc cháy, như trong những ngày cách đây không xa, khi quân đội của miền Bắc bao vây những người bảo vệ Sài Gòn cuối cùng ở Xuân Lộc, những người lính nhảy dù Công giáo dũng cảm, và chuẩn bị tiến hành nhát dao đâm kết liễu vào thủ đô của miền Nam. Đài tưởng niệm bằng bê tông của vị tướng lĩnh và người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo nổi bật trên bầu trời màu tím. Những người cộng sản đã không giật sập bức tượng khổng lồ thống trị cả cảng Sài Gòn này. Cả họ cũng tôn sùng hình ảnh đã trở thành huyền thoại của Trần Hưng Đạo, người đã tiêu diệt đạo quân Trung Quốc của hoàng đế Mông Cổ Hốt Tất Liệt trên sông Bạch Đằng ở Bắc Kỳ, biểu tượng của sự tự khẳng định của Việt Nam trước Trung Quốc. Thống chế Đạo trong giờ phút này là một vị anh hùng dân tộc rất hiện thời, khi mà ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, người ta bắt đẩu bí mật nói về cuộc xung đột không thể tránh khỏi với Bắc Kinh. “Khi mối nguy hiểm từ phía Nam được đẩy lui thì mối nguy hiểm gấp đôi đe dọa ở phương Bắc”, người nữ thông dịch viên của chúng tôi từ Hà Nội trích dẫn một tục ngữ Việt Nam cổ xưa và rồi thêm vào đấy: “Người Trung Quốc xấu bụng”, điều chắc phải có một ý nghĩa hết sức đáng sợ.
Cùng với đồng nghiệp của đội quay phim, chúng tôi đi dạo qua “đường Đồng Khởi”. Những chiếc xe gắn máy và Honda, những cái mà dưới thời chính quyền thân Mỹ trước đây đã thuộc vào trong số những đặc điểm của một xã hội tiêu thụ giả tạo, vẫn còn chưa biến mất khỏi giao thông. Có trời mới biết được sở hữu chủ của chúng kiếm ở đâu ra được xăng. Nhưng toàn bộ các quán rượu và hang động tội lỗi thì đều đã bị đóng cửa. Những người buôn bán đành cam chịu chuẩn bị cho lần quốc hữu hóa của cả tiểu thương. Xích lô vẫn đậu dọc theo vỉa hè như ngày xưa, thế nhưng họ đang hoài công chờ đợi khách. Trên đường phố, chúng tôi lại có thể tự do bàn về chương trình của ngày sắp đến và về những ấn tượng của chúng tôi. Trong phòng khách sạn, chúng tôi buộc phải dự đoán có máy nghe lén. Từ khi chúng tôi đến Sài Gòn, nỗi lo ngại bị theo dõi đè lên chúng tôi như một gánh nặng hiện hữu. Chúng tôi biết rằng mỗi một bước đi, mỗi một cử chỉ, mỗi một lời nói đều bị giám sát và có lẽ là tại các cơ quan an ninh, người ta chỉ chờ một lỗi lầm để can thiệp chống lại chúng tôi mà trong đó việc thu hồi giấy phép quay phim chỉ là cái tai hại nhỏ nhất. Qua ba mươi năm, người ta có được một bản năng cho những tình huống khủng hoảng thuộc loại này, và các nhân viên chính thức đi cùng với chúng tôi từ Hà Nội, những người mà chúng tôi đã kết thân trong thời gian vừa qua, về phía họ cũng đã đông cứng lại trong nghi ngờ và phản kháng.
Người ta hầu như chỉ còn nhìn thấy những gương mặt sợ hãi, cay đắng, nghiêm trọng trên đường phố Sài Gòn. Cái tên mới, Thành phố Hồ Chí Minh, không muốn thoát ra khỏi môi của chúng tôi, và ngay cả các quan chức đỏ dường như cũng e ngại không muốn liên kết cái tên của tấm gương cách mạng vĩ đại của họ với một thành phố mà người dân của nó đang tiếc nuối những tiện nghi và những thói xấu của quá khứ một cách rõ rệt đến như thế. Chợ đen vẫn còn sống động trong mùa hè năm 1976. Chợ trộm cắp đó vẫn còn tiếp tục chào mời – khiến những chiến binh nông dân đạm bạc từ phương bắc phải ngạc nhiên – hàng hóa phế thải từ PX, những thứ giống như hàng hóa từ một thế giới trong mơ đối với các người lính dưới ngôi sao đỏ đó. Ông thợ may ở chợ hoa mời chúng tôi đặt một bộ quần áo đầy đủ với giá rẻ đến buồn cười – trả bằng tiền US dollar xanh. Mỗi một người mua bán ở đây đều biết rằng họ đang hưởng một thời hạn khoan hồng. Mỗi buổi sáng họ đều phải dự tính đến việc bị nhanh chóng đưa lên xe tải với vật gia dụng và sở hữu tối thiểu, để tham gia xây dựng tương lai xã hội chủ nghĩa ở những miền đất hoang vu và rừng rậm của “vùng kinh tế mới”.
Lực lượng Thanh Niên Xung Phong đi xây dựng vùng kinh tế mới
Trong những ngày đó, tôi không cố gặp lại những người quen cũ. Tôi chỉ làm hại và gây nguy hiểm cho họ mà thôi. Mặc dù vậy, khi tôi tình cờ gặp Cuc, viên trợ tá camera ngày xưa của chúng tôi, một người lai Campuchia, người nổi tiếng vì tính tình cứng cỏi của mình, ông ấy đã ôm chầm lấy tôi giữa nơi công cộng và thì thầm nói: “Giá như tôi bỏ chạy đi vào lúc đó, khi vẫn còn có thể.” Bây giờ, ông ấy được cho rằng đang lái những chiếc xe limousine Mỹ khổng lồ đó, những chiếc xe – sơn màu đỏ chói – mà vào thời tốt đẹp hơn đã được sử dụng cho lễ cưới. Những con quái vật sặc sỡ ấy bây giờ đứng xa lạ trong màn hơi nước của mùa mưa như những con khủng long từ một kỷ nguyên khác.
Bả chủ cửa tiệm cắt tóc cuối cùng vẫy tay chào tôi từ sau tấm kính bầy hàng mờ hơi nước của bà. Bà ấy biểu hiện lòng can đảm và tính cách con người theo lối của bà, bằng cách vẫn trang điểm cho mình và vẫn tiếp tục mặc quần áo thanh lịch, trong khi phái nữ còn lại của Thành phố Hồ Chí Minh dù muốn hay không vẫn phải cúi mình trước sự nghiêm khắc của những người bí thư mới. Chiếc áo dài cổ truyền, chiếc áo váy có nhiều màu như bươm bướm của người phụ nữ Việt Nam, vừa kín đáo và đồng thời lại vừa quyến rũ, đã biến mất khỏi quang cảnh đường phố. Giày cao gót bây giờ bị chê bai, và một chiếc váy ngắn màu đỏ, cái mà người ta bất chợt nhìn thấy lúc chạy ngang qua, trông giống như một sự khiêu khích phản cách mạng. Nhưng trong tiệm cắt tóc trên đường Catinat, bà chủ vẫn còn để cho các cô gái của mình mặc áo choàng ngắn màu trắng gọn gàng như thời trước, và ở đó cũng vẫn còn nói huyên thuyên và cười khúc khích dường như cũng vô tư như thế. Trong khi đó thì ai cũng biết rằng cho đến khi đóng cửa thì chỉ còn nhiều lắm là vài tuần nữa thôi, và bà chủ – bất thình lình trở trên nghiêm trang – nói về họ hàng ở Paris và về những cố gắng di cư sang Pháp của gia đình. “Ông không biết những kẻ hay lên mặt đạo đức đó tham nhũng đến mức nào đâu, những người được cho là nghiêm khắc về đạo đức từ miền Bắc đó. Phải có vàng mới có được giấy phép xuất ngoại”. Có lẽ là mỗi buổi sáng, ngay khi giờ giới nghiêm chấm dứt vào rạng đông, có một người trong gia đình của tiệm cắt tóc đứng trong cái hàng vô tận đó trước cổng của Tổng lãnh sự Pháp và hy vọng được cấp một thị thực tập thể. Phải có cả sự bất chấp lẫn sự tuyệt vọng ở trong đó, vì mỗi một người nộp đơn đều bị các cơ quan an ninh và chỉ điểm ghi nhận.
Ngày hôm trước, tôi phát hiện một người bất thường trong tiệm cắt tóc, người đã gây nhiều ấn tượng cho tôi, mặc dù trong những tình huống khác có lẽ tôi đã đi ngang qua người đó nhiều lắm là với một cái nhún vai. Đó là một người Việt vào khoảng hai mươi lăm tuổi, người mà vào thời Tướng Thiệu người ta gọi là “cao bồi” với giọng nói pha ít tính bài Mỹ. Anh ta mặc chiếc quần jean chật nhất Sài Gòn, giày ủng Texas, một cái áo sặc sỡ, mở tung ra cho đến tận lưng quần và để hở trên ngực nhiều sợi dây chuyền và trang sức bằng vàng. Mái tóc của anh ta gây sự chú ý trước hết. Những lọn tóc đen dài xuống cho tới vai, và bây giờ anh ta – ngồi uể oải trên một chiếc ghế cắt tóc – đang để cho làm móng tay. Anh chàng cao bồi cuối cùng này, người chưng diện giống như một biếm họa cho một tên ma cô người Việt, có biến mất trong một trại cải tạo ngay vào ngày hôm sau hay không? Anh ta có bị an ninh đỏ sử dụng như là “điệp viên khiêu khích” hay không? Hay anh ta chỉ biểu thị lòng dũng cảm trước sự kết thúc theo cách của mình? Tôi nhớ đến một tù nhân người Pháp của trại tập trung [Đức Quốc Xã] trước đây, người có lần đã nói với tôi: “Trong trại có hai nhóm tù nhân mà không ai có thể có can đảm nhiều hơn, một hạng quý tộc nhất định và giới ma cô.”
Các nhân viên chính thức của sở Thông tin tháp tùng với chúng tôi đã cảnh báo. Sau khi trời tối, chúng tôi phải đề phòng móc túi, vâng với cả cướp nữa. Một nhà ngoại giao Đông Đức đã bị cướp sạch ngay giữa ban ngày. Vì thế mà chúng tôi đi giữa đường. Giao thông ô tô ít ỏi đã ngưng lại từ lâu rồi. Đứng ở tất cả các ngã tư là quân nhân hay cảnh sát với súng liên thanh kiểu AK47. Ban đầu, chúng tôi muốn ăn tối trên một chiếc thuyền trên sông, trong nhà hàng “My Cat” [Mỹ Cảnh], nhà hàng mà trong chiến tranh đã bị người nhái Việt Cộng cho nổ tung một lần. Lúc đó đã có nhiều người chết và bị thương trong số thực khách người Mỹ và các cô gái Việt của họ. Nhưng “My Cat”, trước đây chủ yếu là do người Hoa điều hành, đã bị quốc hữu hóa ngay từ ngày đó. Vì vậy mà chúng tôi tìm đến quán ăn tư nhân cuối cùng, quán ăn Pháp cuối cùng của Thành phố Hồ Chí Minh. Nó có tên là “Valenco”, và chủ nhân của nó, một người Corse độ năm mươi tuổi có tên là Dominique, là một khái niệm cho mỗi một phóng viên chiến trường. Liệu ông có phải là một người còn sót lại của nhóm mafia người Corse đó hay không, nhóm mafia mà vào thời người Pháp dường như đã thống trị nhiều ngành nghề ở Sài Gòn, điều này thì không ai có thể chứng minh được. Thật ra thì những người Corse làm giàu qua mua bán tiền đồng đó chỉ là những con cá nhỏ ở bên cạnh dân đầu cơ và trùm tài chính giật dây từ trong thành phố song sinh với Sài Gòn, trong Chợ Lớn.
Sài Gòn 1985 - Ngã Tư Nguyễn Huệ - Ngô Đức Kế
Hình: Philip Jones Griffiths
Tôi bước vào quán của Dominique và có cảm giác như đã quay trở lại ba mươi năm về trước. Nhiều nhóm người Pháp trẻ tuổi với kiểu tóc ngắn của quân đội ngồi ở cạnh bàn, cháy nắng như những người lính trở về từ đồng ruộng. Đó là nhân viên của một công ty lớn của Pháp, tìm dầu trong vùng sông Cửu Long và bờ biển Nam Kỳ theo yêu cầu của bộ từ Hà Nội. Những người Pháp trẻ tuổi đó tìm một ít quê hương ở Dominique. Họ ồn ào và vô tư lự.
Dominique, người có nét giống diễn viên điện ảnh Michel Piccolo, đứng buồn rầu sau quầy rượu. Gương mặt của ông ấy tươi tắn lên khi nhận ra tôi. Lần đến thăm của một kẻ ngoài cuộc từ Phương Tây và của một Ancien d’Indochine [người xưa của Đông Dương] là một an ủi nhất định cho ông. Nhân viên nhà nước đã ở chỗ ông sáng nay, và bây giờ thì ông phải trả một khoản tiền thuế khổng lồ còn thiếu, trước khi người ta cho phép ông trở về nhà ở Pháp. Vì Dominique muốn ra đi, có tốn kém bao nhiêu cũng được. Ông đã tính toán sai lầm. Ông đã nghĩ rằng có lẽ sẽ còn chỗ cho quán của ông trong nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới. Ông đã mất ảo tưởng này từ lâu rồi. Ông dông dài về những nhận xét chính trị cay đắng và áp đặt kinh nghiệm Đông Dương của mình lên nước mẹ Pháp: “… và tôi là một thằng ngu”, Dominique nói, “đã bầu cho Mitterrand và phe cánh tả trong lần bầu cử tổng thống vừa rồi. Nhưng cứ tin tôi đi, khi tôi về đến nhà trên Corse, tôi sẽ lãnh đạo một chiến dịch chống lại cái bệnh dịch tả đỏ này…”. Giữa những chai rượu Cognac và rượu khai vị, những cái ngày càng ít đi, có một bức tượng Napoleon, và bên cạnh tấm gương của quầy rượu có treo câu nói: “Suis Corse, en suis fier – tôi là người Corse và tôi tự hào về điều đó.”
Chúng tôi nói chuyện về bạn bè và người quen cũ từ hai cuộc chiến tranh Đông Dương. Người này thì đã thăng tiến trên đường công danh. Người khác đã suy đồi trong những cái máy xay phi thuộc địa hóa và đã chìm xuống. Đó là một câu chuyện hoài cổ, và bên cạnh những người đi tìm dầu đầy sức sống này, tôi cảm thấy mình từng trải và kiệt quệ đến vô tận.
Violette ngồi phía sau quầy tính tiền, một phụ nữ Âu-Á xinh xắn. Tôi có một lời nhắn cho cô ấy từ Hà Nội. Một nhân viên của đại sứ quán Pháp ở đó đã gửi cho cô tờ chứng nhận đặc ân, để cô có thể xuất ngoại sang Pháp. Chắc là sẽ không đủ đâu, Violette nói, người trong tất cả những bất hạnh vẫn không quên làm dáng. Cô ngồi xuống bàn của chúng tôi. Cô thiếu tiền để xuất ngoại chính thức. Tàu thuyền đã trở nên hiếm và khó tiếp cận, từ khi ngay đến ngư dân cũng hầu như không còn nhận được chất đốt cho thuyền của họ nữa. Mới đây, người ta nói về những khả năng chạy trốn qua cao nguyên Trung Kỳ và Lào. Ở đó có một phần của những bộ lạc “mọi” hay “montagnard” ở trên núi đang nổi dậy. Nhưng điều đó cực nhọc vô cùng, và phần đông đã chết trên đường đi. Chắc một ngày nào đó cô sẽ bị gửi đến một trong những khu lập cư hoang vắng mới đó ở đồng bằng, nếu như không bị đưa vào trong một trại cải tạo. Dominique, cô sống chung với ông ấy, sẽ không còn có thể che chở cho cô lâu thêm được nữa.
Còn có một cô gái khác trong “Valenco”. Cô ấy lả lơi với những chàng trai Pháp trẻ tuổi. Người ta cảm nhận được rằng cô quen với người này hay người khác rất riêng tư. Vân, “đám mây”, cô tự gọi mình như vậy, và thắt một cái băng đô quanh đầu, mang lại cho cô vẻ ngoài táo bạo của một tên cướp biển. Cô có một khuôn mặt đẹp, rất Á châu, rộng và xương xẩu và đi lại với sự chắc chắn bản năng, cái chỉ có thể có từ một thân hình toàn hảo. “Tôi đi lại giống như một tên lưu manh, giống như một thằng bé bụi đời”, cô vừa cười vừa nói khi đến bàn của chúng tôi. “Trước kia, tôi mặc những chiếc áo váy đẹp nhất Sài Gòn, khi cha tôi còn là cảnh sát trưởng của Cần Thơ. Bây giờ thì cha tôi đã bị bắt hay đã chết, và tôi phải sống qua ngày … bằng mọi cách.” Người ta không cần nhiều nhạy bén để đoán tại sao chính người con gái của một sĩ quan cảnh sát cao cấp thuộc chính quyền trước đây lại được phép xuất hiện như gái quán bar trong quán rượu Phương Tây cuối cùng. Chắc hẳn mỗi buổi sáng Vân phải báo cáo lại trước một trong những người chính ủy an ninh gắt gỏng và khắt khe đó, về những gì mà các người Pháp này đã kể lại ở cạnh bàn và trên chiếc gối đầu giường. Bây giờ thì cô có thể báo cáo lại, rằng các chuyên gia dầu mỏ này – cũng như nhiều người Pháp trong lứa tuổi và giai cấp của họ – đã đến nước Việt Nam tái thống nhất như là đảng viên của Liên minh Cánh Tả Pháp, là đảng viên Đảng Xã hội hay còn là đảng viên Đảng Cộng sản nữa, và rằng chỉ trong vòng vài tuần ở trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, họ đã biến thành những người chống cộng sản kịch kiệt. Họ cũng kể cho chúng tôi nghe về những trại tù đầy ắp mà họ đã nhìn thấy ở đồng bằng sông Cửu Long, về sự đàn áp người dân, về sự chuyên quyền và tham nhũng của giới cán bộ đỏ của Đảng. Tự họ cũng đã trải qua sự kém cỏi và chậm chạp của các cơ quan kinh tế nhà nước, và khẳng định rằng trong vùng của đạo Hòa Hảo vẫn còn có kháng cự vũ trang. Họ còn nghe được cả tiếng súng, tiếng đại bác khi đang tìm dấu vết của dầu mỏ ở lòng sông Cửu Long tại Vĩnh Long, nhưng không biết rằng cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba, lần chạm trán đẫm máu giữa Việt Nam và Campuchia, đã bắt đầu, và họ là những nhân chứng vô tình đầu tiên của nó.
Sài Gòn, Việt Nam 1985: Chờ mở cửa
Hình: Philip Jones Griffiths
Hình: Philip Jones Griffiths
Cửa mở ra, và cùng với một làn hơi ẩm, một người đàn ông già, ốm yếu, mặc quần áo xác xơ bước vào. Ông ấy mang một cái đàn guitar, chào Dominique, ngồi xuống ghế rồi bắt đầu hát tiếng Pháp với một giọng khàn khàn, than vãn. Bắt đầu với một bài ca mà trong những năm ba mươi cũng được ưa thích ở Đức: “Có một nhạc sĩ, chơi đàn trong quán cà phê … Có một nhạc sĩ …” Rồi đến một đoạn tiếng Pháp mà tôi nhớ lời: “Chào vĩnh biệt, thời gian của tình yêu, chào vĩnh biệt, thời gian của phiêu lưu …” Được người đàn ông già này hát, để mà xin một vài đồng bạc, nó trở thành một bài ca buồn vô tận. Tôi hẹn ông ấy ngày mai hãy quay trở lại, để chúng tôi có thể quay ông cho phim tài liệu của chúng tôi. Ông hứa, nhưng rồi không đến như đã hẹn. Chúng tôi không còn nhìn thấy ông nữa.
Ba người khách mới bước vào quán rượu, người Việt. Đó chỉ có thể là chỉ điểm hay cảnh sát mặc thường phục. Một người dân bình thường của Sài Gòn không bao giờ dám đến thăm tụ điểm của người nước ngoài từ Phương Tây này. Ánh mắt của những người Pháp trở nên thù địch. Dominique hồi hộp đánh rơi một cái ly. Gương mặt của cả hai người con gái đông cứng lại. Phản ứng bao giờ cũng giống nhau khi đại diện của bộ máy an ninh và trấn áp Bắc Việt Nam xuất hiện. Ngay khi có vụ việc xảy ra, bắt bớ hay chỉ là kiểm tra, người dân đeo một chiếc mặt nạ lên, mà dấu ở phía sau đó là sự sợ hãi, khinh thường và căm ghét. “Voilà les bộ đội”, Vân thì thào. Bộ đội, đó đã từng là một danh hiệu vinh quang, và giới báo chí đã làm cho nó quen thuộc cả với Phương Tây. Bộ đội, nhật báo Pháp cho một cách sai lầm là như thế, có nghĩa là “người lính chân trần” khi dịch nghĩa. Thật ra thì đó là những chiến binh di chuyển trên đồng bằng và trong rừng rậm, tức là du kích quân. Như đã nói, sự kính trọng và thanh thế bao phủ lấy khái niệm bộ đội vào lúc ban đầu. Nhưng kể từ khi miền Bắc chiến thắng, bộ đội đã trở thành từ để chửi thề và nguyền rủa của người Sài Gòn. Bộ đội, đó có nghĩa là những kẻ nông dân ngu xuẩn và những người đàn áp dã man. Bộ đội, đó là những kẻ man rợ đến từ miền Bắc lạc hậu, những người chất lên xe chở đi tất cả các hàng hóa tiêu dùng có thể nghĩ đến được, những người chiếm giữ tất cả các vị trí quan trọng. Đối với cô gái quán bar còn có thêm một điểm xấu nữa. Bộ đội là những người lính và cán bộ đã ở trong xã hội đàn ông khổ hạnh của họ qua những năm dài của chiến tranh, nên nhiều người trong số họ đã trở thành đồng tính luyến ái và đối phó với sức quyến rũ của những người đàn bà thích làm dáng của Sài Gòn bằng một sự bất lực kinh tởm.
Trên đường trở về “Majestic”, thật sự là có một vài phụ nữ mại dâm đứng ở đầu “Đường Cuộc nổi dậy của nhân dân”. Có cô tiến đến gần và chào chúng tôi với “Sdrawstwujte” bằng tiếng Nga. Hẳn họ cho chúng tôi là những người đại diện cho Liên bang Xô viết. Chúng tôi nhìn vào trong phòng ăn của khách sạn Majestic. Những người bồi bàn già ở đó, cũng như người dân còn lại của Sài Gòn, đối xử đặc biệt thân thiện với chúng tôi, tuy cũng mang tính buồn rầu, ngay khi họ nhận ra chúng tôi là người ngoại quốc Phương Tây. Pha trộn vào trong thiện cảm được biểu lộ công khai này hẳn cũng là niềm hy vọng nhỏ bé, rằng cánh cửa vẫn còn chưa đóng lại vĩnh viễn, rằng có lẽ một ngày nào đó sẽ có một khe cửa lại hé mở đến một cuộc sống tốt hơn, tự do hơn.
Chỉ còn một bàn trong nhà hàng là còn khách. Người Nga ngồi ở đó với những người Việt tháp tùng không thể thiếu được của họ. Đó phải là một nhóm nhân viên kỹ thuật Xô viết. Họ ăn mặc không lịch sự và có những khuôn mặt thô, đặc biệt nổi bật một cách bất lợi bên cạnh những nét mặt tinh tế của người châu Á. Cử động của họ nặng nề, nhưng giọng nói bao giờ cũng khẽ khàng. Họ hoàn toàn không phải là không gây thiện cảm, những người lao động từ Liên bang Xô viết này, nhưng nét mặt của họ giống như lúc nào cũng mang một nét buồn rầu. Người ta không nói đùa và cũng không cười. “Người ta làm sao mà có thể tin Lenin được, khi những người được ông ấy cứu vớt lại không vui và u sầu đến như thế”, một nhà ngoại giao Thụy Điển đã nói với tôi như vậy ở Hà Nội, thay đổi ý nghĩa lời nói của Nietzsche. Các thông dịch viên người Việt ở bàn những người Nga đối xử như những người học trò gương mẫu.
Có một ít của sự sợ hãi, của sự tức giận, đặc biệt là của nỗi buồn đang đè nặng lên Sài Gòn cũng lan sang người tôi, khi tôi nhìn ra màn đêm từ cửa sổ phòng. Ở phía dưới, tiếng chân của một đội tuần tra được trang bị vũ khí nặng của bộ đội vang lên. Tôi đã đứng ở độ cao này của khách sạn và nhìn sang bờ đối diện của sông Sài Gòn không biết là bao nhiêu lần rồi, nhìn sang vùng đầm lầy đó, được gọi là Rừng Sác. Qua hai cuộc chiến tranh, trong chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, Việt Minh và Việt Cộng đã bám chặt trong những khu rừng đước. Thỉnh thoảng, từ Rừng Sác họ đã hướng tên lửa của họ về trung tâm Sài Gòn. Thời đó, vùng đồng bằng đen tối này được chiếu sáng bằng pháo sáng giống như bằng pháo hoa đúng giờ. Nhưng trong đêm đó, tại mũi đất mà ngày xưa người ta đã gọi nó là La pointe des blagueurs – mũi của người thích đùa, chỉ còn có cây đèn dầu cháy chập chờn và ném một dãy sáng run run màu vàng xuống làn nước tối tăm của sông Sài Gòn. Trong mùa Đông 45/46, tôi đã bước xuống đất Đông Dương lần đầu tiên ở đó.
Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất - Người Pháp
2. Các anh đi ngược đường rồi
Trên tàu “Andus”, cuối năm 1945
Con tàu chở lính “Andus”, 26.000 GRT, là mượn từ Hải Qquân Hoàng gia. Thời đấy, trong quân đội Pháp có những thứ nào đó hoạt động dựa trên vay mượn. Quốc gia này đã không hồi phục được cả về tinh thần lẫn vật chất kể từ lần chiến bại năm 1940. Thủy thủ người Anh của tàu “Andus” nhìn hơi ngạc nhiên đến những thành viên của đạo quân thuộc địa mà họ đi cùng đến Viễn Đông, và đạo quân mà rõ ràng là ở đó cần phải bù đắp lại cho sự thất bại trong nước mẹ. Cuộc chiến tranh chống Nhật Bản, cuộc chiến mà de Gaulle còn muốn vội vã chen vào, đã chấm dứt mà không có đến một đơn vị duy nhất của Pháp tham gia. Trong tầm nhìn từ “Andus” có một chiếc tàu chở lính khác với tải trọng tương đương đi theo sau. Nó treo cờ Hà Lan bên cạnh Union Jack. Quân đội thuộc địa Hà Lan đang trên đường đi đến Batavia. Trong Biển Đỏ, tàu “Andus” đã gặp cả một đoàn tàu đi theo hướng ngược lại, trở về châu Âu với lá cờ chiến thắng bay phất phới trên cột tàu. Cựu chiến binh của chiến dịch Miến Điện đứng trên boong tàu, những người đang trở về các hòn đảo quê hương của họ, về với hòa bình và đời sống hàng ngày. Qua ống nhòm, người ta có thể nhận ra được những gương mặt đỏ au vì mặt trời nhiệt đới của họ, phản chiếu ở trên đó là nỗi vui mừng không kìm chế, đã thoát khỏi những nguy hiểm của rừng rậm và của một địch thủ không nhân nhượng. Người Anh hớn hở vẫy tay chào những người lính Pháp của tàu “Andus” cũng như những người Hà Lan. Qua một cái loa, người ta có thể nghe được tiếng của một người Anh nói với giọng chế giễu: “You are going the wrong way … Các anh đi ngược đường rồi!” – “Những người Anh đấy lại muốn gì nữa đây?” một thiếu tá văn phòng mập mạp người Pháp hỏi với sự không hài lòng rõ ràng trong giọng nói.
Lính Lê Dương ở Marseille đang chờ lên tàu Pasteur đi sang Đông Dương
Nó là một tình huống phi lý. Ở London, nơi Labour Party vừa mới lên cầm quyền, người ta đã nhanh chóng quyết định quay lưng lại với những giấc mơ đế quốc và trao trả độc lập cho tiểu lục địa Ấn Độ. Ở Miến Điện, sau những thất bại vào lúc ban đầu, quân đội Anh đã đánh trận đánh lớn cuối cùng. Bây giờ, họ có thể ưỡn ngực chiến thắng mà rút về, và Đô đốc Mountbatten sẽ mang tầm vóc và tư cách lại cho lần từ giã Delhi. Thế nhưng những người bại trận trong vòng đầu, những người chiến thắng ngẫu nhiên của giờ cuối, người Pháp và người Hà Lan, họ lại bám chặt lấy cái fata morgana của thời huy hoàng ở hải ngoại của họ, vào Đông Dương và Indonesia.
Các sĩ quan trẻ người Pháp phải chịu đựng sự thất vọng, đã đến quá muộn và bây giờ phải trực diện với một chiến dịch thứ hạng. Có người đã phục vụ dưới de Gaulle trong số “Người Pháp Tự do” – bị chính phủ Vichy tuyên bố là những kẻ phản bội tổ quốc – hay đã đứng dưới quyền tổng chỉ huy quân đội của người Mỹ ở Bắc Phi; thế nhưng phần lớn đã phải tận hưởng nỗi nhục nhã bị người Đức chiếm đóng. Bây giờ thì họ tìm cách rửa nỗi ô nhục của chiến bại và bị nô dịch đó trong nước sông Mekong và sông Hồng. Trong thâm tâm, họ lo sợ là phải trở về một Đông Dương đã được bình định, vẫn trung thành với nước Pháp. Họ thèm khát những cuộc phiêu lưu kỳ lạ, các emotions fortes – cảm giác mạnh. Chắc chẳng mấy ai trong số họ là đã đọc Jean-Paul Sartre, nhưng họ là những người của thuyết sinh tồn theo cách của họ trong bộ quân phục. Họ đi tìm những con đường của tự do, les Chemins de la Liberté của một Saint-Germain-des-Prés nhiệt đới-chinh chiến trong sự tưởng tượng của họ. “Cuối cùng cũng tìm thấy một mảnh đất không có nhựa đường…”, một người của họ viết như thế trong nhật ký.
Trên tàu “Andus” có hai đại đội lính Lê Dương. Hai phần ba họ là người Đức. Phần lớn trong số họ đã là tù binh chiến tranh ở Pháp, nơi họ thiếu cái ăn. Họ đã tình nguyện đến Đông Dương, vì trước sau gì thì họ cũng đã không còn hy vọng gặp lại người thân đã mất tích ở phía Đông của họ hay bởi vì đơn giản là họ muốn được ăn cho no. Vài người đã phục vụ trong lực lượng SS và muốn tránh các biện pháp xóa bỏ phát xít ở quê hương. Tối tối, những người lính Lê Dương Đức hát những bài ca quân đội cũ của họ, nói về Erika và Heide, về Lore và Förstenwald. Họ không hề nghĩ rằng các địch thủ của ngày hôm qua, đã chán ngấy điệp khúc của [bài hát nổi tiếng trong Đệ Nhất Thế Chiến] Madelon, sẽ tiếp nhận các phong cách tàn bạo của Germania [Đức] và lính mới người Pháp sẽ đi đều bước theo nhịp của [bài hát cho lính Đức] Blauen Dragoner hai mươi năm sau đó.
Các trường hợp thú vị nhất là những người lính Lê Dương Bỉ. Thật ra thì đó là những người Pháp, những người đã phải đưa ra một quốc tịch giả để có thể phục vụ trong nhóm lính người nước ngoài này. Đó không phải là đám du côn hay tội phạm hình sự thường, hay trốn vào trong quân đội Lê Dương trước năm 1939. Những người Bỉ giả mạo này là những cộng tác viên người Pháp, trong chiến tranh đã đứng về phía Đức trong “Quân đoàn chống Chủ nghĩa Bônsêvíc” và sau này đã phục vụ trong Lữ đoàn SS “Karl Đại đế”. Nếu như họ đã không mang tội hoạt động chống lại chính Résistance trong nước mẹ, de Gaulle đã cho họ cơ hội để phục hồi. Phục vụ năm năm trong đội ngũ lê dương ở Đông Dương, và họ có thể trong sạch trở về quê hương. Bên cạnh những người Đức mà trong số đó những kẻ thích khoe khoang và nói dối thường hay to mồm, nơi được cho là có rất nhiều thuyền trưởng tàu ngầm và người mang huân chương Chữ Thập Hiệp Sĩ [của Đức Quốc Xã], những “người Pháp Bỉ” trông có vẻ nghiêm nghị và trầm ngâm. Những phần còn sót lại của lữ đoàn “Karl Đại đế” đã có những trận đánh ở hậu quân chống lại người Nga đang tiến lên tại Pommern và đã bị tiêu diệt gần hết ở đó, trước khi những người còn sống sót được phép bảo vệ công sự của lãnh tụ [Hitler] trong Phủ Thủ Tướng.
Ngược với những người tình nguyện đi Viễn Đông, những người mà lúc còn trong trại tập kết để xuống tàu ở Marseille đã thất vọng chấp nhận lời tuyên bố đầu hàng của Nhật, những người Pháp đã từng chiến đấu ở mặt trận Phía Đông nhìn sự thay đổi đường lối chiến tranh này với một sự hài lòng được che dấu. “Mục tiêu thật sự của chúng ta không phải là Sài Gòn hay Hà Nội”, một người lính Lê Dương trẻ măng thì thào nói như thế, người dấu tên của một dòng họ Pháp nổi tiếng dưới sự nặc danh của một cái mũ kê pi màu trắng, “Đông Dương chỉ là trạm để đi qua. Mục tiêu thật sự của chiến dịch chúng ta trong tương lai gần sẽ có tên là Vladivostok và tỉnh Viễn Đông Xô viết.” Xung đột Đông-Tây, cuộc Chiến Tranh Lạnh đã bắt đầu. Việc đó còn được nói đến cả trên tàu “Andus”, trong khi họ đang rẽ sóng biển đang phát lân quang của Ấn Độ Dương hướng đến Eo biển Malacca.
Lính Lê Dương ở Bắc Việt, 1954
Ca bin có quá nhiều người và ngộp thở. Đêm đêm, những người lính đứng trên boong tàu cho tới chừng nào mà họ vẫn có thể, hít thở không khí, chơi bài belote và nhìn vào màn đêm ngày càng trở nên nóng ấm và ẩm ướt hơn. Ngay những thành viên của đội hỗ trợ nữ, cái được gọi là AFAT, cũng quay quần ở gần những chiếc thuyền cứu cấp vào thời gian này và chờ đợi sự bầu bạn lịch sự của một người sĩ quan. Rồi chỉ cần kéo những tấm bạt sang bên là đủ để tìm thấy một tổ ấm tình yêu giữa những băng ghế và mái chèo. Phần lớn các cô gái-quân nhân này đi lại hoàn toàn tự nhiên trong đám đông những người đàn ông đấy. Họ trét đầy son phấn và tinh nghịch đến mức người ta nhanh chóng phỏng đoán rằng họ có những lý do tốt để tránh nước mẹ, người này vì đã yêu một người lính Đức chiếm đóng, người khác vì đã hành nghề cổ xưa của họ trong một nhà chứa của quân đội Đức. Trên tàu “Andus”, kẻ ganh tỵ cũng nhiều như người thiếu tình dục.
Một Thiếu úy Kỵ Binh ngực lép, người với bộ râu mép vàng và làn da nhợt nhạt lẽ ra thích hợp với một quyển tiểu thuyết của Proust hơn, trích dẫn một bài thơ của Hérédia. “Như con chim ưng bay… Mệt mỏi chịu đựng sự thống khổ … Say sưa với giấc mơ chiến tranh và tàn bạo…”, các vần thơ hoa mỹ nhất của “Conquistador” mà học sinh trung học nào của Pháp đều cũng quen thuộc “… nghiên mình qua mũi của chiếc thuyền màu trắng, họ khám phá mỗi đêm một vì sao mới, từ nơi sâu thẳm của đại dương bay lên một bầu trời xa lạ.”
3. Phật trên lưng cọp
Nam Kỳ đầu 1946
Ngay khi đoàn xe vừa rời khỏi Sài Gòn và tới những đồn điền cao su của tỉnh láng giềng ở phía tây-bắc, những dấu vết của cuộc chiến tranh du kích đã có thể nhận thấy rõ. Đường trải nhựa bị đào nát bởi những con hào sâu, những con hào mà người nông dân thường xuyên phải đào chúng vào ban đêm dưới sự chỉ huy của các chính ủy đỏ. Những cái hố đó đều đặn cho tới mức chúng được người Pháp gọi là “phím dương cầm”. Bầu trời ban mai có màu xanh vàng ở hướng Đông. Chúng tôi đi xe về hướng Tây Ninh, và chẳng mấy chốc, ở bên kia của những lá dừa và những cánh đồng lúa vô tận, chúng tôi khám phá ra một ngọn núi đen, đe dọa nhô lên từ đồng bằng bằng phẳng. Ngọn núi đó có tên là “Bà Đen”, và báo hiệu biên giới của Campuchia. Thời đó đã có ai mà đoán trước được rằng đến một ngày nào đó, các lính Mỹ sẽ ngước lên nhìn ngọn “Black Virgin” này như ngước lên nhìn một nữ thần trả thù.
Special Forces của Mỹ chuẩn bị tấn công núi Bà Đen, 1964
Chúng tôi bỏ xe và con đường lại ở phía sau. Hàng bầy khỉ chạy vút qua trong rừng tre. Mặt trời lên đến đỉnh quá nhanh. Tiếng chim hót chết dần với độ nóng tăng lên. Màu xanh của cây cỏ trở thành đen. Không khí lung linh. Đối với đội Commando, đây là một cuộc hành quân thông thường. Những người lính đi như những hình bóng có thể nhận thấy rõ ràng trên các con đê chia cắt ruộng lúa trần trụi, cho tới khi người ta nhắm bắn họ từ ở đâu đó. Có rất ít nguy hiểm, các du kích quân Việt Nam thời đầu được trang bị vũ khí rất nghèo nàn và được đào tạo còn tồi tệ hơn nữa. Người Pháp chỉ có tổn thất khi thành viên của “Kempeitai”, hiến binh Nhật, những người bị truy lùng ở Sài Gòn như những kẻ phạm tội chiến tranh, tiếp sức và chỉ huy quân nổi dậy. Cuộc hành quân đã kéo dài nhiều giờ rồi, di chuyển trong một vòng cung bán nguyệt quanh “Núi Bà Đen” đến biên giới Campuchia. Ruộng lúa đã bị mặt trời đốt thành gạch cứng như đá. Như trong cơn sốt mê man, những người đàn ông trong đội Commando nhìn xuống các đường nứt trong đất bùn và mẫu hình không đều đặn của gốc cây khô. Mồ hôi chảy vào mắt gây xót. Vài tiếng súng phát ra từ một ngôi nhà nằm ẩn trong tre. Những người Pháp xác định phương hướng, cắm lưỡi lê lên những khẩu tiểu liên Sten loại đã được rút ngắn để đánh giáp lá cà, rồi vừa bắn từ ngang hông vừa xung phong về phía bụi rậm đó. Vài bóng người chạy vụt qua ruộng lúa, sa vào trong loạt đạn của khẩu liên thanh hạng nhẹ đã vào vị trí, và ngã xuống.
Chúng tôi tiến đến gần người chết. Đó là một hình ảnh thật đáng thương: những con búp bê vàng nhỏ bé với tứ chi vặn vẹo. Những khẩu súng Lebel đã lỗi thời của họ nằm bên cạnh họ giống như những món đồ chơi. Những đôi chân gân guốc gầy còm lòi ra từ chiếc quần ngắn. Không thể nói là đồng phục, nhưng trên chiếc áo màu đen của mình, họ đã may mảnh vải đỏ với ngôi sao vàng đó lên, biểu tượng cho cuộc cách mạng Đông Dương. Tức là những người đã tử trận này không phải là thành viên của giáo phái Cao Đài kỳ lạ đó, những người sở hữu ngôi đền thánh khoa trương của họ ở Tây Ninh và cũng chiến đấu chống lại người Pháp, mà là du kích quân của Việt Minh, mặt trận giải phóng Việt Nam đó của cộng sản mà từ bây giờ trở đi dưới những tên gọi thay đổi sẽ làm cho công chúng thế giới ngẹt thở ba mươi năm dài.
Người dân các làng lân cận đã bỏ trốn khi những người lính xa lạ kia đến gần. Đó là những căn nhà khiêm tốn hình chữ nhật. Trang bị đồ đạc chỉ gồm một cái giường gỗ rộng và một vài chiếc chiếu. Nhưng không ở đâu lại thiếu bàn thờ tổ tiên. Những ngôi nhà nhỏ nghèo nàn này hết sức ngăn nắp và sạch sẽ. Một người châu Âu cũng có thể sống ở đây. Những người lính đổ đầy bi đông nước của họ từ những vại sành to mà trước nhà nào cũng có. Nước có bùn và âm ấm. Thật không có gì đáng phải ngạc nhiên khi ngày càng có nhiều người mắc bệnh lỵ amíp. Người ta châm lửa đốt trước khi tiếp tục hành quân. Một que diêm là đã đủ, mái nhà bằng rơm cháy rực lửa. Những con trâu mà nông dân bỏ lại lúc chạy trốn bị bắn chết. Cả một đền thờ Cao Đài nhỏ cũng bị đốt cháy. Tôi còn có thể nhìn lần cuối xuyên qua làn khói vào đến cái bàn đơn sơ, nơi các thánh của tôn giáo pha trộn lộn xộn này được đặt thành hàng ở trên đó. Tôi để ý đến một ông phật nhỏ bằng đất, bụng to, giơ bàn tay nhỏ bé lên với một nụ cười tinh ranh và cưỡi trên một con cọp trong lúc đó.
Trong lần tập kích kế tiếp, đội Commando bị tổn thất một chết và hai bị thương. Đổi lại, xác chết của mười du kích quân đỏ trôi trong làn nước hôi thối của con kênh nước tưới ruộng. Cuộc họp bàn về tình hình được tiến hành trong một ngôi nhà tương đối lớn. Đại tá Ponchardier, được những người lính của ông gọi là “Pasha”, bực tức. Đây không phải là một cuộc chiến tranh được ông ưa thích. Người đàn ông thấp người chắc nịch, có dáng như một người bắt bóng chày, đã có lần cùng với đội đặc biệt của mình thực tập nhảy dù xuống Singapore chung với Special Air Service của Anh. Cuộc chiến chống du kích quân ở Nam Kỳ không phải là một việc có thể thay thế được cho chuyện đó. Người ta không thể phân biệt được Ponchardier với những người lính của ông ấy, khi ông ở trần ngồi trên chiếc nón dã chiến của ông, khẩu tiểu liên bao giờ cũng nằm trong tầm tay. Ông đeo một cái kèn ô tô cũ kỹ ở thắt lưng, cái mà ông thỉnh thoảng lại để cho nó kêu thé lên trong lúc hành quân, giống như những người khác thổi kèn tập họp. “Pasha” với đơn vị nhỏ bao gồm 150 người của ông đứng trực tiếp dưới quyền của tổng chỉ huy Pháp ở Đông Dương. Lính của ông chỉ chào sĩ quan riêng của mình và nhìn ít nhiều khinh thường xuống các trung đoàn còn lại của quân đoàn viễn chinh, những người đã theo họ đến Sài Gòn.
Là sĩ quan trẻ, Ponchadier đã gia nhập “Người Pháp Tự do” của de Gaulle ngay từ năm 1940 và trong thời gian bị chiếm đóng đã cùng với người anh em Dominique của ông, người trông hết sức giống ông, thành lập tổ chức kháng chiến “Sosias” trong bí mật. Nhờ một lần ném bom có chủ định trước của Royal Air Force mà ông đã giải phóng được những người của Résistance bị bắt giam trong nhà tù của Gestapo ở Amiens. Người anh em Dominique đã ghi chép lại các hoạt động nửa anh hùng nửa bất lương của cặp đôi kỳ lạ này trong quyển sách “Đá lót đường của địa ngục”, và đã mô tả lại cảm giác kỳ lạ mà người sếp của một nhóm bí mật đã trải qua khi lần đầu tiên phải dùng tay không bóp cổ cho tới chết một kẻ phản bội ở ngay trong hàng ngũ của mình. Vài năm sau khi chiến dịch Algeria kết thúc, Pierre Ponchardier, là đô đốc – vì xuất thân từ phi công của hải quân –, đã tử nạn vì rơi máy bay trên Senegal. Dominique ngược lại thăng tiến lên đến chức đại sứ ở Bolivia và cao ủy ở Djibouti. Nhưng cái mà ông ấy xem như là thành công lớn nhất của mình thì lại là lần xuất bản loạt sách gián điệp về những cuộc phiêu lưu của “Khỉ Đột”. Con “Khỉ Đột”, có lần de Gaulle đã nói như thế khi ông ấy tiếp đãi người đại sứ của mình, hẳn chính là Dominique.
Đội Commando của Ponchardier bị xem như là một nhóm thô lỗ của những kẻ thích phiêu lưu mạo hiểm và dân du côn. Nhưng trong số đó cũng có cả những đứa con trai ngoan ngoãn từ những gia đình được cho là tốt, những người muốn chạy trốn sự chật hẹp của môi trường trung lưu của họ. Không thiếu những người độc đáo: một chuyên gia về Trung Quốc với một con đại bàng khổng lồ xăm trên ngực, kẻ biết kể những mẩu chuyện thú vị nhất về các thiên tử; hai tên ranh mãnh từ Paris, có vẻ như xuất phát từ giới ma cô và là những người mà người ta tin rằng họ sẽ thực thi quyền được cướp của, người ta cho rằng đội Comando có quyền đó trong những vùng đang có giao tranh; một vài chiến sĩ đơn độc của cơ quan tình báo DGER, sau khi Nhật đầu hàng, họ đã nhảy dù xuống những vùng đồi núi của Bắc Kỳ và đã tìm thấy ở đó những đống đổ nát mất tinh thần của đạo quân Đông Dương cũ của Pháp, cái mà trong Đệ nhị thế chiến đã tuyên bố theo Pétain và trong tháng 3 năm 1945, khi họ vào giờ chót lại muốn liên kết với phe Đồng Minh, đã bị lính Nhật Hoàng đánh tan mà chẳng khó nhọc gì. Các tỉnh ở ngoài rìa và các sắc tộc thiểu số của Grande Nation có nhiều đại diện: người Alsace và Corse, người Breton và Basque. Người ta khó lòng mà tưởng tượng được, rằng sau khi hết động viên, những người đàn ông này sẽ tìm về cuộc sống dân sự bình thường như thế nào. Ngay đối với “Pasha”, họ cũng đáng nghi ngại phần nào. “Lần tới đây nếu như tôi thành lập một đội lính”, có lần ông ấy đã lầm bầm nói như thế, “thì tôi sẽ chọn những đứa ngoan ngoãn và đáng tin cậy. Về lâu dài thì chúng can đảm hơn và dẻo dai hơn là những thằng lưu manh hay nhanh chóng mất tinh thần.”
Các sĩ quan của Commando đã có những số phận hết sức khác nhau. Tôi gặp lại đại úy Quilici, người trông giống như một Bandit d’honneur người Corse, hai mươi năm sau đó ở Tchad như là đại tá nhảy dù của Thủy Quân Lục Chiến [Parachutistes d’Infanterie de Marien – lực lượng đặc nhiệm của Pháp], nơi ông đang thanh tra các ốc đảo ở phía bắc trong sa mạc Tibesti và Ennedi. Trung úy Augustin, người ngay thời đó đã là hiện thân của một nhà tu, như thường hay gặp trong giới sĩ quan Pháp – ở đây, thanh kiếm với bình đựng nước thánh có thể ngoái nhìn lại những liên kết hết sức xưa cũ –, sau thảm họa Algérie đã quay lưng lại với quân đội và đã từ bỏ ánh hào quang của vũ khí để làm một thầy dòng trong một tu viện dòng Đa Minh. Đại úy Trinquier có con đường sự nghiệp bất ngờ nhất, người đã phục vụ trong bộ binh thuộc địa ở nhượng địa Pháp tại Thượng Hải, trước khi đến với nhóm lính của Ponchardier. “Pasha” ít có cảm tình với người đàn ông điển trai kiểu Địa Trung Hải, quá thanh lịch này, người ngay trong rừng rậm Đông Dương cũng đi lại với một cái khăn lụa quàng cổ và nổi bật với cách ăn nói lịch sự. Thời đó, không ai nghĩ rằng trong giai đoạn cuối của cuộc Chiến tranh Viễn Đông của Pháp, Trinquier đã tổ chức các tổ kháng chiến của nhóm người dân tộc Mèo theo Pháp ở phía sau chiến tuyến của Việt Minh hay trong Chiến dịch Bắc Phi ông ấy đã nhận nhiệm vụ triệt tiêu khủng bố không thương xót trong Kasbah của Algier. Cuối cùng, sau cú đảo chính của các tướng lĩnh chống lại de Gaulle và sau khi rời khỏi quân đội, có một thời gian ngắn ông ấy còn là tổng chỉ huy của quân đội Kantaga, phục vụ cho tổng thống Moise Tshombe.
Trên đường tiếp tục hành quân, chúng tôi bất ngờ bắt gặp một nhóm nông dân người Camphuchia. Họ nối đuôi nhau tiến đến. Có thể nhận ra họ là người Khmer qua làn da sẫm màu, ở mái tóc xoăn và ở xà rông mà họ quấn quanh hông. Khi nhìn thấy lính Pháp, họ quỳ xuống và chắp tay lại với nhau theo một cử chỉ khuất phục xưa cũ. Chúng tôi đã đến vùng làng mạc Campuchia. Nhà dọc theo các dòng nước được dựng trên cột. Cả phong cảnh ở đây cũng thay đổi. Đồng ruộng ở đây được thống trị bởi những cây báng đứng đơn độc, bị gió thổi rối tung. Ở làng kế đến, nhiều người Campuchia khỏe mạnh được tuyển mộ làm phu khuân vác. Họ thích làm việc cho người Pháp khi vấn đề là giết những kẻ thù lâu đời của họ, người Việt. Trong trận đánh, họ nhanh chóng vượt qua được nỗi hoảng sợ đầu tiên của họ và lúc nào có bắn nhau thì cũng đều mừng rỡ như trẻ con.
Lực lượng Commando Parachutiste Ponchardier trên Rue Catinat, Sài Gòn
Ngày 30 tháng 19 năm 1945
Với những lỗ châu mai, thành lũy và tháp của nó, pháo đài cũ của Pháp ở Tây Ninh nằm – nhìn từ xa – giống như một món đồ chơi trong mặt trời về chiều. Nó xuất phát từ thời đầu của cuộc thuộc địa hóa, khi những người Pháp đầu tiên xâm chiếm ở Nam Kỳ còn phải chống lại cướp sông. Màn chống muỗi được giăng ra trên những cái giường xếp. Bóng tối đến bất chợt, và màn đêm oi bức dính da. Những người lính ăn khẩu phần của họ. Rượu vang đỏ được lấy ra từ ở đâu đó. Người ta ồn ào trong những công sự của cái pháo đài xưa cũ. Vào buổi chiều đã có một nhóm cảnh sát chính trị đặc biệt từ Sài Gòn đến, phần nhiều là người Âu Á. Họ đã hỏi cung tù binh. Đã có tra tấn trong lúc đó, như chúng tôi nghe được lúc đến pháo đài. Người ta nhúng đầu của các nghi phạm vào trong một cái thùng nước cho tới khi họ chịu cung khai. Đó được gọi là la baignoire – bồn tắm. La gégène, cực hình bằng điện nhờ vào một cái máy phát điện nhỏ, thời đó vẫn còn chưa thông dụng ở Đông Dương. Nhưng những người Á, người ta nói thế, có những biện pháp tinh xảo và đáng sợ để bắt những kẻ cứng đầu cũng phải nói. Đau khổ cho những người Âu nào còn sống mà lọt vào tay của du kích quân! Chúng tôi đã nhiều lần thấy xác chết người Pháp trôi nổi trên sông nước của Nam Kỳ mà tinh hoàn của họ bị nhét vào mồm và đã bị đóng cọc xuyên qua người bằng một cây tre. Trong khi nhóm lính làm ồn ào và đòi gái Campuchia, những nhóm tiền đồn hai người hay ba người đóng ở rìa của khu rừng. Trong sự đơn độc nguy hiểm này, sự hoang dã dường như đầy những tiếng ồn của thế giới động vật. Một con côn trùng càng nhỏ thì lại càng gây ra nhiều tiếng động. Trong lúc đó có những cái gì đó chạy vụt qua và kêu sột soạt. Một cuộc săn đuổi và giết nhau không thương xót đang diễn ra trong thiên nhiên về đêm. Chỉ có nỗi lo sợ phải xấu hổ là ngăn chận những người lính đang đóng ở bên ngoài bắn bừa vào cái thế giới xung quanh đang kêu lách cách, rì rì và ken két đó, thế giới mà người ta không nghe thấy được những người do thám của quân địch có thể đang bò tới trong sự che chở của nó.
Trong một căn phòng trong tháp, các sĩ quan đánh giá thông tin do một nhân viên tình báo từ Sài Gòn vừa trình bày cho họ. Người chuyên viên của Phòng Nhì là một người lai người Hoa, với một khuôn mặt chim, rình rập. Ông đã đóng phần chính trong các cuộc tra tấn. Người Pháp đã đánh mất phần lớn những ảo tưởng mà họ đã quay trở lại Đông Dương cùng với chúng vào lúc ban đầu. Thời đó, các đặc phái viên của de Gaulle – một phần còn trước khi Nhật Bản đầu hàng – đã nhảy dù xuống những vùng nổi dậy của người dân bản xứ, vì ở Paris người ta tin rằng các du kích quân chống Nhật sẽ chào đón họ như bè bạn và người giải phóng. Phần lớn những con người liều lĩnh đó đã bị giết chết rất nhanh chóng dưới những cực hình đáng sợ. Những người sống sót – theo thủ tướng sau này Pierre Messmer – phải mừng là các du kích quân đỏ đã nhốt họ lại trong cũi tre, nơi họ phải chịu dựng sự phỉ nhổ của người dân và bị ném trứng thối.
Người đàn ông của Phòng Nhì nói về một thay đổi trong tình hình chính trị ở Tây Ninh. Vào lúc ban đầu, đạo quân viễn chinh còn tìm kẻ thù chính ở Đông Dương trong các giáo phái và các nhóm người thỏa hiệp với người Nhật và hy vọng được độc lập nhờ vào lòng khoan dung của Nhật Hoàng. Ở các tỉnh quanh Tây Ninh thì đó trước hết là giáo phái pha trộn Cao Đài với một triệu rưỡi người. Ở đồng bằng sông Cửu Long, ở rìa của những cánh đồng lau sậy, thì là phong trào của các chiến binh phật tử Hòa Hảo, có tròn 600.000 người theo đạo. Nhưng mới đây, những người tôn giáo quá khích rối rắm này, sở hữu lực lượng dân quân có khả năng chiến đấu, nhìn thấy họ bị đe dọa bởi lần trỗi dậy của mặt trận cách mạng đỏ của Việt Minh. Họ phản ứng với sự thù địch mang tính bản năng chống lại hệ tư tưởng duy vật của các cán bộ cộng sản, những người với sự nhiệt tình của một tông đồ đã xúi giục người nông dân nổi dậy, và ngay từ bây giờ đã tìm cách hòa hoãn với thế lực thuộc địa trước đây, dưới điều kiện là người Pháp sẽ tôn trọng quyền tự trị của Cao Đài và Hòa Hảo. Từ bây giờ thì đã rõ, rằng các giáo phái này có thể sẽ trở thành những đồng minh quý giá, vì dường như chỉ riêng họ mới sở hữu được động lực tinh thần không thể thiếu được để đứng vững trước làn sóng tấn công ý thức hệ của chủ nghĩa cộng sản.
Phe chống cộng sản của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam vẫn còn nhìn thấy trước mắt mình cảnh tượng đáng thương hại của hoàng đế An Nam, Bảo Đại, nghĩa là “Người gìn giữ cái lớn”, người trong tháng 4 năm 1945 đã được người Nhật tuyên bố trở thành người đứng đầu của một vương quốc Việt Nam độc lập và trong lúc đó đã dựa trên đảng Đại Việt thân Nhật và các quan lại ở Huế. Bảo Đại, năm 1925 trở thành hoàng đế lúc mười hai tuổi, chỉ có thể tự khẳng định mình được một vài tuần trước người dẫn đầu du kích quân có chòm râu dê đó từ vùng Bắc Kỳ ở phương Bắc, người dưới cái tên Hồ Chí Minh đã tuyên bố thành lập nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Hồ Chí Minh không phải là kẻ xa lạ đối với các cơ quan mật vụ Pháp. Ông ấy đến Pháp như là một người thợ rửa ảnh trẻ tuổi và ngay từ năm 1920 đã có mặt trong lúc thành lập Đảng Cộng sản Pháp ở Tours như là một đồng chí từ Viễn Đông. Sau đó, ông đi qua trường lớp của Đệ Tam Quốc tế trước khi bắt đầu cuộc đấu tranh chống người Nhật trong Đệ nhị thế chiến từ ở biên giới Nam Trung Quốc với một nhóm nhỏ những người trung thành. Trong thời gian đó, điều ngược đời là Hồ Chí Minh còn hưởng được sự trợ giúp của mật vụ Mỹ OSS đóng ở tỉnh lỵ Trung Quốc Côn Minh và giúp đỡ Việt Minh, phong trào tập hợp quốc gia của những người cộng sản Việt Nam, với vũ khí và tiền bạc.
Trong những ngày đó, “Pasha” vẫn còn hy vọng rằng đội Commando của ông ấy có thể sẽ được triệu tập để thực hiện những hoạt động lớn lao. Trong nửa phần phía Nam của Đông Dương, qua một chiến dịch, quân đội viễn chinh Pháp đã có thể đứng vững được nhờ vào lòng rộng lượng của Anh quốc. Nhưng ở phía Bắc của vĩ tuyến 16 – ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và ở Bắc Lào –, theo như trong Hiệp định Potsdam quy định, được giao trách nhiệm tước vũ khí người Nhật là quân lính Trung Quốc của Tưởng Giới Thạch, các sư đoàn của Quốc Dân Đảng. Họ đã đứng vững như là thế lực chiếm đóng mới, và rõ ràng là hoàn toàn không hề nghĩ đến việc trao trả lần chinh phục bất ngờ này lại cho các ông chủ thuộc địa Pháp ngày xưa. Nếu như theo ý muốn của Roosevelt, người kiên quyết chống chính sách thuộc địa một cách mơ mộng, thì lẽ ra đã không còn có một người lính Pháp nào được phép quay trở lại Đông Dương. Nhưng Roosevelt đã chết khi Nhật hoàng đầu hàng, và người Anh rất muốn nhìn thấy người Pháp và người Hà Lam bấu chặt vào các sở hữu trước kia của họ, những cái mà người Nhật đã để lại trong loạn lạc và lộn xộn. Có lẽ họ cần phải hướng cơn bão của chủ nghĩa dân tộc châu Á đến một vùng đệm ở Đông Dương và Indonesia mà trong sự bảo vệ của vùng đệm này, Liên hiệp Anh – trong con mắt của người Pháp vẫn còn là “nước Anh xảo trá” – bắt đầu tiến hành chính sách Thịnh vượng Chung tự do và có tầm nhìn xa của mình trên tiểu lục địa Ấn Độ.
Vào sáng sớm có một cơn mưa đến bất ngờ. Độ ẩm đã được mặt trời hút lấy khi tôi đi đến thánh đường của những người Cao Đài, một tòa nhà màu vàng khổng lồ theo kiểu của một nhà thờ Pháp. Vào giờ này, rừng rậm trên sườn núi dốc của “Bà Đen” óng ánh trong màu xanh đậm. Việc bình thường hóa hẳn đã tiến xa hơn là chúng tôi dự đoán vào lúc ban đầu, vì thánh đường này đã đầy hơn nửa vào lúc làm lễ ban sáng. Giáo hoàng của giáo phái Cao Đài đã chạy trốn sang Thái Lan, nhưng phần lớn giáo sĩ của ông ấy – thuộc vào trong số đó là một hội đồng giáo chủ và nhiều giám mục – vẫn ở lại tại chỗ, không bị người Pháp gây khó dễ và đang tiến hành những nghi lễ kỳ lạ của mình trong gian chính khổng lồ, giống như một đại sảnh của thánh đường. Từ ở nơi đó, ở nơi mà trong một nhà thờ Công giáo là nơi của bệ thờ, có một con mắt khổng lồ nhìn từ một tam giác có hào quang bao quanh xuống cộng đồng tín ngưỡng. Các giáo sĩ tùy theo cấp bậc mà phủ kín người với quần áo lụa màu xanh, đỏ và vàng, những cái chấm dứt với cái mũ trùm đầu nhọn của Ku-Klux-Klan. Người theo đạo bình thường mặc quần áo màu trắng. Tiếng cầu kinh rì rầm làm cho người ta nhớ tới tiếng cầu nguyện của Kitô giáo và tiếng tụng kinh của Phật giáo. Những người theo đạo liên tục quỳ xuống và tiếng cồng chiêng vang lên không ngưng. Khói nhang bay lên đến tận con mắt huyền bí đó. Tôn giáo pha trộn kỳ lạ của Cao Đài không nhiều tuổi hơn là thế kỷ 20. Thuộc trong số các thánh của họ, những người được sùng kính đặc biệt, là Đức Phật, Khổng Tử, Giê-xu và … nhà thơ người Pháp Victor Hugo. Ở cổng vào thánh đường, các nhà tiên tri này của đạo Cao Đài được mô tả qua những bức tượng đắp nổi nhiều màu chất phác. Khách tham quan người Pháp đặc biệt buồn cười về tượng mô tả Victor Hugo, người rõ ràng vì thông điệp nhân đạo của mình như là tác giả của “Những Người Khốn Khổ” mà đã được nhận vào điện thờ các thần này. Tôi có xúc cảm nhiều nhất là ở việc cái đầu râu trong số ba người của Académicien này trông giống bức chân dung được lưu truyền lại của Karl Marx hết sức. Về cơ bản thì không có lý do gì để chế diễu cả. Những lần thành lập tôn giáo đều luôn gắn liền với những điều kỳ lạ. Đạo Cao Đài chắc chắn không phải là một hiện tượng dài lâu. Nhưng trong sự cống hiến cuồng tín của nó, trong sự tìm kiếm những mô hình xa lạ, trong hoạt động vì quốc gia của nó, trong mối liên quan nào đó, nó cũng tương tự như cái tôn giáo ý thức hệ bí mật và kiên quyết đó của những người cộng sản Việt Nam, đã giành lấy được một phần của quyền lực về cho họ ở Hà Nội, và môn đồ của nó ở đồng bằng sông Cửu Long đã ngày một nhiều hơn.
Bên trong Thánh đường của đạo Cao Đài
Người Pháp tin là đã hiểu được người An Nam của họ. Ở Nam Kỳ đã có cả một lớp tư sản địa phương thành hình, đã tiếp nhận ngôn ngữ và lối sống Pháp, còn nhận được cả quốc tịch Pháp nữa, bác sĩ, luật sư, chủ đồn điền. Nhưng sống dưới tầng lớp tinh hoa này là một dân tộc mà nhiều nhất là chỉ có những nhà dân tộc học của Ecole d’Extrême-Orient và những nhà truyền đạo nào đó hiểu biết. Các “nhà quê” này, những người nông dân trồng lúa này, như họ bị gọi một cách khinh rẻ, chỉ được sử dụng như là lính dẫn ngựa trong Đệ nhất thế chiến vì người ta cho rằng họ không có khả năng quân sự. Những kẻ được gọi là chuyên gia Đông Dương, các old hands, những kẻ ngu đần không chịu mở mắt của chủ nghĩa thực dân được gọi một cách kính nể bằng một từ anglo-saxon như thế, đã kể lại cho những người lính mới đến của đạo quân viễn chinh, rằng dân An Nam không bao giờ chiến đấu trong bóng đêm, vì sợ ma, “Ba Cui” và sợ cọp. Chẳng bao lâu sau đó, người ta nhận ra rằng sống ở Việt Nam là chủng tộc chiến binh kiên cường nhất Châu Á, và rằng màn đêm thật ra mới chính là môi trường của họ.
Dấu ở dưới sự kỳ lạ của một giáo phái thường là một cốt lõi chính trị nghiêm chỉnh chết người. Sau này chúng tôi sẽ gặp gỡ giáo xứ kỳ lạ của “Thánh Cây Dừa” ở tại một nhánh của sông Cửu Long. Một doanh nhân gù người An Nam bất chợt có ý tưởng thành lập một tôn giáo mới do Thượng Đế giao phó. Ông thường ngồi thiền trên một cây dừa. Người gù này đã hết sức nhanh chóng tập họp được một cộng đồng tín ngưỡng quanh mình, tiến hành những nghi thức thờ cúng kỳ lạ, tuân theo các quy định khổ hạnh và mặc những chiếc áo choàng màu nâu. Vì nhà tiên tri của mình, người không thể nằm ngữa ngủ được vì thân thể tật nguyền của mình, nên các môn đồ đều nằm ngủ nghiên. Thánh địa chính của họ nằm trên khu nhà sàn trên dòng nước, nhưng chẳng bao lâu sau đó, các đền thờ được trang trí hoa mỹ của họ lan đến tận ngoại ô Sài Gòn.
Có một trái địa cầu khổng lồ gây sự chú ý của tôi, cái mà họ đã dựng lên trên một cái bệ ở giữa sông. Trên quả địa cầu đó, nước Việt Nam ngày nay được thể hiện quá khổ và trải dài ở rìa Thái Bình Dương từ Kamchatka cho tới Úc. Sự thể hiện đất nước quê hương như thế này có ý nghĩa gì, tôi hỏi một người già ngoan đạo, người với bảy chòm râu của mình trông giống như một ông thánh của đạo Lão. Ông thầy tu trả lời bằng tiếng Pháp trong trẻo đến mức đáng kinh ngạc: “Khi nào nước Việt Nam tái thống nhất và tự do – Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ dưới một quốc gia –, thì chúng tôi sẽ to lớn và hùng cường như quả địa cầu đó mô tả.” Rằng sự ấp ủ tôn giáo trong đất nước bị chia cắt này loan báo trước sự xuất hiện của một thời đại mới, một con người Việt Nam mới, việc đó thì không có một nhân viên hành chính hay một sĩ quan thuộc địa Pháp nào hiểu được kịp thời. Nhưng vào thời bắt đầu Công Nguyên, có một thống đốc hay một sĩ quan binh đoàn La Mã nào trong tỉnh Syria mà lại linh cảm rằng các sự kiện huyền bí trong dân tộc Do Thái sẽ khởi đầu cho sự chấm dứt đế chế của họ và thay đổi toàn bộ nhận thức của thế giới Cổ đại đâu.
Trước khi đội Commando trở về nơi thường trú của họ trong một ngôi nhà dòng họ của người Hoa trên Boulevard Galliéni [Đường Trần Hưng Đạo] ở nửa đường vào Chợ Lớn, đoàn xe bị kẹt lại bởi một dòng tuần hành bất thường. Trong hàng ba, nhưng không có vũ khí, một đoàn dài những người lính của tất cả các binh chủng – sĩ quan đi đầu – bước đều bước qua đường phố nội thành Sài Gòn. Chúng tôi hỏi người đứng xem là đang xảy ra việc gì. Một nhóm nhỏ người Pháp chống chiến tranh và những người phe tả chống chế độ thuộc địa, người ta nói thế, đã phân phát tài liệu yêu cầu nước Pháp rút khỏi Đông Dương và lên án đoàn quân viễn chinh, rằng thay vì honneur et patri, danh dự và tổ quốc, họ đã viết honneur et profit, danh dự và lợi nhuận, lên lá cờ của họ. Hãng in nhỏ của “Nhóm Thất bại Chủ nghĩa” này đã bị những người biểu tình thuộc quân đội đập cho tan tành. Bây giờ người ta đồng thanh hô to trên Rue Catinat: “De Gaulle au pouvoir!” – “De Gaulle lên nắm quyền!” Trong tháng Giêng năm 1946, Tướng de Gaulle bất ngờ đã từ bỏ chức vụ của ông như là người đứng đầu chính phủ lâm thời của Pháp. Qua đó, ông muốn phản đối những cuộc tranh cãi đảng phái tái xuất hiện và phản đối sự tan rã nội bộ của Pháp, và đã bực tức lui về ngôi nhà nông thôn của ông ở Colombey-les-Deux-Eglises. Quân đội Đông Dương, mà nguyên tố de Gaulle hiện diện mạnh ở trong đó, bất chợt cảm thấy mình mồ côi, nhất là khi các đảng phái cánh tả của Pháp bắt đầu hoạt động chống lại chiến dịch ở Viễn Đông. Không chỉ những người có cảm tình với Đảng Cộng sản Pháp là đứng rõ ràng ở bên phía của những người Việt dân tộc chủ nghĩa. “De Gaulle lên nắm quyền!” còn vang lên thêm vài lần nữa. Rồi một đội quân cảnh cũng gửi được những người biểu tình đó trở về doanh trại của họ mà không cần phải tốn nhiều công sức. Còn phải mười hai năm nữa, trước khi cũng tiếng gọi đó –được một đám đông người nắm bắt lấy trên diễn đàn Algérie – sẽ khởi đầu cho lần lật đổ nền Đệ Tứ Cộng Hòa.
(còn tiếp)
Comment