(Nguồn: đặc san Lý Tưởng - Úc Châu, số kỷ niệm Ngày Không Lực 2024)



Nói về ngành hàng không quân sự, hiện nay không một quốc gia nào có thể qua mặt Hoa Kỳ. Đó là một điều khẳng định.

Hạng nhì là Nga. Đây cũng là một điều khẳng định.

Hạng ba là Trung Cộng.

Nhưng nếu chỉ nói về khả năng “tàng hình” (stealth) thì hiện nay ra vẻ Trung Cộng đã qua mặt Nga.

Thực ra nếu xét về khả năng một cách chung chung, giữa hai chiếc “tàng hình” Sukhoi Su-57 của Nga và Chengdu J-20 của Trung Cộng chưa biết chiếc nào hơn chiếc nào, bởi vì cho tới nay cả hai vẫn chưa chính thức xuất trận cho nên giới chuyên gia không đủ yếu tố thẩm định.

[Theo lời người Nga thì chiếc Su-57 đã tham chiến tại Ukraine từ tháng 6/2022, tuy nhiên không ai biết thực hư ra sao. Hình ảnh từ các vệ tinh thương mại cho thấy vào cuối năm 2022 có năm chiếc Su-57 đậu ở căn cứ không quân Nga Akhtubinsk cách biên giới Ukraine khoảng 500 km; tuy nhiên theo Tình báo Quốc phòng Anh (British Defence Intelligence), những chiếc phản lực này chỉ hoạt động trên không phận Nga, chứ không bay ra ngoài, sợ bị bắn hạ trên đất địch thì vừa móp mặt vừa để lộ những bí mật trên xác phi cơ.
Phi vụ duy nhất được phía Ukraine xác nhận là mới đây, vào ngày 18/1/2024, hai chiếc Su-57, được các chiến đấu cơ Su-35 hộ tống, đã bay vào vùng Luhansk Oblast do Nga chiếm đóng để bắn hỏa tiễn hành trình (cruise missile) Kh-69 sang lãnh thổ Ukraine]

Chúng tôi viết Trung Cộng đã qua mặt Nga bởi vì tuy cùng khởi sự nghiên cứu “phi cơ tàng hình” vào cuối thập niên 1990, trong khi chiếc Chengdu J-20 của Trung Cộng được chính thức đưa vào hoạt động tháng 1 năm 2018, thì chiếc Sukhoi Su-57 của Nga phải đợi gần 3 năm sau (tháng 12/2020).

Theo đa số các nhà quan sát, sở dĩ Trung Cộng qua mặt được Nga là vì Bắc Kinh đã đánh cắp được những bí mật về khả năng “tàng hình” của phi cơ Mỹ, một cách chính xác là chiếc F-117A Nighthawk.

* Truyền thống “chôm chĩa”

Xưa nay nói tới Trung Cộng - xí nghiệp quốc doanh cũng như công ty tư nhân - là nói tới truyền thống bắt chước và ăn cắp. Bắt chước một cách không biết xấu hổ và ăn cắp một cách công khai!

Chịu trách nhiệm về hoạt động đánh cắp bí mật quân sự của Hoa Kỳ là Phòng 18, tức Phòng Hoạt Vụ Hoa Kỳ (US Operations Bureau) trực thuộc Bộ An Ninh Nhà Nước (Ministry of State Security) của Quốc Vụ Viện (Chính phủ) nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.

Trong phạm vi bài này chúng tôi chỉ đề cập tới việc Trung Cộng đánh cắp bí mật của chiếc F-117A.

Vào năm 2016, nhiều người trong chúng ta đã được đọc, được nghe tin tức về vụ một doanh nhân người Hoa bị lãnh án tù tại Mỹ về tội đánh cắp các bí mật của vận tải cơ C-17 và hai chiến đấu cơ “tàng hình” F-22, F-35 để bán cho Trung Cộng.

Thực ra đây chỉ là chuyện nhỏ bởi vì vào thời gian này, Trung Cộng đang thử nghiệm chiếc J-20 thứ ba, những bí mật của F-22, F-35 đánh cắp được cũng chỉ giúp Trung Cộng cải tiến, hoàn chỉnh chiếc J-20 mà thôi.

[Su Bin, 51 tuổi, doanh nhân người Hoa nói trên, chỉ bị tòa án địa phương Los Angeles tuyên án 46 tháng tù và đóng tiền phạt 10,000 Mỹ kim]

Trên thực tế, Trung Cộng đã tìm cách đánh cắp kỹ thuật tàng hình của Mỹ vào đầu năm 1999, sau khi chiếc phi cơ tàng hình đầu tiên trên thế giới, chiếc F-117A Nighthawk, bị hỏa tiễn Nga bắn hạ trên không phận Serbia.

F-117A Nighthawk


F-117A Nighthawk là một phi cơ bí mật, bí mật từ lúc ra đời cho tới lúc về hưu, cho nên chi tiết về việc nó bị bắn hạ, nguyên nhân, hậu quả cũng được người Mỹ giữ bí mật trong suốt ¼ thế kỷ.

Mới đây, tháng 3/2004, mọi người mới được biết đầy đủ chi tiết qua bài viết của nhà báo Ashish Dangwal trên tạp chí The Eurasian Times mang tựa đề:

US Stealth Fighter ‘Seized’ By China After Russian Neva Missile Shot It Down (Chiến đấu cơ tàng hình của Mỹ nằm trong tay Trung Cộng sau khi bị hỏa tiễn Neva của Nga bắn hạ)

Trước khi đi vào nội dung bài báo, chúng tôi cũng xin được ngắn gọn về sự ra đời, sự bảo mật, và thành tích của chiếc F-117A.

F-117A ra đời sau chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến đã chứng tỏ sự lợi hại của hỏa tiễn địa-không của Nga đưa tới thiệt hại lớn lao cho lực lượng oanh tạc cơ của Mỹ.

Năm 1974, Hội đồng Khoa học Quốc phòng (Defense Science Board) - gồm các chuyên gia dân sự hàng đầu có nhiệm vụ cố vấn về khoa học và kỹ thuật cho Bộ Quốc Phòng Mỹ - đã cảnh giác nếu một cuộc chiến nổ ra tại Âu châu giữa khối NATO và khối cộng sản Đông Âu (Warsaw Pact), hỏa lực phòng không địch sẽ đủ sức ngăn chặn các cuộc tấn công của bằng phi cơ của Hoa Kỳ và đồng minh vào lãnh thổ các nước Đông Âu.

Qua năm 1975, Bộ Quốc Phòng Mỹ bắt đầu nghiên cứu kế hoạch chế tạo phi cơ “tàng hình” và kêu gọi các hãng phi cơ của Mỹ hưởng ứng.

Cũng nên biết khái niệm về phi cơ “tàng hình” đã có từ năm 1964, khi nhà toán học kiêm vật lý Nga Pyotr Ufimtsev công bố công trình nghiên cứu của ông về sự phản hồi của sóng ra-đa trên một vật thể, theo đó sóng ra-đa phản hồi mạnh hay yếu không do kích thước mà do hình dạng của vật thể đó.

Những chứng minh bằng toán học của Pyotr Ufimtsev còn cho thấy phi cơ có hình dạng như thế nào thì sẽ không bị ra-đa khám phá. Thế nhưng đó chỉ là lý thuyết, còn trên thực tế, theo các kỹ sư hàng không, một chiếc phi cơ thiết kế theo hình dạng đó sẽ bị “bất ổn về mặt khí động học” (aerodynamically unstable), tức là khi thao tác, có thể xảy tình trạng phi cơ không còn có thể điều khiển được nữa (bị stall: triệt nâng).

* * *


Năm 1976, sau khi các hãng khác lần lượt bỏ cuộc, Bộ Quốc Phòng Mỹ đã ký với hãng Lockheed hợp đồng chế tạo hai mẫu “phi cơ tấn công tàng hình” (Stealth Strike Fighters) để thử nghiệm.

Ngày 1/12/1977, chiếc thứ nhất cất cánh bay thử. Mặc dù sau đó cả hai chiếc đều bị rớt trong lúc thử nghiệm, các dữ kiện thu thập được đã khiến Bộ Quốc Phòng Mỹ phấn khởi, và tới tháng 11/1978 cung cấp ngân khoản cho hãng Lockheed bí mật sản xuất một kiểu phi cơ tấn công tàng hình để đưa vào hoạt động.

Ba mươi mốt tháng sau, chiếc YF-117A xuất xưởng, bay thử tại Tonopah Test Range Airport, Nevada, vào ngày 18/6/1981.

Qua năm 1982, chiếc F-117A Nighthawk đầu tiên được giao cho Liên Đoàn 4450 Chiến Thuật (4450th Tactical Group), một đơn vị mới được thành lập, trực thuộc Bộ tư lệnh Không Quân Chiến Thuật (Tactical Air Command), đồn trú tại Nellis Air Force Base, Nevada, với nhiệm vụ thẩm định khả năng hoạt động của chiếc F-117A.

Chương trình chế tạo và thử nghiệm chiếc F-117A bí mật tới mức chỉ có một vài nhân vật ở Bộ Quốc Phòng và một số chuyên gia của hãng Lockheed được biết. Riêng các nhà báo chuyên săn tin về các loại vũ khí bí mật đã đoán mò số hiệu của chiếc phi cơ này là F-19 (vì lúc đó Mỹ đã cho ra lò chiếc F-18 Hornet).

Mãi tới tháng 11/1988, trước vô số tin tức thêu dệt tới mức hoang đường của truyền thông về “chiến đấu cơ bí mật F-19”, ông phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng mới công khai loan báo về sự hiện hữu của chiếc F-117A và phổ biến một tấm hình rất mờ!

Từ đó, các phi công thí nghiệm mới được phép bay F-117A giữa thanh thiên bạch nhật. Tuy nhiên bản thân họ (và gia đình, nếu có) không được sống tại Nellis Air Force Base, nơi đồn trú của Liên Đoàn 4450 Chiến Thuật, mà phải ở Las Vegas, mỗi khi lên “ca” sẽ được phi cơ thương mại đưa tới phi trường thí nghiệm Tonopah Test Range. Họ cũng phải nói dối với thân nhân, bạn bè rằng họ bay trên những chiếc F-5 “đóng vai phi cơ MiG của địch” (aggressor) trong các buổi thực tập không chiến.

* * *


Tới đây xin có đôi dòng về các đặc điểm kỹ thuật và khả năng tác chiến của chiếc F-117A Nighthawk.

Mẫu tự F, viết tắt của chữ “fighter”, ở đầu số hiệu một phi cơ Mỹ cho biết đây là một chiến đấu cơ, hoặc phi cơ đa năng (multirole) nhưng riêng trong trường hợp chiếc F-117A thì nó được chế tạo với một nhiệm vụ duy nhất là tấn công mục tiêu dưới đất cho nên lẽ ra phải sử dụng mẫu tự A (attack) ở đầu như những chiếc A-1, A-3, A-5, A-6, A-7, A-10... trước đó.

Tuy nhiên Không Quân Hoa Kỳ đã cố tình sử dụng mẫu tự F cho chiếc phi cơ bí mật này để đánh lạc hướng những kẻ “tò mò”.

Không chỉ sử dụng mẫu tự F, họ còn đi ngược thời gian trở về thập niên 1960 (thời của F-100 tới F-111) lấy con số 117 để tình báo Liên Xô phải... điên đầu!
Vì mục đích chính là “tàng hình” để chống lại các loại hỏa tiễn địa-không của Liên Xô, chiếc F-117A đã phải “hy sinh” nhiều thứ, trong đó có tốc độ, trang bị, và trọng tải.

Về tốc độ, để tránh tạo ra tiếng nổ khi vượt bức tường âm thanh, F-117A chỉ có tốc độ tối đa Mach 0.92 (1,003 km/h; 623 mph), vì thế hai động cơ phản lực của nó chẳng những không được trang bị hậu thiêu (afterburner) mà còn bị giảm lực tống để giảm thiểu nhiệt độ toát ra từ động cơ khi vào vùng hoạt động của ra-đa địch.

Về trang bị, F-117A không có ra-đa tự dò tìm mục tiêu bởi vì những làn sóng ra-đa này sẽ tiết lộ sự hiện diện của nó. Vì thế lộ trình của F-117A được hướng dẫn bằng GPS, và tất cả mọi cuộc tấn công đều phải có sự phối hợp với các phi cơ trinh sát điện tử (electronic-warfare aircraft), mọi mục tiêu phải được xác định trước, v.v...

Điều đó có nghĩa là F-117A chỉ có thể trang bị bom hướng dẫn bằng màn ảnh hồng ngoại dò hơi nóng (infrared thermography) hoặc bằng laser.

Sau cùng, F-117A chỉ có khả năng mang hai trái bom trong khoang dưới bụng với trọng lượng tổng cộng 5,000 cân Anh (2,300 kg).

F-117A thả bom GBU-28 trên chiến trường Iraq


Nhưng với khả năng tàng hình, chỉ cần hai trái bom nổ mạnh GBU-10, GBU-12, GBU-27, GBU-28..., hoặc bom xuyên thấu (penetration bombs) BLU-109, chưa kể bom nguyên tử chiến thuật B61, chiếc F-117A Nighthawk cũng đã trở thành vũ khí vô địch của Không Lực Hoa Kỳ và đem lại nỗi kinh hoàng, sự khiếp đảm cho địch quân.

Lấy trận chiến vùng Vịnh (Gulf War) năm 1991 làm thí dụ điển hình. Với 36 chiếc tham chiến, F-117A chỉ chiếm 3% tổng số phi cơ của Hoa Kỳ và đồng minh trong cuộc Hành quân Bão sa mạc, nhưng đã thực hiện tới 30% tổng số phi vụ, chủ yếu là tại Baghdad, vốn được xem là một trong những thành phố có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất thế giới.

Theo con số của phía Hoa Kỳ, các phi cơ F-117A đã thực hiện khoảng 1,300 phi vụ với trên 6.900 giờ bay, phá hủy khoảng 1,600 mục tiêu quan trọng, mà không bị một tổn thất nào.

* * *


Lần ra quân thứ hai của F-117A là cuộc hành quân Operation Allied Force của khối NATO, tức chiến dịch oanh tạc Serbia (ngày đó còn thuộc Cộng Hòa Liên Bang Nam Tư, tức Yugoslavia) để buộc Serbia phải rút quân khỏi tỉnh Kosovo, nơi họ tới yểm trợ phe Chính thống giáo trong cuộc diệt chủng người Albania theo Hồi giáo.

Chiến dịch oanh tạc này kéo dài từ ngày 24/3/1999 tới ngày 10/6 năm đó với kết quả Serbia đã phải rút quân khỏi Kosovo và chấp nhận cho lực lượng bảo vệ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tới kiểm soát vùng này.

Thiệt hại về phi cơ của NATO không đáng kể, nhưng rất tiếc trong số ít ỏi đó lại có một chiếc F-117A của Hoa Kỳ, bị hỏa tiễn của địch bắn rơi chỉ ba ngày sau khi chiến dịch oanh tạc khởi sự!

Theo trang mạng Wikipedia, vào ngày 27/3/1999, tại khoảng cách 13 km và trên cao độ 26,000 bộ (8 km), chiếc F-117A s/n 82-0806 đã bị ra-đa của Serbia khám phá, hai hỏa tiễn địa-không SA-3 Neva được phóng lên và hạ được chiếc F-117A này.

Phi công nhảy dù thoát hiểm và 6 tiếng đồng hồ sau đó được toán Pararescue của Mỹ cứu thoát.

Có tin đồn nói rằng kỹ thuật tàng hình trên chiếc phi cơ bị rớt đã được người Nga, và rất có thể cả người Tàu, nghiên cứu. Về phía Hoa Kỳ, họ đã không tìm cách phá hủy xác phi cơ; các viên chức cao cấp của Ngũ giác đài cho biết những kỹ thuật trên chiếc F-117A đã lỗi thời, không còn quan trọng để phải bảo vệ.

* * *


Nhưng theo bài viết mới đây của nhà báo Ashish Dangwal thì ngày ấy Trung Cộng (chứ không phải Nga) đã tìm mọi cách thu nhặt các mảnh vụn của chiếc F-117A bị rớt, trong khi người Mỹ ra sức cản trở, đưa tới việc oanh kích Tòa đại sứ Trung Cộng tại thủ đô Belgrade của Serbia (cũng là của Liên Bang Nam Tư).

Trước khi viết về vụ oanh kích Tòa đại sứ Trung Cộng, chúng tôi mời độc giả cùng tìm hiểu tại sao chiếc phi cơ “tàng hình” lại bị bắn hạ bởi SA-3, một loại hỏa tiễn phòng không đã có từ thời chiến tranh Việt Nam?!

Đây là một trong 12 chiếc F-117A được Hoa Kỳ đưa sang căn cứ không quân Aviano, Ý, vào giữa tháng 2/1999 để tham gia chiến dịch oanh tạc.

Chiều tối 27/3/1999, bốn chiếc F-117A thi hành nhiệm vụ oanh kích các mục tiêu gần Belgrade.

Vào khoảng 8 giờ tối, chiếc của Trung tá Dale Zelko, callsign “Vega-31” - một phi công F-117A kỳ cựu từng tham dự chiến tranh vùng Vịnh trước đây - sau khi hoàn tất nhiệm vụ đang trên đường quay về.

Thời gian này, quân đội Serbia chỉ được trang bị hai loại hỏa tiễn SAM (surface-to-air missile) đã lỗi thời là SA-2, SA-3 và một loại tương đối mới hơn là SA-6.

SA-2 là loại hỏa tiễn phòng không cỡ lớn, để bắn hạ phi cơ tầm 30 km trên cao độ 20 km; chính loại hỏa tiễn này đã bắn hạ chiếc thám thính cơ tối mật U-2 vào năm 1960, và sau này đã bắn hạ nhiều phi cơ Mỹ trên không phận Bắc Việt trong chiến tranh Việt Nam.

SA-3 thì có tầm bắn ngắn hơn và cao độ thấp hơn SA-2, ưu điểm của nó là được đặt trên giàn phóng lưu động và hỏa tiễn có hai tầng, khi chỉ còn một tầng sẽ dễ dàng tấn công mục tiêu một cách chính xác hơn.

Còn SA-6 thì nhỏ hơn SA-3, có cao độ rất thấp (từ 100m tới 3000m) để chống lại những phi cơ xuống thấp tấn công các lực lượng diện địa. (Hỏa tiễn SA-7 Strela trên chiến trường VN chính là một kiểu SA-6 thu nhỏ để đặt trên vai).

Thế nhưng, khác với trận chiến vùng Vịnh tám năm trước đó, nơi các phi cơ của Đồng Minh tung hoành như chỗ không người, lần này tại Serbia, NATO đã gặp đối thủ: Đại tá Zoltan Dani, người chỉ huy Lữ đoàn 250 Phòng không.

Rút kinh nghiệm qua thất bại của SA-2, SA-3 tại chiến trường Trung Đông, ông Dani đã đưa ra những biện pháp sau đây:

- Tận dụng khả năng cơ động của SA-3. Giảm tổng số giàn phóng xuống còn một nửa để có thêm chuyên viên phụ trách, kết quả thời gian chuẩn bị tác xạ của các giàn phóng cũng giảm chỉ còn một nửa.

- Cho bố trí nhiều giàn phóng giả, phi cơ MiG giả, ra-đa cũ (nhưng vẫn còn khả năng phát sóng) ở nhiều địa điểm khác nhau để đánh lừa các phi công, các hỏa tiễn diệt ra-đa và tai mắt của các phi cơ trinh sát điện tử & phá sóng ra-đa EA-6B.

- Tìm cách điều chỉnh biên độ sóng của hệ thống ra-đa phòng không P-18 (do Liên Xô chế tạo) xuống thấp tới mức tối đa, nằm ngoài tầm khám phá của các hệ thống báo động trên phi cơ EA-6B, và có thể khám phá ra F-117A trong bán kính 15 km.

Thêm vào đó, ông Dani còn nghiên cứu nội dung các cuộc điện đàm giữa các phi cơ làm nhiệm vụ tấn công với phi cơ EA-6B để đoán biết mô thức phối hợp hoạt động của NATO, từ đó tập trung hỏa lực đối phó.

Sau cùng, ông lợi dụng một điểm yếu của F-117A là vào lúc mở cửa khoang bụng để thả bom xuống mục tiêu, mức độ “tàng hình” của nó sẽ bị giảm bớt đáng kể, dù chỉ trong một thời gian rất ngắn cũng đủ để dàn ra-đa P-18 nhận diện, và cho các giàn hỏa tiễn SA-3 phục kích F-117A trên đường về.

Trong hai ngày đầu tiên của chiến dịch oanh tạc Serbia, chiến thuật phục kích mang tính cách “cầu may” của Đại tá Dani đã không có hiệu quả, nhưng qua ngày thứ ba, 27/3/1999, trời đã không phụ lòng người!

Hôm đó thời tiết rất xấu, tới mức các phi cơ EA-6B có nhiệm vụ phá sóng ra-đa của đối phương không thể cất cánh. Tuy nhiên, bộ chỉ huy chiến dịch vẫn cho bốn chiếc F-117 đi oanh kích các mục tiêu gần Belgrade vì tin rằng khả năng tàng hình của F-117A đủ để bảo đảm an toàn.

Sau khi thả hai trái bom hướng dẫn bằng laser xuống mục tiêu, chiếc F-117A của Trung tá Dale Zelko quay về.

Chỉ vài phút sau, ông nhìn thấy hai chấm sáng xuyên mây vút lên thật nhanh. Đó chính là hai hỏa tiễn SA-3 của Lữ đoàn 250 Phòng không đang nhắm tới chiếc F-117A với tốc độ Mach 3.5 (gấp ba lần rưỡi tốc độ âm thanh).

Ông Zelko lập tức khai triển mọi thao tác né tránh (evasive maneuvers) nhưng một trong hai hỏa tiễn đã tới gần sát, đầu đạn tự động nổ tung tạo thành một vùng sát hại rộng lớn.

Chiếc F-117A mất khả năng điều khiển, lao vùn vụt xuống đất với tốc độ khủng khiếp, lực quán tính mạnh tới mức ông Zelko không thể cử động để bấm nút phóng ghế thoát hiểm. May mắn thay, cuối cùng ông đã thành công!

Xuống tới mặt đất, ông cũng may mắn thoát được sự săn lùng của các đơn vị quân đội Serbia - mà sau này ông gọi là một phép lạ - để rồi sau 6 tiếng đồng hồ căng thẳng, toán Pararescue của Lực lượng Đặc nhiệm Không quân Mỹ (AFSOC: Air Force Special Operations Command) đã thành công trong việc cứu thoát người phi công lâm nạn.


* * *


Hơn một tháng sau ngày chiếc F-117A bị bắn hạ trên không phận Serbia, vào ngày 7/5/1999, Tòa đại sứ Trung Cộng tại Belgrade đã lãnh năm trái bom “chính xác tuyệt đối” từ các oanh tạc cơ tàng hình B-2 của Hoa Kỳ; kết quả có ba nhà báo Trung Cộng bị tử thương và hơn 20 người khác bị thương.



Tòa đại sứ Trung Cộng tại Belgrade sau khi bị ăn bom của B-2



Ngay sau đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã lên tiếng xin lỗi, nói rằng mục tiêu cuộc oanh tạc là một cơ sở của quân đội Serbia ở gần đó, nhưng vì “lệnh oanh tạc đã dựa trên một bản đồ cũ” nên mới gây ra “tai nạn” đáng tiếc này!

Dĩ nhiên, Trung Cộng không chấp nhận lời giải thích ấy và ra tuyên cáo lên án, gọi đây là một “hành động man rợ”.

Cũng may cho Hoa Kỳ là vào thời gian này Tổng thống Clinton của đảng Dân Chủ đang cầm quyền, được Bắc Kinh xưng tụng là một “người bạn tốt” cho nên sau khi ông Clinton đích thân xin lỗi và ra lệnh bồi thường “một cách tương xứng” cho phía Trung Cộng, sự việc mới bớt ồn ào.

Riêng tờ The New York Times tới tháng 4/2000 đã cho công bố kết quả cuộc điều tra riêng của họ, với kết luận “không có bất cứ bằng chứng nào cho thấy đây là một hành động cố tình”.

Nhưng gần một phần tư tế kỷ sau, mọi người được biết đây không phải là một “hành động vô tình”. Và “hành động cố tình” ấy có liên quan tới việc chiếc phi cơ tàng hình F-117A của Mỹ bị Serbia bắn hạ trước đó hơn một tháng.

Ở phần trên, chúng tôi đã trích dẫn một đoạn của Wikipedia:

“Về phía Hoa Kỳ, họ đã không tìm cách phá hủy xác phi cơ; các viên chức cao cấp của Ngũ giác đài cho biết những kỹ thuật trên chiếc F-117A đã lỗi thời, không còn quan trọng để phải bảo vệ.”

Nhưng trên thực tế “những kỹ thuật trên chiếc F-117A” vẫn chưa lỗi thời, sở dĩ Hoa Kỳ “không tìm cách phá hủy xác phi cơ” chỉ vì đây là một việc bất khả thi: nó bị rớt trên lãnh thổ Serbia!

LƯU Ý: Operation Allied Force của khối NATO chỉ sử dụng không lực, không có bất cứ lực lượng diện địa nào tham dự.

Viết một cách ngắn gọn, “những kỹ thuật trên chiếc F-117A” ấy đã lọt vào tay Trung Cộng trước sự bất lực của Hoa Kỳ!

Theo chi tiết trong bài báo của Ashish Dangwal, sau khi bị bắn hạ, chiếc F-117A đã rơi xuống một vùng nông trại ở phía tây thủ đô Belgrade của Serbia, gần biên giới Croatia. Trước khi quân đội tới nơi, một số mảnh vụn của phi cơ đã được các nông gia thu lượm, cất giấu.

Sau đó, Trung Cộng một mặt cho các điệp viên rảo khắp vùng nói trên để tìm mua các mảnh vụn từ tay nông gia, một mặt thương lượng với chính phủ Serbia để xin được “nhượng lại” lại tất cả mọi cơ phận của chiếc F-117A mà các đơn vị quân đội tìm thấy.

(Hiện nay, khách tham quan khi tới Viện bào tàng Hàng không Belgrade chỉ được chiêm ngưỡng cái nắp buồng lái (canopy) và một phần đầu cánh của chiếc F-117A được trưng bày).

Vì tính cách bí mật của các “món hàng” này, Trung Cộng phải tìm một nơi kín đáo để tạm thời cất giấu trước khi tẩu tán về nước. Và còn nơi nào kín đáo cho bằng tầng hầm của tòa đại sứ?!

Vậy mà người Mỹ cũng biết!

Số là có những bộ phận quan trọng trên chiếc F-117A được gắn “chip” phát tín hiệu để khi nó bị rớt, các phi cơ cứu nạn có thể tìm ra dễ dàng. Vì thế, sau khi thấy các tín hiệu của “Vega-31” (ở khu vực bị rớt) biến mất, Hoa Kỳ đã sử dụng phi cơ thám thính dò tìm khắp nơi, cả tháng sau mới được biết các bộ phận ấy đang nằm dưới tầng hầm của Tòa đại sứ Trung Cộng!

Đêm 7/5/1999, các oanh tạc cơ tàng hình B-2 được lệnh thi hành một phi vụ đặc biệt; “lệnh” này của CIA chứ không phải của Bộ tư lệnh NATO như thường lệ.

Mục tiêu của phi vụ là Tòa đại sứ Trung Cộng tại Belgrade. Có năm trái bom rớt trúng mục tiêu gây hư hại nặng nề cho tòa nhà 5 tầng kiên cố, sát hại ba nhà báo trong đó có một cặp vợ chồng, và gây thương tích hơn 20 người khác.

Một trong năm trái bom nói trên đã chui xuống tận tầng hầm của tòa đại sứ nhưng... không nổ!

Ngay sau đó, những gì thu thập từ chiếc F-117 lâm nạn đã được Trung Cộng bí mật đưa ra hỏi tầng hầm tòa đại sứ trong đêm tối để chuyển về nước, trước khi tòa nhà đổ nát được san bằng.

* Thành Đô J-20 “Uy Long”

Những bí mật thu thập được từ xác chiếc F-117A đã giúp Trung Cộng tiến một bước nhảy vọt trong việc nghiên cứu, chế tạo phi cơ tàng hình.

Vào thời gian này, cuối thập niên 1990, cả Nga lẫn Trung Cộng đang khởi sự nghiên cứu chế tạo phi cơ tàng hình. Phía Trung Cộng đặt tên cho chương trình của họ bí danh J-XX.

Những mảnh vụn của chiếc F-117A đã giúp các chuyên gia Trung Cộng đỡ tốn rất nhiều công sức nghiên cứu (mà chưa chắc đã thành công) bằng cách ứng dụng “kỹ thuật đảo ngược” (reverse engineering, trong nước gọi là “công nghệ đảo ngược”).

“Kỹ thuật đảo ngược” được định nghĩa: là công việc tháo gỡ một cơ phận hoặc thiết bị thành từng phần nhỏ nhất, nghiên cứu, phân tích một cách chi tiết hoạt động của nó, với mục đích chế tạo một cơ phận, một thiết bị hoạt động giống hệt nhưng không nhất thiết sao chép từ nguyên bản.”

Nhờ vậy, chỉ hơn bảy năm sau (2008), chiếc J-XX của Tập đoàn Hàng không Thành Đô (Chengdu Aerospace Corporation) đã được chọn để tiến hành công việc chế tạo chiếc phi cơ tàng hình đầu tiên của Trung Cộng.

Kiểu chiến đấu cơ thế hệ thứ năm này có tên gọi đầy đủ là Chengdu J-20 “Weilong” (Thành Đô J-20 “Uy Long), được khối NATO đặt cho xú danh “Fagin”, là tên một nhân vật chuyên tàng trữ và bán đồ ăn cắp trong truyện nhi đồng Oliver Twist của văn sĩ Anh Charles Dickens, xuất bản năm 1838.



J-20 “Uy Long” của Trung Cộng


Tháng 12/2010, chiếc J-20 thử nghiệm (prototype) thứ nhất lăn bánh (taxi) trên phi đạo của Viện Thiết kế Phi cơ Thành Đô. Ba tháng sau, chiếc này bay thử lần đầu tiên.

Tháng 5/2012, chiếc J-20 thử nghiệm thứ nhì bay thử.

Sau cùng, vào tháng 3/2014, tới lượt chiếc thử nghiệm thứ ba cũng là chiếc sau cùng bay thử - với nhiều chi tiết thay đổi được cho là “ăn cắp” từ F-22 Raptor, F-35 Lightning II của Mỹ (vụ án Su Bin đã nhắc tới ở trên).

Năm 2016, lần đầu tiên chiếc J-20 được trưng bày cho công chúng trong cuộc Triển lãm quốc tế về Hàng Không và Không gian Trung Hoa, tại thành phố Chu Hải (Zhuhai), tỉnh Quảng Đông.

Tháng 3/2017, J-20 được đưa vào hoạt động, và tới tháng 2/2018, đơn vị tác chiến đầu tiên của Không Quân Trung Cộng trang bị J-20 được chính thức thành lập. Trung Cộng trở thành quốc gia thứ hai trên thế giới (sau Hoa Kỳ) sử dụng chiến đấu cơ tàng hình.

* J-20 và F-35: bên tám lạng đàng nửa cân?

Hiện nay, đọc các bài viết về chiến đấu cơ thế hệ thứ năm (fifth-generation fighter) chúng ta thấy đa số tác giả đã so sánh chiếc J-20 của Trung Cộng với hai chiếc F-22 và F-35 của Mỹ, rất ít người so sánh với Su-57 của Nga.

Nguyên chính là vì chiếc Su-57 - bị NATO đặt xú danh “Felon” (Đại tội phạm) - đã không, hoặc chưa, cho thấy khả năng cũng như sự lợi hại của một chiến đấu cơ “tàng hình”.

Nguyên sau hơn 10 năm nghiên cứu của hai hãng Sukhoi và Mikoyan, tới năm 1999 Không Quân Nga đã chọn kiểu mẫu của hãng Sukhoi để tiến hành việc chế tạo chiếc chiến đấu cơ thế hệ thứ năm.

Đó là chiếc Su-57, dự trù thay thế hai chiếc Su-27 và MiG-29 của Không Lực Nga, và để xuất khẩu. Nhưng trong 11 năm tiếp theo, vì nhiều nguyên nhân trong đó có việc thiếu ngân sách, chương trình chế tạo, thử nghiệm Su-57 đã gặp nhiều khó khăn về kỹ thuật, đưa tới việc chiếc phi cơ thử nghiệm (prototype) thứ nhất, bay lần đầu vào năm 2010, chưa kịp giao cho Không Quân Nga thì đã bị rớt!

Trước đó, vào năm 2007, người Nga đã “dụ” được hãng phi cơ Hindustan Aeronautics Limited của chính phủ Ấn-độ hợp tác với hãng Sukhoi. Tới tháng 8/2010, Ấn-độ và Nga ký hợp đồng tám năm, mỗi bên góp vốn 6 tỷ Mỹ kim.

Tuy nhiên tới năm 2014, nhiều viên chức trong Không Quân Ấn-độ bắt đầu tỏ ra nghi ngại về khả năng và giá thành của chiếc Su-57, để rồi bốn năm đó (2018) khi hợp đồng tám năm chấm dứt, chính phủ Ấn-độ tuyên bố rút lui, viện lý do chiếc Su-57 không đáp ứng được những yêu cầu đã đưa ra.

Vì thế, công việc chế tạo Su-57 lại bị đình trệ, mãi tới tháng 12/2020, hãng Sukhoi mới giao cho Không Quân Nga những chiếc phi cơ đầu tiên.

Tính tới nay, Nga mới có 22 chiếc Su-57 và chỉ hoạt động trong lãnh thổ Nga thì dứt không phải là một lực lượng đáng ngại (trong khi Trung Cộng đã có từ 210 - 250 chiếc J-20, tính tới cuối năm 2023).

* * *


Tới đây viết về việc lượng giá chiếc J-20 của Trung Cộng và so sánh nó với hai chiếc F-22, F-35 của Mỹ.

Mặc dù truyền thông Trung Cộng ra sức đề cao khả năng “tàng hình” cũng như khả năng tác chiến của J-20 “Uy Long”, và được một vài nhà báo nước ngoài hùa theo (trong số đó có CSVN), xét về tất cả mọi mặt, chiếc phi cơ “thế hệ thứ năm” đầu tiên của Trung Cộng không thể nào sánh ngang, đừng nói chi tới vượt trội hai chiếc F-22, F-35 của Mỹ.

Nguyên nhân rất đơn giản: người Mỹ đã bắt tay vào việc nghiên cứu chế tạo phi cơ tàng hình vào giữa thập niên 1970 với kết quả là chiếc F-117 ra đời năm 1982, tiếp theo là chiếc oanh tạc cơ tàng hình B-2 vào năm 1987.

Mười năm sau (1997), khi chiếc F-22 đầu tiên bay thử, Trung Cộng mới khởi sự nghiên cứu chế tạo phi cơ tàng hình.

Chín năm sau (2006) người Mỹ cho bay thử chiếc F-35, thì phải đợi năm năm sau (2011) Trung Cộng mới bắt đầu bay thử chiếc J-20.

Một cách ngắn gọn, Trung Cộng đi sau Mỹ gần ¼ thế kỷ thì có tài giỏi tới đâu, có “chôm chĩa” hay tới mức nào cũng không thể bằng Mỹ, cũng là điều dễ hiểu!

Trước hết, so sánh J-20 với F-22.

Cho tới nay, các chuyên gia hàng không quân sự và tướng lãnh Mỹ vẫn tin rằng không một chiến đấu cơ nào trên thế giới có thể so sánh với F-22 về tốc độ, thao tác (maneuverability), kỹ thuật tân tiến và khả năng trang bị (các loại hỏa tiễn, đại bác 20 ly).



F-22 Raptor


Chính vì thế, F-22 bị Quốc hội Mỹ cấm bán cho các quốc gia khác vì có quá nhiều kỹ thuật bí mật (giống trường hợp của F-14, F-117 trước đây). Đồng thời các phi công F-22 cũng được khuyến cáo khi tham gia các cuộc tập trận hoặc biểu diễn cho công chúng không nên thi thố khả năng tối đa của phi cơ để đối phương biết hết “tẩy”!

Nguyên nhân đưa tới việc Hoa Kỳ ngưng chế tạo F-22 vào năm 2011 chỉ đơn thuần vì họ phải dành ngân sách cho chiếc F-35. Bên cạnh đó, số lượng F-22 hiện có (195 chiếc) cũng đủ để đáp ứng nhu cầu can thiệp ở bất cứ nơi nào trên thế giới, đồng thời người Mỹ tin rằng F-22 sẽ tiếp tục “bá chủ bầu trời” cho tới khi được thay thế bằng một chiến đấu cơ thuộc thế hệ thứ 6 vào thập niên 2030. Chương trình này có tên gọi Next Generation Air Dominance (NGAD), đã được khởi sự vào năm 2014.

Chiếc J-20 chỉ hơn chiếc F-22 về trọng lượng bom đạn và nhiên liệu mang theo (trong thân phi cơ) nhưng hai cái “hơn” này chẳng dính dáng gì tới việc đọ sức trên không (dogfight) vốn là nhiệm vụ chính của F-22.

Việc chiếc J-20 được thiết kế hai cánh nhỏ ở mũi (canard) thay cho cánh đuôi để đề phòng việc bị mất điều khiển (stall) khi thao tác cũng bị nhiều người đặt dấu hỏi về sự hữu hiệu của nó.

[Chiếc J-20 đã bắt chước những kiểu phi cơ nổi tiếng với “cánh mũi” như Dassault Rafale của Pháp, Saab JAS 39 của Thụy-điển, Sukhoi Su-34 của Nga...]

Vì thế, tuy J-20 cũng được Trung Cộng gọi là “stealth air superiority fighter” (giống như người Mỹ gọi chiếc F-22), chúng ta chỉ nên so sánh nó với F-35, vì hiện nay cả hai chiếc đều được xem là “multirole combat aircraft” (phi cơ đa năng) thuộc thế hệ thứ năm, sẽ trở thành vũ khí chính của Trung Cộng và Hoa Kỳ cùng nhiều quốc gia khác trong thập niên trước mắt.



F-35 Lightning II


Trước hết, xét về đặc điểm và khả năng, J-20 có tốc độ nhanh hơn F-35 (Mach 2.2 so với Mach 1.6), trang bị vũ khí nhiều hơn trong đó có hỏa tiễn không đối không tầm xa (200-300 km so với của Mỹ tối đa 160 km).

Nhưng về khả năng tàng hình thì J-20 dứt khoát thua F-35. Cũng nên biết trong khi khả năng tàng hình của các phi cơ Mỹ (không kể F-117A nay đã về hưu) có được chủ yếu nhờ hình dạng và lớp sơn chống ra-đa thì phi cơ tàng hình của Trung Cộng chủ yếu nhờ vào hợp kim chế tạo có khả năng vô hiệu hóa sóng ra-đa.

Giải thích: Trung Cộng ăn cắp được những mảnh vụn của “xác” chiếc F-117A nên đã nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật tàng hình của chiếc phi cơ này (mà nay đã bị Hoa Kỳ xem là lạc hậu).

Một yếu tố khác khiến khả năng tàng hình của chiếc J-20 bị giảm bớt là do sự thiếu ổn định (negative stability) nên đã phải gia tăng diện tích cánh tối đa để cân xứng với chiều dài.

Còn nhớ vào năm 2018, sau khi Ấn-độ tuyên bố rút lui, không tiếp tục hợp tác với Nga trong việc chế tạo chiếc Su-57, trong một cuộc họp báo khi bị phóng viên hỏi “vậy Ấn-độ sẽ lấy cái gì để chống lại J-20 của Trung Cộng?”, Thống chế B.S. Dhanoa, Tham mưu trưởng Không Quân Ấn-độ, đã tuyên bố chiếc Su-30MKI của Nga được hãng Hindustan Aeronautics Limited cải tiến đã “đủ tốt”, và “có khả năng khám phá chiếc J-20 khi còn cách xa nhiều km”!



Bốn chiến đấu cơ tàng hình


Vì thế, theo các chuyên gia, khi tấn công các mục tiêu diện địa, J-20 dễ bị ra-đa khám phá hơn F-35. Cho nên nó sẽ chỉ đắc dụng trong việc tấn công các chiếm hạm ngoài khơi, các phi cơ cảnh báo (airborne early warning and control - AEW & C) chậm chạp, các phi cơ tiếp tế nhiên liệu trên không kềnh càng... một cách bất ngờ rồi dzọt cho lẹ, bởi vì khả năng tàng hình của J-20 chỉ đáng kể ở mặt trước, tức là trên đường bay tới mục tiêu mà thôi.

Bên cạnh đó, F-35 còn hơn J-20 nhờ khả năng mang bom nguyên tử chiến thuật/chiến lược “B61 mod 12”.

Về đối đầu trên không, trong khi J-20 chiếm ưu thế về tốc độ và có thể phóng hỏa tiễn không đối không từ khoảng cách 200, 300 km thì F-35 lại tàng hình hay hơn, và khi quần thảo (dogfight) chắc chắn sẽ ăn đứt với khả năng thao tác lanh lẹ và khẩu đại bác GAU-22/A 25 ly bốn nòng vô cùng lợi hại được cải tiến riêng cho F-35.

Từ đó người ta có thể suy ra khi nghiên cứu chế tạo chiếc J-20, các chuyên gia Trung Cộng đã không có tham vọng tạo được ưu thế khi quần thảo với chiến đấu cơ địch. Bởi một khi thiếu khẩu đại bác, J-20 không chỉ thua khả năng cận chiến của F-22, F-35 mà còn thua cả những chiến đấu cơ thuộc “thế hệ 4.5” (generation 4.5) của tây phương, như Dassault Rafale của Pháp, Eurofighter Typhoon của Âu châu, và F-15EX Eagle II của Mỹ.

Chỉ có điều đáng lo ngại là trong trường hợp xảy ra cuộc xâm lược Đài Loan mà Trung Cộng vẫn thường hăm he, những chiếc F-16 đời mới nhất (F-16V Viper) của đảo quốc này khó lòng mà đương cự với J-20.

Nhưng nếu Hoa Kỳ giữ lời hứa bảo vệ Đài Loan bằng mọi giá, thì những “Uy Long” J-20 khó lòng sống sót khi đụng độ với F-22, hoặc F-35 được F-22 hộ tống.

Thế nhưng (lại “nhưng”), theo lời cảnh giác của Đại tướng Kenneth Wilsbach, Tư lệnh Không Lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (Pacific Air Forces - PACAF), nếu Trung Cộng kéo ra cả bầy - hàng ngàn chiến đấu cơ cũ mới - lấy thịt đè người, không hiểu trong cuộc “hỗn chiến” ấy, ai sẽ thắng ai?! (Chú thích)

Thiên Ân




CHÚ THÍCH:

Không Quân Trung Cộng, danh xưng chính thức là “Không Lực Giải Phóng Quân Nhân Dân Trung Hoa” (People's Liberation Army Air Force) tuy chỉ là không lực đứng hàng thứ ba trên thế giới với khoảng 3,500 phi cơ các loại (Hoa kỳ: khoảng 5,500 phi cơ, Nga: khoảng 4,000) nhưng lại có lực lượng chiến đấu cơ đông đảo nhất: trên 2,000 chiếc.

Theo trang mạng International Institute For Strategic Studies (IISS), hiện nay Không Quân Trung Cộng đang sử dụng những các loại chiến đấu cơ sau đây (từ cũ tới mới) :

- Chengdu J-7, là chiếc MiG-21 chế tạo nhượng quyền, bắt đầu sử dụng năm 1966, 489 chiếc
- Shenyang J-8, là chiến đấu cơ do hãng Shenyang (Thẩm Dương) cóp-bi từ MiG-21, nhưng to xác hơn, khả năng không chiến cao hơn, sử dụng từ năm 1980, 78 chiếc
- Chengdu J-10, cóp-pi chiếc F-16 của Mỹ, 600 chiếc
- Sukhoi Su-27, mua của Nga, 32 chiếc
- Shenyang J-11, là Su-27 chế tạo nhượng quyền, 225 chiếc
- Shenyang J-16, căn bản dựa trên chiếc Su-27 nhưng cải tiến toàn bộ, kể cả khung phòng, 250 chiếc
- Sukhoi Su-30, mua của Nga, 73 chiếc
- Sukhoi Su-35, mua của Nga, 24 chiếc
- Chengdu J-20, chiến đấu cơ tàng hình đầu tiên của Trung Cộng, từ 210 tới 250 chiếc.

Cookies user preferences
We use cookies to ensure you to get the best experience on our website. If you decline the use of cookies, this website may not function as expected.
Accept all
Decline all
Analytics
Tools used to analyze the data to measure the effectiveness of a website and to understand how it works.
Google Analytics
Accept
Decline
Advertisement
If you accept, the ads on the page will be adapted to your preferences.
Google Ad
Accept
Decline
Save