BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 4)
Những người muôn năm cũ…
Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện

*Những bộ nhớ thời “khuyết sử”
(tiếp theo)
Trở lại với những vị niên trưởng chúng tôi được quen biết trong thời gian biên soạn cuốn Quân Sử Không Quân VNCH, cựu Đại tá Trần Phước, nguyên Chỉ huy phó TTHLKQ Nha Trang, tuy không phải là người chúng tôi liên lạc thường xuyên nhưng sự quý mến tôi dành cho ông không thua bất cứ vị niên trưởng nào tôi được hân hạnh quen biết.

Chúng tôi không liên lạc thường xuyên với NT Trần Phước vì hầu như tất cả những gì ông còn nhớ về binh nghiệp của mình nói riêng, về quân chủng Không Quân nói chung đã được ông viết để phổ biến trên trang Bạn Già Không Quân (BGKQ) của cựu Đại tá Nguyễn Quang Tri.
Vào thời gian chúng tôi bắt tay vào việc biên soạn cuốn QSKQ thì trang nhà BGKQ đã ra đời được mấy năm. Trong bài “Khóc Bạn Già Không Quân”, anh Võ Ý viết về trang nhà này như sau:
Vào khoảng năm 2000, sau khi về hưu, anh (Nguyễn Quang Tri) tìm tòi học hỏi về vi tính và đùng một cái, anh cho ra đời trang nhà mang tên “Bạn Già Không Quân”, với chủ trương thắt chặt tình quân chủng, giữ vững lập trường và cùng học hỏi giải trí những điều bổ ích ở tuổi cuối đời. Bạn Già Không Quân nhanh chóng trở thành một Tổ Ấm và là Nơi Gặp Gỡ hằng ngày cho hầu hết các cánh chim tự do xa xứ. Đại đa số KQ có tuổi đều vào xem và viết bài tô điểm cho trang nhà nầy, mà theo tôi thì nhà văn KQ Mệ, tức niên trưởng Đại tá Trần Phước và niên trưởng Đằng Vân (Đại tá Đặng Văn Hậu) là hai trong những nhân vật cột trụ của BGKQ. Hình như cái tên bình dị thân thương của trang nhà là do Mệ gợi ý đặt tên cho đó! (ngưng trích)
* * *
Một cách ngắn gọn có thể viết NT Trần Phước là một con người đáng mến phục, một cấp chỉ huy đầy khả năng, tận tụy với nhiệm vụ được trao phó nhưng lại kém may mắn trong binh nghiệp, nhập ngũ sớm hơn ai hết mà chức vụ sau cùng chỉ là “phó”: Chỉ huy phó TTHLKQ Nha Trang.

Năm nay NT Trần Phước đã 96, 97 tuổi, là một trong hai vị niên trưởng (tên tuổi) thọ nhất của Không Quân; vị kia là cựu Đại tá Đinh Văn Chung, nguyên Tham mưu phó Chiến Tranh Chính Trị BTL/KQ, người mà chúng tôi không có tin tức gì từ mấy năm qua.
NT Trần Phước là người Huế, nhà nghèo (theo lời ông), không có chút máu “hoàng tộc” nào cả; nick name “Mệ”, sau này trở thành bút hiệu của ông chẳng qua do anh em KQ cùng khóa (Quan sát viên) đặt cho vì ông là người duy nhất nói tiếng Huế.
Chúng tôi không được biết tuổi của ông Đinh Văn Chung, chỉ biết trong khi là “đàn anh bay bổng” của ông Trần Phước thì ông Chung lại là “đàn em quân ngũ: ông học Khóa 3 Sĩ Quan Hiện Dịch, ông Trần Phước Khóa 2.
Trong KQVN, nếu chỉ tính những sĩ quan xuất thân từ các quân trường của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thì ông Trần Phước và ông Trần Văn Hổ, vị tư lệnh đầu tiên của KQVN, là thâm niên nhất: hai ông xuất thân Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch.
Nguyên vào ngày 1 tháng 12 năm 1948, Chính phủ Quốc Gia Việt Nam đã thành lập Trường Sĩ Quan Việt Nam ở địa danh Đập Đá, trên hữu ngạn sông Hương, Huế, với mục đích đào tạo sĩ quan hiện dịch, các cấp chỉ huy tương lai cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.
Sau khi đào tạo được 2 khóa - Khóa 1 Phan Bội Châu (1948-1949) và Khóa 2 Quang Trung (1949-1950) - trường sở được chuyển vào Đà Lạt sáp nhập với Trường Võ Bị Liên Quân Viễn Đông của Quân đội Pháp và đổi tên thành Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Năm 1959, trường được đổi tên thành Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.
Khóa 2 có 103 người tốt nghiệp, trong đó có 2 người về sau lên tới cấp Trung tướng là Ngô Du, Nguyễn Văn Mạnh, 3 người lên Thiếu tướng là Lê Ngọc Triển, Hoàng Văn Lạc, Huỳnh Văn Cao.
Ở đây tôi chỉ nhắc tới ông Huỳnh Văn Cao.
Sau khi mãn khóa, Thiếu úy Huỳnh Văn Cao phục vụ tại các đơn vị tác chiến cho tới cuối năm 1954, sau khi ông Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ tướng, ông Cao đang mang cấp bậc Đại úy được trao chức vụ Sĩ quan Liên lạc của Thủ tướng, rồi được thăng cấp Thiếu tá, giữ chức Tham mưu trưởng Biệt bộ phủ Thủ tướng (sau 26/10/1955 trở thành Biệt bộ phủ Tổng thống).
Theo một số sĩ quan cựu trào, ngày ấy chính Thiếu tá Huỳnh Văn Cao đã có công tiến cử người bạn đồng khóa là Trung úy Trần Văn Hổ làm tư lệnh đầu tiên của Không Quân VN vào cuối tháng 8 năm 1955.
Nguyên vào thời gian này, Thủ tướng Ngô Đình Diệm mới truất chức Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, một người thân Pháp, để đưa Thiếu tướng Lê Văn Tỵ lên thay, nhưng trong quân đội vẫn còn nhiều người thuộc phe tướng Hinh, ông Diệm không biết tin ai nên đã đưa Trung tá Nhảy dù Nguyễn Khánh tạm thời giữ chức Phụ tá Không Quân (sau đổi thành Tư lệnh KQ) do Đại tá Sagon bàn giao vào ngày 1/7/1955.
Trước đó một ngày, 30/6/1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã đề cử Thiếu tướng Trần Văn Đôn, Phụ tá Tổng tham mưu trưởng, tạm thời kiêm nhiệm chức vụ Trưởng Ban Hải Quân do Đại tá Récher bàn giao.
Sau đó, ông Diệm mới có thì giờ chọn mặt gửi vàng trong số các sĩ quan của Không Quân và Hải Quân.
Bên Hải Quân, lúc đó Thiếu tá Lê Quang Mỹ, cùng Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch với các ông Huỳnh Văn Cao, Trần Văn Hổ, Trần Phước, là tên tuổi nổi bật.
Nguyên sau khi mãn khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch, ông Lê Quang Mỹ xin thuyên chuyển sang Hải Quân, theo học Khóa 1 tại Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang.
Tới đầu năm 1955, ông đã mang cấp Thiếu tá, giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Giang Lực.
Trong một bài trước đây, tôi viết ngày ấy nhiều người tin rằng ông Huỳnh Văn Cao đã có công tiến cử hai bạn đồng khóa là Trung úy Trần Văn Hổ và Thiếu tá Lê Quang Mỹ, nhưng sau đó qua tìm hiểu về tình hình nhân sự trong Hải Quân VN lúc đó cũng như cấp bậc, chức vụ của ông Lê Quang Mỹ, tôi tin rằng cho dù không có sự tiến cử của ông Huỳnh Văn Cao, Thủ tướng Ngô Đình Diệm cũng sẽ chọn ông Lê Quang Mỹ.
Nguyên nhân: ông Lê Quang Mỹ là sĩ quan Hải Quân duy nhất mang cấp bậc Thiếu tá vào thời điểm này, và là vị sĩ quan Hải Quân người Việt duy nhất đang nắm chức vụ chỉ huy không dưới quyền một người Pháp nào, đương nhiên không thuộc phe cánh của Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, thì việc ông được Phủ Thủ tướng chọn làm Tư lệnh đầu tiên của Hải Quân Việt Nam cũng là một điều dễ hiểu.
Và cũng dễ hiểu khi Thiếu tá Huỳnh Văn Cao, Tham mưu trưởng Biệt bộ phủ Thủ tướng, đã nhớ tới một người bạn khác cùng Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch - Trung úy Trần Văn Hổ - để tiến cử vào chức vụ Tư lệnh đầu tiên của Không Quân.
Bởi nếu không có sự tiến cử của Thiếu tá Huỳnh Văn Cao, làm sao Phủ Thủ tướng biết tới tên tuổi ông Trần Văn Hổ, một người đang mang cấp bậc Trung úy, không giữ chức vụ quan trọng, không được nhiều người trong Không Quân biết tới như Thiếu tá Võ Dinh, Chỉ huy trưởng Căn Cứ 1 Chiến Thuật Không Quân (Nha Trang), Đại úy Nguyễn Ngọc Oánh, Chỉ huy trưởng TTHLKQ, Đại úy Đinh Văn Chung, Chỉ huy trưởng Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc, Đại úy Nguyễn Cao Kỳ, Chỉ huy trưởng Phi Đoàn 1 Vận Tải, v.v...
Kết quả, vào cuối tháng 8 năm 1955, Thiếu tá Lê Quang Mỹ và Thiếu tá Trần Văn Hổ (vừa được thăng Đại úy thực thụ, Thiếu tá nhiệm chức) được Thủ tướng Ngô Đình Diệm ký quyết định bổ nhiệm làm Tư lệnh đầu tiên của Hải Quân và Không Quân VN.
(Trên giấy tờ, chức vụ của hai ông lúc đó gọi là “Trưởng Ban Hải Quân” và “Phụ Tá Không Quân”, tới năm 1957 mới đổi thành “Tư lệnh”)
* * *
Trở lại với Đại tá Trần Phước và đường vào Không Quân của ông, trong hồi ký “Mộng Bay Bổng” ông cho biết ước mơ trở thành phi công đã nhem nhúm trong lòng ông từ thuở nhỏ, nhưng chỉ là mộng tưởng vì “con nhà nghèo, đất nước lại đang bị Pháp đô hộ, làm sao sau này có thể trở thành phi công được” (lời ông).
Sau khi tốt nghiệp Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch, Thiếu úy Trần Phước phục vụ ba năm bên Lục Quân, lần lượt giữ các chức vụ Trung đội trưởng Tiếp Vận, Sĩ Quan Mìn Bẫy của hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị, rồi lần lượt giữ chức Trưởng Đồn các đồn Hương Cần, Hạ Lang, Phò Trạch.
Bước sang năm 1952, ông được đổi về Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn, giữ chức vụ Đại đội trưởng Đại Đội Chỉ Huy, đóng tại Mỹ Chánh. Nhờ đó ông có dịp biết được nhiều tin tức liên quan tới việc tuyển chọn vào Không Quân qua các văn thư Tiểu Đoàn nhận được.
Giữa năm 1952 có lệnh tuyển sĩ quan cấp Thiếu úy, Trung úy theo học Khóa 1 Quan sát viên, ông liền nộp đơn, sau đó nhận được lệnh về trình diện Phòng Không Quân (Département Air) ở Sài Gòn cùng với 5 sĩ quan khác đi khám sức khỏe; tất cả đều được nhận (vì khám Quan sát viên không khó như Hoa tiêu).
Sáu người gồm:
- Phùng Văn Chiêu
- Nguyễn Đình Giao
- Lê Minh Luân
- Đỗ Khắc Mai
- Đinh Thạch On
- Trần Phước
Khóa 1 Quan sát viên khai giảng vào đầu tháng 10/1952, kéo dài 6 tháng. Sau đó tất cả được đưa về Phi Đoàn 1 Quan Sát dưới quyền Trung úy Nguyễn Ngọc Oánh để bay hành quân trên phi cơ MS-500 Criquet (máy bay Bà Già) với tư cách quan sát viên.
Trong hồi ký “Mộng Bay Bổng” ông Trần Phước cho biết mặc dù chương trình huấn luyện quan sát viên ở TTHLKQ có 8 giờ phi huấn nhưng sau khi ra đơn vị, các ông chưa bao giờ được... cầm cần lái!
“Suốt thời gian làm quan sát viên, khi bay bổng, ngồi đằng sau, còn anh hoa tiêu cầm cần lái ngồi đằng trước. Hôm nào thời tiết tốt, anh hoa tiêu vui vẻ, bay bổng đàng hoàng, thì anh quan sát viên cảm thấy dễ chịu; nếu ngược lại thì anh quan sát viên ”lãnh đủ”. Có hôm tôi mệt đừ người, ói ra mật xanh mật vàng, lúc đó tôi mới cảm thấy “thấm thía” về ước mơ của tôi lúc trước. Sự kiện này giúp tôi quyết tâm trở thành hoa tiêu, tự cầm cần lái, điều khiển phi cơ mới toại nguyện”. (ngưng trích)
Trong năm 1955, sau khi người Pháp bàn giao căn cứ Không Quân Nha Trang cho KQVN, Thiếu tá Võ Dinh làm Chỉ huy trưởng căn cứ, Thiếu tá Nguyễn Ngọc Oánh coi TTHLKQ thì Đại úy Trần Phước được chỉ định làm Chỉ huy trưởng Phi Đoàn 1 Quan Sát.
Thời gian này một số lớn hoa tiêu của Phi Đoàn đã xin đi học các khóa khu trục, vận tải ở Pháp hoặc Bắc Phi, còn lại một mình với những nhân viên phi hành mới, ông Trần Phước gặp rất nhiều khó khăn với các hoa tiêu về vấn đề an phi vì ông... không biết bay! Vì thế ông xin đi học khóa hoa tiêu và được Phòng Không Quân chấp thuận.
Đại úy Trần Phước theo học Khóa 5 Hoa tiêu Quan Sát tại TTHLKQ Nha Trang (Đại úy Nguyễn Hữu Tần vừa từ Lục Quân thuyên chuyển sang Không Quân cũng học khóa này và đậu thủ khoa).

Qua năm 1956, Phi Đoàn 1 Quan Sát được lệnh di chuyển từ Nha Trang ra đồn trú tại căn cứ không quân Tourane của người Pháp, tức Đà Nẵng. Một số Không Quân cựu trào vẫn còn nhớ trước khi Thiếu tá Võ Dinh từ Biên Hòa ra chính thức tiếp nhận căn cứ, được đặt tên Căn Cứ 4 Trợ Lực Không Quân, thì hợp đoàn MS-500 do Đại úy Trần Phước dẫn đầu chính là những cánh chim đầu tiên của KQVN đáp xuống phi trường “xa lạ” này.
* * *
Tới đây tôi xin điểm qua kỷ lục “làm phó bốn đời rưỡi” của NT Trần Phước. Theo hồi ký có cùng tựa của ông thì khi xảy ra cuộc đảo chánh lật đổ TT Ngô Đình Diệm vào đầu tháng 11/1963, ông đang làm Chỉ huy trưởng Căn Cứ 4 Trợ Lực (Đà Nẵng) bị đưa về BTL/KQ làm Tham mưu phó Nhân Viên.
Vào thời gian này cuộc tranh giành quyền lực tại miền Nam VN, trên chính trường cũng như trong quân đội, đang diễn ra gay gắt, cho nên trong vòng chưa đầy một tháng, ông bị mất “ghế” tới hai lần. Chức vụ Tham mưu phó Nhân Viên được trao cho một người khác còn ông khăn gói ra Nha Trang làm Chỉ huy phó TTHLKQ.
Chỉ huy trưởng lúc đó là Trung tá Lê Trung Trực, nguyên là Tham mưu trưởng đầu tiên của KQVN. Vì tình trạng hoang mang, từ trên xuống dưới không ai biết ai đi ai ở, lệnh lạc từ trung ương không có, mọi công việc gần như bị đình chỉ, ai cũng tà tà...
Mấy tháng sau, tháng ông Lê Trung Trực, lúc này đã mang lon Đại tá, về Tân Sơn Nhất ngồi chơi xơi nước.
Người thay thế ông Lê Trung Trực là Trung tá Phạm Ngọc Sang, nguyên Chỉ huy trưởng Phi Đội Liên Lạc (thường gọi là Phi Đoàn VIP), phi công riêng của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
NT Trần Phước hồi tưởng:
“Thời gian này tôi cảm thấy hết sức thoải mái, vì chánh, phó đồng cảnh ngộ (bị thất sủng), cấp bực ngang nhau, cũng như tuổi tác xấp xỉ nên cũng dễ thông cảm và hòa hợp”.
Tới giữa năm 1965, Trung tá Phạm Ngọc Sang được đưa về Tân Sơn Nhất nắm chức Tư lệnh Không Đoàn 33 Chiến Thuật, ông Trần Phước lại có sếp mới là Trung tá Nguyễn Văn Ngọc.
Ông Nguyễn Văn Ngọc (sau lên Đại tá, giữ chức Tham mưu phó Hành Quân BTL/KQ) xuất thân Khóa 1 Nam Định, là một người hăng say, tận tụy với công việc cho nên ông Trần Phước và mọi người ở TTHLKQ cũng... mệt theo.
Trong hồi ký của mình, ông Trần Phước kể lại ông và ông Nguyễn Văn Ngọc rất hạp nhau, về tánh tình, sở thích cũng như trong công việc.
Rất tiếc Trung tá Nguyễn Văn Ngọc chỉ coi TTHLKQ được hơn một năm rồi được đưa về BTL/KQ làm Tham mưu phó Hành Quân.
Vị chỉ huy trưởng kế tiếp của TTHLKQ là Trung tá Võ Xuân Lành, nguyên Tư lệnh Không Đoàn 23 Chiến Thuật ở Biên Hòa, làm chỉ huy trưởng từ tháng 11/1965 tới tháng 6/1966.
Khi Trung tá Võ Xuân Lành về BTL/KQ làm Tham mưu trưởng (tháng 6/1966) thì người thay thế không phải là Trung tá Trần Phước mà lại là Thiếu tá Ông Lợi Hồng (Khóa 53E Marrakech).
Trong hồi ký của mình, NT Trần Phước viết:
“Nay vị chỉ huy mới của TTHLKQ là Thiếu tá Ông Lợi Hồng. Dĩ nhiên tôi phải rời quân trường nầy vì không lẽ một ông sĩ quan cấp bực cao hơn lại làm phó cho một ông sĩ quan cấp bực thấp hơn? Dẫu cho một quân đội chậm tiến và bè phái đến đâu cũng không có chỉ định ngược đời như vậy.
Kể từ tháng 6 năm 1966, tôi bị biệt phái tới Trường Đại Học Quân Sự Đà Lạt... (ngưng trích)
Đúng ba năm sau, tháng 6/1969, BTL/KQ đưa một vị Đại tá (tôi quên tên) ra thay Đại tá Trần Phước, để gửi ông sang Hoa Kỳ học hỏi cách thức điều hành trường Squadron Officers School (SOS) của KLHK để về thành lập Trường Chỉ Huy Tham Mưu Trung Cấp cho Không Quân VN.
Về nước, ông Trần Phước đề nghị BTL/KQ đặt cơ sở của Trường Chỉ Huy Tham Mưu Trung Cấp tại Tân Sơn Nhất, trực thuộc Khối Huấn Luyện (năm 1970 trở thành Văn Phòng TMP Huấn Luyện).
Đề nghị này xét ra rất hợp tình hợp lý, các sĩ quan theo học khóa Chỉ Huy Tham Mưu Trung Cấp được học tại Sài Gòn, không phải khăn gói ra Nha Trang, về phần Đại tá Trần Phước thì với tư cách Giám đốc trường sẽ được xem như một đơn vị trưởng chứ không phải làm “phó” cho ai cả.
Rất tiếc đề nghị này không được BTL/KQ chấp thuận, Trường Chỉ Huy Tham Mưu Trung Cấp sẽ trực thuộc TTHLKQ và nằm ở Nha Trang.
Thế là Đại tá Trần Phước lại cầm sự vụ lệnh về TTHLKQ để làm “phó” cho ông Chỉ huy trưởng.
Vị Chỉ huy trưởng lần này là Đại tá Nguyễn Ngọc Oánh, xuất thân Khóa 3 Sĩ Quan Hiện Dịch (Đà Lạt) và Khóa 1 Hoa Tiêu (Nha Trang), tức là “đàn em quân ngũ” nhưng lại là “đàn anh bay bổng” của ông Trần Phước.
Đại tá Trần Phước làm Chỉ huy phó TTHLKQ kiêm Giám đốc Trường Chỉ Huy Tham Mưu Trung Cấp cho tới đầu năm 1973, khi trường dời cơ sở về Tân Sơn Nhất. Dời về nhưng vẫn trực thuộc TTHLKQ cho nên ông xin ở lại Nha Trang tiếp tục làm... Chỉ huy phó, còn chức Giám đốc Trường Chỉ Huy Tham Mưu thì trao cho vị Phó giám đốc là Đại tá Đặng Văn Hậu.
Tính cho tới ngày phải bỏ nước ra đi, NT Trần Phước đã làm Chỉ huy phó TTHLKQ cho Đại tá (sau lên Chuẩn tướng) Nguyễn Ngọc Oánh trong thời gian 4 năm rưỡi, lâu nhất trong bốn lần làm “phó” của ông.
* * *
Tới đây cũng xin viết đôi dòng về chữ “rưỡi” trong tựa bài “Làm phó bốn đời rưỡi” của NT Trần Phước.
“Bốn đời” là bốn lần làm Chỉ huy phó TTHLKQ đã đề cập tới ở trên, còn “rưỡi” là ba năm bị biệt phái tới Trường Đại Học Quân Sự Đà Lạt, từ tháng 6/1966 tới tháng 6/1969, và trong thời gian này ông được thăng cấp đại tá, được xử lý thường vụ chức vụ Chỉ huy phó trong một thời gian ngắn.
Trước hết viết về việc ông được thăng cấp đại tá. Khi được biệt phái tới Trường Đại Học Quân Sự, cũng giống như các huấn luyện viên tới từ các quân binh chủng khác, ông chỉ thuyết trình về Không Quân hai ngày cho mỗi khóa Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp, nhưng vì là người mang cấp bậc cao nhất (Trung tá), ông được vị Chỉ huy trưởng của trường là Đề đốc Chung Tấn Cang chỉ định làm sĩ quan phối hợp giữa các Khối để soạn thảo cuốn Huấn Lệnh Điều Hành cho trường, ngoài ra ông còn phụ trách soạn thảo chương trình các buổi lễ cũng như đặc trách phần lễ nghi quân cách.
Rất có thể vì đảm trách những công việc nói trên, ông đã được Trường đề nghị Bộ TTM thăng cấp Đại tá.
Việc Trung tá Trần Phước được lên Đại tá trong thời gian mà ông gọi là “Ba Năm Lưu Đày” đã khiến BTL/KQ hết sức ngạc nhiên và... không vui.
Thực ra hai chữ “không vui” là do tôi suy diễn chứ không phải do miệng NT Trần Phước nói ra. Tôi suy diễn như thế vì nhớ lại cái lon “Lục Quân” của Trung tá Lê Bá Định ở Pleiku năm xưa.
Việc này tôi đã viết ở phần đầu hồi ký, nay chỉ nhắc sơ lại. Ngày ấy, năm 1969, Thiếu tá Lê Bá Định bị đày ra Pleiku làm Trưởng Phòng Chiến Tranh Chính Trị, Căn Cứ 92 Không Quân.
Viết là bị “đày” vì ông vốn là một trong bốn phi công khu trục xuất sắc nhất của Khóa 58A Trần Duy Kỷ: nhất Nghĩa nhì Lan tam Danh tứ Định (Chế Văn Nghĩa, Lê Xuân Lan, Đặng Thành Danh, Lê Bá Định), từng giữ các chức vụ Chỉ huy phó Phi Đoàn 1 Khu Trục ở Biên Hòa, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn 62 Tác Chiến ở Nha Trang, nay bị đưa lên xứ Thượng coi dăm ba mạng lính văn phòng ở cái căn cứ bé nhỏ nhất của Không Quân.
Cuối năm 1970, trong chương trình “Việt Nam hóa” chiến tranh, Không Đoàn 72 Chiến Thuật được thành lập tại Pleiku, gồm bốn phi đoàn 530 khu trục, 118 quan sát, 229 và 235 trực thăng.
Lúc đầu ông Định chỉ coi 530 nhưng sau khi Trung tá Nguyễn Văn Trang, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn 72 Tác Chiến, bị Thượng “thư” (?) phải bỏ về Nha Trang chạy chữa thì ông Định kiêm luôn chức Liên đoàn trưởng.
Qua năm 1971, diễn ra cuộc giải vây Căn Cứ 6 Hỏa Lực (Đồi 1001) ở Kontum, với sự yểm trợ hết mình của Không Quân Pleiku, ba tiểu đoàn nhảy dù của ta đã đánh tan ba trung đoàn địch.
Thời gian này Trung tướng Ngô Du đang làm Tư lệnh Quân Đoàn II, quan hệ giữa Không Quân và Quân Đoàn rất tốt đẹp cho nên sau chiến thắng vang dội nói trên, KĐ72CT được Quân Đoàn “chạy” đặc cách và huy chương tối đa.
Thiếu tá Lê Bá Định lên Trung tá; riêng cấp phi đoàn chỉ nội 530 khu trục thôi đã có 4, 5 Đại úy lên Thiếu tá (Phạm Văn Thặng, Vũ Công Hiệp, Vũ Văn Thanh, v.v...)
Thế nhưng cứ theo lời ông Lê Bá Định thì ở BTL/KQ có những sếp lớn không “happy” về việc ông được Quân Đoàn II “chạy” đặc cách Trung tá. Tôi vẫn còn nhớ câu nói đầy cay đắng của ông:
- Mấy chả nói cái lon Trung tá của tôi là “lon Lục quân”!
Sau này, khi ông Định bị Đại tá Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh SĐ6KQ, “đá” cái một khỏi chức vụ Không Đoàn trưởng KĐ72CT, tôi có hỏi ông Từ Văn Bê thì được biết trong Không Quân có nhiều người ghét ông Lê Bá Định vì ông đã tài giỏi hơn người lại không chịu “lấy điểm”, không biết “nể mặt” các quan lớn. Chưa kể một số người còn nói rằng ông bị “mát”!
Trước năm 1975 tôi không có cơ hội phục vụ dưới quyền, cũng không gặp gỡ quen biết NT Trần Phước, nhưng nay qua đọc hồi ký của ông tôi phải thương cảm và tiếc cho một vị niên trưởng tài giỏi, đức độ, chỉ vì hồi còn trẻ mê lái máy bay “bà già” mà chôn vùi sự nghiệp trong một quân chủng vốn có tiếng là hào hoa phong nhã!
“Dấu ấn” của ông để lại chỉ là (1) trong thời gian làm Chỉ huy trưởng (đời thứ hai) đã đưa Phi Đoàn 1 Quan Sát từ Nha Trang ra “miền đất lạ” (Tourane – Đà Nẵng) và (2) với kinh nghiệm ba năm phục vụ tại Trường Đại Học Quân Sự của QLVNCH, đã đứng ra thành lập Trường Chỉ Huy Tham Mưu Trung Cấp cho quân chủng Không Quân và làm Giám đốc tiên khởi.
nguyên Không đoàn trưởng KĐ41CT, SĐ1KQ, tại Hoa Kỳ