Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Mùa xuân rực lửa

Collapse
X

Mùa xuân rực lửa

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Mùa xuân rực lửa

    MÙA XUÂN RỰC LỬA
    Tam Bách



    Để kỷ niệm trận chiến Xuân Lộc
    vào mùa Xuân 1975 (từ 9-4 đến 20-4)



    Hàng năm Xuân lại đến, vùng Little Sài gòn lại tưng bừng với buổi Hội chợ tươi vui do hội sinh viên người Việt tổ chức, với tiếng pháo đì đùng rộn rã, với những chợ hoa muôn màu muôn sắc, với những ngày Đại hội tân niên của các hội ái hữu, hội đồng hương… Gặp nhau trong những ngày hội ấy, người Việt tỵ nạn có dịp ôn lại những kỷ niệm xưa, ai còn ai mất; nhớ lại mùa xuân xưa, mùa xuân cuối cùng của đất nước tự do, nhân ái, để rồi sau đó là đói khổ, là đày ải hận thù, là hàng triệu người bỏ nước ra đi.

    Đối với Tân, đã trải qua một mùa xuân rực lửa trên chiến tuyến Xuân Lộc trong suốt mười hai ngày đêm, mùa xuân 1975 đã để lại một dấu ấn sâu đậm mỗi khi xuân về trên miền đất Tự do ở hải ngoại. Anh nhớ lại mùa xuân đó trong nỗi ám ảnh kinh hoàng, những nuối tiếc khôn nguôi, chen lẫn niềm kính phục đối với những quân cán chính đã dựng một bức tường hy sinh vô bờ để ngăn cơn hồng thủy bạo tàn CS! Họ đã tham dự một trận đánh lịch sử cuối cùng trước khi Miền Nam bị sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 mùa xuân năm ấy!

    Hơn ba mươi năm sau, anh gặp lại những con người dũng cảm đã thoát khỏi bàn tay tử thần trong đêm rút lui 20 tháng tư năm 1975, vào buổi họp mặt mừng xuân tại một nhà hàng lớn vùng Little Sài gòn. Khi anh bước vào hội trường, đã thấy thật đông những bạn đồng liêu từng làm việc cơ quan chính quyền tại tỉnh, tại các quận thuộc tỉnh Long Khánh; các cựu sĩ quan tiểu khu, chi khu Xuân Lộc, các cựu sĩ quan thuộc Sư đoàn 18 ngày xưa. Ngoài ra, anh cũng thấy nhiều khuôn mặt quen thân của các đồng hương hai quận Xuân Lộc, Định Quán, nơi anh đã từng phục vụ hơn năm năm ở đó. Anh đến ngồi cùng bàn với người bạn cựu sĩ quan từng làm việc tại Tòa Hành chánh tỉnh, Đại úy Mai. Chưa đến giờ khai mạc, nhưng hội trường đã đông nghẹt, xôn xao tiếng cười nói, tiếng chào hỏi; những bàn tay nắm chặt, những khuôn mặt tươi vui của các chiến hữu đã từng sống chết bên nhau trên chiến trường đẫm máu Xuân Lộc... Cạnh sân khấu, một đám người đang vây quanh một người đàn ông cao niên, dáng cương nghị, đầu ngẩng cao, đôi mắt rực sáng sau cặp kính trắng. Anh quay sang hỏi Đại úy Mai:

    - Vị nào đang đứng nói chuyện kìa, trông quen quá, ông biết không?

    Người bạn đồng nghiệp cũ, người bạn tù thân thiết trong những năm gian khổ trong trại tù “cải tạo”, nhìn anh ngạc nhiên:

    - Tướng Lê Minh Đảo đó, ông không biết sao? Để tôi đưa ông đến giới thiệu với ông tướng…

    Vị cựu tướng lãnh nổi tiếng ở chiến trường Xuân Lộc, cả năm xưa lẫn ngày nay ở hải ngoại, bắt tay người cựu Phó quận khi Đại úy Mai giới thiệu anh:

    - Xin phép giới thiệu với Thiếu tướng: Ông Tân, Phó quận hành chánh đã ở lại Xuân Lộc chiến đấu cùng anh em quân nhân và cùng di tản đêm 20 tháng 4 đó, thưa Thiếu tướng!

    Vị cựu tư lệnh chiến trường Long Khánh- Xuân Lộc nhìn anh, khen ngợi:

    - Tôi biết các ông Đốc sự hành chánh cũng gan dạ không kém gì anh em quân nhân. Hồi làm Tỉnh trưởng Định Tường, cô Quy làm Chánh văn phòng cho tôi. Cô ấy thật giỏi và cũng xinh đẹp nữa. Chắc anh biết cô Quy ?

    - Thưa Thiếu tướng tôi có biết! Cô ấy nổi tiếng xinh đẹp trong khóa học và cả trong trường Hành chánh chúng tôi, nên ai cũng biết cả!

    Khi ông quay sang trả lời một phóng viên vừa đặt câu hỏi về chiến trường Xuân Lộc năm xưa, anh bước lùi ra khỏi vòng người ái mộ, ngắm nhìn vị cựu tướng lãnh nổi danh đã chỉ huy Sư đoàn 18 cùng các đơn vị địa phương và tăng phái, chống trả mãnh liệt ba sư đoàn VC trong suốt gần nửa tháng trời. Để rồi sau đó tuân lệnh cấp trên, ông đã chỉ huy một cuộc rút lui chiến thuật đúng kế hoạch, với hàng ngũ trật tự, bao gồm cả quân, dân, cán, chính tại Long Khánh - Xuân lộc. Trong 17 năm bị giam cầm tại các trại tù đất Bắc, ông luôn hướng về Miền Nam, nhớ người Mẹ đang ngóng chờ mà thời gian dài vẫn “cứ trôi qua cho bạc mái đầu”, nhớ mãi lời Mẹ nắm tay dặn dò trước ngày từ biệt: “Nắng sẽ về đẩy lùi bóng tối, và thương yêu, và tự do sẽ còn mãi nhé con!” Đó là lời ca trong nhạc phẩm hùng tráng, thiết tha và cảm động “Nhớ Mẹ” do Thiếu Tướng Lê Minh Đảo và Đại Tá Đỗ Trọng Huề đồng soạn trong thời gian bị biệt giam trong khu F ở trại tù Hà Tây Miền Bắc.

    Khi anh và Mai trở lại bàn mình, người cựu Đại úy chỉ một nữ đồng hương đang ngồi nhìn anh, hỏi:

    - Ông còn nhớ tên người đẹp ấp Tân phong này không?

    Anh nhìn khuôn mặt người thiếu phụ trẻ có dáng vẻ quen thuộc, nhưng đành lắc đầu vì không nhớ chính xác là ai!

    Cô gái mỉm cười chào anh:

    - Ông Phó còn nhớ em không? Chắc là quên. Vì chỉ gặp em một hai lần, mà đã hơn ba mươi năm rồi, còn gì nữa!

    Người Phó quận năm xưa hỏi cô gái một câu cho đỡ vô tình:

    - Về phần cô, còn nhớ tên tôi không?

    Cô gái mỉm cười hóm hỉnh:

    - Dạ nhớ chứ! Em còn nhớ biệt danh của ông nữa kìa! Để em nói nhỏ cho ông nghe thôi…

    Cô đứng lên, tự nhiên và bạo dạn, ghé vào tai anh nói vừa đủ khiến “ông Phó năm xưa” đỏ mặt:

    - Ông có biệt danh “Ông Phó sợ lạnh”! Chắc ông không biết tên đó đâu! Anh tài xế lái xe quận tối hôm đó nhờ em nấu cho nồi nước nóng để ông tắm vì “ông sợ lạnh”…

    Những kỷ niệm xưa về vị tướng đã chỉ huy cuộc chiến đấu anh dũng trong suốt 12 ngày đêm, chỉ huy cuộc rút lui khỏi chiến trường đang sôi động đẫm máu; cùng với những mẩu chuyện nho nhỏ về tình thân thiết của người dân đối với chính quyền thời điểm chiến tranh đang rực lửa…khiến anh không làm sao quên được cuộc chiến tại Long Khánh - Xuân Lộc năm 1975.

    * * *


    Quận Xuân Lộc là nhiệm sở thứ ba của anh trong bảy năm của một đời công chức ngắn ngủi, sau hai quận Lộc Ninh và Định Quán. Trước cuộc chiến tháng 4 năm 1975, trong ba năm phục vụ tại đây, quận Xuân Lộc đã cho anh cảm giác êm đềm, yên ổn của một thị trấn, dù bé nhỏ nhưng có nếp sống không cách biệt với đô thành Sài gòn là bao!

    Xuân Lộc là quận châu thành của tỉnh Long Khánh, cách xa Sàigòn độ 80 cây số. Quận được thành lập năm 1957, là nơi định cư của đồng bào Miền Bắc di cư vào Nam ở thời điểm 1954, gồm cả người Việt lẫn đồng bào sắc tộc như Nùng, Thái, Mường…Với mười xã trải dài trên diện tích ba ngàn bốn trăm năm mươi bảy cây số vuông, phần lớn quận Xuân lộc nằm dọc trên quốc lộ số 1, từ Gia Rai (dưới chân núi Chứa Chan) đến ngã ba Dầu Giây (giáp ranh tỉnh Biên Hoà), quận Xuân Lộc có địa hình đa dạng. Đất đai phần lớn là núi thấp, đồi cao, đồn điền cao su bạt ngàn… Về mặt quân sự, Xuân Lộc là vị trí chiến lược quan trọng, vì đó là ngã ba của hai quốc lộ 1 và 20 giao nhau. Đây cũng là cửa ngõ của thủ đô Sàigòn từ Miền Trung vào, qua ngã ba Dầu Giây. Ngoài ra, Xuân Lộc cũng nằm trên đường giao liên của địch, giữa chiến khu C và D, với mật khu Mây Tào, Xuyên Mộc của Phước Tuy. Do đó, về mặt chiến lược, mặt trận Xuân Lộc có thể ví như một Điện Biên Phủ thứ hai ở thời điểm 1975.

    Tình hình an ninh tại Xuân Lộc bắt đầu căng thẳng sau khi Định Quán thất thủ ngày 17-3. Thêm vào đó, áp lực của toàn thể lực lượng CS Bắc Việt từ Cao nguyên và Miền Trung tập trung về đây để tấn công Sàigòn. Để đánh Xuân Lộc, VC đã tung vào chiến trường này 3 Sư đoàn 6, 7, 341 và các đơn vị có sẵn của Quân khu 7. Trận chiến đẫm máu đã đồng loạt xảy ra tại 3 phòng tuyến: ngã ba Dầu Giây, thị xã Xuân Lộc và Gia Rai (giữa Bình Tuy và Long Khánh). Phía VNCH có Sư đoàn 18 Bộ binh (các Trung đoàn 43, 48, 52), lực lượng Địa phương quân, Nghĩa quân cơ hữu của Tỉnh, các đơn vị tăng phái gồm: Trung đoàn 8 (Sư đoàn 5 BB), Lữ đoàn 3 Thiết Kỵ, Liên đoàn 7 Biệt động quân, 2 Tiểu đoàn Pháo binh, Liên đoàn 81 Biệt cách Dù và toàn bộ Lữ đoàn 1 Dù với các Tiểu đoàn 1, 2, 8, 9 và Tiểu đoàn 3 pháo binh Dù. Sư đoàn 4 Không quân VN từ phi trường Cần Thơ phụ trách không yểm chiến thuật. Tất cả các lực lượng trên đặt dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo (Tư Lệnh Sư đoàn 18 BB) và hai phụ tá tài giỏi, uy tín: Đại tá Tư lệnh phó Lê Xuân Mai và Tỉnh trưởng Long Khánh Đại tá Phạm Văn Phúc mới về thay Trung tá Lê Ánh Nguyệt hồi tháng 3-75.

    Thế rồi vào lúc 5 giờ sáng ngày 9-4, khi một ngày mới bắt đầu, dân chúng dọn hàng ra chợ, các tín đồ Thiên Chúa Giáo đi lễ sớm tại các nhà thờ, bất thình lình VC nã hàng ngàn quả pháo đủ loại vào thành phố, đa số rớt vào chợ, nhà thờ và nhà cửa của dân chúng. Trận pháo kích kéo dài trong 2 tiếng đồng hồ với hơn 300 trái đạn liên tục không ngớt.

    Đến 8 giờ sáng Cộng quân tấn công vào thành phố nhưng bị chận lại bởi Trung đoàn 43 BB và Tiểu đoàn 3/4 ĐPQ Long Khánh nên phải rút lui, bỏ lại tại chỗ hơn 100 tử thi. Nhiều xe thiết giáp T54, PT76 bị hạ khắp nơi do các hỏa tiễn chống xe tăng M72 của bộ binh và của các phản lực cơ A37, F5 của Không quân VNCH.

    Ngày 10-4, Cộng quân trở lại tấn công Xuân Lộc với 2 Sư đoàn 6, 2 và các Trung đoàn chiến xa, khắp các mặt trận Đông, Tây, Nam, Bắc thành phố... Cuộc chiến kéo dài trong nhiều ngày, cả hai bên chiếm giữ từng ngôi nhà, từng phòng tuyến... Không quân VNCH đã yểm trợ tích cực và hữu hiệu cho các đơn vị dưới đất bằng các phản lực cơ tối tân F5E, góp phần tiêu diệt số lớn Cộng quân. Trung đoàn 43 BB của Sư đoàn 18, mặc dù đã bị Cộng quân cắt ra từng đơn vị nhỏ, nhưng vẫn tiếp tục chống trả mãnh liệt, gây cho địch nhiều tổn thất…

    Qua đến ngày thứ tư của cuộc chiến, Lữ đoàn I Dù gồm các Tiểu đoàn 1, 2, 8, 9 và Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù từ Miền Trung về, được lệnh tăng cường cho Xuân Lộc. Tất cả các trực thăng của 2 Sư đoàn 3, 4 Không quân, gồm 100 trực thăng bán phản lực HUIB đã thả hơn 2000 quân Dù từ Trảng Bom vào trận địa, các Pháo đội Dù cũng được trực thăng Chinook chuyển vận đến Bộ chỉ huy Hành quân đóng kề bên Bộ tư lệnh Sư đoàn 18 BB. Hai Tiểu đoàn Dù đầu tiên đã nhảy xuống đầu địch để chiếm lại Bảo Định trên quốc lộ 1, nơi 2 Trung đoàn thuộc Công trường 6 VC đang tập trung tấn công Bộ tư Lệnh Sư đoàn 18 BB tại Tân Phong. Một Tiểu đoàn Dù khác nhảy xuống chiếm lại vườn cây của cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ. Ngoài ra các Tiểu đoàn khác nhảy vào Xuân Lộc để giải vây cho các Tiểu đoàn ĐPQ và Bộ chỉ huy Tiểu Khu Long Khánh.

    Sau bốn ngày chịu đựng cuộc chiến ác liệt, dân chúng tại thị xã Xuân Lộc bắt đầu thiếu thốn lương thực. Vô số đồng bào từ các xã quanh thị trấn chạy về tỵ nạn tại ấp Tân Phong , gần chi khu Xuân Lộc. Nhận được công điện kêu cứu của Quận, một phái đoàn đại diện Hội đồng Tỉnh đến tiếp tế thực phẩm cho đồng bào chiến nạn; sau đó Bộ Xã Hội cung cấp thêm hai tấn gạo và lương khô. Để thực hiện việc cấp phát, Phó quận đã huy động các Trưởng chi, cán bộ Xây dựng nông thôn tại Quận tham gia công tác. Phó quận cho tháo mui chiếc xe Jeep của quận để chở gạo và lập thủ tục cấp phát lưu động nhanh chóng cho đồng bào chiến nạn ngay trên xe. Việc cấp phát thực hiện chưa đến một tiếng đồng hồ lại bị địch pháo kích, cán bộ lẫn dân chúng bị thương, toán cấp phát lại di chuyển đến địa điểm mới…

    Trong đoàn người xếp hàng chờ lãnh phần lương thực của mình hôm ấy, anh nhận thấy nhiều khuôn mặt quen: các giáo chức có gia đình tại địa phương; các sĩ quan hồi hưu đã từng phục vụ tại tiểu khu Long Khánh; một cô học sinh lớp cuối của trường trung học Long Khánh mà anh đã gặp trong lần đến chơi nhà một người quen. Cô nữ sinh có dáng người gầy ốm, và mặc dù thiếu thốn lương thực trong mấy ngày qua, cô vẫn nhí nhảnh, vui tươi. Sau khi lãnh phần gạo trợ cấp cho gia đình, cô tình nguyện phụ gíúp việc cấp phát gạo, mặc dù cô cũng biết đây là công tác khá nguy hiểm, dễ bị lãnh đạn pháo kích của địch! Chiều hôm ấy, sau khi tạm xong công tác, cô tình nguyện viên mời “ông Phó ghé qua nhà em uống nước nghỉ mệt…”. Anh nhận lời và theo cô gái về nhà tại ấp Tân phong gần đó. Anh muốn đến nhà để cám ơn gia đình cô đã có người con gái gan dạ và có tinh thần thiện nguyện hăng say như vậy! Người nhà của cô mời anh ở lại dùng “bữa cơm đạm bạc”, nhưng anh từ chối vì trời sắp tối, trên đường về Chi khu sẽ gặp nguy hiểm. Anh chỉ xin được tắm cho khoẻ người trước khi trở về. Anh nói nhỏ với người tài xế quận rằng, anh cảm thấy muốn bịnh, nên nhờ người nhà cô gái nấu cho một nồi nước nóng để tắm! Không biết người lái xe trẻ tuổi vì muốn có “câu chuyện làm quà” nên đã nói điều gì với người nữ sinh xinh đẹp mà mãi hơn ba mươi năm sau, cô gái vẫn còn nhớ biệt danh “ông Phó sợ lạnh”, trong khung cảnh chiến cuộc đang nóng bỏng trên chiến trường Xuân Lộc lúc bấy giờ!

    * * *

    Một tuần sau ngày chiến cuộc bùng nổ, phái đoàn báo chí Việt nam và ngoại quốc đến thăm chiến trường. Sau phần thuyết trình của các giới chức quân sự và hành chánh tỉnh Long Khánh, Phó quận được giao nhiệm vụ hướng dẫn phái đoàn thăm viếng thị xã. Họ đã chứng kiến cảnh nhà thờ Xuân Lộc bị pháo kích, nhà cửa dân chúng bị sập đổ, chợ búa bị thiêu rụi do địch quân nã trọng pháo bừa bãi vào khu dân cư. Họ cũng được nghe trình bày về dự án tái thiết thị trấn Xuân Lộc sau khi địch quân bị đẩy lui khỏi thành phố và các xã chung quanh. Tuy nhiên, hôm ấy các ký giả trong phái đoàn tỏ ra không tin tưởng vào báo cáo của thuyết trình viên. Cuối buổi họp, một nhà báo Việt nam đến tâm sự với Phó quận, giọng nghiêm trọng:

    - Tôi đã theo chân các đơn vị quân ta rút lui từ Miền Trung về… Sàigòn sắp mất đến nơi rồi ông ạ! Ông cứ tin tôi đi… Khi nào thấy các đơn vị sửa soạn lên đường, các quân xa lắp “rờ mọoc” kéo đi thì ông hãy nhanh chân theo họ, kẻo trễ…

    Phái đoàn báo chí lên trực thăng rời Xuân Lộc, rời chiến trường đang nghi ngút khói lửa, giữa tiếng ì ầm của đại pháo, của xe tăng đang giao chiến nhau, giữa âm thanh cuồng nộ của bom đạn …Tất cả đã để lại trong lòng anh bao phân vân lo lắng, bao thắc mắc ưu phiền. Tất cả xoay quanh ý tưởng: “Đi hay Ở ” ?! Anh tự hỏi lòng: mình có thể viện cớ xin đi công tác ở Sài gòn, bỏ mặc người dân tỵ nạn Xuân Lộc, bỏ mặc phẩm vật trong kho không ai chỉ huy công tác cứu trợ mà ra khỏi nơi đây để bảo toàn sinh mạng chăng? Tuy nhiên tinh thần trách nhiệm, niềm tự hào của một Cán bộ Hành chánh có cho phép mình trốn chạy khỏi chiến trường như một kẻ “đào ngũ trong thời chiến” hay không?... Ngày hôm sau, khi ra sân bay dã chiến tại Tân Phong để gởi người bà con bị bệnh nặng, theo chuyến trực thăng tải thương về Sàigòn, anh thấy rất nhiều thương binh, tử sĩ được đưa vội vã lên trực thăng, máu tươi loang đầy sàn máy bay! Anh tự nhủ: Những chiến binh hào hùng này có bao giờ cân nhắc, lựa chọn: chiến đấu hay trốn chạy khỏi chiến trường không? Anh lên xe trở về chi khu, với quyết định dứt khoát: phải ở lại chiến trường Xuân Lộc!

    * * *

    Thế rồi lệnh rút bỏ Xuân Lộc bất ngờ được thông báo trong cuộc họp tại Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 18 vào trưa 20-4-1975, trong khi các đơn vị tại mặt trận Xuân Lộc vẫn còn giữ vững vị trí chiến đấu. Khi phê bình cuộc rút lui khỏi Xuân Lộc, sử gia John Bowman đã viết trong “The World Almanac – Vietnam War” như sau: “Cuộc rút lui chiến thuật bỏ ngõ Xuân Lộc cho VC vào chiếm thị trấn ngày 20-4-1975 đã khởi đầu cho việc thất thủ Saigon và Miền Nam Việt Nam.”

    Cuộc rút lui bắt đầu từ chiều ngày 20-4, khi trời vừa tối. Tất cả các lực lượng tại đây dùng Liên tỉnh lộ 2, phát xuất từ Tân Phong, Long Gia , qua mật khu Bình Giã của VC, đến Đức Thành, Long Lễ, Bà Rịa , với 3 cánh quân của Sư đoàn 18 BB, Tiểu khu Long Khánh và ĐPQ, Lữ đoàn 1 Dù và Tiểu đoàn 3 pháo binh Dù.

    Theo đúng chương trình, đến 12 giờ đêm Tiểu khu Long Khánh và Chi khu Xuân Lộc mới bắt đầu di chuyển. Thiếu tá Quận trưởng , Phó quận cùng các Sỹ quan Chi khu, các Trưởng Chi Quận Xuân Lộc di chuyển trên hai xe với vũ khí cá nhân … Đoàn xe vừa ra khỏi cổng Chi khu, đã nghe tiếng B40 nổ ì ầm, người Nghĩa quân vừa chạy đến cổng đã bị trúng đạn pháo kích, ngã lăn ra đất... Trên Liên Tỉnh lộ 2, đồng bào lũ lượt gồng gánh, bế bồng nhau theo chân người lính di tản. Cả một quanh cảnh bi hùng diễn ra trong đêm tối. Một dòng quân xa, chen lẫn bộ binh, dân chúng …đã lặng lẽ âm thầm đi dưới ánh sao đêm! Không một ánh đèn, không một tiếng động ồn ào hỗn loạn! Trong quanh cảnh âm u quạnh quẽ đó, chỉ nghe tiếng rì rầm của quân xa, tiếng cót két của xe tăng M48 hộ tống đoàn di tản. Thỉnh thoảng chỉ thấy ánh lửa pháo kích của địch lóe lên… Trung tá Lê Quang Định, Tiểu khu phó Tiểu khu Long Khánh đã bị tử thương vì nhiều loạt B 40 của Cộng quân. Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng bị địch bắt.. Tại nhiều khúc quanh ở Cẩm Mỹ, người bộ hành di tản lạc lối, rơi xuống hố bên đường… Người tài xế xe Quận, một Nghĩa quân biệt phái, vừa căng mắt lái xe trong đêm tối, vừa lẩm nhẩm cầu nguyện…

    Đến bốn giờ sáng ngày 21-4-75, tại ấp Quí Cả, gần ranh giới Long Khánh - Phước Tuy, Tiểu đoàn 3 Dù và đại đội Trinh sát Dù đã bị 2 Tiểu đoàn VC phục kích. Pháo đội C và Trung đội Trinh sát bảo vệ cuộc rút lui, hầu hết bị thương vong trước biển người tấn công. Cánh quân đi đầu của Tiểu đoàn 9 Dù cũng đụng độ nặng với CS tại thung lũng Gia-rai, dưới chân núi Cam Tiêm. Ngoài những thiệt hại kể trên, cuộc rút quân tên Liên tỉnh lộ 2 coi như hoàn toàn tốt đẹp. Đoàn di tản đến ranh giới tỉnh Phước Tuy lúc trời hừng sáng. Vừa thấy lá cờ vàng phất phới trên nóc đồn Nghĩa quân Bà Rịa, mọi người đều vui mừng đến tuôn tràn nước mắt! Những chiếc nón sắt tung lên trời, những tiếng reo hò mừng vui vang lên trong buổi sớm của vùng đất an toàn, sau một đêm dài căng thẳng và chết chóc!


    Các đơn vị tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc rút về Phước Tuy, rồi từ đó đi tăng cường các mặt trận khác tại Vùng Ba Chiến thuật. Nhóm di tản thuộc bộ phận Hành chánh quận Xuân Lộc di chuyển tiếp đến trại tạm cư Long Thành để lo ổn định chỗ ăn chỗ ở cho đồng bào chiến nạn. Trên đường về Sàigòn, xe Phó quận và các trưởng chi đang chạy trên xa lộ Biên Hòa, bỗng thấy một chiếc xe Traction sơn đen bám theo, bóp kèn inh ỏi, ra dấu xe dừng lại. Anh bảo tài xế tạm đậu xe bên lề đường, chuẩn bị ứng phó! Từ trên chiếc xe lạ, một người đàn ông cao lớn mặc âu phục bước xuống, tiến lại gần xe Jeep, giọng xúc động:

    - Ông Phó đó hả? Ông còn sống sót sao? Cám ơn Trời Phật…! Tôi nghe nói mặt trận Xuân Lộc đã bị VC tràn ngập cả rồi, làm sao ông về được đến đây?

    Anh định thần lại, nhìn khuôn mặt quen thuộc của người đàn ông, vị cựu Quận trưởng Xuân Lộc mấy năm trước, người sĩ quan nóng nảy nhưng tốt bụng đó!

    Anh về đến Sài gòn vào buổi chiều hôm ấy. Vợ và các con ôm chầm lấy anh, mừng mừng tủi tủi. Mẹ anh nhẹ nhàng trách mắng anh :

    - Sao bây giờ con mới về? Vợ con ngày nào cũng dò hỏi tin tức, lên tận căn cứ quân sự Long Bình để tìm con! Con muốn làm anh hùng hay sao mà không chịu chạy về? May mà Trời Phật thương cho con an lành trở về đó con ạ!...

    Anh muốn thưa với Mẹ rằng: con chẳng muốn làm anh hùng! Nhưng làm sao con rời bỏ đồng bào chiến nạn để chạy về một mình? Vì họ cần có con!…

    Cuộc chiến Xuân Lộc, theo thời gian lạnh lùng trôi, đã qua đi gần bốn mươi năm rồi! Nắm xương tàn của những anh hùng quân, dân, cán, chính… đã nằm xuống cho Chính Nghĩa Tự Do, nay cũng đã phôi pha trong lòng đất. Họ đã nằm xuống cho chiến tuyến Xuân Lộc đứng vững - ít nhất trong mười hai ngày đêm lịch sử - cho những người còn sống sót có chút tự hào trong những năm tháng cuối đời nơi đất khách quê người, để còn chia xẻ niềm tự hào ấy cho con cháu và các thế hệ người Việt mai sau!

    Hồi ức
    Tam Bách

    *Nguồn : Hồ Đinh, Trận chiến Xuân Lộc (Sư đoàn 18 BB)


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X