Tháng mười hai

Collapse
X

Tháng mười hai

Collapse
 
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts
  • saomai
    Moderator

    • Jun 2008
    • 2105

    #1

    Tháng mười hai


    Nguyễn Đức Tùng ♦ 15.12.2025




    NDT - Thang muoi hai



    Ngày tổng thống Bill Clinton bị luận tội trước quốc hội vì quan hệ với Monica Lewinsky, tôi về nhà trong bão tuyết. Tháng chạp, một tuần trước lễ Giáng sinh. Trên truyền hình tôi nhìn thấy khuôn mặt đẹp trai của ông quay phắt lại, tái nhợt đi, khi trả lời một nữ phóng viên hỏi vọng ra từ đám đông:

    I did not have sex with that woman.

    Tôi nghe từng chữ câu ấy. Tôi nhìn ra vườn sau: ngập trong tuyết cây liên kiều bên rào kẽm trổ hoa như lửa. Đó là ngày cuối cùng tôi ở trong căn nhà đó. Who is that woman?

    Ngày 3 tháng 12 năm 1989, Chiến Tranh Lạnh kết thúc. Mọi người thở phào nhẹ nhõm, từ nay thế giới không còn chia làm hai phe, tự do và cộng sản, nữa. Nhưng nó sẽ chia làm một trăm phe. Bầu trời trắng như sữa. Tuyết rơi nhiều ngày, bây giờ bắt đầu im. Bão sẽ tới. Đó là sự im lặng trước bão. Chuột và sóc và chồn và hedgehog chạy vào hang. Thằn lằn rơi từ trên mái nhà xuống, vì mất khả năng bám tường. Những sự lừa dối của các chính quyền rơi xuống khi mọi chuyện kết thúc. Các mặt đường nhựa cứng lại, nứt ra. Tôi nhớ một đêm như đêm nay, chiến tranh. Tôi thường trộn lẫn các sự kiện lịch sử với các sự kiện thời tiết. Tôi nhìn thấy lịch sử trong thời tiết. Nếu thời tiết có thể tiên đoán được, lịch sử cũng tiên đoán được. Nếu lịch sử tiên đoán được, nó có thể được thay đổi.

    Tôi không tin vào sự thắng hay thua vĩnh viễn. Tôi không tin vào chân lý vĩnh viễn. Tôi trồng những bông thược dược cuối cùng, chúng sống lâu, sau khi hoa khác tàn. Một người đàn ông sống đến chín mươi tám tuổi nơi khu phố tôi ở, cuối cùng đã ngã xuống không một tiếng động, như trái cây đã chín, gió tuyết mang đi. Trong vườn mẹ tôi ngày trước, mùa này chỉ còn đậu ve, cải bắp cuối mùa, và khoai, chúng lớn như những cái bát, và bắp khô treo quanh bếp. Người nông dân đã bán hết mùa màng của họ, tổ chim đầy ắp những trứng, sắp rơi tràn ra ngoài, nhưng chúng đã không rơi, mặc cho gió lắc cành mạnh, buổi chiều tôi về vẫn còn đó. Một đứa con gái cuối xóm mất tích. Tôi thường gặp nó đi mót lúa ngoài đồng. Tôi gõ cửa một căn nhà sơn xanh trong ngõ hẻm, nơi cư dân ở đó đã di tản sau chiến tranh, hạnh phúc của chúng tôi bị chiếm đoạt. Mùa đông tới, Giáng Sinh, tiếng chuông ngân nga như mặt trời mới, rượu đã chưng cất, mùi thơm lộng lẫy của trầm hương trên bàn thờ, trên dĩa sáng bạc, rượu cúng, bánh mì nóng trong tay ở ngã bảy Sài Gòn ngày tôi quen Liên.

    Tối ngày 8 tháng 12 năm 1980, John Lennon bị bắn trước nhà mình ở Manhattan, New York, ngã xuống bên cạnh vợ, Yoko Ono. Tay sát nhân Mark David Chapman, vốn là người hâm mộ Lennon, đã gặp ca sĩ chiều hôm đó, khai rằng một trong những lý do là Lennon từng tuyên bố nhóm Beatles còn nổi tiếng hơn cả Jesus (“more popular than Jesus”). Thay vì tổ chức lễ tang, Ono đề nghị mười phút im lặng tưởng niệm trên thế giới. Tháng 12 năm 2025, trên mạng ở Việt Nam có cuộc tranh cãi gay gắt về Nỗi buồn chiến tranh, không phải về phương diện nghệ thuật, mà về chính trị. Bàn về nghệ thuật, trong số bạn bè của tôi, gồm những người viết có trách nhiệm, trong nước lẫn hải ngoại, nhiều người đánh giá cao cuốn này, một số thì ngược lại. Họ đều có lý, nhưng công chúng sẽ không bao giờ biết đến ý kiến riêng, nhiều khi rất sâu sắc, của họ. Đừng vội trách những người ấy: chúng ta không có một môi trường lành mạnh cho các thảo luận nghệ thuật.

    Mờ sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật bất thần tấn công Trân Châu Cảng, đánh chìm nhiều chiến thuyền của Mỹ, giết 2.400 người và làm bị thương nhiều người. Ngày hôm sau, Mỹ tuyên chiến với Nhật. Khi tôi đến thăm Pearl Harbour bảy mươi mốt năm sau, 2012, tôi nhìn thấy vòng hoa tươi, lớn, rất đẹp của bộ trưởng bộ quốc phòng Nhật Bản vừa được chở bằng phi cơ từ Tokyo tới, như tục lệ mỗi năm, đặt ngay ngắn giữa sảnh đường của khu tưởng niệm Trân Châu Cảng. Vòng hoa tươi đẹp như một lời xin lỗi của người thua trận dũng cảm trước người thắng trận xứng đáng và cao thượng.

    Đó là sự hòa giải thực sự.

    Chúng ta không lớn như vậy. Hơn nửa thế kỷ, chưa có cuốn tiểu thuyết tiếng Việt nào viết về chiến tranh đủ lớn để làm được điều ấy. Chỉ có hận thù và đau đớn. Ngày 19 tháng 12, 1848, Emily Bronte, tác giả Wuthering Heights, mất vì bệnh lao phổi năm mới ba mươi tuổi. Bản dịch của Nhất Linh có nhan đề Đỉnh gió hú, thật hay. Đúng vào lễ Giáng Sinh 1968, Apollo 8 với James Lovell, Frank Borman, William Anders bay vào quỹ đạo mặt trăng. Bảy tháng sau, Neil Armstrong và Edwin Aldrin bước đi trên vệ tinh xinh đẹp. Tháng chạp là tháng của thánh lễ, sự kết thúc một năm, sự nhìn lại, đầy ắp sự kiện lịch sử, những khoảnh khắc đời người mà bạn tưởng nhớ. Tháng chạp là tháng của sân khấu, trần gian và tâm hồn. Để sống qua tháng chạp, bạn cần lòng can đảm, sự phát hiện, những câu chuyện, các tranh cãi.

    Ngày 16 tháng 12 năm 1773, tiệc trà Boston. Đó là một tiệc trà đặc biệt, ở đó người ta không rủ nhau tới để uống trà mà để ném hàng trăm thùng gỗ đựng trà xuống vịnh biển Boston, phản đối chính sách thuế má cay nghiệt và sự đô hộ của người Anh, khởi đầu cho cuộc cách mạng dẫn tới nền độc lập Hoa Kỳ. Tôi muốn dự một tiệc trà như vậy trong tương lai gần.

    Ngày 11 tháng 12 năm 1946, UNICEF ra đời, cứu giúp hàng triệu trẻ con trên thế giới. Khi tốt nghiệp tiểu học, lớp 5, tôi nhận được phần thưởng của nhà trường là một món quà của UNICEF, vì năm ấy tôi thi ngoại lệ, chưa đủ tuổi. Tôi không bao giờ quên: một cái chăn màu trắng và xám, rộng và dày, ấm như lời an ủi cho đứa trẻ thôn quê.

    Ngày 30 tháng 12 năm 1922, Liên Bang Xô Viết được thành lập, trở thành một trong hai siêu cường suốt thế kỷ hai mươi, làm chao đảo thế giới. Ngày 13 tháng 12, 2003, nhà độc tài Saddam Hussein bị lôi lên từ trong một cái hố phía bắc Iraq. Ngày 23 tháng 12, 1888, Van Gogh tự cắt một cái tai của mình. Tôi không nhớ tai trái hay tai phải. Ở quê tôi ngày xưa trồng lúa chiêm và cả lúa nước, người ta bắt đầu gieo mạ vào dịp cuối năm, đến tháng mười hai dương lịch, tức là tháng một âm lịch mạ đã bắt đầu lên xanh các thửa ruộng, rì rào gió. Miền Trung nổi tiếng nghèo khó nhưng tôi có dịp nhìn thấy những cánh đồng ở Hải Lăng, ở Triệu Phong, ở Lệ Thủy, ở Ba Đồn, những cánh đồng mênh mông đứng ở bên này không nhìn thấy người bên kia, mùa này nước lên ngang mắt cá chân, cò bay trắng cánh đồng, cánh của chúng ngả sang màu tím dưới mặt trời chiều. Những toán phụ nữ ra đồng nhổ mạ để cấy lại. Mùa cấy mạ thường bắt đầu trước Tết, vừa cấy xong là kịp ăn Tết, vui chơi, ăn uống, đánh bài. Người nông dân có tha thiết gì các cuộc cách mạng. Dọc theo các thửa ruộng có những người đi tát nước bằng gàu có những bậc thang quay xe để tát nước, đạp nước, bọn con nít chạy theo chỗ tát nước để bắt tôm cá. Sự vui chơi, tình hàng xóm thân mật mà rộn ràng vui nhộn tôi không tìm thấy ở một nơi nào khác. Thời tiết ảnh hưởng tới con người, vào cuối năm ở miền Bắc là mưa phùn gió bấc, ở miền Trung trời chỉ hơi se se lạnh, trừ những ngày mưa lũ lớn, từ tháng mười hai cho đến tháng hai mưa chỉ lắc rắc, trong khi ở miền Nam trời bắt đầu khô và nóng. Vào mùa này người ta đã nghĩ đến chuyện ăn Tết dù còn hơi sớm, trong nhà đã có mùi mứt gừng, mứt bí đao, chả lụa, mùi rượu nếp, rượu gạo, mùi trầm hương, đó là nói những nhà ăn Tết sớm như nhà tôi thời ấy, còn những người bận công chuyện thì còn tất bật. Tháng mười hai, ngoài Bắc trời thì lạnh buốt, trong Nam trời nóng áo sơ mi đẫm cả mồ hôi, nhưng miền Trung thì vừa khéo, mùa Giáng Sinh thật đẹp. Năm học trung học, tháng chạp, mùa mưa lũ, nước trắng ngoài đồng, bìm bịp kêu dưới sông, tôi và anh tôi được nghỉ học, chúng tôi nằm đọc bài thơ của Đinh Hùng đăng trên báo Khởi Hành. Hai mươi năm sau, ở hải ngoại, trong tập thơ Đường vào tình sử, trong tủ sách của một thiếu nữ, sinh viên ngành chemical engineering, tôi tìm thấy bài thơ này.

    Sóng Nước Đồng Chiêm

    Loang loáng thuyền khơi vệt nắng chìm
    Trùng dương về bạc khắp đồng chiêm
    Một rừng nhiệt đới in lòng nước
    Tay với trời xanh, đụng cánh chim


    Trời nước kề vai lả lướt buồn
    Từng cù lao nhỏ nép sơn thôn
    Em đi, dẫy núi nhìn ngây ngất
    Đá cũng tình si nhớ gót son


    Chưa khuất đầu non đã cố nhân
    Người ôi! cho núi chuyển theo gần
    Vầng trăng mười bẩy rưng rưng nhớ
    Con nước đầy vơi lệ thuỷ ngân


    Em vượt Bồng sơn đến Tuyết sơn
    Đà giang nghiêng nửa khoé thu buồn
    Sông xanh toả bóng hàng mi rợp
    Con mắt trao về nẻo viễn thôn


    Tình đến bên người, núi chắn ngang
    Tà dương mái tóc ngút mây vàng
    Bỗng nghe lạc trận mưa ngàn đổ
    Cả một mùa thu đã quá giang


    Sóng tóc rừng mưa gợn chập chùng
    Nghẹn ngào từng tiếng nấc thu không
    Sương pha áo mỏng gầy non bạc
    Chiều lặng soi gương, xót má hồng


    Chiều lại chiều mưa, nước ngập đồng
    Mộng vàng hoa mướp rụng ven sông
    Đợi em từ mấy phương bèo giạt
    Mưa lọt chiêm bao, tóc rối bồng


    Giấc mộng đêm nào cũng gió mưa
    Gối chăn như hải đảo vô bờ
    Sáng dâng bốn vách sầu nghiêng bóng
    Thoáng ngọn đèn trôi ánh mắt xưa


    Vọng tiếng chim đêm, núi nhớ rừng
    Đồng chiêm nghe cũng thuỷ triều dâng
    Dài thương mặt nước mênh mang gió
    Lòng bỗng trôi ra biển mấy trùng


    Nhờ những bài thơ của Đinh Hùng, kẻ rời bỏ miền Bắc, mà tôi yêu miền Bắc vô cùng. Ôi nước non trong tâm hồn Việt. Đêm 25 tháng chạp dương lịch, Chúa Hài Đồng sinh ra trên máng cỏ, đến với nhân loại lầm than trong cảnh nghèo hèn. Trẻ con thôn quê thích nhìn tổ chim. Người lớn bận rộn không nhìn chúng nữa. Thế mà có một lần ở ngã tư ngay trung tâm thành phố Toronto, xe cộ náo nhiệt, có một tổ chim trên một nhành cây đứng một mình ở góc đường. Người đi đường dừng lại. Mới đầu một người, về sau hai người, rồi đông hơn nữa. Mọi người ý tứ đứng xa xa để những con chim không hoảng sợ. Nhưng hai con chim trống và mái không sợ gì cả. Một con tha rác về, một con dệt tổ. Lần đầu tiên tôi được nhìn thấy rõ ràng cách một loài chim kiến tạo cái tổ của nó, chính xác và đẹp đẽ. Bạn đã từng nhìn thấy những cái tổ chim vô cùng đẹp mắt. Có những tổ chim làm rất cao, có những tổ chim làm thấp, trong bụi, sau tảng đá. Chúng được làm sao cho gió và bão, mưa và tuyết không làm hại được. Trên một cành cây gió thổi suốt ngày, sự sống mỏng manh đã sinh ra. Con người cũng có những cách khác nhau để dệt nên đời sống của mình, như loài chim có những cách làm tổ khác nhau, tùy theo địa lý và thời tiết, chỉ có chúng mới biết tổ chim nên được xây như thế nào, cao hay thấp, kín đáo hay ở chỗ thoáng đãng, cũng như vậy chỉ có mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi ngôi làng, mỗi trường học, mỗi đơn vị dân cư biết được họ phải làm cách nào để sống cho tốt đẹp, và đó là sự cần thiết của một xã hội dân sự với ý thức công dân. Đó là sự cần thiết của làng
    .
    Hầu hết các tiểu thuyết nổi tiếng đều dở. Những cuốn hay nhất cũng không mấy khi đạt đến mức xuất sắc. Những cuốn bán chạy nhất, được quảng cáo rầm rộ, thường hoặc có tính giải trí, có người viết bài phê bình mà không thèm đọc tác phẩm. Không có gì sai nếu chúng ta đi tìm các yếu tố giải trí trong việc đọc sách, nhưng giá trị nghệ thuật là chuyện khác. Ngược lại một số người nhấn mạnh quá đáng vào các giá trị văn học mà coi nhẹ công chúng thưởng ngoạn, cũng không đi đường dài. Cả Nguyễn Du và Tolstoy đều nổi tiếng thuở sinh thời. Tính chất tiên đoán được của một tiểu thuyết làm cho nó trở nên kém cỏi. Một cuốn phim, một vở kịch cũng vậy: chúng buộc phải trở nên bất ngờ, táo bạo, làm người đọc kinh ngạc. Không phải bởi cốt truyện hay các tình tiết ly kỳ hấp dẫn. Sự ngạc nhiên đến từ lối viết của tác giả, các tư tưởng, các ý tưởng, toàn bộ tâm trạng, góc nhìn, tính chất độc đáo của tiếp cận nghệ thuật. Trong khi việc đọc và phân tích một tác phẩm nghệ thuật cần dựa vào các yếu tố lịch sử, sự hợp lý của các vấn đề được đưa ra, thì hình thức nghệ thuật và các chủ đề tác phẩm đóng vai trò quyết định. Làm thế nào để biết một tiểu thuyết hay truyện ngắn, bút ký, một cuốn phim hay vở kịch là hay hoặc dở? Một tác phẩm có giá trị cung cấp những câu trả lời, mặc dù rời rạc, phô bày tính độc đáo ngay từ những trang viết đầu tiên, câu văn đẹp, ác liệt, kỳ lạ, phá vỡ quy ước ngôn ngữ mà vẫn hấp dẫn, nhưng cuối cùng người đọc vẫn phải được dẫn tới tình trạng suy nghiệm về các chủ đề mà tác phẩm đặt ra. Một cuốn tiểu thuyết hoặc một cuốn phim bị gọi là dở khi tác giả thiếu tư tưởng và thiếu tay nghề hành văn, hay kịch bản, hoặc đạo diễn không trở thành một với toàn bộ diễn tiến, mà các diễn viên dù cố gắng cách mấy cũng xuất hiện rời rạc như những thân xác đi tìm linh hồn của chúng. Ngược lại, một tác phẩm hay chỉ được xây dựng cho một điều xứng đáng với nó: làm cho người ta vui thú mà nhìn ra nỗi khổ đau, sự quả quyết, sự căm hận, lòng thương xót, sự công bằng, tình yêu. Nghĩ không đủ sâu, sống không đến cùng, tâm hồn không cao thượng, thì viết không lớn được. Tiểu thuyết phải làm cho con người hướng tới hoặc những điều cao đẹp hoặc những điều sâu xa mà cảm xúc hàng ngày của họ không chạm tới.

    Ngày 17 tháng 12 năm 1903, từ phía nam thành phố Kitty Hawk, tiểu bang North Carolina, Hoa Kỳ, hai anh em Orville Wright và Wilbur Wright bay lên trên chiếc Wright Flyer, hay còn gọi là Kitty Hawk, một vật thể “nặng hơn không khí” có động cơ chạy bằng dầu hỏa với 12 mã lực, bay cao được 260 mét và xa được 6 cây số, mở đầu kỷ nguyên con người chinh phục không gian. Đúng bảy năm sau, một khoảng quá ngắn làm tôi kinh ngạc, ở một xứ nửa thuộc địa nửa tự do, rạng sáng ngày 10 tháng 12 năm 1910, chiếc máy bay Farman cánh đôi lần đầu tiên xuất hiện trên bầu trời Sài Gòn. Phi công Van Den Borg lượn mấy vòng để dân chúng Sài thành chiêm ngưỡng rồi mới đáp xuống trường đua Sài Gòn. Học sinh học lịch sử, chỉ cần nhớ những ngày vui ấy là được. Nhớ làm chi sinh nhật các cuộc cách mạng đẫm máu đồng loại?

    Tôi đã tưởng tôi bị ám ảnh bởi quá khứ. Không. Không phải thường xuyên nó trở lại, không phải thường xuyên nó là gánh nặng. Đôi khi, quá khứ nâng đỡ tôi, ru tôi trong âm nhạc của nó. Trước khi ném tôi xuống. Hôm qua tôi mơ thấy giấc mơ kỳ lạ, không thể nhớ lại hết, buồn rầu khủng khiếp như lòng thương tiếc không nguôi, tựa như tình bạn trong sáng, như một cây táo tàu ra hoa trắng dưới mưa xuân, như cuộc làm tình trong đêm mưa trong khách sạn khi có tiếng đập cửa hỗn hào, nuôi những điều ấy thật khó như nuôi một đứa trẻ có dị tật, bạn cần nhiều kiên nhẫn, cảnh giác, thương xót, cầm giữ. Tại sao con người thất bại?

    Bây giờ chúng ta ở đây, lúc này, giữa những đồi cát lưa thưa, anh và em, đây là nơi chốn của chúng ta, chúng ta đi qua những bia mộ khắc tên người mà chúng ta không biết là ai, đi qua mùi hương của cỏ và lau, những thùng gỗ mục không biết ngày trước người ta đựng gì, bây giờ chúng ta đứng và nhìn xuống, từ trong khoảnh khắc này, anh bắt đầu nhìn thấy đường viền chạy dọc bờ nước, chúng ta sẽ xuống đó, thả mình vào dòng nước, để nó ôm lấy mình như một tấm chăn. Quyền lực của nước, quyền lực của một nơi chốn. Phòng khi em không biết, quả thật là có một loài chim biết hót nhưng không hót, chúng chỉ bay qua bầu trời như những mũi tên, chúng ăn côn trùng và các sinh vật li ti, chúng hút nhụy hoa và nhả ngọc, chúng uống nước mưa trong trời, ngửa đầu lên, há mỏ ra, đứng im trong một cơn mưa, mười dặm cao trên mặt đất, anh đã nhìn thấy chúng, từ trong khu vườn của mình, những ngày hè, thanh bình trước chiến tranh, và trong chiến tranh khi anh mất em, anh muốn viết về điều ấy, sự chuyển động của chúng trên bầu trời, như những mũi tên.

    Đã gần bắt đầu một năm mới. Mở một cánh cửa, ngay cả khi bạn sai lầm. Thương tiếc quá khứ và chống lại nó. Hãy tỏ lòng kính trọng đối với anh hùng thuở trước và hãy ném họ vào sọt rác. Nếu không dân tộc sẽ mãi dậm chân tại chỗ. Không có một hành trình nào là xuôi chèo mát mái mà không có bão tố, trên đường đi đến tự do và nhân phẩm, bạn tìm thấy một thứ an bình mà chỉ riêng những người đang đi mới tìm thấy và biết nuôi dưỡng chúng. Cũng như tình yêu, điều gì làm bạn sợ hãi đôi khi là điều bạn mong muốn nhất. Năm 2025, năm mươi năm sau ngày chấm dứt chiến tranh, chúng ta chứng kiến nạn bão lụt trầm trọng nhất ở miền Bắc và miền Trung, kéo dài từ tháng mười qua hết tháng mười một và đến tháng mười hai. Nạn lũ lụt xảy ra do hai nguyên nhân: mưa lớn và phá rừng. Phá rừng lấy gỗ, không trồng lại, chặt cây như giặc, xây đập thủy điện như ăn cướp, bất chấp người chết và thiên nhiên bị tàn phá. Nước như sự phẫn nộ của một đất nước chưa thoát vòng nô lệ, e rằng không chỉ có nhà cửa của người dân mà cả núi rừng và nông thôn sẽ không còn nữa. Tháng chạp, bầy chim phương xa bay về đậu trên những hàng dây thép, trên những bức điện tín, những fax, những cuộc điện thoại, trên những bức thư tình và trên những thư báo tử. Giấc mơ của chúng tàn lụi. Niềm hy vọng về một xã hội dân chủ và tự do đã chết.
    Tôi về làng cũ, ở lại qua đêm, chứng kiến: nông thôn bị lưu manh hoá. Tất nhiên nhiều người vẫn không biết như thế. Chỉ có những linh hồn được cứu chuộc mới nhớ đến đau khổ. Chỉ có những trí thức thức tỉnh mới bị mất ngủ, còn bọn kia ngủ say trong chăn gối của họ, sau khi đã uống đầy bụng những cốc rượu sang trọng, mê muội.

    Nói thì hay lắm. Người hàng xóm của tôi, một cựu chiến binh quân giải phóng bị thương tật trong trận thành cổ, nói, khi đem cho tôi một tách trà nóng. Bạn cần một cốc nước, trong và thơm, như suối. Tôi vừa nghe tin một đứa bé hai mươi tuổi đến du học ở Canada mới ba năm, đã chết trong một cuộc đi bộ lên núi, hiking, một mình, người mẹ đứng chờ con ở chân núi, điện thoại chết, nước hết, đó là nơi mà tôi đã từng đi bộ nhiều lần, với những người bạn, nhưng lần cuối cùng tôi đi một mình, sáu năm trước, bây giờ, khi trở lại chân núi, ngồi xuống uống một chai nước ngọt lấy từ trong xe ra, tôi không biết rằng tôi cũng có thể ra đi không trở lại như cháu bé kia. Ở Sài Gòn, trong đêm tối một người đàn bà nằm một mình, thấy rách xé ở ngực, như vạt áo gió trên dây phơi mùa hạ cũ.

    Trái đất cũng đi trong không gian một mình, mang theo nó biết bao sinh vật di chuyển với số phận riêng của chúng. Ngày ở đây càng ngắn, bạn thức dậy sớm, một tập thơ trước mặt, trước bữa ăn sáng, và bữa tối, một tiểu thuyết. Tôi đọc thơ vào buổi sáng và đọc tiểu thuyết vào buổi tối. Sách do con người làm ra, là sáng tạo riêng của họ, nhưng là sáng tạo bắt buộc. Thế giới hôm nay đầy rẫy những chi tiết nhân văn vụng về, trí thông minh nhân tạo gần như vô hạn, sự đảo lộn các trật tự, sự nhồi nhét các dữ kiện. Tương lai không thuộc về chúng, tương lai thuộc về sách vở và tiểu thuyết, thuộc về trí tưởng tượng và sự đi tìm lại tính chất cao thượng của đời sống. Không có tính chất cao thượng ấy đời sống vẫn tồn tại nhưng vô nghĩa. Các cuộc chiến tranh vô nghĩa vẫn tồn tại trong lịch sử, không ai xóa chúng đi được, nhưng chúng là thứ thừa ra, là rác rưởi, không cần thiết. Dân tộc sống quá lâu dưới bóng các anh hùng chiến tranh, có thật và bịa tạc. Chúng ta không cần họ, hãy để họ ngủ yên. Chúng ta sống thế nào sắp tới? Người thắng cuộc đã tàn, người thua cuộc đã chết, cả hai không để lại gì nhiều. Sách in giấy phát triển thành sách màn hình, iPhone, sách nói, chúng sẽ phát triển hơn nữa. Văn bản đọc là một văn bản khác, không cố định. Các chữ của một cuốn sách là cố định nhưng việc đọc chúng lên, nghe chúng là không cố định. Đó chính là một âm nhạc mới mà các nốt nhạc thường xuyên thay đổi, người hát ngày hôm nay khác với người hát hôm qua, thậm chí cùng một người, đọc và hát trước đó vài phút đã khác sau đó vài phút. Trong những nền văn hóa có tính văn học cao, các câu chuyện được kể lại nhiều hơn, đều hơn, khắp mọi nơi, bởi nhiều người hơn và được lắng nghe bởi nhiều người hơn nữa. Các câu chuyện là phương pháp duy nhất để con người chống lại một nền sử học giả dối và chính trị vô luân. Văn học nghệ thuật chống lại lịch sử, nó không tin vào lịch sử, tự nó làm nên lịch sử của riêng nó. Tháng mười hai n ăm 2025, phim Quán Kỳ Nam gây nhiều tranh cãi, người khen nhiều, nhưng người chê cũng không ít. Ôi Sài Gòn, mi đã sống một cuộc đời đáng sống, trước khi sự dung tục chiếm chỗ. Các cuộc trò chuyện, các phỏng vấn ngày càng nhiều. Chúng ta nói về mọi thứ. Chúng ta nhớ lại. Chúng ta kể lể khúc nôi. Chúng ta tố cáo. Chúng ta khóc và cười. Đó là tương lai của nhân loại mới trong một thế giới tan vỡ. Tháng chạp của tôi bao giờ cũng gần biển hồ sông nước.

    Ra đi như nước ao lền đặc
    May gặp ngày mưa lớn thoát tràn
    Râu tóc rạng ngời, gậy trúc bóng
    Nẻo thơm trần thế, gió hân hoan


    Tô Thùy Yên. Hình ảnh trong thơ tới một lần, không giải thích, trong khi ngôn ngữ thì ngược lại, tìm cách mô tả và kể chuyện, và vì vậy, chống lại hình ảnh. Nghệ thuật của bài thơ là tìm cách đưa vào ngôn ngữ thứ không thể đưa vào ngôn ngữ được. Tháng mười hai dương lịch, ở quê tôi còn quá sớm để đi chợ Tết, phải chờ sau lễ Giáng Sinh, thế mà một tháng trước đó mẹ tôi đã sắm sửa cho cái tết Nguyên Đán. Công kia việc nọ, đầu tắt mặt tối thế, còn phải lo dẫn con cái đi may một bộ đồ mới. Quán thợ may đầu làng đông nghẹt người. Mẹ tôi đã cất sẵn trong bếp nước mắm, xì dầu, bột vị tinh, măng khô, bột để làm bánh, gừng, nghệ, đường trắng, đường đen, đường phổi, đường phèn. Bà còn không quên một bộ tranh Tết, rồi cả phong pháo. Suốt cả tháng chạp, nhà tôi đâm ra nhộn nhịp, ba tôi cầm cái rựa đi chặt tre, chẻ lạt, đôi khi cùng với người giúp việc đi vào rừng, thời còn thanh bình, tìm những chậu phong lan. Tôi được sai đánh bóng những đồ thờ bằng đồng, dùng cả tro trấu, lau sạch, đánh bóng. Cây đèn bão ở nhà ngang, cây đèn măng xông ở ngoài sân được thắp sáng để thử xem chúng hỏng hóc gì không. Mẹ tôi bắt đầu làm dấm lên men. Những thẩu thủy tinh đựng mứt và bánh phơi trên sân gạch. Những ngày ấy bận thì bận mà vui thật vui, nếu không có chiến tranh và cách mạng thì còn vui hơn nữa. Nếu không có giặc giã thì mặt mẹ tôi còn tươi cười rạng rỡ đến đâu. Tháng chạp ở thôn quê có một sức hấp dẫn kỳ lạ, gần như bí mật. Cái hồi hộp của những phiên chợ Tết, những chuyến đò đông nghịt người. Cuộc trò chuyện miên man trên mặt nước, lời thưa gởi, tiếng cười ngoài ngõ, tôi vừa thức dậy thả chân xuống giường thì mặt đất đã bốc hơi ngun ngút như mùa xuân đã gần kề.

    Tôi thèm một tách cà phê để làm đầy buổi sáng. Tôi viết một vài dòng vào sổ tay, tôi hối hận về cách cư xử với một người quen. Chỉ có tôi và thượng đế biết lỗi lầm của tôi. Không một người nào khác. Đôi khi một giọt đắng như lệ rơi xuống trong cổ họng. Đặt xuống gánh nặng của bạn không phải là từ bỏ nó. Mà là mở ra coi, ngắm lui ngắm tới từng miếng, và hỏi: bọn mi ở đâu tới? Tôi không biết thời gian có thể đẹp đến thế, lòng người có thể thơm thảo đến thế, trong một mùa loạn lạc mà sự bình tĩnh của một xã hội hãy còn giữ nguyên nề nếp cũ khiến cho người ta cảm động mỗi khi nhớ lại. Tình không chăn gối, lệ ngoài trăm năm. Tôi lặng lẽ mở ngăn tủ ra, hộp diêm đựng dế mèn, cọng cỏ đã khô, sợi dây chuyền bằng vàng mẹ tôi cho, cái lược, chai dầu brillantine, những cục tẩy xinh đẹp, ngòi bút Parker, cái lông chim ngày xưa dùng để viết, cây mực tòa mà khi lớn lên tôi không dùng nữa, cuốn sổ tay lưu bút ngày xanh có chữ ký của những đứa bạn học. Cái màu lông vũ của một con chim lạ, nửa trắng nửa xanh, ám ảnh tôi. Một ngày mùa đông nọ, trong căn nhà gần vịnh tôi mang về nhà một con chim bị gãy cánh, chảy máu ở chân, tôi nghĩ rằng nó bị thương trong một cuộc chiến đấu. Tôi nhặt nó trên bãi cát, mắt nó nhắm lại, lông xơ xác, tôi mang về nhà, rửa ráy trong chậu giặt đồ, đặt nó bên lò sưởi, không hy vọng lắm, sáng hôm sau, đi ngang phòng, nó đã thức dậy, đứng trên bậc cửa, xòe cánh ra, trầm ngâm nhưng vui vẻ. Tôi đoán là một con chim bắt ruồi (flies catcher). Tôi mang thức ăn lại. Mang nước. Tôi bỏ đi, làm việc. Buổi trưa, tôi thả nó ra. Hôm sau con chim quay trở lại. Nó đậu trên nhành cây cao ngoài cửa sổ và bắt đầu hót.



    Nguyễn Đức Tùng
    (trong Âm Bản)




Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...