Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Trần Doãn Nho: Nỗi Huế

Collapse
X

Trần Doãn Nho: Nỗi Huế

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Trần Doãn Nho: Nỗi Huế

    Trần Doãn Nho: Nỗi Huế (P.1)


    Trần Doãn Nho


    Huế trầm mặc, cổ kính.
    Thế rồi, tôi cũng trở lại với nó.
    Cô cháu gái đón tôi từ phi trường, chỉ cái nhà lầu mấy chục tầng thuộc loại cao nhất khi xe vào thành phố, nói, bác xem, của ông Phạm Nhật Vượng mới xây đấy, thành phố mình chừ ngon chưa. Ừ, thì ngon, nhưng không phải là thành phố của bác. Cô cháu kinh ngạc, bác nói gì cháu không hiểu.
    Vâng, đúng là cô không sao hiểu nổi. Cô sinh ra đầu thập niên 1990, sau tôi cả gần nửa thế kỷ. Nửa thế kỷ ấy rất ngắn, rất nhanh, nhưng những gì diễn ra lại dài bằng cả mấy thế kỷ trước gộp lại.
    Tôi lớn lên bằng hình ảnh của những thành quách kiên cố gạch đá rêu phong, nơi tôi rờ rẫm, leo trèo, chạy nhảy suốt thời thơ ấu. Quen thuộc là thế, nhưng tôi không nguôi ngạc nhiên về sự bền bỉ lì lợm của chúng. Đối với một cậu bé, sự hiện diện của khu Hoàng Thành là một thực thể bí ẩn, đầy khuất lấp, y như thể là mã số của một hiện hữu hoang đường. Bốn trăm rưỡi năm trước, một viên quan cùng tùy tùng từ miền Bắc được cử vào trấn thủ – đúng ra là chạy trốn ông anh rể tiếm quyền – một vùng đất hoang ở phía nam đất nước, tưởng chỉ để dung thân, ấy thế mà về sau, trở thành thủ phủ của một xứ sở mới: Đàng Trong. Lịch sử thường thích trò bất ngờ như thế. Hơn hai trăm năm sau, Đàng Trong sụp đổ. Lại một bất ngờ mới: một đứa cháu mười đời mới mười sáu tuổi, chưa được ban cho một vai vế nào, quyết tâm phục hồi lại sự nghiệp của gia tộc tưởng đã rơi vào tay một dòng họ khác. Bôn ba gian khổ, cậu cháu thành công, chấm dứt bi kịch phân tranh, trở thành vua của một xứ sở thống nhất! Trở về thủ phủ cũ, vua trưng thu đất đai của tám ngôi làng (Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, Thế Lại, An Vân, An Hòa, An Bửu và An Mỹ) để xây kinh thành cho triều đại mới. “Hơn 3 vạn lính và dân phu từ Quảng Bình đến Quy Nhơn đã được huy động đến Huế thi công. Ðến năm 1807 thêm 85.000 binh lính ở Thanh Nghệ và Bắc Thành được đưa vào tăng cường lao dịch ngày đêm. Ban đầu thành đắp bằng đất, bằng gỗ ván bọc mặt ngoài. Năm Gia Long 17 (1818) mới cho xây gạch 2 mặt Tây và Nam. Hai mặt đông và bắc xây gạch năm 1822. Ðến năm 1838, đời Minh Mạng, việc thi công mới hoàn tất và sau đó còn được tu bổ nhiều lần. Kinh thành Huế có chu vi gần 10.000m, diện tích 520 ha. Thành cao 6,6m, 10 cửa ra vào, trên thành có 24 pháo đài, ngòai thành có hệ thống hào và sông đào bảo vệ. Về phía Ðông bắc còn có một thành phụ gọi là Trấn Bình Ðài hay còn gọi là Mang Cá. Bên trong và bên ngoài kinh thành là hằng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ, chính phụ khác nhau.” [1]
    Biết bao mồ hôi, nước mắt và khổ ải.
    Hoang đường sao được!
    Là kinh thành, hai trăm năm qua, nó cũng lại là sân khấu, khởi đầu cho những vở kịch mới với các khuôn mặt mới, lần lượt thay nhau đóng những vai trò khác nhau trong các biến cố lịch sử. Có biến cố là có hận thù và khổ não. Bất ngờ, năm 1975, biến cố diễn ra trước mắt tôi. Từ lâu trước đó, tôi vẫn tưởng kẻ thắng, người thua chỉ là chuyện của ai đó trong lịch sử. Hóa ra, đó cũng là chuyện đời tôi. Tôi (thuộc phe) thua! Kẻ thắng thì hưởng thụ, người thua thì chịu đựng, tất nhiên thôi. Gắn bó buồn vui với nó hơn nửa đời, gặp cơ hội, đành phải bỏ đi, ngậm ngùi, tưởng đi là đi luôn. Ấy thế mà trở lại. Và dị ứng. Lợi dụng lúc tôi vắng, nó thay đổi chóng mặt, tước mất đi cái thế giới thân quen của tôi. Trong xôn xao cờ xí, xôn xao người, xôn xao xe, xôn xao phố phường, nó dửng dưng tôi. Tôi không thể dửng dưng, nhưng nhìn nó, tôi thấm thía một nỗi tan vỡ vô hình: những mảnh vụn li ti của nó bắn tung tóe thẳng vào ký ức đậm đặc ngày tháng cũ trong tôi. Tôi thuộc típ cổ điển, dễ mủi lòng. Suốt mười mấy ngày ngắn ngủi trôi nhanh, ngày nào, tôi cũng lái xe gắn máy chạy đi chạy lại giữa lòng nó, mong tìm thấy đôi chút thân quen. Vô ích! Nhìn dòng người già trẻ trai gái chen chúc trên đường phố ngoài kia, tôi say sóng, lạc đường. Và lạc lõng. Họ có Huế riêng của họ, không dính dấp gì đến chuyện được, thua của (thế hệ) tôi. Một nửa trong số đó, có thể, chẳng hề có mặt trên đời khi tôi ra đi vào đầu thập niên 1990. Cô, cậu dầy dầy nào dưới sáu mươi có lẽ chẳng biết gì về những cuộc bãi khóa, xuống đường sôi động và hàng trăm thứ vô danh khác vào những năm tháng trước biến cố tháng 4/1975. Với họ, tôi chẳng hề hiện hữu. Với tôi, khối người ào ào chạy tới chạy lui trên khắp các ngả đường rộn rịp này hoàn toàn là một cõi khác với những lo toan khác, những bận bịu khác và những giấc mơ khác.
    Nó tràn trề hiện tại.
    Tôi hoàn toàn quá khứ.
    Tôi không hề có thành phố ấy. Tôi đã nhiều lần không nhìn nhận nó. Ở nước ngoài, khi nhớ, tôi xem nó là một cái gì bội bạc:
    thành phố thì còn
    huế đã đi
    vĩnh viễn đi
    Đã qua có nghĩa là mất tích.
    Nói cho cùng, chúng tôi mất tích nhau.

    Sông Hương trong cơn mưa phùn xứ Huế

    2. Cảnh & người
    Thành Nội, nơi mười ba triều vua ngự trị, bị những biến động thời cuộc dập vùi, trở thành vô chủ. Cư dân tứ xứ lần lượt chuyển vào, xây nhà dựng cửa, biến khu đầu não của cả nước trong gần một thế kỷ rưỡi trở thành một nơi dân dã xô bồ. Lúc tôi lớn lên, vua chúa, quan lại với ngựa xe rộn ràng một thời đã hoàn toàn cổ tích. Dấu vết vàng son xưa lờ mờ đọng lại trong một hoàng thành tường nghiêng mái sập, cỏ dại và gạch đá vương vãi, nơi bọn trẻ con chúng tôi lang thang trong những trưa hè cùng với chim, ve, dế và bông sứ…Thỉnh thoảng thấp thoáng đâu đó một bà Ngự, bà Thị hay ông Tôn, ông Tham [2] với nét kiêu sa ẩn nhẫn của những người nằm ngoài rìa thời cuộc. Nhìn họ, tôi thâm cảm nỗi niềm của một thế hệ đang tan biến dần vào mờ mịt thời gian. Nhà tôi ở vùng Nam Thành Nội, không xa lắm với góc chính nam của nó, Nam Đài: đài phía Nam. Thỉnh thoảng tôi cùng lũ bạn rủ rê nhau leo đua lên mấy chục tầng cấp, đứng nhìn ra ngoài thành, ngắm cầu Bạch Hổ buồn rầu vắt ngang qua dòng sông Hương, nơi lâu lâu lại nghe tin một thiếu nữ nào đó nhảy xuống dòng nước lờ đờ bên dưới kết liễu đời mình vì cuộc tình không toại nguyện. Sau này, mỗi lần có dịp tán tỉnh cô nào, tôi vẫn bị ám ảnh bởi những cái chết lãng mạn sầu thảm này. Không khỏi nghĩ đến ca khúc “Hẹn hò” của Phạm Duy.

    Gái Huế. Tranh Đinh Cường.

    Con đường trước mặt nhà tôi dài chừng hơn cây số, khởi đầu từ khu tường phía nam Đại Nội (Hoàng thành), vượt qua một trong mười cửa thành – cửa Hữu – tiếp giáp với quốc lộ 1, mang tên một nhân vật lịch sử, Yết Kiêu. Tên đường – may mà không bị đổi thành Huỳnh Văn Bánh hay Nơ Trang Long… – là một phần trong căn cước đời tôi; nó luôn luôn có mặt trong mọi đơn từ, tờ khai lý lịch, thi cử, xin việc, ra trường. ở tù, xuất cảnh. Khác hẳn với vùng phía đông và bắc (khu ngã tư Anh Danh, cửa Đông Ba) với nhiều phủ, bộ, phố xá rộn ràng, vùng tôi ở vườn nhiều hơn nhà, cây cối um tùm, đường sá hư hỏng, bụi bờ rậm rạp. Hai di tích lịch sử trong vùng đều bị bỏ hoang từ lâu. Một là Tân Miếu, nơi thờ vua Dục Đức, rêu phong phủ đầy, phía trước là một cây mù u cô độc cành lá lơ thơ, đọt cây vươn lên cao, nghe nói là nơi trú ngụ của một con yêu tinh thường hay kêu réo nỉ non những đêm mưa gió; hai là Đàn Xã Tắc, một khu đất khá rộng dùng làm nơi thờ thần đất và thần lúa, trở thành vườn mía, nơi tôi và lũ bạn vẫn lẻn vào những buổi trưa hè nắng như đổ lửa bẻ mía trộm ăn liền tại chỗ. Hai bên vườn nhà tôi là hai khu vườn rất rộng vắng chủ, tranh, cỏ mọc đầy; phía sau cũng là một khu vườn rộng cây trái um tùm như rừng, chủ nhà là một ông thợ rèn già yếu, chẳng mấy khi đi ra ngoài. Cư dân hầu hết là lao động ngụ cư. Hàng ngày vẫn thấy chú Năm, ông Mứt, bác Nản vác cuốc đi làm thuê, chú Chẩn đạp xích lô, chú Khánh đi lồng nhãn. Con cái họ, có đứa đen đủi, sài ghẻ quanh năm, áo quần vá chằng vá đụp, là những thằng bạn thiếu thời thân thiết của tôi. Giữa xóm tôi với xóm sau là một đoạn đường ngắn, hai bên tre phủ thành vòm, ban ngày im mát, ban đêm âm u, nơi hẹn hò lý tưởng của những mối tình vụng trộm. Khoảng giữa, một bên là cái ao khá lớn và bên kia là cánh đồng trồng lúa vuông vắn của bà Lý, nơi diễn ra mọi hoạt động cày cấy chẳng khác gì cảnh các làng quê trong các bài tập đọc trong sách Quốc Văn. Vào mùa lúa, sân nhà bà Lý (ở xế nhà tôi phía bên kia đường) rộn ràng cảnh đạp lúa, truốt lúa, phơi lúa, giã gạo. Nhớ có lần, giữa mùa đông mưa dầm giá rét, con trâu cày to lớn của bà ta đột tử, phải thuê người xẻ thịt đem biếu cả làng nhờ ăn giùm, mùi tanh tao bốc lên suốt một thời gian dài.
    Xóm nhà quê mùa đó giờ mất hẳn dấu. Vườn đào, vườn nhãn, vườn chuối, giàn bầu, giàn bí, sân chơi, ao nuôi cá, hàng chìa tàu, bể cạn, hòn non bộ, những bụi mâm xôi chen trong lau lách biến mất theo bóng dáng của những ông bà chú bác o dì nghèo nàn và buồn bã của thế hệ trước lần lượt về nằm yên nghỉ ở các nghĩa trang. Nhà nối nhà, vách sát vách, chỗ nào cũng lao xao buôn bán, ồn ào, sôi nổi. Đủ loại: quán cà phê, tiệm nhậu, cửa hàng vàng bạc, tiệm thuốc tây, tiệm hớt tóc, đại lý bán vé máy bay, tiệm sửa đồng hồ, quán bún bò, quán bánh canh, tiệm sửa honda, lớp dạy nhạc, lớp dạy Anh văn, trạm xăng dầu…Chỉ trừ những cây phượng mới trồng dọc theo con đường như để điểm trang, còn tất cả không gian đều bị chiếm đoạt. Xen trong những góc hẹp, chỗ thì là một cây nhãn còn sót lại, nhỏ bé gầy còm, chỗ thì một bụi cây vô danh lơ thơ lá lơ thơ cành nhánh, chỗ thì cây chuối lẻ loi chẳng bao giờ ra trái. Tất cả những dấu vết thiên nhiên cũ xưa đó không giành nỗi ánh sáng với những căn nhà lầu mới xây che chắn hết mặt trời. Văn minh là xâm lăng, là chiếm đoạt, là phố-hóa. Phố là mặt tiền. Mặt tiền đồng nghĩa với…tiền, dù không gian chỉ đủ chỗ cho một cái bàn bán vé số hay một rổ trái cây.
    Phố như cơn dịch, tiếp tục lan ra khắp nơi, không chừa một hang cùng ngõ hẻm nào.
    Trước, thành phố nhàn rỗi, chậm rãi; giờ bận bịu ngày đêm. Phượng còn, nhưng “mưa” chẳng “hồng”, không thèm “bay trên tầng tháp cổ”, công viên nhiều, nhưng hiếm “nắng thủy tinh”; mùa “hạ” nồng, nhưng không mấy “trắng”, “vai em” dường như không còn “gầy guộc nhỏ”…Những hình tượng thơ mộng này chỉ còn là những mẩu nhớ vụn vằn, dù người vẽ ra chúng, Trịnh Công Sơn, được vinh danh bằng một con đường nhiều quán nhậu và căn nhà ở cũ của chàng được bảo tồn với một cái tên nghe vừa nặng (nề) vừa hụt (hẫng): “Gác Trịnh”!
    Qua lăng kính dịch vụ và lợi nhuận, tất cả những di tích lớn, nhỏ của thành phố đều được phục chế, tân trang để thu hút du khách, kiếm tiền. Toàn bộ Hoàng Thành và quảng trường phía trước bây giờ được tô son vẽ phấn, sáng sủa và hiện đại. Đi ngang đó, ta sẽ được gặp những “cung nữ”, những “mệ”, những “ôn” tha thướt, đủng đỉnh trong các bộ lễ phục truyền thống, đi lui đi tới để…chào khách tham quan.
    Nhìn cảnh này, tôi không khỏi liên tưởng đến hai câu “ca dao” của dân Huế ngày nào:
    Trần Hoàn cùng với Bùi San
    Hai thằng hợp tác phá đàn Nam Giao
    Bùi San, nguyên Bí Thư Tỉnh Ủy Bình Trị Thiên những năm cuối thập niên 1980; Trần Hoàn, nhạc sĩ, Trưởng Ty Văn Hóa Bình Trị Thiên, tác giả của “Sơn nữ ca”, “Lời người ra đi” …Hai câu này đã gây ra nhiều lời qua tiếng lại và cải chính từ gia đình hai nhân vật trong cuộc. Đúng hay sai, tôi thực tình không rõ, nhưng nó đã là “ca dao” [3]. Một trang mạng viết: “Như thế, chuyện phá đàn Nam Giao là sự thật, không thể phủ nhận. Tấm “nghìn năm bia miệng” còn nguyên vẹn sờ sờ, bất chấp ai đó cố tìm mọi cách để tiêu hủy hay che giấu. Ấy là kinh nghiệm đắt giá, là bài học thấm thía cho muôn đời về việc đối xử với di sản lịch sử – văn hóa của tiền nhân.” [4] Dân Huế quả thâm trầm: “ca-dao-hóa” một sự kiện điển hình như thế, thực ra, họ muốn cảnh cáo đám kiêu binh “cách mạng” về xu hướng đập phá, hủy diệt truyền thống đã từng trở thành một phong trào đuợc xưng tụng ngất trời mấy chục năm trước ở miền Bắc. Chả là, Huế vốn là sản phẩm của một vương quyền mà người sáng lập bị nhà nước cộng sản tố cáo là rước voi về dày mả tổ, do đó, được xếp ngang hàng với những tên phản động hiện đại: “thằng” Gia Long (như “thằng” Diệm, “thằng” Thiệu, “thằng” Nixon…).
    Du lịch phát triển, Huế rộn ràng ăn, nhậu. Nhà hàng, quán ăn, quán nhậu, sạp, xe, quầy, gánh bán đồ ăn lưu động có mặt trên từng đoạn đường và trong các hang cùng ngõ hẻm. Thượng vàng hạ cám: Nhà Cám (Bún Đậu Mắm Tôm), Bánh ướt bún thịt nướng Huyền Anh, Bánh tráng trộn, Bánh canh o Bướm; Gợi tò mò bằng cái tên “không giống ai”: Ăn vặt chip House, Bò né 3 ngon, Quán ăn gắn, quán ăn vặt Cỏ May, Quán ăn vặt Thảo nguyên; đẻ ra món mới: Trứng lộn bóp, Nướng Lu Út, Cà phê muối, Vịt lộn um bầu. Không khí ăn nhậu rõ nét nhất là ở đường Trịnh Công Sơn. Từ đầu đường đến cuối đường là một chuỗi những quán nhậu: Quán Nhậu Bình, Quán Nhậu Chiến Thắng, Quán Nhậu Diễm Xưa…Quán thì nằm bên kia đường, nhưng chỗ nhậu thì nằm dọc theo bờ sông Hương, có nơi sát bờ nước, buổi chiều vừa ngồi nhậu vừa phải liên tục đập muỗi. Nếu tôi nhớ không lầm thì đây là con đường duy nhất không có quán cà phê. Trước đây, nghe nói con đường này khá rộn rịp, nhưng không hiểu sao dần dần mỗi ngày mỗi vắng. Có lẽ vì quán nhậu mở ra nhiều quá hay vì ở đây quá bình dân, chỉ thích hợp với dân giang hồ, còn các quan gia và đại gia chẳng hề lui tới vì chúng lộ thiên, vừa không đủ lịch lãm vừa không tiện cho các cuộc nhậu ký kết hợp đồng.
    Thi đua với ăn nhậu là cà phê, rộn ràng không kém. Kinh doanh cà phê bây giờ là một thị trường sôi động, vừa tranh chấp nhau vừa tranh chấp với với các quán ăn. Tên hiệu chỗ thì Việt, cà phê, chỗ thì Pháp, café, chỗ thì Anh, coffee: Trầm Cà Phê, Ngói Cà phê, Đại lộ cà phê, Cầu lòn cà phê, Đô cà phê, Nhà bên hồ café, Ngâm cà phê, Trốn Café, Cà phê chân cầu Trường Tiền, Café Thơ Tôn Nữ, Tôn Coffee, Coffee Kỳ Thủ, Paris coffee, Homie Coffee, Coffee Gatka, Grand Coffee, Coffee tổng hội…Có thể có đến hàng (nhiều) trăm tiệm cà phê lớn nhỏ, từ vỉa hè bình dân cho đến những tiệm hết sức sang trọng với một đội ngũ nhân viên phục vụ, đồng phục chỉnh tề. Nhiều quán là dịch vụ kinh doanh của một cơ quan nhà nước nào đó. Xưa, những năm thập niên 1960 & 1970, cà phê là một thứ thời trang của lứa tuổi mới lớn, tập tành làm nghệ sĩ. Quán cà phê đếm trên đầu (vài) ngón tay, chỉ phổ biến trong giới sinh viên học sinh. “Quán” là một gian phòng hay một cái sân hay chỉ là một chiếc quầy di động tự chế. Chủ quán cũng là người làm công. Đó thường là nơi tụ tập nhau để đấu láo, cãi vã giữa những đám choi choi về đủ thứ vấn đề, vấn đề nào cũng lớn hơn những đầu óc còn quá nhỏ bé của họ. Họ là khách của tất cả mọi quán, có thể tạm kể ra mà không sợ bị thiếu: mặn mà văn nghệ thì Dung, Tôn, cô Ba, Tổng Hội, Sơ Huyền; lãng đãng thì Sương Lan, Dạ Thảo, Chiêu; rôm rả thì Chín Lổ, Ba Viên; dân dã, xô bồ thì Lạc Sơn, Phấn. Sáng, ngồi ở Sơ Huyền, gần trưa, cà phê Tôn, cô Ba; giữa chiều Tổng Hội; xế chiều, Bưu Điện…Hôm sau, thứ tự đổi một chút. Hôm sau của hôm sau, lại đổi thứ tự. Vòng vòng là hết một ngày như mọi ngày. Quán cà phê nuôi lớn giấc mộng nhỏ bé của những đầu óc bé nhỏ trong một thành phố nhỏ bé. Thoắt cái, đám trẻ lớn khi nào không hay, kẻ thành thầy, người thành thợ; kẻ nhảy lên rừng, người mặc đồ lính chiến! Có lúc, bạn bè ngày nào bỗng trở nên thù địch, vác súng vác đạn bắn nhau, biến thành phố hiền lành này thành một nơi đầy cả xác người ngay trong những ngày Tết!
    Buổi chiều, cháu tôi chở qua cầu Trường Tiền. Gặp đèn xanh đèn đỏ cuối cầu, dừng lại. Người và xe đông đúc như chạy (đi) trẩy hội. Từ An Cựu đổ về, từ Đập Đá ào lên, từ ga tràn xuống, từ phố dồn qua. Đèn chưa chuyển sang xanh, là đường hai chiều trở thành một chiều, lớp chen chúc chạy thẳng, lớp tràn về trái, đụng phải đoàn xe từ phía bên kia – cũng đã trở thành một chiều – lao tới. Bốn phương tám hướng tụ nhau bóp còi inh ỏi, lách, vọt, lấn, chen như (mấy chục) đàn ong vỡ tổ. Ghé vào Grand Coffee nằm ngay góc khu Morin. Hai thanh niên đứng ở cửa đồng phục cúi đầu chào. Cô tiếp viên cũng đồng phục, rất thanh xuân, vồn vã và ngọt ngào giới thiệu đủ thứ cà phê và thức uống. Có một cái gì bài bản hơi quá đà trong cung cách tiếp đãi. Không sao! Kinh tế thị trường mà. Từ chỗ cấm buôn cấm bán bây giờ lấy cái ngon, cái rẻ, cái văn minh lịch lãm để giành khách.
    Dọc theo Lê Lợi, con đường đẹp nhất thành phố tấp nập không thua gì đường Trần Hưng Đạo bên phố, quảng cáo hàng hóa và dịch vụ giờ có vẻ như lấn sân hẳn khẩu hiệu ca ngợi sự “quang vinh” và “muôn năm” của đảng Cộng Sản, bây giờ là một cơ cấu chính trị đặc thù mà cách hành xử lại chẳng khác gì một công ty quyền lực chuyên bảo kê cho các hoạt động kinh doanh độc quyền. Cũng như Trường Tiền, Cầu Mới (cầu Phú Xuân, tên chính thức hiện nay) tấp nập người và xe, ba bên bốn bề giành đường, lách, vọt, chen, lấn. Tôi lững thững đi bộ qua cầu, tìm thấy hình ảnh một con sông ngàn năm cứ thế: dòng nước thong thả, hồn nhiên trôi, thách đố mọi vội vã, ồn ào. Nhìn lên thấy núi, nhìn xuống thấy phố. Nhìn hai bên, chập chờn thoáng hiện hình ảnh hai đoạn sông vắng được chọn làm bến đò – bên kia là Nghinh Lương Đình, bên này là Thừa Phủ –, nơi, sáng chiều hai buổi trắng xóa màu áo, tha thướt tóc thề, gọn gàng cặp sách hòa lẫn với má đỏ môi hồng của lứa tuổi xuân thì. Bọn con trai Quốc Học hầu hết đều đến trường bằng xe đạp, nhưng thỉnh thoảng vẫn rủ nhau gửi xe, đi đò, để có dịp gần gũi với những bóng hồng Đồng Khánh trên chiếc ghe chao đảo, vừa sợ vừa thẹn vừa thích. Cầu là phản diện của bến. Cái tiện lợi đã vô tình chiếm đoạt mất của các thế hệ sau những khoảnh khắc thú vị trên bập bềnh sóng nước. Và mất luôn cả những cặp chữ, đọc là lập tức gợi lên nỗi nhớ vu vơ: con đò, chuyến đò, chèo đò, mạn đò, gọi đò, qua đò, đưa đò, lỡ đò, kịp đò, đò chiều…Nhìn hai bờ sông mất bến, không khỏi nhớ Trần Tế Xương:
    Đêm nghe tiếng ếch bên tai
    Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
    Đứng giữa cầu, ngắm. Bờ bên phải: người; bờ bên trái: người; giữa cầu; người. Người. Người. Người. Ở đâu ra mà người nhiều thế. Ở ngoài Bắc vào? Ở trong Quảng ra? Ở dưới quê lên? Vào những năm thập niên 60, 70 thế kỷ trước, mỗi lần từ Sài Gòn ra Huế, đi giữa phố, tôi có cảm giác bỡ ngỡ tưởng như thành phố đang trong tình trạng giới nghiêm: vắng hoe. Bây giờ, đi bất cứ đâu trong lòng Huế, tôi lại tưởng như đang đi giữa …Sài Gòn. Nhờ một cuộc họp mặt gia tộc, nhìn hàng chục đứa cháu – đứa kêu bác, đứa kêu chú, đứa kêu cậu, đứa kêu ông – thưa chào tấp nập, tôi mới tìm ra câu trả lời. Ngày tôi ra đi, thế hệ trước tôi có bà mẹ, hai ông chú ruột, ba bà cô ruột, một bà thím, một bà chị ruột, một bà chị dâu, chín người. Thế hệ cùng tôi thì có anh chị em họ cùng vợ hay chồng: 36 người. Thế hệ sau tôi, có 10 đứa cháu kêu bằng chú, cậu, bác và ba cháu kêu bằng ông. Nói chung, khoảng gần 60 người. Ba chục năm sau khi tôi về, tôi mất hết 9 người thế hệ trước và 3 người cùng thế hệ, vị chi 12 người. Nhưng bù lại, cả họ nội ngoại nhà tôi “căng phồng” lên gần 200 người, kể cả những em dâu, em rể, cháu dâu và cháu rể, trong số đó, ít ra cũng khoảng một nửa hoàn toàn mới sinh ra sau 1975. Gia tộc tôi gấp hơn ba lần trong vòng 20 năm. Từ đó suy ra, toàn thành phố ít ra là có số người gấp ba, bốn lần so với trước, chưa kể người nhập cư và du khách. Lượng người có vẻ như tăng lên một cách tùy tiện. Không đâu: vì tình yêu cả đấy. Đói hay no, nghèo hay giàu, người ta cũng phải yêu nhau. Yêu thì phải sinh; sinh thì phải nuôi, nuôi thì phải lớn. Thêm người thì thêm chỗ, thêm việc. Phải đua chen, phải hiện đại, phải vân vân. Thế là, nó – cũng như các nơi khác – hiên ngang bành trướng: rộng thêm, cao lên, phình ra.
    Vào đầu thập niên 1970, khi vừa được xây xong, chiếc cầu Phú Xuân này lập tức trở thành sàn diễn cho những cuộc biểu tình chống chính phủ, đặc biệt, chống cuộc bầu cử “độc diễn” của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu [5]. Dân Huế chứng kiến nhiều lần cảnh sinh viên học sinh và cảnh sát dã chiến vờn nhau, hơi cay và khói bay mù mịt một khúc sông. Nhớ lại hình ảnh này, tôi vừa bực vừa thèm: trò chơi dân chủ tốn khá nhiều công sức, nhưng vui và đầy ý nghĩa, rất hữu ích cho mọi tiến bộ xã hội. Hai mươi mấy năm sau, tháng 5/1993, lúc cả đất nước nằm dưới chính quyền cộng sản, lại xảy ra một cuộc biểu tình hiếm thấy với sự tham dự của hàng chục ngàn người, cũng tại đây, ngay dốc cầu và ngả ba đường Lê Lợi – Hà Nội. Biến cố này xuất phát từ một sự kiện liên hệ đến Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, một tổ chức bị nhà nước cấm [6]. Vào ngày 21/5/1993, một Phật tử tên Nguyễn Ngọc Dũng, tự thiêu trong khuôn viên chùa Linh Mụ trước ngôi bảo tháp của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu [7], Đệ Tam Tăng Thống của Giáo Hội, nhằm phản đối chính sách đàn áp của nhà cầm quyền. Khi người trong chùa hay tin thì quá muộn: anh Dũng đã qua đời. Đại Đức Thích Trí Tựu, Giám Tự chùa Linh Mụ, cho lập bàn thờ ngay nơi tự thiêu. Nhưng sau đó, công an Huế đến đập phá bàn thờ và cướp thi hài cùng giấy tờ tùy thân của anh Dũng. Họ ngụy tạo một lý lịch mới: người tự thiêu là Đào Quang Hộ, quê quán ở tỉnh An Giang, một kẻ nghiện ngập, không nghề nghiệp, bị bịnh SIDA. Đại Đức Thích Trí Tựu viết thư phản đối hành động nầy, đòi chính quyền địa phương trả lại thi hài anh Dũng để chùa tổ chức tang lễ. Ủy Ban Nhân Dân Thừa Thiên Huế, không những không chấp nhận lời yêu cầu, mà còn triệu tập Đại Đức Thích Trí Tựu đến, bắt Đại Đức phải ký giấy xác nhận danh tánh người tự thiêu là Đào Quang Hộ. Thầy không đồng ý ký, bước ra trước cổng, ngồi tọa kháng và tuyên bố tuyệt thực để phản đối. Công an dùng bạo lực cưỡng chế Đại Đức vào bên trong. Tin này lan ra rất nhanh trong quần chúng Phật tử Huế, đồng thời, được Đại Đức Thích Hải Tạng chùa Linh Mụ thông báo cho toàn thế giới thông qua Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người ở Paris. Các Đại Đức đang tu học và hành đạo tại chùa Linh Mụ và một số chư Tăng Ni từ các chùa khác kéo tới ngồi tọa kháng ở nhiều chỗ trên đường Lê Lợi. Đồng bào tụ tập lại mỗi lúc một đông trong không khí hừng hực và khí thế.
    Háo hức khi nghe tin đám đông đang tụ tập, tôi lái Honda chở cô con gái đầu mười sáu tuổi, chạy thật chậm xuyên qua đám đông, thỉnh thoảng, làm ra vẻ bị kẹt xe, dừng hẳn lại quan sát mà thực ra cũng để dự phần. Cô con gái tôi ngạc nhiên hỏi: Gì mà người ta lại tụ tập đông như vậy, ba? Tại sao mấy thầy lại ngồi giữa đường vậy? Tôi nói: Huế ngày trước của ba là như vậy đấy. Để làm gì ba? Biểu tình. Sao họ lại biểu tình? Để đòi hỏi chính quyền phải thỏa mãn những nguyện vọng của họ. Nguyện vọng gì vậy ba? Tôi lúng túng: họ đòi…tự do. Tự do là gì vậy ba? Tôi nói lớn lên con sẽ hiểu. Cuộc biểu tình kéo dài cả mấy tiếng đồng hồ trước khi bị công an thẳng tay đàn áp. Nghe nói, chỉ đạo cuộc trấn áp này là một viên chức cao cấp trong Ban Tôn Giáo nhà nước, trước đây hoạt động nằm vùng trong hàng ngũ sinh viên Phật tử Huế.
    Trước 1975, dẹp cuộc biểu tình này sẽ có cuộc biểu tình khác. Sau 1975, biểu tình bị tuyệt đối cấm. Đêm ngày, chỉ có một chiếc loa duy nhất, dù là loa rè, loa bể hay loa nứt. Nhà nước cộng sản bảo: đất nước chỉ cần một cái miệng. Một mình một cõi, mặc sức nói. Nói hươu nói vượn miết, hèn gì, chả thành miệng quai xách!

    3. Có một thời

    Huế, cũng như Hà Nội, Sài Gòn vốn là biểu tượng chung cho cả đất nước, vì cả ba, trên quá trình lịch sử, đã từng đóng vai trò “thủ đô”. Người Việt Nam, dù quê ở đâu, có lẽ ai cũng mang một chút Hà Nội, một chút Huế, một chút Sài Gòn ở trong lòng. Tổ tiên ta, trên con đường di dân tìm đất sống, mấy ai không phải đi ngang Huế, dừng lại ở Huế, làm người Huế trước khi vượt con đèo Hải Vân hiểm trở để xuôi Nam, trở thành người Đà Nẵng, người Nha Trang, người Sài Gòn, người Vĩnh Long… Triều Nguyễn, giòng họ lập ra Huế, vốn gốc Gia Miêu, Ngoại Trang, Thanh Hóa; vua Quang Trung, người Bình Định, chọn Huế để làm lễ lên ngôi. Nhiều phi tần nhà Nguyễn gốc miền Nam, theo chồng, mang theo cả bà con, cháu chắt ra định cư ở Huế. Nhiều người từ các nơi khác về Huế làm quan hay học hành, lấy vợ sinh con, trở thành dân Huế. Tôi cũng thế, tổ tiên vốn từ miền Bắc trên đường kiếm sống, đã đến Huế định cư đâu từ đầu thế kỷ trước (20). Chẳng lạ gì, nhiều gia đình “Huế chay”, nhưng lật gia phả ra, thì hóa ra, tổ tiên vốn gốc ở Quảng Nam, Bình Định, Sơn Tây, Hà Nội hay Cần Thơ, Rạch Giá…
    Huế không của riêng ai.
    Là thủ đô, Huế là cái nôi của mọi biến cố: thay vua đổi chúa, tranh chấp con trưởng con thứ, loạn Chày Vôi, thất thủ kinh đô, cướp chính quyền, thoái vị, truất phế… Đến thế hệ tôi – những người sinh ra vào những năm quanh quanh thập niên 1940 – khi lớn lên, thì Huế đã trở thành “cố đô”. Sau hiệp định Genève, cố đô Huế may mắn được “chia” cho miền Nam, nhờ thế, thoát khỏi hơn hai chục năm chịu đựng cái “lò” thí nghiệm phí phạm cả người lẫn của của miền Bắc xã hội chủ nghĩa; lại được giao tiếp với thế giới văn minh, tiến bộ bên ngoài, tạo cơ hội cho sự phát triển trên nhiều lãnh vực khác nhau.
    Tưởng đã là “cố đô”, thì yên. Đột nhiên năm 1963, sau một thời gian ngủ vùi trong “xứ Huế mộng mơ”, “cố đô” sinh chuyện. Đêm đó, Phật Đản, tôi đạp xe qua cầu Trường Tiền, tiến theo dòng người đến đài phát thanh Huế để đòi hỏi được nghe phát thanh lại bài phát biểu của Thượng Tọa Trí Quang tại chùa Từ Đàm sáng hôm đó về sự kiện cấm treo cờ Phật giáo. Đang loay hoay nhích từng chút một giữa cầu, thì chợt nghe một tràng tiếng nổ vang từ phía bên kia cầu, tôi hốt hoảng quay ngược, vác chiếc xe đạp chạy bộ cùng đoàn người hoảng loạn dồn về phía phố, rồi vội vã đạp về nhà. Tám người chết! Sự kiện đơn lẻ đó bỗng trở thành một bước ngoặt lịch sử: phản ứng dây chuyền tạo thành một chuỗi biến cố mà cả thế hệ tôi bơi lội, vùng vẫy trong đó cho mãi đến…1975.
    Từ đó, suốt cả một thời gian dài, địa danh Huế xuất hiện dài dài trên các bản tin nóng bỏng hàng ngày của truyền thông quốc tế, vượt qua cả hai “thủ đô” Sài Gòn và Hà Nội. Huế tuyệt thực. Huế tự thiêu. Huế xuống đường, Huế bãi khoá, bãi thị. Huế giới nghiêm. Huế “ghế đá công viên dời ra đường phố”. Huế hội thảo. Huế đốt phòng thông tin Mỹ. Huế bàn thờ ra đường. Huế Mậu Thân. Huế mùa hè đỏ lửa. Huế chạy giặc. Chưa có một giai đoạn nào trong lịch sử, Huế tự do, sôi động và tang thương như thế. Huế sẵn sàng cho mọi khả thể: phát biểu, hát hò, lên án, đòi hỏi, đàn áp, bắt bớ, tù đày…Dù chiến tranh khốc liệt, cả miền Nam mở toang. Huế mở toang. Khao khát tự do và dân chủ thôi thúc tuổi trẻ dấn thân. Bạn bè của tôi và tôi đã tham dự rất nhiều lần những cuộc bãi khóa, xuống đường, hội thảo chống độc tài, đòi tự do, dân chủ đòi bầu cử đa nguyên đa đảng, chống tham nhũng, độc tài. Bản thân tôi đã phải vào tù hai lần vì tội tham gia “tranh đấu”.
    Bày tỏ quan điểm, lập trường và đòi hỏi của mình qua các cuộc biểu tình là một sinh hoạt cần thiết thúc đẩy cải cách và tiến bộ. Những quốc gia gần gũi như Đại Hàn, Đài Loan, Phi Luật Tân hay Indonesia, Mã Lai, Ấn Độ đều lần lượt trải qua những cuộc vùng lên như thế của nhiều thế hệ sinh viên học sinh, trước khi trở thành những nước dân chủ phát triển như hiện nay. Tiếc thay, Việt Nam bị hoàn cảnh lịch sử đẩy qua một số phận khác. Thay vì là một động lực giúp đất nước phát triển về hướng dân chủ và tự do như thế hệ tôi mơ ước, các phong trào đấu tranh trở thành những “con ngựa thành Troy” (The Trojan Horse) [8] của đảng cộng sản. Họ đưa người len vào hàng ngũ Phật giáo, cài cán bộ vào các tổ chức sinh viên học sinh và các phong trào tranh đấu để quay hướng theo mục tiêu định sẵn của họ. Thắng lợi xong, họ dùng chiêu bài “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”, lập tức đóng kín mọi cánh cửa, đẩy đất nước ngược về chính sách bế quan tỏa cảng của triều đại phong kiến xưa cũ. Hai chữ “giải phóng” trở thành phản ngữ: thay vì mở ra, nó trùm một bức màn đen kín mít lên toàn bộ đất nước. Sau 1975, cả một miền Nam hôi hổi nóng bỗng nhiên nằm im re như bị hóa đá.
    Biến cố tạo nên nhân vật. Thế hệ trước, quý ngài: Ngô Đình Thục, Cao Văn Luận, Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Trí Thủ, Thích Tiêu Diêu…và một khuôn mặt đặc thù: cố vấn Ngô Đình Cẩn. Thế hệ sau, mới toanh: những là Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Bửu Tôn, Vĩnh Kha, Trần Xuân Kiêm, Nguyễn Đính, Trần Quang Long, Phan Duy Nhân; những là Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Hữu Ngô, Thái Ngọc San, (Tiêu Dao) Bảo Cự, Lê Khắc Cầm, Lê Đình Cai, Lê Hữu Bôi, Hồ Tính Tình, Chu Sơn, Võ Văn Đông…Quán cà phê, giảng đường và những cuộc tranh cãi đã làm tất cả chúng tôi không lạ gì nhau. Trong số họ, có người là thầy, có người là bạn học, bạn cùng xóm, bạn cà phê, bạn tranh đấu hoặc có khi là bạn “đối thủ”. Huế thời đó mang không khí của một thành phố phương Tây nào đó thu nhỏ. Paris chẳng hạn. Các tài năng cỏ đủ không khí và điều kiện tự do để phát triển, nhất là về văn học nghệ thuật. Chỉ xin nêu lên một số khuôn mặt điển hình: Đinh Cường (họa), Bửu Ý (dịch), Ngô Kha (thơ), Trịnh Công Sơn (nhạc), Huỳnh Hữu Ủy (biên khảo), Tôn Thất Lập (nhạc), Miên Đức Thắng (nhạc), Túy Hồng (văn), Nhã Ca (văn), Nguyễn Tuấn Khanh (họa, văn)), Trịnh Cung (họa), Vĩnh Phối (họa), Lữ Quỳnh (văn), Tôn Thất Văn (họa), Bửu Chỉ (họa), Hà Thanh (ca)…Nổi trội hơn hết là Trịnh Công Sơn. Đây là một hiện tượng Huế bất ngờ, có đôi chút trớ trêu. Hiện thực Huế và các biến cố Huế chật ních trong nhạc của chàng: hàng cây, nắng, mây, công viên, phượng, gió, ghế đá, mưa hồng, đại bác, đàn bò, xác người, những “chúa nhật buồn” và những “đêm khuya lạnh ướt mi”. Được nuôi dưỡng bằng không khí Huế, người nhạc sĩ này vừa “âm nhạc hóa” Huế, lại vừa cung cấp thêm dưỡng chất cho Huế.
    Không có một Huế giai đoạn 1954-1975 như thế, chắc chắn sẽ không có những tài năng và một gia tài văn học nghệ thuật để lại cho đất nước như thế.
    Tôi không nói ngoa.
    Bửu Ý, một trong những nhà văn-dịch giả có nhiều đóng góp cho văn học miền Nam, hiện đang sống ở Huế, qua một cuộc phỏng vấn đăng tải trên tờ Sông Hương, cho biết một cách cụ thể không khí trí thức của thành phố này vào những năm cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960:
    Lúc bấy giờ ở Huế cũng có một tờ tạp chí vô cùng quan trọng, đó là tờ Đại Học, tập hợp cả những cây bút nổi tiếng ở Huế lẫn Sài Gòn. Nhờ có báo chí cởi mở, nở rộ (dù chịu kiểm duyệt bởi Sở thông tin nhưng rất nhiều khi Sở thông tin kiểm duyệt chỉ cho có chứ không theo sát các tờ văn nghệ) trên một vùng đất như vậy thì nó sẵn sàng tiếp thu tư tưởng của nước ngoài, của Tây phương đến. (…) Hồi đó những tờ báo miền Nam luôn luôn sẵn chực để ngợi ca và kỷ niệm những gương mặt lớn trong văn học nghệ thuật thế giới. Khi có một hiện tượng như cái chết của nhân vật lớn hay kỷ niệm ngày mất của các tiểu thuyết gia thì miền Nam luôn luôn làm những số báo về họ. Những số báo này trở lại giúp đỡ cho sinh viên rất nhiều trong học tập. Sinh viên lúc ấy đọc sách, đọc báo nhiều lắm. Không chỉ sinh viên đọc thôi mà tầng lớp đọc còn xuống cả trường trung học, ở Huế thì có trường trung học lớn như Quốc Học, Đồng Khánh. Học sinh cỡ lớp 11, 12 đã tìm đọc các tờ báo đó rồi cho nên trình độ tư tưởng, tiếp thu rất mạnh và rất bao quát. Chừng đó thôi cũng đủ thấy những tư tưởng mới sẵn dịp là nảy nở trong lòng công chúng. Những tư tưởng mới này còn phản ánh trong nghệ thuật nữa mà đặc biệt là nhạc và họa. Hồi đó là thời cực thịnh của nhạc và họa ở miền Nam. Nếu kết nối với nữ giới và phong trào nữ quyền ở miền Nam thì lúc bấy giờ họa sĩ họ vẽ tranh thiếu nữ khỏa thân rất nhiều và đạt đến mức nghệ thuật cao. Những hiện tượng này cũng giúp cho phong trào nữ quyền lớn mạnh.
    (…)
    Đó là những người vừa vẽ vừa đọc sách. Họ có rất nhiều tập hội họa trên thế giới nên trước khi vẽ họ đã xem tranh. Chẳng hạn như tranh thiếu nữ hoặc thiếu nữ khỏa thân rất đẹp của Miró, Mondrian… Những họa sĩ miền Nam lúc bấy giờ xem những bức tranh này mà mê mẩn. Và những tác phẩm này không ai kiểm duyệt cả. Họ là Trịnh Cung, Đinh Cường, Nguyễn Trung… Họ vẽ không thua gì họa sĩ nước ngoài. (…) Hồi đó trong xã hội những thú vui tiêu khiển không nhiều nên học trò từ trung học như Đồng Khánh, Quốc Học đều đọc sách triết cả. Họ đọc triết học qua sách/ tạp chí dịch nhưng cũng rất giỏi tiếng Pháp. Năm 1957, tôi vừa học đại học vừa đi dạy ở trường Quốc Học Huế. Vào lớp Đệ Nhị, Đệ Nhất là toàn nói tiếng Pháp chứ không bao giờ nói tiếng Việt, chỉ khi tôi thấy từ nào khó quá tôi mới viết nghĩa lên bảng. (…) Hồi đó sinh viên, học sinh Đồng Khánh, Quốc Học có cái mốt thời thượng: các tác phẩm của tác giả phương Tây vừa ra mắt trên thế giới là có mặt ở Sài Gòn và Huế liền. Chẳng hạn cô học sinh học lớp Đệ Nhị trường Đồng Khánh nhét một chiếc khăn mùi soa nhỏ vào tập thơ bằng tiếng Pháp, cầm trên tay đi học. Cái mốt rất đẹp, rất dễ thương. ” [9]
    Vâng, Huế của tôi!
    Thử hình dung lại vài nét Huế của những ngày không-cộng-sản đầu tập niên 1970, dưới ngòi bút của Chu Sơn, một cán bộ cộng sản hoạt động nằm vùng:
    Một sớm cuối thu 1972, sau “đêm không ngủ” hừng hực khí thế tranh đấu cùng các anh em học sinh, sinh viên, tôi và anh Ngô Kha cùng rời sân trường Đại học Văn khoa Huế. Không khí mát mẻ, mù sương của buổi tinh mơ khiếnchúng tôi tỉnh táo và sảng khoái lạ lùng. Dường như cả thành phố Huế tràn ngập trong sương mù.Vòm các nhịp cầu Trường Tiền trông như những con thuyền bồng bềnh trên khói sóng. Chúng tôi không băng qua cầu để về nhà anh Ngô Kha làm một giấc ngủ bù như dự định, mà đi dọc theo đường Lê Lợi, con đường đẹp nhất theo cảm nhận của một người bạn đã đi khắp góc bể chân trời. Đường Lê Lợi sáng hôm ấy hiện ra trước mắt chúng tôi tựa một dải lụa hoa màu nguyệt bạch rủ xuống từ trời cao. Các ngọn đèn vàng đi ngủ muộn ẩn hiện trên những vòm lá muối có vẻ không thực. Lác đác mấy nữ sinh lớp nhỏ áo dài trắng từ ngoại ô đi học sớm đang tung tăng đuổi bắt nhau hay nhảy dây trong sân trường Đồng Khánh cũng có vẻ không thực. Cái đẹp thường là mong manh, ẩn mật. Chúng tôi lẳng lẽ đi bên nhau như sợ một động thái vô tình nào làm cái đẹp huyền hoặc tan biến đi. Quán cà phê cô Ba ở phía bên kia cầu Nam Giao như vừa mới bịn rịn làm một cuộc giã từ. Mấy sợi tơ trời còn vương vấn trên mái ngói tàn cây.” (…) “Quán cà phê đã có lác đác thêm nhiều khách hàng. Cuộc độc thoại của anh Ngô Kha về tình hình đất nước, về những người học trò của anh (Chỉ, Hiền, Quê, Cước, Nhân, Dung…) về phong trào học sinh, sinh viên Huế, về thân phận của người trí thức, về chiến tranh, về hoà bình…tưởng chừng không bao giờ dứt. Dường như anh Ngô Kha không hề biết hoặc không màng để ý rằng nơi này (quán cà phê cô Ba) ngoài chúng tôi còn có nhiều người khác nữa. Và tất nhiên không phải ai cũng đồng tình, chia sẻ với anh ,và chắc chắn không thiếu những ánh mắt nhìn về phía chúng tôi nghi ngại, căm thù. Cô Ba, bà chủ quán thì biết hết. Cô kín đáo khẽ đá vào chân tôi khi mang thêm nước trà. Chúng tôi rời quán cà phê khi mặt trời đã lên cao. Một ngày nắng gắt lại bắt đầu. Mùa thu năm đó thời tiết đặc biệt vào ban ngày hết sức ngột ngạt oi bức. Có lẽ cái nóng cháy của “mùa hè đỏ lửa” vẫn âm ỉ, lẩn quất đâu đây. Giá mà lúc đấy có ai nói về một thành phố Huế bồng bềnh trong sương khói mới chỉ cách đó hơn một tiếng đồng hồ thôi thì sẽ có một người Huế khác bảo là dối trá lừa bịp. Cũng dể hiểu thôi bởi bấy giờ họ đang ngon giấc, hoặc không ít người trằn trọc, rã rời mệt mỏi suốt đêm chỉ vừa kịp chợp mắt trước bình minh.” [10]
    Tuy Chu Sơn cố ý nhấn mạnh đến khía cạnh tích cực của phong trào đô thị do cộng sản giật dây và bộ mặt tiêu cực của chính quyền VNCH (theo dõi, bắt bớ, đàn áp…), một khung cảnh như thế là khá tiêu biểu của Huế thời chiến: mở. Nó có chỗ cho chuyện “hừng hực đấu tranh” của tuổi trẻ hay cho một người chống chế độ như Ngô Kha “độc thoại về tình hình đất nước”, điều hoàn toàn không bao giờ có dưới chế độ cộng sản sau này, dù trong thời bình. Về mặt trấn áp, so ra, chuyện theo dõi, bắt bớ, tù đày, tra khảo thì công an cộng sản còn tinh vi, bài bản, quy mô, liên tục và tàn bạo hơn nhiều.
    (còn nữa)
    Trần Doãn Nho
    ————————–
    [1] Dalatarchi:
    http://dalatarchi-tranconghoakts.blo...thanh-hue.html
    [2] Ngự, Thị, Tham, Tôn…là chữ gọi tắt của một số chức quan dưới triều Nguyễn.
    [3] Xem:[4] Phanxipăng, bđd.
    [5] Trong cuộc bầu cử tổng thống VNCH năm 1971, có hai liên danh: liên danh 1 là Nguyễn Văn Thiệu – Trần Văn Hương và liên danh 2 do Dương Văn Minh làm thụ ủy liên danh; liên danh này đã nộp đơn ứng cử nhưng rồi rút lui.
    [6] Xin lưu ý: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) là Giáo Hội độc lập được thành lập dưới thời VNCH; khác với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN) – không có hai chữ “thống nhất” (TN) – là Giáo Hội quốc doanh do nhà nước cộng sản thành lập vào năm 1981.
    [7] Hòa Thượng Thích Đôn Hậu viên tịch trước đó một năm, năm 1992.
    [8] Theo thần thoại Hy lạp, “con ngựa thành Troy” là một con ngựa gỗ rỗng ruột, trong đó, một số lính Hy Lạp ẩn mình, bí mật lọt vào cửa và chiếm được thành Troy, nhờ thế mà cuộc bao vây thành 10 năm mới chấm dứt. Nghĩa ẩn dụ: một người hay vật bí mật tham gia một tổ chức để tấn công phá hoại nó từ bên trong.
    [9] Võ Bảo Trâm, Bửu Ý nhìn lại đời sống văn học miền Nam giai đoạn từ 1954 – 1975, tạp chí Sông Hương,
    [10] Chu Sơn, Bửu Chỉ: bằng chính mình đến với cuộc đời


  • #2
    Trần Doãn Nho: Nỗi Huế (P.2)


    Thành phố Huế nhìn từ trên không, hoang tàn sau trận tấn công của Việt Cộng Tết Mậu Thân 1968.
    4. Tang thương
    Mùa xuân 1968, Huế đã từ dương bản sang âm bản, từ “diễm xưa” đến “bài ca trên những xác người”: thảm sát Mậu Thân.
    Sáng mồng 2 Tết [1], sau một đêm kinh hoàng vì nghe tiếng súng nổ vang rền khắp nơi và tiếng hô xung phong từ cửa thành (cửa Hữu), tôi thức dậy, vô cùng hoang mang. Mở cửa bước ra ngoài, đứng ở góc vườn trước nhà, nhìn về hướng đông, tôi thực sự hoảng hốt. Khuất sau mấy đọt tre, trên ngọn Kỳ Đài vươn cao trong bầu trời thấp xám, là lá cờ! Không phải là lá cờ thân quen vẫn nhìn thấy hàng ngày mà là một lá cờ lạ hoắc: cờ Mặt Trận Giải Phóng.
    Thôi rồi, Việt Cộng đã chiếm Huế!
    Lá cờ không tung bay theo gió mà vướng víu quanh cột cờ, rủ xuống, thảm hại. Như cờ tang. Vì trời không có gió? Vì vướng víu cái gì? Không rõ. Suốt hai mươi sáu ngày trên ngọn Kỳ Đài, lá cờ vẫn như thế, ủ rũ. Bầu trời mênh mông, nặng, tủi hờn. Mùa xuân thảng thốt, vỡ. Lá cờ làm cho cái không khí vốn đã ảm đạm, lại còn tan tác, ảm đạm thêm.
    Huế không phố, không nhà. Không nắng, không trăng, không hoa, không mứt bánh, không hột dưa, không tổ tiên, ông bà, không truyền thống. Không gì cả. Không có tiếng cười, đã hẳn – mà tiếng khóc cũng không. Chỉ có tiếng súng nổ chốc chốc vang lên, phá tan đi cái lặng lẽ đến rợn người. Huế rơi vào trạng thái âm bản. Người người đi đi, đứng đứng như những bóng ma. Chợt gặp nhau, ai cũng tưởng ai đang từ cõi chết trở về. Mây, một khối màu chì đông cứng trên bầu trời xám đặc. Lạnh. Mưa, thỉnh thoảng, rơi từng giọt nhỏ hãi sợ. Cỏ cây rưng rưng. Uất, nghẹn. Ngoài tiếng súng, thành phố mất đi tiếng động cuộc đời. Mọi thứ thin thít im, tự thu mình vào bên trong, khe khẽ, rón rén, ngập ngừng. Không ai giúp gì được ai. Mình cũng chẳng giúp gì được chính mình. Sợ. Nỗi sợ còn ghê gớm hơn cả cái chết.
    Một tuần sau, buổi sáng, bỗng nghe tiếng loa từ khu Quân Cụ, cách nhà chừng ba, bốn cây số, vang lên. Thì ra, quân đội VNCH còn giữ được đồn Mang Cá, khu Tịnh Tâm, phi trường Thành Nội, vùng Tây Linh, vùng chợ Cầu Kho, tất cả gồm khoảng một phần tư khu vực nội thành. Thế là, cả gia đình tôi vội vàng dắt díu nhau băng từ vườn nhà này qua vườn nhà khác. Đạn pháo, mặc, súng nổ, mặc. Nấp, chun, lủi, bước, chạy vội về phía có tiếng loa. Vừa đến khu hồ Tịnh Tâm, thấy bóng những người lính VNCH canh gác chỗ này chỗ nọ, vẫy tay giục chúng tôi đi tiếp, mừng, biết đã đi đến chỗ an toàn. Gia đình tôi ở tạm trong nhà một người quen. Dân ở các vùng khác trong Thành Nội cũng tìm cách thoát về đây. Cư dân Cầu Kho, Mang Cá hào phóng tiếp nhận hết, lạ cũng như quen. Nhà nào cũng đầy người. Tất cả chia sẻ nhau cái ăn, cái mặc, không ai tiếc ai cái gì. Cả khu Mang Cá và chợ Cầu Kho bỗng nhiên hình thành một Huế khác, bấp bênh, căng thẳng, hy vọng và chờ đợi.
    Cho đến cuối tháng Giêng.
    Vừa mới nghe đài phát thanh loan tin Việt Cộng rút đi, trong lúc ai cũng đang chờ lệnh, tôi nóng ruột, vội vàng cùng bà chị trở về thăm nhà. Mọi con đường còn vắng tanh. Khi đến đường Lê Huân, cách nhà chừng hai cây số, thấy có xác bộ đội. Từ đó trở lên phía thành, nhất là trên các con đường quanh quanh phường Tri Vụ, Thuận Cát, khu Cầu Đất, khu cống Vĩnh Lợi, vùng Tây Lộc, khu phi trường, vân vân, nơi diễn ra những trận đánh vô cùng ác liệt, xác bộ đội năm rải rác khắp nơi, chỗ một, hai xác, chỗ thì mười, mười mấy xác nằm vắt lên nhau. Có đến hàng trăm. Nhiều xác đã trương phình, mùi hôi bốc lên nghẹt thở. Hai chị em nhắm mắt, bịt mũi mà đi. Ngay trước cửa ngõ nhà tôi, ba, bốn xác bộ đội nằm vắt vẻo bên hàng chìa tàu. May mà trong vườn cũng như trong nhà, không thấy có xác nào. Những đứa con miền Bắc nằm lại trên những con đường xa lạ xứ Huế, trông khuôn mặt ai cũng còn rất trẻ.

    Tôi và đứa cháu ruột một tuổi trên nền nhà trần trụi sau cuộc chiến Mậu Thân (3/1968)

    Hầu hết khu vực tôi ở, nhà cửa, vườn tược tan hoang. Căn nhà tôi bị phá hủy hoàn toàn, vết đạn lỗ chỗ khắp nơi. Cây cối trong vườn bị bom đạn cày xới tơi tả. Hai cây nhãn cổ thụ trái rất ngon vốn là một nguồn lợi mà mẹ tôi dùng để nuôi tôi đi học, trốc gốc, cành nhánh gãy đổ bịt hết lối đi. Hầm hố hiện diện khắp nơi trong vuờn, kể cả một cái hầm dài mà bộ đội đào chung quanh và xuyên dưới thềm nhà.
    Vừa bước vào, đang ngậm ngùi nhìn đống gạch vụn, chợt một tiếng hô lớn vang lên,“Đứng lại, giơ tay lên!” Tôi rụng rời, đứng sững, run rẩy đưa hai tay lên trời. Từ sau bức tường nhà đổ nát, hai lính Thủy Quân Lục Chiến xuất hiện. Hoàn hồn, thế mà cứ tưởng là Việt Cộng! Họ chĩa súng vào hai chị em, mặt mày căng thẳng. Một người tiến lại, “Đứng yên, không được nhúc nhích.” Anh ta sờ nắn khắp người tôi, rồi bảo, “Xắn quần lên, cởi dép ra.” Tôi làm theo. Anh ta xem kỹ ống chân và bàn chân tôi. Sau đó, hỏi, giọng hơi có chút thân thiện:
    – Ở đâu đến, vào đây làm gì?
    – Dạ, đây là nhà tôi. Chúng tôi lánh nạn ở Mang Cá, nghe tin Việt Cộng rút đi, nên vội về xem nhà cửa ra sao.
    – Chắc không?
    – Dạ chắc.
    – Trước làm gì?
    – Sinh viên.
    – Lại sinh viên, sinh viên! Còn đây là ai?
    – Dạ, chị ruột.
    – Giấy tờ đâu, đưa xem.
    Chúng tôi đưa giấy căn cước. Xem xong, người lính bảo:
    – Được, tôi tin cậu. Chân này không phải là chân đi dép râu. May cho cậu đấy, lớ xớ gặp người khác là đi đời. Đây vẫn còn là vùng chiến trường, chưa được phép vào, biết chưa? Bọn du kích và bọn sinh viên học sinh nằm vùng vẫn còn lẩn quất đâu đây, phải thanh toán trước khi cho đồng bào về nhà.
    Hú hồn! Hai chị em chỉ biết lí nhí cám ơn rồi vội vàng rời nhà, lòng vẫn chưa nguôi kinh khiếp.
    Các quan chức thành phố Huế phụ trách việc xác định danh tính các nạn nhân của cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968.


    Quân cộng sản rút đi rồi, để lại một Huế ngổn ngang, tang thương, rách nát. Thành quách tan hoang, người người ngơ ngác. Người gặp người mà vẫn tưởng như đang còn ở trong giấc mơ. Dắt díu nhau từ chỗ tạm trú về nhà cũ, biết là còn sống, biết là mình may mắn, nhưng cõi lòng ai cũng vỡ nát, vụn vằn, đờ đẫn. Những câu hỏi ném vào nhau, thổn thức: Ai còn? Ai mất? Chồng đâu? Con đâu? Chị đâu? Em đâu? Bạn đâu? Thầy đâu? Học trò đâu? Chao ôi, Huế đã làm gì nên tội mà ra nông nổi này! Hơn nửa thế kỷ rồi! Bây giờ Huế đã khác, tất nhiên. Vết tích cuộc chiến năm xưa cũng như cái chết tức tưởi của hàng ngàn người tưởng như đã biến mất sau lớp bụi thời gian và nỗ lực không ngừng nghỉ của nhà cầm quyền cộng sản nhằm xóa nhòa nó.
    Nhìn lại thời kỳ đó, trong bài báo “Revisiting Vietnam 50 Years After the Tet Offensive” (Nhìn lại Việt Nam 50 năm sau Cuộc Tổng Tấn Công Tết) đăng trên tạp chí “Smithsonian” (Washington DC, Hoa Kỳ) vào năm 2018 [2], Nguyễn Quý Đức – nhà báo Mỹ gốc Việt, biên tập viên cho các đài phát thanh KALW-FMNational Public Radio – cho rằng ở Việt Nam hiện nay, biến cố 1968 được mô tả như một chiến công anh hùng. Vài năm một lần, bộ máy tuyên truyền nhà nước vẫn cứ tiếp tục tăng tốc ca ngợi nó. “Nhưng về cuộc tàn sát hàng ngàn người dân Huế thì sao? Không một lời,” theo anh. Huế bây giờ rất nhiều khách du lịch. Họ viếng thăm lăng tẩm, hoàng thành, đền đài miếu mạo. “Hướng dẫn viên du lịch nói với họ về quá khứ, nhưng họ làm như không biết những lỗ đạn chọc thủng những bức tường thành bên trong Hoàng Thành và ở khắp nơi. Không có du khách nào được dẫn đi xem những khu mộ tàn sát tập thể y như họ được dẫn đi thăm những ‘cánh đồng chết’ nổi tiếng của Khmer Đỏ ở Cam Bốt.” Đã 50 năm rồi, trong khi Mậu Thân không thể thoát khỏi ký ức của anh và của người dân Huế, thì cuộc thảm sát vẫn bị nhà nước Cộng Sản che giấu, mà anh gọi là một “sự im lặng toàn quốc về biến cố 1968” (The national silence about 1968) và tự hỏi chẳng biết bao giờ sự im lặng đó mới được giở bỏ. Mấy năm trước đây, theo Nguyễn Quý Đức, một nhóm phóng viên truyền hình Pháp-Đức đến nhà anh ở Hà Nội [3] để phỏng vấn về tình hình hậu chiến ở Việt Nam, đi kèm có một phụ nữ là viên chức của bộ ngoại giao Việt Nam. Khi câu chuyện đề cập đến những vấn đề liên quan đến vụ Tổng Tấn Công Tết, thì viên chức đó ngắt lời, cấm bàn về hay nhắc đến đề tài này, nếu không, bà ta sẽ không cho phép cuộc phỏng vấn được tiếp tục. Anh tức giận, nhưng cố gắng thương lượng với bà. Cuối cùng, anh cũng trao đổi được đôi điều với nhóm truyền hình. Nhưng cuộc phỏng vấn ấy không hề được chiếu ở Việt Nam. Họ muốn cả đất nước đều im lặng về cuộc thảm sát mậu Thân ở Huế. Nguyễn Quý Đức không im lặng. Anh lên tiếng bằng cách viết. Thay vì viết để “vinh danh một phiên bản lịch sử do những người còn sống, những người chiến thắng viết,” như bà nhân viên bộ ngoại giao muốn, anh viết là để “vinh danh những người đã chết và tưởng niệm họ,” như lời khuyên của một bạn văn quen, nhà văn Bảo Ninh, tác giả của “Nỗi buồn chiến tranh”. Đó là lý do khiến bài viết trên ra đời.
    Nguyễn Quý Đức – đột ngột qua đời tại Hà Nội hôm 22/11/2023 vừa qua – là con của ông Nguyễn Văn Đãi, một công chức cao cấp của VNCH làm việc tại Đà Nẳng. Tết năm 1968, gia đình anh ra Huế ăn Tết. Lúc đó, anh mới chỉ là cậu bé 9 tuổi. Cậu bé Đức chứng kiến cảnh bộ đội vào Nhà Khách Chính Phủ, nơi gia đình được phép ở tạm, bắt cha cậu. “Tôi leo lên giường và cố nhìn ra ngoài. Đám lính bộ đội đã bắt những người đàn ông sắp thành hàng và trói khuỷu tay họ sau lưng. Một lúc sau, họ dẫn giải những người đàn ông đi. Tôi nhìn thấy cha tôi trong đó.” Sau khi Cộng quân rút lui, gia đình Đức trở lại Đà Nẵng, sống trong một cơn khủng khoảng nặng nề: không cách gì tìm ra tông tích của người cha và cũng không biết ông sống chết ra sao. Khi nghe tin Huế khai quật những mồ chôn tập thể, mẹ Đức về Huế mong tìm xác chồng, nhưng bà quá “khiếp hãi khi nhìn thấy những thây ma thối rữa và đầy thương tật,” nên không trở lại nữa. Thế là, “Trong khi những gia đình khác đã chôn cất người thân của họ, lập bàn thờ và đã phần nào khép lại nỗi buồn, thì gia đình tôi vẫn sống trong nỗi đau thầm không giấu giếm này (open secret).” Mãi đến 5 năm sau khi hiệp định Paris được ký kết và hai bên trao trả tù binh, gia đình anh mới biết tin là người cha còn sống nhưng bị đày ải ở một trại tù tại vùng biên giới Trung Quốc. Ông được thả về năm 1980 và được cho phép xuất cảnh qua Hoa Kỳ, nơi Đức đã được mấy người chú giúp đến định cư vào tháng 4/1975. Gặp lại nhau sau nhiều năm xa cách, hai cha con nói chuyện với nhau về quá khứ, nhưng “không bao giờ nói về năm 1968” vì điều đó quá nặng nề. Ông đọc sách, xem phim và cho in một tập thơ với bút hiệu Hoàng Liên – gồm những bài thơ ông đã sáng tác trong thời gian bị giam cầm –, với một lời đề tựa ngắn gọn: “Tôi đau khổ, vậy tôi hiện hữu” (I suffer, therefore I am). Dù đau đớn, nhưng gia đình anh có lẽ là gia đình may mắn và “có hậu” nhất trong số hàng ngàn gia đình ở Huế có thân nhân bị quân cộng sản bắt đi năm 1968.
    Trong một email trao đổi với tôi ngày 26/1/2018 về bài viết này, Nguyễn Quý Đức viết:
    Em ước gì trong những người bộ đội đã tham gia vào vụ giết chóc đó đủ can đảm để nói lên câu chuyện này, bày tỏ một cảm xúc nào đó. Em chưa hề đọc được một bài nào như vậy nói đến một chút ăn năn, hối hận. Hoặc ít nhất nhìn nhận sự thật.
    Đôi khi em cũng bị dằn xé giữa những vết thương cũ, nhu cầu nói lên câu chuyện ngày xưa, và cái ước mong cho có một thế hệ trong sáng, không bị cái quá khứ đè nặng trong tâm tưởng. Nhưng em nghĩ sụ trong trắng đó phải bắt nguồn từ một lương tâm đã biết nhìn nhận sự cuồng điên, cái ác của quá khứ, để sau đó hướng đến cái thiện trong tương lai, như ở nước Đức, hay phần nào ở Nhật.
    Em ít về Huế vì nhiều khi không dám đương đầu với ký ức, uất ức và u ám ở đó.Chính em cũng biết mình đã cúi mặt làm ngơ.”
    Hàng năm, cứ đến Tết, trong lúc bộ máy tuyên truyền nhà nước vẫn – nói như Nguyễn Quý Đức – “tiếp tục tăng tốc ca ngợi chiến công,” thì có hàng ngàn gia đình vẫn âm thầm cúng kiến và đau xót nhớ đến cái chết thảm của cha, của anh, của con, của em mình. Không bao giờ nguôi. Không gì làm nguôi. Không ai làm nguôi. Di luỵ Mậu Thân mãi mãi còn đó. Là oan trái Huế. Cũng là oan trái Việt Nam. Oan trái cần được giải oan. Đó là lẽ Đất Trời. Ngày nào oan chưa được giải thì mọi chính sách, mọi thủ đoạn tuyên truyền, mọi chạy tội, mọi đổ lỗi, dù trên bình diện cá nhân hay nhà nước, đều chỉ là nước đổ lá môn, nếu không muốn nói là oan trái càng thêm oan trái.
    *
    Bốn năm sau, chưa tàn nhang khói trên những nấm mồ uất ức, Huế lại nhận chịu thêm những tháng ngày xao xác, căng thẳng, hoảng loạn. Suốt tháng 4/1972, tin chiến sự nóng sốt, dồn dập bay đến hàng ngày: bộ đội cộng sản vượt sông Bến Hải, căn cứ Carrol thất thủ, trung tá Phạm Văn Đính đầu hàng, xe tăng T54 của bộ đội cộng sản miền Bắc xuất hiện trên quốc lộ 1; phi công Trần Thế Vinh tử nạn ở Đông Hà; phòng tuyến Tây Nam Huế bị dồn dập tấn công…Đồng bào từ Đông Hà, Quảng Trị gồng gánh chạy vào tỵ nạn. Huế bận bịu trong thấp thỏm, âu lo và đợi chờ. Rồi cái gì đến, phải đến: cuối tháng 4, thị xã Quảng Trị rơi vào tay Cộng quân. Quân đội VNCH lùi vào lập phòng tuyến Mỹ Chánh.
    Huế thảng thốt, bàng hoàng!
    Kinh nghiệm Mậu Thân khiến Huế chẳng hề đắn đo: cộng sản đến là đi. Đang tất bật đón tiếp đồng bào tỵ nạn Quảng Trị, Huế quay sang tất bật với chính mình. Nhà nào nhà nấy vội vội vội vàng vàng thu vén đồ đạc, giấy tờ, tài sản. Ngoài đường, xe cộ dập dìu, chen chúc, xe nào xe nấy đồ đạc chất đầy, trực chỉ phương Nam. Đi đâu? Không cần biết, miễn là rời Huế. Làm sao đi? Thì cứ đi cái đã, đến đâu hay đấy. Gia đình giàu có thuê nguyên xe tải, chở đủ thứ vật dụng kồng kềnh: giường, tủ, bàn ghế, áo quần…Gia đình bình thường đèo nhau trên hai, ba chiếc Honda, chỉ mang theo những đồ dùng thật cần thiết móc, cột quanh xe. Và rất nhiều gia đình nghèo, vợ chồng con cái ông già bà già dắt díu nhau ra đi chỉ bằng phương tiện có sẵn của chính mình: đôi chân. Ra đi, bỏ lại Huế đang trong nắng hè rực rỡ.
    Bỏ Huế!
    Chỉ hai chữ thôi mà âm vang của nó đeo đẳng mãi theo người trên từng đoạn đường vất vả xuôi Nam. Riêng tôi, còn độc thân, đưa gia đình vào Đà Nẵng xong, tôi quay trở lại. Tháng Năm, như một phép lạ, Huế đột nhiên trống rỗng như chưa từng, hoang vắng trong lẫn hoang vắng ngoài. Theo ước tính của chính quyền địa phương, khoảng 70 đến 75% dân Huế đã ra đi, số còn lại tản về tạm trú đâu đó ở các vùng quê. “Bám trụ” Huế hầu hết là những quân nhân, cảnh sát và những công chức có trách nhiệm chính điều hành các công sở.
    Chỉ còn một giòng sông vô tư trôi và một khu nội thành lặng lẽ.
    thành phố bồng bế nhau
    vứt cả rực rỡ hè mới chớm
    rùng rùng bỏ chạy
    đi đâu?
    không biết đi đâu
    miễn là xuôi Nam
    để lại một cõi lặng
    không gian rỗng
    sàn diễn trống trơn
    những con chó mất chủ chạy rất tự do
    và vô vọng
    hàng phượng lạc loài
    chấp chới bay
    gió nắng rong chơi
    vòng vèo quanh nội thành ấm ức[4]

    Suốt cả tháng, ngày nào tôi cũng chạy quanh Huế, “thưởng thức” một thành phố không người, lạ lùng như trong truyện cổ. Trong lúc bom đạn ngập trời ở Quảng Trị và An Lộc, thì Huế yên ắng. Yên ắng mà căng thẳng, chờ đợi hung tin không biết sẽ đến khi nào. Tuy thế, nhờ trống rỗng, nên chính quyền Huế dễ điều phối chuyện an ninh. Tất cả các nỗ lực đều tập trung vào việc phòng thủ. Về mặt dân sự, một tổ chức đặc biệt ra đời: Sư Đoàn Thuận Hóa, được thành lập bằng sự phối hợp giữa tất cả các nhân sĩ, các viên chức dân cử, các cán bộ dân chính trực thuộc các cơ quan thành phố, các tổ chức nhân dân tự vệ và sinh viên học sinh. Tổ chức này, phối hợp với quân đội và cảnh sát, phụ trách tuần tra, gìn giữ an ninh trật tự, và cứu trợ những người vô gia cư hay những gia đình còn ở lại, do không có điều kiện để rời thành phố xuôi Nam lánh nạn.
    Là một sĩ quan biệt phái về dạy học, tôi làm cố vấn cho một tổ chức sinh viên học sinh vừa mới thành lập: Lực Lượng Thanh Niên Sinh Viên Học Sinh Quốc Gia Trị-Thiên. Gồm khoảng từ 60 đến 70 bạn trẻ, lực lượng này là tổ chức hăng hái nhất và năng động nhất của Sư Đoàn Thuận Hóa. Các bạn bắt tay làm bất cứ chuyện gì cần: giữ gìn an ninh khu vực mình ở, tham gia quyên góp và cứu trợ cho những người thiếu đói, tổ chức sinh hoạt và các dịch vụ linh tinh (cắt tóc, dọn dẹp…) tại một số trại tạm cư, thăm viếng và ủy lạo các đơn vị quân đội đang đóng quân phòng thủ quanh thành phố, giúp đỡ những người lính bị lạc đơn vị, vân vân. Các bạn còn được huấn luyện quân sự cấp tốc và được cấp phát súng.
    Để có nơi điều hành, các bạn quyết định xin chính quyền thành phố cho sử dụng trụ sở Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Huế tọa lạc tại đường Trương Định làm nơi sinh hoạt. Chính quyền bảo là họ không có quyền. Vì trụ sở này là một cơ sở trực thuộc viện Đại Học Huế, nên được hưởng quyền bất khả xâm phạm của quy chế tự trị đại học. Tuy nhiên, với tư cách là sinh viên Đại Học Huế, các bạn trong lực lượng biểu quyết “chiếm” trụ sở này làm nơi điều hành mọi sinh hoạt. Không ngờ, hành vi chiếm dụng này giúp họ phát hiện một sự kiện đầy ý nghĩa: nhà kho của trụ sở sinh viên này là nơi cất giữ vô số báo chí, tài liệu của cộng sản đưa từ trên rừng về. Hóa ra, người cộng sản lợi dụng quyền tự trị đại học để tiến hành những hoạt động chống lại cái chế độ đã nuôi dưỡng họ: biến trụ sở phục vụ quyền lợi sinh viên thành một “căn cứ” hoạt động nội thành của cộng sản. Thay vì giao cho cảnh sát, lực lượng quyết định thiêu hủy toàn bộ số tài liệu này. Trong một buổi chiều hè đầy nắng, cùng với các bạn trẻ reo vui, đứng nhìn ngọn lửa đốt cháy một đống lớn các tài liệu tuyên truyền của cộng sản kéo dài cả mấy tiếng đồng hồ ngay khoảng sân nằm phía trước, tôi bồi hồi nghĩ đến một đất nước hết chiến tranh, được vui sống trong một chế độ dân chủ mà thế hệ chúng tôi đã xuống trường tranh đấu bao nhiêu năm!
    Có điều, nỗi mừng vui lúc đó được trả bằng một cái giá rất đắt ba năm sau, 1975, khi quân cộng sản đánh chiếm toàn bộ miền Nam. Ngoài tôi ra, một số lớn các bạn trong Lực Lượng này, dù không phải là lính, công chức hay cán bộ VNCH, đã bị bắt đi tù cải tạo dài hạn. Có bạn nằm trong tù đến 5 năm.
    *
    Ba năm sau, 1975, chưa hoàn hồn, Huế lại chạy. Lần này, ra đi, trong thâm tâm, ai cũng đau đớn nghĩ rằng: Huế sẽ mất vào tay cộng sản. Thành thử, chạy là chạy…luôn, không bao giờ trở lại. Là bỏ Huế! Chao ôi, hai chữ “bỏ Huế” nghe như nhát dao đâm ngay giữa trái tim. Nhưng làm sao được. Đành thôi, Huế ơi. Trong tâm trạng đó, vừa đưa được một phần gia đình vào Đà Nẵng vào ngày 22 tháng 3, tôi vội chạy Honda quay trở ra để được nhìn Huế lần cuối. Nhưng không kịp nữa rồi! Đến đèo Phước Tượng, quốc lộ I bị cắt, đành phải theo đoàn người, trở ngược vào. Huế mất. Gia đình tôi bị chia hai. Vài ngày sau, Đà Nẵng lại nghe tin bị …bỏ. Thành phố chật ních người hoảng loạn. Kẻ xuôi, người ngược, hớt hơ hớt hãi. Người tìm cách chạy vào phi trường, người thì lên đường tiếp tục xuôi Nam, người lại chạy ra biển. Theo dòng người, tôi ra biển, dẫn gia đình “chạy” từ bến cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) đến cảng Cam Ranh; rồi từ Cam Ranh đến đảo Phú Quốc; từ Phú Quốc ngược về Vũng Tàu; từ Vũng Tàu về Sài Gòn ngày 26/4/1975, chứng kiến những ngày hấp hối của thủ đô nước Việt Nam Cộng Hòa.
    Cộng sản tiến công, cả miền Nam chạy. Bất cứ chỗ nào nghe quân đội cộng sản sắp tiến vào là chạy. Từ cao nguyên chạy về đồng bằng, từ bắc chạy vào nam, từ các nơi chạy về Sài Gòn, từ đất liền chạy ra biển, trốn ra nước ngoài. Hễ còn chạy được là chạy. Đi bộ, đi xe, đi thuyền, đi tàu, đi máy bay, đi, đi, đi, đi đâu, miễn là thoát khỏi cộng sản. Chạy trở thành một bi kịch lịch sử gắn liền với biến cố 1975: khước từ sự cưỡng bức.
    Khúc hát quen thuộc ngày nào tự nó mang ý nghĩa chua chát: Từ bắc vô nam…chia lìa nắm tay![5]
    5. Nhiễu nhương
    Cộng sản vào, miền Nam lộn ngược. Huế đánh mất mình.
    Một trong những đặc tính cộng sản: kiêu ngạo. Đôi khi là thứ kiêu ngạo mang tính cách thần thoại trong các truyện tiên, thánh dành cho trẻ con. Chẳng hạn:
    Nghiêng đồng đổ nước ra sông
    Vắt đất ra nước thay trời làm mưa [6]
    Xin đọc vài trích đoạn từ một bài ký khá dài, Những chặng đường Y khoa của tôi, của một bác sĩ viết văn, chị Nguyễn Thị Kim Thoa – vợ của người bạn “đối nghịch” của tôi, nhà thơ Chu Sơn, một cán bộ cộng sản nằm vùng, phụ trách trí vận – ghi lại một số nét chấm phá về cuộc sống của sinh viên trường Y khoa Huế sau tháng 4/1975.
    Khoảng 50% giáo sư, và khoảng 90% sinh viên trường Y quay trở lại với tâm trạng “hàng thần lơ láo”. Bộ khung cán bộ giảng dạy từ miền Bắc vào cùng với Ủy ban quân quản tách thầy trò chúng tôi làm hai nhóm lao động buổi sáng và học chính trị buổi chiều. Đạo đức xã hội chủ nghĩa được đúc kết thành vè “Lao động là vinh quang – Ngồi không ở nể xóm làng cười chê”. Theo đó, người Cộng sản cho rằng chỉ có làm việc bằng cơ bắp dưới chỉ trỏ của cán bộ đảng viên mới là lao động đúng nghĩa. (…) Chúng tôi còn tham gia đào kênh thủy lợi nam sông Hương. Đây là công trình thủy lợi trọng điểm của Thừa Thiên – Huế nhằm kéo nước từ sông Hương băng qua núi đồi làng mạc phía tây nam thành phố để tưới cho 5000 mẫu ruộng thuộc khu vực huyện Hương Thủy. Nhưng, nước không thể chảy ngược, nên nước không thể về tới ruộng đồng theo ý chí của đảng Cộng sản, mặc dù hàng trăm ngàn công sức lao động đã bỏ ra, hàng ngàn ngôi mộ và hàng trăm ngôi nhà phải di dời. Kênh thủy lợi biến thành đường đi và hang ổ của chuột.” [7]
    Kiêu ngạo cộng sản, không chỉ là một thái độ, mà là một căn bệnh. Nó xuất phát từ niềm tin vào tính “thần thánh” của chủ nghĩa cộng sản. Những nghị quyết của đảng và nhà nước trở thành một thứ cẩm nang, khi cần, đám “tín đồ” cử mở ra, theo đó mà làm hay giải thích tất cả mọi chuyện, một cách hữu lý. Không cần quan tâm chuyện đúng – sai, thắng lợi – thất bại. Vương Trí Nhàn, nhà nghiên cứu văn học miền Bắc, có lần nhận xét: “Ta từng lấy ma nạt người, lấy những cái không ai biết ở đâu, để giải thích những cái ai cũng biết, làm cho người ta không biết đằng nào mà lần. (…) Cái hệ tư tưởng của chúng ta hiện nay nó sắc bén đến nỗi nó đúng với mọi trường hợp trong thực tiễn, và khi nó vận dụng vào một thực tiễn như ở nước ta, thì nó vừa là vũ khí của kẻ đúng, lại là vũ khí của kẻ sai … Tôi đã thấy rất nhiều trường hợp những người thuộc các loại kinh này lầu lầu, nhưng làm sai, và họ lại hoàn toàn biện hộ được cho chỗ sai của họ.”[8]
    Chí lý!
    Một đặc điểm cộng sản khác: căm thù.
    Khi chưa nắm được chính quyền thì gây “căm thù giai cấp” để chiêu dụ người nghèo, gây “căm thù đế quốc” để chiêu dụ người yêu nước và gây “ảo tưởng chân lý” (công bằng, bình đẳng, giải phóng) để chiêu dụ trí thức. Miếng mồi này ấy thế mà hữu hiệu: biết bao người rơi vào bẫy. Căm thù, từ lý thuyết, dần dà trở thành tình cảm: nó biến nhiều người thành cuồng tín.
    Một đặc điểm cộng sản khác nữa: đập phá.
    Khi nắm được chính quyền rồi là cộng sản bắt đầu đập phá tất tần tật, không trừ một thứ gì, nghèo không tha giàu không bỏ sót, “địch thiệt” cũng đánh mà “địch giả” (là ta) cùng đánh. Đánh truyền thống, đánh quan hệ xã hội, quan hệ gia đình, đánh những giá trị đặc thù của xã hội cũ đến các sinh hoạt vô cùng bình thường và tự nhiên trong cuộc sống. Thái Bá Tân hình tượng hóa đặc điểm này một cách khá cụ thể:
    Giao cộng sản quản lý
    Sa mạc Sahara,
    Thì năm năm sau đó,
    Hay thậm chí chỉ ba,
    Sa mạc sẽ hết cát.
    Vì sao, vì anh này
    Lãng phí và thất thoát
    Là vô địch xưa nay. [9].
    Để củng cố sức mạnh của mình, người cộng sản cần kẻ thù. Không có thì tạo ra. Vì thế, bạn có thể trở thành kẻ thù của đảng và nhà nước bất cứ lúc nào. Chỉ cần dàn dựng một kịch bản. Kịch bản lớn: cải cách ruộng đất, bài trừ văn hóa đồi trụy, học tập cải tạo; kịch bản nhỏ: trốn thuế, lợi dụng tự do dân chủ; kịch bản nhỏ hơn nữa nhắm vào từng cá nhân: vụ Cát Thanh Long, Đinh La Thăng. Vân vân và vân vân. Có thể nói, chế độ cộng sản là một chuỗi vô cùng tận của những kịch bản. Nhiều quá, tính không xuể. Sai ư? Thì sửa. Đúng ra, chẳng sửa gì, chỉ là dàn dựng một kịch bản khác. Cần nước mắt, có ngay nước mắt: khóc trước quần chúng. Cần “bệnh lạ”, có ngay “bệnh lạ”: trường hợp một số quan cức cao cấp bị bệnh và qua đời một cách mờ ám trong thời gian qua.
    Không đâu xa, ngay tại Huế, trường hợp Nguyễn Thúc Tuân:
    Kịch bản 1: “Ngày 11/12/1980, tại hội trường Ba Đình, trong phiên họp toàn thể của Quốc hội, các đại biểu được nghe báo cáo về một vụ án gián điệp gây rúng động cả nước, mà tội phạm là một đại biểu Quốc hội, một đảng viên, cán bộ cách mạng lâu năm, Trưởng ty Thể dục Thể thao tỉnh Bình Trị Thiên. Người đó tên là Nguyễn Thúc Tuân, “can tội gián điệp, đã bị tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên kết án 18 năm tù. Vì vậy, đương nhiên Nguyễn Thúc Tuân mất tư cách đại biểu Quốc hội.”
    Kịch bản 2: Sáu năm sau, “ngày 16/11/1986, ông Tuân được ra khỏi trại cải tạo. Đến ngày 29/11/2001, Chánh án TAND [Tòa Án Nhân Dân] Thừa Thiên-Huế ra quyết định (số 02/QĐ/XA) “xóa án” cho ông Nguyễn Thúc Tuân.”[10]
    Một trong những công trình đập phá lớn nhất và gây ảnh hưởng lâu dài nhất đưa đất nước đến chỗ kiệt quệ: triệt tiêu guồng máy thương nghiệp năng động và phong phú của miền Nam. Tôi còn nhớ câu khẩu hiệu được kẻ trên nhiều bức tường hay giăng ngang đầu ngõ ở các khu phố:
    Con bò có một cục u
    Ai mà buôn bán thì cũng ngu như (con) bò
    Cấm buôn bán, công an và thuế vụ trở thành một đội ngũ kiêu binh, tự tung tự tác, chuyên lùng sục, bắt bớ và tịch thu bất cứ vật dụng hay sản phẩm gì mang ra trao đổi trên thị trường. Thay thế cho buôn bán là một chế độ bao cấp toàn diện mà hậu quả là đẩy lùi đất nước về cả trăm năm trước.
    Một trích đoạn khác, cũng của Nguyễn Thị Kim Thoa:
    Cải tạo xong thì đến lượt đổi tiền. Đổi tiền hai lượt cách nhau mấy tháng. Không riêng gì tư sản, tất cả nhân dân Miền Nam đều bị lột sạch, bất kể giàu nghèo. 1000 đồng tiền Ngụy đổi lấy 01 đồng tiền cách mạng. Qua hai lần đổi tiền như thế từ tháng 6. 1975 gia đình tôi có 6 nhân khẩu cầm hơi hàng ngày với ba khẩu phần được mua hàng tháng tổng cộng 12kg gạo, 36kg khoai sắn mốc hay bột mì, bo bo, 1,5 kg thịt heo. (…) Còn có nhiều gia đình bi đát gấp mười gấp trăm lần anh chị chúng tôi: Cha anh đi học tâp cải tạo chẳng biết bao giờ về, anh vượt biên bị bắt, nhà cửa bị cướp, mẹ mất việc, con không được vào đại học phải lê la đói khát đầu đường xó chợ hoặc phải đi kinh tế mới. Tình cảnh chung của nhân dân Huế và nhân dân miền Nam là như thế. Không có gia đình nào là không bị cải tạo. Không Ngụy quân thì Ngụy quyền, không tư sản, trí thức thì cũng là dân Ngụy đều bị cải tạo, có nghĩa là đều bị ăn cướp.”[11]
    Một công trình đập phá khác còn tàn khốc hơn nữa: tiêu diệt nền Văn Học Miền Nam[12]. Tịch thu, đốt sách đồng thời truy bức và đưa những nhà văn, nhà thơ và nhà nghiên cứu miền Nam vào tù rõ ràng là chính quyền cộng sản lập lại chính sách “phần thư khanh nho” của Tần Thủy Hoàng thuở nào. Thời gian này, tôi đã ở trong trại tù, không có dịp chứng kiến tận mắt. Mời đọc lại một mẩu tin trên nhật báo “Sài Gòn giải phóng” ngày 25/5/1975:
    Ngày 23-5-1975, trên nhiều đường phố Sài Gòn, “khí thế ra quân” của chiến dịch vô cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô to nhiều khẩu hiệu đả đảo văn hoá ngoại lai đồi truỵ mất gốc phản động. Đi đầu là xe phóng thanh với một biểu ngữ dài có ghi: ‘Đội thanh niên sinh viên học sinh xung kích bài trừ văn hoá dâm ô phản động’. Theo sau là sinh viên, học sinh sắp hàng bảy, hàng tám xuất phát từ trụ sở của lực lượng thanh niên tự vệ Thành phố, số 4 Duy Tân. Đoàn diễn hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người đều có một tấm biểu ngữ trên tay (…) Ngay sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ binh, “đồng bào và các tiệm sách đã đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách báo đồi trụy phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày bán trên hai lề đường Lê Lợi, Công Lý cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp. Trên đường Hai Bà Trưng cũng có ba nhà sách tự động đem nộp trên hai mươi cuốn. Đặc biệt, cùng ngày này, 22-5-1975, nhà sách Phúc Bài, 186 Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn 3 đã tự nguyện đem nộp cho Hội Bài trừ Văn hoá đồi truỵ phản động bốn ngàn cuốn sách các loại”.[13]
    Trích đoạn từ tập Hồi Ký của Nguyễn Hiến Lê sau đây cho thấy hình ảnh tiêu biểu của chiến dịch đập phá quy mô đó diễn ra trên toàn miền Nam:
    Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền là hủy tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn hóa ngụy, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt. Năm 1976 một ông thứ trưởng Văn hóa ở Bắc vào thấy vậy, tỏ ý tiếc. Nhưng ông thứ trưởng đó có biết rõ đường lối của chính quyền không, vì năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc hủy sách đó mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kĩ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lí, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm… in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo.
    Năm 1975, sở Thông tin văn hóa thành phố Hồ Chí Minh đã bắt các nhà xuất bản hễ sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản để kiểm duyệt: sau mấy tháng làm việc, họ lập xong một danh sách mấy chục tác giả phản động hay đồi trụy và mấy trăm tác phẩm bị cấm, còn những cuốn khác được phép lưu hành.
    Nhưng đó chỉ là những sách còn ở nhà xuất bản, những sách tuyệt bản còn ở nhà tư nhân thì nhiều lắm, làm sao kiểm duyệt được? Cho nên sở Thông tin văn hóa ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi trụy trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kì loại gì; sách Việt thì cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. Lần đó sách ở Sài gòn bị đốt kha khá. Nghe nói các loại đồi trụy và kiếm hiệp chất đầy phòng một ông chủ thông tin quận, và mấy năm sau ông ấy kêu người lại bán với giá cao. Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị “ba hủy”, chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải hủy hết, vì nếu không phải là loại phản động (một hủy), thì cũng là đồi trụy (hai hủy), không phải phản động, đồi trụy thì cũng là lạc hậu (ba hủy), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lí…”[14]
    Huế, ngoài tai ách chung đó, còn chịu đựng một tai ách riêng: sáp nhập tỉnh.
    Vừa chiếm xong Huế, cộng sản cho sáp nhập ngay hai tỉnh Quảng Trị và Quảng Bình vào Thừa Thiên-Huế thành Bình-Trị-Thiên.[15] Người Huế mỉa mai: Quảng Bình “trị” Thừa Thiên. Huế trở thành thành phố bị “trị”. Chữ nghĩa vận vào hiện thực. Do sáp nhập, nhiều cán bộ từ Quảng Bình được chuyển vào “chi viện” cho Huế, nắm giữ những vai trò quan trọng. Là thành phần được tin cậy và được đào luyện lâu năm trong lò cộng sản, họ là những ông chủ mới, quyền uy và hống hách, trở thành nỗi sợ hãi thường xuyên của người Huế, vì gia đình nào cũng có dính dáng đến “ngụy”, kể cả gia đình của những nhà trí thức, sinh viên học sinh thân cộng trong phong trào đô thị. Lập luận của họ rất đơn giản: đã sống với “ngụy” là có nhiễm máu “ngụy”. Thế là, họ tìm mọi cách thủ lợi cho bản thân và gia đình, hoặc bằng chiếm đoạt hoặc bằng nhũng lạm. Hiện tượng này gây bất mãn, không những chỉ trong người dân bình thường mà ngay trong hàng ngũ cán bộ. Đây là lý do chính đưa đến một phong trào đòi tách tỉnh về sau, mà một trong những người khá lớn tiếng là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phải đến năm 1989, người Quảng Bình mới khăn gói ra đi. Khi vào, vô sản. Khi đi, hữu sản. Trắng đen lộ rõ: lý tưởng cộng sản, rốt cuộc, không khác gì chuyện được, thua trong lịch sử, chỉ tóm gọn vào hai chữ: quyền và lợi.
    Đã bị tước đi cái quyền mua bán đổi chác trong một xã hội bình thường, lại còn bị người trên rừng trở về và người ngoài Bắc tràn vô lấn chiếm và ức hiếp, người Huế cảm thấy mất đất đứng ngay trên thành phố của mình. Tức nước vỡ bờ, trong khoảng thời gian từ cuối năm 1977 đến đầu năm 1978, dân Huế đã tiến hành nhiều hoạt động chống đối chính quyền cộng sản qua một loạt sự kiện lớn, nhỏ tại nhiều nơi:[16] treo cờ VNCH tại Ty Thông Tin Thừa Thiên-Huế, trong chợ Đông Ba, tại Nhà Hát Lớn, phá đài liệt sĩ trước Phú Văn Lâu,[17] phá Đài Phát Thanh Đông Hà, ném lựu đạn vào buổi biểu diễn văn nghệ bộ đội ở Phú Vang…Quy cho những hoạt động trên là phản động dưới sự tổ chức của “Mặt Trận Phục Quốc Trị-Thiên” do ông Phạm Lự cầm đầu và “Mặt Trận Thống Nhất Dân Quân Phục Quốc” do các nhà giáo Nguyễn Nhuận, Trần Ngọc Quờn và Tống Châu Khang chủ xướng, chính quyền cộng sản ra tay đàn áp, bắt giữ hàng ngàn người và đưa ra xét xử công khai trong một phiên tòa – về sau, được gọi là “Vụ Mậu Ngọ” (1978) – diễn ra tại giảng đường Karate, trường Đại Học Sư Phạm Huế. Tất cả những người dính líu đều bị lãnh những bản án nặng nề. Tám (8) người thuộc thành phần lãnh đạo như Phạm Lự, Phan Ngọc Lương, Nguyễn Nhuận, Tống Châu Khang, Mai Thị Cặn…bị kết án tử hình; chín (9) người bị chung thân và hàng chục người khác bị tù từ 3 năm đến 20 năm; có người (anh Đinh Hữu Sanh) lãnh án 26 năm. Ngoài ra, hàng trăm người khác tiếp tục bị truy đuổi khắp nơi từ Huế vào Sài Gòn, đến tận các tỉnh miền Tây xa xôi như Rạch Giá, Cà Mâu. Án tử hình được thi hành một thời gian ngắn sau phiên tòa. Theo nguồn tin từ dân chúng địa phương, bốn người bị xử bắn tại khu vực Chín Hầm và ba người bị xử bắn ở Quảng Trị và một nơi khác. Riêng bà Mai Thị Cặn, người mang chất nổ định phá nổ phòng “Trưng Bày Tội Ác Chiến Tranh Mỹ-Ngụy”, thì cắn lưỡi tự tử trong nhà giam. Đây là vụ dấy loạn lớn nhất, quy mô nhất và có số người bị tử hình nhiều nhất trên toàn miền Nam, sau biến cố 4/1975.
    Trong số những người bị tử hình, tôi quen thân với Phan Ngọc Lương. Anh sinh năm 1940 tại Hương Trà, theo học trường Võ Bị Sĩ Quan Đà Lạt khoá 17. Năm 1968, anh là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3,Trung Đoàn 3, chỉ huy trận đánh giải tỏa khu Thành Nội Huế từ tuyến đường cửa An Hòa năm Mậu Thân. Năm sau, 1969, trong trận đụng độ lớn ở Thanh Quýt, Quảng Nam giữa tiểu đoàn tăng viện của anh và bộ đội cộng sản, anh bị thương nặng, được trực trăng chở đi cấp cứu tại Hạm Đội 7. Anh được cứu sống nhưng chịu một mất mát lớn: cụt một chân ngang tận háng, phải thường xuyên đeo chân giả, đi, đứng hay ngồi đều rất khó khăn; bàn tay trái bị teo rút, gần như không sử dụng được. Trong trận nầy, nhờ cứu được một cố vấn Mỹ thoát chết, anh được Quốc Hội Hoa Kỳ trao tặng huy chương “Ngôi Sao Bạc”. Tuy là một sĩ quan tác chiến, nhưng anh thích giao du với giới trí thức văn nghệ sĩ ở Huế, kể cả những thành phần tả khuynh như các nhà giáo Võ Văn Đông, Văn Hữu Tứ và đặc biệt, chơi khá thân với Trịnh Công Sơn. Sau trận giải tỏa Huế thành công, tiểu đoàn anh được lưu lại ở thành phố trong một thời gian để giữ gìn an ninh trật tự. Vào một ngày tháng 4/1968, anh tổ chức một buổi văn nghệ dành cho lính trong phòng hội của trường Mỹ Thuật Huế tọa lạc trong Đại Nội, nơi Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn trú đóng, với sự góp mặt của một số giáo chức, bằng hữu và văn nghệ sĩ địa phương, trong đó có Trịnh Công Sơn và tôi (Trần Doãn Nho). Tối hôm đó, Trịnh Công Sơn hát một số bài tình ca và một đoạn trong ca khúc vừa mới sáng tác của anh đề cập đến vụ thảm sát Mậu Thân, mà sau này được hoàn chỉnh thành “Bài ca dành cho những xác người”. Riêng tôi, tôi góp phần với ca khúc “Lòng mẹ Việt Nam” của Lê Thương.
    Sau 4/1975, do thương tật và đã giải ngũ, anh được miễn đi tù cải tạo, chỉ “học tập” tại địa phương. Tuy nhiên, anh không chịu ngồi yên mà tích cực tham gia các phong trào chống đối với tư cách “cố vấn”, do đó, bị xếp vào thành phần lãnh đạo và bị kết án tử hình. Theo lời kể của một số tù nhân trong lao Thừa Phủ, thì ngày ra pháp trường, khi đi ngang qua sân nhà lao, anh nói thật lớn cho mọi người cùng nghe, “Các anh em nhớ, hôm nay là ngày giỗ của Phan Ngọc Lương.” Gia đình không hề được thông báo về ngày xử bắn. Chỉ khi được mời đến nhà lao để nhận lại “tư trang” và “di chúc”, thì thân nhân mới hay anh đã đền nợ nước. Người thân trong gia đình anh cho biết, “di chúc” của anh ngắn gọn, chữ viết rõ ràng, dặn dò vợ con một số việc riêng. Cuối thư, anh xin lỗi gia đình, đồng thời tỏ ý “không buồn phiền và trách móc ai.”
    Huế được hưởng một nền hòa bình trong tan tác và tan nát!
    Bế tắc, Huế bung ra khắp nơi: đi buôn. Do tình trạng kiểm soát hàng hóa nghiêm ngặt trên mọi tuyến đường, tất cả hình thức buôn bán đều bị quy cho là buôn lậu. Để thoát khỏi mạng lưới công an và thuế vụ, con buôn phải chuyển hàng qua từng chặng. Huế là chặng trung chuyển, nên hàng từ Lào về, từ Hà Nội vào hay từ Sài Gòn ra đều dừng lại ở Huế trước khi đi tiếp. Không lâu sau tháng tư 1975, dân Huế (đúng ra, phải nói là phụ nữ Huế) vượt vĩ tuyến 17 ra miền Bắc, mua bán tem phiếu, thuốc tây, đồng hồ, vàng, xe đạp…, đồng thời móc ngoặc với đủ thứ cơ quan nhà nước từ tỉnh, huyện đến trung ương, để chuyển hàng hóa từ quốc doanh ra thị trường chợ đen. Bản thân tôi, trong những ngày xuôi Nam ngược Bắc kiếm sống, tôi đã gặp người Huế ở nhiều nơi khác nhau: chợ Ba Đồn (Quảng Bình), chợ Vinh (Nghệ An), chợ Rồng (Nam Định), chợ Đồng Xuân (Hà Nội), chợ Sắt (Hải Phòng) ở phía Bắc cho đến vùng Long Khánh, các chợ đầu mối ở Sài Gòn hay các chợ Bạc Liêu, Năm Căn, nơi tận cùng đất nước ở phía Nam. Người Huế buôn đủ loại hàng, từ những hàng tạp hóa lỉnh kỉnh hay hàng đại “xịn” như trầm, vàng cho đến những mặt hàng kồng kềnh như máy kéo, máy nổ, kể cả những thứ hàng đặc biệt như áo lính NATO và có khi cả xác lính Mỹ. Không những thế, còn kiêm luôn cả những “dịch vụ” không tên khác: chạy cò, bán vé chợ đen, nhảy tàu, gom hàng, chuyển hàng…Bằng những hoạt động tự phát này, vô hình trung, dân Huế “tập” cho người miền Bắc thói quen buôn bán kiểu thị trường. Đồng thời, qua phong cách, qua trình độ văn hóa, họ góp phần giúp cho dân bên kia vĩ tuyến có được hình ảnh thực sự về tính cách và hoàn cảnh của đồng bào họ ở trong Nam, xóa tan đi những thành kiến mà nhà nước cộng sản gán cho người dân sống dưới chế độ VNCH trước đó.
    Đi buôn (lậu), ngoài việc kiếm sống, còn là một nỗ lực của dân Huế nói riêng và dân miền Nam nói chung trong cuộc chiến chống lại cơ chế bao cấp của nhà nước cộng sản. Cùng tắc biến, biến tắc thông. Nhờ thế, dù phải trải qua vô vàn khó khăn, hàng hóa được lưu thông, giúp giải quyết một phần nào đời sống của rất nhiều người trong hoàn cảnh ngặt nghèo cùa đất nước dưới chế độ toàn trị.

    (còn nữa)
    Trần Doãn Nho

    Comment


    • #3
      Trần Doãn Nho: Nỗi Huế (P.3)



      Cố đô Huế
      6. Tôi
      Tôi về đến Huế vào ngày 15 tháng 5 năm 1975.
      Thế là tôi đi giáp một con đường vòng. Rời Huế ngày 22 tháng 3 vào Đà Nẵng. Rời Đà Nẵng khuya 29/3 vào Cam Ranh. Rời Cam Ranh ngày 5/4 đi Phú Quốc. Rời Phú Quốc ngày 18/4 trở lại Vũng Tàu. Rời Vũng Tàu về Sài Gòn ngày 26/4. Rời Sài Gòn ngày 12/5 để trở lại Huế. Đó là một cuộc trốn chạy bước tiến quân của Cộng Sản gian nan, kinh khiếp, hãi hùng, phấn khích và tuyệt vọng.
      Tôi trở về Huế trong tâm trạng của một người phương xa bị dẫn dắt vào nơi hiểm địa. Cảnh vẫn còn đó, người vẫn còn đây, nhưng mỗi một nụ cười, mỗi một ánh mắt đều khác lạ. Bạn bè biến mất. Bà con lơ láo nhìn nhau. Hàng xóm nghi kỵ. Trở lại thăm ngôi trường, tôi bắt gặp những cái nhìn tóe lửa, thù nghịch từ một số học trò cũ, mới ngày nào đây vẫn còn thầy thầy em em trong quán cà phê. Thành phố lặng đi, buồn bã, bồn chồn như đang trong tình trạng giới nghiêm, chờ đợi một cái gì ghê gớm lắm sắp xảy ra.
      Đứa con đầu lòng ra đời. Mẹ tròn con vuông. Đã đành là không vui tí nào mà lạ, lại cũng chẳng buồn. Mọi cảm giác lắng đi, chai lì. Đúng một tuần sau khi đứa con ra đời, chiều hôm đó, trong khi đang loay hoay nựng con trong phòng thì có tiếng gọi cửa. Tôi nhìn ra, thấy thấp thoáng bóng người đội mũ cối đứng sau cánh cổng. Lòng tôi hồi hộp. Tôi ra mở cửa. Đang loay hoay tháo chiếc then gài, tôi nghe có giọng ai đó nói nhỏ nhẹ:
      – Thưa thầy.
      Tôi hơi giật mình nhìn lên, bắt gặp một khuôn mặt quen quen, nhưng nhất thời chưa nhận rõ ra là ai. Cửa mở. Người đàn ông đội mũ cối chìa tay ra. Tôi cũng chìa tay ra bắt. Anh ta nhìn thẳng vào tôi:
      – Anh là T.
      Giọng Nghệ An đặc sệt kèm theo một nụ cười thật khó diễn tả. Dường như vui. Dường như ngạc nhiên. Dường như đe dọa. Cười mà vẫn không có vẻ gì là cười. Tôi gật đầu đáp vâng. Người thanh niên lập lại:
      – Thưa thầy.
      Tôi nhìn người thanh niên, phân vân. Người thanh niên giở chiếc mũ bê rê đen ra. Tôi ngạc nhiên:
      – Hưng. Phải Hưng không?
      – Dạ, em đây thầy.
      Đúng là Hưng, người học trò đang học với tôi năm đó tại Đại Học Văn Khoa. Định hỏi Hưng tiếp vài câu, thì người đàn ông lên tiếng:
      – Ta vào nhà cái đã. Tôi tìm anh cả tháng nay.
      Tôi lặng lẽ đi trước. Tôi mời vào thẳng nhà trên, nhưng người đàn ông dừng lại ngay trước hàng hiên:
      – Khỏi, anh T. à. Tôi bận lắm. Gặp anh tí chút để giải quyết mấy chuyện rồi đi ngay.
      Không đợi mời, người đàn ông ngồi ngay vào chiếc ghế để kế cây cột trụ mái hiên, rồi nói như ra lệnh:
      – Anh kiếm ghế ngồi đây, ta nói chuyện cho tiện. Đây thoáng mát.
      Tôi lấy chiếc ghế cho Hưng và tôi, rồi ngồi xuống. Người đàn ông nhìn quanh. Khi tia nhìn dừng lại ở bàn thờ, anh ta hỏi:
      – Anh Phật giáo à. Thế mà tôi lại tưởng anh là Công giáo kia.
      Lại nhìn quanh, săm soi. Rồi nhìn chăm tôi:
      – Anh còn trẻ quá nhỉ.
      Lại nhìn quanh nữa. Bỗng nhiên, anh ta đứng dậy vỗ vai tôi:
      – Nào, dẫn tôi đi thăm chị và cháu một chút đi. Nghe chị vừa sinh cháu gái phải không? Thăm một chút, trở ra, ta nói chuyện sau.
      Cái anh chàng này lắm chuyện, tôi rủa thầm. Không đợi tôi dẫn đường, anh ta đứng dậy đi ngay xuống nhà dưới. Đến ngay cửa chính của nhà dưới, anh ta đứng đợi tôi:
      – Phòng chị chỗ nào?
      Tôi bước đến gần anh ta, tần ngần:
      – Để tôi gọi vợ tôi ra…
      Anh ta xua tay:
      – Tôi muốn thăm chị ấy một chút. Anh cứ để tôi đi.
      Lại cái giọng ra lệnh. Không biết làm sao hơn, tôi dẫn anh ta vào phòng. Vợ tôi vô cùng bối rối, cố gượng ngồi dậy chào. Anh ta ra dấu cho vợ tôi nằm xuống, rồi nhìn quanh. Cũng lạ, cái tay này! Bước đến đâu, anh ta cũng nhìn quanh, đôi mắt tưởng như muốn ghi nhận hết thảy những gì có mặt. Liếc thật nhanh qua cháu bé mới một tuần tuổi, anh ta nói với vợ tôi:
      – Anh phải đi học tập một thời gian. Cũng không lâu đâu. Dăm ngày nửa tháng. Chị yên tâm chăm lo cho cháu, đợi anh về.
      Không đợi vợ tôi trả lời, anh ta quày quả bước ra khỏi phòng. Tôi ở lại một lát trong phòng, nói nhỏ với vợ:
      – Chuyện gì đến thì phải đến thôi. Em đừng lo lắng gì cho mệt. Anh đi, rồi sẽ về.
      Vợ tôi thở dài, kéo đứa con ôm vào lòng, nước mắt lưng tròng. Khi tôi trở ra, chẳng thấy anh chàng bộ đội đâu, chỉ thấy Hưng vẫn còn ngồi đó. Tôi nhìn Hưng, dò hỏi. Hưng im lặng. Một lát sau, tôi thấy anh ta xuất hiện phía đầu kia của căn nhà, kế hàng chìa tàu. Thì ra, anh ta đi quanh sau vườn. Tôi nhìn anh ta chờ đợi một câu giải thích. Đoán chừng tôi thắc mắc, anh ta nói ngay:
      – Tôi muốn xem cái vườn nhà anh một chút. Vườn rộng nhưng có vẻ như thiếu người chăm sóc, phải không?
      Tôi cười gượng, không trả lời. Anh ta đến ngồi lại trên ghế, bảo tôi:
      – Anh ngồi xuống đó đi, ta nói chuyện. Tôi là Lam, công tác tại Ty Công An Thừa Thiên. Bọn tôi biết anh từ lâu, khi còn ở trên rừng kia, giờ mới gặp. Theo chính sách của trên, anh nằm trong diện phải đi học tập cải tạo. Chúng tôi có ý chờ anh trình diện, nhưng mãi không thấy. Anh không định đi trình diện sao?
      Tôi đáp:
      – Có chứ. Nhưng ông biết đấy, vợ tôi sanh.
      – Tôi biết. Lẽ ra, anh không nên để chúng tôi phải tới đây. Nhưng không sao, sớm muộn gì ta cũng gặp nhau thôi. Sớm thì hay hơn. Anh chuẩn bị áo quần, giấy bút, mai đi học tập. Chúng tôi sẽ trở lại đón anh ngày mai.
      – Đón tôi?
      – Vâng. Anh cứ ở nhà. Chúng tôi sẽ đến.
      Nói xong, Lam đứng dậy, vỗ vai tôi:
      – Nhớ ở nhà, không nên đi đâu hết.
      Tôi tiễn hai người ra cửa. Hưng đi chậm lại, nói nhỏ với tôi:
      – Em xin lỗi thầy. Thực tình em không muốn làm như thế này tí nào. Nhưng bên Ty họ tìm thầy mãi. Vào nhà cũ, không có. Đến nhà thầy thuê, cũng không có. Thầy thông cảm cho em. Dù gì em cũng là học trò của thầy. Thầy nhớ đem theo mền, chiếu và ráng… giữ mình.
      Tôi vỗ vai Hưng, cười:
      – Em không có lỗi gì. Trước sau gì họ cũng tìm ra tôi thôi. Mà nào tôi có định trốn đâu. Đã trốn thì về lại Huế làm gì, phải không?
      *
      Không phải đợi đến ngày mai như tay công an nói với tôi, mà chỉ mười lăm phút sau khi Lam bước chân khỏi nhà, một chiếc xe jeep Liên Xô (sau này nghe người ta vẫn gọi là xe con Liên Xô) đến đỗ ngay trước cổng nhà. Bốn công an nhảy vội xuống, vào nhà, buộc tôi lên xe. Tôi chỉ kịp lấy một bộ áo quần cùng cây bút, tập vở nhét vào xách, và lấy đại một chiếc chiếu rách cầm tay, leo lên xe. Vợ tôi nghe tiếng, chạy theo, đưa cho tôi thêm hai ổ bánh mì và hai gói thuốc. Xe chạy ngay.
      Ra khỏi thành phố, xe chạy về hướng Kim Long. Lúc này, trời đã sâm sẩm tối. Mặt trời khuất hẳn sau đồi. Đường Kim Long vắng hoe. Giòng sông Hương đang chìm dần vào tối trong một nỗi ngậm ngùi lặng lẽ. Xe vòng qua dốc chùa Linh Mụ, đi thẳng một đoạn rồi rẽ phải vào một lối đi ngang qua một khoảng tường thành đổ nát. Xe dừng lại ngay dưới một bức thành cao, kế tầng cấp đi lên. Xuống xe, nhìn quanh, bất giác tôi rợn người. Trong cái nhá nhem tối, khung cảnh ở đây đã hoang phế lại càng hoang phế thêm, trông rất ma quái. Im lặng hoàn toàn. Mới có đầu hôm mà sông vắng, đường vắng. Cả cái làng nhỏ ven sông cũng im lìm y như đã đi ngủ từ lâu lắm. Chung quanh, cỏ dại mọc đầy, từ bờ thành lan ra khắp nơi, che lấp hết cả khoảng đất trống lót gạch. Dù đã từng qua lại con đường này, tôi bâng khuâng tự hỏi đây là nơi đâu, và sao người ta lại đưa tôi lên đây.
      Trời tối hẳn. Bốn người áp tải thúc tôi đi. Hai người đi trước dẫn đường. Hai người đi kèm sát bên tôi, súng ngắn rút ra khỏi vỏ, cầm lăm lăm trên tay. Tôi mày mò bước lên từng tầng cấp, lòng hoang mang, nặng trĩu. Không ai nói với ai một tiếng nào. Lên khỏi hàng chục tầng cấp, tôi nhìn ra phía sông, nhận ra cái cổng chính quen quen, với ba lối vào. À thì ra đây là khu vực đền Văn Thánh. Tôi đã từng ghé đây một đôi lần. Chỉ trừ cái cổng tương đối nguyên vẹn, còn thì tất cả đều đầy dấu vết đổ nát. Một dãy nhà dài lợp tôn nằm dọc theo bờ thành thấp, hiện ra nhờ nhờ. Có ánh đèn dầu lay lắt ở một nơi nào đó trong dãy nhà. Bốn người dẫn tôi đi về cuối khu đất, nơi có một căn nhà. Thực ra, đó là một góc của khu đền Văn Thánh. Trời tối đậm. Một tay công an bấm đèn pin soi lối đi. Sỏi, đá, gạch, ngói vụn nằm rải rác trên lối đi. Cỏ dại, dây leo, tranh mọc đầy. Những thanh gỗ mục, thiếu đầu thiếu đuôi và các mảnh gỗ nằm lẫn lộn với ngói vỡ. Căn nhà—đúng ra là cái đền lớn—hầu như không còn gì nguyên vẹn. Cột, kèo, mái, tường cho đến nền, cửa tất cả đều xiêu vẹo, đổ nát. Chỉ còn một căn nhỏ nằm ngay góc. Mọi người lần mò từng bước tìm vào căn phòng. Lòng tôi hoang mang bất định. Tôi cố gắng không nghĩ đến một điều gì đặc biệt. Nhưng những hình ảnh đen tối, ghê rợn cứ tràn vào trong đầu óc tôi.
      Một người nâng nhẹ tấm cửa rời chắn ngang cửa phòng, đặt sang một bên rồi bảo tôi:
      – Vào đây.
      Tôi bước vào. Anh ta rọi đèn khắp phòng, dừng ngang một góc, ở đó có một tấm ván dài kê trên mấy cục gạch. Anh ta nói:
      – Đó là chỗ ngủ.
      Nói xong, anh ta lẳng lặng bước ra ngoài. Tôi nghe tiếng thì thì thầm to nhỏ một lát. Anh ta lại trở vào:
      – Chúng tôi được lệnh trên dẫn anh tới đây. Đây là chỗ ngủ của anh.
      “Chỗ của tôi?” Tôi sửng sốt, môi lập bập muốn la lên như thế, nhưng kịp thời dằn lại. Anh ta nói tiếp, giọng bây giờ trở nên nặng nề:
      – Anh chỉ được di chuyển nội trong phòng này. Cánh cửa kia không đóng, nhưng không được vượt qua. Có việc gì cần, đi tiêu đi tiểu chẳng hạn thì phải nói lớn, có người đến dẫn đi. Nên nhớ đây là lệnh trên, phải thi hành.
      Tôi im lặng, gật đầu trong bóng tối. Anh ta rọi đèn khắp phòng một lần nữa rồi bước ra. Chợt nhớ điều gì, anh ta quay lại:
      – Sẽ có người mang thức ăn lại.
      Anh ta cẩn thận lấy tấm cửa rời, chắn lại. Bên ngoài nghe có tiếng lách cách của đạn lên nòng. Tôi đứng như trời trồng giữa phòng, toàn thân tê điếng hẳn đi. Tôi cố nuốt nước bọt, nhưng miệng mồm giờ khô khốc. Trong đầu vang vang môt câu hỏi không được trả lời: “Chỗ của tôi. Chỗ của tôi?” Tại sao lại chỗ của tôi ở một nơi như thế này?
      Đã nghe vo ve tiếng muỗi. Một lát sau, đám muỗi háu đói bay quanh, vồ vập bám vào thân thể tôi, châm chích loạn xạ. Tôi hờ hững lấy tay đập vài con, rồi buông thõng, mặc kệ để chúng tự do hành sự. Nhưng có lẽ nhờ thế, tôi thấy tỉnh táo để nhìn căn phòng. Mắt đã quen với bóng tối, nên bây giờ, tôi có thể thấy mọi vật rõ ràng hơn. Đúng là một phòng với tường bao quanh. Tường nứt nhiều chỗ, các lớp xi măng bóc từng mảng lớn. Nền nhà cũng thế, hư hỏng, chỗ lồi chỗ lõm. Tôi lấy chân chà qua xát lại, không thấy có ngói gạch gì ở dưới. Như thế ở đây sạch sẽ hơn phía ngoài. Chắc người ta cũng có dọn dẹp đôi chút trước khi đưa tôi lên đây. Tuy vậy, mùi ẩm mốc xông lên nồng nặc. Phòng có một cửa lớn, hai cửa sổ. Cửa sổ phía trong thì đóng chặt, có một tấm gỗ nẹp thêm phía ngoài. Cửa sổ kia hướng ra ngoài, còn một số chấn song ngang, dọc, cái thẳng, cái cong. Có song truột ra khỏi tường. Bên ngoài là một khoảng đồng trống. Tôi vịn chấn song, nhìn ra, mắt cố điều tiết để nhìn cho rõ. Cách một khoảng ngắn từ cửa sổ trở ra là một hàng rào thép gai dày, cao quá đầu người. Cỏ vươn cao, tự do xen giữa các ô thép gai. Xa hơn là một khoảng đất trống với nhiều gò đống lờ mờ nhấp nhô trong màn đêm. Cố gắng nhìn, tôi phát hiện ra những gò đống kia là những ngôi mộ. Hóa ra, đó là một bãi tha ma. Điều này một lần nữa khiến tôi thốt nhiên lạnh toát cả người. Một ý nghĩ kinh khiếp mọc nhanh trong đầu. Tôi buông tay khỏi khung cửa sổ, run rẩy. Tôi bước vào, thả mình xuống tấm ván kê sẵn, hai tay ôm đầu trong một trạng thái kích xúc lạ lùng. Muỗi tấn công ào ạt. Tôi sờ soạng chung quanh, tay đụng cái túi xách. Tôi mở túi lấy hai gói thuốc bastos xanh. Tôi bật lửa đốt thuốc, hút. Tôi hít hà liên tục. Khói thuốc dường như làm cho tôi bình tĩnh đôi chút. Trong bóng tối, thỉnh thoảng đóm lửa lại lóe sáng như đốt lên một niềm hy vọng mong manh nào đó. Tôi lắng tai nghe động tịnh bên ngoài. Hoàn toàn im lặng. Bọn họ đi đâu cả? Tôi nhìn ra phía cửa chính. Tuy tối, nhưng tôi cũng lờ mờ nhận ra ngay trước căn phòng là một khoảng trống đổ nát, cây cỏ um tùm trông như một vạt rừng hoang mà lúc mới vào, vì quá bối rối tôi không để ý. Hoang liêu, vắng lặng hoàn toàn. Rõ ràng, phải từ lâu lắm, chỗ này chẳng có ai lui tới.
      Có tiếng động. Tôi hồi hộp lắng nghe. Tiếng bước chân lại gần. Một lát, tôi thấy khoảng không gian bên ngoài sáng lên. Có ánh đèn. Hai cô gái bước đến trước cửa. Một cô bưng chiếc đèn dầu nhỏ, giơ cao, tay nâng tấm chắn cửa, giữ cho cô kia bước vào phòng. Cô gái nhìn quanh, rồi đặt xuống chỗ nằm một mâm cơm. Cô bưng đèn đặt cây đèn kế bên mâm cơm. Xong, cả hai cô đồng bước ra. Một cô nói, giọng cộc lốc:
      – Ăn xong, để mâm và đèn ở ngoài này.
      Nhìn mâm cơm, tôi bất giác rùng mình, thảng thốt. Một tô canh còn bốc hơi nóng. Một đĩa đồ xào. Một tô thịt heo kho. Một đĩa cá. Chén, đũa, muỗng tươm tất. Bữa ăn dành cho tôi? Một bữa ăn thịnh soạn dường ấy cho một tên tù trong nhà tù Cộng Sản? Tôi nhìn mâm cơm và không thể ngăn chặn được ý nghĩ về một bữa cơm ân huệ cuối cùng dành cho tử tội. Thoạt đầu, đó chỉ là một cảm giác bất thường. Nhưng hàng bao câu hỏi mọc lên trong đầu không trả lời được khiến cho ý nghĩ đó hình thành và càng lúc càng rõ nét. Không nghi ngờ gì nữa, tôi sẽ bị giết đêm nay. Chết! Ý nghĩ dứt khoát này khiến tôi đứng sững bất động giữa căn phòng, mắt không rời khỏi miếng thịt, con cá, cái muỗng… Đó là những điều bình thường trong một bữa ăn bình thường. Nhưng trong tình huống này, bữa ăn lại có vẻ thịnh soạn và vì thế, rõ ràng nó không bình thường một chút nào. Những kẻ chiến thắng vẫn tự hào về cái bản chất nghèo của họ. Không những thế, họ yêu cái nghèo và ghét tất cả cái gì sang cả, ngon lành. Đó là chưa nói đến sự trả thù. Vậy thì tại sao trong lúc người ta đi “học tập” chỉ được ăn cơm với muối và phải lao động cực nhọc để gọi là “cải tạo,” thì tôi lại được cho ăn một bữa ăn tươm tất như thế này? Tôi nhìn đồ ăn. Đồ ăn nhìn tôi. Con cá, những miếng thịt, muỗng, đũa… thảy đều nhìn tôi trừng rừng, thách thức.
      Tôi lảo đảo ngã xuống đất. Mọi nghị lực bỗng nhiên tiêu tán. Tôi chới với vịn tấm ván ở chỗ nằm, đứng lên, rồi lại nằm vật xuống. Tôi chìm sâu trong một nỗi tuyệt vọng mênh mang. Và lịm người đi.
      – Này anh kia, ăn đi để còn phải bưng xuống.
      Tôi giựt mình nhìn ra. Không thấy ai. Một người nào đó chõ miệng vào ném một câu nói, xong đi mất. Tôi cố ngồi dậy. Bụng đói thật, nhưng nhìn mâm cơm, tôi kinh hãi. Cái cảm giác của một bữa cơm ân huệ của người tử tội khiến tôi lợm giọng. Nhìn còn không muốn, nói gì đến chuyện ăn! Tôi nhìn trong bóng tối. Gặp cái gì, tôi nhìn trừng trừng vào cái đó. Thanh gỗ, mảng tường, chấn song, khuôn cửa, góc phòng, trần nhà… Tất cả đều toát lên một vẻ thê thiết đến cùng cực. Tôi nhìn thân thể tôi. Thừa thãi. Vô nghĩa. Cảm giác về một cái chết thấy trước khiến tôi cảm thấy chán cái thân thể buồn nản này. Y như thể nó không còn là của tôi nữa.
      Không gian bên ngoài vang động lời ca và giọng nói. Từ Kim Long. Từ Long Thọ. Từ Hương Hồ. Từ phố. Xuyên qua các loa phát thanh đặt cùng khắp, các điệu nhạc chiến đấu và những chuỗi từ ngữ nối nhau tuôn ra trong bóng đêm. …Quê em miền trung du, đồng tươi lúa xanh màu… hành quân trên đồi cao, nhìn vô trong Huế… trung tá Đính, một sĩ quan ngụy đầu hàng quân giải phóng, hôm nay đã nói chuyện cùng các trại viên trại cải tạo tại Ái Tử… phát biểu của sinh viên Hoàng Thị Thọ, thành đoàn sinh viên học sinh giải phóng… ba giòng thác cách mạng tiến công như vũ bão vào thành lũy của tập đoàn tư bản… [1]
      Đêm và nỗi sợ vây lấy tôi. Âm thanh vây lấy đêm. Âm thanh vò nát, cày xới đêm bằng những chuỗi từ ngữ lạ tai, chắc nịch, cao vút phát ra từ tứ phía. Bên kia sông. Bên này sông. Từ phố. Từ chân núi. Bừng bừng. Vô tận. Âm thanh và ngôn ngữ như muốn nuốt sống cả đất trời.
      Người con gái từ đâu bên ngoài bước vào:
      – Này, anh kia, ăn xong chưa?
      – Chưa.
      – Ăn mau đi. Không ai công mô đợi mãi.
      Mẹ kiếp, ăn thì ăn! Tôi lấy chén đũa, xúc cơm gắp vội mấy miếng thịt, lùa đại vào miệng, cố nuốt. Nhưng không được. Nghẹn. Lại vọt ra. Không cách gì nuốt nổi. Tôi nói vói ra bên ngoài:
      – Xong rồi.
      Người con gái bước vào, nhìn mâm cơm rồi hỏi:
      – Không ăn sao? Bộ chê cơm cách mạng há?
      – No rồi.
      Tôi lấp lửng cố không nói chữ “dạ” đầu câu. Cô gái bưng mâm cơm và đèn, bước ra ngoài. Căn phòng tối lại. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy tiếc. Tại sao lại phải làm ma đói, nếu bị chết? Nghĩ thế, tôi lục xách, lấy ra hai ổ bánh mì mang theo, nhai. Cố nuốt. Và nuốt được. Tôi nuốt những miếng bánh mì như nuốt những ý tưởng chết chóc lớn dần lên đến độ bão hòa. Ừ, thì chết. Có sao đâu! …Sóc băm bô rộn rã tiếng chày khua… giã gạo đêm đêm vì ngày bận làm mùa… cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc nước ta… cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ở miền nam… bác hồ dạy… đây cầu chống mỹ xe qua dập dìu… cùng mắc võng trên rừng trường sơn… Tiếng hát và tiếng đọc không ngớt tuôn ra.
      Còn tôi, nỗi chết không rời. Tôi bắt đầu làm quen với ý nghĩ mình sẽ chết. Tôi bước trở lại khuôn cửa sổ, nhìn ra bãi tha ma. Những nấm mộ, những tấm bia cắt thanh những đường nét mơ hồ ngoài kia. Thỉnh thoảng, những đóm lửa đỏ nhờ nhờ bắn lên không trung. Tôi tưởng tượng một lúc nào đó trong đêm, tôi sẽ bị dẫn ra ngoài đó, bị trói lại, bị bắn bỏ và đạp xuống một cái hố đào sẵn. Hết. Cuộc đời tôi sẽ chấm dứt đơn giản như thế. Như những xác người hồi Tết Mậu Thân. Chết là một im lặng bất tuyệt. Thế thôi. Tôi sẽ ra ngoài đó, sẽ vĩnh viễn nằm xuống ở đó. Vĩnh viễn. Có gì đâu! Chết là rơi vào vĩnh viễn. Trút sạch hơn thua. Không ai thắng, không ai thua.
      Bên kia sông, những giọng hát vang lên, bắt đầu cho một hội diễn văn nghệ nào đó, do sinh viên học sinh phụ trách. Bên này sông, những giọng nói. Từ dưới phố, những giọng nói. …Cách mạng, làm chủ tập thể, công trình thủy lợi, ngụy quân ngụy quyền, tiến công, dãy chết, chủ nghĩa anh hùng cách mạng… Giọng hát cương lên. Giọng nói cũng cương lên. Nhạc ào ạt. Tất cả như muốn nghiến ngấu những mảnh đời nhỏ bé, những thân phận đớn hèn đang âu lo trước cuộc phế hưng. Nào bạn. Nào thầy. Nào học trò. Nào hàng xóm. Rụp một cái, mọi quan hệ thay đổi tận gốc. Người ta hăm hở ùa theo kẻ thắng. Kể cả cây cỏ, giòng sông. Giả có thật có. Một kẻ mới hôm qua đây còn chưởi rủa Việt Cộng, thì hôm nay cầm cờ đỏ, cố chường mặt ra cho mọi người nhìn thấy. Còn những người thua cuộc thì bé lại, đột nhiên mất tăm giữa giòng cuồng lưu. Giữa đất trời chỉ còn một thứ, một loại, một âm thanh. Lảnh lót. Kiêu hãnh. Ngông nghênh. Nghiêng đồng đổ nước ra sông. Vắt đất ra nước thay trời làm mưa. Người ta xem đó là điều có thật. Và mọi người cố tin đó là sự thật. Chỉ vì, ngoài thứ âm thanh đó, chỉ còn là một im lặng. Im lặng thảng thốt. Im lặng như hàng hàng lớp lớp mồ mả ngoài kia. Như tôi. Một mình giữa căn phòng tối tăm, u uất này.
      Tôi bước lui bước tới, gậm nhấm nỗi bất lực của chính mình. …Từ thành phố này người đã ra đi… tư tưởng tiến công cách mạng… đi thông đường để những chuyến xe băng băng qua… Trong không gian đầy cả những tạp âm ấy, bỗng nhiên một âm thanh khác lạ vang lên.
      Bò…ò…oò…oò…n…g. Tiếng chuông! Vâng, tiếng chuông! Tôi cố lắng nghe. Âm thanh tiếng chuông cao dần lên, tan loãng ra, tưởng như biến mất, bỗng dội lại từng chút, rồi cuối cùng chan hoà trong không gian. Từ đó, chốc chốc, tiếng chuông lại đều đặn vang lên. Giữa những chuỗi từ ngữ sắc mạnh ào ạt ném vào không gian, tiếng chuông lúc đầu trông khá lạc điệu. Có cái gì như ngập ngừng, ẩn nhẫn, chịu đựng khiến tôi liên tưởng đến thái độ dè dặt của người đánh chuông. Đánh mà lòng không yên. Đánh mà không muốn đánh. Vừa đánh vừa dè chừng. Vừa đánh vừa dò dẫm.
      bò…ò…ò…òng.
      …năm anh em trên một chiếc xe tăng…
      bò…ò…ò…ng
      …từ thành phố này…
      bò…ò…ò…ò…ng
      Tôi lắng mình vào tiếng chuông. Càng về sau, tiếng chuông càng tròn trĩnh, đầy đủ, trầm lắng. Nó từ tốn vang lên, từ tốn truyền dần vào không gian, xuyên qua cây lá, thành quách, nhà cửa, nhỏ dần và biến mất. Cứ thế. Không cần người nghe. Không cần khua rộn.
      bò…ò…ò…òng
      Tiếng chuông hiền hòa, không lấn át nổi tiếng hát và những âm thanh chát chúa hùng hổ vang vọng trong đêm. Nhưng may thay, nó còn đó. Ít ra là nó còn đó giữa một đất nước đang bị bức bách thay đổi theo một chiều hướng vô định. Trong cái âm thanh nghe bình thường đó, tôi tự dưng linh cảm một sự cố gắng phi thường để tồn tại. Phải cố gắng lắm để cho nó bình thường. Vì mọi thứ đã trở thành bất trắc. Mọi thứ trở thành không bình thường. Như mâm cơm mà người ta vừa dọn cho tôi chẳng hạn. Như tôi, hôm nay, tại đây, trong căn phòng đổ nát, ẩm thấp, tối tăm này. Một nhà tù không cửa khóa, không tường cao hào sâu, không kẽm gai. Người ta nhốt tôi. Tôi nhốt tôi. Sự tan vỡ của một đất nước đột ngột, ghê gớm quá đến nỗi mọi phản ứng như tê liệt đi.
      bò…ò…ò…ò…ng
      Tôi bước lui bước tới, nhìn ra bãi tha ma, nhìn quanh phòng, đốt hết điếu thuốc này sang điếu thuốc khác. Đêm trôi qua nặng nề, chậm chạp. Tôi chờ đợi. Một lúc nào đó, tôi thiếp đi và giật mình tỉnh lại. Thì ra tôi ngủ khi đang đứng giữa phòng. Tiếng nói và âm thanh nghe đã ngớt. Chỉ còn tiếng hát vang lại từ bên kia sông, phía Long Thọ. Các giọng hát cố cương lên nhưng không nổi. Có lẽ vì đêm đã khuya. Tôi cố ý chờ đợi tiếng chuông, nhưng không còn nghe gì nữa. Bên ngoài bây giờ im lìm. Tôi bước gần cửa nhìn ra, xem thử có ai canh gác gì bên ngoài không. Chẳng thấy ai. Im lặng nặng nề, đe dọa. Đốt thuốc tiếp. Cứ thế, trong đêm tối, tôi lặng lẽ chờ đợi một cái chết. Những hoảng hốt đã qua. Nỗi sợ hãi cũng lịm dần. Tôi chờ đợi một bước chân, một tiếng lách cách của đạn lên nòng, một tiếng gọi. Không. Từng giờ, từng phút trôi qua trong vắng lặng hoàn toàn. Không hẳn thế. Còn có tiếng dế và tiếng muỗi. Nhưng trong tâm tưởng của một chờ đợi ngột ngạt, những âm thanh đó trở thành vô nghĩa. Với tử tội, mọi thứ đều vô nghĩa, kể cả niềm hy vọng. Đêm khuya khoắt, sâu dần. Tôi đi lui, đi tới, bóng dáng nghiêng ngả. Cho đến một lúc, tôi có một cảm giác thật lạ lùng: tôi chết rồi. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy tôi nhẹ hẫng, không trọng lượng, không vướng víu, không buồn phiền. Nhìn ra không gian bên ngoài, tôi thấy mình thoát, thoát khỏi cái xã hội đang bị kềm thúc ngoài kia, cái xã hội đang bị buộc, bị gói, bị nhốt ngoài kia, cái xã hội đang bị tiêu chuẩn hóa ngoài kia. Tôi sẽ được tự do. Dưới một cái hố nào đó ngoài bãi tha ma thầm lặng ngoài kia. Vâng, tự do. Tôi sẽ hoàn toàn tự do, ướt đẫm tự do.
      Bỗng nhiên, có tiếng động. Tôi giật mình, lắng nghe. Vâng, tiếng động. Tiếng bước chân nhè nhẹ đâu đó bên ngoài. Tóc tôi dựng ngược. Đã đến lúc rồi! Đến rồi! Người tôi căng cứng. Tôi hít thật sâu thêm một hơi thuốc, vứt phần còn lại xuống đất, dí tắt, nhìn ra chờ đợi. Không có gì. Chưa có gì. Tôi đốt một điếu thuốc khác, lập bập từng hơi. Và cảm thấy mình vừa thoát chết. Mình còn tồn tại đây. Khói thuốc chất ngất trong lồng ngực, sảng khoái.
      Đêm trôi. Tôi trôi. Bồng bềnh, lấp lửng giữa bờ vực tử sinh. Giữa cảm giác, tưởng tượng và hình dung, suy đoán. Bên ngoài, lâu lâu lại có tiếng động. Hình như đổi phiên gác. Tôi chiến đấu với những cảm giác và suy luận của mình. Tôi không nằm xuống được, chỉ bước lui bước tới, bước ngang bước dọc và đứng.
      Bò…oò…oò…n..g
      Tôi giật mình. Tiếng chuông! Lại là tiếng chuông. Tiếng chuông bỗng nhiên vang lên giữa một không gian vô cùng tịch lặng. Chuông sáng. Khác với đầu hôm, tiếng chuông lần này có vẻ tự chủ hơn, chắc hơn, tự tin hơn.
      Bò…oò…oò…ng
      Tôi sực tỉnh: chuông Linh Mụ! Ngôi chùa chỉ cách nơi tôi bị giam giữ, khu đền Văn Thánh, chừng nửa cây số.
      Tiếng chuông đều đặn vang lên trong không khí trong lành sau thời gian lắng dịu của đêm. Một mình. Cả bộ máy tuyên truyền vẫn còn ngái ngủ, chưa kịp thức dậy, vì thế, tiếng chuông khoan hòa êm ái truyền đi. Qua không khí, qua gió, qua sương, qua cây, qua cỏ. Chuông nối tiếp chuông cho đến lúc trời hửng sáng. Chỉ có tiếng chuông. Khi hồi chuông cuối cùng đánh dồn dập để kết thúc, thì tôi tìm lại được chính tôi. Một tôi nhếch nhác, đờ đẫn giữa một căn phòng nhếch nhác, đờ đẫn. Tiếng chuông đã đưa tôi qua một đêm khắc khoải, hoang tưởng. Tôi ngồi ngẫm nghĩ về những sai khác trong tiếng chuông. Suy cho cùng, có lẽ tiếng chuông vẫn thế từ mấy trăm năm nay ở ngôi chùa Linh Mụ cổ kính này. Có khác chăng là khác ở người đánh chuông và kẻ nghe chuông.
      Tiếng chuông làm gì có hưng phế.
      Chỉ có hưng phế trong phận người.
      *
      Đó là đêm đầu tiên trong 176 đêm tôi bị biệt giam nơi căn phòng đổ nát này của đền Văn Thánh để “tẩy não” trước khi được chính thức chuyển sang trại tù khổ sai Bình Điền, hơi giam giữ hàng ngàn sĩ quan quân đội, cán bộ và nhân viên dân chính VNCH, nhiều năm tháng sau đó. Đêm đó có lẽ là đêm dài nhất trong cuộc đời tôi. Sau đó thì đêm nối đêm, trong bóng tối, tôi chờ đợi tiếng chuông để lấy lại thăng bằng sau khi trải qua những ngày nối ngày căng thẳng đương đầu với những cuộc thẩm vấn liên tu bất tận của hết toán công an này đến toán khác. Có một khoảng thời gian, tiếng chuông biến mất. Rồi xuất hiện trở lại. Rồi biến mất.
      Tiếng chuông đêm đó ghi đậm trong tâm tưởng tôi. Mỗi khi gặp điều gì bất như ý trong cuộc đời, tiếng chuông lại trở về, khoan hòa, trầm lắng.
      7. Những “con ngựa thành Troy”[2]
      “Phong trào đô thị” (Huế) là nhóm chữ được một số trí thức và sinh viên học sinh cộng sản nằm vùng quy cho các hoạt động tranh đấu của họ trong lòng chế độ VNCH. Lâu lâu, những cựu “nằm-vùng-viên” này lại tụ họp nhau để hâm nóng niềm kiêu hãnh “kéo dài” của họ bằng cách nhắc nhở lại những ngày tháng cũ. Một bản tin trên trang “Thừa Thiên-Huế online ngày 9/1/2014 viết:
      Với nhà thơ Võ Quê, nguyên Trưởng khối Báo chí – văn nghệ của Tổng hội Sinh viên trước 1975, thời thanh xuân là những năm tháng sôi nổi khi được hòa mình vào phong trào yêu nước của tuổi trẻ học đường. Thế hệ của ông, hình ảnh những cuộc hội thảo, mít-tinh, tuyệt thực, đêm không ngủ, bãi khóa, xuống đường, đốt xe Mỹ trên đường phố Huế… đòi hòa bình, thống nhất đất nước và những tháng năm ngục tù tại nhà lao Thừa Phủ, Chí Hòa, Côn Đảo… mãi mãi là những hồi ức hào hùng. Quá khứ đầy dũng khí trong một bối cảnh hiểm nguy, gian khổ ấy đã cho họ nhiều kỷ niệm với đầy đủ ý nghĩa vui buồn, khổ đau, hạnh phúc.
      “Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh những người bạn tù sơ sinh đồng hành cùng chúng tôi trên chiếc tàu HQ 500 của nhà cầm quyền Sài Gòn với 5 ngày 5 đêm lênh đênh trên biển cả thiếu nước, đói cơm, hôi hám, bệnh tật đi từ bến cảng Thuận An ra Côn Đảo”, nhà thơ Võ Quê nhớ lại. Và bài thơ “Gởi người bạn tù sơ sinh” được ông viết trong bối cảnh ấy, bí mật gởi về đất liền đăng trên báo Đối Diện. Đối diện với hiểm nguy, sống chết nhưng bài thơ lại toát lên một tinh thần lạc quan: “Ngủ đi bé thơ!/ đời xanh tươi lắm/ ngoài cánh cửa đề lao trời cao và rộng/ trên mái nhà tù gió lộng trăng thanh/ gió lộng trăng thanh bé lành giấc ngủ/ đợi ba về mở cửa tự do/ đêm nay mẹ lại khoan hò/ đọc trong lời mẹ ngàn pho sử hồng…”.
      Và một bài thơ khác của nhà thơ Võ Quê “Thừa Phủ ơi lòng ta hồng biển lửa!”, thai nghén trong phong trào đấu tranh sục sôi của sinh viên những năm 1970 đã được tuổi trẻ học đường miền Nam hồi đó yêu thích. Nó đã được chép chuyền tay và đọc trong các cuộc xuống đường, trong giảng đường ở Sài Gòn và ở Huế. Bài thơ càng có sức lan tỏa khi nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên phổ nhạc. Hình ảnh những nữ tù quét lá trên đường Lê Lợi, bị khiêng qua nhà xác Bệnh viện Huế trở thành ám ảnh lớn trong ông: Ơi người tù thiếu nữ trưa nay / Đang âm thầm quét lá khô rơi trên vỉa hè Lê Lợi / Hồn em đau trong từng nhát chổi lạnh lùng / Ta biết lòng em đang rực hồng / biển lửa / Chờ gió ngày bão lớn thổi bùng lên…
      (…)
      Hồi tưởng những năm tháng có mặt trong phong trào sinh viên yêu nước, nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa cho rằng, Huế là một trong những trung tâm khởi phát phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh mạnh mẽ và liên tục, được ví như một ngòi nổ, làm bùng phát phong trào đấu tranh yêu nước ở đô thị.
      “Theo tôi 5 yếu tố dẫn đến hình thành phong trào là: khát vọng về dân chủ và công bằng xã hội được cuộc đấu tranh của Phật giáo khơi dậy và cuốn hút; sự tự thức tỉnh về ý thức dân tộc khi Mỹ đổ quân vào Việt Nam; có sự chỉ đạo của tổ chức Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam và trong đó có sự chỉ đạo của Thành uỷ Huế; khát vọng hoà bình của tuổi trẻ trong thời điểm chiến tranh, phản chiến đòi hoà bình độc lập thống nhất đất nước thôi thúc thanh niên rất mạnh mẽ; và mọi phong trào của thanh niên sinh viên học sinh Huế liên tục được là nhờ có một tổ chức rất hợp pháp ngay trong xã hội của miền Nam làm ngọn cờ là Tổng hội Sinh viên Huế. Đây chính là trung tâm liên kết giữa sinh viên học sinh với trí thức công chức, người lao động, tiểu thương…”, ông Hoa đúc kết.” [3]
      Một bản tin khác trên Tuổi Trẻ ngày 18/10/2015 viết:
      Cứ hình dung những người thanh niên, sinh viên học sinh hồi trước năm 1975 trong phong trào đô thị Huế nay cũng tròm trèm sáu, bảy mươi tuổi, bỗng gặp nhau tay bắt mặt mừng, cầm trên tay tập sách dày dặn “nóng hổi” vừa in xong, bảo nhau ký tặng làm lưu niệm… cũng đủ thấy chất sôi nổi ngày xưa quả chưa mất đi trong những con người đặc biệt ấy.
      Nhạc sĩ Tôn Thất Lập cho biết đến nay đã tròn 50 năm ngày ông viết ca khúc Hát cho dân tôi nghe tại giảng đường đại học ở Huế. Cái năm 1965 ấy, khởi đi từ bài này, phong trào đô thị Huế hình thành một dòng chảy “Hát cho đồng bào tôi nghe” lan rộng khắp các đô thị và bùng lên ở Sài Gòn thành sức mạnh đáng kể.
      Điểm lại quá trình hình thành bản thảo tập sách Lịch sử phong trào đô thị Huế 1954-1975, ông Nguyễn Kim Dũng – nguyên bí thư Thành ủy Huế – cho biết việc viết lại lịch sử phong trào đô thị Huế trong những năm chống Mỹ là ý nguyện, mong muốn của nhiều thế hệ lãnh đạo kể từ sau 30-4-1975, tuy nhiên mãi đến gần đây mới thực hiện được. Buổi ra mắt sách hôm nay tại TP.HCM còn có cả đương kim Bí thư Thành ủy Huế Huỳnh Cư và đại diện ban biên soạn vào dự cùng các thành viên phong trào năm xưa.
      Ông Lê Văn Thuyên – nguyên chủ tịch Tổng hội sinh viên Huế 1971-1972, đại diện ban biên soạn tập sách – trình bày các phần nội dung và lược thuật những nét chính trong diễn biến phong trào đô thị Huế từ 1954-1975, mà các mốc quan trọng như phong trào năm 1963, tình hình thử lửa năm 1965, cuộc biến động miền Trung năm 1966…
      (…)
      Ông Trần Hoài – đại diện ban biên soạn – cho biết: “Mỗi thế hệ đều có nhu cầu riêng của thời đại để giải quyết, nhưng chúng ta cùng một tâm nguyện là làm cho đất nước, cho cuộc đời tốt đẹp hơn lên. Bởi thế hệ chúng tôi cũng có nguyện ước là mong đất nước yên ổn để chúng tôi được học hành, trên cơ sở đó đóng góp cho đất nước, để đất nước phát triển có thể sánh vai với thế giới, thế lực nào cản trở khát vọng này là chúng tôi đấu tranh”. [4]
      Từ trái: Lê Nhược Thủy (đứng hát); Tôn Thất Lập (đội mũ, đứng hát) – Võ Quê (đội mũ, ngồi) (Hình: L. Điền – Tuổi trẻ online)
      Có khá nhiều “nằm vùng viên” nổi tiếng thời đó được nhắc đến trong hai bản tin: Nguyễn Xuân Hoa, Bửu Chỉ, Võ Quê, Phan Hữu Lượng, Trần Hoài, Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng, Thái Ngọc San, Hoàng Thị Thọ, Nguyễn Duy Hiền, Lê Văn Thuyên, Lê Nhược Thủy, Nguyễn Phú Yên…, trong đó một số đã qua đời như Bửu Chỉ, Tôn Thất Lập, Thái Ngọc San. Hầu hết những khuôn mặt này đều là bạn bè hay người quen kiểu này kiểu khác của tôi, nếu không thì cũng đã từng có lúc ngồi cùng bàn cà phê.
      Gạt qua một bên tính cách tuyên truyền, hai bản tin trên cho ta một số thông tin về khung cảnh sinh hoạt dưới thời VNCH. Đó là một xã hội, trong đó, sinh viên học sinh được tổ chức “hội thảo, mít tinh, tuyệt thực, đêm không ngủ, bãi khóa, xuống đường,” không những thế, có khi còn “đốt xe Mỹ trên đường phố Huế, đòi hòa bình, thống nhất đất nước”; thơ tù thì “được chép chuyền tay và đọc trong các cuộc xuống đường, trong giảng đường ở Sài Gòn và ở Huế”; đoàn văn nghệ được phép thành lập, đi biểu diễn ở các địa điểm công cộng như Giảng đường C, Giảng đường Karate, các trường trung học, chợ Đông Ba, khu dân cư; sinh viên học sinh được ra những tờ báo như “Tiếng Gọi Học Sinh”, “Tiếng Gọi Sinh Viên” , “Sinh Hoạt” hay sử dụng Tổng Hội Sinh Viên Huế, một tổ chức hợp pháp được quy chế tự trị đại học bảo vệ, để lưu trữ tài liệu cộng sản và tổ chức các hoạt động chống chính quyền và chống Mỹ. Tóm lại, đó là một xã hội mở, dành cho người dân nhiều thứ quyền, nhờ đó, người trí thức vừa được hưởng lương nhà nước và sinh viên học sinh vừa được học tập miễn phí, lại vừa được tranh đấu chống chính quyền một cách thoải mái. Sau 1975, tất cả các quyền công dân căn bản nói trên đều bị triệt tiêu: chỉ cần đưa ra một vài ý kiến trên Facebook không vừa lòng quan chức là bị kết tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ” với những bản án vô cùng tùy tiện, bất chấp luật pháp, kể cả thứ luật pháp do chính nhà nước cộng sản đề ra.
      Theo các phát biểu nêu ra trong bản tin, động lực thúc đẩy các nằm-vùng-viên là: khát vọng dân chủ và công bằng xã hội, đòi hòa bình, thống nhất, độc lập, chống lao tù, chống nghèo đói, chống các tệ nạn xã hội, muốn đất nước phát triển sánh vai với thế giới. Một “nằm vùng viên” than phiền cảnh “thiếu nước, đói cơm, hôi hám, bệnh tật…” của những tù nhân. (Cần nhấn mạnh, những khát vọng như thế là của mọi người, chứ không riêng gì của những “nằm vùng viên”). Điều đó cũng có nghĩa là: nếu cộng sản nắm được chính quyền thì những khát vọng trên sẽ trở thành hiện thực và tất nhiên, các hìện tượng tiêu cực sẽ hoàn toàn chấm dứt. Tuy nhiên, sau 1975, khi cộng sản nắm toàn quyền sinh sát từ bắc chí nam, tất cả những khát vọng vẫn chỉ là khát vọng; các tệ nạn xã hội, sau gần nửa thế kỷ, vẫn tồn tại một cách dai dẳng với tầm mức sâu rộng hơn trong lúc hình thức lộng quyền, tham nhũng của các đảng viên cộng sản và quan chức từ địa phương tới trong ương, kể cả bộ phận chóp bu, phát triển tràn lan, hoàn toàn bất khả trị. Trước thì đổ lỗi cho Mỹ-Nguỵ, bây giờ đổ lỗi cho ai? Ấy thế mà, trong lúc khá nhiều văn nghệ sĩ cùng lứa tuổi được đào tạo ở miền Bắc cũng như nhiều giới trẻ khác trưởng thành sau 1975 ký tên vào những bản lên tiếng hay viết bài góp ý, lên án các hành vi ngang ngược của Trung Quốc trên biển Đông, vụ Formosa, vụ thảm sát Đồng Tâm, các bản án oan khuất, các vụ tham nhũng tày trời, thì hầu hết các khuôn mặt trong phong trào đô thị, điển hình là các “nằm vùng viên” nói trên, đều hoàn toàn ngậm miệng. Họ đứng về phía nhà nước và đảng Cộng Sản, tụ họp nhau, nhắm mắt trước hiện thực tồi tệ của đất nước, ôn lại chút quá khứ như một phép “thắng lợi tinh thần” (kiểu AQ của Lỗ Tấn)!
      Trước các chính sách trưng thu đất đai, hiện tượng phá rừng, phá núi tràn lan, hơn lúc nào hết, những lời hát cũ ngày nào cần phải được lập lại:
      Đất hoang ta phá đất khô ta gầy
      đất mang hoa thắm tương lai ta đầy
      đất ta ta xới đất ta ta bồi
      đất ta ta tới đất ta ta ngồi. (Miên Đức Thắng)
      Dành lại dòng sông này cho lúa chín khắp đồng xanh
      Dành lại thành-phố đó bàn tay nâng cao hòa-bình (Tôn Thất Lập)
      Với sự đóng góp xương máu của nhiều thế hệ, rốt cuộc, đảng cộng sản có được tất cả, nhưng nhân dân thì chẳng có gì.
      *
      Nhưng không phải tất cả những “con ngựa thành Troy” đều giữ mãi niềm tự-hào-như-một-quán-tính đó. Trong thời gian đầu, với tư cách người thắng trận và trở thành những chủ nhân ông mới của thành phố, một số nằm-vùng-viên được đảng bổ nhiệm nắm giữ những vai trò quan trọng của các ty, sở hay các phân khoa, trường học. Họ “hồ hởi phấn khởi”, hãnh diện tiến hành cuộc cách mạng thay đổi lịch sử mà họ đã từng đòi hỏi và mơ ước. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, mọi sự bỗng chững lại. Bộ máy đảng và nhà nước – kẻ chiến thắng thực sự – không hành xử theo thứ cung cách mà họ tưởng tượng. Với thành tích tranh đấu, họ tưởng mình là những người cộng sản tiêu biểu; nhưng đối với bộ máy đó, hóa ra, họ chỉ là những đứa con ngoại hôn. Được trưởng thành dưới chế độ VNCH, họ mang những tố chất của cái xã hội mà họ được giáo dục và đào tạo: lòng yêu chuộng tự do, tinh thần phản kháng, thich bàn cãi và tranh luận để tìm cái đúng, cái sai. Thế nhưng, đối với bộ máy đảng, những tố chất đó hoàn toàn không thích hợp, nếu không muốn nói là “phản động”, là tiêm nhiễm “nọc độc” của chế độ cũ. Họ được la lối, chí trích, rủa sả cái cơ chế đã giành cho họ quyền được chỉ trích, rủa sả, nhưng không được hành xử quyền đó đối với các đồng chí của mình. Rốt cuộc, những con ngựa thành Troy bị bịt miệng. Hoặc tự bịt miệng mình.
      Lần lượt, những chàng sinh viên Huế nhiệt huyết, tỏa sáng trong những cuộc tranh đấu, hội thảo, xuống đường trong chế độ cũ dần dà bị loại khỏi guồng máy. Các vai trò trưởng ty, hiệu trưởng hay một số chức vụ cao cấp nào đó được “cách mạng” ban phát như một hình thức thưởng công, rốt cuộc, chỉ có tính cách lót đường và lần lượt được thay thế bởi những thành phần nòng cốt, gắn bó thâm căn cố đế với đảng cộng sản. Thất vọng và bất mãn, người thì bỏ Huế vào Sài Gòn làm nghề tư do kiếm sống, người thì lặng lẽ rút chân ra khỏi cơ quan nhà nước, kẻ thì dứt khoát hơn, trả lại thẻ đảng hay tìm cách trốn ra nước ngoài theo phong trào vượt biên hay bảo lãnh. Trong chốn riêng tư, họ không tiếc lời chửi đảng và nhà nước. Anh bạn láng giềng của tôi, người đã bao phen rủ rê tôi vào rừng theo “Mặt trận”, – khi đội mũ cối từ trên rừng về, việc đầu tiên là đập phá ngay cái am thờ trước mặt nhà, để chứng minh tinh thần chống mê tín dị đoan của mình -, được phong cho giữ một trưởng ty gì đó, nhưng rồi bị thất sủng, thất vọng, một thời gian sau, nhuốm bệnh, chết. Một trí thức trẻ, dòng dõi quan gia, người đã nhiều đêm đến ngủ lại nhà tôi vừa đánh cờ vừa nhỏ nhẹ khuyên tôi nên ủng hộ hòa bình và thống nhất đất nước, được bố trí làm quyền khoa trưởng một phân khoa đại học, bỏ vào Sài Gòn đi bán thuốc Tây. Một nhà thơ, một thời nắm quyền sinh sát một tờ tạp chí địa phương, trả thẻ đảng. Một nhà thơ khác, bỏ học, lên rừng, ra Bắc, có tư tưởng chống chiến tranh, bị giam lỏng, trở về Huế sống không có hộ khẩu. Một giáo sư đại học, người từng được cho sắm vai chủ tịch một lực lượng hữu danh vô thực, chạy chọt ra nước ngoài rồi xin tỵ nạn. [5] Sau khi đi ở tù về, tôi gặp lại một số trong những người bạn “đối thủ” cũ đó với một quan hệ hoàn toàn mới mẻ: tôi là người của chế độ cũ mất đất đứng, họ là những người của chế độ mới, sống trong hụt hẫng. Hình bóng ngày nào của những thanh niên đầy hào khí cách mạng – những người đã từng chết mê chệt với hình ảnh của “Che” Guevara (1928-1967) và Fidel Castro (1926-2016) – làm thành phố nóng bỏng lên với những lời lên án, kêu gào trong các buổi hội thảo, xuống đường, bây giờ im re, thủ phận, nhu mì như những chiếc bong bóng xì hơi.
      Phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam nói chung, rốt cuộc, là một khát khao bị bội phản. Hào khí cách mạng mà họ sử dụng để chống chính quyền miền Nam trở thành một hình thức lấy dây thừng tự trói chính mình, một mặt và mặt khác, là một đóng góp lớn lao đưa đất nước theo con đường đi xuống. Cả miền Nam năng động trước 1975, thoắt một cái, bị nhận chìm theo chiếc thuyền miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu. Để cuối cùng phải muối mặt đi theo con đường tư bản, thậm chí ngửa tay nhận tất cả mọi hình thức viện trợ – không trừ một thứ gì -, của các nước tư bản, để cứu mình. Cao điểm là, mới đây, Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Việt Nam ngồi chén chú chén anh với Tổng Thống Mỹ, tay trùm sò tư bản, bằng một hiệp ước “Đối Tác Chiến Lược Toàn Diện”. Tờ Tuổi Trẻ lên giọng ca ngợi “Việc nâng cấp quan hệ Việt – Mỹ lên Đối tác chiến lược toàn diện là một minh chứng thuyết phục với các nước trên thế giới về thành quả của một quá trình gây dựng lòng tin, sự hợp tác bền bỉ, chân thành và hiệu quả của công tác ngoại giao.” [6]
      Điều này khiến tôi nhớ đến “Trại súc vật” của George Orwell. Có lẽ cũng nên đọc lại trích đoạn cuối của tác phẩm đầy tính tiên tri này:
      Napoleon ngồi ngay đầu bàn, chỗ trang trọng nhất. Có vẻ như lũ lợn đã quen với việc ngồi ghế từ lâu. Cả bọn vừa đánh bài, nhưng lúc ấy đã ngưng, chắc là để nâng cốc chúc mừng nhau. Một chiếc bình khá to được chuyền tay nhau và tất cả các li đều được rót đầy bia. Không ai để ý đến lũ súc vật đang tò mò nhìn qua cửa sổ. Ông Pilkington, Trại Cáo, tay cầm li bia, đứng dậy. Ông nói rằng sau đây ông sẽ đề nghị nâng li chúc mừng. (…) Và bây giờ, Pilkington đề nghị mọi người cùng đứng dậy, đổ đầy bia vào li. ʺThưa các ngài!ʺ, Pilkington kết thúc bài diễn văn như vậy, ʺThưa các ngài, xin các ngài cùng nâng cốc chúc Trại Súc Vật ngày càng thịnh vượng.ʺ Tiếng vỗ tay, tiếng dậm chân ầm ầm. Napoleon khoái bài diễn văn đến nỗi đến chạm cốc với Pilkington rồi mới uống. Khi tiếng vỗ tay đã dịu xuống, thì Napoleon, lúc đó vẫn đứng, tuyên bố rằng nó cũng xin được phát biểu vài câu. Napoleon bao giờ cũng nói ngắn và đi ngay vào thực chất vấn đề. Napoleon bảo rằng nó cũng rất mừng là đã thanh toán hết mọi hiểu lầm. Trước đây từng có những tin đồn, chắc chắn là do những thế lực thù địch tuyên truyền, rằng dường như nó và các cộng sự đang theo đuổi những ý tưởng phá hoại, nếu không nói là có tính cách mạng. Người ta vu cho chúng ý định kích động súc vật trong các trại khác đứng lên khởi nghĩa. Vu khống, bịa đặt từ đầu tới cuối! Ước muốn duy nhất của chúng, hiện nay cũng như trong quá khứ, là được sống trong hoà bình và có quan hệ làm ăn bình thường với những người láng giềng. Trại mà nó được vinh dự lãnh đạo, Napoleon nói thêm, là một loại hợp tác xã. Tất cả những thứ nằm dưới sự quản lí của nó là tài sản chung của cả loài lợn trong trại. Napoleon nói, nó tin là mọi nghi ngờ đã được giải toả và những thay đổi gần đây càng làm tăng thêm sự tin cậy lẫn nhau hơn nữa. Cho đến nay các con vật trong trang trại có một thói quen không hay là gọi nhau bằng ʺĐồng chíʺ. Thói quen này sẽ bị bãi bỏ. Còn một thói quen nữa, không biết bắt đầu từ khi nào, ấy là việc sáng nào cũng đi thành hàng ngũ trong sân, xung quanh một cái sọ heo cắm trên cọc. Thói quen này cũng bị bãi bỏ và cái đầu heo đã được đem chôn rồi. Các vị khách chắc đã có dịp trông thấy lá cờ xanh tung bay. Nếu quả họ đã trông thấy thì chắc chắn là họ phải nhận ra rằng biểu tượng sừng và móng màu trắng cũng đã bị xóa bỏ rồi. Từ nay trở đi lá cờ sẽ chỉ có một màu xanh tinh khiết mà thôi. Nó nói rằng nó xin phép được sửa lại chút xíu bài diễn văn vô cùng súc tích và đầy thiện ý của ngài Pilkington. Trong suốt bài diễn văn ngài Pilkington đã gọi trại này là Trại Súc Vật. Ngài Pilkington dĩ nhiên không thể biết, vì hôm nay, đây là lần đầu tiên Napoleon tuyên bố hủy bỏ tên Trại Súc Vật. Từ nay trở đi trại sẽ lấy tên là Điền Trang, cần phải gọi như thế vì từ nguyên uỷ trại này vốn vẫn mang tên như thế.
      ʺThưa các ngài!ʺ, Napoleon kết luận, ʺTôi đề nghị các ngài nâng cốc chúc mừng, nhưng với một chút xíu sửa đổi. Xin các ngài rót đầy cốc đi đã. Xin các ngài nâng cốc chúc Điền Trang ngày càng thịnh vượng!ʺ. Tiếng vỗ tay vang lên, mọi người cạn cốc. Nhưng những con vật đang đứng bên ngoài thì thấy như đang xảy ra một chuyện kì lạ. Tại sao mặt những con heo lại thành như thế kia nhỉ? Đôi mắt đục mờ của Bà Mập hết nhìn con này lại nhìn sang con khác. Con thì cằm có đến năm ngấn, con lại có bốn, con thì có ba. Tại sao mọi thứ lại trở nên mờ ảo và thay đổi nhanh thế nhỉ? Tiếng vỗ tay chấm dứt, bàn tiệc quay lại với ván bài bỏ dở, những con đứng xem bên ngoài lục tục bò trở ra. Nhưng chúng vừa bò cách khoảng hai mươi mét thì tất cả cùng dừng lại. Có tiếng hò hét ầm ĩ vọng ra từ toà nhà. Chúng lập tức quay lại và tiếp tục nhìn qua cửa sổ. Cuộc tranh cãi đang hồi quyết liệt. Có tiếng hét, tiếng đập bàn, tiếng tranh luận và những ánh mắt nghi kị. Nguyên nhân cuộc tranh cãi có lẽ là do Napoleon và Pilkington đưa ra con đầm pích cùng một lúc. Mười hai cái miệng tức giận cùng lên tiếng, có trời mới phân biệt được ai với ai. Bọn súc vật không còn để ý đến mặt mấy con lợn bên trong nữa. Chúng nhìn lợn rồi lại nhìn người, nhìn người rồi lại nhìn lợn, một lúc sau thì chúng chịu, không thể phân biệt được đâu là người, đâu là lợn nữa.”[7]
      Không giống như nước bạn Cuba, nhà nước Cộng Sản Việt Nam đã làm “cách mạng” bằng con đường “phản cách mạng”: xuôi tay cho “mệ” tư bản nuốt! Và tự hào y như thể họ đã làm cuộc cách mạng vô sản thành công.
      Thái Bá Tân đặt một câu hỏi vô cùng chí lý:
      Để có được cộng sản
      Trên đất nước Việt Nam,
      Hai triệu người phải chết,
      Chiến tranh hàng chục năm.
      Nay họ học tư bản
      Để làm giàu, lạ thay.
      Vậy vì sao phải chết
      Hai triệu con người này? [8]
      Nhưng đó không phải là điều người cộng sản quan tâm. Cộng sản là cộng sản, vốn là thể, đã là thế và sẽ như thế. Có lẽ khái niệm chính xác nhất để diễn tả cái cơ chế lạ lùng đó là hình ảnh của một “khối đặc” mà Lê Đình Nhất Lang gọi là “Bọn tao” (4/2011). [9]]
      Bọn tao là một khối đặc
      Bọn tao già đi nhưng không lệ thuộc vào một niên đại
      Bọn tao không chấp nhận sự thông suốt
      Bởi sự thông suốt đe dọa tính đặc của bọn tao
      Bọn tao ngăn cản mọi sự túa ra
      Bọn tao bưng bít
      Bởi sự túa ra làm cho bọn tao hở
      Bọn tao chống mọi lực đẩy
      Bọn tao trì kéo
      Bọn tao kết chùm
      Bọn tao vinh danh quán tính và thần thoại quá trình quánh
      Bọn tao hút hết mọi điều hiển nhiên vào chất ruột đen kịt
      Từ lớp bụi mỏng phập phù của chứng cứ
      Cho tới những hạt sạn gân gổ của phản biện
      Trộn chúng vào làm ruột bọn tao đen thêm
      Bọn tao xử thế bằng cách lăn tròn
      Đó là truyền thống của bọn tao
      Lăn tròn làm tất cả nhỏ đi
      Nhưng tất cả sẽ không phát hiện ra sự nhỏ đi
      Cho nên làm gì có sự nhỏ đi
      “Bọn tao” diễn tả được tất cả tính chất then chốt của khối đặc “cộng sản”: không chấp nhận sự thông suốt, bưng bít, chống mọi lực đẩy, vinh danh quán tính, lăn tròn…Để đối phó với sự thay đổi tất yếu sẽ phải xảy ra, khối “bọn tao” ấy nghĩ đến một giải pháp rất…cộng sản: phơi khô thành một xác ướp.
      Bọn tao biết trước sau rồi cũng bị toát hơi
      Hoặc nhão ra dưới sức vặn khổng lồ của những viễn kiến nhân loại
      Bọn tao nghĩ tới chuyện phơi khô
      Để dành và không bao giờ rữa
      Không bao giờ được rữa
      Trần Doãn Nho

      Comment


      • #4
        Trần Doãn Nho: Nỗi Huế (P.4)


        Chùa Thiên Mụ, Huế
        8. Nhân vật
        • Một trong những người không chứng kiến cảnh Huế “hoàn toàn được giải phóng” là Ngô Kha.
        Ngô Kha là thầy dạy Việt Văn năm Đệ Thất (lớp 6) của tôi tại trường Hàm Nghi. Quan hệ thầy trò này, về sau, trở thành quan hệ thân hữu. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn luôn kính trọng ông trong tình thầy trò. Chúng tôi gặp nhau luôn, thường là ở các quán cà phê, thỉnh thoảng ở nhà người bạn tôi, cũng có lúc tại nhà ông ở đường Bạch Đằng. Giọng ông sang sảng, đã nói là nói say sưa, khi lên lúc xuống đầy nhiệt tình, không những khi giảng bài hay khi rượu đã ngà ngà, mà cả những trong những lúc uống cà phê với bạn bè và học trò. Ông lập gia đình với em ruột Trịnh Công Sơn, Trịnh Vĩnh Thụy, nhưng chỉ sau một thời gian chung sống, hai người chia tay, vì một lý do tế nhị nào đó, chẳng bao giờ nghe ông nói ra. Sự tan vỡ này chắc để lại cho ông nhiều nỗi đau, nên thỉnh thoảng, ông có những biểu hiện bất thường: đột ngột cầm cả ly rượu đập xuống bàn vỡ nát hay đứng lên lớn tiếng nói huyên thuyên một điều gì đó, y như đang diễn thuyết…
        Lúc đầu, khi được biệt phái về dạy học lại, dù có xu hướng “tả khuynh”, nhưng quan điểm ông nói chung, khá ôn hòa. Càng về sau, ông càng cực đoan, nhất là khi ông trực tiếp tham gia vào phong trào tranh đấu Phật Giáo (vụ “Biến động miền Trung”) năm 1966. Dẫu vậy, tôi cho rằng “típ” nghệ sĩ như ông không phải là cộng sản, nên vẫn không ngại gặp gỡ ông, bàn cãi đủ thứ chuyện trên đời. Hơn nữa, tôi vốn thích thơ ông. Trong không khí văn chương thời bấy giờ, so với nhiều tác giả khác, thơ ông mới mẻ về nhiều mặt: tinh tế và mới lạ trong ngôn ngữ, phong phú và ẩn mật trong hình ảnh, đa dạng và sáng tạo trong cấu trúc, trừu tượng nhưng không bí hiểm, lại chan chứa nỗi lòng. Thơ Ngô Kha có chất trí thức của Thanh Tâm Tuyền, mang không khí siêu hình của Tô Thùy Yên và nét quyến rũ của Nguyên Sa. Có điều khá lạ là, thơ ông không mấy khi xuất hiện trên các báo văn học nổi tiếng ở Sài Gòn (Văn, Bách Khoa, Vấn Đề, Khởi Hành, Văn Học, Nghệ Thuật…) như hầu hết những nhà thơ, nhà văn tên tuổi thời đó. Ông xem thường các tạp chí văn học, không muốn gửi đăng, hay các tạp chí đó “dị ứng” với ông và thơ ông, tôi không rõ. Sau này, nhà văn Trần Hoài Thư tìm ra một bài thơ của Ngô Kha đi trên báo Mai, một trong những tờ báo văn học nổi tiếng ở Sài Gòn do Hoàng Minh Tuynh sáng lập, nơi khởi nghiệp văn chương của những tên tuổi nổi đình nổi đám sau này của văn học miền Nam: Phạm Công Thiện, Bửu Ý, Du Tử Lê, Nguyễn Đức Sơn…Theo Trần Hoài Thư, “Qua những bài thơ chúng tôi sưu tầm được từ thư viện đại học Cornell, chúng tôi nhận thấy thơ ông thay đổi theo hai giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn 1: Thời quân Mỹ chưa có mặt tại miền Nam. Ngô Kha bị động viên khóa 16 Trừ bị Thủ Đức, nhập học tháng 6 năm 1963 và ra trường vào năm 1964 lúc chiến tranh bắt đầu sôi động. Và Ngô Kha đã làm bài thơ “Mặt Trời Mọc” để tặng các bạn sinh viên đồng khóa. Bài thơ này được đăng trên tạp chí Mai, số 40 xuất bản vào năm 1964. Giai đoạn hai: Thời kỳ quân đội Mỹ có mặt. Giai đoạn này, thơ ông hầu hết xuất hiện rất nhiều trên Trình Bày, Đất Nước. Nội dung viết về một xã hội tan rã về mọi mặt, bởi sự có mặt của quân đội đồng minh.” [1]
        Đây là một trích đoạn từ bài thơ “Mặt trời mọc”:
        Cho tôi ở lại bộ binh để làm nữ hoàng của chiến trận
        buổi mai thức dậy thấy ánh nắng vô tư diễn hành trên các đọt cây
        doanh trại đẹp như những vần thơ
        Tôi nhớ đến rượu hoàng hoa
        mà tủi thương người lính thú
        cho tôi làm người lính gác giặc
        những chiều đóng quân nghe âm thanh cao vút của rừng thông
        lặng chờ tiếng gọi âm thầm tự trong lòng đất huyền bí
        hỡi những người lính Tàu, lính Nhật, lính Mỹ, lính Pháp
        những người Cộng Sản
        cát bụi công bình mà thương cho số phận tất cả
        bởi ai đã chối bỏ chìa khóa mở cửa chốn địa đàng này
        nên bây giờ có những lũ người đi vào bằng bạo lực
        Bị chính quyền bắt mấy lần, nhưng khi được tha về, tiếp tục đi dạy, tính ông vẫn thế, cực đoan, sôi nổi. Gặp nhau là ông say sưa nói, đôi khi chẳng cần biết người nghe là ai và chẳng húy kỵ điều gì. Tôi cho rằng chính tính tình, chứ không phải lập trường của ông, hại ông. Ngay sau ngày Hiệp Định Paris ký kết đầu năm 1973, gặp ông tại quán cà phê Tôn, giữa đám bạn bè đủ loại, ông hào hứng nói chuyện hòa bình và rồi, sang sảng đọc “Trường ca hòa bình”. Tôi nói nhỏ với ông, “Nói nhiều không tốt, anh nên cẩn thận giữ mình.” Ngô Kha cười ha hả, bảo “Ông đúng là vẩn vơ, hòa bình rồi, làm gì có chuyện bắt bớ tù đày mà sợ.” Có lẽ ông thành thật tin như vậy. Nhưng chỉ ít ngày sau đó, ông bị bắt và không bao giờ về nữa. Con người Ngô Kha là như thế, bộc trực, đôi khi có phần “ngây thơ”, lại có máu lãnh tụ, không chịu ép mình vào trong bất cứ tổ chức nào. Trích đoạn sau đây trong lá thư ông gửi cho Chu Sơn (do Chu Sơn ghi lại theo trí nhớ) cho thấy thái độ lấp lửng của ông trước thời cuộc:
        “Từ lâu vị trí chiến đấu của moi là trường học là đô thị, và mãi cho đến khi kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh, thì vị trí đó cũng không thay đổi. Rất nhiều lúc moi hoang mang, lo sợ trước những đe doạ chết người từ chính quyền Việt Nam Cọng Hòa. Và đã có lúc moi đã nghĩ đến việc tạm lánh một nơi nào đó như vào Sàigòn chẳng hạn hay lên chiến khu như đề nghị của các toi. Nhưng vào Sàigòn hay lên chiến khu thì xem như rời bỏ vị trí của mình. Vị trí của moi như thế nào, các toi và chính quyền này hiểu rõ hơn cả moi. Vì hiểu rõ như thế nên cả hai phía đều có hai biện pháp ứng xử khác nhau. “ Phía các toi thì chỉ phối hợp, gợi ý từ xa, các mối ràng buộc không vượt quá quan hệ tình cảm, bạn bè. Và như thế xét trên nhiều mặt có lợi cho phong trào và thoải mái hơn cho cá nhân moi. Về phía chính quyền Việt Nam Cọng Hoà, họ thà đối diện với một Việt Cọng, dễ ứng xử và ít nguy hiểm hơn với một kẻ nội thù như moi.” [2]
        Tôi đồng ý với nhận xét của Chu Sơn: Ngô Kha là loại người “thất thường, lạ lẫm”, “một con người quá ư mẫn cảm…”
        Sau này, một số “đồng chí” nào đó của ông cố gắng vận động, một cách lúng túng, để chứng minh ông là người của “tổ chức”. Về điểm này, Hoàng Phủ Ngọc Tường ỡm ờ:
        Tôi hỏi nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người bạn thân thiết của Ngô Kha rằng, tại sao những ngày đó “tổ chức” không đưa Ngô Kha lên Xanh?”. Hoàng Phủ bảo tổ chức đã có liên lạc với Ngô Kha, nhưng Kha chưa kịp đi thì bị bắt. Cũng có thể nó chần chừ giữa lên rừng hay ở lại tranh đấu với bạn bè, trong lúc mật vụ địch theo dõi từng bước đi, nên không thoát được…” [3]
        Chu Sơn xác định rõ hơn:
        Trở lại vấn đề quan điểm và thái độ của Thành Ủy. Dù anh Ngô Kha không là người của tổ chức, nhưng vì lí do là “của quí”, và những tính toán khác, nên Thành uỷ có sự quan tâm đặc biệt. Thành uỷ chỉ đạo cho các đường dây mật báo theo dõi sát sao thái độ của địch đối với anh và chỉ thị cho các đầu mối trách nhiệm bảo vệ anh tích cực. Thông thường là gợi ý để anh giảm nhẹ cường độ tấn công đối phương, tránh các khiêu khích không cần thiết, hoặc nằm yên một thời gian làm như bỏ cuộc.” [4]
        Tuy thế, Ngô Kha vẫn được phong thánh: “liệt sĩ”. Nhà thơ-liệt sĩ Ngô Kha! Nghe như “cây đuốc sống” Lê Văn Tám hay “anh hùng” Võ Thị Sáu. Cả hai nhân vật này đều có người – thuộc bên thắng cuộc – đặt lại vấn đề: Lê Văn Tám [5] là nhân vật hư cấu; Võ Thị Sáu [6] thì bị bệnh tâm thần. Chu Sơn cho biết anh “không đồng tình” với việc này vì “anh Kha không muốn, không cần như thế.” Theo Chu Sơn, “việc phong liệt sĩ cho anh Kha là một nhượng bộ của Thành Ủy Huế, vì anh Kha là người ngoài, không phải là cơ sở cách mạng được Thành Ủy lãnh đạo.” [7]
        Đúng là chuyện cộng sản: sấp ngửa bàn tay!
        Nếu còn sống để chứng kiến những gì diễn ra sau tháng 4/1975, tôi đoán là không sớm thì muộn, Ngô Kha sẽ vỡ mộng, trở thành một kẻ bất đồng chính kiến, không chừng cũng chịu cùng một số phận như Trần Vàng Sao (Nguyễn Đính) [8]. Vả lại, loại người có máu lãnh tụ như Ngô Kha, chắc cộng sản cũng chả ưa, đưa vào tổ chức thêm phiền. Nội mấy chữ “ngụ ngôn”, “đãng trí” và “cô độc” trong tựa đề của hai tập thơ “Ngụ ngôn của người đãng trí” hay “Hoa cô độc” nghe đã…chẳng mấy lọt tai người cộng sản, phương chi là nội dung mơ hồ như thế này:
        vỏ cây nứt một loài hoa vô sắc
        tôi lạc vào miền vô vi
        bài diễn văn cuốn theo lớp lá khô
        người say rượu uống nhựa thông nằm chết tình cờ
        đêm sửa soạn bài ngụ ngôn của người đãng trí
        lá từ giã cành cây làm lễ đọc kinh
        người con gái lặng yên xem chúc thư
        bó hoa tôi mang đến dòng sông bây giờ đã héo”

        Mỗi một câu thơ trên, nếu xét dưới lăng kính của cái gọi là “văn học cách mạng”, đều có thể bị kết án là lai căng, nếu không muốn nói là …phản động. Đã không có – nói theo kiểu tuyên huấn cộng sản – tính giai cấp, tính dân tộc và tính đảng đã rồi, mà chữ nghĩa thì quanh co, ẩn dụ, mập mờ, đa nghĩa không khác gì “bọn” Nhân Văn Giai Phẩm trước đây.
        Vả lại, hình ảnh một đất nước hòa bình mà Ngô Kha vẽ nên, đẹp thì đẹp, nhưng mượt mà tiểu tư sản quá, chắc không hợp nhãn các quan văn nghệ cộng sản:
        … Ta mở cửa đón một bình minh lớn
        Trong đau thương
        cây cỏ biết tình người
        trong một ngày quảng đại
        như áo cũ nối tay
        một sớm hồng ta nghe lời em học
        trên đường làng
        chị gánh gồng buổi chợ
        mẹ vội vàng
        nghe nắng mới bửa cau

        (Trường ca hòa bình)
        Một thứ hòa bình chung chung, chẳng “nhân dân anh hùng” cũng chẳng “ơn Đảng ơn Bác” hay “Đảng quanh vinh”…Vả lại, hòa bình như thế không phải chỉ là mơ ước của chỉ những người “tả khuynh” Ngô Kha mà của mọi người miền Nam, được phản ảnh trong nhiều tác phẩm văn chương nghệ thuật miền Nam. Chẳng hạn, bằng một thứ ngôn ngữ bình thường, không cần trau chuốt, Nhật Ngân, một người lính Việt Nam Cộng Hòa, cũng đã từng nói lên nguyện vọng đó:
        Trả súng đạn này ôi sạch nợ sông núi rồi
        Anh trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ mới năm nao
        Vui cùng ruộng nương, cùng đàn trâu
        Với cây đa, khóm trúc, hàng cau
        Với con đê có chiếc cầu tre
        Đã bao năm vắng chân anh
        Nên trở thành hoang phế rong rêu
        (Giã từ vũ khí)
        Với người cộng sản, đánh cho “Mỹ cút ngụy nhào” rồi, chỉ là một chặng trong tiến trình “cách mạng”. Đánh xong “giặc ngoài”, cộng sản còn tiến hành những cuộc chiến khác, dữ dội và khắc nghiệt hơn nhiều: chống và bài trừ đủ thứ, nào là tư sản, phản động, nào là văn hóa đồi trụy, tàn dư Mỹ ngụy, vân vân và vân vân, chưa kể đến công tác chống “thù trong” (các đồng chí của mình), thì còn chỗ đâu cho khung cảnh “trong đau thương cây cỏ biết tình người” hay “vỏ cây nứt một loài hoa vô sắc/tôi lạc vào miền vô vi…” trong thơ Ngô Kha! [9]
        • Khác với Ngô Kha lúc nào cũng “khẩu khí” để chứng tỏ lập trường, Chu Sơn – một người bạn văn nghệ của tôi – là một cán bộ hoạt động nằm vùng có kiến thức chính trị và nghiệp vụ vững vàng. Chắc chắn anh đã được đào tạo hay nghiên cứu tài liệu một cách bài bản. Với Chu Sơn, hoàn thành công tác được tổ chức đảng giao là chính, không cần lên gân để “chúng tỏ” lập trường ở những nơi không cần phải “chứng tỏ”. Chính vì thế, dù bị bắt giam, lý lịch anh vẫn trong veo, nên được chính quyền VNCH trả về để tiếp tục…hoàn thành một cách êm thắm các công tác…mà đảng giao. Ra tù, Chu Sơn tiếp tục giao du với tôi bình thường, có lúc tới nhà tôi ngủ lại, thảo luận đủ mọi đề tài. Sau 1975, hình như Chu Sơn không đảm nhận một chức vụ gì của nhà nước. Khi tôi đi ở tù về, gia đình anh đã dọn vào ở Đà Nẳng, nơi bà xã anh, bác sĩ Nguyễn Thị Kim Thoa, làm việc ở Bệnh Viện Đa Khoa. Dẫu vậy, chúng tôi gặp nhau khá thường xuyên, khi thì ở Huế khi thì ở Đà Nẳng. Trong số những người nằm vùng “bất mãn” với đảng sau 1975, có lẽ Chu Sơn là người bày tỏ thái độ quyết liệt nhất. Hễ bạn bè tụ lại, anh không ngại lên tiếng chỉ trích những sai sót trong các chính sách của nhà nước, có lúc còn dám “đụng” đến cả ông Hồ, khiến có lúc, tôi đâm ra…ngại. Nhưng trước sau, Chu Sơn không phải là người bất đồng chính kiến. Đúng hơn, anh thất vọng. Như bị tình phụ. Sau biến cố Đông Âu, có lần Chu Sơn đến nhà tôi, nửa đùa nửa thật gợi ý rằng nếu có bầu cử tự do “ông [tức là tôi] nên ra ứng cử đại diện cho bên phe quốc gia, Tôn Thất Mạnh Lương nên ra đại điện cho phe Phật giáo.” Tôi lẳng lặng nghe Chu Sơn nói mà không phát biểu điều gì. Thành thật mà nói, tôi sợ. Sống dưới chế độ toàn trị cộng sản, nói như một nhà văn miền Bắc (có người cho là Nguyễn Tuân), “Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết sợ” [10]. Và không nên tin ai, kể cả người thân trong gia đình.
        Trong số nhiều bài viết của Chu Sơn đăng tải đây đó trên các trang mạng hải ngoại, bài thơ “Cuộc nói chuyện dài với đứa văn nô” có một giọng điệu đặc biệt. Qua hình ảnh của một nhân vật “đồng chí” nào đó, bạn của anh, bài thơ chỉ trích thậm tệ đám quan lại hiện nay, những kẻ hiến thân cho lý tưởng ngày nào đã bị bộ máy quyền lực làm hư hỏng, biến thành tham quan ô lại.
        Bài thơ xây dựng hai chân dung khác nhau của một cán bộ “cách mạng”, trước và sau 1975.
        Chân dung 1:
        ngày xưa
        trên những nẻo đường hy vọng
        (…) mi như con khỉ gầy
        áo quần đạm bạc
        sờn ống
        rách vai
        da nhăn
        bụng lép
        cơm trăm họ
        bữa đói
        bữa no
        nhà bốn phương
        ngủ hay chăng chớ
        (…) người mi thấp, mà
        dáng mi cao
        ngực mi lép, sao
        giọng mi sang sảng
        giữa ngàn vạn
        thanh xuân
        mi góp sáng một thời đen
        trong giá lạnh
        (…) vận động tuyên truyền
        bàn mưu tính kế
        thôi thúc đấu tranh
        Chân dung 2:
        Sáng nay
        ta gặp
        mi
        tại một nơi nào đó
        (…)
        mặt mi tròn
        da mi bóng
        bụng mi phệ
        áo
        quần
        giày

        mi bảnh bao
        mi hí hửng
        mi thỏa thuê
        mi khoác lác
        đầu mi nghếch
        mắt mi nheo nheo
        nhìn nhìn
        ngắm ngắm
        nhà cao cửa lớn
        trại ấp thênh thang
        xe cộ dập dìu
        quyền lực vô biên
        bạc tiền như nước
        mắt mở
        sao mi không thấy
        nỗi nhục nhằn
        khổ hận
        oán thù
        cao như núi
        dài như sông
        sâu như biển
        nén như bom
        mìn
        nổ chậm. [11]

        Bài thơ vừa ca ngợi (người hoạt động nằm vùng), lại vừa chê trách (kẻ làm quan).
        Chu Sơn phẫn nộ! Y như thể người cộng sản đáng lẽ ra thì phải khác. Thực ra, hình ảnh tréo ngoe như thế này vốn xưa như trái đất, có đầy dẫy trong lịch sử nhân loại, chẳng phải chỉ cho riêng thời đại nào. “Quyền” khó tách khỏi “Lợi”. Sau mấy chục năm cộng sản cầm quyền, hiện tượng này không cá biệt, mà trở thành hệ thống, tràn lan trong các cơ quan đảng và nhà nước như dịch bệnh. Cũng là quy luật thôi. Một mình một chợ tự tung tự tác hàng nhiều chục năm mà không lạm quyền và tham nhũng mới là chuyện…lạ! Lỗi lầm của ai? Có vẻ như Chu Sơn chỉ muốn quy trách nhiệm cho cá nhân hơn là cho đảng và cho chủ thuyết.
        • Một trong những người bạn “đối thủ” mà tôi chơi khá thân, sau 1975, là Bửu Chỉ.
        Như mọi người đều biết, Bửu Chỉ là khuôn mặt nóng bỏng trong “phong trào đô thị” Huế trước 1975. Biết nhau nhưng không thân, lại khác quan điểm, Chỉ và tôi đã có lần cự nhau nẩy lửa ở quán cà phê Tôn. Những bức tranh vẽ bằng bút sắt của anh diễn tả cảnh lao tù, gông cùm, xiềng xích hay mặt trời đỏ rực, chói sáng rất bắt mắt, gây ấn tượng mạnh mẽ về mặt tâm lý, có tác dụng như một liều thuốc kích thích, thúc đẩy giới trẻ tham gia các cuộc đấu tranh. Để hạ nhiệt phong trào, chính quyền VNCH buộc phải bắt nhốt anh ở nhà tù Côn Đảo. Trong tù, anh không chịu ngồi yên, vẫn tiếp tục vẽ những bức tranh khác, gửi ra ngoài, kêu gọi đấu tranh. Không lạ gì, Chỉ nổi tiếng như cồn, cả trong lẫn ngoài nước.
        Vài ngày sau biến cố 30/4/1975, tôi tình cờ gặp Bửu Chỉ ở chợ Trương Minh Giảng, Sài Gòn. Chỉ mới được trả về từ Côn Đảo, vẫn còn mặc bộ áo quần tù. Trong khung cảnh trớ trêu của một gặp gỡ giữa kẻ thua/người thắng, hai chúng tôi chẳng biết nói gì, chỉ bắt tay chào nhau rồi ai đi đường nấy. Khoảng tám năm sau, tôi gặp lại Chỉ ở Huế. Lúc này, trông Chỉ khác hẳn, trông bộ chẳng còn mấy mặn mà với chế độ. Thoát khỏi những hệ lụy cũ, chúng tôi trở nên thân nhau và cùng chia sẻ những ưu tư hoàn toàn mới. Chỉ bảo “tau bây giờ đã thoát khỏi những ràng buộc của lý tưởng”, trở thành người “tự do”. Đúng là Chỉ tự do, kể cả “tự do” dính líu vào một cuộc phiêu lưu tình cảm “không giống ai”, mà cái lạ là, bạn bè và “đồng chí” của Chỉ dường như chẳng ai buồn trách móc, nếu không muốn nói là âm thầm tán thành. Cặp tình nhân này đã từng vài lần rủ tôi đạp xe đạp tới một quán cóc làng quê vắng vẻ vùng Thủy Dương, cùng uống rượu đế và hát nhạc sến để “quên đời”.
        Giai đoạn đó (khoảng 1985 – 1992), ngôi nhà của Trần Vàng Sao ở Vỹ Dạ bỗng trở thành nơi tụ tập của đám văn nghệ chúng tôi, cả “ngụy” lẫn “cách mạng”. Đến đó, người ít kẻ nhiều, “đậu” tiền mua rượu đế, nhậu. Đôi lúc, cả đám ngồi từ sáng đến chiều, khật khà khật khưởng nói chuyện tào lao không biết mệt. Dù không hề đề cập đến chuyện chính trị, nhưng dường như ai cũng cảm thấy một nỗi buồn sâu lắng về tình hình đất nước, nhất là khi ở Trung Quốc diễn ra cuộc đàn áp Thiên An Môn và sự sụp đổ của các nước Đông Âu. Chỉ và tôi thường gặp nhau ở đó, có khi hàng ngày. Năm 1988, sau chuyến đi Pháp trở về, Chỉ khoe tôi một số tranh vẽ mà anh mang đi triển lãm ở Paris. Khác hẳn với loại tranh bút sắt hừng hực không khí đấu tranh, loại tranh mới này mô tả thân phận mỏng manh của con người giữa chốn trần gian. Thích thú với nội dung mang tính cách triết lý này, tôi có viết một vài cảm nghĩ cá nhân, gửi riêng Chỉ làm kỷ niệm. Không ngờ, Chỉ gửi đọc trên Đài Phát Thanh Huế, rồi về sau, cho in trong tạp chí Nghiên Cứu Huế (tập 2). [12] Trong bài viết, tôi nhấn mạnh đến hình tượng mặt trời trong tranh Chỉ: trước 1975, mặt trời của anh to, chói sáng rực rỡ, nhưng càng về sau nó cứ nhỏ dần, nhỏ dần cuối cùng chỉ còn như trái lê, mặt trăng, bầu vú. Có lẽ hiểu cách nói “hai nghĩa” của tôi, Chu Sơn cho rằng “Có lẽ có một phần cảm tính trong lời nhận xét thơ mộng ẩn chứa mùi vị đắng cay này.” [13] Chắc không sai, nhưng đâu chỉ một mình tôi đắng cay, ông bạn Chu Sơn!
        Nguyễn Tuyết Lộc, một người bạn (gái) rất thân của Bửu Chỉ, trong một hồi ức, đã ghi lại thái độ của Bửu Chỉ sau năm 1975:
        Nhìn Chỉ đang ăn hột vịt lộn ngon lành, tôi hỏi:
        – Nghe nói khi ra tù năm 75, Chỉ làm ở Hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên phải không? Vậy là oai phong lắm rồi. Khối người chỉ mong có được cái ID card xã hội chủ nghĩa để trồi lên “làm người”!
        Tưởng cậu ta vui mừng kể lể, ai ngờ Chỉ bỏ ngay hột vịt lộn đang ăn dở chừng xuống bàn, buông một câu nặng nề bất ngờ:
        – Đụ mạ, oai phong chi mà oai phong! – chợt nhớ gì đó Chỉ luống cuống nói – Xin lỗi Tuyết Lộc, Chỉ quen miệng… thiệt tình mà nói, khi rời nhà tù, khấp khởi trở về quê nhà mong cùng anh em cũ mới làm được chuyện gì ý nghĩa, ai ngờ cũng từ cảnh tù nhỏ ra cảnh tù lớn hơn thôi, Tuyết Lộc ơi. Số tạp chí Văn Nghệ Bình Trị Thiên đầu tiên ra mắt năm 1976, Chỉ vẽ cái nhà máy không có khói, liền bị bọn hươu nai đó đem ra mổ xẻ một cách thô bạo, cho rằng Chỉ ám chỉ nhà máy xã hội chủ nghĩa không hoạt động nên mới không có khói. Cũng vì cái khói này mà chúng moi móc, chì chiết kể tội Chỉ, làm như hù dọa được thằng Bửu Chỉ ni. Nhưng chúng nó nhầm…
        Ngưng một ít lấy hơi, Chỉ tiếp:
        • Toàn một lũ ngu! Nghệ thuật sáng tạo phải tự do chứ, sáng tạo là phải có sự trung thực và dũng cảm ở người nghệ sĩ. Có một trăm cách sáng tạo, một ngàn lối tượng trưng, biểu tượng. Ai đời có thằng ví nhà máy Chỉ vẽ với lô cốt của thực dân Pháp. Thằng khác bảo xe lửa đi trên mấy khúc đường ray gãy khúc kiểu ni thì có mà tai nạn, lật tàu! Toàn một đám thần kinh có vấn đề…” [14]
        Có lần, Chỉ sáng tác một bức tranh đơn giản, trong đó vẽ “một bàn tay nối liền với một bàn chân” đi trên tờ Sông Hương, gọi là tranh “đố vui”, yêu cầu độc giả đặt tựa đề cho bức tranh, ai có tựa đề hay, sẽ được thưởng. Bức tranh lạ này gây tai tiếng, [15] vì có người cho là nó ám chỉ một quan chức cao cấp địa phương. Đó là một cách giải thích. Thực ra, theo tôi, đây chỉ là một bức tranh bình thường, có vẻ tếu, vui, nhưng trong một xã hội mà nhà nước săm soi từng chữ hay từng nét trong các sáng tác nghệ thuật để tìm ra ý đồ của tác giả, nhìn bức tranh này, tự nhiên người ta có cảm giác nó mang tính ẩn dụ, đa nghĩa: hoặc là “độc” = chỉ có một: độc tôn, độc đảng, độc quyền, độc tài; hoặc là “tay chân”: tay sai, nịnh bợ…Tôi nói với Chỉ ý nghĩ đó, Chỉ cười bảo, “tuỳ mi, mi ưng nghĩ sao thì nghĩ…”

        Trong chỗ bạn bè, Chỉ còn vẽ nhiều tranh khác nữa, như “Cái lưỡi độc” hay “Cáo”. Tranh “Cáo” [16] là một bộ gồm 10 tấm vẽ bằng bút sắt mà Chỉ gọi là “Bạch Thư về bọn cáo quỷ quyệt”, mô tả đủ loại cáo: cáo làm vua, cáo hiếp dâm, cáo mang mặt nạ…Trước ngày tôi xuất cảnh, Chỉ mời tôi ghé nhà. Hai đứa ngồi trên chiếc hồ sen nhỏ sau vườn nhà, vừa nhậu vừa nói chuyện nước non suốt đến khuya. Trước khi ra về, Chỉ trao cho tôi một gói nhỏ, bọc ny lông cẩn thận, bảo ông cố gắng mang ra phổ biến ở nước ngoài. Đó là bản chụp vi phim những tấm tranh vẽ “Cáo” vốn được Chỉ chia xẻ với một số ít bạn thân. Thực tình, tranh chẳng chứa đựng một nét ẩn dụ sâu sắc nào. Tuy nhiên, người miền Nam, khi nhìn con cáo (chồn) là nghĩ ngay đến cán bộ cộng sản, vì chính quyền VNCH, trong các tranh vẽ tuyên truyền, vốn ví von cái tinh ranh xảo quyệt của người cộng sản với con cáo. Khi qua Mỹ, vào năm 1994, tôi đã viết bài giới thiệu bộ tranh này gửi cho Khánh Trường, lúc đó đang là chủ bút tờ “Hợp Lưu”, kèm theo bộ ảnh của Chỉ, nhờ Khánh Trường sang ra rồi công bố trên Hợp Lưu. Khánh Trường ngần ngừ không chịu đăng, vì sợ chính quyền trong nước làm khó dễ với Bửu Chỉ. Rốt cuộc, dù biết là phụ lòng Bửu Chỉ, tôi đành rút bài lui.
        Chu Sơn đã từng đề cập đến loại tranh này:
        Thời đoạn sau 1975: khối lượng tranh bút sắt mực tàu trên giấy của Bửu Chỉ không nhiều và không được phổ biến rộng rãi như thời đoạn trước 1975. Lác đác xuất hiện trên tạp chí Sông Hương nhưng tức khắc bị “cáp duồng,” sau đó chủ yếu lưu hành trong bạn bè đồng thanh tương khí – những người không nhiều thì ít có dính líu đến phong trào trước 1975 và có trăn trở trước bối cảnh mới. Bửu Chỉ ngỡ ngàng trước cuộc giải phóng và không khí cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa. Biết bao nhiêu câu hỏi làm rối lòng anh: Giải phóng thế này ư? Hoà Bình thế này ư? Cách Mạng thế này ư? Lý tưởng cộng sản thế này ư? Độc lập thế này ư? Thống nhất thế này ư? Tất cả mọi giá trị đều bị đảo ngược trước sự xác quyết lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của đảng Cộng sản. Tâm thức Bửu Chỉ chuyển động từ ngỡ ngàng, choáng váng qua phẫn nộ, giằng xé, ray rứt, khổ đau, thất vọng, và cuối cùng là khắc khoải siêu hình. Mười bức tranh “Cáo” là một khái quát (tuy chưa đầy đủ) hiện thực đời sống Việt Nam sau 1975: “Cáo làm vua,” “Cáo mang mặt nạ,”… “Cáo hiếp…,” và cuối cùng là “Cáo ị.” Cả đất nước, cả dân tộc bị lừa phỉnh, bị khinh miệt, bị phản bội và bị áp bức đày đoạ. Trước mắt Bửu Chỉ hiện thực cuộc sống là như thế.” [17]
        Mời xem lại một số bức trong bộ tranh “Cáo”:











        • Một trong những bi kịch “đặc sắc” của người thoát ly theo cộng sản là Nguyễn Đính.
        Tôi và Đính quen nhau năm 1964, vào cái thời mà ở Huế – lúc đó đang hưởng một không khí khá tự do của thời hậu-đảo chánh 1/11/1963 -, ai cũng có thể quen với ai và ai cũng có thể là bạn của ai. Đó là thời mà trong giảng đường Đại Học Văn Khoa, thầy Trần Văn Toàn giảng dạy “Hành trình vào triết học” và “Tìm hiểu Triết học Karl Marx” còn ở bên ngoài, người ta biểu tình tranh đấu và trong các quán cà phê, sinh viên học sinh bàn tán, thảo luận về triết lý hiện sinh và tư tưởng Karl Marx. Tuy khác quan điểm, nhưng Đính và tôi chơi thân nhau. Còn nhớ, Đính đã từng cho tôi mượn tập sách nhỏ bằng tiếng Pháp “Manifeste du Parti Communiste” vàng ố, nói tau biết mi không ưa gì cộng sản nhưng “đọc cho biết”, nhớ cẩn thận kẻo bị cảnh sát bắt thì phiền. Một lần, đâu khoảng giữa năm 1965, tôi cùng vài đứa bạn cao hứng, hùn tiền nhau rủ Đính đi chơi, nhậu nhẹt cả đêm. Sau đó, Đính biến mất. Té ra Đính âm thầm vọt “lên xanh” và ra Bắc. Mãi đến 1981, ở tù về, tôi mới gặp lại anh. Đính nói, tau chừ còn phản động hơn mi nữa nếu mi không sợ đi ở tù lại thì cứ đến chơi với tau.
        Đính trở thành phản động như thế nào? Mọi chuyện xuất phát từ những trang nhật ký ghi lại những suy nghĩ của anh về cuộc chiến tranh chống Mỹ của đảng Cộng Sản, khi anh thoát ly lên rừng. Đây là một trích đoạn từ hồi ký “Tôi bị bắt” của anh, ghi lại cuộc thẩm vấn đầu tiên vào đầu năm 1972 tại Viện điều dưỡng K65 ở Thị xã Sơn Tây, nơi anh nằm tĩnh dưỡng sau một cơn bệnh.
        Đó là bức ảnh chụp một trang nhật ký của tôi, khổ bằng tờ giấy kẻ ngang. Đến lúc này tôi mới biết là toàn bộ nhật ký của tôi đã bị chụp ảnh trong thời gian tôi về bệnh viện E2 để kiểm tra sức khỏe, và bây giờ tôi mới biết việc tôi đi E2 kiểm tra sức khỏe là một sự xếp đặt của Ban Thống nhất Trung ương, Cục đón tiếp cán bộ B và Cục 78.
        Ông Lai nói:
        “Anh hết chối chưa?’’
        Mọi người ở đây đều đã biết trước sự việc sẽ diễn tiến ra sao rồi. Tối hôm qua họ đã họp với nhau bàn kế hoạch.
        “Tại sao anh lại đòi bắn, đòi treo cổ? Bắn ai, treo cổ ai? Nói đi!”
        Tôi nói:
        “Tôi đòi bắn tất cả những kẻ nào, người nào đã ăn đường, sữa, tã lót của trẻ con, ăn hòm, vải liệm của người chết, những kẻ đã đẩy con dân vào chiến trường còn con cháu họ thì qua Liên Xô, Bulgari, Hungari…”
        “Anh đòi bắn cả Trung ương Đảng kia mà.”
        “Nếu trong Trung ương Đảng, trong Chính phủ có người nào đã ăn như thế, theo tôi, đều đem bắn được hết.”
        (…)
        Giọng ông ta mỗi lúc một to, mỗi lúc mỗi gấp.
        “Anh là một tên gian dối. Anh khai lý lịch không thật. Anh bảo anh thuộc tầng lớp dân nghèo thành thị. Anh tưởng anh qua mặt được tổ chức à? Dân nghèo thành thị dưới chế độ Mỹ Ngụy mà học hành được như anh à, mà lại lên được đại học như anh à? Không phải là tư sản thì gia đình anh cũng thuộc tầng lớp tay sai Mỹ Ngụy. Đúng là Mỹ Ngụy đã đào tạo anh không uổng. Anh chui rúc vào tổ chức cách mạng cũng khá sâu, anh Đính.”
        Ông ta dừng lại. Một vài người trong đám người này gật gật đầu tán thưởng ý kiến của ông ta. Một vài người ghé đầu vào nhau to nhỏ. Ông ta nói tiếp vừa nói vừa nhìn xuống cuốn sổ:
        “Theo tôi, tất cả những tư tưởng phản động của anh trong nhật ký, trong thơ không phải chỉ là lẻ tẻ, ngây thơ, không phải là do nhận thức bị hạn chế. Tất cả đều có hệ thống, đều nằm trong một hệ thống, từ văn chương đến triết học, chế độ xã hội chủ nghĩa, Quốc hội, chuyên chính vô sản, sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức quần chúng, hạn chế sinh đẻ, sinh hoạt xã hội, chiến tranh, các đồng chí lãnh tụ, thậm chí cái áo, cái quần, lon sữa miếng đường, rác rưởi đều có trong nhật ký của anh, đều bị anh xuyên tạc, nói xấu. Anh xem cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta hiện nay là máu, là chết chóc. Anh không phân biệt được chiến tranh chính nghĩa với chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc. Anh lên án tất cả mọi cuộc chiến tranh, cho chiến tranh là ghê tởm.’’
        Cái ông dưới 40 tuổi lại chìa ra một bức ảnh:
        “Có phải như thế không?’’
        Đó là bức ảnh chụp một trang nhật ký của tôi, trong đó có đoạn tôi nói về chiến tranh. Tôi không nhớ nguyên văn, đại ý tôi cho rằng tất cả mọi cuộc chiến tranh đều là thảm họa, đều là máu và xác chết. Tôi ghê tởm và sợ chiến tranh. Hình như tôi có dẫn lời của một người nào đó nói về trận đánh ở Nam Lào: “Đó là một chiến thắng vĩ đại, nhưng hết sức đau lòng, vì có quá nhiều người chết mà đều là người Việt Nam”.
        “Vậy là anh đã không phân biệt địch và ta, tức là anh đứng về phía kẻ thù. Anh ghê tởm cuộc chiến tranh này, tức là anh chấp nhận cuộc chiến tranh xâm lược, anh cho đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai là chính nghĩa.’’ [18}
        Vậy là đã rõ: Nguyễn Đính phản chiến! Ở miền Nam thời đó, hai chữ “phản chiến” (anti-guerre) mà báo chí Tây phương quy cho Trịnh Công Sơn đã mang lại cho người nhạc sĩ này một “thương hiệu” cao giá, thì ở miền Bắc, Đính bị kết tội phản động. Cái tội tày trời này khiến một học sinh Huế bỏ học bỏ hành lên rừng theo tiếng gọi “giải phóng” đã trở thành một tù nhân không án, một đứa con ghẻ, bị phân biệt đối xử cho mãi đến cuối đời. Khi chưa lên “xanh”, Đính làm thơ yêu nước vơi những hình ảnh lãng đãng, bâng quơ nhưng sâu lắng:
        Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ
        Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu
        một vết bùn khô trên mặt đá
        không có ai chia tay
        cũng nhớ một tiếng còi tàu (Bài thơ của một người yêu nước mình)
        Khi cuộc đời anh bị đẩy đến chỗ phá cách, thơ anh cũng phá cách theo. Phá cách một cách tuyệt đối và toàn diện. Đính đẩy ngôn ngữ thi ca xuống sâu trong đời thường và vượt ngưỡng đời thường, đến chỗ tận cùng của nó. Là một kho khẩu ngữ, rặt khẩu ngữ, sần sùi, thô nhám.. Nó trông có vẻ phi thơ, phản thơ, phi văn, phản văn. Nó trần trụi, trực tiếp đến nỗi ta không tìm thấy cái gọi là thi-ảnh. Nó là sự, là vật, là chữ trong cái man dã, nguyên con của nó. Không ẩn dụ, không tu từ, không trau chuốt. Thơ Đính phơi trần một thứ hiện-thực-không-pha-chế, hiện thực đến nỗi bản thân nó tự biến thành ẩn dụ một cách vô cùng hồn nhiên. Nó trực tiếp xóa nhòa biên giới giữa chữ-nghĩa-như-ký-hiệu và hiện-thực-phi-ký-hiệu.
        Những là: thằng, tau, mi, hắn, vấy, ruồi bọ, muốn mửa, đứng bu, nhai, nuốt, nhả bả, ruồi bu, phân người, chổi cùn, con đĩ, cào rác, giẻ rách, cục cơm, miếng xương, ếch nhái, nón rách, bãi phân trâu, mua chịu, lông lá, moi óc, mả cha, ỉa vất, lỗ phên trống, đẻ dễ, đĩa thịt, cào cổ…Những là: da thịt tôi nổi ốc, mùi trú ngún trong bếp, đứng ngoài xúi giặc, đạp mẻ chai, đi đầu xuống đất, xanh xương mét máu, ngó lui ngó tới, trong đầu em có cục sạn, chui vào bụi, củ khoai cả hà, dép sút quai,…
        Thơ Đính, rốt cuộc, là âm bản của một sự thật, đó là:
        Cuộc cách mạng này kinh khủng thật. Không phải nó chỉ thay đổi tâm tính, thái độ, tư tưởng của từng con người mà thay đổi vị trí của từng đồ vật trong từng nhà, cái ghế, cái bàn, cái tủ, cái giường, tôn lợp trên mái nhà, lư hương trên bàn thờ… đều thay đổi chỗ, xếp đặt lại tất cả. Hôm qua cái bàn còn để đó, hôm nay không còn nữa, cái bàn đã đi qua nhà khác, đã ở ngoài chợ. Cuộc cách mạng này đã phá hết, phá tan hết những gì mà từng gia đình đã bòn mót bao nhiêu năm nay từ ông cha đến con cháu để nuôi sống mình, để tồn tại với đời. Và những người làm cách mạng đã thay thế những gì mà họ đã phá sạch bằng công an, bằng quyền lực trấn áp, bằng mệnh lệnh, khẩu hiệu, băng cờ.” [19]
        • Một trong những khuôn mặt trí thức Huế theo cộng sản gây tranh cãi nhiều nhất là Hoàng Phủ Ngọc Tường.
        Tuy chỉ được học với Hoàng Phủ Ngọc Tường một vài buổi vào năm Đệ Nhị (lớp 11) khi ông đến lớp trong tư cách một giáo sư thay thế, nhưng cung cách, dáng dấp cũng như kiến thức văn chương của ông làm tôi rất khâm phục. Vào những năm 1963, 1964, 1965, Huế sôi động với các phong trào tranh đấu, đám sinh viên chúng tôi vẫn thường gặp ông ở các quán cà phê, ở các giảng đường hay ở căn nhà tranh trong hẻm Âm Hồn, được gắn một cái tên không chính thức dựa theo “Thần Điêu đại hiệp” của Kim Dung, Tuyệt Tình Cốc. Biết tôi sẵn sàng tham gia những cuộc xuống đường chống độc tài nhưng không ưa gì cộng sản, nên mỗi khi có mặt tôi, ông thường giữ thái độ dè dặt, chỉ bàn những chuyện tranh đấu chung chung hay thảo luận về Kim Dung và triết học hiện sinh, là một đề tài thuộc loại thời thượng lúc bấy giờ trong giới sinh viên. Sau 1975, ông thường xuất hiện ở các sinh hoạt chính thức do nhà nước hay hội văn nghệ tổ chức, chứ ít khi đến những quán cà phê bình dân nơi các “đồng chí” của ông thường hay tụ họp để nói xiên nói xỏ nhà nước. Lại càng không hề héo lánh đến nhà Nguyễn Đính, tụ điểm uống rượu, đấu láo của một số anh em văn nghệ sĩ đủ loại. Ông sợ dính líu đến thứ “tai nạn” chữ nghĩa có thể làm ảnh hưởng đến (con đường) hoạn lộ mà ông theo đuổi. Trong lúc các đồng chí khác của ông, đã người ít kẻ nhiều, ngán ngẩm chế độ mới thì – xin dùng lại cách nói của ông khi diễn tả về minh – “cái thằng Tường tín đồ mù quáng của giáo hội”, “mình mang đầy máu hồng vệ binh từ trong rừng ra,” [20] vẫn còn hăng say bảo vệ cách mạng. Mãi cho đến khi bị tuyệt đường, ông mới trở lại với bạn bè. Và mãi đến khi đau ốm, ông mới “có vẻ” xuống giọng, công khai cải chính và xin lỗi về những sai lầm của mình khi phát biểu về cuộc thảm sát Mậu Thân tại Huế.
        Với tôi, kỷ niệm đáng nhớ nhất với Hoàng Phủ Ngọc Tường là lần gặp gỡ ông tại quán cà phê của Hoàng Đăng Nhuận, họa sĩ, tọa lạc bên bờ sông Hương – nằm đối diện với rạp chiếu bóng Hưng Đạo – vào một đêm cuối năm năm 1985. Hôm đó, ngoài ông Tường, Nhuận và tôi, còn có Phùng Quán, Bửu Ý (dịch giả), Viêm Tịnh (nhà thơ), tất cả gồm sáu người. Chúng tôi uống rượu, hết “xị” này đến “xị” khác, từ 10 giờ đêm đến tảng sáng. Còn nhớ, Hoàng Phủ Ngọc Tường mang theo cả một lít rượu gạo, loại xịn. Trong lúc Phùng Quán đọc thơ thì Hoàng Phủ Ngọc Tường và Bửu Ý cãi nhau dữ dội. Bửu Ý – vốn là người không mấy khi nặng lời với bạn bè – chỉ trích một gay gắt thái độ thân chính quyền của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tôi đã ghi lại cuộc nhậu này trong bài “Cuộc rượu bên sông” trên tạp chí Hợp Lưu. Một trích đoạn:
        “Ngọc và tôi rót rượu để Phùng Quán tiếp tục đọc thơ. Anh đọc hoài đọc mãi, hết bài này đến bài khác. Âm trầm của Huế, âm cao của Hà Nội pha lẫn một số âm sắc của những địa phương nào đó mà anh đã tưng sống, từng đi qua. Anh cứ đọc, ngay cả khi cuộc tranh cãi giữa Tường và Ý đến hồi gay gắt. [21] Có lúc, anh ngừng đọc, nhìn và lắng nghe hai người nặng nề kết án lẫn nhau về một số chuyện vu vơ. Nét mặt anh trông vẫn bình thản. Tôi đứng dậy, nói đôi ba lời hòa giải với Tường và Ý, nhưng Phùng Quán kéo tôi ngồi xuống, nói, “Không sao đâu em. Được cãi nhau cũng là điều thú vị. Suốt một đời anh, đã mấy khi có những lần cải vã nhau cho đã. Họ cứ cãi, bọn mình cứ uống rượu, đọc thơ.” [22]
        Đêm đó, tôi được biết một Phùng Quán nhiệt thành, một Bửu Ý thẳng thắng và một Hoàng Phủ Ngọc Tường vô cùng cực đoan, khăng khăng bênh vực chế độ và sự chọn lựa của mình không gì lay chuyển nổi. Cung cách này của ông Tường khiến tôi rút ra một kết luận bất ngờ: xu hướng cực đoan cung cấp cho con người một đặc tính lạ lùng, đó là, hiên ngang thách đố với thế lực này để lại hoàn toàn bị khuất phục trước một thế lực khác!
        Hình ảnh Hoàng Phủ Ngọc Tường gắn liền với cuộc thảm sát Mậu Thân ở Huế. Những gì ông phát biểu về cuộc thảm sát này đã có sẵn trên Internet. Ở đây tôi chỉ xin ghi lại hai trích đoạn về hai lần phỏng vấn khác nhau.
        Một: nguyên văn “từng chữ một” lời phát biểu của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong cuộc phỏng vấn của đài truyền hình Mỹ WGBH-TV vào ngày 29/2/1982:
        “…thế nhưng mà có những sự chết chóc đã xảy ra sự chết đó là một khối lớn cái khối lớn đã làm nên những nấm mồ đầy dẫy ở trong thành phố này và được địch được mỹ và ngụy đưa ra quây phim và đưa đi thì những nấm mồ đó là ở đâu những cái xác chết nằm ở dưới đó là ai cái thứ nhất là chính nhân dân đã bị bom của Mỹ thả xuống và chết không biết bao nhiêu ở trong trong cái đợt mà chúng nó phản kích thí dụ như là ở một cái bệnh viện nhỏ ở bên phố Đông Ba đa thì nó đã thả một trái bom và đúng 200 người vừa chết vừa bị thương ở tại chỗ đó tôi đã đi trên những cái đường cái đường đường hẻm mà ban đêm tôi tưởng là bùn thì tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu lầy lội như vậy và đó là cả một khu phố bị bom Mỹ đã giết thì cái số đó nhất là trong những ngày cuối cùng thì chúng tôi rút ra và nó đã thâu lại và đem đi chôn cái thứ hai, hàng loạt gia đình có con em đi tham gia cách mạng có thanh niên đi lên rừng trong sau Mậu Thân thì chúng vào và đã bắn chết những gia đình đó và cũng đem vào trong những hố đó còn lại một số những cái xác của quân giải phóng mà mà chúng tôi không kịp mang theo thì chúng cũng đưa vào còn có những số đoàn chính là thanh niên đi lên rừng hoặc là chính là những người tù binh thôi, chúng tôi không có hề có ý định gì giết nó nhưng mà đi đông như vậy đi lên rừng và máy bay Mỹ đã cương quyết nghĩa là tìm cách tập kích vào để cho không còn ai có thể sống sót được nằm ở bờ rừng và như vậy thì kể cả những đồng chí của tôi những người lính giải phóng quân cũng hy sinh ở trong đó luôn trong trong cái nhiệm vụ hộ tống cái đoàn đó lên, sau này trong năm 75 76 77 chúng tôi đi làm thủy lợi đa làm dẫn nước sông hương chúng tôi đã đào lên những cái cái nấm mồ mà trong đó gọi là thảm sát Mậu Thân đầy cả những người đội mũ tai bèo và mặc áo quần quân giải phóng….” [23]
        Hai: lời “nói lại” của Hoàng Phủ Ngọc Tường về phát biểu trên, khi trả lời phỏng vấn của Thụy Khuê ở Pháp:
        “Lâu rồi, trả lời ứng khẩu thế thôi, tôi không nhớ thật cụ thể những điều đã nói, và cũng không có dịp xem lại nguyên bản phim như nó đã được chiếu ở nước ngoài; nên không biết cuốn phim có tái hiện trung thành những ý tưởng của tôi hay không.” [24]
        Tôi không tìm thấy bất cứ một sự thành thật nào trong câu trả lời có tính cách “chữa lửa” này.
        Nó cũng giống như những lời “nói đi nói lại” về sau này do áp lực của dư luận, cũng chỉ để giải thích, sửa chữa hay phủ nhận những gì ông đã phát biểu một cách nghiêm túc và nhiệt tình với hệ thống truyền hình WGBH-TV nói trên mà thôi.
        Đến cuối đời, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sống trọn với lý tưởng mà ông chọn: một người cộng sản chân chính. Một người cộng sản chân chính là một người cộng sản chân chính: mọi phương tiện đều tốt nếu đạt được cứu cánh! Kể cả nói dối. Và nếu cần, nói dối về những gì đã nói dối!
        • Nhưng buồn cười và trớ trêu nhất là trường hợp Lê Văn Hảo.
        Tiến sĩ Lê Văn Hảo là con trai độc nhất của một đại phú gia ở Đà Nẵng. Sau khi đỗ Tú tài Pháp ở Việt Nam, ông đi du học Pháp, đỗ Tiến sĩ Đệ Tam cấp ngành Dân tộc học tại Đại học Sorbonne và làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp. Năm 1965, ông về nước, giảng dạy các Đại Học Huế, Đại Học Sài Gòn và Đại Học Đà Lạt. Tôi học với ông chứng chỉ Văn Chương Việt Nam. Với số kiến thức mới mẻ về dân tộc học tiếp thu ở phương Tây cũng như sở hữu nhiều tài liện từ sách vở, báo chí miền Bắc (mà những vị giáo sư miền Nam không tài nào có được), ông đã cung cấp cho sinh viên nhiều cái nhìn mới mẻ và thú vị về văn chương Việt Nam. Giờ dạy của ông bao giờ cũng thu hút nhiều sinh viên tham dự. Tuy biết là ông có xu hướng tả khuynh, nhưng đột nhiên, tin ông là chủ tịch của “Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Huế”, một tổ chức do cộng sản dựng nên khi họ tiến hành cuộc tấn công Huế năm Mậu Thân (1968), không khỏi làm dân Huế, nhất là giới sinh viên, hết sức kinh ngạc. Cũng đáng kinh ngạc hơn, sau năm 1975, dũ đã đóng một vai trò chính trị trong thời điểm quan trọng như thế, ông chẳng được giao cho đảm nhận một chức vụ nào có ý nghĩa trong bộ máy cầm quyền của chế độ mới. Ông trở lại với công việc dạy học và nghiên cứu như mọi người bình thường khác trong chế độ cũ. Đã thế, lại còn bị nghi kỵ này nọ. Và rồi, tháng 7-1989, ông được phép xuất cảnh, nghe nói là do một giáo sư người Pháp sang mời ông làm giáo sư thỉnh giảng ở Đại học Paris 7. Chỉ một thời gian sau, ông xin ở lại Pháp như một người…tỵ nạn cộng sản.
        Kịch tính đến thế thì thôi!
        Giải thích về trường hợp trớ trêu này của Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân cho biết:
        “Tính tình ông Lê Văn Hảo phóng khoáng, đôi lúc hơi bất bình thường một cách khó hiểu, do đó trong hoàn cảnh bao cấp, có lúc ông bị nghi kỵ phũ phàng. Không đạt được những gì ông mong muốn nên vào cuối những năm tám mươi của thế kỷ trước ông sang Pháp thăm gia đình và định cư ở Pháp luôn. Ở nơi ông từng sống và học tâp nhiều năm, ông viết báo, trả lời phỏng vấn của các Đài Phát thanh phương Tây, ông chối bỏ quá khứ quan hệ với Cách mạng Việt Nam của ông, ông cũng dựng lên nhiều chuyện không đúng về những người thân quen trước đây, trong đó có tôi. Trước chuyện đời oái oăm như thế, tôi vẫn không giận ông, không viết bài phê bình ông mà chỉ tiếc cho ông thôi. Năm 1996 rồi năm 2005 sang Paris tôi đã tìm thăm ông ở Bảo tàng Louvre, và nhà riêng của ông. Tôi tự hào về thời tranh đấu của tuổi trẻ Huế những năm sáu mươi cho nên tôi không xem trọng sự thay đổi của Giáo sư Lê Văn Hảo. Và không ngờ tôi cũng đã được ông Hảo đáp lại. Năm 2005, trong một bữa cơm thân mật ở Quận 13, ông tâm sự: “Qua đây mình muốn ở đây nên phải nói vậy và viết vậy người ta mới cho mình tỵ nạn chứ đối với đất nước, đối với anh em mình vẫn quý như xưa!” Thật thấm thía “Chuyện đời ai có qua cầu mới hay.” [25]
        Không biết lời tâm sự đó thật hay bịa, nhưng ba năm sau (2008), tiến sĩ Hảo đã giải thích hoàn cảnh của mình một cách cụ thể, rõ ràng và dứt khoát, qua cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh Á Châu Tự Do.
        Nghe ở đây
        Tôi tạm tóm tắt nội dung như sau.
        Theo ông Hảo, trong biến cố Mậu Thân, vai trò mà ông giữ, “Chủ tịch Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Huế,” là một sự áp đặt. “Nó nói là anh phải nhận, nếu anh không nhận thì anh cũng không còn đường về thì cả một sự đe dọa.” (…) “Sau khi tôi nhận chức đó rồi thì có nhiều cuộc họp và họ nói cho tôi biết thế nào là chủ nghĩa Cộng sản, thế nào là chủ nghĩa Max Lenin, thế nào là chính quyền cách mạng, thế nào là đấu tranh giai cấp. Họ cũng làm cho tôi một loạt các bài học vỡ lòng để cho tôi biết chức vụ đó thì tôi phải nên làm thế nào để cho xứng đáng với chức vụ đó.” Ông “chỉ là một con tin đã bị ở trong thế kẹt phải nhận lấy chức vụ, để bảo tồn sự sống còn để mà mong có ngày về với vợ con thôi! Chớ tôi nói thật với anh vai trò của tôi trong Tết Mậu Thân là vai trò hoàn toàn thụ động, tôi chỉ ngồi trên núi để nghe đài, nghe tin tức.” Tiến sĩ Hảo cho biết, “khi tôi lên trên núi thì tôi biết MTGP là một trò bịp bợm, tức là một tổ chức hữu danh vô thực, nó là tổ chức của Cộng sản thôi, gọi là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam nhưng mà tất cả đều do Hà Nội chỉ đạo thôi. Việc đó tôi biết ngay và họ cũng không giấu anh ạ! Lúc đó mình ở trong tay họ rồi nên họ cũng không giấu.” Về một số vị được xem là tự nguyện đi theo cộng sản, ông cho biết, “Riêng cụ Thích Đôn Hậu thì cụ bị bắt cóc lúc mà quân giải phóng đã chiếm được thành phố Huế rồi thì họ mời cụ lên võng để đi họp thì nó cũng võng cụ lên trên núi luôn. Bà Nguyễn Đình Chi cũng trường hợp như vậy, tức là mời bà đi họp rồi võng Bà lên núi luôn. Những người trẻ hơn như anh Tôn Thất Dương Tiềm thì lúc đó đi theo quân giải phóng, ông Tiềm là Việt Cộng nằm vùng mà! và một vài vị khác cũng là Việt Cộng nằm vùng thì cũng tà tà lên núi thôi và tất cả chúng tôi gặp nhau ở trên núi, và khi đi ra ngoài Bắc thì chúng tôi cũng đi cùng một lượt với nhau.” Khi quân đội Hoa Kỳ và quân đội VNCH ném bom dữ dội các vùng gọi là giải phóng, “chúng tôi sống toàn trong các hang núi, nếu ra ngoài thì cũng ăn bom như thường vì tình hình quá căng thẳng, bom đạn quá sức tưởng tượng. Cho nên lệnh ở ngoài Hà Nội là đưa những người gọi là nhân sĩ theo cách mạng như là Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, bà Nguyễn Đình Chi, tôi, cụ Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm và một số vị khác, để đưa các vị này ra ngoài Bắc.” [26]
        Thế là quá rõ! Ông Lê Văn Hảo chỉ là một quân cờ không hơn không kém.
        Dẫu vậy nghĩ cho cùng, cũng như nhiều nhà trí thức khác được chính quyền VNCH cho đi du học, rồi ở lại nước ngoài để trở thành thân Cộng một cách an toàn, ông là người tốt số. Con nhà giàu, được học trường Tây, được đỗ đạt bên Tây, rồi được chế độ VNCH trọng dụng, rồi được chế độ cộng sản tin dùng, rồi sau cùng, trở thành một người chống cộng. Ông đã kinh qua đủ thứ “mác”: tư sản, tiến bộ, tả khuynh, cách mạng, tỵ nạn. Cũng như những Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Ngọc Lan, Châu Tâm Luân, Lê Văn Hảo là bi kịch trí thức, nhưng là một bi kịch…có hậu.
        (còn nữa)
        Trần Doãn Nho
        ——————–
        [1] Trần Hoài Thư, Hành trình văn chương của Ngô Kha
        [2] Chu Sơn, Ngô Kha và cuộc chuyện trò cuối năm, phần 2
        [3] Ngô Minh, Ngô Kha, một cõi tang bồng (23/6/2008) “Tôi hỏi nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người bạn thân thiết của Ngô Kha rằng, tại sao những ngày đó “tổ chức” không đưa Ngô Kha lên Xanh?”. Hoàng Phủ bảo tổ chức đã có liên lạc với Ngô Kha, nhưng Kha chưa kịp đi thì bị bắt. Cũng có thể nó chần chừ giữa lên rừng hay ở lại tranh đấu với bạn bè, trong lúc mật vụ địch theo dõi từng bước đi, nên không thoát được…”
        https://tienphong.vn/ngo-kha-mot-coi...post108755.tpo
        Thanh thảo, Ngô Kh, người đãng trí can trường
        “Nhiều bạn hữu, nhiều đàn em, nhiều học sinh của Ngô Kha đã không bao giờ quên được dáng vẻ hiền hậu và tinh thần trí thức của anh, sự độc lập trong suy nghĩ và sự quyết liệt trong hành động yêu nước của anh. Vậy mà nhà thơ ấy, khi làm thơ, lại làm thơ… siêu thực.”
        https://baothuathienhue.vn/van-hoa-n...ong-41668.html
        [4] Chu Sơn, bđd
        [5] Về Lê Văn Tám, xem Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám
        [6] Về Võ Thị Sáu, có nhiều bài viết đề cập đến. Xin dẫn lại trích đoạn từ một bài viết ngắn của Kim Ngọc, Những kẻ nhẫn tâm xuyên tạc về người anh hùng dân tộc Võ Thị Sáu.
        “Tóm lại, họ toàn là những kẻ đang có tư tưởng chống đối chính quyền: Một lũ “rận xĩ”, khoác áo “nhơn sĩ”, mạo danh dân chủ tỷ như: Nhà văn Nguyên Ngọc, Nhà văn Phạm Xuân Nguyên (cán bộ Viện Văn học, chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội), nhà thơ Nguyễn Duy, Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang… Trong đám rận đổ đốn ấy đó người lớn tuổi nhất và có thâm niên thường xuyên có hành vi chống phá chính quyền nhất phải kể đến Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang sinh năm 1936. Qủa báo, hiện nay ông TS này gần như có cuộc sống Thực vật, gần đất xa trời. Đoạn clip cho thấy, răm kẻ đầu bạc, xúm quanh chai rượu ngoại “nhâm nhi” cùng với vài ba hột lạc rang. “rượu vào lời ra”. Nhìn họ cười vô tư, bốc đồng chẳng khác gì những kẻ nát rượu, “rượu nói” bằng những tin đồn, những lời đồn đoán vô căn cứ của Giáo sư Mạch Quang Thắng khi nói về cách học Sử ngày nay, khi ông này cũng đã“xuyên tạc lịch sử”.khi dẫn chứng một ví dụ về chị Sáu như sau:
        “Võ Thị Sáu chẳng qua là một người con gái bị tâm thần, ngớ ngẩn. Lợi dụng sự ngớ ngẩn của Sáu, nhóm những người hoạt động cách mạng mới đưa cho bà lựu đạn rồi xúi ném vào một toán quân địch đang ngồi họp. Bà ném rồi bị bắt đi tù, đem đi xử bắn. Bà chẳng biết gì về tính mạng của mình, cứ cười tươi và hái hoa dại mọc dọc đường ra pháp trường cài lên tóc”.
        Xem:
        https://huengaymoi.com/BLOG-PHAN-BIE...C%A3-Sa%CC%81u
        [7] Chu Sơn, Trả lời thắc mắc
        [8] Trường hợp Nguyễn Đính được đề cập ở phần sau.
        [9] Những người ủng hộ Ngô Kha là nhà thơ-liệt sĩ không nghĩ như vậy. Chẳng hạn Thanh Thảo:
        “Có lẽ vì thơ siêu thực “đột nhập” được vào những khoảng bất chợt trong tâm hồn sâu thẳm con người, với những hình ảnh mờ chồng tự động và nhiều khi sẫm tối, nó phát hiện cho ta thấy sự phong phú nhiều khi đáng kinh ngạc của đời sống nội tâm một con người, ở đây là một thi sĩ. Thơ siêu thực không dễ làm, và dĩ nhiên, khó hay, nhưng khi đã thành công, thì nó vụt sáng. Đó cũng là phần không thể thiếu được trong thơ ca hiện đại. Khi chọn hình thức thơ siêu thực, một trí thức tranh đấu can trường như Ngô Kha đã chọn cho mình một phương thức biểu đạt không trực tiếp. Thơ Ngô Kha không làm khẩu hiệu xuống đường như thơ Trần Quang Long, nhưng nó cần thiết biết bao cho tâm hồn con người đương đại. Ngay trong cuộc chiến đấu, con người vẫn là một sinh thể vô cùng phức hợp, và thơ siêu thực cũng là một trong những nhu cầu tinh thần của con người. Trong cuộc kháng chiến vì Độc lập – Tự do của dân tộc ta, đã xuất hiện nhiều dạng thơ yêu nước, và mỗi dạng thơ đều có đóng góp riêng của mình vào cuộc tranh đấu ấy. Vui mừng biết bao, khi trong dòng thơ lớn ấy, có thơ siêu thực của nhà thơ – liệt sĩ Ngô Kha. Anh chính là một F.G.Lorca của Việt Nam, với cây đàn lya và bài ca lãng đãng trên con đường đơn độc về một miền xa thẳm nào.”[9]
        Đố ai hiểu tác giả muốn nói gì? Biện hộ cho thơ siêu thực hay biện hộ cho người làm thơ siêu thực Ngô Kha, người đã không làm thơ “khẩu hiệu”? Xem ở:
        https://baothuathienhue.vn/van-hoa-n...ong-41668.html
        [10] Trích đoạn từ bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” của Nguyễn Minh Châu
        “Có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em: “Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết sợ!”, nói rồi ngửa mặt lên trời cười rung giường, nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt đổ vào lòng. Có người cầm bút đến lúc sắp bước sang thế giới bên kia vẫn chưa dám thốt lên một lời nói thật tự đáy lòng, không dám viết hồi ký thực, vì sợ để liên lụy đến đời con cái.”
        [11] Chu Sơn, Cuộc nói chuyện dài với đứa văn nô (9/2011)
        [12] Trần Doãn Nho, Một vài suy nghĩ về con người trong tranh Bửu Chỉ, Nghiên Cứu Huế tập 2 (2001). Bài nay sau in lại trong “Tranh Bửu Chỉ”, do nhóm Lê Khắc Cầm – Trần Thức – Nguyễn Quốc Thái – thực hiện (2003).
        [13] Chu Sơn, Bửu Chỉ: bằng chính mình đến với cuộc đời
        Trích đoạn: “Và hình tượng mặt trời nữa. Mặt trời trong tranh của Bửu Chỉ ở thời điểm này là sự phá tan gông cùm xiềng xích, là chiến thắng của quyền dân tộc tự quyết, là reo ca của Độc lập Tự do. Có người [Trần Doãn Nho] nói mặt trời trong tranh Bửu Chỉ cứ nhỏ dần, nhỏ dần cuối cùng chỉ còn như trái lê, mặt trăng, bầu vú. Có lẽ có một phần cảm tính trong lời nhận xét thơ mộng ẩn chứa mùi vị đắng cay này. Mặt trời to, mặt trời nhỏ, bóng tối giữa trưa hay mặt trời chiếu sáng giữa đêm đen là những ẩn dụ nghệ thuật mà hơn một lần Bửu Chỉ đã khắc hoạ nên.” (Chu Sơn)
        [14] Nguyễn Tuyết Lộc, Cố họa sĩ Bửu Chỉ
        [15] Nguyễn Khắc Phê, Họa sĩ Bửu Chỉ và bức tranh tai tiếng, Sông Hương 1995
        Nguyễn Tuyết Lộc, bđd
        Một trích đoạn: “Mà quả thật thế, có lần Chỉ vẽ một hình người không đầu và đưa lên báo văn nghệ địa phương dành cho bạn đọc giải thích, ai giải thích được sẽ có quà của họa sĩ Bửu Chỉ. Nhưng có người nói “không đầu” tức là “vắng thủ”, nói lái là Vũ Thắng, tên của Chủ tịch Thừa Thiên – Huế thời đó. Hình như vụ đố hình này kết thúc trong yên lặng.” (Nguyễn Tuyết Lộc)
        [16] Bộ “Tranh cáo” gồm 10 bức được hoạ sĩ Bửu Chỉ vẽ bằng bút sắt, mực tàu khoảng năm 1990, khi Tạp chí Sông Hương đang tròng trành. Số báo có đăng bức “Cáo làm vua” bị tịch thu khi vừa ra khỏi nhà in. Nhân kỉ niệm 5 năm ngày mất của hoạ sĩ Bửu Chỉ (08.10.1948 – 14.12.2002), trang mạng Talawas có giới thiệu bộ tranh độc đáo này, với lời đề tặng Trần Thùy Mai, Hoàng Dũng và Lê Hùng Vọng. Xem:
        [17] Chu Sơn, Bửu Chỉ: bằng chính mình đến với cuộc đời
        [18] Trần Vàng Sao, Tôi bị bắt, kỳ 1.
        [19] Nguyễn Đính, Tôi bị bắt, kỳ 9
        [20] Ý Nhi, Một bức thư của anh Hoàng Phủ Ngọc Tường.
        [21] Tôi còn nhớ nguyên văn lời Bửu Ý “mắng” Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Mày là một thằng bợ đít”. Bửu Ý cũng “mắng” luôn cả tôi vì không để cho anh “mắng” HPNT.
        [22] Trần Doãn Nho, Cuộc rượu bên sông
        Tạp chí Hợp Lưu (California) số 24, tháng 8-9/1995, tr. 49. Có in lại trong tập truyện “Căn phòng thao thức”, Thanh Văn, California, Hoa Kỳ, 1997
        [23] WGBH-TV vào ngày 29/2/1982.

        [24] http://thuykhue.free.fr/tk97/nchpngoctuong.html
        [25] Nguyễn Đắc Xuân, Nhớ Tiến Sĩ Lê Văn Hảo thời ở Huế
        [26] RFA, Phỏng vấn tiển sĩ Lê Văn Hảo về vai trò của ông trong biến cố Tết Mậu Thân tại Huế.
        Nghe ở đây




        Trần Doãn Nho: Nỗi Huế (Phần cuối)




        Huế, dòng sông bay trong trí nhớ. Tranh Đinh Cường.
        9. Vực thẳm tháng Tư

        Cũng là một trong những khuôn mặt tham gia trong phong trào đô thị Huế trước 1975, Trần Hoàng Phố – một người tôi biết khá rõ nhưng không thân -, về sau này, chọn lựa một thái độ trầm tĩnh, chừng mực trước thời cuộc. Anh làm thơ và trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Thơ anh, mới về cấu trúc ngôn ngữ, đậm đà triết lý và chan chứa suy gẫm nhân sinh, xuất hiện ở trong nước (cả trong luồng lẫn ngoài luồng) và ở hải ngoại. Anh trở về những đề tài đã từng “là hiện tượng phổ biến trong tư tưởng của những trí thức miền Nam giai đoạn 1954-1975 vốn được thụ hưởng một nền giáo dục mang triết lý “dân tộc, nhân bản và khai phóng” trên tinh thần đa nguyên nên mạnh dạn tiếp nhận nhiều tinh hoa ở các khuynh hướng tư tưởng triết học của nhân loại,” theo Trần Hoài Anh, một nhà nghiên cứu văn học chuyên nghiên cứu về Văn Học Miền Nam.[1]
        Là một người sống trong cùng một không khí văn hóa thời đó, tôi tìm thấy trong thơ Trần Hoàng Phố đôi điều gần gũi.
        Đọc Trần Hoàng Phố, trước hết, là đọc chữ. Bên cạnh những nhóm chữ tương đối phổ thông như thiên thu tìm kiếm, dâu bể vô thường, giấc mộng vỡ tan, lênh đênh phận người, lang thang phiêu bạc, ta bắt gặp trong thơ anh nhiều nhóm chữ lạ, mang lại những ý nghĩa mới mẻ bất ngờ. Xin tạm kể ra một số: tán lá linh hồn, đồng tử lá, mái tóc cây, cơ thể đêm, miệng đêm, chén đêm, xao xuyến gió đêm, chiếc lưỡi chìa khóa, vương miện nỗi buồn, hoảng hốt hoàng hôn, ngực nắng vàng, nỗi cô đơn mưa, mặt nạ bất an, ký ức xanh, bóng khuya lịch sử, hư ảo trống, hòn bi số phận, kiếp người hoen rỉ, phố trần gian. Nếu lưu ý, ta sẽ thấy chúng được tạo ra do khéo tận dụng hình thức ví von giữa một sự vật cụ thể với một khái niệm hay hình ảnh trừu tượng: tán lá + linh hồn, vương miện + nỗi buồn, mặt nạ + bất an; hoặc giữa một sự vật cụ thể này với một sự vật khác không liên quan gì nhau: miệng + đêm, chiếc lưỡi + chìa khóa, ngực + nắng vàng. Cách tạo ngôn ngữ này khiến tôi nhớ đến Tô Thùy Yên: ngổn ngang câm, bất an già, khoảng cách đặc, án tử hình treo, lãng quên xanh, nỗi sầu vô dạng, u hoài mốc, gió hao đuối, nhớ hư hoặc, một phía mê tưởng, vũng vướng mắc, ráo gió, thiu hồn, ngất tạnh khuya…Nằm trong cấu trúc thơ, những nhóm chữ như thế trở thành, hay đồng hóa với, hay có khi tạo thêm, ý niệm. Nhiều chỗ, Trần Hoàng Phố còn vay mượn cả những thuật ngữ và hình tượng tôn giáo, nhất là trong Thiên Chúa giáo: mùa thương khó, phục sinh, các thánh tuẫn nạn, thiên thần áo trắng, lễ thanh tẩy, lễ tro, thánh lễ tình yêu, hồi kinh lễ sớm, đóng đinh…(Hạt bụi trần gian/ Bị đóng đinh vào cái đẹp); hoặc thỉnh thoảng, trong Phật giáo: ngũ uẩn, vô thường, sắc không…(lạ lùng ngũ uẩn). Nói chung, dù là sáng tạo hay vay mượn, chúng giúp làm sáng tỏ, làm phong phú thêm hay thậm chí, làm bật ra những khuất lấp chìm sâu trong ý niệm. Chính vì thế, thơ Trần Hoàng Phố rất ít hiện thực; nếu có, hiện thực chỉ lả một chất phụ gia. Anh dùng ý niệm, không hẳn chỉ để lý giải, mà hầu hết là để hình dung thế giới hay nói đúng hơn, hình dung cõi nhân sinh. Đó là một cõi buồn, tan vỡ, rạn nứt, lênh đênh, bấp bênh – một cõi ít thấy bóng dáng của hạnh phúc và niềm vui. Dẫu vậy, đó không phải là những thao thức hay suy gẫm đời thường (về một mối tình tan vỡ, một nỗi tuyệt vọng hay một cái chết cụ thể nào đó) mà là những thao thức, ray rứt đậm đà triết lý. Làm thơ như một tra vấn về hiện hữu. Như một khắc khoải siêu hình: hư vô, thời gian, bản ngã, linh hồn, phục sinh, cái bóng, tha nhân, luân hồi, bản thể, vân vân và vân vân.
        • Tôi bước đi và chìm trong mù sương/ Bóng của một cái bóng/ Tôi tan ra trong giá đông (…)Tôi đối diện với chính mình” (Bóng của cái chết).
        • Đóa hoa thạch thảo tím biếc/ rơi vào bên trong khoảng trời ký ức/ Bạn lặng nghe tiếng nói bí ẩn/ từ đáy sâu nội giới thầm thì/ Gió/ Ra đi/ và/ Gió trở về/ Ngôi nhà xưa tịch mịch/ Hàng nghìn bóng ma kỷ niệm tìm về/ Trong tiếng rơi vỡ lặng lẽ thời gian (Tiếng rơi vỡ thời gian)
        Ta dễ dàng nhận ra ngay: ngôn ngữ đan xen, chồng lấn, hòa tan với, hoặc trong, ý niệm.
        Có vẻ như Trần Hoàng Phố thoát khỏi những ám ảnh đời thường”? Không hẳn.
        Trong “Lời ngỏ” của tập thơ “Quê quán tôi xưa” (2002), Trần Hoàng Phố thú nhận: “Một cơn “sốc” tâm hồn để đi đến mười hai năm “diện bích”, mười hai năm chiêm nghiệm những cõi mình đã sống, đã mơ, đã nhớ. Những bể dâu của lịch sử và con người. Những bão táp cuộc đời, những cuộc chiến tranh, những cuộc cách mạng là những tiếng vọng chập chờn và những hình bóng lung linh trên vách đá của tâm hồn thơ.” [2] Cao Thị Hồng, dường như bắt mạch được trạng thái tâm hồn khá phức tạp này của Trần Hoàng Phố, nhận xét: “Sinh ra và lớn lên trên một đất nước có quá nhiều biến cố lịch sử làm thay đổi vận mệnh dân tộc, cũng như phận số của biết bao người, lại mang trong mình phẩm tính của một trí thức dấn thân theo tinh thần tư tưởng triết học hiện sinh, Trần Hoàng Phố không thể “dửng dưng” đi “bên lề” những biến chuyển của lịch sử dân tộc, mà nhà thơ là một chứng nhân…” (…) “Nhưng rồi, cũng như bao lớp người cùng thế hệ, khi nhận ra những điều mình thần tượng, tôn thờ cuối cùng cũng chỉ là “ảo ảnh” được đắp xây bằng những ngụy tín và mọi danh vọng, lợi quyền trong cuộc đời suy cho cùng chỉ là hư ảo.” [3]
        Theo tôi, đó là một khía cạnh khác – dù chỉ xuất hiện rải rác – trong thơ Trần Hoàng Phố. Khía cạnh này phản ảnh những ám ảnh lịch sử và đặc biệt, ám ảnh tháng Tư, hay nói theo ngôn ngữ Trần Hoàng Phố, “vực thẳm tháng tư”.
        Bóng chúng ta in trên tấm thảm giấc mộng
        Tháng tư xanh như nỗi đợi chờ
        Tháng tư đỏ như niềm vô vọng cây trái bơ vơ
        (…)
        Ôi tháng tư tháng tư
        Xin cho linh hồn tôi bước qua được cây cầu phân ly
        Bắt qua trái tim đầy những bóng mây xám u buồn lịch sử (Bài ca chiếc bóng tháng tư) [4]
        Đã kinh qua vực thẳm này, Trần Hoàng Phố tra xét lại cái gọi là “lịch sử”. Đó là một sự gặp gỡ giữa hai khái niệm “dối lừa” (đỏng đảnh) và (giấc mơ) “quyền lực”:
        Lịch sử đóng kịch diễn trò trước sân khấu đám đông tháng tư
        Nó tạo nên những kịch tính thiện ác địch ta tốt xấu
        Nhân dân buồn thay chỉ là những con tốt thí qua sông
        Cho sự dối lừa đỏng đảnh
        của những giấc mơ quyền lực (Khúc hát về sự vô thường của lịch sử) [5]
        Những hình ảnh chứa đựng trong thơ mang ý nghĩa kép: vừa là ẩn dụ lại vừa bóc trần ẩn dụ. Vừa đóng vừa mở. Vừa cụ thể lại vừa trừu tượng. Vừa giấu vừa bày. Vừa ý niệm lại vừa hiện thực. Anh xé toạt từng góc khuất ẩn chứa trong khái niệm lịch sử. Nói về khái niệm mà đồng thời lại như một lời tự thú:
        • Lịch sử
        như
        một kẻ ngây thơ tội đồ dại khờ
        (…)
        Nó loay hoay
        với đám bòng bong sự kiện giữa thật và dối trá
        Nó quay cuồng bối rối
        giữa các lằn ranh ngoằn ngoèo ma quái con người và các giáo điều khô cứng

        (Bài ca về sự dại khờ) [6]
        • Lịch sử đôi khi được dẫn dắt bởi bầy cáo mù
          chúng xảo quyệt ranh ma
          cắn xé lẫn nhau như hổ dữ tranh ăn
          nhưng chúng sờ soạng cứ đi ngàn bước loanh quanh
          mà cứ tưởng như đang thẳng tiến tới tương lai rạng rỡ
          mà chẳng ngờ đẩy cả cả bầy đàn
          xuống hố lầm than
        (Đi về đâu hỡi lịch sử) [7]
        Những “tội đồ dại khờ” bị các “giáo điều khô cứng” phỉnh gạt chẳng ai khác hơn là “nhân dân”:
        Bị tước đoạt
        Bị lãng quên
        Nhân dân
        chính là người tù nhân vĩ đại của lịch sử (Bài ca về sự dại khờ)
        Hậu quả là sản sinh ra một thời đại mà Trần Hoàng Phố gọi đích danh là “thời thổ tả”. Ngôn ngữ ở đây không nằm an toàn và sang cả trong lãnh vực ý niệm, mà quấn quýt lấy hiện thực, phản ảnh một cách trần trụi nhiều mặt của khung cảnh đất nước hiện nay.
        Thời thổ tả
        Bầy bướm quỷ bay đầy đêm liêu trai
        Quan bỗng dưng hóa thành cướp
        (…)
        Mặt trăng đỏ màu máu
        Tiếng quạ kêu thê lương đầy thành phố thôn làng
        (…)
        Cả nước đua nhau
        bán buôn ăn thực phẩm bẩn
        Cửa công
        Quan trường người ta đua nhau
        mua quan bán tước
        (…)
        Nhân dân là kho của cải vô tận
        Cho các nhóm lợi ích thi nhau vặt lông
        (…)
        Tài nguyên
        rừng biển núi đất đá
        khoáng sản hàng triệu triệu năm
        Bị khai thác
        bị vắt kiệt
        xuất khẩu vô tội vạ
        (…)
        Nợ công cứ vay tràn đìa
        cho các dự án đa phần bánh vẽ
        Nợ chồng lên nợ
        Bẫy thòng lọng giăng ra
        Các quan tham lao vào như những con thiêu thân đớp
        Và nhân dân bị treo cổ
        (…)
        Học đường thiêng biến thành nơi phô diễn bạo lực
        Ngay cả nữ sinh biến thành thú dữ
        Đánh hội đồng màn man rợ như một bầy thú hoang
        Thầy hiếp dâm học trò vừa buông lời kinh sách
        (…)
        Các toà nhà cao tầng lộn ngược
        Thánh thần đu dây làm xiếc
        (…)
        Các đền đài chảy mồ hôi máu
        Ruộng nứt những khe sâu rộng bằng dòng sông mùa lũ
        (…)

        Cả nước ăn bùa mê thuốc lú
        Tỉnh mê mê tỉnh như nhập đồng
        khi tinh hoa cặn bã lên ngôi cửu đỉnh
        (…)
        Rồng lộn đầu thành con cá chết trôi
        |Trong dòng sông lịch sử ô nhiễm
        (Bài bi ca thời thổ tả) [8]
        Hiện thực mà tưởng như siêu thực!
        10.Một bài thơ: Nỗi Huế


        Để nhớ Huế. Tranh Đinh Cường
        nơi đó
        thành quách nhiều hơn người
        giai thoại đè lịch sử
        thuở nhỏ
        tôi đi dọc theo những con đường vuông
        góc thành này đến góc thành kia
        lớp lớp rêu bám đầy
        nhẫn nhục, cổ sơ
        nghiêm cẩn đến nao lòng
        nhìn hoài vẫn cứ tự hỏi …

        *
        tôi giẫm bước vô danh trên những địa danh
        quá khứ được ăn tiêu rất kỹ
        những khu vườn có cổng chắn
        tường lở nhiều chỗ
        vài đoạn rào thép gai
        chắp vá hờ hững
        ngôi nhà thấp
        chật ních kỷ vật
        câu đối sơn son thếp vàng hồn nhiên ngủ kỹ
        ngang và dọc
        mục và quý phái
        cũ và kiêu sa
        giai thoại mọc lên từ mỗi góc nhỏ
        ngày tháng co giãn
        đậm đặc nỗi tự hào
        *
        thuở thanh xuân
        mân mê những livre-de-poche Ưng Hạ
        đọc cọp báo Sài Gòn Mới Gia Long
        tà tà Phan Bội Châu
        nhìn trộm Phương Lan
        dựa cột đèn Trần Hưng Đạo
        ngắm từng em từng em đi qua
        rỡ ràng phố chật
        cốc cà phê Lạc Sơn chiều muộn
        hơi người hơi ruốt
        nhớ bâng quơ
        *
        chiều mưa giông Đồng Khánh
        những con chim bồ câu
        túa ra
        ướt mèm áo trắng
        cậu học trò không chịu về nhà
        nép dưới tàn cây hiên phố
        ngẩn ngơ
        *
        huế rất lạnh mà rất nắng
        mưa thì phùn và gió rất khô
        trời mênh mang mà người thì lặng
        những buổi chiều hiền
        thẩn thơ đường nhỏ
        em đi như tĩnh vật
        tôi rụng rời cơn mơ
        *
        nhiều lần lang thang quanh hoàng cung
        nghe gạch ngói thở
        sờ đám tượng trên sân chầu
        ẩn nhẩn
        đìu hiu
        leo lên lầu ngọ môn
        thấm thía dòng hư tự
        quan ở đâu vua ở đâu cờ quạt ở đâu
        chỉ là mấy bông sứ lặng lẽ rụng
        trong hồ sen ngơ ngác
        hít hà chút cổ sử
        ngậm ngùi thơm
        *
        đó là nơi tỏ ra rất tiện lợi
        cho nhiều màn trình diễn
        ngoạn mục bất ngờ
        có khi trịnh trọng có khi bình dân
        có khi rất chuyên nghiệp
        và những tan vỡ liên tục diễn ra
        thật chậm rãi
        đủ để người ta thưởng thức nỗi mất mát
        của chính mình
        *
        lắm khi
        từ trong cái ù lì lặng lẽ
        bỗng vươn vai đứng dậy
        y như thể đã chuẩn bị từ bao giờ
        vội vội vàng vàng
        băng cờ la hét
        đường phố hừng hực
        khát khao thu gọn chiều dài lịch sử
        *
        dưới kia
        sông vẫn lặng
        đò vẫn trôi
        sông còn thơm
        mà đò thì chật
        *
        những ngày xuân âm khí năm nào
        thành quách nín
        đất đá nghẹn
        cỏ cây câm
        hố hầm co quắp
        ngột
        âm bản cuộc liêu trai
        *
        lại có khi
        thành phố bồng bế nhau
        vứt cả rực rỡ hè mới chớm
        rùng rùng bỏ chạy
        đi đâu?
        không biết đi đâu
        miễn là xuôi Nam
        để lại một cõi lặng
        không gian rỗng
        sàn diễn trống trơn
        những con chó mất chủ chạy rất tự do
        và vô vọng
        hàng phượng lạc loài
        chấp chới bay
        gió nắng rong chơi
        vòng vèo quanh nội thành ấm ức
        *
        kiêu binh về
        bắt đầu mắng mỏ nhiếc móc
        thậm chí oán thù
        những người đã chết
        y như thể không có họ
        thì đất nước sẽ thành cường quốc từ thế kỷ 18!
        bỗng nhiên
        mọi thứ được vội vã hóa thân
        hội hè đình đám
        những ngợi khen đẫm mùi tiếp thị
        phục chế/tân trang kẻ thù
        đem ra bày bán
        *
        chữ nghĩa không xương…
        *
        sorry huế!
        đành phải ra đi
        *
        bỏ phía sau nhìn phía trước.
        lạc lõng giữa đất trời lạ hoắc
        *
        ăn cũng huế
        nói cũng huế
        đi cũng huế
        chào cũng huế
        thương cũng huế
        nhớ cũng huế
        ngày huế
        đêm huế
        lao xao những ôn những mụ những o những dì
        đám trẻ con ngỡ ngàng
        tưởng còn thời khuyết sử
        cô cháu nhỏ tò mò
        what’s hue, ngoai?
        hue here! tôi chỉ vào bà ngoại
        really, ngoai?
        yes
        ngoai oi, so i love hue so very very much.
        *
        tháng bảy quay quắt huế
        đến hẹn nước lại lên
        nước tràn Đập Đá nước lút bến đò Cồn nước ngập Bao Vinh nước ngâm quốc lộ
        …đãng trí
        tôi không về
        ai lội lụt thăm em
        *
        một thuở
        vỉa hè/góc phố
        nắng/mưa
        lụt/bão
        nghèo/thiếu/đói/no
        tù/ngục
        …một thuở…
        *
        thành phố thì còn
        huế đã đi
        vĩnh viễn đi!
        11.

        Aristotle bảo: Con người là một con vật xã hội.
        Vâng, tôi là con vật Huế: những biến cố Huế đã định hình tôi.
        Ở xa, tôi nhớ Huế.
        Đi giữa lòng Huế, tôi lại càng nhớ…Huế!
        Nỗi nhớ lớn hơn cả tôi.

        Những Huếs (Hình: Tín – 10/2022)

        Tôi, một vết quá khứ nhỏ nhoi xẹt vào hiện tại; một thoáng thời gian rớt xuống không gian. Bất cứ cái gì còn lại cũng gợn lên những điều đã mất. Đi mà như thể chẳng đi. Về mà như thể chẳng về. Thực mà hoàn toàn ảo! Thời gian ở đây đã nhanh, lại ít oi, nhưng tôi để giành mỗi buổi sáng, đến đó theo một tiếng gọi âm thầm của ngày tháng cũ. Một con đường nhỏ Thành Nội, vắng và xưa. Lề đường lổn chổn đất, đá, cỏ xanh, lá úa, tường rêu, những chậu bông nhỏ, gốc cây già dưới tàn lá rộng, ghế bàn nhỏ nhắn, cốc cà phê đơn sơ, tách trà tém tủm, nữ chủ quán nhu mì, khách quen nhẵn mặt. Người cổ vật xưa, đạm bạc. Chuyện thì cũ, rất cũ. Những nụ cười. Những câu chuyện. Quyện vào trong không gian tràn đầy quá khứ. Những Huếs tôi. Huế thu nhỏ lại. Nhưng vô cùng lớn.
        Thì Huế là nỗi huế nỗi huế nỗi huế nỗi huế…
        Trần Doãn Nho
        (8/2020-11/2023)
        ——————-
        [1] Trần Hoài Anh, Cảm thức hư không và nỗi cô đơn bản thể trong thơ Trần Hoàng Phố
        [2] Dẫn theo Cao Thị Hồng, Cảm thức thời gian trong thơ Trần Hoàng Phố
        [3] Trần Hoài Anh, Cảm thức hư không và nỗi cô đơn bản thể trong thơ Trần Hoàng Phố
        [4] Trần Hoàng Phố, Bài ca chiếc bóng tháng tư.
        Trang mạng Nguyễn Đức Tùng: https://nguyenductung.org/?p=601
        [5] Trần Hoàng Phố, Khúc hát về sự vô thường của lịch sử
        [6] Trần Hoàng Phố, Bài ca về sự dại khờ
        [7] Trần Hoàng Phố, Đi về đâu hỡi lịch sử
        Trang mạng Nguyễn Đức Tùng: https://nguyenductung.org/?p=601
        [8] Trần Hoàng Phố, Bài bi ca thời thổ tả. Xem:
        Last edited by saomai; 02-06-2024, 02:43 AM.

        Comment



        Hội Quán Phi Dũng ©
        Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




        website hit counter

        Working...
        X