Sống Gởi Thác Về

Collapse
X

Sống Gởi Thác Về

Collapse
 
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts
  • BacNinh
    Người Thân
    • Jan 2020
    • 38

    #1

    Sống Gởi Thác Về

    Sống gửi thác về


    “Có Chúa đưa dẫn bước tôi đi, nên tôi chẳng thiếu thốn chi. Trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Trong nguồn nước chỗ nghỉ ngơi, Người cho tôi vào uống, Người lo bồi dưỡng lại tâm hồn tôi” – Thánh vịnh 22.


    Sinh ra và lớn lên trong một đất nước đau khổ triền miên vì chiến tranh. Những khó khăn, nghèo khổ và đầy bất trắc phủ kín lên các gia đình người Việt, trong đó có gia đình thày mẹ chúng tôi....
    Chiều ngày 26 tháng 6 năm 2023 lúc 4 giờ 10 phút - con chim đầu đàn, anh Chu Văn Quý , người con hiếu thảo của thày mẹ chúng tôi, một người anh đại lượng và bao dung đã vĩnh viễn giã từ cõi tạm dung tại thành phố San Jose, tiểu bang California Hoa Kỳ để cùng cha mẹ, gia tộc và tổ tiên nội ngoại sống trong vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh trên thiên quốc.
    Sinh bệnh lão tử, một quy luật bất biến của loài thụ tạo, và biệt ly để lại những nỗi buồn và thương nhớ khôn nguôi. Trước khi anh chúng tôi được chuyển tới bịnh viện, anh nói: “Chúa đã phán dạy, hãy phó thác mọi sự trong Chúa”. Lời anh nhắc như một lời khuyên trước ngày anh giã từ cuộc sống để về với Thiên Chúa, những lời nói đã giúp chúng tôi bình tâm trước những thử thách trước mặt và nuôi dưỡng một đức tin bền đỗ.
    Tình cốt nhục đã chia xa, xót thương với tâm trí thôi thúc viết đôi dòng về anh mà không cầm được nước mắt. Kể sao cho hết những ngày tháng sống bên nhau...một người anh khiêm nhu, hiền lành, hiếu nghĩa và sinh bất phùng thời. Anh chúng tôi sinh ngày 04 tháng 8 năm 1943 tại làng Phượng Giáo tỉnh Bắc Ninh, nay là Giáo Xứ Phượng Giáo, Giáo Phận Bắc Ninh. Năm 1954 gia đình di cư vào miền Nam, thày mẹ chúng tôi đã muốn cho các con có thời gian ăn học nên khi làm giấy thế vì khai sinh đã rút xuống một tuổi. Vì vậy trên giấy tờ, anh tôi sinh ngày 04 tháng 8 năm 1944.
    Làng Phượng Giáo nằm trong vùng xôi đậu, với những ngày lính Pháp đi càn, những đêm Việt Minh công đồn đả viện, thầy tôi là chức việc của làng xã lại không hợp tác với Việt Minh, dân làng tôi chạy loạn triền miên bất kể ngày đêm. Từ thuở thiếu thời, thể chất anh tôi không khỏe, nên khi chạy loạn tản cư, mẹ tôi gánh anh trong một cái thúng còn một cái thúng khác đựng gạo và đồ gia dụng, tôi bước trước bước sau chạy theo mẹ - một người mẹ lo cho con hơn chính thân mình, mẹ dẫn các con băng qua các cánh đồng chạy loạn bất kể ngày đêm, hết chạy xuống quê ngoại là làng Lai Tê lại chạy xuống làng Thọ Ninh là quê bà nội. Vì vậy, anh tôi là một người con rất quý trong các con của thày mẹ tôi. Và khi lớn khôn, chính anh đã cảm nghiệm được tình phụ tử, tình mẫu tử thật cao quý, nên cuộc đời anh đã luôn luôn gắn chặt với hai chữ hiếu nghĩa một cách bất biến.
    Hiệp định Genever 1954 đã đẩy hàng triêu người di cư vào miền Nam. Với ước vọng gia đình có con sống đời tận hiến, phục vụ giáo hội và tha nhân, và cũng là chọn lựa của anh. Nên sau khi đậu bằng tiểu học, anh đã trúng tuyển cuộc thi tuyển chủng sinh của Tiểu Chủng Viện Bắc Ninh – Thủ Đức, và đã nhận Cha già cố Phê rô Nguyễn Đình Thất chánh xứ Trung Bắc, Xóm Mới, quận Gò Vấp làm cha nghĩa phụ (Cha ông Cậu của Cha Phê rô Nguyễn Đình Đệ và Cha ông chú của Cha Vincentê Nguyễn Đình Truyền).
    Là một chủng sinh, một Antôninh của Tiểu Chủng Viện Bắc Ninh - Thủ Đức, dưới sự dạy dỗ của hai Cha Giám đốc Inhaxiô Nguyễn Đức Trị và cha Inhaxiô Nguyễn Đức Chấn cùng với các cha giáo. Trong suốt bốn năm trung học anh luôn luôn là một chủng sinh gương mẫu về hạnh kiểm và học lực, xuất sắc về la ngữ và pháp ngữ cũng như văn chương.
    Cuộc đời có những bước ngoặc không ngờ, mỗi người lại có những ơn gọi khác nhau. Nên, mặc dù anh là một chủng sinh xuất sắc, nhưng “học tài thi phận” anh lại thi đậu bằng Trung học đệ nhất cấp vào khóa hai sau khi các chủng sinh đã được chuyển về Đại Chủng Viện Thánh Giu se của Tổng giáo phận Sài Gòn trên đường Cường Để rồi. Không kịp về đại chủng viện, Cha Giám Đốc dự tính cho anh ở lại Tiểu Chủng Viện học thêm một năm la ngữ nữa. Nhưng anh đã xin Cha Giám Đốc cho anh về nhà để đi học tiếp. Được Cha Giám Đốc đồng ý, anh về lại nhà, bỏ lớp đệ tam, học nhảy lên lớp đệ nhị, thi đậu bằng tú tài một, và sau năm học lớp đệ nhất, anh đã thi đậu bằng tú tài toàn phần. Lên đại học, với ba năm theo học trường Luật, anh đã tốt nghiệp văn bằng cử nhân Luật của Viện Đại học Sài Gòn khi chưa đầy 21 tuổi, rồi anh tiếp tục ghi danh theo học Cao học Luật và là giáo sư dạy Việt văn tại trường Trung học Chân Phước Liêm, Gò Vấp, thuộc Tỉnh dòng Đa Minh Việt Nam. Với tâm tư phục vụ Giáo hội giữa trần thế, anh đã sinh hoạt và đảm trách vai trò Chủ tịch Liên Khu 1 của Lực lương Sinh viên Tự do Dân chủ để cùng các sinh viên Công Giáo gìn giữ sự quân bình cho các sinh hoạt trần thế trong những ngày tháng nhiễu nhương đạo đời sau cuộc đảo chánh lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1963 với những cuộc đốt phá các giáo xứ Thanh Bồ Đức lợi...
    Biến cố tổng tấn công tết Mậu Thân của Việt Cộng đã đẩy hàng triệu đồng bào và thanh niên hai miền Nam Bắc vào vòng tử sinh. Cùng với những sinh viên, thanh niên bị chi phối bởi luật tổng động viên, bốn anh em chúng tôi đã phải lên đường nhập ngũ khi tiếng súng còn nổ ở vùng ven biên. Là một chuyên viên ngành tư pháp, sau khi tốt nghiệp trường Sĩ quan Bộ Binh Thủ Đức anh đã đỗ đầu khóa học Sĩ quan quân cảnh tư pháp tại Vũng Tàu và được bổ nhiệm làm đại đội phó đại đội 34 quân cảnh tư pháp trú đóng tại khu trường đua Phú Thọ, và làm đại đội phó đại đội 36 trên đường Chi Lăng, Gia Định kiêm tiểu đội 1 quân cảnh tư pháp nằm trên đường Tô Hiến Thành Sài gòn cho đến ngày 30 tháng tư năm 1975.
    Giòng sinh mệnh những tưởng chừng như êm ả với những thành đạt và năng động của anh.
    Nhưng, từ những trận chiến kinh hoàng, giết người không gớm tay do đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương và phát động đã đưa đến ngày 30 tháng tư năm 1975, phá tan đời sống hạnh phúc của cả nước, làm thui chột và hủy hoại biết bao những tài năng xuất chúng của những người thanh niên Việt Nam.
    Chỉ với 8 năm quân ngũ, người anh đa năng đa hiệu của gia đình chúng tôi đã phải sống trong bốn trại tù khổ sai hơn 6 năm. Bị chứng kiến những cái chết oan khiên, những đói khổ, đọa đày khi những người Cộng Sản chủ trương “Cứu cánh biện minh cho phương tiện” – tất cả, đã biến anh từ một người năng động thành một người “trầm tư mặc tưởng”, sống với nội tâm, chiêm niệm và trọn vẹn cho lòng hiếu thảo, nghĩa anh em. Sau khi đi định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO1, với tinh thần tự học và thông minh hiếm có, anh đã trở một chuyên viên điện tử thông thạo Anh Pháp, một người “Leader” được mọi người trong hãng nể phục về tài năng cũng như tính tình hòa nhã trong công việc và giao tế - một người được mọi người quen biết thường nhắc đến với câu nói đầy tình thân thương “ Ông ít khi tham dự các tiệc cưới ngoại trừ các các công việc liên hệ tới hiếu sự”.
    Theo gia đình chạy loạn, băng qua những cánh đồng từ tuổi ấu thơ bất kể đêm ngày – anh tôi, một người không có tuổi thơ như những trẻ thơ Việt Nam đồng trang lứa khi Mặt Trận Việt Minh xuất hiện. Bỏ quê cha đất tổ khi vừa 11 tuổi vào miền Nam tránh nạn Cộng Sản năm 1954, ngày đêm dùi mài kinh sử để biến ước mơ và hoài bão của người thanh niên Việt Nam yêu quê hương thành hiện thực ở lứa tuổi hai mươi tràn đầy sức sống. Nhưng, lực bất tòng tâm – với những ác tâm của người Cộng Sản Việt Nam – người giáo sư trẻ tuổi, đầy nghị lực đã phải bỏ giảng đường, bỏ lại những học trò thân thương với lớp học để kết cuộc dẫn đến sáu năm tù đày khổ sai trong các nhà tù Cộng Sản. Từ đó, một lần nữa, năm 1991 với chương trình HO1, anh giã từ quê hương thân yêu vĩnh viễn, sống nhờ đất khách, chết chôn quê người, để lại những tiếc nuối, xót thương và đau buồn cho những người thân yêu, bạn hữu và từng lớp lớp học trò yêu dấu năm xưa.

    Chu Kim Long
    California 26 tháng 6 năm 2023


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...