Trần Thị Diệu Tâm
Thời gian ?Thời gian thường được vẽ như một đường thẳng,
trong đó quá khứ nằm ở bên trái, còn tương lai nằm
bên phải phía trước, hiện tại đứng ở giữa. Khái
niệm đó thật là dễ hiểu. Nhưng vẽ một đường thẳng
rồi phân định ba điểm qúa khứ hiện tại và tương lai,
cho rằng đó là biểu tượng thời gian, thú thật qúa
đơn giản. Đơn giản để tìm thấy sự giải thích hợp lý.
Có người sợ súng sợ đạn, sợ chết. Riêng tôi thì sợ…
thời gian.
Thời gian chỉ là một ý niệm, phi vật chất, nhưng chính nó làm tàn tạ bao điều tốt đẹp về vật chất lẫn tinh thần. Chính nó làm quên lãng nhiều điều chúng ta cần phải nhớ. Do đó thời gian ít khi chiếm được cảm tình của con người. Nhưng dù bị ghét bỏ hay được trân trọng, nó vẫn đương nhiên tự tại, vì nó là một thứ uy quyền vũ trụ.
Tôi sợ, vì nó ra đi không bao giờ quay về hay trở lại ghé thăm mình lần thứ hai. Buổi sáng 8 giờ ngày hôm qua, không giống như buổi sáng 8 giờ ngày hôm nay, vì mọi chuyện đã đổi thay. Sự thay đổi phải chăng là do thời gian tạo ra. Nếu không thay đổi, chắc chắn chúng ta không biết thời gian là gì. Nếu không có bốn mùa thay đổi trong một năm, thì chúng ta làm sao có mùa Xuân cho hoa nở, mùa Hạ cho nắng reo vui, mùa Thu cho thi nhân than thở, và mùa Đông lạnh tưởng nhớ nhau ?
Có người cho rằng thời gian chạy qúa nhanh, nhưng có lúc không hiểu vì lý do chi lại nói thời gian sao đi chậm qúa. Đúng là miệng lưỡi con người, khi nói này, khi nói khác, không biết đâu mà theo.
Với tôi, có lẻ như một số người khác, đến một giai đoạn nào đó, thích trở lại với qúa khứ mình bằng cách này hay cách khác. Có nghĩa là muốn quay lùi về phía sau bên trái con đường thẳng. Phải chăng, vì con đường bên phải phía trước sắp bị nghẽn, không tiến bước được.
Tìm về qúa khứ, kỷ niệm, là một cách sống lại lần nữa chính đời mình. Cũng thú vị lắm.
Trong văn học Pháp, Marcel Proust, tác giả của bộ tiểu thuyết độc nhất, nhưng độc đáo, Đi tìm thời gian đã mất, làm sống lại những hoài niệm về tuổi thơ, tuổi trẻ, về tình yêu trong sự cảm xúc sâu lắng của trái tim, và trong vẻ đẹp triết học. Để rồi tác giả than vãn thiên đường thật sự chính là thiên đường đã đánh mất.
Từ ngày còn trung học, tôi thắc mắc rất nhiều về cái tựa đề À la recherche du temps perdu, mặc dù không học văn chương Pháp, không biết tác giả là ai. Nhưng đã cảm nhận một nỗi niềm sâu xa thầm kín về ký ức một đời người, vì « thời gian đã mất ».
Nhà văn nhà thơ thường bi quan với hiện tại. Tôi không thuộc đẳng cấp với những người bi quan . Nhưng muốn nhớ kỷ niệm để thấy mình sống thêm lần nữa đời mình .Và chính mùi thơm của các loài hoa đã dẫn dắt tôi trở về vùng ấu thơ đầy những hình ảnh sống động, tưởng chừng như đang xem một cuốn phim quay chậm, nhân vật chính là tôi.
Ôi những nụ hoa, xin cám ơn món qùa tặng thiêng liêng của Đất Trời.
Xin kể rằng, tôi mua cây hoa Lài ở phố Tàu quận 13, Paris. Một cây cuối cùng còn sót lại lăn lóc, với những chùm nụ trắng nõn đang đưa mắt nhìn tôi cầu cứu. Nếu qua ngày mai không ai mua, cây sẽ chết, chùm nụ sẽ héo. Sau một tuần chăm sóc, các chùm nụ mạnh mẽ vươn ra ngoài ánh nắng cửa sổ ban mai. Những nụ non trắng tinh khôi tỏa nhẹ một mùi thơm thoang thoảng…
Dạo ấy còn học tiểu học, bài vở không chi nhiều, nhưng gia đình Ngoại luôn bắt con cháu phải cố gắng học hành chăm chỉ khuôn phép, từ đứa nhỏ cho đến đứa lớn. Tôi là con bé chúa lười, buổi tối ăn cơm xong, tôi giả vờ để cuốn vở trước mặt, nhưng đầu óc lơ mơ. Gió mùa hè mát rượi thổi qua cửa sổ, gió đem theo cả một mùi thơm ngào ngạt. Tôi hỏi người Dì đang ngồi bên cạnh,
- Dì ơi mùi chi thơm quá ?
Dì đang lén lút đan áo len cho ông bồ nhà binh sắp về phép, Dì cũng giả vờ để một cuốn vở trước mặt, thỉnh thoảng Dì đọc to lên những câu Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, xếp bút nghiêng theo việc đao cung, thành liền mong tiến bệ rồng./ Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao… cho mọi người biết Dì đang học hành chăm chỉ. Tôi biết tỏng, nhưng không nói cho Ngoại, tôi thương Dì. Tôi thuộc lòng những câu thơ Dì học, mặc dù tôi chỉ mới học lớp ba.
Dì giật mình ngừng đọc, trả lời :
- Ừ, đúng là mùi bông Lài bên nhà bà Tham.
Nhà bà Tham cũng gần, gió đưa hương làm tôi ngây ngất, ai mà chẳng thích mùi thơm. Tôi lại thích bắt giữ nhốt kín mùi hương trong tay đừng cho nó bay đi trong gió đêm.
- Dì ơi, Ngọai có hỏi thì nói cháu qua nhà con Hường mượn sách nghe Dì.
Dì gật đầu, vì luôn bao che tôi, và lẽ dĩ nhiên tôi không cho ai biết về chiếc áo len đặc biệt kia.
Thế là tôi lách mình ra ngoài, nhón chân chạy nhanh qua phía ngõ nhà bà Tham, như con mèo con. Len vào được cổng rào, tôi tiến về phía mùi hương, nhờ ánh đèn hắt ra từ cửa sổ, tôi thấy mấy bụi bông Lài đầy bông trắng xóa. Đưa hai tay vuốt nhẹ, bức sạch hết cho vào hai bọc áo. Xong, mèo con chui khỏi hàng rào thong thả vào nhà.
Ngồi trở lại trên bàn học, người tôi toát nồng hương hoa. Dì mĩm cười :
- Con ni đi hái trộm bông Lài phải không.
Tôi làm thinh, chia cho Dì một nắm bông trắng tươi :
- Dì ướp vô áo len đó cho thơm.
Dì ngạc nhiên nhìn tôi, sững sờ với lời khuyên rất hữu lý của con cháu bé học lớp ba.
- Coi chừng bà Tham biết.
- Không, chỉ có cháu và Dì biết thôi.
Tôi định bụng sáng mai vào lớp chia cho mấy con bạn ướp vô sách vở, vừa thơm vừa học bài mau thuộc. Tôi không dám đưa cho Ngoại bỏ vô trà như lời Ngoại thường nói, trà ướp lài ướp sen thơm lắm.
Từ sáng tinh mơ hôm sau, tôi nghe giọng mụ người làm nhà bà Tham đứng ở cổng chưởi đổng:
Con ranh mô đồ yêu qủy đến nhà người ta hái hết bông lài, ban đêm không ngủ ngáy mà đi phá làng phá xóm, có hái thì cũng phải để chừa cho người ta một ít chớ, đứa mô mà ác đến rứa tề...
Trong câu chửi xéo chửi xiêng của mụ, mụ cho rằng chỉ có con chứ không có thằng. Vì con gái mới thích đi bẻ bông trộm bông, còn thằng thì thích trộm... gà trộm vịt.
Tôi đi đến trường phải qua một lối khác xa hơn, tránh nhà bà Tham, lỡ có ai nhận ra tôi là thủ phạm chăng. Tuy bị nghe chửi đổng, nhưng việc lén lút hái trộm bông trộm hoa ban đêm gây cảm giác thích thú kỳ lạ. Có lẻ tại vì mùi thơm nồng nàn của hoa, hay tại vì đêm tối thường phát sinh ra ý tưởng mạo hiểm mà ban ngày không dám nghỉ tới. Hay cũng tại vì những ngôi nhà vườn Huế đầy hoa đầy trái, rất quyến rũ cho tuổi thơ dại.
Đó, hoa Lài của tôi ngày xưa. Giờ đây đem chậu Lài về nhà, vẫn chính mùi hoa ngày ấy, vẫn chính mùi thơm xưa. Có lẻ nó theo ông bà cha mẹ dạt qua xứ này gặp tôi chăng ? Người biết có luân hồi , cây cỏ có sự sống biết đâu cũng tái sinh.
Nhìn hoa, hít mùi thơm vào lòng, như hít cả một trời quê hương tự ngàn xưa.
Còn mùi hoa gì cho lòng tôi xao động nhớ quê nhớ nhà tha thiết ? Xin thưa, đó là hoa Mai. Cây hoa Mai tôi đem về từ Cali, gói ghém cẩn thận cầm tay lên máy bay, giấu ở dưới gầm ghế ngồi, không cho cô tiếp viên Américain Airlines thấy. Người đi trên máy bay về rất mệt, nhưng cây Mai về đến nhà vẫn còn đầy nụ và lá xanh non.
Qua hai tuần sau đúng như dự đóan, hoa Mai nở ngay trong phòng khách. Tôi nhớ sáng hôm ấy, một buổi sáng thật kỳ diệu. Tôi bỗng chợt tỉnh, như có ai đánh thức mình dậy. Nhìn đồng hồ thấy còn sớm qúa mà, nhưng tôi không thể ngủ tiếp. Như thói quen thường lệ, việc đầu tiên trong một ngày mới, ngắm hoa. Vì hoa thường nở vào không khí đêm tĩnh lặng. Cả hai chùm nụ đang hé môi cười tình, dù bình minh chưa đến hẹn. Tôi hiểu ngay rằng hoa thức giấc tôi để báo hiệu nó đang mời gọi chào đón. Mỗi đài hoa có sáu cánh mỏng như cánh bướm non mới rời kén, màu vàng đẹp như giấc mơ. Tôi cúi xuống gần, hương Mai nhẹ nhàng biết bao, ấm áp và êm đềm. Đó là hương của mùa Xuân, của ngày Tết quê nhà.
Ôi ngày Tết quê nhà. Tôi quay nhìn lên bàn thờ gia tiên, đốt một nén nhang. Dù sáng hôm ấy không còn Tết nữa, nhưng trầm hương chen lẫn hoa hương làm tôi rưng rưng nước mắt chạnh nhớ quê xa, xa trong không gian và xa cả thời gian.
Tôi tưởng chừng như mình đang mọc đôi cánh trắng, nhẹ nhàng bay ra khỏi nơi này, trở về chốn cũ.
Vườn cây bên nhà Nội tôi có một gốc Mai thật đặc biệt, già nua cằn cỗi, thân cây nổi từng u gỗ như những con mắt lồi, thỉnh thỏang đe dọa hay canh chừng khi tôi mãi mê đánh đu trên mấy nhành ổi non. Nghe Nội nói ông Cố trồng từ khi tạo dựng khu từ đường này, trước khi cha tôi sinh ra, Cố làm thượng thư trong triều, nổi tiếng thanh liêm. Dạo ấy tôi chẳng hiểu thanh liêm là nghĩa chi chi, nhưng biết nó đi theo với chữ nghèo.
Tôi nhớ vào dịp trước Tết, cây Mai ra nụ chen chúc đầy nhánh, nhánh nào cũng đầy ắp nụ mập ú và bóng mẩy. Có người hàng chợ trên xuống thăm Nội, nhìn ngắm cây Mai hòai không chán. Sau đó họ cho người đến cưa phần trên cả chục nhánh, Nội dành lấy một cành đẹp nhất. Người mua đưa Nội một ít tiền, Nội thở dài. Nghe Nội chép miệng dành tiền mua gạo. Cành Mai cuối cùng chưng trong nhà Nội, nở đầy hoa thật đẹp vào đúng ngày mồng Một, làm tươi thắm gian nhà âm u những âm hồn. Những bàn thờ đầy hình đầy ảnh cố ông cố bà, chú bác bà cô chết non chết trẻ. Tôi rất kinh sợ khi nhìn họ, chỉ chăm chăm nhìn những dĩa trái cây và các dĩa bánh khảo bọc giấy xanh giấy đỏ. Tuy thèm những chiếc bánh đẹp mắt, tôi không dám trộm một cái nào, vì thấy hình một bà cô luôn đưa đôi mắt sắc sảo nhìn tôi đăm đăm. Nội nói bà cô rất đẹp, Cố ông định tiến cung vua, nhưng chưa tiến thì cô chết yểu. Chạy ra vườn, cây Mai trước nhà trơ trụi, hoa không lá không. Trông như một người đàn bà bị gọt đầu bôi vôi, buồn dã dượi. Nội cho tiền mừng tuổi, có lẻ trong đó có cả tiền bán cây Mai. Ngoài sân lúc bấy giờ hình như không có nắng, chim chóc thôi về ríu rít, nắng đi mất rồi. Đó là một ngày Tết thật buồn tẻ. Nhà đã vắng người nay còn trống vắng hơn nữa. Cây Mai trước nhà như một ông hộ pháp gìn giữ từ đường này qua bao nhiêu năm tháng, qua bao nhiêu biến động, để con cháu tụ họp vào những ngày giỗ chạp. Thấy tôi ngẩn ngơ nhìn cây Mai trọc đầu, Nội nói sang năm nó sẽ trổ bông đẹp hơn nữa. Nhưng sau đó, tôi không còn ở với Nội. Vùng quê ấy mất an ninh, Nội vào chùa tu ẩn, ngôi từ đường hoang phế, thỉnh thoảng có ông già trong họ đến rẫy cỏ, quét nhà. Trong ký ức tuổi thơ tôi, dầy đặc biến động chiến tranh, cùng với những mất mát, có cả mất mát về một cội Mai ngày Tết năm ấy. Giờ đây, cây Mai bé nhỏ nâng niu đem từ xứ Mỹ về chỉ sống sau bốn tuần, khi đã nở hết tất cả các nụ xinh xắn cho tôi ngắm cho tôi giữ vào lòng hơi ấm mùi hương. Rồi cây bắt đầu gầy guộc, lá rụng xuống, tôi lo lắng chạy chữa đủ mọi phương cách. Trong lúc thẫn thờ nhìn cây Mai đang dần dà gục xuống, tôi nghe như có tiếng thì thầm tuyệt vọng: “Chị đem em từ bên kia qua sống bên này là không phải cách, không đúng với luật sinh tồn Trời Đất. Chị tưởng rằng em có thể sống được nhờ ánh nắng, nhưng đâu phải ánh nắng nơi nào cũng giống nhau. Đừng tưởng rằng trái đất chỉ có một mặt Trời và cùng một thứ nắng. Nắng quê em không phải là nắng ở đây, gió quê em không phải là gió quê người. Em động lòng vì tình yêu của chị đối với em, đưa em qua ngàn dặm về đây, xin nở cho chị chỉ một lần thôi vào sáng hôm ấy, em đem tất cả sinh lực còn lại để trao tặng chị những chùm hoa thơm đầu tiên và cuối cùng”. Từ đó cây Mai kiệt sức, khô héo. Biết không thể trồng Mai ở xứ lạnh này, tôi có ý định mua một chậu mai giả đem về nhà cho đỡ nhớ. Nhưng hoa giả không có sự sống, nên ngần ngại. Dù không còn hiện diện cùng tôi mỗi ngày, nhưng cây Mai bé nhỏ ấy luôn xuất hiện trong tâm hồn với mùi thơm dịu dàng êm ấm của nó. Cũng như cội Mai già ở từ đường ngày xưa vẫn luôn hiện diện sinh động, và thỉnh thoảng lại nhẹ nhàng trổ bông trong ký ức qua mấy mươi năm. Tôi cũng nghiệm ra một điều tuy tầm thường, nhưng làm tôi chú ý : Chính sự sống của hoa đã giải thích cho tôi biết thế nào là chuyển dịch của thời gian. Cùng với cách giải thích này, hoa cũng là một người bạn rất tốt giúp tôi làm sống lại bao điều, trí óc tôi lành lại với những thương tổn do đời biến động. Mỗi khi tôi chợt thức giấc sớm hơn thường lệ, biết rằng sáng ấy có một bông hoa nào đấy đang nở trong nhà. Tưởng chừng như có một giao cảm nào đó giữa người và hoa. Vì đời người cũng như đời hoa, có chung một luật định của tạo hóa qua thời gian. Sống và chết. Nở và tàn. Người yêu hoa và hoa yêu người. Sự hỗ tương thật đáng qúy.
Trái tim người có khi không đập cùng nhịp với người, nhưng luôn cùng nhịp với trái tim hoa.
Tôi xin khẳng định điều này. Trong tình tự của một loài hoa nở, tưởng như tầm thường, tôi học được bao điều tốt đẹp, làm hân hoan cho đời sống bình thường lặng lẽ này, và cũng hoàn tất phần nào cái bất toàn của cuộc sống. Mỗi tuần, tôi lang thang vào vườn bán cây cảnh, tìm hoa quê mình, như tìm người thân thất lạc sau cuộc đổi đời. Xứ sở này có biết bao nhiêu kỳ hoa dị thảo, sao tôi cứ mê mãi tìm hình xưa bóng cũ ?
Trên khái niệm đường thẳng thời gian, nhờ hoa, tôi có thể bẻ cong thời gian thành vòng tròn. Để làm gì ư ? Thưa để trở về một thời điểm quá khứ bắt gặp hay sống lại những hình ảnh êm đềm trên quê hương mình. Một vòng tròn luân hồi, luân hoán, vòng tròn của tử sinh sinh tử.
Nhưng bên cạnh những hình ảnh được cho là êm đềm ấy, cũng sống lại bao điều đắng cay buồn thảm, như thể những đau đớn ấy lớn lên gấp bội trong hiện tại, theo tuổi người tuổi thời gian. Nhiều điều bất hạnh không làm mình buồn khổ trước kia, nay bỗng dưng tràn ngập xót xa khi nhớ lại. Đời sống đâu chỉ là niềm vui mà không có nỗi buồn.
Thời gian ơi, tuy biết thời gian làm tàn tạ bao điều, làm quên lãng những điều thương mến của chúng ta, nhưng thời gian làm cho cây cỏ nẩy mầm, cho hoa nở nụ, và cho người biết qúy trọng giây phút hiện tại để tận hưởng cuộc sống muôn màu muôn vẻ...
Paris tiết Sương Giáng

