CHÚ SÁU LINH VÀ CON KHỈ
Tình Hoài Hương.
*
Tuyết Ngọc ngồi trên ngọn đồi thưa ngó xuống thung lũng trước mặt có bãi phù sa, cồn cát vàng mịn nổi lên một cù lao giữa dòng sông xanh mênh mông. Mặt sông bồng bềnh có khúc uốn cong đầy bèo, lục bình, lá khô rác rưới trôi đi trôi về mỗi khi nước xuống, nước lên, nước đứng, nước rút ở làng Nghĩa Hòa thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Con sông xanh nối hai bờ bởi chiếc cầu gỗ sơn trắng dài ngót nửa cây số. Cây cầu nối từ bờ nầy qua bờ kia xa mờ xa có tên "Cộng Hòa" cuốn theo bao mộng ước vui say thời Trọng mới lớn. Anh thả mặc tình yêu lững lờ trôi giữa dòng thác lũ, xả láng cuộc đời trai trẻ như canh bạc về khuya trên những mưu toan đen đỏ thời cuộc, và rủi may do số phận phiêu lãng đẩy đưa.
Trọng ghét ông chú ruột, ghét đến nỗi nhập tâm, làm gì đi đâu hay ngủ nghỉ, Trọng vẫn nhớ tới những trò hề chú Sáu làm, mà giựt mình. Trọng khinh chú, không phải chú có mặt mày bặm trợn trông cô hồn các đảng, hoặc do chú “bá đạo”, huyện đề đâu... Chỉ vì Trọng nghe chú ưa cười gằn, hắng giọng, nói:
- Tổ choa mi, nói cho bưa cái chi bậy bọa (bây bạ) hỉ? Coi mi khờ câm rứa! Tau đa nghề thì dễ bề "goạt động" (hoạt động). Nghe mậy!
Câu nói ngụ ý chẳng lành khiến Trọng điên tiết, anh không láu cá, hỗn láo ngang tàng, hay ỷ mình có chút kiến thức, mà coi thường chú. Bởi, Trọng biết "cái tẩy" ác ôn, lưu manh gian trá, nhưng miệng lưỡi chú ngọt xớt như mía lùi. Bề ngoài con người biểu kiến ấy, không ai đoán biết chú thực sự nghĩ gì. Chú ghim gút rất phức tạp, lại ích kỷ hại nhân quá quỷ sứ.
Kiến thức hẹp hòi, tâm tư nhỏ nhen, khả năng tầm thường, học chẳng biết chữ cu chữ cò, viết như rồng như rắn. Chú qua mặt dân hiền "hoạ hổ hoạ bì, nan họa cốt. Tri nhân tri diện, bất tri tâm" (vẽ hổ vẽ da, không vẽ được xương). Chú mượn cớ: ta đã "tu nghiệp đa nghề". Cái hèn của chú tuy không hơn ai, nhưng nếu có ai hơn chú, thì chú liền tìm mọi cách "vạch lá tìm sâu", vu oan giáng họa ganh ghét thù hằn. Chúlân la đầu trên xóm dưới nghe ngóng, thu lượm tin tức,rồi hại họ không thể ngóc đầu lên.
Chú chống nạng gỗ, miếng đế nhựa bị sút ra vang lên tiếng kêu lạch cạch lọc cọc, Trọng nghe thật chướng tai. Chú giã đò nhậu không say không xỉn, không về. Chú ngồi đó rầy rà châm chọc người khác. Trọng không thể dung tha, dù hại người vì bất cứ lý do gì, cũng là sai. Sinh mạng con người bình đẳng có nhân phẩm, có tự do đáng trân trọng như nhau. Không ai có quyền hủy diệt, tước đoạt sự sống hay loại trừ tự do tư tưởng của người khác.
Chú Sáu lén rải thuốc diệt chuột rồi rỉ tai phao tin nước sông bị bỏ thuốc DDT, khiến cá, ếch nhái cua cò và lũ chuột chù, chuột chũi, chuột cống, chuột hôi, chuột đồng, chuột lang, chuột nhắt chết la liệt. Bà con sợ hãi, không tin tưởng bất cứ kẻ lạ người thân.
Chú bố láo như vậy, để thuê người đào giếng làm nắp đậy khóa chặt, không cho người ngoài ghé tới xài chung. Vả chăng muốn đào một cái giếng thì tốn bộn tiền, mà người dân chạy ăn từng bữa đã vất vả rồi. Do vậy trúng thầu về vụ đào giếng, chú có lợi tức một vố kha khá. Trọng biết chú chỉ ba xạo để người khác thọ ơn mỗi khi họ quảy đôi thùng tới nhà ông mua nước giếng.
Chú Sáu sống sung túc phủ phê nhờ bà con làng nước mê tín dị đoan, chú trổ tài “khuyển mã” lưu loát, nên không mấy ai biết mình bị lừa. Nhặt ba thứ lá tầm phào đem về, chú cho tà lọt xắt nhỏ trộn đều phơi vài ba nắng. Nếu ai cần, chú bán giá cắt cổ. Trọng nghĩ câu ca dao:
“Chổi cùn cắp nách khăng khăng.
Hễ ai hỏi tới, thì văng nghìn vàng”. (*)
Nắng gió trở trời, ai đau đầu, đau bụng, hắt hơi nhảy mũi, họ tới nhờ coi mạch, lúc đó “thầy nổ" như củ cà
nông. Ai đau ốm nặng nhẹ mặc lòng, chú bắt đàn bà thắt bím đuôi sam. Đàn ông húi cua:
- Để tóc dời (dài) che mẹt (mặt) tóc sẽ chọt vô đỏ mét, không còn “đôi mét là cửa lộ” của tâm hồn cho thần linh rọi vô.
Bà con làng nước nghe câu “văn chương" của chú bùi tai hay đáo để! Nông dân bị đau răng, chú đủng đỉnh đi xe sợi chỉ, quấn một đầu chỉ vô cây đinh mười đóng trên tường, đầu kia cột sợi chỉ vào chiếc răng. Cứ thế, chú Sáu lôi ra bẻ răng. Mặc họ dùng cả sức mạnh hai bàn tay đẫy ra. Chẳng hề có thuốc tê thuốc bại cầm máu cầm mủ chi. Họ ré lên eng éc như con heo bị thọc tiết, máu miệng phun có vòi.
- Bựt!
Chú Sáu tự hào vỗ ngực:
- Xong rồi! Đồ iả cái rẹt! Sơn Đông Mãi Võ nhổ răng còn thua tui!
Bị ngất xỉu, chú cho con Nụ giả tép sả, bắt thằng cu Út rặn ít nước tiểu, chú hòa muối cho bệnh nhân uống. Bị chảy máu cam, chú nhét đầy cục tóc rụng vô hai mũi, khiến bà con muốn ngộp thở. Không còn tóc rụng, chú thản nhiên kêu con Mót vô sau nhà cắt nhúm tóc nhu nhú. Tóc con nhỏ ngày càng sát da đầu, nó tức mình nhảy đành đạch khóc ngất.
Bị ghẻ hờm do vắt, đỉa cắn, ký sinh trùng gây ra ngứa ngáy, đau nhức khó chịu, mưng mủ sưng tấy. "thầy Sáu" nổ:
- Rứa là, do ăn ở không có đức, mà gây ra.
Người ấy thẳng thắn lý sự lại:
- Ồ, có bốn thứ: Lé, lùn, hô, sún, thì thầy chiếm hết hai rồi. E là do rứa hì?
Mắc cỡ và tức mình không trả lời được, chú để bụng thâm thù. Chú qua mắt đa số dân quê chất phác, gạt họ tin như điếu đổ. Chú nói voi, họ tin voi, vẽ vượn họ tin vượn. Người nghèo khổ bần hàn cố sức bán chác moi móc chạy vạy nhúm tiền để mua thức ngon vật lạ dâng biếu ông xôi chè, lương đăng trà quả. Nhà giàu có gà luộc, heo quay, bò tái, bê thui. Sau khi cúng xong, chủ nhà biếu thầy hậu hĩ tiền bạc rủng rỉnh dằn túi:
Chập chập thôi lại cheng cheng.
Có con gà trống đem lên hầu thầy. (*)
Chú Sáu ngồi trong mát ăn bát vàng moi tiền bạc của dân bằng thích. Tiền họ đưa làm ma chay đình đám, chú ngắt nhéo chỗ nầy một ít, chỗ nọ một ít, nhét đầy vô túi quần mà nơm nớp lo sợ. Nằm trên võng, một mắt nhắm, một mắt mở đề phòng mất cắp. Y như rằng có một lần chen lấn vô đám Sơn Đông Mãi Võ coi say sưa con khỉ cỡi xe đạp, khỉ ăn cắp bánh bao. Chú thích con khỉ nhứt, vì nó thông minh và ma lanh giống mình. Lần đó chú bị mất bóp tiền không cánh mà bay cái vèo lúc nào chẳng rõ.
Quét dọn moi móc khắp mọi xó xỉnh, tiếc của ngẩn ngơ chú đi kiểu tăng gô xì lô bộp, cha cha cha với cây chổi cùn luân vũ, mà chửi đổng. Nghe dễ mất lòng, dễ đỗ quạu, dễ xa nhau, dễ giận nhau, dễ tức nhau, dễ đánh nhau. Khổ ghê đi.
Hình như chó đánh hơi biết được “lòng lang dạ thú” chú hơi giống đồng loại chó là điều đại kỵ, đi đến đâu nó sủa rần trời đến đó. Chú Sáu khóc hụ hụ. Đàn chó nghe tiếng chủ la rống, chẳng những không sợ chủ đánh đập như mọi ngày, mà chúng bắt chước hùa theo chủ tru hú từng hồi vang làng vang xóm.
* * *
Trọng khuyên lơn chi, chú như đàn gảy tai trâu khi biết danh ta nổi như cồn ngoài nhà bà Ba Cu. Ừ, quả thật bà Ba bán cà phê điệu nghệ có nuôi chim cu để nghe nó gáy cho vui. Ai muốn hiểu sao thì hiểu:
Cầm tay, anh nắm cổ tay.
Em đừng hô hoán sự nầy mà to. (*)
Nhưng bà Ba ỏn ẻn có giã vờ ngúng nguẩy hất tay ổng ra:
Bữa cơm múc nước rửa râu.
Hầu cơm, hầu rượu, hầu trầu, hầu tăm.
Đêm đêm dắt “cụ” đi nằm.
Than thân phận gái ôm lưng lão già. (*)
Nói cho vui chớ ngu chi lờ ông Sáu, vì ổng có tiền rủng rỉnh mà:
Ông ơi ông buông tôi ra.
Kẻo người trông thấy, họ chê cười. (*).
Thì ông Sáu liền túm ba Ba lại:
Chỉ đâu mà bịt ngang trời?
Tay đâu mà bịt miệng người thế gian. (*)
Tuần sau, ông Sáu có dịp "tạo vốn" khác, tiền lời to gấp ba lần số tiền đã mất. Sung sướng quá, lúc ăn cơm, khề khà tợp ngụm rượu đế, chú nói với người nhà (Trọng ngồi ở trong phòng riêng nghe):
- Mình lồm en (làm ăn) với cái bợn đèn bòa, (bọn đàn bà) dưới đất chun ra, ngu như con bò tót ni, rứa mà khá dữ đa! Thật sướng rơn người. Nghe mậy! Tiền bạc nẫu lo cho tau đều chi. Không thiếu một hào, một trự. Đôi khi tau bốc phét: làm việc ni thầy lo không xuể. Phải lo cho cấp sư phụ của thầy.
Thì nẫu tin như điếu đổ đưa tiền cho tau hậu hĩ. Rứa là tau giã đò mẹc áo (mặc áo) ra nhà bà Cu ở mấy bữa. Lại ăn chặn bên ni bên tê một ít. Có thêm một mớ thiệt sướng rơn người. Nghe mậy. Tha hồ cho mạ con chúng bây và tau không sướng run thì thôi.
Thượng cẳng tay, hạ cẳng chân, cứ thế ông vơ vét của dân làng nơi thâm u cùng cốc không chừa một ai. Trọng nghe ông nói, lòng bỗng dâng lên nỗi hận và giày vò khôn tả. Anh muốn đi ra dộng vô mặt chú một cái, chửi một trận. Tới đâu thì tới. Nhưng suy đi nghĩ lại Trọng quá thương cha mẹ mà không nỡ đấm chú.
* * *
Tuyết Ngọc suy nghĩ liên miên khi nhìn xuống chóp mái ngói đỏ au của nhà Trọng, cô lại sực nhớ tới ông Sáu Linh ở trong xã nầy. Nghe Trọng than thở, cô cảm thấy càng khinh ghét ông hơn. Hai tâm hồn Ngọc và Trọng đồng điệu, thu hút quyện mắc vào nhau sít sao như cục nam châm trước bối cảnh lịch sử đối nghịch, bất đồng chính kiến trăm phần trăm.
Thì làm sao họ yêu nhau, xe tơ kết tóc, xây dựng tình yêu từ trong gia đình ra tới làng mạc, quê hương đây. Làm sao yêu nhau đến cuối cuộc đời? Cay đắng, đau xót dường bao!
Bỗng đâu, một con khỉ khá lớn từ trên nhánh cây rừng to nhảy xuống cái độp, khiến Ngọc giật bắn người. Chưa kịp hoàn hồn, con khỉ xô cô ngã lăn ra đất. Nó chộp cái nón sắt rồi thoăn thoắt leo lên cây cao. Nó kêu khò khè gãi đầu gãi mông và tè ra chẳng kiêng nể ai. Đội mũ sắt vô đầu, nó ngồi chồm hổm trên cây chu mỏ kêu chí chóe.
Tuyết Ngọc điên tiết, không có cách gì dụ con khỉ quăng mũ xuống, dù cô đã mỏi nhừ hai tay ném đá xuống đất. Con khỉ chẳng thèm bắt chước. Ở trong vùng chiến tranh con khỉ có “ma lanh” vẫn thua ông Sáu Linh. Khỉ đội nón lính và biến mất trên những tàng cây rậm trong rừng sâu.
Ra chiến trường, Ngọc không khôn ngoan, không có mũ sắt, kể như thua rồi.
*
Tình Hoài Hương.
