Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
X

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Cảm tưởng về bài: "Sự Thật Đời Tôi" của Tướng Trần Văn Minh...



    Trung Tướng Không Quân Trần Văn Minh

    Trích dẫn: “Sự Thật Đời Tôi” của Trung Tướng Không Quân TRẦN VĂN MINH


    … & V.V…

    Câu trả lời cho thảm kịch thất trận của miền Nam Việt Nam thật đơn giản. Nó có thể tóm gọn với hai chữ “không đủ”. Chúng tôi không có đủ tiếp liệu trong những tuần cuối cùng của cuộc chiến. Và chúng tôi không có đủ lính. Chỉ có thế. Đó là toàn bộ vấn đề. Không đủ. … & V.V…

    Vấn đề sinh tử là chúng tôi không còn cơ phận và cũng không có nhiên liệu. Chúng tôi bị thiếu hụt nhiên liệu trong những ngày cuối cuộc chiến. Vì vậy mà chúng tôi không thể cất cánh. Không lực chúng tôi bị nằm ụ dưới đất. Thế mà người Mỹ, có computer với đầy đủ dữ kiện. Họ nói rằng chúng tôi có đủ. Họ cả quyết là chúng tôi có đủ nhiên liệu và đồ phụ tùng. Họ cả quyết trên cơ sở chính trị. Họ không cả quyết trên cơ sở thực tế.
    Tất cả những gì chúng tôi cần đến là Tiếp Vận. Có tiếp liệu mới đánh đấm được. Khi mà hàng tiếp liệu không được chuyển giao, thì tinh thần chiến đấu của sĩ quan và binh lính chúng tôi sẽ xuống thấp. Ai cũng thấy là đồ tiếp liệu đang cạn kiệt. Họ biết chúng tôi sẽ hết sạch. Và khi họ thấy như vậy, họ sẽ biết là chúng tôi đang bị đồng minh thân thiết bỏ rơi. Và rồi họ sẽ mất sạch tinh thần chiến đấu. Tôi chưa bao giờ nghĩ là đồng minh sẽ lừa dối và bỏ rơi chúng tôi.


    Tôi nghĩ đến Bá Linh và Đại Hàn khi nghĩ đến các giải pháp của người Mỹ. Và tôi thấy người Mỹ đã bảo vệ họ. Tôi nghĩ là chúng tôi, là tiền đồn của thế giới tự do, rồi cũng được bảo vệ như thế. Đại sứ Graham Martin nói đi nói lại là Mỹ sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng tôi. Ổng nói là chúng tôi nên tin như thế.
    Những gì đã xảy ra vào phút cuối đã như một vài người Mỹ đã nói trước. Chúng tôi thua trận nhanh hơn Bắc quân có thể thắng. Đúng vậy. Tôi coi như sách lược của tổng thống Thiệu là bỏ rơi vùng cao nguyên sau khi mất Ban Mê Thuột là một chiến thuật hay. Nhưng nếu chúng ta được tiếp vận hợp lý, thì tinh thần chiến đấu của chúng ta vẫn còn, và chúng ta có thể tái phối trí quân đội để tiếp tục chiến đấu.
    Khi tổng thống Thiệu từ chức vào ngày 21 tháng Tư, tôi đã nghĩ đó là dấu hiệu lạc quan. Tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ có những thỏa ước mới, những chế độ mới. Phó tổng thống Hương trở thành tổng thống. Ông là một nhà giáo lão thành đáng kính. Ông là một người trung thực. Nhưng rồi ông giao quyền tổng thống cho tướng Dương Văn Minh. Một vài người chúng tôi tin rằng tướng Minh có thể đạt được những thỏa ước hòa bình. Nhưng chúng tôi cũng nghĩ tình hình đang diễn ra là một bóng đen hắc ám. Chúng tôi tin rằng người Việt sẽ không còn tự quyết một điều gì. Bất cứ điều gì, chúng tôi tin chắc rằng, phải được quyết định sau bức màn siêu quyền lực. Người Mỹ, người Nga, người Tàu _ chúng tôi tin chắc là thế _ sẽ quyết định số phận của Việt Nam. Chúng tôi đã chờ đợi ngày này qua ngày khác mới thấy những điều họ đã âm mưu. Chúng tôi nghĩ một phần trong những âm mưu đó là người Mỹ sẽ ngưng cung cấp hàng tiếp liệu cho chúng tôi.
    Trong những ngày cuối cùng của VNCH nhiều lần tôi đã có nói chuyện với tướng Nguyễn Cao Kỳ. Và nhiều lần ông đã yêu cầu tôi làm đảo chánh. Ông nói, “Hãy cẩn thận. Người Mỹ đang bảo vệ tổng thống Thiệu. Đừng để họ biết kế hoạch của các anh”. Rồi khi tôi gặp ổng vài ngày sau đó, ổng lại yêu cầu tôi, “Khi nào thì anh cầm đầu cuộc đảo chánh? Khi nào thì đảo chánh?” Tôi nói với ổng là tôi không muốn cầm đầu đảo chánh. Tôi hỏi ông ấy là ông có muốn đảo chánh không? Và ổng nói không, không muốn. Ông nói là ông nghĩ tôi muốn. Ổng quá cẩn thận. Ông muốn tôi cầm đầu đảo chánh để ông trở thành lãnh đạo mới của đất nước.
    Nhưng điều mà tướng Kỳ không thể nào hiểu được là tôi và binh lính của tôi sẽ không trung thành với ai cả. Chúng tôi chỉ trung thành với Tổ Quốc. Chúng tôi trung thành với Việt Nam, Chúng tôi yêu Việt Nam. Rất nhiều người lính chúng tôi đã chết cho Việt Nam. Họ đã chiến đấu và chết không vì bất cứ ai, mà cho Việt Nam.


    Trong một cuốn hồi ký tướng Kỳ nói là tôi đã đến nhà ổng và nói là tôi sẽ trung thành với ổng bằng bất cứ giá nào. Ông nói tôi đã nói với ổng là người của tòa Đại sứ Mỹ đang đút tiền cho tôi để thăm dò ông cho Mỹ. Không có điều nào đúng cả. Không hề có ai đưa tiền cho tôi cả _ đặc biệt là người của tòa Đại sứ Mỹ. Và tôi không hề có chuyện đàm phán nào với tướng Kỳ. Đọc nó rất buồn cười. Tại sao ổng lại bịa ra những điều này trong cuốn hồi ký? Ông moi những chuyện này ở đâu ra vậy? Có thể là ông đang nhắm tới một ai đó chớ không phải tôi. Ông không được bịa chuyện về tôi.
    Gần trưa ngày 29 tháng Tư, tôi nhận một cuộc điện gọi từ cơ quan DAO nói rằng sẽ có một cuộc họp giữa Mỹ và các cấp chỉ huy của VNAF. Tôi qua cơ quan DAO với nhiều người nữa. Chúng tôi được đưa vào một gian phòng. Rồi người ta để chúng tôi ngồi đó một lúc lâu. Chúng tôi nghĩ Đại sứ Martin hoặc tướng Homer Smith (Tùy Viên Quân Sự) hoặc ai đó sẽ thuyết trình một kế hoạch đẩy lui Cộng quân. Nhưng chẳng có ai thuyết trình cả. Không có ai thuyết trình cho tới xế trưa. Sau khi chúng tôi đi vào khu vực cơ quan DAO thì một người lính gác đã tước vũ khí của chúng tôi. Điều này chưa bao giờ xảy ra trước đó. Rồi cuối cùng cũng có một người, mặc đồ sĩ quan, bước vào phòng và nói, “Đã kết thúc rồi, thưa tướng Minh. Một trực thăng đang đợi ngoài kia sẽ đưa ông đi”. Chúng tôi bước ra chiếc trực thăng. Nó đưa chúng tôi bay ra chiếc Blue Ridge ngoài biển Đông.
    Một đại tá Không quân Mỹ đang ngồi trên tàu với tôi. Ông ta ngồi kế bên tôi. Ổng khóc suốt chuyến bay. Ổng không nói được. Nhưng ông ấy đã viết gì đó lên một mảnh giấy rồi đưa cho tôi. Tôi đọc, “Thưa tướng quân, tôi rất tiếc” Tôi vẫn còn giữ mảnh giấy đó cho tới ngày hôm nay. Tôi sẽ giữ mảnh giấy đó suốt đời. Tôi sẽ luôn nhớ tới chuyến bay buồn thảm ra chiến hạm Blue Ridge.
    … Nhưng từ khi đất nước tôi sụp đổ, tâm hồn tôi đã hóa ra tan nát. Trong 20 năm qua thâm tâm tôi đã cảm thấy trĩu nặng nỗi buồn đau và trống vắng. Nó vẫn không phai đi. Tôi cảm thấy nó hằng ngày. Không một ngày nào trôi qua trong đời mà tôi không nhớ về Việt Nam./.

    Trần Văn Minh
    Hết trích dẫn.

    * * *

    Cảm tưởng về bài: "Sự Thật Đời Tôi" của Tướng Trần Văn Minh,
    (qua góc nhìn trung thực từ một Đại Úy Không Quân- Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

    TVP (philong51).
    do Tình Hoài Hương chuyển tiếp cùng độc giả HQPD quý trọng.
    *


    Thưa quý vị NT và các bạn thân kính,

    Qua những gì mắt thấy tai nghe, tôi (philong51) xin có một vài nhận xét:

    - Tham vọng chính trị của Tướng Trần Văn Minh ?

    Nhân kỳ bầu cử TT "Độc Diễn" năm 1971, rất nhiều người không mấy "hài lòng", hay bất bình về sự độc tài, -sự chèn ép- không cho bất cứ ai ra tranh cử Tổng Thống- của ông Thiệu.
    Vào cuối tháng 8 năm 1971, cùng ba vị niên trưởng của PĐ 530, tôi nhận 1 Sự Vụ Lệnh ghi rằng:
    - Thừa khẩu lịnh của Trung Tướng TLKQ về trình diện ông gấp.
    Tại văn phòng BTL Tướng Minh thẳng thắn nói với chúng tôi chỉ có một câu:
    - "ĐM. Mấy vụ nầy tao không có biết nha. Tụi bây qua trình diện cụ Phó (Tướng Kỳ).
    {(Xin lỗi chị THH, Tướng Minh có nickname “Minh Đù” ; vì mỗi câu nói ông thường dùng tiếng Đức, hoặc tiếng “Đan Mạch” ở mỗi đầu câu)} .

    - Về vũ khí ?
    Ngay sau khi 2 PĐ A-1 được bay lại, cùng với 11 anh em PĐ 518 ; tôi biệt phái Cần Thơ nửa tháng. Khi trở lại BH xế chiều ngày 19/4/1975, trong phi vụ thứ nhì, tôi than phiền về việc trang bị bom đạn trên phi cơ, các anh em bên Vũ Khí Đạn Dược cho biết:
    - Mình gần hết bom rồi. Chỉ còn 1 loại bom MK-81 (250 lbs) nhỏ nhất nầy mà thôi.

    - Chúng tôi biết chả có ông pilot nào ưa thích cả. Nếu như ông tìm được 1 trái bom nào lớn hơn như 500, 750 hay 1.000 lbs từ các kho bom BH, Long Bình, Gò Vấp, hay Thành Tuy Hạ, chúng tôi xin tự chặt hai bàn tay.

    Thêm vào đó có sự giúp vốn của Tg TLQĐ III. Số là chiều ngày 19/4/1975, Tướng Huỳnh Bá Tính SĐT SĐ3KQ ra lịnh cho tôi và Đ/uý Đào Công Quận đem 2 phi tuần, gồm: 4 chiếc A-1 về TSN, và tạm thời ngủ nhờ ở BĐ F-5.
    Ngay đêm đó phi trường BH bị pháo, dù rất mệt mỏi vì đã bay hơn 6 tiếng đồng hồ trong 2 phi vụ trước, Tr/uý Nguyễn Văn Chuyên cùng tôi cất cánh khẩn cấp, với niềm hy vọng giải vây phi trường BH. Mặc dù chúng tôi thấy rất rõ vị trí đặt đại bác 130 ly ở phía Bắc Tân Uyên - đang câu vào phi trường BH. Nhưng Tg TLQĐ III thân yêu của chúng tôi ngăn cản; không cho chúng tôi thả bom với luận điệu cố hữu:
    - Toạ độ đó là nơi đóng quân của quân bạn.

    Giống như vào tháng 7 hay 8 năm 1972, ông đã từng dùng thủ đoạn nầy để mượn tay VC tiêu diệt KĐ 72CT. May nhờ hồn thiêng sông núi che chở, nên Căn cứ Pleiku không bị thiệt hại nhiều (nhân chứng còn sống: Đ/Tá Nguyễn Văn Bá cựu KĐT KĐ 72CT, SĐ II KQ).

    Cũng vì biết số bom đạn cạn dần, sau khi hỏi ý kiến của anh Chuyên bay chiếc số 2, chúng tôi lần lượt đáp TSN an toàn với bom đạn lúc 4 giờ sáng ngày 20/4/1975 ; và 8 giờ tối ngày 28/4/1975 : sau khi thi hành phi vụ hộ tống đoàn Vũ Khí & Đạn Dược của Tr/tá Phan Văn Mạnh an toàn về Sài Gòn, Tr/uý Nguyễn Thanh Bá cùng tôi đáp với bom đạn ở TSN (vị chi chúng tôi đã save 40 trái bom).

    Sáng ngày 20/4/1975, chúng tôi hay tin 1 kho bom ở BH bị trúng pháo và thành bình địa. Vì vậy chúng tôi phải di tản về TSN từ ngày 21/4/1975.
    - Sáng sớm ngày 29/4/75 tôi không biết Tướng Minh có theo dõi trên tần số Hành Quân (Paris) hay không ? Chỉ có những người nghe trên tần số nầy mới biết được: mục tiêu mà anh Phùng và chiếc Tinh Long 07 oanh kích bằng đại bác 20 ly 6 nòng; chỉ là Tr/uý Thành nghi ngờ năm ba tên VC "định" cắt hàng rào kẻm gai mà thôi.
    Ngoài ra tất cả mọi người đều nghĩ rằng: VC đang tấn công vào TSN, như kỳ Mậu Thân. Nhất là sau khi chiếc TL-07 bị trúng SA-7 và cắm xuống đất trong vòng rào phòng thủ, thì hầu như mọi người trong TSN đều hoảng loạn, chừng mươi lăm phút sau các phi cơ F-5, C-130, C-119, C47 v.v... lần lượt cất cánh bay đi.

    - Trước đây một người bạn cho tin sáng ngày 29/4/1975 anh thấy Tướng Minh rời BTLKQ với vẽ khác thường, và anh nghi ngờ ông Tướng bị ai uy hiếp? Thêm vào đó Tướng Minh quên cả việc Đ/Tá Hoàng Thanh Nhã, cựu KĐT KĐ 23 CT đang chờ chỉ thị của ông ở ngoài phòng khách. (lời Đ/Tá Nhã nói với tôi chiều ngày 29/4/1975 tại Utapao).

    Sau khi đọc bài của Tướng Minh, tôi mới hiểu được Tướng Minh bị người ta "lừa" và buộc ông phải rời "Command Post" của ông (BTLKQ ). Thêm vào đó, người ta còn tung tin thất thiệt, láo phét, nào là: Hai phi đạo bị hư hại nặng nề, xác chết đầy taxiways v.v...

    Trước đó ông không hề ra bất cứ 1 lịnh lạc nào cả. Hoàn toàn không đúng như tên phóng viên kiêm sử gia vô liêm sĩ, bẻ cong ngòi bút người Tây mang tên Todd Olivier trong quyển sách "Tháng Tư Nghiệt Ngã" đã viết:

    - “Tướng Minh đã ra lịnh tất cả phi cơ cất cánh”.

    Cũng như xuyên tạc sự thật về phi vụ chống pháo kích của tôi sáng sớm ngày 29/4/1975, nhất là nhục mạ anh linh của các vị anh hùng vị quốc vong thân: Th/tá Trương Phùng, cùng Trưởng Phi Cơ của chiếc Tinh Long 07, Tr/uý Trang Văn Thành cùng PHĐ :


    Trích dẫn dưới đây:

    THÁNG TƯ NGHIỆT NGÃ (Olivier Todd - Dương Hiếu Nghĩa dịch):

    Chương 16... 23 / Trích: “Ngày 29 tháng 4 1975 :


    Vào lúc 4 giờ chiều (hay 4 giờ khuya ??? PL51) pháo binh Bắc Việt càng bắn càng chính xác, tác xạ tập trung phần lớn vào các đường bay của phi trường Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham Mưu Miền Nam Việt Nam và Bộ Tư Lệnh Hải Quân . Ở phi trường thì các kho xăng kho đạn, xe vận tải, xe nhỏ quân sự hay dân sự bị trúng đạn đang bốc cháy khắp nơi. Bộ binh Bắc Việt không thể ở quá xa vì các quả đạn bách kích pháo và những hỏa tiễn phát nổ với ngọn lửa còn đỏ, và xanh lục. Có hai Thủy Quân Lục Chiến là Charlie McMahon và Darwin Judge bị tử thương ở vòng đai phòng thủ. Tướng Homer Smith và những sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ bị hất tung lên khỏi giường ngủ. Có một số người trong số 1500 người Việt tỵ nạn đang ở trong nhà thể thao, đã bị thương. Một chiếc vận tải cơ C.130 bị trúng đạn khi vừa đáp xuống sân bay.

    Trời sáng dần… Các phi công của những phi cơ F.5 và A.37 cuối cùng cất cánh lên được và bay đi luôn không trở lại. Các phi công nầy giống như những phi công còn muốn chiến đấu đều không điều động được phi cơ vì vướng hằng trăm binh sĩ Miền Nam đang nằm rải rác khắp các đường bay. Nhân viên của trạm kiểm soát không lưu không thể làm việc được . Một phi công của chiếc AC.119 đặc biệt bướng bỉnh vì không đúng nhiệm vụ mà cứ cất cánh bay lên đánh vào các vị trí cộng sản mà anh thấy rõ chung quanh Sài Gòn, trở lại lấy thêm bom đạn, bay lên nữa, và đến 6 giờ 46 thì anh bị một hỏa tiễn SA.7 bắn rơi . … …

    Tướng Nguyễn cao Kỳ lái chiếc trực thăng của ông ta lên, bay chung quanh Sài Gòn, ông thấy một pháo đội Bắc Việt đang tác xạ, mỗi phút một phát. Ông bắt liên lạc được với một đội Skyriders đang bay từ Cần Thơ về :
    - “Đây Nguyễn cao Kỳ đây, phải tiêu diệt các pháo đội địch nầy.
    - Nhận rõ, nhưng tôi chỉ còn có một quả bom, sĩ quan chỉ huy trả lời.
    Đúng là giờ đã điểm, đối với những chiến trận danh dự không đáng kể !
    5 giờ 45 giờ Sài Gòn:
    Ông Martin đến tòa đại sứ . Lệnh cuối cùng của Tư Lệnh Không Quân Miền Nam Việt Nam :Tất cả các phi cơ còn trong tình trạng khiển dụng đều phải rời khỏi lãnh thổ Miền Nam Việt Nam “.
    (Hết trích)

    https://baovecovang2012.wordpress.com/2013/03/06/cruelavril4/6/
    ***

    Vì công đạo, vì sự thật của lịch sử, xin mọi người cùng tôi lên án tên phóng viên vô liêm sĩ đã bẻ cong ngòi bút, miệt thị KLVNCH nói riêng và QLVNCH nói chung.

    Kính.
    Philong51
    Tháng 12 năm 2014
    Last edited by Tinh Hoai Huong; 12-20-2014, 07:11 PM.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • Lòng Nhân Ái của Người Xa Lạ



      Lòng Nhân Ái của Một Người Xa Lạ


      Tờ mờ sáng Thứ Hai, khi bình minh vừa ló dạng trên những đọt cau, đọt dừa cao vút, cây cối hàng hàng lớp lớp in bóng xuống mặt nước sông Hàn loang loáng ánh bạc lấp lánh ngấn thủy tinh, và phẳng như phiên gương trong suốt. Nhờ ánh mặt trời rạng ngời chan hòa tưới bao tia nắng ấm áp đầu ngày, mà thành phố Đà Nẵng rực rỡ ánh hào quang. Những tiệm cà phê nổi tiếng ở thành phố ngái ngủ ẩn hiện trong làn sương mai mờ đục càng thêm sinh động. Từ lá dừa rũ bóng ven phố thị có nhiều ngấn nước sương khuya còn đọng hôm trước đang long lanh dưới ánh mặt trời, thỉnh thoảng giọt sương từ mái hiên tí tách rơi xuống ven lề đại lộ Bạch Đằng. Hàng phượng vỹ chúm chím e lệ đung đưa soi bóng ven sông, gió hiu hiu thổi những chiếc ghe thuyền thong thả lắc lư, quay lui quay tới bởi sợi dây dừa to tướng còn buộc chặt ở cọc cắm.

      Một ngày nữa bừng sống khi chim chóc líu lo chuyền cành hòa ái hót vang, vạn vật reo vui đón chào ngày mới. Giống như lòng Hoa đang tưng bừng mở hội hoan-ca, pha chút lo lắng cuống quít, nàng đi ra đi vô, bồn chồn, lo âu, mất ăn mất ngủ suốt ba ngày băn khoăn xiết bao, vì Hoa đã được hãng IRO chính thức công nhận cho đi làm trong sở Mỹ. Thế là may mắn hạnh phúc rồi, từ bây giờ có lẽ đời mình sẽ sung sướng lên hương! Mặc dù Hoa không được tuyển chọn làm ở ngành thư ký đánh máy tốc hành trong sở Mỹ (như ước nguyện ban đầu). Tuy Hoa có buồn phiền, do mọi chuyện không suông sẻ và như ý. Nhưng hề gì, lỗi do tự mình quá tệ, rất dở, thì thi vô thư ký đánh máy tốc hành: lẽ dĩ nhiên không đậu, là phải! “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, chớ than van phàn nàn hờn giận ai! rồi mọi việc từ từ có kinh nghiệm, thì sẽ ổn thôi.

      Hoa đến một phòng riêng biệt vừa đủ rộng quét vôi trắng có nhạc hòa tấu văng vẳng. Trên tường treo bức ảnh Đệ Thất Hạm Đội, trên hình ở boon tàu có nhiều phi cơ và binh lính Hải-quân. Đối diện với bức ảnh nầy là hình tòa Bạch Ốc. Góc trái căn phòng là một bản đồ nước Việt Nam rất to, những hàng ghế nệm cùng những chiếc bàn dài, nơi đây thỉnh thoảng dùng để hội họp. Ngoài bộ sofa bọc da màu đen đặt ở phía phải trong phòng, còn có bộ ghế da nhỏ, trên bàn lót đá đã sắp sẵn: dao, nĩa, muỗng, khăn… chỉ cho một người dùng. Nơi nầy biệt lập, khác hẳn với câu lạc bộ kế sát bên vách tường, thì nơi đó vào những giờ ăn trưa, tối… có rất nhiều sĩ quan Mỹ ra vô huyên náo ồn ào hơn.

      Với vóc dáng thon thả, tính nết đoan trang, đi đứng đàng hoàng, Hoa đã được ban điều hành phân phối cho vô làm ở trong Bộ Tư Lịnh Sư Đoàn Hai đóng tại Đà Nẵng, gần bến phà sông Bạch Đằng ở bên Sơn Trà. Có lẽ do “người ngợm” Hoa có chút sạch sẽ, quá trẻ, ăn mặc lịch sự thanh nhã không lòe loẹt, tươm tất, và dĩ nhiên Hoa có tí xíu nhan sắc mỹ miều (so với bạn trang lứa cùng vô làm tại đây), nên Hoa được ban điều hành huấn luyện kỹ càng, nghĩa là cho Hoa ưu tiên phục vụ duy nhất một Ngài trong Navy mà thôi, Hoa làm việc rất ung dung nhàn hạ: Phải! Mỗi ngày ba buổi: buổi sáng ông ấy dùng điểm tâm, buổi trưa, tối… thì đúng giờ ấn định: Từ nhà bếp, Hoa cẩn thận khệ nệ bưng một cái khay bạc hình chữ nhật: gồm có chén xúp, hai dĩa thức ăn đổi món mỗi ngày (loại dĩa trung, vừa phải). Lần sau cùng Hoa bưng dĩa bánh ngọt nhỏ, (hoặc trái cây: chuối, nho, táo tươi ướp lạnh) và một ly rượu nhẹ. Sau đó Hoa xuống đứng ở cuối góc phòng gần viên Trung-sĩ trực người Mỹ.

      Ba người ở trong căn phòng không ai nói với ai lời nào. Hoa biết ông là sĩ quan, vì mỗi khi ông vô phòng thì viên Trung-sĩ Mỹ kính cẩn nghiêm chào, nhưng Hoa chẳng biết ông ta là quan tướng to, nhỏ, bé hay bự cỡ nào. Vã chăng, lon lá mề đay huy chương ở bên Navy chi chít phức tạp, Hoa có cần lưu ý làm gì. Nhất là vốn liếng Anh-văn của mình chưa đạt tới lĩnh vực hiểu biết sâu rộng, thông thạo, có thể diễn tả cho ông thấu hiểu, nên “ông già ấy” cần có một người thông dịch đứng cạnh bên Hoa để hướng dẫn, thay đổi khẩu vị nếu ông ấy muốn chăng!? Chờ ông từ tốn điềm đạm ăn uống xong, Hoa dọn thức ăn xuống bếp, rồi trở lên lau bàn ghế sạch sẽ (“chức vụ”: bưng ly, chén, dĩa, vân vân… sửa bàn ghế ngay ngắn, lau dọn và hầu tiếp thấp hèn khiêm tốn nầy, cũng giống như cuộc đời bé Hoa lọ lem thuở xưa đi ở giữ em bé ấy mà. Tuy có khác hơn ngày xưa Hoa phải ẵm em, cho em ăn, uống; thì ngày nay Hoa chỉ vỏn vẹn lo cho “ngài quan tướng” ăn uống, mà không kiêm thêm chức “bồng ẵm”. Ha ha ha!). Từng ấy việc! thế là xong béng, hết bổn phận trong một ngày làm việc, Hoa lui xuống nơi cuối góc phòng nhân viên uể oải mở tự điển, hoặc tập vở ghi chép linh tinh để học thêm tiếng Anh, ví dụ như:
      SENTENCE có nghĩa là câu
      LESSON bài học, RAINBOW cầu vồng
      HUSBAND là đức ông chồng
      DADDY cha bố, PLEASE DON’ T xin đừng

      DARLING tiếng gọi em cưng
      MERRY vui thích, cái sừng là HORN
      Rách rồi xài đỡ chữ torn
      TO SING là hát, A SONG một bài

      Nói sai sự thật TO LIE
      Go đi, come đến, một vài là SOME
      Đứng STAND, LOOK ngó, LIE nằm
      FIVE năm, FOUR bốn, HOLD cầm, PLAY chơi

      ONE LIFE là một cuộc đời
      HAPPY sung sướng, LAUGH cười, CRY kêu
      LOVER tạm dịch người yêu
      CHARMING duyên dáng, mỹ miều GRACEFUL - vân vân. . . (sưu tầm)

      Công việc “bồi bàn hầu tiếp Ngài” thật ra quá rảnh rang, nhàn hạ, không có gì vất vả, mệt nhọc; nhưng Hoa cảm thấy chán nãn và buồn bã ngán ngẫm sao đâu. (Do sự vắng lặng, im ắng triền miên đến độ ghê rợn trong căn phòng trống vắng lạnh lẽo nầy). Ngày ngày Hoa phải câm nín im ru đối diện và nhìn một “cụ ông” lạnh lùng, cô đơn, đăm chiêu bâng khuâng ngồi đọc tờ báo, nhất là vào mỗi tối ông khoan thai điềm đạm từ tốn ăn uống. Thấy thảm, Hoa động lòng thương! Hoa thương vì nghĩ rằng “cụ” cô độc đang bị bạc đãi trong tuổi chiều tà xế bóng. Hoa không hiểu tại sao ông ấy chỉ thui thủi một mình, chẳng có bạn!? Có phải vì vẻ mặt ông lạnh lùng, khó đăm đăm, khép kín do đời đã tạo ra ông là “nhân tài cô độc”, nhưng cũng có thể ông là thiên tài do bẩm sinh mà chói lọi trên đường binh nghiệp quang vinh!? Thì đó, cứ nhìn rất nhiều mề đay lủng lẳng đếm không xuể trên ngực ngài, thì rõ! nên ông câm nín không thể hòa đồng với anh em Navy hiền hòa vui vẻ hồn nhiên ở ngoài kia?
      Mỗi tối từ trong chiếc máy Akai ở góc phòng cũng phát ra bản nhạc mở đầu bữa ăn của: Phil Collins:
      So take a look at me now,
      'cos there's just an empty space
      And there's nothing left here to remind me,
      just the memory of your face
      Take a look at me now,
      'cos there's just an empty space
      And you coming back to me
      is against all odds and that's what I've got to face …

      Phần buồn khác nữa là Hoa thật sự thích nghề thư ký đánh máy, mỗi khi ngồi trên ghế, trước mặt là cái máy đánh chữ to tướng, Hoa ung dung giơ mười ngón tay bé xíu nhịp nhàng ấn lên, gõ lên từng phím chữ. Hoa nghe con chữ tưng bừng nhảy lóc cóc, như lời ca reo vui tình tự. Một món vật vô tri vô giác mà âm thầm thực dụng, hữu sự, đắc lực giúp ích cho đời. Đôi khi nếu Hoa đánh máy sai, Hoa nghĩ có lẽ những tiếng lách cách ấy khiến máy móc cũng biết mệt, dường như con chữ làm biếng, muốn làm eo, nũng nịu, dỗi hờn, nó muốn Hoa phải ứa những giọt nước mắt ra mà năn nỉ dỗ dành! Tức thì có tức thiệt nhưng thú vị dường bao nghề thư ký đánh máy trong mơ. Nhưng bây giờ Hoa đành làm nghề “bồi nhí” lau bàn, thiệt là vỡ mộng!

      Một hôm, Hoa vẫn vui vẻ chào “ông già” như mọi lần khi bưng thức ăn từ dưới bếp lên, Hoa đặt từng món lên bàn xong, ông chỉ gật đầu không mỉm cười chào mình như mọi ngày. Hoa nhìn thấy ông trầm lặng, ưu tư, mệt mỏi, uể oải nhẫn nha ngồi đó, và nàng nghe ông húng hắng ho lên từng cơn dài. Hoa nghĩ: “có lẽ ông già bị cảm cúm chi đây rồi”.
      Bỗng nhiên Hoa cúi xuống bên ông thì-thào:
      - I help you.
      Chưa hiểu ý Hoa muốn nói chuyện gì, ông ấy có chút ngạc nhiên ngẩn lên lim dim nhìn nàng, dường như dò hỏi. Khi vừa dứt câu, không chờ ông đồng ý, Hoa lanh lẹ bước lui ra sau vỗ nhè nhẹ lên lưng ông, rồi dùng hai bàn tay nhỏ nhắn Hoa xòe ra xoa xoa, bóp bóp nhè nhẹ sau lưng ông nhiều lần. Khi bàn tay Hoa xoa lên lưng sau lớp áo quân-nhân dày, Hoa cảm thấy lưng ông già đã khá ấm. Tiện thể và bất chợt dường như không hề ngụ ý, Hoa đưa bàn tay thoa thoa lên mái đầu lơ thơ tóc của ông ta. Lập tức viên Trung-sĩ người Mỹ vội vàng bước nhanh mấy bước tới sau lưng hai người, anh ấy khều nhẹ vô cánh tay Hoa, và đặt ngón tay trỏ lên môi tỏ ý cho Hoa hiểu im lặng, và anh ra dấu cho Hoa cùng anh bước lùi lại phía sau góc phòng xa xa, viên Trung-sĩ người Mỹ nói nhỏ:
      - Cô không thể.
      - Tại sao?
      - Lẽ ra tôi hỏi: Tại sao cô dám làm chuyện như thế, mới phải.
      - Xin lỗi. Nhưng… do tôi thấy ông ta cô độc, già nua, tôi thương như ông nội của tôi, nên có chút thân thiện.
      - Muốn thân thiện cũng không có quyền hổn láo.
      - Tôi quá đáng sao?
      - Cô có biết ông ấy là ai không hở.
      - Tôi không hiểu anh muốn nói với tôi điều đó, để làm gì?
      - Ông ấy là Commander-in-Chief.

      Do trình độ sinh ngữ của Hoa chỉ ở mức độ “bình dân giáo dục”, nên không thể hiểu được viên Trung-sĩ trẻ muốn nói gì, nhưng Hoa suy nghĩ: chắc có lẽ ông là một vị quan to chức trọng từ chữ “Chief”, thì sẽ có quyền thế. Không để cho viên Trung-sĩ trực phòng kịp phản ứng, Hoa lật đật chạy tới bên ông, Hoa quỳ gối xuống nền nhà, mặt Hoa úp lên hai bàn tay của mình, và gục đầu lên đùi ông, Hoa khóc nấc từng cơn nức nở:
      - Chief Sr, I want half work and half go to shool.
      Ông ta buông tờ báo xuống bàn, điềm đạm quay xuống hỏi viên Trung-sĩ Mỹ trẻ:
      - Chuyện gì thế?
      - Tôi không thể hiểu tại sao cô ta khóc, thưa ngài.
      - Này cô bé, hãy bình tĩnh đứng dậy. Phần anh, tôi muốn anh tìm cho tôi một thông dịch viên.
      - Vâng, thưa ngài.

      Khoảng mười lăm phút sau viên Trung-sĩ Mỹ dẫn một quân nhân Việt Nam đến. Sau những thủ tục chào hỏi ông ấy theo nghi lễ quân cách, anh Tâm đứng nghiêm lắng nghe ông ấy nói. Rồi anh quay lại phía Hoa đang đứng khoanh tay chờ:
      - Bây giờ tôi sẽ dịch lại những câu đối thoại của ngài ấy và cô. Ngài ấy hỏi cô: Tại sao cô khóc!?
      - Dạ, thưa anh cho tôi được phép hỏi ông già nầy là ai.
      - Ông là đề đốc, là vị tướng Mỹ trông coi cơ quan MACV (Military Assistance Command in VietNam).
      - Tướng hả anh.
      - Phải.

      Lòng Hoa mừng vui khôn tả, nghĩ rằng: mình sẽ có cơ hội bày tỏ nỗi niềm của một người con gái nghèo hèn muốn vươn lên. Hoa gặp “lão tướng” mấy tháng nay mà không hề biết, cứ tưởng ông già lụ khụ, lù đù, khù khờ… chỉ là cha của một anh sĩ quan nào đó, ông tới thăm con trai đang tham chiến tại Việt Nam). Nào ngờ… Quả thật bất ngờ! như thế là mình sẽ nắm được vận may rồi. Hoa liền nói một hơi:
      - Nhờ anh vui lòng dịch lại lời khẩn khoản cầu xin của tôi với Chief; tôi rất cám ơn anh: Dạ thưa ông, cháu rất xin lỗi về việc hổn láo dám xoa đầu ông, vì cháu nghĩ: ông bị đau mà sống cô độc, ông không có gia đình và bạn. Mỗi ngày cháu nhìn thấy ông, cháu thương ông, giống như cháu thương ông bà nội của cháu.
      Ngài ấy trầm tư nhìn Hoa đứng vòng hai tay, ông nhích mép vui vẻ mỉm cười:
      - Không có chi.
      - Thưa ông, việc dọn bàn ăn lau ghế như thế nầy, không phải là nghề của cháu ở đây.
      - Vậy sao?
      - Dạ… thưa ông, trước khi vô làm ở đây, cháu đã học nghề thư ký đánh máy, nhưng do cháu dốt học không khá, nên tạm thời họ cho cháu vô làm “bồi bàn”. Nếu làm bồi bàn thì cháu không thể, xin ông cho cháu đi làm nửa buổi, còn nửa buổi ông cho cháu đi học đánh máy mà cần có tiền lương. Vì gia đình cháu cha mạ đông con và nghèo lắm, cháu cần nuôi mạ và các em ạ. Cháu rất cám ơn ông.

      Ông tướng gật gù ngúc đầu, đôi mắt “diều hâu” sắc bén nhìn Hoa đăm đăm, dường như xoi mói tận tim gan mình mà lặng thinh dò xét, ông “hứ” một tiếng rất to. Thôi hỏng rồi! Thật kinh khủng. Hoa ái ngại cúi gầm đầu, tim Hoa đau nhói vì cảm thấy tủi hổ, hối hận đã lỡ dại vội vàng than van thân phận mình với người lạ quá lạnh lùng! Các cơ mô giật thót lên từng chặp, dường như Hoa nghẹt thở, tim muốn ngừng đập, đôi chân Hoa run run, hai đầu gối lập cập va vào nhau, toàn thân Hoa đã mảnh mai nay do chấn động từ chữ “hứ” lạnh lùng mà hầu như Hoa rệu xuống. Thế nhưng trước khi hoàn toàn tuyệt vọng, Hoa quệt nước mắt vô ống tay áo, nói to một lần nữa trong cơn tuyệt vọng:
      - Xin ông cho cháu đi học nghề, mà vẫn có tiền lương, để cháu nuôi cha mạ và các em của cháu.

      “Ngài lão tướng” có đôi mắt diều hâu sáng quắc, vầng trán cao rộng xây qua giơ ngón tay trỏ ngửa ra để ngoắc Trung-sĩ Mỹ và mỉm cười. Họ trao đổi với nhau một hồi ngắn, rồi viên tướng sai Trung-sĩ Mỹ gọi phone đi đâu đó một lúc lâu. Hai khóe mắt lóng lánh giọt nước mắt sắp trào ra, thì Hoa chợt nghe giọng anh Tâm:
      - Ngày mai lúc 8 giờ sáng, cô đến 181 đại lộ Độc Lập, cô gặp sĩ quan tùy viên David Fulghum (sĩ quan Hải quân Mỹ, tốt nghiệp đại học nổi tiếng Georetown), anh ấy sẽ dẫn cô lên phòng IRO làm tấm thẻ mới. Sau đó buổi sáng cô đi học Anh-văn. Buổi chiều cô học thư ký kế toán, và tất nhiên sẽ có tiền lương. Cô hài lòng chưa?
      - Cháu rất cám ơn ông.

      “Ngài lão tướng” thẳng thắng nhìn Hoa từ đầu tới chân Hoa rồi ung dung nhè nhẹ gục gặc mái đầu lơ thơ tóc, lần đầu tiên trong mấy tháng làm việc cạnh “ngài”, nay Hoa mới thấy ông nở nụ cười tươi không mỉm miệng để lộ hàm răng trắng bóng. Bây giờ Hoa cảm thấy đôi mắt diều hâu ấy không còn ác ôn, dữ dằn và lặng lẽ cô độc. Trái lại đôi mắt ấy ánh lên những tia mắt nồng nàn ấm áp, đầy ắp thiên tài của một người từng trải lão luyện trong đời và trong quân đội. Ôi! sao mà ông ấy nhân ái đôn hậu lạ thường thế không biết. Hoa sung sướng hạnh phúc quá, nàng biểu lộ thêm một chuyện khờ dại “bốc đồng ngẩu hứng” nữa, để tỏ lòng biết ơn và kính trọng ông, Hoa liền hí hửng chạy tới bên viên tướng, và quỳ sụp xuống dưới chân ông, Hoa ân cần dịu dàng nắm lấy bàn tay ông tướng, và dí lỗ mũi nở to như củ tỏi liên tiếp hít hít hôn hôn chùn chụt.

      Vị lão tướng thêm một lần nữa kinh ngạc, “đôi mắt diều hâu” ấy vẫn dịu hiền lẵng lặng nhìn Hoa, nụ cười chúm chím mà “hứ” lên một tiếng rõ to.

      ***

      Tình Hoài Hương

      Kính mời độc giả xem tiếp chương sau
      Trân trọng
      Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-06-2017, 08:48 PM.
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • Lễ… Cưới Cổ Truyền


        Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-08-2017, 07:03 PM.
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • Mồng Hai Tết Năm Xưa



          THH thân mến xin gửi tặng thân hữu và quý du khách
          từng du lãm đến thăm thắng cảnh "Đà Lạt Tình Yêu".

          Tình Hoài Hương
          Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-08-2017, 07:12 PM.
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • Đi Tìm Tương Lai & Trở Về…



            Đi Tìm Tương Lai & Trở Về…


            Chiếc sàng không gian qua thời gian đã lọc lại những hạt vàng đầy chất xám như kim cương long lanh, từ sự kiên định trong đầu óc nhỏ bé có chút trí tuệ, đã vượt qua mọi chông gai thử thách. Cũng từ nấc thang thấp nhất đó, đã đưa Hoa từ từ bước lên từng bước tiến đến thành công, dù dưới hình thức nào, lĩnh vực nào… Cũng tốt. Bởi như em Hoa thường nói:

            - Quảng Trị là nơi khô cằn sỏi đá, nơi chó ăn đá gà ăn muối, đa số cư dân địa phương cũng như cha mạ em dãi dầu một nắng hai sương, khổ cực trăm bề, vẫn không thể lo cho con cái có cuộc sống khá hơn. Thế mà, tình cảm của người Quảng Trị thì: tha thiết, đậm đà, văn chương, trí thức, hào hoa… của người Quảng Trị cũng thanh cao, dạt dào tình mến thương vô bờ bến.

            Nói như thế, có quá tự hào không! khi trên đất nước Việt Nam mình không có nơi chốn nào nghèo mạt rệp bằng xứ mình "mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn... & xứ dân cày lên sỏi đá...", nhưng từ nơi vùng đất nghèo đây lại rất giàu tình yêu thương, đùm bọc, và lòng nhân nghĩa ngút ngàn dâng cao. Trung sĩ Công Binh Kiến Tạo tên Đoàn Mùi quê ở Quảng Trị rất đẹp trai cũng tương tự như thế!

            Đơn vị anh đóng ở Tam Kỳ, anh làm trong ban ẩm thực, nên mỗi buổi sáng Mùi có phận sự lái xe đưa tốp lính ba người đi chợ. Khi những người lính ăn sáng xong, họ len lõi vô chợ mua rau, cá, thịt thà, hoa quả, vân vân…; Mùi đậu xe bên hông quán may, chờ đợi lính mua thức ăn. Mùi đi bách bộ lang thang đây đó nhìn ngắm cái nầy cái nọ. Nhiều khi anh ngồi trong quán đối diện chợ, nhâm nhi ly cà phê sữa, ăn chiếc bánh “sừng trâu”. Những ngày đầu tháng thì Mùi “tự do độc thân, hào hoa vui tính” ngồi trong nhà hàng dùng lai rai Paté Chaud, bánh mì French Baguette, ăn phở lai rai. Lúc nào tốp lính mua thức ăn xong, Mùi sẽ chở họ về trại.

            Một hôm chỗ đậu xe cũ thường ngày bị người tài xế xe nhà khác chiếm rồi, không còn chỗ trống; nên Mùi vòng trở lại đậu xe GMC nhờ ở mặt tiền; giữa tiệm sách và tiệm may của Hoa. Mùi nhảy xuống xe, lững thững dạo mấy vòng phố. Bỗng chốc cơn mưa giông ào ào trút xuống. Mùi nhảy bước chân chim vọt lên thềm của tiệm may, và dựa lưng vào mặt kiếng treo những bộ áo dài trong tủ đứng. Cơn mưa to đến nỗi gió luôn đổi chiều, do sức gió mạnh đã hắt những luồng nước vỗ bồm bộp vào tủ kính, rồi dội ngược lại thành những tiếng vang vọng ì ầm, mưa đã tạt ướt hết một phần áo quần Mùi.

            Hoa lui cui vẽ những đường phấn trên vải, thì mưa to, nên cô vội vàng chạy tới, định đóng hai cánh cửa tiệm. Khựng lại đôi chút khi Hoa nhìn thấy người lính trẻ đứng trên thềm trú mưa quay nhìn Hoa, hai ống quần bỏ trong đôi giày đinh đã ướt đẫm nước. Nàng lúng túng mất mươi giây lưỡng lự, rồi Hoa vui vẻ đon đả nhanh nhẹn chào mời khách tạm vào lánh mưa. Mùi mỉm cười, nhẹ gật đầu và e dè khuất sau hai cánh cửa, khi Hoa đóng cửa lại. Hoa kéo ghế dựa:
            - Mời anh ngồi tạm ở đây, chút nữa hết cơn mưa to, hãy về.
            - Ồ… cám ơn em. Em đồng hương Quảng Trị với anh sao?
            Hoa pha tách trà sen nóng bốc khói, cô bưng ra đặt trên bàn:
            - Dạ. Mời anh uống trà sen pha xí gừng cho ấm bụng.
            - Cám ơn em.
            - Xin phép anh, em vừa tiếp chuyện với anh, vừa làm việc, vì ngày mai có khách đang cần lấy áo dài cưới. Như vậy có thất lễ không ạ?
            - Em cho anh vô núp mưa như ri, là quý lắm rồi, nào dám đòi hỏi chi hơn.
            - Không ngờ nơi Tam Kỳ nầy, cũng có anh là dân Quảng Trị ha.
            - Phải. Anh tên Mùi. Còn em tên gì?
            - Dạ, em tên Hoa.
            - Thảo nào em đẹp như hoa.
            - Không có đâu. Anh họ Dương… phải không?
            - Không. Sao em hỏi vậy?
            - Mà anh có phải họ Dương không?
            - Anh là Đoàn Mùi.
            - Thì tên Mùi, phải là họ Dương mới hợp.
            - Vậy sao?
            - Thì… là… Dương Mùi là con dê 35 đó. Hi hi.
            Mùi ngẩn ngơ nhìn Hoa, bỗng nhận thấy cô nàng nói chuyện hóm hỉnh, có câu bông đùa nhạy bén gây vui cười nhẹ nhõm có ý vị. Mùi thiện cảm đá lông nheo với nàng và phá lên cười:
            - Em thiệt tình!
            - Cho em hỏi: Giờ nầy lính tráng ai nấy đều bận rộn, lu bu làm việc ở trong doanh trại, đồn bót. Sao anh đứng xớ rớ ngoài đường, để bị mắc mưa vậy ha?
            - À… Anh kể cho em nghe chuyện tại sao có câu: “thiên cơ bất khả lộ” từ đời xưa nhen:

            Triệu Nhan đi gặp Quản Lạc để xem bói. Ông gieo quả xong, buồn rầu nói:
            - Sắp tới số rồi, ngươi xem làm gì cho phí tiền!
            Triệu Nhan sợ quá, sụp quỳ xin thầy Quản Lạc mách bảo cho “làm sao con được sống lâu”. Quản Lạc thương cảm, liền rỉ tai:
            - Ngày mai, vào giờ ngọ ngươi đem thịt ngon rượu quý vô rừng phía đông, sẽ gặp hai ông lão đánh cờ. Ngươi hãy quỳ, im lặng mà dâng rượu, thịt. Nhớ không nói gì hết. Lúc nào hai lão không chơi cờ nữa, thì lúc đó ngươi mở lời van xin. May ra ngươi được cứu sống. Ngươi nhớ không nhắc đến tên ta. Nghe.

            Hôm sau Triệu Nhan bưng rượu thịt vô rừng, quả thật đã thấy hai lão râu tóc bạc phơ đang ngồi đánh cờ. Triệu Nhan y lời thầy im lặng bày bàn tiệc thơm ngon ra đãi. Hai lão mê chơi cờ không chú ý: do đâu có rượu thịt, chỉ thấy có rượu thịt, thì ăn, uống. Kết thúc trận cờ, hai lão (một lão tên Nam Tào: giữ sổ sanh; một lão tên Bắc Đẩu: giữ sổ tử) đứng dậy, toan dợm bước đi. Triệu Nhan liền quỳ mọp xuống đất vái lạy tâu trình, xin họ cứu mạng. Hai ông lão mở sổ ra xem. Quả nhiên Triệu Nhan chỉ sống tới mười chín tuổi. Họ động lòng thương xót, đã sửa cho ông sống tới chín mươi chín tuổi, mới chết. Trước khi quay gót “phong trần”, hai ông lão nhìn Triệu Nhan:
            - Ngươi nhớ nói lại với Quản Lạc: Lần sau ông ta không được nói với bất cứ ai. Đây không phải chuyện đùa, vì “thiên cơ bất khả lộ”.

            - Em biết rồi.

            Bấy lâu nay Mùi thường đậu xe GMC bên hông tiệm may, Mùi chẳng hề để ý dòm ngó vô tiệm nầy có những ai, cho mệt. Nhưng nãy giờ Mùi nhìn quanh cố ý quan sát: tại tiệm may chỉ có cô gái rất trẻ lại khá xinh, đang thoăng thoắt làm việc mà thôi, (trong tiệm không có người lớn), khiến trong lòng Mùi thắc mắc, chẳng lẽ Hoa đã có ông chủ tiệm là chồng đang làm gì ở trong buồng!? Nhưng anh chưa dám hỏi, sợ cô bé nghĩ con trai mà hấp tấp tò mò. Nhìn ra ngoài cửa kính thấy trận mưa từ từ dứt hạt, Mùi đứng dậy, ngần ngại ý tứ dò xét:
            - Em cho phép anh chào người lớn ở đây, để cám ơn, và ra về. Nhe.
            - Dạ, ngoài em là chủ tiệm, không có ai ở đây hết. Anh à.
            - Ồ!... Còn anh, mỗi ngày lái xe đưa lính đi chợ, anh đậu nhờ xe GMC bên hông tiệm của em, mà không ngờ…
            - Thì ra… xe GMC đó do anh lái sao? Nếu em biết trước, thì mỗi ngày em phải ra thu tiền thuế bến bãi giữ xe, cho anh thong dong đi dạo phố, mà không sợ xe bị mất cắp rồi.
            - Bắt đầu từ ngày mai anh sẽ “nộp thuế bến bãi” nhen. Ướt gì ngày nào trời cũng mưa thật to, để:
            "Vũ vô kiềm toả năng lưu khách
            Sắc bất ba đào dị nịch nhân"

            - Em không hiểu ý anh muốn nói gì?
            - Có nghĩa là: “Mưa không có xiềng xích, mà có khả năng lưu giữ khách. Sắc đẹp không có sóng, mà có thể làm say đắm lòng người”. Em hiểu chưa!
            Hoa liếc nhẹ Mùi, mỉm cười e ấp bẽn lẽn cúi đầu:
            - Cái anh nầy…
            - Không phải sao, nếu chàng trai nào đã từng có hân hạnh tiếp chuyện với em, chắc sẽ nói:
            Thân cô như hoa gạo trên cây
            Các anh như đám cỏ may bên đường
            Lạy trời cho cả gió sương
            Cho hoa gạo rụng chun luồn cỏ may

            - Em không dám.
            Mùi dợm bước xuống lề đường:
            - Chào em. Cho phép anh hẹn gặp lại em ở “bến bãi nộp thuế”. Em nhe.
            - Dạ… dạ, í… em nói đùa đó. Đừng bận tâm. Chào anh.

            Mặc dù suốt đêm qua trằn trọc trên ghế bố ít chợp mắt, nhưng tửng bưng sáng hôm sau Mùi vùng thức dậy, miệng huýt sáo, anh vui vẻ súc miệng rửa mặt, rồi lo chải chuốt bộ quần áo treillis, áo field jacket nhà binh thẳng tắp đường ly hồ ủi, và mang đôi giày đinh bóng loáng (diện mạo anh vốn dĩ đẹp trai, hôm nay anh “o bế” kỹ, nên coi anh càng đã con mắt hơn). Mùi thúc hối mấy anh lính ẩm thực lè lẹ leo lên xe GMC đi chợ sớm, khiến Lộc tò mò:
            - Trung-sĩ cho em hỏi nhỏ: Có việc gì cần sao, mà Trung-sĩ gấp rút vậy?
            Mùi tủm tỉm cười:
            - Phải. Đi chợ sớm mới có tôm cá tươi. Vã lại, việc nầy cũng giống như “coup de foudre” (tiếng sét ái tình) nếu không lo liệu sớm, thì “xôi hỏng bỏng không” mất.

            Đậu xe bên hông tiệm may xong, Mùi mời bạn lính vô quán cơm tà tà ăn sáng. Sau đó mấy anh lính kia xuống hàng cá, hàng gạo, vân vân… thì Mùi đi vô chợ mua khúc vải gabardine, một foulard màu hồng phấn. Mùi rẽ qua mua mấy ổ bánh mì nhồi jambon saucisse, một bó hoa immortel, một hộp bánh paté chaud. Mùi tần ngần đứng bên nầy góc chợ nhìn qua tiệm may. Khi thấy Hoa thấp thoáng đi ra đi vô trong nhà, thì anh lững thững bước qua đường. Hoa tươi cười đón anh nơi thềm nhà. Mùi trao mấy món quà cho nàng:
            - Phần nầy là anh riêng tặng em, để đánh dấu mốc thời gian: ngày chúng mình hân hạnh quen biết. Còn đây là khúc vải anh muốn nhờ em may giúp:
            Tình cờ bắt gặp nàng đây
            Mượn cắt cái áo, mượn may cái quần
            Để mà kết nghĩa tương thân
            Mai đây chỉ Tấn tơ Tần xe duyên
            (cd)

            - Em có muốn như vậy không em? Hay là:
            Tình cờ bắt gặp nàng đây
            Mượn cắt cái áo mượn may cái quần
            May xong anh trả tiền công
            Bao giờ lấy chồng anh đỡ vốn cho
            Giúp em một thúng xôi vò
            Một con lợn béo một vò rượu tăm
            Giúp em đôi chiếu em nằm
            Đôi chăn em đắp đôi tằm em đeo
            Giúp em quan tám tiền cheo
            Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau
            (cd)

            Hoa ỏn ẻn cười tươi nép qua một bên, nhường lối cho anh ung dung bước vô tiệm:
            - Hôm nay anh mở hàng sớm cho em đó nghe.
            - Vậy sao! Nếu anh mở hàng mà hôm nay ế, thì anh sẽ mời em đi ăn uống, đi xem cinê, để bù lại. Nếu ngày nầy, hoặc mỗi ngày anh vô tiệm, tiệm em đông khách, thì em cho phép anh:
            Ngó lại đằng trước thấy bình tích nước
            Ngó lại đằng sau thấy bộ kỷ trà
            Anh thấy em có một mẹ già
            Muốn vô phụng dưỡng, biết là đặng không?
            (cd)
            - Xía…

            Ngày tháng dần dà trôi qua, thế là "hai đứa" thương yêu nhau say đắm thật rồi, chàng trai ấy rất thật lòng muốn cưới Hoa làm vợ. Hoa mời Mùi về nhà riêng, ban đầu Mùi được mạ và các em hân hoan mừng rỡ vô vàn, chào đón Mùi nồng nhiệt. Mạ coi anh như con cháu trong nhà. Tận đáy lòng mạ chân thật vui vẻ niềm nở tiếp Mùi đầy tình mến, như người mẹ thương đứa con trai. Vã chăng vì mạ không có con trai đầu lòng, nên mạ ước ao có thể xem Mùi như con trai, để tiếp tay với mạ chăm lo cho đàn con nhỏ dại, cần nương nhờ người ấy mà thôi chăng?

            Thế rồi… mấy tháng sau nhân ngày Tết, Mùi đã đến thăm nhà, lúc ấy có sự hiện diện của mệ ngoại. Giữ thể diện gia phong, giấy rách phải giữ lấy lề, mạ hiếu khách tiếp đãi Mùi vui vẻ. Biết gia đình Mùi sẽ xin hỏi cưới Hoa. Thì mạ chưng hửng! Mạ cũng biết rằng: gia đình Mùi có địa vị, danh giá và giàu có. Còn gia đình mình thì nghèo rớt mùng tơi, thật không tương xứng chút nào. Sau mấy ngày Tết náo nhiệt tưng bừng, trong nhà chị em Hoa đều hạnh phúc xiết bao. Lúc người bạn trai trở lại đơn vị, ở nhà mạ bắt Hoa phải khai thật:
            - Con đối với thằng nớ ra răn?
            - Dạ… chúng con thương nhau. Anh Mùi muốn xin đi cưới hỏi con năm ni.
            - Con quen biết hắn lâu chưa?
            - Dạ, hơn nửa năm.

            Hoa tưởng mạ ưng thuận, ai dè mạ nổi trận lôi đình, lại lôi Hoa ra đánh một trận tưởng chết luôn. Vì khoảng thời gian sau nầy, mạ mới biết chuyện thuở xưa Hoa từ hôn với Hải Triều, là tuyệt nhiên không phải do Hải Triều đã gây ra lỗi lầm to tát, mà là do chính Hoa đổi ý thay lòng, Hoa không ưng thuận lấy Triều. Hoa muốn Triều bịa đặt ra chuyện động trời mà Hải Triều không bao giờ làm. Hoa năn nỉ nài ép Triều về nhà mình nói láo với mạ: “con lỡ có con với người đàn bà khác”. Triều vì quá yêu Hoa, nên anh đồng ý nói láo như thế, ngỏ hầu giúp Hoa từ hôn với mình, không bị mạ đánh. Ngày ấy mạ không hỏi đầu hỏi đuôi cặn kẽ với Hải Triều: do nguyên cớ nào gây ra nông nổi, mạ đã vội mắng chửi Triều thậm tệ, mạ còn xô đạp vô ngực Triều rất mạnh, khiến anh té ngửa ra, đã lỏa máu đầu.

            Bây giờ suy nghĩ lại, mạ cảm thấy ân hận, dày vò, mạ có lỗi rất lớn với Hải Triều. Thế nên mạ không muốn đường đột, hấp tấp chấp nhận Mùi và Hoa vội vàng yêu nhau, một hai bắt mạ phải nhận lễ vật đám hỏi của Triều. Rồi một mai kia bốc đồng lên, Hoa lại đùng đùng bỏ người ta, giống như lần trước. Thì sao?! Nên mạ cấm tiệt Mùi không cho anh lai vãng qua lại với Hoa nữa.

            Ngày tháng trôi qua, hai đứa chân thành yêu nhau cứ lén lút kín đáo hẹn hò, đến một ngày kia Mùi nói:
            - Anh phải đi tìm tương lai cho em. Anh đi khoá sĩ quan đặc biệt, anh hứa với em khi anh ra trường đeo lon trên ve áo. Lúc ấy em sẽ lớn và khôn ngoan hơn bây giờ, thế nào mạ cũng xiêu lòng, cha mạ sẽ gã em cho anh.
            Hoa ngậm ngùi:
            Xin chàng kinh sử học hành
            Để em cày cấy cửi canh kịp người
            Mai sau xiêm áo thảnh thơi
            Ơn Trời lộc nước đời đời hiển vinh
            (cd)

            Nghe thế, Mùi phấn khởi hăng hái lên đường. Dù rằng: Mùi một ngày không gặp Hoa tựa ba thu, không một thanh niên thiếu nữ nào, có thể quên mối tình đầu thơ dại dễ thương và luyến nhớ vô vàn; Mùi cũng thế thôi. Sau khi Mùi bị mạ quyết liệt ngăn cản chuyện hôn nhân, thì anh giống như con chim gần chết, tiếng hót không còn là tiếng hót hay, mà là tiếng rền rĩ xót xa. Mùi chẳng hé môi tâm sự thổ lộ cùng bất cứ ai.

            Ở trong quân trường thỉnh thoảng, lâu lâu Mùi nhận được thư Hoa cho biết tin gia đình và nàng bình an, Mùi rất mừng, cố gắng ngày đêm miệt mài học tập, dù trải qua bao nhiêu khó khăn vất vả mệt nhoài. Mùi muốn dành cho Hoa một ngạc nhiên thú vị, nên mấy tháng cuối anh không báo tin cho Hoa biết ngày về.

            Sau khi ra trường về phép thăm nhà, Mùi vọt xuống xe hớn hở đi tới tiệm may, thì cửa đóng then cài kín bưng. Mùi cảm thấy sốt ruột, nên chi thay vì về nhà ba mẹ của mình trước, anh liền đi vô nhà mạ của Hoa. Rất tình cờ Mùi gặp Thủy (em của Hoa) trên đường ra chợ, Mùi mừng rỡ chạy tới gọi tên nàng. Quả thật là lúc đó em Thủy không thể nhận thấy “anh Mùi” đã đính lon lá lấp lánh ánh vàng tươi rói, anh dày dạn gió mưa trong bộ quân phục Biệt Đông Quân đầy phong sương, Mùi đeo mắt kính râm và đội mũ nâu sụp xuống gần lông mày!

            Thủy nhanh nhẹn mời Mùi vô nhà, hai anh em đi trên đường phố đông người, Mùi huyên thuyên kể chuyện dãi dầu gió sương nơi quân trường cho Thủy nghe rất vui vẻ. Nhưng rồi anh kịp khựng lại… đứng bất động như trời trồng trên thềm nhà em. Mùi chết lặng ngẩn ngơ buồn! Không ngờ ngày Mùi vinh quang hiên ngang mang tương lai tươi sáng về, để cưới Hoa, thì trong nhà nói:
            - Hoa đã lấy chồng, và đi Mỹ hai tháng nay rồi!
            Thiệt là:
            Anh đến với Hoa thì hoa đã nở
            Anh đến với đò thì đò đã sang sông
            Anh đến với em thì em đã lấy chồng
            Yêu nhau ra rứa có mặn nồng chi mô!
            (cd)

            Mùi lẩm bẩm: Tính già hoá non. Xe chỉ buộc chân voi mất rồi:
            Ngày đi trúc chửa mọc măng
            Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre
            Ngày đi lúa chửa chia vè
            Ngày về lúa đã đỏ hoe khắp đồng
            Ngày đi em chửa có chồng
            Ngày về em đã con bồng con mang!
            (cd)

            Chàng ruột xé gan bào đau đớn, lặng lẽ lủi thủi vác ba lô lên đường xin ra tác chiến, xuôi về tiền đồn heo hút.
            Ví dầu cá bống hai mang
            Cá trê hai ngạnh tôm càng hai râu
            Em về bên ấy đã lâu
            Để anh vò võ canh thâu một mình
            (cd)

            Mùi coi cái chết nơi sa trường nhẹ tựa lông hồng, chết chưa phải là điều đáng sợ, nhưng điều đáng sợ nhất là người còn sống mà lãnh đạm, tâm hồn lạnh lùng, phản bội, dường như đã chết thì sá chi:
            Tay cắt tay sao nỡ
            Ruột cắt ruột sao đành
            Lời anh thề nước biển non xanh
            Qua không bỏ bậu, sao bậu đành bỏ qua?
            (cd)

            Hai năm buồn bã ròng rã trôi qua, Mùi lặng lẽ ôm nỗi đau, trong niềm cô đơn buồn thảm tột cùng xé nát tim gan ấp ủ riêng mình. Chuyến về phép thăm nhà lần nầy, Mùi có lý do buộc phải lấy người vợ được chọn theo ý gia đình (do ông nội trong cơn bạo bệnh, đã muốn cháu đích tôn yên bề gia thất). Thật chả vui vẻ gì, nhưng Mùi là người trọng tình và rất chí hiếu, anh vâng lời mà hợp hôn!
            Sớm mai ra đứng sân sau
            Hai tay duỗi xuống như tàu chuối te
            Tiếc công vun quén cây mè
            Mè không ra trái con chim hoè đậu lên
            Cực lòng lên xuống xuống lên
            Mòn đường chết cỏ, không nên; tự trời
            Tưởng là kèo cột ở đời
            Ai hay cột ngã, kèo rời một phương.
            (cd)

            Một quảng thời gian khá dài Mùi sống lặng lẽ trong cô độc, bỗng nhiên nay tình cờ nhận được “món quà, hay một đặc ân từ ai đó”, thì lòng anh cũng cảm thấy rộn lên chút xôn xao ấm áp, ngọt ngào, nỗi vui mừng, băn khoăn dịu êm tình mến trong bâng khuâng. Mùi thấy “nàng dâu” coi cũng xinh xinh, và nhất là nết na hiền hậu. Thôi cũng được! Tuy nhiên, trước ngày cưới một tuần, Mùi muốn cô vợ tương lai phải đồng ý cho Mùi lưu giữ lại tất cả hình ảnh, kỷ niệm một thời của “Hoa cố nhân” và Mùi. Mùi nói thẳng với “nàng dâu”:

            - Trong giao cảm giữa con người với nhau, tôi sẽ không hỏi gì về dĩ vãng của em, đó là muốn xác lập mối giao tình tốt đẹp hài hoà đầy thiện ý, (trong tình nghĩa phu thê từ các chữ “tôn trọng lãnh thổ của mỗi người”). Bởi ngày xưa tôi vô tình đánh mất ân tình quý giá đến không ngờ. Cái gì tôi đã thích, đã yêu, thì sẽ yêu thích cho đến cùng, không thay đổi. Nhưng khổ nỗi như người ta thường nói: “Nếu yêu chỉ một phía thôi, thì chẳng thành công”.
            Đằng nầy, tôi và cố nhân yêu nhau tha thiết, mà nay vẫn tuyệt vọng. Là sao!? Tôi không thể và chẳng muốn níu kéo tình cảm với người phụ bạc quyết ra đi. Giờ thì hết thật rồi. Mặc dù tôi đã bị bỏ rơi, nhưng tôi vẫn yêu người ấy. Nếu em quyết định lấy tôi, thì tôi mong em không chấp nhất, hờn ghen, cằn nhằn, càu nhàu về chuyện dĩ vãng! Có nghĩa là em cứ nắm giữ cuộc đời tôi, thân xác tôi. Nhưng về mặc tinh thần, kỷ niệm một thời riêng tôi với “cố nhân”, thì tôi van xin em… hãy tha cho tôi. Được không em?
            - . . .
            Thấy “cô nàng” cúi nhìn xuống ly cocktail trước mặt, e ngại mỉm cười không trả lời, Mùi không nghĩ nàng là một phụ nữ nhu nhược và khó hiểu, nhưng đó là nét đặc trưng kín đáo, nhu mì đầy quyến rũ, rất lôi cuốn của cô gái miền sông Thạch Hãn, khiến anh thầm nghĩ: (Em sẵn sàng “tuân theo” những yêu cầu của tôi, vì lợi ích tuyệt diệu của chúng ta sao?).

            - Tôi chân thật, không muốn lừa dối em, nên thẳng thắng nói trước; em nghe ra, có lẽ bất mãn, bực tức, cho rằng tôi quá nhẫn tâm. Có điều tôi mong em hiểu, tôi muốn nói với em: tôi không đồng hóa người nầy với người kia, mà là cố gắng tìm hiểu về người mà chúng ta sẽ chung sống suốt đời như thế nào? (có nghĩa là em là em, cố nhân là cố nhân, đối với cố nhân và em, tôi sẽ tôn trọng như nhau).
            Rồi tự mình sẽ học cách nhìn, yêu thương và hai ta kính trọng lẫn nhau trong tình hợp nhất. Tính tôi là thế! Mỗi cá thể chúng ta là sự trái ngược, cần bổ túc cho nhau. Hành trình đi tìm hạnh phúc và tình yêu giữa tôi và em, cũng tương tự như thế. Có nghĩa là cần phải thật tình bộc lộ những uẩn khúc, thẳng thắng, tôn trọng tự do riêng tư. Nói ra được những bí ẩn & ưu tư, biết đâu mình sẽ nhẹ lòng, và bình thường, thì điều khúc mắc ấy không còn quan trọng nữa.
            Phải không em? Sau đó dần dần ta sẽ thông cảm, tin yêu và sẽ quan tâm lẫn nhau nhiều hơn nữa. Tôi hứa sẽ yêu em và thủy chung. Cuộc đời nầy rất công bằng, ta sẽ được đền bù những gì ta có. Vậy nên ta cố gắng vượt qua, thì có kết quả mỹ mãn. Khi ta đã có đầy đủ: thông cảm, thấu hiểu, dư thừa mọi thứ, ta sẽ cảm thấy trân quý những gì mình hiện đang có, lúc ấy chẳng cần phí công tìm tình yêu ở đâu xa. Em hiểu không?

            Thú thật, cô vợ trẻ chẳng hiểu nỗi Mùi muốn nói lời tâm sự gì, nên ậm ự cúi đầu, e dè im lặng suy nghĩ: “nước có luật, gia có lề, cây cao vạn trượng lá rụng cũng về cội. Cố nhân kia xa tít chân mây, thì mình lo gì mất chồng! Bây giờ Mùi nhìn vợ thở dài:
            - Cũng như, nếu ngày xưa cố nhân khăng khăng ngăn cản bước tiến thân của tôi, có thể nay chưa chắc tôi đã thành công trên nhiều lĩnh vực. Lẽ cố nhiên tôi phải sống lù đù dật dờ thế thôi.

            Vợ tương lai trầm tư kinh ngạc kín đáo quan sát Mùi: cô nhìn làn sáng kỳ lạ trong đồng tử giãn nở kèm nhấp nháy của mi mắt, khi Mùi lịch thiệp rướn cao hàng lông mày, hoan hỉ trong thao tác xoa xoa hai bàn tay vào với nhau, rồi Mùi ngửa hai bàn tay ra đặt sau đầu, hai chân bắt chéo, tư thế ung dung, thân thể rắn rỏi, anh thoải mái tựa lưng trên thành sofa; điều ấy muốn nói lên sự tự tin, ngạo nghễ, hả hê của kẻ bề trên tinh quái. Anh bằng lòng tin tưởng về “nàng dâu”, và chứng tỏ anh là người thoả mãn, có bản tính thiết thực, đắc thắng nhưng đa cảm, anh sẵn sàng làm một cuộc giảo nghiệm phiêu lưu tình cảm một cách tế nhị.

            Nàng là người đàn bà tinh tế, có kiến thức và trầm tĩnh, chỉ thầm nghĩ: [“Bây giờ anh định đỗ lỗi cho ai đó sao? Anh có giống con gà khi bay lên đọt cây, lại tưởng mình là con phượng hoàng không? Tôi chỉ trách tôi có sợi dây dừa quá ngắn và còn mới toanh, tôi không thể dùng dây dừa quấn chân anh (từ miền quá khứ xa xưa cho đến hiện tại). Hoặc tôi dùng sợi dây mới cột cái gàu thòng xuống múc nước dưới giếng sâu lên uống, cho đỡ khát. Nhưng thôi, anh là chồng tôi, chứ ai, mà tôi phải hơn thua, (cho dù đối với bạn, tôi cũng sẽ ôn hoà cư xử như anh).
            Muốn ganh đua, hay cạnh tranh, tôi áp dụng với người bằng mình, hoặc hơn mình. Chứ cạnh tranh với chồng, hoặc với người dưới cơ, thua kém mình, thì chẳng hay ho hãnh diện gì! Cứ như… cứ như con ốc sên yếu ớt, lặng lẽ chăm chỉ, từ từ bò đến nơi nó cần đến, nhắm mắt làm ngơ: không nghe, không thấy, không nói. Chỉ nói những điều cần nói với người cần nói lúc cần nói]. Thế mà yên thân.
            ***

            Mùa hè đỏ lửa 1972 - Tiểu đoàn Biệt Động Quân thất trận, Mùi và mấy anh em bị việt cộng bắt đày đi tù ra Bắc ba năm, đám quân nhân nầy khổ sở vô vàn biết bao nhiêu, không kể xiết, gia đình không tin tức, không thăm nuôi. Không! Không! Không... bất cứ có một việc gì, ngoài sự bị cộng sản hành hạ dã man, và đói khổ triền miên!
            Đến 30-4-1975 họ thả Mùi trở về miền Nam, ở nhà chưa được một tuần, lập tức anh lại bị họ nhốt vô tù ở trong miền Nam lần nữa, ôi đắng cay! Nhưng Mùi chỉ bị tù ở Phú Quốc một năm. Vị chi: Tù trước 30-4 cộng với tù sau 30-4: tất cả là hơn bốn năm tù! Oái oăm thay! sau 30 tháng 4 việt cộng bắt anh đi “cải tạo”, họ lại không tính những năm tháng anh bị bắt làm tù binh cơ cực đói khát trăm bề! Thật là bất nhẫn! unfair! không công bằng! Đúng là trớ trêu thay số kiếp “tù khổ sai từ Bắc vô Nam” ròng rã hơn bốn năm, mà Đoàn Mùi không được ưu tiên nằm ở trong diện HO.
            ***

            Năm 2000 Hoa và Chiến bất ngờ trở về Việt Nam, hai chị em đi Tam Kỳ tìm gặp vợ chồng Mùi, cô vợ hiền thục có khuôn mặt trái xoan, hai mắt đượm buồn, đôi môi vẫn óng mượt đang điềm đạm kể lại tất cả mọi chuyện cho chị em Hoa nghe. Tội lắm. Họ sống trong một mái nhà tranh đơn sơ khiêm nhường với vài đứa con. Hoa ứa nước mắt nhìn cảnh bạn tình nghèo ơi là nghèo! Nhưng điều xót xa vô vàn đau đớn dày vò Hoa không thể thốt lên lời là: trên vách ván thô sơ lúc gió lùa qua cửa, thì khung hình gỗ có đinh khuy dính sợi lòi tói treo trên tường: có tấm ảnh của Hoa lủng lẳng đong đưa đơn điệu vỗ lộp độp. Dường như gió bão luôn nhắc khéo với ai đó về thời xưa cũ!?

            Bây giờ tấm ảnh đã phai màu úa vàng, nhợt nhạt theo năm tháng. Chứng tích thời gian có phôi pha, mà hình ảnh cố nhân vẫn in đậm trong tim Mùi, trong đời sống của gia đình nầy. Là sao? Sao anh chung tình một điều không đáng, không nên đến thế, anh ôi! Hoa ngẩn ngơ bàng hoàng nhìn tấm hình của mình treo trên tường một cách vô ý thức, Hoa còn cảm thấy chướng huống hồ chi ai! Tự thâm tâm Hoa vô cùng mến trọng, kính phục tư cách và sự nhẫn nhục từ cô vợ của Mùi, cô bình yên chịu đựng cố tật về người chồng! Thật là một phụ nữa đặc biệt, cung cách ấy rất xứng đáng!

            Việc đầu tiên khi bước vô nhà Mùi, Hoa bắt em Chiến gỡ bỏ tấm ảnh của mình treo tòn ten trên cây đinh xuống, Hoa liền cất vô trong giỏ xách đang mang theo. Hoa xúc động nghẹn ngào, cảm thấy lương tâm cắn rứt, dày vò tột độ, ruột gan cồn cào, xót xa, bèo bọt, bứt rứt trong lòng. Hoa không hiểu tại sao thuở ấy mình mới có nhúm tuổi đầu non nớt, không suy nghĩ chính chắn, sớm vội lấy chồng làm chi!? Hoa không thể ngồi lâu. Nàng vội bảo em Chiến lấy ra 5.000 dollars đưa tận tay vợ Mùi:

            - Trước mặt anh chị, hai cháu, đây là một món quà rất chân thật của em đối với gia đình anh chị. Món quà nầy là lần đầu tiên, và cũng là lần cuối cùng. Xin anh chị hãy làm lại cái nhà gọn ghẽ, có chỗ che nắng che mưa, và dành dụm chút vốn để buôn bán, làm gì ra lợi, mà sinh sống tạm qua ngày. Ngoài ra em không hề có ý nào khác. Em hứa với anh chị là chúng ta sẽ không bao giờ liên lạc, không gặp lại nhau nữa. Chấm dứt. Em rất mong anh chị luôn bình an, vui vẻ, mạnh giỏi, nhất là gia đình anh chị phải xứng đáng có hạnh phúc.
            - Anh không thể nhận món quà to tát…
            - Em xin anh chị đừng nghĩ ngợi làm gì. Hãy nhận món quà trong tình đồng hương, cho em an tâm ra đi.

            Từng đám mây trắng bồng bềnh lững thững trôi trên nền trời phai nắng. Gió rung cành cuốn những chiếc lá me lăn tăn ly ty bay bay trong không gian ngút ngàn. Trời se lạnh! Em Chiến và Hoa lật đật đứng dậy, bốn người lặng lẽ nhìn nhau, nghẹn ngào xúc động không nói nên câu giã từ. Bỗng nhiên họ ôm chặt lưng nhau, oà khóc nức nở rất thảm thiết.
            ***

            Tình Hoài Hương
            Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-08-2017, 07:57 PM.
            Bút trần nào tả được lưu luyến!
            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
            Tình Hoài Hương

            Comment


            • Quệt Nước Mắt Lưng Tròng



              Quệt Nước Mắt Lưng Tròng
              (Kỷ niệm 40 năm buồn: ngày 17-04- gia đình di tản)


              Thành phố Nha Trang thơ mộng đầy cát trắng với những hàng dừa du dương nghiêng mình soi bóng ven bờ biển Nha Trang tuyệt vời, nay đã có nhiều tiếng nổ và tiếng động quái dị lan nhanh theo xe cộ tất tả chạy ngược xuôi. Họ bồng bế nhau dứt khoát ra đi... quay lưng ngoảnh mặt phản bội với quá khứ vàng son đã một thời nâng họ lên đài danh vọng.

              Từ nơi chúng tôi vừa vội vàng đến Nha Trang chưa quen thuộc phong thổ, chưa trìu mến luyến lưu gửi lại bạn và tôi niềm tin vui sống, thế mà nay tôi nơm nớp lo âu... mong muốn tất tả rời xa chốn nầy, để thoát thân ra đi chạy trốn, nhưng biết làm sao trốn đi đâu!? Đi đâu? Chính nơi tôi đến và sẽ ra đi trong sự bàng hoàng ngao ngán, phiền muộn lo lắng băn khoăn tột độ dày vò̀ tan nát đau buồn! Tôi cúi mặt loay hoay... len lén đào tẩu chính bản thân, khi nắng chiều sẽ lịm dần vào bóng tối. Nơi sinh mạng con người bây giờ rớt vào cảnh lâm nguy, khẩn cấp, và rẻ hơn cỏ rác. Cảm nghĩ chân tình của tôi thẩm thấu và bùng vỡ qua những đường đạn xuyên trong buồng phổi, trái tim, túi mật lá gan mình.
              Một chiều bất ngờ vào ngày 17 tháng Tư, tôi gặp Thúy Lan, cô mừng lắm:
              - Sao chị không lo ôm con chạy vô Sài Gòn gấp đi. Ở đây sắp mất rồi. Không biết sao?

              Tôi khóc ròng. Như ếch ngồi đáy giếng, như trâu chậm uống nước đục, tôi nào hay biết gì về bàn cờ thế cuộc từng giờ chong chóng đổi thay, và sự triệt thoái của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa! Vả lại nếu biết, tôi cũng không thể chen chân đến rừng người ở bến xe, bến tàu, phi trường, hải cảng, hoặc bất cứ nơi nào; để có thể vượt thoát, khi đêm đêm tôi nằm chập chờn trằn trọc trên giường lạ, mơ từng cơn ác mộng mà giật thót người, đã xốc ngược tôi ngồi bật dậy, mồ hôi hột vã ra như tắm, ú ớ gào rú rên la. Tôi chỉ còn hai bàn tay trắng cắp kè kè một nách bốn đứa con thơ, với một mẹ chồng bảy mươi tuổi! Tôi không thể làm gì hơn. Không thể! Thúy Lan cúi đầu suy nghĩ giây lát. Cô vội lấy giấy bút ra hí-hoáy viết, rồi đưa tôi, dặn dò:
              - Chị đưa cháu đến địa chỉ nầy, sẽ có người giúp về Sài Gòn ngay. Đi gấp nha. Chào chị em đi, em rất bận.

              Như kẻ chết đuối gặp chiếc phao, tôi không ngớt cám ơn bạn nhỏ mới quen. Tôi mừng kinh khủng, cầm chặt tờ giấy, thế mà vẫn sợ rơi, nên đứng lại thở dốc, tôi cẩn thận xếp tờ giấy Thúy Lan viết bỏ trong túi áo, rồi gài cây kim băng to lên túi áo, cho chắc ăn. Tôi cắm đầu chạy mà mừng khôn tả xiết. Tôi đã gặp quý nhân Thúy Lan tận tình giúp đỡ, người bạn sơ giao trong những ngày mẹ con tôi ăn bờ ngủ bụi tại miền cát trắng, như một phép lạ, không một điều kiện, hay do một sợi dây tình cảm luyến ái nào ràng buộc, ngoài lòng nhân và đức ái của cô. Còn tôi, có thể do hồng phước nhân đức của cha mẹ để lại, kiếp nầy cha mẹ tôi ăn ở hiền lành đức độ đã ra tay làm phước nhiều, nên bây giờ con cháu được hưởng lộc chăng!?

              Tôi vội về gặp các bạn báo tin là tôi đã có phương tiện di chuyển về Sài Gòn. Đồng thời biết gia đình Trần Văn Ngọc cũng chờ chuyến xe về Sài Gòn có lẽ ngày mốt là xong. Riêng gia đình chị Phan Bàn quyết định chờ tin tức anh Bàn, nên họ ở lại Nha Trang. Tôi vội lo thu dọn mấy túm quần áo mang theo phòng thân. Tôi bịn rịn chào các bạn.

              Trước khi lên xe xích lô, tôi mua sáu ổ bánh mì nhỏ xíu (không có nhưn), để phòng hờ. Vì lúc mười giờ sáng nầy các con chỉ ăn qua loa nửa chén canh bún lỏng bỏng nấu với rau muống, thay thế cơm cho cả ngày, tất con sẽ bị đói meo. Trên bước đường lưu lạc từ Nha Trang về Sài Gòn, không biết sẽ diễn ra bao điều âu lo khác, vẫn cần có tiền tôi mới có thể quyết định mọi việc nơi phương xa xứ lạ. Mẹ chồng cùng hai con lớn ngồi một chiếc xích lô. Tôi và hai con nhỏ ngồi một chiếc xích lô khác. Vì đi bộ từ đây đến phi trường quân sự rất xa. Ngộ lỡ bị trễ giờ phi trường khoá cổng, không cho ai vào nữa, thì nguy to. Lần đầu tiên ngồi trên xích lô, các con tôi rất thích thú hí hửng vui mừng, vì ở Đà Lạt các con chưa hề thấy xe xích lô. Đặc biệt ở Nha Trang các chàng trai trẻ làm nghề “chạy xe rong” hồn nhiên vui nhộn, đa số họ ưa rung chuông inh ỏi và ca hát nghêu ngao trên đường đi, nghe thật vui tai.

              Xuống xe xích lô tôi vội trả tiền, lật đật chạy tới xuất trình giấy tờ ở trạm gác cổng doanh trại Không-quân Quân sự. Tôi trở lại chỗ mấy bà cháu đang ngồi bên vệ đường lấy bánh mì ra cho bà và mẹ con ăn. Các con ăn hết ổ bánh mì vẫn thòm thèm hoặc còn đói. Bé Hoàng đói nên quấy hơn mọi ngày, con cứ rúc vào vú mẹ đòi bú vú da, khổ nỗi từ ngày “chạy giặc” đến giờ, bao nhiêu năng lượng đã cạn kiệt, thì làm sao có thể vắt ra sữa cho con! Tôi muốn mua bánh mì cũng không thấy khu nầy có câu lạc bộ, không một hàng quán, hoặc có người gánh hàng rong đi lại bán dạo ở bên ngoài. À, đây là khu quân sự mà. Khoảng mười lăm phút sau thì đóng cửa cổng gác. Ôi đại phước! Nếu chúng tôi chậm mươi phút thì hết cách rồi! Thật là chỉ có Trời có mắt cứu nguy. Tôi dặn dò các con ngồi một chỗ với nhau, không được chạy lung tung, sẽ bị lạc mất.

              Chúng tôi được gọi tên vào cổng, họ dồn chúng tôi ngồi xuống một góc ở ngoài sân dưới hàng phượng đỏ rực, (cùng những người lạ khác rất đông chờ đợi gọi tên, để vào trong văn phòng làm việc). Qua những thủ-tục do an ninh Quân-cảnh kiểm soát chặt chẽ, trật tự, cần thiết, cấp bách. Những đoàn dân di tản được lọc lại thành từng gia đình, có mấy quân nhân thư ký đánh máy tốc hành ghi rõ: tên, họ, danh sách chuyến bay.

              Họ dẫn gia đình tôi qua một phòng trong phi trường. Ở đây đã có rất nhiều người im lặng hoặc rù rì chuyện trò nho nhỏ. Thỉnh thoảng có một quân nhân Việt Nam áo quần tươm tất ra đứng trên thềm nhà gọi từng tốp người có tên trong danh sách đã ghi, dù máy phóng thanh mở hết cỡ, mà tôi vẫn nghe không rõ do những chiếc máy bay quân sự luôn gầm rú ngoài phi đạo làm điếc tai.

              Thời gian mỏi mòn chờ đợi dần qua, thoáng chốc gia đình tôi đến lượt được gọi tên. Họ dẫn chúng tôi vào đứng xếp hàng trước một phòng khách rộng đông người gấp hai lần ở ngoài sân. Những dãy phòng ăn thông với nhau có điện giữa ban ngày sáng trưng, có máy lạnh mát rượi. Mặc dù trên đầu phi cơ quân sự không ngớt gầm rú, nhưng nơi đây không đến nỗi ồn ào, chen lấn, mà có trật tự hơn.

              Tôi nhìn những mệnh phụ phu nhân rực rỡ xa hoa quần là áo lụa chưng diện trong phi trường, mà bẽn lẽn! Giờ phút vắt giò lên cổ “tẩu thoát thân” nầy, nhưng lắm bà trưởng giả còn có thì giờ phù phiếm tô trét phấn son cẩn thận, mái tóc chải bồng, móng tay móng chân đỏ chói, "quý công nương" sai khiến chỉ chỏ “gia nhân” vài người tay đùm tay xách, cong lưng chạy lui chạy tới. Hoặc vài anh lính đi sau đuôi mấy bà khệ nệ khiên vác nhiều chiếc va ly da cồng kềnh khá nặng và đắt tiền mới toanh, thùng giấy to đặt dưới chân họ mới và sạch sẽ. Những người cùng vào xếp hàng ở đây thân tỏa mùi nước hoa Ici, Neblina, Ode à L’amour... rất thơm. Còn loại túi xách tay là thứ sang trọng mang hiệu: GUCCI made in Ilaly– LOUIS VUITTON Paris – SIENNA RICCHI ở hải ngoại du nhập về Việt Nam.

              Tuyệt nhiên không một ai có “tay nải” cũ mèm bẩn thỉu, xấu xí dị hợm, khiêm nhường, nghèo nàn coi thô thiển quê mùa hết chỗ nói: như hành trang của tôi. Đến nơi nầy, tôi mới nhận thấy tình cảnh hèn kém, chua xót bi thương cùng khổ của mình trong những ngày ly tán: trắng trợn phơi bày quá tệ, quả là đáng thương xót xiết đỗi! Tôi lúng túng ngượng ngùng bực bội cúi xuống len lén che dấu gói hành lý thô thiển, hèn kém dưới gót chân kẻ làm vợ, làm mẹ: đã bao năm qua vẫn thấp hèn với anh chồng "lính chiến". Tôi cảm thấy thật buồn vì số phận mình sao nghiệt ngã, đắng cay, bạc bẽo, khổ cực và phũ phàng tệ mạt đến thế! Tôi đau xót không kém phần tủi hổ̉ (thật phí hoài không gian và thời gian về tuổi trẻ tràn đầy nhựa sống: một thiếu nữ tri thức nổi danh người đẹp biết chừng nào! khi trao thân cho người chồng không thích danh phận, để rồi anh ấy khép kín và ẩn nhẫn, đã đẫy vợ con đến bước đường cùng nầy!).

              Tuy nhiên lúc tôi ngồi bó gối trên nền gạch, vò đầu bứt tóc bứt tai suy đi nghĩ lại cho cùng thì... bộ áo tác chiến của chồng tôi và những bộ quân phục mà những quân nhân đang mặc trên người kia, nào có khác chi nhau!? Đó là niềm vinh dự tự hào rất kiêu hãnh của người lính oai dũng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (và dĩ nhiên cả cô vợ lính hân hạnh tự hào về phong độ: quốc hồn, quốc túy, quốc sử, quốc ca, quốc thiều, quốc huy, quốc thể, quốc gia Việt Nam); đồng thời mỗi một người không phân biệt cấp bậc quan hay lính: họ đều gánh vác trên vai tất cả trọng trách, nghĩa vụ, bổn phận làm trai phải trả nợ núi sông, và quyết giữ gìn quê hương Việt Nam an thịnh trường tồn.

              Thế nên chồng tôi cùng lớp lớp thanh niên trai tráng đã vâng lời thượng cấp "phải ở lại tử thủ” Đà Lạt! Nếu có người đi di tản về Sài Gòn đông đúc kinh khủng, ấy là do ai ai cũng mong Mỹ và Quân-lực Việt Nam Cộng Hoà ra tay làm việc nghĩa cứu vớt mình vượt thoát nhanh ra khỏi vùng đất khốn đốn, (nơi có nguy cơ khói lửa chiến tranh ập vào, hoặc có thể sẽ bị xâm chiếm, bị bom đạn tàn ác dội lên đầu không tiếc thương). Khi sống còn, thì ai ai cũng có cơ may phục hồi cuộc sống và danh dự. Thế thôi.

              Lần chót, chúng tôi được gọi ra ngoài sân bay đứng chờ gần chiếc phi cơ quân sự khổng lồ quay cánh quạt vù vù. Họ đang gọi tên những tốp dân đã ghi danh trước tôi đi lên chiếc phi cơ nầy. Mặt đất rung chuyển dữ dội, tóc tai quần áo mọi người bay phần phật. Hai tay các con nắm chặt lấy hàng dây thép gai, hoặc những cột trụ rào sơn màu trắng xanh xanh đỏ đỏ. Đây là lần đầu tiên trong đời các con tôi được thấy tận mắt những chiếc phi cơ to tướng gần thật gần. Các con vui mừng chạy ra dán mũi sát vào cửa kính, con ở lì một nơi chằm chằm nhìn những chiếc phi cơ bay lên, đáp xuống.

              Chốc chốc các con lại hí hửng chạy vào chỗ tôi ngồi: con khoe đã thấy nhân viên hàng không lo tới tấp bốc hàng, con líu lo nói chuyện lạ xảy ra những gì ở đâu đó. Bé Bi (Huy) chạy tới một chiếc thùng gỗ trèo lên đứng ở đó, để nhìn những chiếc máy bay cho rõ, rồi con lại tụt xuống đất, chạy đến chỗ gần cánh cửa sắt. Bé Bi dù sống cảnh di tản màn trời chiếu đất, ăn uống thất thường, nhưng vẫn còn là đứa trẻ có hai má đỏ rực vì chưa quen ở xứ nóng, bé bụ bẫm, tròn trịa mủm mỉm xinh xắn, bé Bi mặc bộ đồ bay màu xanh da trời, (giống y đồ bay của pilot, nên ai nhìn bé Bi cũng thấy cháu hồng hào ngộ nghĩnh dễ thương.

              Chiếc phi cơ khác từ từ quay ra phi đạo, thì gió từ những cánh quạt ào ào thổi, làm cho mọi người đứng bên hàng rào muốn té nhào. Không hiểu sao lúc đó bé Bi ở đâu chui ra khỏi hàng rào, và nắm lấy tay một bà Mỹ mặc áo đầm vàng, bà có đôi mắt xanh ngọc, mái tóc vàng hoe. Bà ta ngạc nhiên ngập ngừng chốc lát, rồi đặt chiếc va ly xuống đất, bà lấy trong giỏ xách một hộp bánh ngọt đưa cho bé Bi, bà chỉ tay về phía cửa kính bên trong hàng rào, nơi mọi người đang ngồi hoặc đứng chờ đợi chuyến bay. Nhưng thằng bé không nghe, không hiểu, hoặc mãi nhìn những chiếc phi cơ, mà nó nắm chặt váy đầm bà Mỹ kéo rị lại.

              Bà Mỹ trắng nầy cứ nhìn bé Bi và nhìn quanh quất hoài. Có lẽ bà Mỹ nghĩ con cái nhà ai bị thất lạc trong lúc cả nước hổn độn chạy loạn?! Đến phiên bà Mỹ tiến bước ra cổng phi trường xa xa hàng rào, để lên chiếc máy bay kia, thì thằng bé nhà tôi vẫn túm chặt váy áo bà Mỹ líu ríu đi theo bà. Nhưng thằng bé Bi bước đi, mà luôn luôn ngoái cổ lại đăm đăm nhìn chiếc phi cơ đáp xuống trên phi đạo.

              Tôi cúi đầu vạch áo cho bé Hoàng mút vú da, khi ngẩng lên nhìn ra hướng phi cơ, ngay từ đầu tôi thấy có đứa nhỏ con ai, hình như giống con trai của mình, mà đang nắm chặt váy của một phụ nữ Mỹ, khiến váy đầm bà ta giảng dài ra lôi theo thằng nhỏ?! Thật tình ban đầu tôi cứ tưởng nó là con của bà Mỹ kia, tôi không hề nghĩ đó là bé Bi, (bé Bi là tên gọi thân thiết trong gia đình). Quay lại nhìn lui nhìn tới, nhìn quanh, thì quả thật tôi thấy thiếu mất bé Bi, nó không còn đứng trên cái thùng gỗ, hoặc bên hàng chắn rào cùng hai anh Dzũng và Tuấn của nó nữa.

              Tôi hốt hoảng bỏ thằng bé (bé Tồ) đang cắn kéo cái vú của tôi dài ngoẵng ra đau điếng. Tôi đứng phắt dậy, hoảng hốt kêu réo to thật to:
              - Bé Bi. Bé Huy. Úi Trời ơi! Mẹ đây nầy Huy ơi! Huy ơi...

              Khổ nỗ̉i thằng bé không thể nghe được, vì tiếng phi cơ nổ ầm ầm, inh ỏi gầm rú. Đồng thời lúc đó con trai trưởng của tôi là bé Dzũng đứng ở gần tôi hơn, nên con nghe tôi la hét, con quay lại nhìn thấy tôi cứ chỉ chỉ tay về hướng bé Bi. Bé Dzũng và bé Tuấn cũng thấy bé Bi ngố ngáo từ từ theo đoàn di tản đi ra ngoài chiếc C 130 khác. Bé Dzũng hoảng hồn, con nhanh nhẹn bò lòn qua lớp hàng rào sắt, con tức tốc chạy chạy... chạy rõ nhanh tới bên bé Bi. Bé Dzũng lôi giật thằng em đứng khựng lại. Thằng bé Bi xiểng liểng suýt té, nó ngơ ngác nhìn lên bà Mỹ, nó vội buông váy của bà ta ra. Hai anh em túm cánh tay nhau cúi cong lưng cùng tất tả chạy về chỗ cũ. Hú hồn hú vía!

              Tôi mừng rỡ điên người mà khóc hụ hụ hụ..., vừa bai bải la mắng mấy đứa con trước mặt mọi người lạ. Tôi không hề biết xấu hổ, chỉ vì tôi sợ mất con. Kể từ giờ phút đó, tôi lấy một sợi len dài cột cườm tay đứa nầy dính với cườm tay đứa kia, và bắt các con ngồi bệt xuống nền gạch, ở yên một chỗ, không được đứng dậy xớ rớ dòm ngó chi cả, cho chắc ăn. Tôi giữ các con chằn chằn sát bên.

              Thật ra, nào biết đâu bé Bi lúc đó gần năm tuổi, nếu con đi với bà Mỹ, thì sau nầy con không thể biết cha mẹ là ai! Ở nơi xứ văn minh tột đỉnh giàu sang vinh phú kia, có thể đời con sẽ ấm êm sung sướng hạnh phúc, hơn ở với cha mẹ chăng?! Cũng có thể ngược lại. Nhưng... Thôi con ơi, nếu con ở nơi quê hương với tổ tiên ông bà cha mẹ, có đói khổ nghèo hèn, cũng còn mẹ cha anh em ruột thịt: yêu thương con, chí tình đùm bọc, ủi an, sum họp bên nhau. Sau nầy nếu gia đình mình may mắn trở lại giàu sang sung túc như xưa. Hoặc vô phúc mà lâm vào cảnh hoạn nạn đói khổ, thì mình cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng dắt díu nhau bước trên con đường gian truân. Mẹ không thể rứt ruột đem con thơ đi bỏ chợ bơ vơ lạc lõng ở xứ người lạ hoắt cho đành. Xin lỗi con.

              Đợt người di tản thứ ba đã tuần tự được gọi tên lên phi cơ. Tôi lo lắng nghĩ vơ nghĩ vẩn và cảm thấy bồn chồn nóng ruột lạ lùng, chỉ sợ bị sót tên, hoặc vì lý do trục trặc nào đó, bị đình chỉ chuyến bay. Thì chết thôi! Hai sĩ quan Không-quân đã đọc danh sách lúc nãy đích thân dẫn đoàn người di tản, trong đó có tên gia đình tôi là tốp cuối cùng mang số chuyến bay 449 A. Tôi để bà nội, các con, đi trước, cườm tay các con vẫn cột sợi len dùng dằng níu kéo nhau, run run con leo lên chiếc phi cơ C–130 “hả toác hoác mồm”.

              Lúc ở xa xa trong khu hành lang, tôi nhìn thấy chiếc phi cơ nhỏ, nhưng khi đến bệ cầu thang sắt nối liền với đuôi phi cơ, thì thấy phi cơ nầy to lớn lạ thường. Chúng tôi phải nhờ mấy vị sĩ quan bồng lên và trao cho một sĩ quan khác đã đứng trên đuôi tàu của phi cơ, vì quá cao không thể trèo lên. Từ đuôi máy bay dọc theo lòng phi cơ có bốn hàng ghế, hai hàng ghế giữa đâu lưng vào nhau, bốn hàng ghế đệm bọc nhung màu huyết dụ rất êm đang mở “cái đuôi hoác mồm ra”, để lần lượt đón từng gia đình trèo leo lên phi cơ vẫn nổ máy ầm ầm. Chiếc máy bay nầy sẽ mang chúng tôi ra khỏi vùng đại nạn khói lửa binh đao. Biết đâu nơi Nha Trang sẽ diễn ra bao đau thương tàn khốc nay mai!?

              Các con đứa nào đứa nấy tóc tai quần áo ướt nhẹp mồ hôi, hai má đỏ rực vì nóng, đã được tháo sợi dây len “chắc cú” ra rồi, các con thoải mái cứ chồm lên nhìn qua những ô cửa nhỏ, các con vui vẻ hí hửng cười nói tía lia, lí lắc, huyên thuyên. Nhiều lần mỗi khi đi đâu chơi, tôi đều mua dự phòng bánh mì kẹp gà, ba tê, thịt nguội, hoặc chuối, nước lọc, đựng trong giỏ xách để cho các con ăn. Nhưng bây giờ sống trong cơn hoạn nạn, lại bất ngờ được ra đi quá đột ngột, không thể chuẩn bị chu đáo, nên mọi thứ đều thiếu thốn.

              Bé Tồ (Hoàng) lúc đó quậy tưng trời, tôi mệt hết sức, phần vì tiếng động cơ gầm rú đinh tai nhức óc khiến con sợ hãi, phần vì nóng nực kinh khủng, mồ hôi con vã ra như tắm, ướt hết áo quần, mấy thằng nhóc tự động cỡi hết áo ra, ở trần, vì lúc đó trong phi cơ chưa mở máy lạnh. Phần nữa là bé Tồ đói bụng đòi bú. Khổ nỗi hai bầu vú tôi nhăn nhúm teo tóp sát vào xương sườn, thì còn gì có sữa cho con! Chẳng cần biết xấu hổ khi tôi vạch áo trước nhiều người lạ, để vắt hai đầu vú teo tóp hoài, vẫn không còn một giọt sữa. Bé Hoàng cứ chui rúc đầu vào tìm vú mẹ, bú bú, mút mút, day day... con nhả vú ra, vật vã khóc la. Con lại giẫy nẩy lên, thiệt chướng quá chừng.

              Chính lúc đó có một người đàn bà trung niên qúy phái, thanh lịch, ăn mặc gọn gàng, trang nhã, bà ngồi đối diện với tôi, bà ấy cầm cái quạt giấy quạt hoài cho mẹ con tôi. Sau đó bà đưa cho tôi ổ bánh mì:
              - Chị đút cho cháu ăn... Có lẽ cháu đói bụng.

              Tôi nghẹn đắng cổ chua xót lí nhí nói lời cảm ơn bà, cầm ổ bánh mì kẹp thịt xé nhỏ ra, đút từng miếng cho con ăn. Bé Hoàng nín khóc, mặc dù con vẫn nấc lên từng hồi. Con ăn ngấu nghiến gần hết một phần tư ổ bánh mì, nước mắt lưng tròng con thút thít đẫy tay tôi ra về phía các anh, bé Hoàng có ý muốn đưa phần bánh mì còn lại cho các anh. Mấy anh em ỏn ẻn cười hì hì... liếc nhìn bà ấy, rồi các con thay phiên nhau mỗi đứa e dè cắn một miếng bánh mì nhỏ, nhai bỏm bẻm. Lát sau thì trong khoan tàu mở máy lạnh mát rượi, thế là bé Hoàng dụi đầu vào ngực tôi vừa nấc nấc mà ngủ vùi.

              Người đàn bà thân thiện mỉm cười nhìn chằm chằm mấy đứa nhỏ. Giọng miền Nam ngọt ngào, êm dịu. Bà ấy nhỏ nhẹ:
              - Các con của chị rất đẹp và ngoan thiệt.

              Tôi e ấp mỉm cười. Bà ấy lại lúi húi lục tìm trong giỏ xách sang trọng ra một hộp bánh Coffee Milk biscuits to, và chai nước lọc, bà đưa cho tôi. Giỏ xách của bà bây giờ đã xẹp lép. Thật bất ngờ, dù tôi không bảo, nhưng ba đứa con lớn vẻ mặt rạng rỡ, hớn hở, vui vẻ, hí hửng nhìn nhau, chúng vòng tay cúi rạp đầu sát xuống gần đùi nó, để nói:
              -“Cháu cảm ơn bà” rất to.

              Chúng bắt chước nhau giống như chú khỉ; khiến ai nấy ngồi chung chuyến máy bay đều cười ồ. Các con ngồi ngay ngắn từ tốn ăn uống gọn gàng. Tôi nhìn người đàn bà xa lạ lại ấp úng lí nhí cám ơn, lặng lẽ cúi đầu xuống trên mái tóc thằng bé nhỏ mà quệt nước mắt.
              * * *

              Tôi nghĩ mãi không ra và không thể nào ngờ là mình có diễm phúc vinh dự đến thế nầy: Khi xế chiều có ông sĩ quan Không–quân Việt Nam ở Nha Trang gọi tên tôi (đứng đầu danh sách gia đình tôi) ông đưa cho tôi tờ phê duyệt “Thuận” do vị một Trung-tá ấn ký (tôi không thể nhớ rõ tên vị ấy). Ôi! Trí óc của tôi lúc đó thật tồi, tôi chỉ biết lo lắng về riêng “cái tôi” hiện tại là: Làm sao mình có thể “đào tẩu” ra khỏi vùng đất chứa nhiều súng đạn!, mà không hề nghĩ đến ai- thì bây giờ tôi biết làm thế nào nhớ rõ tên họ và ân tình không thể trả đền nầy! Trên tờ giấy ghi “thuận” không hề có con dấu: “Nhất thế. Nhì Thân. Tam ngân. Tứ chế” gì cả.

              Thời gian loạn lạc thất điên bát đảo nầy; thật sự tôi biết chắc chắn một điều là: trong trường hợp hổn loạn cao độ, thì dù ai di chuyển bất cứ phương tiện nào gần hoặc xa, đa số ai có thế lực, có “chi địa, chi vàng” thì mới có thể thoát thân. Tôi không phủ nhận trước ngày di tản khỏi Đà Lạt, thì gia đình tôi có xe hơi, có nhà lầu gạch đúc ba tầng rộng và khang trang, rủng rỉnh tiền bạc leng keng trong túi như ai! Ấy thế mà chính lúc nầy chúng tôi nghèo rớt mồng tơi, nhưng vẫn có người chính thức công nhận cho chúng tôi đường hoàng leo lên “tàu bay free”! Ôi! Sung sướng làm sao! Hạnh phúc vô ngần khi tôi ngồi trong lòng phi cơ, cảm thấy như đời mình phơi phới bay bổng lên đào nguyên tiên cảnh. Ơn cứu mạng nầy gia đình tôi xin vô vàn tạ ơn “Người”.

              Khấp khởi vui mừng khôn xiết khi đã ngồi an toàn yên ổn ở một nơi sang trọng thế nầy, tôi nhìn lui nhìn tới không thấy ai lưu ý đến mình, tôi len lén thò tay xuống nhéo ở bắp đùi mình mấy cái, xem thử mình có nằm mơ, hoặc thân mình có đau điếng vỡ mộng hay không!? Bởi vì tôi vẫn chưa dám tin chắc là mình sung sướng hạnh phúc may mắn được hãng Hàng-không Quân-sự “biếu” cho tờ giấy chứng nhận được “đi không”, “đi chùa” tuyệt vời như thế nầy.

              Lòng tôi rối bời sầu nhớ hình ảnh đóa hoa hồng óng vàng đang gục đầu bên ngăn kéo kỷ niệm bảng lảng dáng hoàng hôn hắt hiu hư ảo thuở nào! Ôi! Đó là những đóa hồng nở rộ thắm tươi trong trái tim nhân-ái hiếm thấy. Tôi không “nịnh” những chàng phi công bay bướm làm gì! Vì sự thật không cần biết tôi là ai, "họ" những đàn chim sắt trong "Tổ-quốc Không-gian" đã, vẫn, đang tận tâm giúp đời vô vụ lợi, tấm lòng họ trung trinh tận-hiến do bổn phận, trách nhiệm, danh dự và nghĩa vụ cứu người. Những vị ân nhân đức độ mà tôi không hề biết mặt nhớ tên.

              Những người tình cờ tôi biết một lần, sơ sài chỉ quen một ngày, rồi xa nhau muôn thuở, không bao giờ tìm thấy lại, nhưng suốt đời tôi vẫn luyến nhớ thầm mong có ngày hân hạnh tái ngộ. Tôi xin trân trọng cúi đầu tạ ơn vị Trung-tá Không quân (tôi không hân hạnh nhớ tên “ngài”). Tôi vô cùng cảm-kích những tấm lòng cao cả của các vị Không-quân. Cảm ơn gia đình ông bà Niềm cũng chỉ là sơ giao mà tôi chưa nhìn rõ mặt họ, và cô con gái Thúy Lan của ông bà vô vàn. Cám ơn người đàn bà thanh lịch qúy phái ngồi trên phi cơ đã cho các con tôi một miếng khi đói.

              Ân tình nầy suốt đời tôi không thể trả đền, xin trọn kiếp mang theo kính nhớ trong lòng. Biết làm sao bây giờ! Dù mai sau nếu gia đình tôi sẽ trở lại sung túc giàu sang vinh hiển như thuở xưa, hoặc tôi chỉ là một người vợ lính quèn hèn mọn tầm thường: tôi nguyện sẽ cố gắng viết những bài văn (dù hay hoặc dỡ), tôi thành tâm tạt cốt “tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm” để ca tụng những vị anh hùng có nhân cách thầm lặng xã thân giúp đời vô vụ lợi. Một lần nữa tôi không bao giờ và chẳng thể nào quên: những người đã âm thầm lặng lẽ ưu ái ban tặng free, đặc ân cao qúy tốt đẹp cho riêng gia đình tôi, và cho Đời. Nguyện xin Thượng Đế trả công bội hậu & ban đến họ được vui vẻ bình an hạnh phúc trường tồn.

              Chiếc “mõm hàm ếch” từ từ khép miệng lại, nhốt trọn mấy trăm dân di tản vào trong lòng phi cơ. Phi cơ êm ru bay hoài và an toàn hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, phía dành riêng cho khu phi cơ quân sự cũng ồn ào, náo nhiệt đông đúc kinh khủng. Chúng tôi được leo lên một chiếc xe bus chở free ra lối Bảy Hiền.

              _ * _

              Tình Hoài Hương
              Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-28-2017, 11:13 PM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • 30 Tháng Tư: Quốc Hận Đen



                Bách Niên Thương Hải Biến Vi Tang Điền

                (Kỷ niệm 42 năm buồn)



                Thật tình tôi không thể nào hiểu nỗi tại sao vận nước Việt Nam lại trở nên quá đen tối: sau khi hiệp định Genève 1954 diễn ra kể từ ngày 26 tháng 4 năm 1954 - rồi bản Hiệp Định được ký kết và kết thúc cùng ngày 21 tháng 7 năm 1954. Thành phần tham dự: Anh, Mỹ, Liên Xô, Pháp, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Laos, Cambodia, Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Phía Quốc Gia Việt Nam ban đầu do ông Nguyễn Quốc Định làm Trưởng Đoàn. Sau, ông Trần Văn Đổ thay thế. Đáng chú ý: Ông Trần Văn Đổ, Trưởng Đoàn Quốc Gia Việt Nam đã lên tiếng phản đối sự chia cắt đất nước. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (miền Nam Việt Nam) không ký Hiệp Định. Phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (miền Bắc Việt Nam) do Phạm Văn Đồng làm Trưởng Đoàn. Phái đoàn Hoa Kỳ từ chối công nhận Hiệp định Genève.

                Kể từ ngày 21-7-1954
                – khi miền Bắc Việt Nam ký Hiệp-định Genève xé đôi lãnh thổ Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 và cầu Hiền Lương Bến Hải làm ranh giới, để chia lìa tách bạch hai miền Bắc Việt Nam và miền Nam Việt Nam ra đôi ngã phân ly nghẹn ngào:
                - Ngày 11-11-1960 – Đại-tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu cuộc đảo chánh cùng Trung-tá Vương Văn Đông ở Liên-đoàn Dù, và Thiếu Tá Nguyễn Triệu Hồng, Đại-úy Phan Lạc Tuyên: đã đảo chánh nền Đệ-Nhất Cộng-Hoà hụt; thì “chiến tranh nội bộ” bắt đầu manh nha quyết liệt vì cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt rối rắm bùng nổ liên miên.
                Từ xưa tới nay, sự thôn tính đất đai, tranh giành quyền lực, thế lực, vinh hoa, là mạng lưới quyến rũ dẽo dai và khổng lồ. Nước càng trong thì không có cá. Dù lòng người đơn giản, phước thiện, trong sáng và cao cả; ấy mà nếu du nhập vào hệ thống chính trị, sau khi bị cuốn hút vào cung cầu đó, thì thật khó lòng ít có ai rứt ra được.

                - Ngày 27-2-1962
                - Có 2 chiếc khu trục A1 Skyraider dội bom dinh Độc Lập, do Trung-úy Phạm Phú Quốc và Thiếu-úy Nguyễn văn Cử ném bom bắn cháy dinh Độc Lập. Phi cơ của ông Phạm Phú Quốc bị bắn rớt trên sông Sài Gòn, ổng đã vô tù, tất cả bom đạn còn nguyên, nghĩa là ông ta chưa kịp thả trái bom nào. Ông Cử đào thoát bay mút qua hướng Nam Vang, dân chúng bàn tán là ổng bị chính phủ ở bển bắt nhốt vô tù rùi!?

                - Sau biến cố 02-11-1963 – Tổng-thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu bị thảm sát. Trải qua bao thăng trầm chính trị sục sôi… thì nền Đệ II Cộng Hòa có Tổng-thống Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Thiệu lên ngôi.
                * Ngày 8-3-1965 - Kể từ khi có đoàn Thủy-quân Lục-chiến Mỹ tiên khởi, đông đúc khoảng 3.500 người rầm rộ đổ bộ lên đất liền tại Đà Nẵng, Mỹ viện cớ muốn giữ “an ninh cứ địa”. Do tướng Maxwell Taylor, thỉnh thoảng hút xì gà Schimmelpennick làm đại sứ Sài Gòn, ông dẫn đầu một cuộc phô trương cường quốc Mỹ, để thị oai với các nước tụt hậu, chậm tiến, đang có chiến tranh. Rồi…
                * Ngày 16-8-1965 - Chính phủ Nguyễn Khánh chủ trương thành lập Hiến Chương Vũng Tàu. Trong nước loạn xạ bởi nhiều phe phái chính trị phản đối chính quyền đã hoạt động ráo riết. Sau đó có nhiều bất đồng, các đảng phái, sinh viên lục đục nội bộ, nên tan đàn rẽ đám. Hội-đồng Quân-lực Cách-mạng truất phế ông Nguyễn Khánh, cho ông lưu vong ra ngoại quốc làm đại sứ.

                * Ngày 9-5-1969 - Hạ-sĩ Henry Kissinger đi lính trong Đệ-nhị Thế-chiến, sau lên làm cố-vấn an ninh quốc gia cho Tổng-thống Richard Nixon. Về sau tiến sĩ Henry Kissinger khai mạc hoà đàm Ba Lê (không có chính phủ miền Nam hay Quân-lực miền Nam). Suốt thời gian hoà đàm dưới sự giám sát chặt chẽ của Nixon, ngoại trưởng Kissinger “ráo riết đi đêm” với quân Bắc Việt.
                - Người dân luôn dán mắt nhìn vô ti vi trắng đen, theo dõi công ty Pecten Việt Nam (là chi nhánh của Shell) đã sản xuất khoảng 1.500 thùng dầu thô/ngày, trong giếng dầu mang tên Pioncer sâu 4.500 feet dưới lòng biển. Hoan hô đại thắng!
                - Một phái đoàn Mỹ có tên Project Concern, và phái đoàn Thanh-Thương-Hội Việt Nam do ông Lê Bá Công làm hội trưởng, hướng dẫn phái đoàn săn sóc y tế cho đồng bào Thượng tại miền Nam Việt Nam. Phái đoàn nầy được đồng bào kính trọng và hoan hô nồng nhiệt.

                * Ngày 27-1-1973 – Trong chương 2 điều 2 tại nhiều năm hội nghị, sau đó Hiệp định Ba Lê đã ký kết đình chiến: Ngưng bắn. Ấy thế mà vào ngày 9 tháng * Ngày 9 Tháng 3 năm 1974 Việt-cộng câu súng 81ly vào trường Tiểu-học Nhị Quý, Cai-Lậy, Tỉnh Định Tường, giết 32 em học sinh nhỏ, và hơn 50 em học sinh khác đã bị thương la liệt và trầm trọng. Vô số trẻ em bị chết oan, thật đau đớn vô cùng thảm thiết.
                ***

                * Ngày 11 - 3 - 1975 - Mất Ba Mê Thuột. Thiếu-tướng Phạm Văn Phú, Tư-lệnh Quân-đoàn 2/Quân-khu 2, ra lệnh quân đội triệt thoái khỏi Pleiku – Kontum (do chỉ thị của TT Nguyễn Văn Thiệu).
                Di tản miền Trung: 13 - 3 -1975. & Di tản cao nguyên: 14 - 3 - 1975 & 15 - 3-1975: Khánh Dương.
                Quân đoàn II triệt thoái: 16 - 3 -1975. * Mất các nơi:[/B] Tuy Hoà: 17 - 3 - 1975 *.- Phú Yên: 18 - 3 - 1975 *.-

                * Ngày 19-3-1975 – Một Tiểu-đoàn của Trung-đoàn 43 Bộ-binh đóng chốt phòng ngự tại Định Quán, quanh vùng phụ cận núi Chứa Chan. Gia Rai, Tiểu-đoàn nầy anh dũng đánh trả đối phương rất phi thường.

                Khi mất Đèo Ải Vân[/B]: 21 - 3 -197 thì ngày N+5, 21-3-1975 triệt thoái cuối cùng Lực-lượng Quân-đoàn 2 khỏi Cao Nguyên, trên tuyến đường Liên-tỉnh lộ B.

                * Ngày 22-3-1975 - Tỉnh Quảng Đức thất thủ. * Ngày 23-3-1975 – Công-binh VNCH làm xong chiếc cầu dã chiến. Lực-lượng Quân-đoàn 2 cuối cùng vượt qua sông Ba, triệt thoái về Phú Yên.

                * Ngày 25-3-1975 – Các đơn vị Quân-đoàn 1/Quân-khu 1 (Việt Nam Cộng-Hoà) triệt thoái ra khỏi Huế& * Đà Nẵng: 25 - 3 - 1975.

                Quảng Nam: 28 -3-1975. *.- * Đêm 28 - 3 - 1975 - Lực Lượng hùng hậu của Quân-đoàn 1 do tướng Ngô Quang Trưởng lãnh đạo, đã triệt thoái khỏi Đà Nẵng. * Bình Định: 27 - 3 -1975 *.- Sau đó là Lâm Đồng: 29-3-1975 * Quy Nhơn: 30-3-1975 * Bình Định: 31-3-1975.

                Hết tháng Ba. Qua đầu tháng Tư:

                * Mất Nha Trang: 2 - 4 - 1975 * Phan Thiết: 3 - 4 - 1975 * Các phi trường Tân Sơn Nhất. Cần Thơ. Biên Hoà, có nhiều chiến đấu cơ F 5 – oanh tạc cơ A 37. Không một ai mà không nghe đồn ầm lên là: từ Lâm Đồng dọc theo rặng trường sơn, sông La Ngà chảy từ khu Tánh Linh, qua phía nam Định Quán, Rừng Sát ra cửa biển Cần Giờ: Đang bị đe doạ trầm trọng. Người ta lại đồn máy bay oanh tạc dinh độc lập hụt hay sao đó? Bây giờ thì chuyện không nói có, chuyện có nói không. Chả ai có thể đi đâu kiểm chứng, vì mọi ngã đường đông nghịt người không thể chen chân. Nhưng than ôi! Đúng thế thật, Trung úy Nguyễn Thành Trung, quê ở Bến Tre, đã bay chiếc F5 cất cánh từ Biên Hoà về thả bom xuống dinh Độc Lập. Phi cơ mang bốn quả bom. Y thả hai quả bom trước bị rơi ra ngoài sân dinh.

                * Việt Nam Cộng Hoà có Sư-đoàn 18 tăng cường Lữ Kỵ-binh: Sư-đoàn 5 Thiết-giáp. Các Liên-đoàn Biệt Động Quân từ Quân-khu 1, chuyển về Quân-khu 2 để bảo vệ Xuân-Lộc, Long Khánh, Dầu Giây; do Chuẩn-tướng Lê Minh Đảo là Sư-đoàn-trưởng Sư-đoàn 18 đảm nhiệm. Từ ngày 8 - 4 đến ngày 19 - 4 ; Trận đánh vô cùng ác liệt bắt đầu xảy ra giữa quân đội miền Nam Việt Nam, với Quân-đoàn 4 và Sư-đoàn 6 Chủ-lực Quân-khu 7 của Cộng-sản Bắc Việt.

                * Từ ngày 10-4-1975 – Hai Trung-đoàn 43 và 48 (của Sư-đoàn 18 Việt Nam Cộng Hoà) và một Lữ-đoàn Dù. Lữ-đoàn 3 Kỵ-binh, từ Biên Hoà ra Xuân Lộc tiếp ứng. Giao tranh ác liệt dữ dội mạnh mẽ. Đường 12 bị cắt đứt là: Xuân Lộc > Biên Hoà. & Xuân Lộc > Bà Rịa.
                Cho đến ngày 20 - 4 thì Xuân Lộc triệt thoái : 20-4-1975 * Long Khánh: 22-4-1975.

                * Ngày 18-4-1975 - Mất thị xã Phan Thiết và toàn tỉnh Bình Thuận. Thành phần chính phủ do Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo đã xảy ra đột biến. Mặc dù vậy tổng thống Thiệu họp báo, lên Truyền-thanh, Truyền-hình đọc hiệu triệu vấn an quốc dân đồng bào. Đài phát thanh cho nhai đi nhai lại bản tin nầy suốt cả tuần.

                * Ngày 19-4-1975 – Bình Tuy sống trong sôi động. Giao tranh ở tuyến đường số 1, từ phía Đông và Đông-Bắc Sài Gòn, tới Trà Võ. Bàu Nâu. Gò Dầu Hạ.

                * Ngày 20-4-1975 – Khu Rừng Lá, (cách Xuân Lộc độ 20km) coi như mất liên lạc: Bộ Tổng Tham Mưu. Sân Bay Tân Sơn Nhất. Bộ Tư-lệnh Biệt-khu Thủ-đô. Tổng Nha Cảnh-sát, vân vân… (Thủ đô Sài Gòn có 12 Quận Nội-thành: Bình Thạnh. Phú Nhuận. Tân Bình. Gò Vấp. 6 quận ngoại thành: Hóc Môn. Củ Chi. Thủ Đức. Bình Chánh. Nhà Bè. Duyên Hải) > Đều báo động đèn đỏ 100%.

                * Bộ Giáo Dục ra lệnh đóng cửa không thời hạn tất cả các trường: Tiểu-học. Trung-học. Đại-học trong toàn lãnh thổ tại miền Nam Việt Nam.

                * Ngày 21-4-1975 - Hằng triệu triệu người già trẻ lớn bé ở miền Nam Việt Nam chồm tới bu quanh nhìn sững vào vô tuyến truyền hình. Toàn dân lắng nghe miết mãi. Khoảng nửa giờ sau vị nguyên thủ quốc gia: Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu chính thức tuyên bố từ chức, ông trở về với quân đội Việt Nam Cộng-Hoà. Ôi! Bàng hoàng sững sốt. Vì; hằng triệu trai trẻ lính tráng, quân đội và dân tộc Nam Việt Nam (có bốn nghìn năm văn hiến quyết chiến đấu, hy sinh đến giọt máu cuối cùng trên chiến trường) tin vào chính phủ Nguyễn Văn Thiệu mà. Từ khi nền Đệ Nhất Cộng Hoà sụp đỗ, thì tất cả mọi thứ trên đời, trật tự xã hội bị đảo lộn tùng phèo sao?

                Hồi xưa, nhà bác học lẫy lừng Pierre Curie khám phá ra chất phóng xạ radium vào năm 1900. Và, trước khi ông Mc Robert Namara cho trắc nghiệm khai quang hằng loạt chất độc màu da cam (Agent Orange), để tiêu diệt cỏ, hay tiêu diệt đối phương (?!). Thì ngày nay, Tổng thống Thiệu đã lưu lại danh thiên cổ gì cho núi sông? Khi mà ông Trạng Trình đã nói: “Bắc hữu kim thành tráng. Nam hữu ngọc bích thành”. Cố mà gìn giữ Việt Nam keo sơn gắn bó. Thật ra, Tổng-thống Thiệu làm tổng thống hai nhiệm kỳ, đã thành lập đảng Dân Chủ. Nhiều lần Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu lên đài truyền thanh và truyền hình mạnh mẽ đọc diễn văn; trong đó có những câu tuyệt vời bất hủ:
                - Đừng nghe những gì Cộng-sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng-sản làm!
                - Ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng-sản.
                - Công đức ngàn đời con tố mẹ, tình nghĩa trăm năm vợ tố chồng.
                - Đất nước còn, còn tất cả; Cộng-sản thắng, mất tất cả.
                - Tôi mà tham nhũng, thì cái chính phủ này sẽ sụp đổ chỉ trong 3 ngày!
                - Nếu Hoa Kỳ không viện trợ cho chúng tôi nữa, thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm, mà chỉ sau 3 giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!
                - Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó.
                - Sống không có tự do là đã chết.
                - Mỹ còn viện trợ, thì chúng ta còn chống Cộng-sản.

                TT Nguyễn Văn Thiệu hùng hồn khẳng định tuyên bố “bốn không” rất chí lý:
                1.- Không thừa nhận Cộng-sản.
                2.- Không lập chính phủ liên-hiệp.
                3.- Không trung-lập-hoá miền Nam Việt Nam.
                4.- Không nhường một tấc đất cho Cộng-sản.

                * - Tin đồn đã rùm beng:

                1.- Việt Nam trung lập.
                2.- Chính phủ Việt Nam có ba thành phần.
                3.- Miền Nam Việt Nam bị miền Bắc “giải phóng” lan nhanh (chứ chả phải như lời Phó Tổng-thống Nguyễn Cao Kỳ hô hào: “Xung phong > Bắc Tiến”). Tổng thống Thiệu đã ủng hộ chương trình “Người cày có ruộng”, rầm rộ khuyến khích nông dân, củng cố lúa Thần Nông IR 3 và AR 8. Nhờ thế kho vựa miền Nam dư thừa lúa gạo. Việt Nam sản xuất gạo đi các nước. Sau năm 1967 do sự quậy phá của Cộng-sản Bắc Việt, nên nông dân thuộc các tỉnh miền Nam, miền Trung, Cao Nguyên, không thể cày cấy, gieo trồng nhiều. Do đó miền Nam Việt Nam bị khan hiếm lúa. Kinh tế hạn hẹp, Cộng thêm an ninh không an toàn yên ổn. Chính trị, kinh tế, tham nhũng, bè phái, bị đe doạ khiến miền Nam suy thoái trầm trọng. Bây giờ miền Nam Việt Nam phải nhập cảng gạo và “binh khí”, xin viện trợ tiền bạc vào Nam Việt Nam. Là vậy!

                * Tổng-thống Việt Nam Cộng-Hoà Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Phó Tổng-thống Trần Văn Hương lên thay thế! Thành phần nội-các do cụ Trần Văn Hương đảm nhận được mấy ngày vắn vỏi.

                - Ngày 22-4-1975 – Đường quốc lộ 4 nối liền Sài Gòn > Cần Thơ. Các hướng Tây Bắc. Đông Đông Bắc. Đông Đông Nam. Tây Tây Nam bị cô lập với Sài Gòn.

                * Thứ Tư, ngày 23-4-1975 - Đô Đốc Noel Gayler Chỉ-huy-trưởng Hạm-đội Thái Bình Dương, đã lập cầu không vận Sài Gòn > Đệ Thất Hạm Đội (trong chương trình di tản người Mỹ và người Việt Nam ra đi), đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu, người ta nghe & phao tin sẽ di tản khoảng vài ba trăm ngàn người Hoa Kỳ và người Việt Nam. (!?)

                B]Bảy Ngày Đen Tối Nhất: * Thứ Sáu, ngày 25-4-1975[/B]

                Đêm 24-4-1975 – Khói lửa bạo tàn đã gây đau khổ quá sức hằng triệu dân đen lầm than khốn đốn, cơ cực. Miền Nam Việt Nam dỡ sống tức tưởi, dỡ chết không kịp nhắm mắt, không thể há miệng than Trời! Chắc chắn là chính phủ Nguyễn Văn Thiệu & thành phần nội-các đều nghe bùi tai về tướng cố vấn Lục-quân Mỹ Weyand gián tiếp khuyên chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Quân-đội miền Nam Việt Nam bằng mọi giá phải tử thủ! Toàn thể nam nữ thanh niên trai trẻ, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã vâng lời ở lại giữ gìn từng pháo đài bị vây hãm, giành lại từng tấc đất quê hương ta, quyết phục vụ dân tộc và tử thủ vì dân tộc Việt Nam!

                Thì tin đồn chuyện Tổng-thống Thiệu bỏ rơi dân tộc, bỏ quê hương đất nước, chỉ là tin đồn nhảm nhí! Khi chung cuộc kết thúc trong bi thương thế ấy, ai nở ra đi phản bội dân tộc, ai lìa bỏ quê hương cẩm tú giàu đẹp sao? Ai đành cao chạy xa bay mưu tìm cho chính mình sự sống riêng, phủi tay trong thau men nước người cho đành?! Nơi chốn xa lạ đó, ai có dịp lắng nghe tiếng nói của hiền dân vô tội gào than kêu khóc? Ai tận mắt xem đồng bào đau thương bị cấp lãnh đạo bỏ rơi, dân đang sống quằn quại trong cơn lốc chính trị kinh hoàng vỡ vụn? Toàn dân sẽ chết thảm dưới cơn sóng thần cuồng phong dữ dội nhất lịch sử Việt Nam nầy. Họ làm sao đành đoạn phủi tay bỏ lại quê hương và dân tộc cho đành?!

                – Sáng sớm bạn Tonny Tơn từ Hạ Nghị Viện tất tả chạy về nhà, đã khẳng định với chúng tôi về việc Tổng-thống Thiệu và đoàn tùy tùng thân tín đã bôn tẩu bỏ nước ra đi!!! Người ta lại đồn ầm lên là ông Thiệu chở theo mấy chục tấn vàng của quốc gia (?!). Làm sao cõng cho nỗi hỉ?! Chuyện ấy rất khó tin, không bao giờ tin! Nhưng khuya Thứ Sáu, ngày 25-4-1975 đương kim Tổng-thống Trần Văn Hương lên đài Truyền-thanh Truyền-hình chính thức tuyên bố: - “Gia đình Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu, và một số thân tín trong chính quyền đương thời đã chính thức rời khỏi Việt Nam, bay đi ngoại quốc ngày 24-4-1975”. Ôi! Sự đau đớn ấy có thật ở phi trường Tân Sơn Nhứt là: Tướng Timmes, Đại-sứ Martin, một số đoàn tùy tùng đông đảo “viên chức lừng danh cao cấp nhất” của chính phủ miền Nam Việt Nam Cộng Hoà đang làm cuộc “tẩu tướng”.

                Họ nôn nao lo âu đứng xớ rớ ở đó từ rất lâu, chờ đợi sẵn sàng để dọt đi. Một chiếc xe Mercedes chở ông Nguyễn Văn Thiệu từ bến Bạch Đằng chạy nhanh vào phi trường Tân Sơn Nhứt lúc 21 giờ 30 đêm 24 tháng 4 năm 1975. Chung quanh “các ngài” đông đúc nôn nao ung dung ra đi, có lính Thủy-quân Lục-chiến Mỹ đứng dàn ngang dàn dọc bu quanh, để bảo vệ phái đoàn “các ngài” tống lên chiếc phi cơ C-118 lịch sử của Không-quân Hoa Kỳ. Ông Thiệu, Tướng Khiêm và đoàn tùy tùng lẹ làng tót lên máy bay, không hề ngoảnh lại. Hỡi Ôi là Trời ơi Đất ơi!!!

                * Thứ Bảy, ngày 26-4-1975 – Ông Khiêu Samphan dẫn một phái đoàn Trung Quốc từ Mimót Nam Vang, đi qua ngả Xa Cam. Tại đó có một Đại-tá Không-quân người Pháp, một Thiếu-tá Pháp, {họ trực thuộc Nha An Ninh Tình-báo hải ngoại Pháp (SDECE)}. Họ đưa phái đoàn Trung Quốc nầy vào ở trong toà Đại-sứ Pháp Sài Gòn (!?)

                * Vẫn ngày 26-4-1975 - Bão lửa chiến tranh xâm lược đã ùa vào xâm chiếm các khu sau đây: Long Khánh từ hướng Đông-Bắc đi Sài Gòn xa khoảng 80km. Long Khánh nằm giữa hai quốc lộ: 1 và 20- 105 kinh độ đông- 11 vĩ độ bắc, ở múi giờ 17 GMT – Giáp giới mặt Đông hướng Đông Đông Nam về Sài Gòn. Long Khánh có đỉnh núi Gia Ray cao 916 mét, là tấm bình phong che chắn thuận lợi cho toàn vùng. Muốn đi từ miền Cao Nguyên, hay từ miền Trung vào Sài Gòn xuống miền Tây, tất cả loại xe đều phải đi ngang qua vùng Long Khánh.

                Sông Ray từ phía Nam của núi Gia Ray có đường đi qua Xuyên Mộc. Trảng Bom. Hố Nai. Biên Hoà. Long Thành. Nước Trong. Đức Thạnh (Bà Rịa). Lang qua vùng Phước Tuy. Xuyên Mộc. Đất Đỏ. Về hướng Tây Tây Nam > Bến Lức. Tân An. Trung Lương. Tân Hiệp. Long Định. Giao lộ 4. Cai Lậy đi An Hữu. Xuống tới Lộc Giang. Vàm Cỏ Đông qua Tây Vĩnh Lộc. Mỹ Hạnh. Hướng Bắc thì các đoạn đường 16 Phú Lợi. Thủ Dầu Một. Tây Bắc về Đồng Dù. Hóc Môn.

                Bình Dương, Long An: 25 - 4 - 1975 – Bà Rịa: 26 - 4 - 1975.
                Tân Cảng – Sài Gòn: Bắt đầu từ ngày 27 - 4 - 1975 đến hết ngày 29 - 4 - 1975, người ta rỉ tai nhau lo tìm đường thoát thân "đào tẩu" ra khỏi Sải Gòn.
                * Chủ Nhật, ngày 27-4-1975 - Mất thật rồi các nơi: Bà Rịa. Phước Tuy. Nước Trong. Trảng Bom. Suối Đĩa. Cầu Rạch Chiếc. Rạch Cát. Cầu Bình Phước. Quán Tre lan ra tận xa lộ Đại Hàn.

                * Vẫn ngày 27-04-1975
                – Người ta bịa đặt ra: Caritas. Usaid. Usom. Juspao. Cords. The Asia Foundation. IUS, chỉ là những thành phần ấy vào miền Nam Việt Nam do CIA cầm đầu trá hình. Nay họ lo đóng cửa và chuồn bay đi hết rồi! Tất cả mọi liên lạc trong nội thành Sài Gòn với ngoại thành, đi các Tỉnh, hầu như tê liệt, trục giao thông chính dẫn đến phi trường, hải cảng, các bến xe miền Đông, miền Tây, miền Trung, hoàn toàn ứ đọng và “bế quang tắc lộ”. Chao! Lúc đó thì người người tụm trăm tụm ngàn ở các nẽo đường chính, để nghe ngóng thăm dò tin tức.

                Toàn là những giả thiết, những tin đồn hoang mang. Người ta nhốn nháo, ồn cả lên, chèn ép nhau, xô đẩy nhau mong tìm đường chạy thoát thân, mong khỏi bị trụ lại nơi thành phố đông nghẹt người, từ các nơi dồn về Thủ-đô Sài Gòn hối hả, ngột ngạt, nghẹt hơi. Mọi tiếng động đều đinh tai nhức óc nổi hoài thâu đêm suốt sáng, không bao giờ ngưng. Người ta muốn điên vì đủ thứ chuyện thay đổi liên tục xảy ra từng giờ trên tivi, tin đã xấu càng xấu thảm xấu tệ biết bao! Toàn là những tin chả lạc quan vui vẻ gì!

                * Thứ Hai, 28-4-1975 – Sân bay Tân Sơn Nhứt to lớn đồ sộ sầm uất nhất miền Nam Việt Nam đến thế, có F5, hoặc A 15, A 37, C 130. Mà nay chỉ còn có một số ít bom Daisy Cutters, và những phi cơ dân sự thường dùng trong nội địa, có phi cơ dân sự cũ từ thời Pháp để lại dùng bay ra ngoại quốc (không kể những phi cơ quân sự hiện có).

                Ngày 28-4-1975 Phi công Nguyễn Thành Trung (y thả bom hai lần, lần đầu y thả ở dinh Độc lập bằng F5, y cất cánh từ phi trường Biên Hoà). Lần sau vào chiều 28/04/1975: Một tốp phi cơ Dragonfly A 37 (phi đội Quyết Thắng) do phi công Nguyễn Thành Trung & Nguyễn Văn Lục dẫn đường, ép Trần Văn On & Nguyễn Văn Xanh bay cùng mấy tên “giặc lái” Từ Đề, Mai Vượng, Hán Văn Quang, họ xuất phát từ phi trường Phan Rang bay về thả bom ở phi trường Tân Sơn Nhứt. Nhiều tiếng nổ long trời lở đất đâu đó vang rền, khói lửa ngùn ngụt bốc cháy, đen nghịt thành phố.

                * Ngày 28-04-1975 – Tổng thống Trần Văn Hương lên nắm chính quyền quốc gia Việt Nam được bảy ngày (7) thì tuyên bố rút lui. Theo yêu cầu của Lưỡng-viện Quốc-hội Việt Nam Cộng-Hoà, cụ Trần Văn Hương sữa “hiến pháp, hiến dâng” chức “tổng thống không dân cử” cho Đại-tướng Dương Văn Minh. Chả hiểu sao cụ Hương tụt lẹ xuống, cho ông tướng Dương Văn Minh trồi lên nắm chính quyền nhanh như chớp!?

                Việt Nam như quả bóng tròn, khi thì đá dưới gót chân, khi đội đầu, khi quay giò lái đá qua đá lại rồi “sút” bóng lăn xuống vũng bùn. Một chính phủ sắp đến ngày diệt vong rồi hay sao, mà suy tàn đến độ xót xa thảm thiết tột cùng! Làm gì… thì cần ngồi lại thân thiện bên nhau và chia sẻ mọi quyền lực. Cần một lòng trung dũng đoàn kết vì nước vì dân. Thì toàn dân và toàn quân sẽ đứng vững như kiềng ba chân. Miền Nam Việt Nam sẽ không bị sụp đỗ toàn diện đâu. Lúc nầy Tổng thống Dương Văn Minh nói rất hùng hồn: “Không bao giờ đưa miền Nam Việt Nam cho Việt-cộng”.

                * Thứ Ba, Ngày 29-04-1975
                – Tổng-thống Dương Văn Minh ra lệnh trục xuất những người Mỹ cuối cùng phải đi ra khỏi đất nước Việt Nam. Chính lúc đó mất thật rồi: Nhơn Trạch. Thành Tuy Hạ. Cát Lái. Cầu Sông Buông. Long Bình. Biên Hoà. Phú Lợi. Lai Khê. Bến Cát. Bình Dương. Tân Uyên. Lái Thiêu. Gò Vấp : Hướng Tây Bắc [B]Đồng Dù. Củ Chi [B]. Hướng Tây Tây Nam Hậu Nghĩa. Tân Túc. Tân Hoà. Phú Lâm.

                Tin tức mỗi ngày mỗi giờ một xấu hẳn đi. Thế là trong thành phố Sài Gòn vốn dĩ ồn ào náo nhiệt, bon chen sợ hãi, càng tăng thêm nhốn nháo, xôn xao, xớn rớn hãi hùng hơn. Sài Gòn chìm trong biển tình đau thương tràn ngập mịt mùng. Sài Gòn như rắn mất đầu, người người xớn rớn ồn ào như núi lở, như động đất, như triều cường sóng thần vùi dập. Sài Gòn đã mất đi vẽ hào nhoáng thanh lịch sang trọng xa hoa của hòn ngọc viễn đông xưa. Thành phố ấy giờ đây ồn ào náo nhiệt hỗn loạn, bụi bặm và rác rưỡi ụ từng đống to tướng. Sài Gòn càng hổn loạn, hoang mang lo sợ bùng lên dữ dội. Nhất là những gia đình giàu sang quyền qúy ở Sài Gòn, cư dân gốc Trung Hoa đã và đang sinh sống ở Chợ Lớn hãi hùng huyên náo loạn cả lên.

                Lúc xưa hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc dội bom đã cháy Dinh Độc Lập, (vào tháng 2 năm l962), làm hư hại dinh. Tổng-Thống Ngô Đình Diệm cho xây lại dinh Độc Lập. Gia đình Ngô Tổng Thống phải dời sang Dinh Gia Long an vị, chờ kiến thiết lại. Bản vẽ Dinh Độc Lập do đồ án của kiến trúc sư đô thị gia Ngô Viết Thụ (đoạt giải Khôi Nguyên La Mã) đảm nhiệm. Theo thiết đồ của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, thì có hai vị Công-binh là: Đại-tá Nguyễn Văn Quý, Đại-tá Điển điều động một đoàn Công-binh Việt Nam xây dựng. Sau đó hoàn tất tốt đẹp. Tiền đình dinh Độc Lập có quảng trường Pigneau De Béhaine, có đại lộ rộng thênh thang rợp bóng cây, có tượng Đức Mẹ ngự ở trước công viên Hoà Bình làm bằng đá hoa trắc.

                Thuở còn Tây cai trị nước ta, con đường có tên là Norodom chạy từ Dinh Độc Lập suốt tới khu Thảo Cầm Viên. Trong đó có Viện Bảo Tàng tên gọi là Blanchard de la Bross, do Pháp xây dựng năm 1929. Ấy thế mà… Hết rồi vẽ sạch sẽ bóng loáng thanh cao rộng rãi trên những phố Catina, đại lộ sang trọng Norodom xa xưa, nào là đường Lê Văn Duyệt. Trần Hưng Đạo. Hai Bà Trưng, Nguyễn Huệ, vân vân… thậm chí cả đường Duy Tân cây dài bóng mát có từng tốp mười tốp hai ba mươi người tụ tập lo lắng, bồn chồn xôn xao, hốc hác, băn khoăn đứng ngồi không yên, kể từ khi phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích.

                * Ngày Thứ Tư hắc ám 30 tháng 4 đen tối năm 1975. Sài Gòn nóng như một hoả lò. Càng ghê rợn hơn, tin từ đài phát thanh Sài Gòn loan báo kể từ giờ phút nầy: Thiết quân luật 24/24. Tình hình thủ đô Sài Gòn từ sáng tinh mơ vắng lặng như tờ, không giống một thành phố chết, là gì!? Cho đến ngày hãi-hùng. Ngày đớn-hèn bi thảm. Ngày tối đen hắc-ám nhất lịch sử Việt Nam. Ngày đánh dấu than trầm-uất, thống-hận:

                - 8 giờ:00 ngày 30-4-1975 - Sáng sớm, Tổng-thống Dương Văn Minh lên Truyền-thanh Truyền-hình ra lệnh buộc các tuyến phòng thủ của Lữ-đoàn Liên-binh Phòng-vệ Phủ Tổng-thống không được nổ súng.

                - 9 giờ:00 ngày 30-4-1975 - Ông Dương Văn Minh đọc diễn văn trên đài Truyền-thanh: Yêu cầu Toà Đại sứ Mỹ và văn phòng tùy viên DAO Hoa Kỳ, phải rời khỏi Việt Nam ngay lập tức.

                - 10 giờ:00 ngày 30-4-1975: Ông Dương Văn Minh leo lên làm Tổng thống được ba ngày! (3), ông liền “mở cửa khẩu” kêu gọi Quân-lực Việt Nam Cộng Hoà: “Ở đâu, hãy giữ nguyên vị trí ở đó”. “Ngưng chiến. Chờ bàn giao chính quyền miền Nam Việt Nam cho lực lượng Mặt Trận Giải Phóng vào chiếm”. “Chuẩn bị giao nạp vũ khí cho đối phương”.
                * Ngày 30 tháng 4 năm 1975 - Khi Trịnh Công Sơn hát lui hát tới bài “Nối Vòng Tay Lớn”, không có nhạc đệm trên đài phát thanh Sài Gòn. Không những là ngày uất hận “nối vòng tay tang chế lớn”, mà còn là ngày co giật từng cơn run kinh phong nhăn nhúm rúm ró teo tóp lại.

                Ôi! Quả đúng là có một phép lạ như điềm dự báo trước kia, khi con chim bồ câu đã đậu trên bàn thờ Đức Mẹ Fatima, ở trên khu vực giáo dân Đà Lạt, nơi thường cung nghinh rước ảnh tượng Đức Mẹ đến từng nóc nhà vào đầu năm 1974. Người ta nói: - “Con chim bồ câu tượng trưng cho sự hoà bình”. Nay “hoà bình” đã đến thật rồi sao?!

                Dinh Độc Lập, vương cung Đức Bà và con đường Norodom độc đáo nầy, ấy vậy mà hôm nay đã do tướng Trần Văn Trà cầm đầu mặt trận Cách-mạng Lâm-thời 75 (!) tại Sài Gòn, cùng đoàn xe molotova rền rú ì ầm chạy đến cổng dinh cổng dinh Độc Lập lúc 11 giờ sáng. Khi ấy đại sứ Pháp tại Việt Nam là Jean Marie Mérilon, còn ở trong toà đại sứ ở trên “đường Thống Nhứt”. Ui chao! Chao ôi! Sụp đỗ toàn diện một chế độ. Bàng hoàng cả một dân tộc Việt Nam. Chiến tranh hai miền Nam Bắc đưa con người bải hoải lết lết tới đường cùng cuối bờ vực sâu.

                Khi có những chiếc xe tăng ì ầm chạy trên các đại lộ chính, chở đầy bộ đội đầu đội nón cối, chân mang dép râu, cổ quàng khăn lau mặt, thân hình dắt đầy cành cây. Đoàn xe vượt qua cán nát chôn vùi nền Đệ Nhị Cộng Hòa do Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu bôn tẩu lánh cư và do tân Tổng-thống Dương Văn Minh ngồi trên ngai vàng lãnh đạo chỉ có ba ngày!!!

                Quân Bắc Việt được sự hổ trợ tối đa của Nga và Tàu-cộng cung cấp đầy đủ đạn dược, súng ống và xe tăng. Trong khi miền Nam Việt Nam bị Mỹ hứa lèo hứa cuội, rồi trở mặt phản bội, lãnh đạm bỏ rơi. Mỹ từ chối hết thảy, kể cả chính phủ miền Nam chỉ xin chi viện 300 triệu đồng. Cũng không!

                Toàn Quân miền Nam thiếu thốn đủ mọi thứ. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải tự anh hùng oai dũng kiên cường chiến đấu, quyết liệt chống trả đến viên đạn cuối cùng, trong sự cô độc, vô cùng đắng cay chua xót và tuyệt vọng dường bao!!! Những Người Lính dũng cảm ấy chưa hề buông súng bỏ cuộc. Họ không bao giờ phản bội dân tộc và cương quyết ở lại giữ gìn quê hương Việt Nam dấu yêu.

                Cho đến một *Ngày thứ Tư: 30-04-1975: Họ phải cúi gầm đầu bật khóc; vì buộc lòng phải tuân phục thượng-lệnh. Đời sống ấy phơi bày cuốn phim cay nghiệt, có cảnh-tượng kém thanh-lịch, bóc trần những điều quá thật, làm tan nát đời nhau. Chẳng bao giờ xóa nhòa, tàn phai trong ký-ức mọi người. Tan hoang kinh khủng. Đau đớn tột độ! “Hạnh phúc Hòa Bình” đến, vội-vã chợt đi giật theo tấm áo đơn bạc. Lộ ra quá-khứ trần trụi. Hiện tại đọa-đày, tương lai đen tối mịt mù. Vẫn hay, vô cùng nghẹn ngào cay đắng!!! Bách niên thương hải biến vi tang điền!
                ***

                Tình HOÀI HƯƠNG


                _ * _

                (*) - Nguồn TỪ > Wikipedia, & sưu tầm đó đây.

                - Câu "Bách niên thương hải biến vi tang điền" là câu gồm 8 chữ, không phải là Thơ Đường Luật, có thể là loại Thơ Cổ Phong, nghĩa là thơ Cổ trước khi có Thơ Luật của Đời Đường ra đời. Cổ Phong có thể gồm thơ 3 chữ, 5 chữ, 6 và 8, không theo Luật Thi. Thơ Đường Luật thường gồm Thơ 5 Chữ và Thơ 7 Chữ theo Luật Bằng Trắc và Đối Ngẫu.
                Bốn cuốn sách tham khảo gồm: Tự Điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh.
                1. Tự điển Từ, & Ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân.
                2. Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển của GS Trịnh Văn Thanh.
                3. Nguyễn Du Toàn Tập Quyển 1 Thơ Quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang.
                4. Theo cuốn Tự Điển Truyện Kiều (trang 68) & cuốn Tự Điển Từ & Ngữ VN (trang 1797) thì đa phần giống nhau trong sự giải thích: "Thương hải biến vi tang điền, mà viết tắt là 'Thương hải tang điền" nghĩa đen là "Biển xanh biến thành ruộng dâu", nghĩa bóng là những cuộc thay đổi lớn lao. Nhưng không ghi xuất xứ điển này từ đâu ra.
                *5.- Theo cuốn Nguyễn Du Toàn Tập Quyển 1 Thơ quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang thì điển Thương Hải Tang Điền, xuất xứ từ Thần Tiên Truyện vào thời Đông Hán. Tiên nhân Vương Phương Bình xưa đỗ Hiếu Liêm, làm quan chức Trung Tán Đại Phu, rồi bỏ quan đi tu tiên đắc đạo, giáng xuống nhà Thái Kinh (người đời Hậu Hán), cho mời tiên nữ Ma Cô đến. Ma Cô bảo Phương Bình rằng: "Tiếp thị dĩ lai, dĩ kiến Đông Hải tam vi tang điền." Nghĩa là: "Từ khi được tiếp hầu ông đến nay, tôi thấy bể Đông đã ba lần biến thành ruộng dâu."
                6.- Cuốn Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển của Trịnh Văn Thanh nói giống như cuốn Thơ Quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang, nhưng đơn giản hơn một chút. (*)
                *

                Tình Hoài Hương
                Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-01-2017, 12:34 AM.
                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                Tình Hoài Hương

                Comment


                • 29 Tháng Tư ( 40 năm về trước) & ngày giỗ cố Thiếu-tá Không-quân TRƯƠNG PHÙNG



                  29 Tháng Tư năm 1975
                  (40 năm về trước, hôm nay cũng là giỗ 40 năm:
                  cố Thiếu-tá Không-quân TRƯƠNG PHÙNG Khả Kính

                  *

                  Chiều ngày 28/4/1975 - khoảng 5:45’- trong phi vụ hộ tống Trung-tá Nguyễn Văn Mạnh SĐ3 KQ và toán chuyên viên Vũ-khí & Đạn-dược đặt chất nổ, để phá hủy các cơ sở của Bộ Chỉ Huy Kỹ-Thuật & Tiếp-vận KQ (Biên–Hoà). Tôi, (Trần Văn Phúc) và Trung-úy Nguyễn Thành Bá bay từ Dốc Sỏi ngang qua Cầu Mới Biên Hòa. Tôi vừa quẹo trái từ hướng Tây sang hướng Đông, đột nhiên tôi thấy bốn chiếc A37 với đầy đủ bom đạn trong một đội hình dị thường, nghĩa là không giống ai, phi diễn không ra phi diễn, chiến đấu không ra chiến đấu, đang từ hướng Đông Bắc lao tới cùng một cao độ với chúng tôi. Tôi cứ lầm tưởng là phi cơ của các phi đoàn bạn (từ miền Trung di tản về Tân Sơn Nhứt tháng trước) đang bay hành quân, nên tôi vội vã kéo cần lái, cho phi cơ mình bốc vọt lên cao, để tránh hai bên đụng nhau trong gang tấc. Đồng thời tôi hét trong vô tuyến để lưu ý anh Bá, (bay chiếc số 2 theo tôi trong đội hình chiến đấu):
                  - Hai theo một! Coi chừng bốn A37 hướng 10 giờ!
                  Rồi tôi bay đảo lại và nhìn theo 4 chiếc A37 bay xa dần, tôi ngạc nhiên, thông thường một phi tuần khu trục đi bay hành quân chỉ có hai chiếc, hôm nay là ngoại lệ, đặc biệt, vì có tới 4 chiếc. Tôi nói tiếp với Bá:
                  - Giờ nầy mà mấy thằng "ma gà" A37 còn mang bom đạn đi lang thang kìa!

                  Chúng tôi đã suýt đụng nhau với chúng nó trên sông Đồng Nai, mà không thể nào ngờ đó là bọn phản tặc! Trời lúc đó vẫn còn sáng tỏ, tôi chúi mũi cho phi cơ xuống thấp, bay dọc theo quốc lộ 1 đến Thủ Đức, tôi quẹo trái theo xa lộ Biên Hòa đến Long Bình rồi về Biên Hòa đọc theo Quốc Lộ 1. Nhìn xuống dưới, tôi thấy dọc suốt lề đường có rất nhiều xe thiết giáp đậu cách nhau từng trăm thước một. Muốn khích lệ tinh thần cho các chiến hữu Bộ Binh, nên tôi bay rất thấp, vì vậy khi bọn phản tặc dội bom ở Tân Sơn Nhứt, tôi đã không trông thấy. Nếu tôi bay ở cao độ 5.000 bộ, chắc chắn tôi sẽ thấy những cột khói đen bốc lên từ Tân Sơn Nhứt (TSN). Chừng 20 phút sau, Chuẩn-tướng Huỳnh Bá Tính Sư–Đoàn-Trưởng SĐ3KQ báo cho chúng tôi biết:
                  - Có một phi tuần ba chiếc A37 vừa dội bom Tân Sơn Nhứt!
                  Tôi điếng hồn, nghĩ ngay đến phi tuần A37 mà mình vừa gặp, nên tôi “chỉnh“ lại ông trên tần số:

                  - Như vậy phải là bốn chiếc A37, vì chúng tôi đã gặp bọn chúng cách đây không lâu! (mãi về sau nầy, khi tôi kiểm chứng với nhà nghiên cứu sử Nguyễn Hùng Kiệt, anh đã xác nhận: phi tuần của đám phản tặc nầy có tất cả 4 chiếc A-37, nhưng không biết vì lý do gì chỉ có 3 chiếc dội bom Tân Sơn Nhứt mà thôi !?). Vào thời điểm Tân Sơn Nhứt bị dội bom, chiếc trực thăng của Tướng Tính chuẩn bị đáp xuống TSN, nên ông đã chứng kiến toàn bộ sự việc. Đối chiếu với thông tin của sử gia Nguyễn Hùng Kiệt, cả hai người (Tướng Tính & tôi) đều nói đúng sự thật! Chúng tôi vội vã bay trở về Tân Sơn Nhứt, thì bọn phản tặc đã chuồn đi mất tăm biệt tích. Khi bay trên không phận TSN, Đài Kiểm-soát Không-lưu (Sài Gòn Control Tower) báo cho chúng tôi biết: “phi trường chỉ bị thiệt hại nhẹ. Vài chiếc C-47 bị trúng bom (1 chiếc gần phi đạo đang cháy như chúng tôi thấy), vài cơ sở bị hư hại như hậu trạm cũ, nơi trước đây chứa các phi cơ A-1, mới vừa dời về khu Tây, lúc 1 giờ trưa, cạnh bãi đậu của A-37. Nhưng thật may mắn (?) hai phi đạo không hề bị trúng bom”.

                  Sau mấy vòng bay quanh Tân Sơn Nhứt, chúng tôi biết chắc chắn phi trường và nhất là hai phi đạo vẫn an toàn, không cần thiết phải bay đi Cần Thơ, nên tôi yên tâm mà bay trở lại Biên Hòa, để tiếp tục thi hành phi vụ hộ tống Trung-Tá Mạnh và toán chuyên viên vũ khí. Mãi đến tận bây giờ, tôi vẫn cảm thấy hối tiếc: vì Trời đã cho tôi một cơ hội ngàn vàng, để tôi có thể bắn hạ bọn phản tặc ác ôn (tôi đã học kỷ thuật không chiến Dogfight trong khoá Phi Tuần Trưởng với Trung-tá Nguyễn Văn Huynh PĐP PĐ 518), mà tôi lại vô tình để vuột mất cơ hội ngàn năm một thuở! Trong trường hợp “tao ngộ chiến" hy hữu đó, bọn chúng không trông thấy chúng tôi, (vì bị chói ánh mặt trời chiều) nên không có phản ứng né tránh nào, mà chúng vẫn ung dung bay thẳng tới. Hoặc chúng tôi chỉ cần lách sang một bên, bật nút ARM - ON và bóp cò súng, bắn ngang hông ở phía sau bọn chúng, thì 800 viên đại bác 20 ly trên mỗi chiếc A1 của chúng tôi sẽ không tha bọn chúng. Hoặc lúc đó tôi gọi Paris (đài Kiểm Báo Không Lưu TSN) để báo động khẩn cấp. Các phi cơ F5-E đang ứng trực ở đầu phi đạo TSN, sẽ tức tốc cất cánh lên, xơi tái bọn chúng, thì bọn chúng chẳng còn mạng, để sau nầy vung vít mà “bốc phét” ! Đây có phải là vận mệnh thảm khốc đau buồn của đất nước Việt Nam đã an bài phải là ngày 30/4/1975 !?

                  Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ hộ tống Trung-tá Mạnh qua khỏi cầu Bình Triệu an toàn, chúng tôi mang đầy đủ bom đạn về hạ cánh lúc 8 giờ tối. Tôi gặp các anh bay F5 và họ cho biết là:
                  - Đang chờ lệnh đi ném bom trả đũa ở phi trường Phan Rang.

                  …Nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra -không biết vì lý do gì- !? Tôi thấy nhiều anh em trong Tân Sơn Nhứt có phần giao động tinh thần vì cuộc dội bom vừa qua. Do Radar không thể phát hiện nếu bọn phản tặc bay thấp như lần vừa rồi, nên nhiều người lo sợ chẳng biết có thêm lần dội bom kế tiếp nào nữa hay không? …Khi trở vào biệt đội khu trục lúc nửa đêm, tôi thấy các anh em thuộc PĐ 514 và 518 đang nằm sắp lớp như cá mòi ngay trên nền nhà. Tôi lặng lẽ nằm xuống một chỗ trống còn lại bên cạnh cái điện thoại dã chiến mới vừa móc dây. Tôi nằm đó, nghiêng qua trở lại rất lâu mà không thể nào ngủ được, vì trong lòng ngổn ngang những tiếc nuối & hối hận, cắn rứt tim tôi: khi mãi nhớ lại cơ hội ngàn năm có một, mà tôi đã vô tình để nó trượt thoát khỏi tay, tiếc thay, tôi đã không bấm cò đại bác bắn thẳng vào lũ phản tặc A37 lúc ban chiều (sau nầy, khi biết tên Nguyễn Thành Trung chính là kẻ đã “rước giặc vào nhà", bay dẫn đường cho đám phản tặc A37 đó, tôi lại càng hối hận & tiếc nuối nhiều hơn nữa!).

                  Quá mệt mỏi tinh thần và rã rời thân thể, tôi vừa chợp mắt tí xíu, là đã phải choàng tỉnh ngay lập tức, vì những tiếng nổ vang trời. Phi trường bị pháo kích! Hàng loạt hỏa tiễn 122ly rít xé bầu trời điên loạn lao xuống, nổ tung lên cùng khắp trong căn cứ & phi trường TSN, nơi đang tập trung dày đặc những quân nhân KQ và gia đình của họ mới vừa đổ dồn từ ngoài vùng I, vùng II di tản về. Điện bị cúp. Nhưng cho dù điện không cúp, thì tất cả vẫn chìm trong bóng tối như địa ngục, vì sức ép nổ của những quả hỏa tiễn rơi quá gần, làm vỡ tung những bóng đèn trong biệt đội khu trục chúng tôi... Thật là may mắn đến kỳ lạ khi mọi người đang nằm sát nhau dưới nền nhà đều bình an vô sự!

                  Điện thoại reo! Do nằm sát gần điện thoại, tôi bốc máy lên nghe và chuyển lệnh điều động cất cánh khẩn cấp đến Thiếu-tá Lê Văn Sang, Trưởng Phòng Hành Quân PĐ Phi Long 518. Trong bóng tối dày đặc, không nhìn thấy mặt bất cứ ai, mà chỉ nghe tiếng nói của tôi vừa chuyển lệnh. Thiếu-Tá Sang hỏi luôn:
                  - Phúc đó hả, Phúc đi bay được không?

                  Theo đúng Huấn Thị Khu Trục, tôi vừa mới bay xong phi vụ yểm trợ rút quân hồi đầu hôm, nên tôi có quyền từ chối đề nghị này của Thiếu-Tá Sang, nhưng hình như cái mặc cảm “tội lỗi“ (vì thiếu cảnh giác đã để bọn phản tặc A37 vượt thoát) của tôi đang chờ có một cơ hội “chuộc lại lổi lầm" , đã bật lên tiếng nói:
                  - Đương nhiên là được, nhưng wingman (phi tuần viên) là ai?
                  Chưa có ai kịp lên tiếng, thì từ trong bóng tối cuối phòng, tiếng Thiếu Tá Trương Phùng vang lên:
                  - Trâu đạp cũng chết, chó đạp cũng chết. Tao đi với mi, xem coi có chết thằng Tây nào không!?
                  Phi trường đang bị pháo kích dữ dội, nên lúc đó không có xe đưa đón Phi Hành Đoàn. Không thể chậm trễ, anh Phùng gọi tôi leo lên chiếc xe Jeep dân sự của anh phóng ra bãi đậu phi cơ. Anh Phùng lái xe như bay:
                  - … Mẹ nó! Tao chưa hề thấy tụi nó pháo dữ dằn như hôm nay! Tụi nó định “dứt điểm” mình bữa nay sao cà?
                  Rồi anh nói tiếp:
                  - Bất cứ giá nào mình cũng phải lên (cất cánh), hy vọng có thể bảo vệ bao nhiêu người vô tội ở đây. Nếu như mình bị hy sinh, âu cũng là dịp để mình đền ơn Tổ Quốc.
                  Nhìn anh lái xe vun vút như bay, tôi thầm cảm phục người đàn anh gan lỳ, quả cảm, người hùng của mặt trận Quảng Trị 1972 với chiến tích lẫy lừng đã “nướng sống" 15 chiếc xe Tăng T-54 của bọn Cộng-phỉ! Đến bãi đậu A-1, anh em phi đạo đã ứng trực sẵn sàng, anh Phùng hét lớn trong tiếng nổ vang rền của đạn pháo:
                  - Nổ máy là “chock out” ngay (rút những khúc gỗ chận bánh xe phi cơ ra) rồi các bạn tìm chỗ núp! Mặc kệ chúng tôi, đừng để chết chùm hết cả đám đấy!

                  Máy vừa quay tròn vòng, thì có nhiều tiếng nổ long trời ở bãi đậu A-37 kề bên, nhiều quần lửa như cây nấm khổng lồ cuồn cuộn bốc phụt lên cao. Không chần chờ, tôi cho phi cơ di chuyển ra khỏi ụ. Anh Phùng vẫn còn đứng cạnh máy bay. Anh ra dấu cho tôi biết là bình điện của phi cơ anh bị hư. Vì vậy, tôi quyết định cất cánh một mình, như đã Briefing trước đó. Tôi ra hiệu cho anh Phùng biết, và gọi Đài Saigon Ground Control (Đài Kiểm Soát Diện Địa Sài Gòn) để xin di chuyển ra phi đạo, đài trả lời ngay:
                  - Phi Long 51 (PL51)! Phi đạo sử dụng 25, gió hướng Nam 4 knotts, áp suất 29.92…

                  Nhận thấy gió ngang gần như thẳng góc với phi đạo và rất nhẹ (4 knotts), tôi có thể cất cánh bất cứ hướng nào. Nhưng tôi không thể dùng PĐ25 sẽ vô cùng nguy hiểm; vì khi bay lên, sẽ chui ngay vào đạn đạo của địch đang pháo kích. Nếu cất cánh PĐ 07, tôi quẹo trái để đến đầu PĐ 07, thì phải di chuyển ngang qua bãi đậu A37 đang cháy rực lửa, cũng rất nguy hiểm. Vì vậy tôi có ý định quẹo phải theo Taxi way #3, để cất cánh PĐ 07, nghĩa là ngược chiều PĐ sử dụng, và tôi chỉ có thể dùng ½ chiều dài phi đạo còn lại. Cứu binh như cứu lửa, không còn phương cách nào khác, tôi quyết định gọi:
                  - Saigon Ground Control! PL51 request taxi ra Whisky number three và cất cánh PĐ 07.

                  Ngay khi được phép, tôi di chuyển nhanh ra phi đạo 07 R, miệng lẩm bẩm: "Người đẹp của tôi ơi! Em ráng giúp anh thêm một lần nữa! Đừng ho hen nha cưng"! (Pilot chúng tôi xem chiếc máy bay mình lái như là người vợ, người tình muôn thuở, đặc biệt là em Skyraider tuổi già sức yếu, nên đôi khi em ưa “nũng nịu, nhỏng nhẽo" ). Sau khi thử máy (dù biết chưa nóng máy), tôi xin đài Saigon Tower cho phép cất cánh khẩn cấp. Vì chỉ còn lại ½ phi đạo, nên tôi phải dùng phương cách “Maximun Peformance Take Off" , và cất cánh lúc 04 giờ 25 phút sáng ngày 29/4/1975. Vừa rời khỏi phi đạo, lòng tôi rộn rã một niềm vui mừng khó tả, và cảm tạ ơn Trên cho tôi cơ hội cứu nguy cho mọi người trong Tân Sơn Nhứt. Sang tần số Paris (đài Kiểm Báo Sài Gòn) tôi báo:
                  - Paris! PL 51 vừa cất cánh một chiếc A1 với 10 trái MK 81. Xin nhận chỉ thị.
                  Đài Paris chưa kịp trả lời, tôi đã nghe:
                  - PL 51! Đây Tinh Long 06 (TL06), bạn đến Phú Lâm ngay! Chỗ có nhiều trái sáng. Bao lâu bạn tới?
                  - TL06! PL 51 mang 10 trái MK 81, sẽ có mặt trong 5 phút và request Random Attact! OK!

                  Khi lên tới Phú Lâm, tôi được Trung-úy Trần Văn Bảo, Trưởng Phi Cơ của chiếc AC-119K hướng dẫn oanh kích, mục tiêu là hai làn khói của hai giàn pháo 122 ly. Tôi rất ngạc nhiên, mục tiêu chỉ cách đài Radar Phú Lâm hơn 500 mét về hướng Tây. Nhờ lặng gió, nên hai làn khói này vẫn còn la đà trên mặt đất.
                  Lập tức, tôi vừa lao xuống vừa gọi:
                  - PL51 in hot và thả từng trái một!
                  Sau khi thả trái bom xuống mục tiêu thứ nhì, tôi ngưng lại và chờ đợi. Trong thời gian nầy, tôi nghe giọng Tướng Kỳ trong vô tuyến:
                  - Phi Long 51 trút hết bom đạn xuống target! Tối nay ghé nhà tôi nhậu!
                  Tôi hỏi lại:
                  - Giới chức vừa ra lệnh cho Phi Long 51, xin cho biết danh hiệu.
                  - Tôi Thần Phong 01, Thiếu Tướng Kỳ đây!
                  - Thần Phong 01! PL51 lên một mình với 10 trái bom 250 cân Anh, tôi có kinh nghiệm chống pháo kích. Thần Phong 01 an tâm. Tôi có thể ở đây thêm ba giờ nữa.

                  Khoảng 15 ; 20 phút sau, có lẽ bọn Cộng-phỉ nghĩ tôi đã hết bom, nên chúng bắt đầu pháo trở lại. Tôi nhìn thấy rõ nhiều giàn pháo, mỗi giàn 4 khẩu 122 ly, liên tục phóng lên. Liếc nhìn về hướng Tân Sơn Nhứt và Sài Gòn có nhiều quầng sáng nháng lên, tôi liền lao xuống thả bom và thầm gọi:
                  - Anh Phùng ơi! anh ở đâu, sao không lên tiếp tay với tôi? Một mình tôi làm không xuể đâu! Anh Phùng ơi!
                  Năm phút sau, khi định nhào xuống thả bom, tôi thấy có vài đám nổ dưới mục tiêu, tôi tưởng lầm là rocket của trực thăng võ trang bắn xuống, tôi liền cự nự Trung-úy Bảo:
                  - TL06! Bạn cho tôi đánh random attack, sao bạn lại cho gunship (trực thăng võ trang) vào “ăn có”? Nó bay cao độ thấp, lỡ tôi không thấy, nện ngay trên đầu nó, thì phiền lắm!
                  Anh Bảo liền cãi chánh:
                  - Không phải đâu PL51, tôi đã đuổi tụi nó qua bên Quốc Lộ 4 rồi. Để tôi quan sát kỹ lại.
                  Lúc đó có khoảng ba bốn chiếc trực thăng quây quần phía Đông Bắc Phú Lâm. Sắp nhào xuống thả bom lần kế tiếp, tôi lại thấy có ánh lửa nổ tung. Tiếng anh Bảo la lên:
                  - Ê ...PL 51! Tôi thấy có một chiếc dường như là A-1 vào đánh phụ với bạn đó! Chắc chắn không phải là gunship đâu!
                  Tôi liền nghĩ ngay tới anh Phùng, nên trả lời anh Bảo:
                  - TL06! chắc là Thiếu Tá Phùng! Có thể anh Phùng bị trục trặc về vô tuyến! Bạn an tâm, monkey see monkey do (thấy tôi thả bom ở đâu, anh ấy sẽ thả bom ở đó).
                  Nhờ sự yểm trợ hỏa châu của TL-06, chúng tôi dễ dàng “lượm” những giàn pháo, như lấy kẹo trong túi. Thanh toán xong các giàn pháo nầy, thì tôi cũng vừa hết bom.
                  - TL06, tất cả giàn pháo đã “clear" (bị hủy diệt sạch) tôi giao ở đây cho bạn, PL 51 để dành 800 viên 20ly, phòng thủ phi trường. Vì muốn biết người phụ tôi diệt pháo vừa rồi, có đúng là anh Phùng không? nên tôi sang tần số của Đài Sài Gòn:
                  - Saigon Tower! Đây PL51. Bạn cho biết: sau tôi còn có chiếc A1 nào cất cánh không?
                  Tôi được nghe trả lời:
                  - Tụi nó pháo quá, chúng tôi núp dưới hầm trú ẩn, vừa lên nên không biết gì hết bạn à!

                  Khoảng 5:25’ sáng tôi về tới Tân Sơn Nhứt, trời vẫn còn tối đen như mực, ngoại trừ những ánh đèn phi đạo và taxi way, còn có hai đám cháy: một đám ở bãi đậu A37 như đã nói ở trên, còn đám cháy thứ hai dù tôi đã đảo nhiều vòng, nhưng vẫn không nhận ra chính xác là nơi nào. Nhưng sau ít phút nhờ ánh sáng lờ mờ bập bùng còn lại của đám cháy, tôi vừa nhận ra là ở phía Nam của dinh Tướng Kỳ độ chừng trăm mét. Tự nhiên trán tôi rịn mồ hôi, tay run lẫy bẫy, tim đập dồn dập và ứ nghẽn lồng ngực muốn nghẹt thở, vì hình như đám cháy là ở khu cư xá C-7, nơi vợ con tôi tạm trú, miệng tôi không ngớt cầu nguyện: "Cầu xin ơn Trên che chở cho vợ con của con, và những người khác được bình yên". Ngay lúc đó, trong lòng lòng tôi bùng lên một cơn giận dữ & căm thù đám Cộng-phỉ trong trại Davis, nếu vợ con tôi có mệnh hệ nào, tôi thề sẽ thí mạng với bọn chúng! Mươi phút sau, tôi thấy chiếc TL07 cất cánh lên, để thay thế chiếc TL06 về đáp. Tôi tiếp tục bao vùng trên không phận Tân Sơn Nhứt, cho đến khi bình minh có ánh sáng lờ mờ, tôi nhận ra đám cháy chính là cư xá Nữ Quân Nhân. Tôi nóng lòng muốn đáp xuống, nhưng chưa có phi tuần nào lên thay thế. Vài phút sau, tôi nhìn sang cánh phải: thấy có một chiếc AD-5 còn treo hai trái bom cứ bám sát theo phi cơ của mình. Tôi sang tần số, gọi đài Saigon Tower một lần nữa, để xác định chiếc AD-5: “có phải là của anh Phùng không”.

                  Câu trả lời vẫn là “Không biết”. Vừa lúc đó, “anh bạn dễ ghét” như muốn chơi trò trốn tìm “ú tim” với tôi, nên anh ấy cho phi cơ hết lòn sang trái lại chui qua phải. Tôi bất ngờ cắt bán kính, quẹo vòng thật gắt định ra sau chiếc phi cơ nầy. Nhưng anh bạn “dễ ghét” là một cao thủ tuyệt đỉnh, lúc nào anh cũng bám riết theo sau, khi sang trái, khi sang phải, cố ý trêu đùa tôi. Nếu là dog fight (không chiến) thì tôi bị tay lão luyện nầy “dớt rụng càng” rồi!

                  Trên tần số Paris, tôi nghe giọng của Thiếu-tá Hồ Ngọc Ấn Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 liên lạc với TL07, cho biết: “phi tuần hai chiếc A1 của anh đang ở Long An, trên đường tiến về Sài Gòn. Đại-uý Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2. Khoảng mười phút sau, Trung-uý Trang Văn Thành, Trưởng Phi-cơ của TL07 gọi trên tần số:
                  - Phượng Hoàng 11, tôi nghi ngờ có một toán đặc công độ năm bảy tên, định cắt hàng rào kẽm gai phía Bắc phi trường, chỗ miếng đất trống hình tam giác ở An Nhơn. Bạn cho một trái ngoài hàng rào, đánh trục Đông sang Tây. Tôi giữ cao độ 5.000.

                  Vì biết phi tuần anh Ấn chưa đến nơi, nếu cần thiết tôi có thể dùng bốn cây đại bác 20 ly bắn dọc theo vòng rào. Tôi bay tới đó, mặt trời vừa ló dạng, trời tỏ hơn nhưng ở độ cao 4.000 bộ, nên tôi không thấy gì cả. Thình lình anh Phùng lao xuống thả một trái bom. Thì có tiếng anh Thành hốt hoảng la lên:
                  - Số 1 thả bom “như để “. Số 2 đánh dài hơn vài mươi thước.
                  Trái thứ nhì rơi dài hơn năm chục thước. Anh Thành hoảng hốt:
                  - Phượng Hoàng 11... Hold Highride (ngưng thả bom). Số 2 của bạn đánh gần nhà dân quá!
                  Thiếu tá Ấn liền lên tiếng:
                  - TL07! Ai khác đánh đó, chớ không phải Phượng Hoàng 11! Tôi chỉ mới tới Bến Lức, làm sao thả bom ở đó được!
                  Thì ra anh Thành lầm lẫn phi tuần của tôi- là phi tuần anh Ấn. Tôi vội lên tiếng:
                  - TL07! Đây PL 51. Đó là Phi Long 52 (chiếc số 2 của PL51) nó hư vô tuyến, chỉ còn hai trái, vừa thả hết rồi. Còn tôi đã “Empty” (hết bom).
                  Nhận ra tiếng của tôi, Đại-uý Thụy (người bạn cố tri cùng PĐ Thái Dương 530 với tôi ở Pleiku) gọi tôi:
                  - Ê Phúc! Mày về Cần Thơ đi, đáp ở đó (TSN) nguy hiểm lắm!
                  Nhìn đồng hồ xăng có 800 lbs, vừa đủ để bay đi Cần Thơ, nhưng tôi đã có quyết định đáp Tân Sơn Nhứt từ trước, nên trả lời:
                  - Vợ con tao còn kẹt lại đây, giá nào cũng phải đáp TSN. Tình hình ở đây chưa đến nỗi nào đâu.
                  Đột nhiên anh Phùng gọi tôi:
                  - Ê ...PL51, đi Cần Thơ nha! Bay với mi gần ba tiếng, chừ mới liên lạc được một xí. Tao nghe được, nhưng bị câm. Bực mình quá!
                  Tôi vội bấm máy trả lời:
                  - Không! Tôi chỉ còn 600 pounds xăng, vả lại vợ con tôi kẹt ở đây. Anh đi Cần Thơ một mình trước nghen!
                  Lúc bấy giờ TL07 đang bay 5.000 bộ, nên anh Thành muốn xuống thấp, để dễ quan sát, và nhìn thấy rõ hơn, nên anh báo cho chúng tôi biết:
                  - PL51! TL07 xuống cao độ, để nhìn rõ hơn. Tôi không muốn đánh lầm vào nhà dân, tội họ lắm!
                  Không ngờ mấy phút sau, khi chúng tôi bay trên Lăng Cha Cả, ở cao độ 1.500 bộ, anh Phùng gọi tôi:
                  - Ê một! Mình đáp xuống Tân Sơn Nhứt đi!
                  Lo ngại vô tuyến bất thường của anh còn hư, nên tôi nhường cho anh Phùng đáp trước. Nhưng trước khi Touch Down (chạm bánh), anh Phùng lại gọi tôi:
                  - Một! Mi đáp trước đi, tao Go Around (bay lên lại). Mi chờ ít phút, tao về chở mi vô!
                  Nóng lòng vì vợ con ở kế bên đám cháy (cư xá Nữ Quân Nhân) nên tôi không bay theo anh Phùng như thông lệ. Tôi tiếp tục vào Final (cận tiến), thì Sài Gòn Tower báo cho chúng tôi:
                  - PL51, có SA7 bắn lên. Tôi thấy mấy cục lửa bằng cườm tay bay lên!
                  Vì tôi đã chứng kiến SA-7 bắn ở Kiến Đức vào cuối năm 1973, nên tôi có ý nghi ngờ:
                  - Saigon Tower, SA-7 bắn lên lúc đầu, là một vùng lửa to màu cam, sau đó đổi sang màu trắng xanh, và bay lên rất nhanh. Bạn quan sát kỹ chưa"?
                  Anh bạn nầy có vẻ bất bình trả lời:
                  - PL51, tôi báo cho bạn biết, mà bạn không tin, nếu bị bắn, bạn ráng chịu nha!
                  Tự nhiên tôi nhớ đến Trung-tá Phạm Văn Thặng Fulro khi ông "xỉn", ông thường ngâm nga... Nên tôi nghêu ngao trên tần số:
                  - Làm sao giết được người trong mộng …1 …2 …3…touch down!

                  Di chuyển về bãi đậu lúc 6 giờ 55 phút, các anh em phi đạo reo mừng, công kênh tôi như đón một một vị cứu tinh! Rồi chúng tôi cùng nhau theo dõi chiếc TL07 đang nghiêng cánh trái ở cao độ chừng vài ngàn bộ, và xạ kích xuống mục tiêu. Từng tràng đại bác 20 ly (Minigun 6 nòng) nã xuống như mưa, tiếng kêu như bò rống. Tôi trấn an các anh em:
                  - Target đó ở ngoài vòng rào, chỉ là tình nghi thôi! Ông Trung-uý Thành muốn biểu diễn cho mọi người coi chơi, cho vui vậy mà!

                  Tôi vừa dứt lời, thì đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống(*), động cơ bên phải phát hoả, nổ tung, cánh phải gãy xuống, đồng thời phòng lái bốc cháy. Phi cơ ngoặc đầu qua trái, lao xuống rơi vào spin (xoay tròn như bông vụ). Tất cả mọi người xung quanh tôi đều hoảng hốt hét lớn:
                  - Nhảy dù đi…
                  - Nhảy dù…
                  - Nhảy dù nhanh lên…

                  Nhưng quá trễ, tôi không thấy cánh dù nào kịp bung ra, chiếc phi cơ đã cắm phụp đầu xoáy xuống đất rất nhanh. Những cột khói đen lửa đỏ cuồn cuộn bốc phụt lên cao hàng trăm mét. Ối Trời ơi! Toàn bộ phi hành đoàn đều hy sinh. Tất cả anh em chúng tôi bàng hoàng sửng sốt, đứng chết lặng, mà nước mắt tự dưng tuôn trào. Một lúc sau, mọi người cúi gục đầu lặng lẽ trở về làm nhiệm vụ của mình. Từ giờ phút nầy phi trường TSN thật sự không còn an toàn nữa, vì sự xuất hiện của SA-7 ; khắc tinh của tất cả các loại máy bay.

                  Riêng tôi, ngồi bệt xuống bãi cỏ bên lề phi đạo, mắt vẫn hướng về những cột khói đen bốc lên cao, như anh linh của Phi Hành Đoàn TL07 đang siêu thoát. Tôi hy vọng Thiếu-Tá Trương Phùng bay đi Cần Thơ, tuy nhiên tôi vẫn có ý trông đợi anh Phùng trở về. Tôi chờ mãi, chờ mãi... tới khi anh tài xế xe bồn tiếp xăng giục tôi lên xe, để trở vô biệt đội khu trục. Trong lòng tôi thầm nghĩ:
                  - Đúng rồi, anh Phùng nên bay đi Cần Thơ là hợp lý nhất!

                  Sau 9:30’ giờ sáng ngày 29/4/75 bọn chúng bắt đầu nã đì đùng bằng đại pháo 130 ly, đặt ở Nhơn Trạch gần Thành Tuy Hạ - Cát Lái. Nhưng lúc bấy giờ không ai thèm màng tới việc diệt pháo nhỏ giọt vào Tân Sơn Nhứt nữa. Trong phi trường thỉnh thoảng đạn 130 rơi rớt đâu đó, may mắn sao không trúng tôi (ha ha ha...). Cả căn cứ Tân Sơn Nhứt không một bóng người, bầu trời vô cùng u ám, một phần vì thời tiết chuyển mưa, một phần vì những làn khói đen lan toả la đà từ chiếc TL-07 đang bốc cháy. Tôi có cảm tưởng như mình lạc vào trong bãi tha ma lúc hoàng hôn. Sau khi Quân Cảnh không cho tôi ra cổng (Phi Long), không được nói một lời gì với vợ con (họ theo gia đình Vân về nhà). Tôi trở vào Trung Tâm Hành Quân Không Quân chờ lịnh. Nữa giờ sau, tôi định đi ra ngoài bằng cổng trại Hoàng Hoa Thám; nhưng khi đến cuối sân banh, tôi gặp ba anh Thiếu-tá: Sơn, Bản, Liêu , PĐ 530, họ đang chạy ngược chiều và kêu tôi:
                  - Ê Phúc! được lệnh đi Cần Thơ. Nhanh lên.

                  Tôi chạy theo họ ra bãi đậu, chiếc AD-5 của Thiếu-tá Hồ Văn Hiển PĐ 514 đang chờ. Tôi là hành khách bất ngờ bất đắt dĩ và cuối cùng thứ 20. Chúng tôi rời Tân Sơn Nhứt lúc 11 giờ trưa. Lúc bấy giờ trong Tân Sơn Nhứt có lẽ không còn phi cơ nữa (sau khi yểm trợ quân bạn ở Bến Cát xong, trên đường về Cần Thơ Thiếu-tá Hiển đáp xuống, để rước chúng tôi).
                  Khi đến Cần Thơ, tôi vội vã đi tìm anh Trương Phùng khắp nơi. Nhưng tôi tìm hoài không thấy anh Phùng đâu cả!
                  * * *

                  Ghi chú thêm: trước 30/4/1975 và sau... 2010:

                  *.-Thiếu-tá Không-quân Hồ Ngọc Ấn Phi-đoàn Phượng Hoàng 514 (hiện ở Dallas).
                  *- Đại-uý Không–quân Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2, hiện ở Houston.
                  *- Đại-úy Không-quân Trần Văn Phúc (Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51) hiện ở Cali.

                  *1.- Trên không phận Sài Gòn lúc bấy giờ (29/04/75) chỉ có 3 chiếc phi cơ là: TL-07, phi cơ anh Phùng và phi cơ của Phúc. Phần TL 07 chỉ xuất hiện sau 6 giờ sáng. Phi tuần hai chiếc A-1: của Thiếu-tá Ấn & Đại–úy Thụy thì trên đường đang về Sài Gòn.

                  *2.- Có lẽ vì sợ SA-7 nên ông Đại Sứ Martin phải nói dối trước Quốc Hội Mỹ là: “Hai phi đạo bị trúng pháo kích, hư hại nặng nề, và ông ta ra lịnh di tản người Mỹ bằng trực thăng” ?

                  *3.- ... đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống(*)... Mãi đến năm 2010, khi vừa mới cải táng cho PHĐ TL07 xong, chúng tôi mới liên lạc được với Th/Sĩ I Nguyễn Văn Chín, tự “Chín Dơi“, Gunner của TL07, là người duy nhất nhảy dù ra sống sót, anh chính là “vật” (hi hi hi) màu đen rơi xuống từ chiếc TL 07, mà anh em còn ở trong phi trường TSN đều thấy.

                  *4.- Vì Phi Hành Đoàn TL07 có rất nhiều người tình nguyện đi bay trong lúc khẩn cấp, nên hầu hết nhân viên trong PHĐ không ghi đúng tên trong phi lệnh. Tôi chỉ biết có: Trung-uý Trang Văn Thành (Trưởng phi cơ), xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, nhập ngũ ngày 12/9/1967 khoá 68A TTHLKQ Nha Trang. Anh Thành là cháu rể của Cố Thiếu-Tướng Võ Xuân Lành, TLP KQ. Anh Thành có hai biệt danh: ở quân trường Nha Trang anh có tên “Thành Thụt”, vì đôi mắt sâu thẳm, tánh tình anh rất cương trực, hăng say, năng nổ trong mọi công việc. Khi về PĐ C119 anh Thành có thêm một biệt danh là: “Thành Kampuchia” (vì màu da ngâm ngâm của anh).
                  Đêm 28/4/75 anh Trung uý Trang Văn Thành tình nguyện bay thêm phi vụ Extra TL 07, mặc dù trước đó anh đã bay phi vụ TL01 hồi đầu hôm rồi. - Trung uý Tào Thuận, hoa tiêu phụ. - Thiếu uý Phạm Tấn Đức. Họ vĩnh viễn ra đi... nhưng để lại sự thương tiếc kính phục vô cùng của hàng vạn người trong và ngoài Tân Sơn Nhứt.

                  *5.-Sau ba năm ba tháng phục vụ trong PĐ Thái Dương 530 – Pleiku trấn thủ Cao Nguyên, tháng 4 năm 1974 tôi trở lại Biên Hoà, được đưa về PĐ Phượng Hoàng 518, KĐ 23 Chiến Thuật, SĐ3KQ. Sau đó tôi thường đi biệt phái ở Biệt Đội Khu Trục tại Tân Sơn Nhứt, cho đến tháng 9 năm 1974, tất cả phi cơ A1 bị “đình động” (vì uống xăng?). Vì vậy thời gian quen biết, chuyện trò cùng Thiếu-tá Trương Phùng không nhiều. Tôi chỉ nhớ: Thiếu-tá Trương Phùng sanh năm 1943 tại Thừa Thiên, anh gia nhập Không Quân vào đầu năm 1964, khóa 64B SVSQKQ Nha Trang, tốt nghiệp khóa L- 5 Quan-sát. Sau đó anh được tuyển chọn xuyên huấn T28 và A-1 Skyraider tại Hoa Kỳ. Trở về nước, anh phục vụ tại Phi Đoàn 110 Quan Sát. Sau cùng là Phi Đoàn 518 Phi Long - Khu Trục A-1, KĐ 23CT, SĐ3 KQ Biên Hòa. Anh Phùng là mẫu người hùng KQ từng tham dự hầu hết các chiến trường khắp bốn vùng chiến thuật, là người hùng diệt 15 xe tăng cộng quân trong hai tuần lễ, vào đầu tháng 4 năm 72 ở Quảng Trị. Anh là một người đầy nhiệt huyết, không bao giờ từ chối bất cứ một phi vụ nào, dù nguy hiểm. Anh là một Phi -tuần-trưởng Sĩ-quan gương mẫu, lấy phương châm: Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm lên hàng đầu. Tuy nhiên tôi được hân hạnh cùng bay chung với anh hai lần:

                  - Lần đầu tiên: (Phi vụ Trời giúp!?) Vào tháng 8/1974, khi CSBV vi phạm Hiệp Định Ba Lê, chúng pháo kích vào phi trường Biên Hòa, để trả đũa hành động nầy, Đại Tá Hoàng Thanh Nhã, KĐT KĐ23CT, SĐ III KQ chỉ thị hai phi tuần, mỗi phi tuần hai chiếc Khu Trục A-1 Skyraider, mỗi chiếc mang 6 trái bom CBU-25, thi hành một nhiệm vụ đặc biệt là oanh tạc Tổng Hành Dinh của MTGPMN ở đồn điền cao su, gần Lộc Ninh. Phi tuần số 1 do Thiếu-tá Phùng và Trung-uý Đinh văn Đức. Phi tuần thứ hai do tôi (Đại úy Trần Văn Phúc) và Trung-uý Nguyễn Tứ Đức.

                  (Bom CBU - 25 là loại bom dùng để chống chiến thuật biển người, phá giao thông hào, mỗi trái cân nặng 500 cân Anh (lbs), gồm bảy ống thẳng, dài độ 4 mét, buộc lại thành một khối tam giác, mỗi ống chứa 25 quả bom nhỏ, như trái lựu đạn, có loại nổ trên mặt đất, có loại nổ chậm. Muốn đạt hiệu quả tối đa, nên thả bom nầy theo cách Skip bom, nghĩa là bay thật thấp, các trái bom nhỏ nầy được phóng xuống đất. Nếu thả bom từ trên cao thì không thể nào chính xác, càng cao các quả bom nhỏ nầy càng rải rộng ra, nếu thêm sức gió, có thể thổi bay đi xa cách mục tiêu hàng ngàn mét. Để bảo vệ vùng trời Lộc Ninh, nơi bọn CSBV trá hình MTGPMN, đặt Bộ Tổng Hành Dinh, ngoài hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, bọn CSBV còn bố trí rất nhiều khẩu đại bác phòng không 37 ly, hay 57 ly, điều khiển bằng radar. Nếu bay dưới 11 ngàn bộ, chúng tôi sẽ trở thành những “target sống” để bọn Cộng-phỉ tha hồ thực tập tác xạ. Vì vậy sau khi thảo luận, và đồng ý chọn lối đánh mạo hiểm nhất (nhưng an toàn nhất), chúng tôi xin Đại-Tá Nhã:
                  - Đại-Tá ra lịnh chúng tôi đi dội bom ở đó, thì xin Đại-tá cho phép chúng tôi được chọn cao độ bay. Nếu như bay cao 12 hay 13 ngàn bộ, để tránh phòng không, thì thả bom không thể nào chính xác được, coi như không. Vì vậy chúng tôi xin chọn lối đánh "Truy-kích".
                  Ông đồng ý và nhấn mạnh thêm về tầm nguy hiểm:
                  - Nếu có ai gặp phải bất trắc, các bạn chịu khó trốn tránh qua đêm, cho đến sáng mai, mới có phi vụ rescue, còn các bạn khác lập tức bay về đáp, không được ở lại cover.

                  Vì tầm quan trọng của phi vụ nầy, là cảnh cáo cho bọn Cộng-phỉ biết: Không có bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà là bất khả xâm phạm đối với Không Lực Việt Nam Cộng Hoà. Quân Đội VNCH sẵn sàng trả đũa những vi phạm hiệp định Ba lê của chúng. Sau cơm trưa sớm hơn thường lệ (11 giờ), chúng tôi bắt đầu nghiên cứu những tấm không ảnh (chụp những cơ sở nguỵ trang dưới hàng cây cao su) và thảo kế hoạch, tính toán giờ giấc, hướng bay một cách rất cẩn thận từng chặn đường. Để giảm thiểu sự nguy hiểm cho phi tuần thứ nhì (bay sau) của tôi, Thiếu-tá Phùng đề nghị nhập hai phi tuần lại thành một hợp đoàn bốn chiếc; dùng chiến thuật truy kích, với yếu tố bất ngờ, chớp nhoáng, bay lướt trên ngọn cây.

                  Khi bọn chúng thấy, thì chúng tôi đã bay mất rồi, không kịp bắn chúng tôi. Với lối bay nầy, đòi hỏi người Leader phải có một khả năng, kinh nghiệm, bình tĩnh, sáng suốt, cũng như gan dạ, vì thỉnh thoảng một mình anh Phùng (Leader) phải “trồi lên lặn xuống” năm, ba trăm bộ, để nhận dạng những "check point" (điểm chuẩn) để tránh bay lạc. Anh Phùng phân chia nhiệm vụ cho từng người, lập lại nhiều lần là: "mỗi chiếc phi cơ chỉ thả một lần, và chiếc kế nối tiếp với nhau".

                  Theo phi lịnh, chúng tôi cất cánh đúng 2 giờ trưa, nhưng bắt đầu 1 giờ. Bỗng dưng trời mưa như trút nước (có thể ông trời giúp chúng tôi?) tưởng chừng như phi vụ bị huỷ bỏ, cho đến sau 5 giờ chiều cơn mưa tạnh hẳn. Chúng tôi được lịnh cất cánh khẩn cấp, anh Phùng nhắc lại:
                  - Phi vụ của chúng ta rất quan trọng, rất nguy hiểm, nhưng tôi (anh Phùng) tin tưởng vào chiến thuật mình đã thảo ra. Như các bạn đã biết tụi mình không bay thẳng tới đó, mà mình bay vòng về hướng Bắc. Các bạn bớt căng thẳng đi! Có thể ông trời đã giúp mình hôm nay, nên đổ mưa mấy tiếng đồng hồ, vì vậy khi mình tới target mặt trời cũng sắp lặn, bảo đảm tụi nó không ngờ mình tới đâu! Chắc chắn mình phải bay đêm, các bạn cẩn thận coi lại tất cả các đèn phi cụ.

                  Như trong phi trình đã hoạch định, chúng tôi “joint up” ở 2.000 bộ với hợp đoàn chiến đấu (Tactical Formation), tất cả phi cơ bay bên cánh phải của anh Phùng, lấy Lai Khê làm điểm xuất phát, bay thật thấp về hướng Bắc, bên phải Quốc Lộ 13, qua khỏi Tống Lê Chân 5 dặm, thì đổi sang hướng Tây. Như dự đoán, chúng tôi bắt đầu lướt trên nhiều ổ phòng không. Nhìn xuống, chúng tôi thấy từng cụm năm ba tên Cộng-phỉ cố quay vòng những họng súng, để bắn vói theo phi cơ chúng tôi. Tôi gặp ít nhất năm khẩu phòng không trên đoạn đường dài chừng 20 dặm nầy. Khi thấy Lộc Ninh bên phải và nhận định mục tiêu, anh Phùng ra lịnh:
                  - Tất cả Phi Long coi lại Mills (độ của máy ngắm) lên cao độ 1.500 bộ, target 1 dặm, hướng 10 giờ (quẹo trái về hướng Nam, để thả bom vào bên hông địch).

                  Lần lượt: "số 1 Rolling Hot”, rồi số 2. Số 3 và số 4 Rolling Hot trong ánh sáng vàng nhạt cuối cùng trong ngày. Chúng tôi đã vượt qua rất nhiều hàng rào phòng không dày đặc, trên đường đi ngay cả đường về, rất nhiều lần chúng tôi lướt trên những ổ cao xạ, nhìn thấy bọn chúng quay vòng những họng súng để bắn vói theo (quá trể rồi! lúc đó chúng tôi đã khuất dạng). Khi chúng tôi bay về gần tới Tây Ninh, thì trời đã tối hẳn. Nhờ vào sự can đảm phi thường, nhờ sự thông thạo địa hình và đầy kinh nghiệm của Thiếu-tá Phùng, chúng tôi đã hoàn thành sứ mạng và an toàn về đáp lúc 8 giờ tối. Cám ơn ông trời đã ban cho chúng tôi một cơn mưa, giúp chúng tôi hoàn thành phi vụ một cách tốt đẹp. Khi đáp xong, tôi ghi nhận thêm: Thiếu-tá Phùng thà ngậm đèn bấm soi sáng những phi cụ để bay, nhưng nhứt định không chịu hủy bỏ phi vụ; dù rằng trong phiên họp buổi trưa Đại-Tá Nhã đã lưu ý hai lần:
                  - Nếu có gì bất trắc các bạn rán chịu đựng qua đêm, sáng mai mới có trực thăng rescue.
                  Anh Phùng cười rằng:
                  - Mấy chuyện lẻ tẻ làm sao làm khó dễ tao được. Ngày mai tụi mình đi gặp Đại-tá Nhã, xin ông cho tụi mình bay lên đó, diệt phòng không, ít nhất mình cũng “lượm” hàng tá cao xạ 37, hay 57 ly. Đứa nào bay với tao, thì theo tao tới câu lạc bộ Trần Thế Vinh???

                  - Lần thứ hai
                  *6.- Để nhớ ơn người anh hùng vị quốc vong thân: cố Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng, có nhiều thân hữu, quân dân, góp sức truy tìm tung tích anh Phùng. Sau bao năm lặn lội tìm kiếm... Trong cơ duyên nhờ anh linh của cố Thiếu-tá Trương Phùng dẫn dắt, ngày 2 tháng 12 năm 2008, cựu KQ Nguyễn Toại Chí đã mang hài cốt Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng (vùi sâu dưới 5 thước đất, gần cầu Bình Điền, Long An; trở về với gia đình). Hài cốt của cố Thiếu-tá Trương Phùng được hoả táng, và đem về thờ phượng tại chùa Bữu Quang. Theo nhân chứng là cụ H. (cụ còn ở Việt Nam, 90 tuổi, xin tạm dấu tên) kể rõ rằng: “Động cơ của chiếc máy bay bị ra khói, buộc lòng anh Phùng phải đáp khẩn cấp xuống ruộng, gần cầu Bình Điền. Anh Phùng bị bắt khoảng 7 giờ sáng ngày 29/4/74. Ngay tối hôm đó bọn Cộng-phỉ khát máu đã hành quyết anh Phùng cạnh giao thông hào”.

                  *7.- Cũng sau nhiều năm tháng vất vã ngược xuôi tìm kiếm, ngày 21-7- 2010 có một nhóm thân hữu Dân Quân Chánh, gia đình Thiếu-uý Phạm Tấn Đức, cùng cựu Không-quân Nguyễn Toại Chí đã tìm được nhiều hài cốt của PHĐ 07 , trong vòng đai của căn cứ Tân Sơn Nhứt. Họ đã mang hài cốt qúy vị ấy về an vị tại nghĩa trang An Khánh - Thủ Thiêm. (KQ NTC phụ trang).

                  . . . *8.- Cư xá Nữ Quân Nhân ở kế bên chưa đầy mươi mét, đã biến thành tro. Tôi (Phúc) vội vã lái xe Honda phóng nhanh trở về cư xá C-7 thăm vợ con. Vào phòng cư xá C-7 thì không thấy ai, hoảng hốt tôi đi vòng theo sidewalk để tới hầm trú pháo. Vô cùng may mắn khi tôi thấy một trái 122 ly không nổ đã cắm sâu xuống nền ciment, cách phòng của vợ con tôi chừng ba thước, (nơi đó vợ con tôi & gia đình Trung-uý Phạm Trung Vân PĐ C7- 431; là em rễ vợ tôi). Trước kia tôi thấy cái hầm nầy đã bỏ hoang lâu năm, bên trên chỉ có vài lớp bao cát mục nát, tôi nghĩ chúng tôi không nên ở lâu, vả lại tôi không quen “đường sá” trong khu Tân Sơn Nhứt. Vì vậy bất đắt dĩ tôi phải dời gia đình qua dinh Tướng Kỳ lánh tạm, dù sao ở đó cũng kiên cố hơn... Tôi chứng kiến chiếc trực thăng đáp xuống (khoảng sau 9 giờ sáng) Trưởng phi cơ là Thiếu-tá Quí, anh em Trung-tá Nguyễn Quốc Hưng & Trung-tá Nguyễn Quốc Thành, mỗi người cầm một cây M16. Tướng Kỳ vào nhà, ông cứ đi ra đi vô phòng làm việc nhiều lần. Khi ông bước ngang chỗ tôi đứng, tôi mạo muội hỏi:
                  - Thưa Thiếu Tướng, Thiếu-Tướng định làm gì bây giờ?
                  Ý của tôi hỏi Tướng Kỳ là tôi muốn biết có di tản về Cần Thơ, (như lời ông kêu gọi tại đây đêm 25/4/75) là: “cần đánh một trận oai hùng cuối cùng”? Chẳng biết ông có nhận ra tôi hay không, ông lắc đầu than:
                  - Anh em đã bỏ đi hết rồi, lấy ai mà đánh hở?!
                  Tôi đồng ý với Tướng Kỳ về việc nầy, vì sau khi tôi đáp xuống Tân Sơn Nhứt chừng 20 phút, tôi nghe rất nhiều tiếng phi cơ đủ loại ào ào cất cánh bay lên... Khoảng 9 giờ 30 phút Tướng Kỳ từ phòng làm việc bước ra, khi đi ngang tôi, Tướng Kỳ nói:
                  - Mỹ đã từ chối cho tôi (Tướng Kỳ) một chiếc C-141. Nhờ cậu thông báo các thân hữu của tôi tự tìm đường thoát thân sang DAO, hay xuống bến Bạch Đằng. Bây giờ tôi đi rước Tướng Trưởng bên Tổng Tham Mưu.
                  Tướng Kỳ lên máy bay, tôi liền đi chuyển lời của ông cho một số người ở trong nhà nầy, lúc bấy giờ tôi mới biết: có hàng trăm người khác đang “tá túc” trên lầu, trong số đó có cựu Dân Biểu Nguyễn Văn Cử. Điều may mắn là mọi người đã thoát khỏi nguy hiểm, dù có rất nhiều trái pháo rơi xung quanh
                  dinh, nhưng không quả nào lọt vô dinh Tướng Kỳ.
                  * * *


                  Tình Hoài Hương chân thành cám ơn Đại úy Không Quân Trần Văn Phúc {(Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51) - và quý vị Không-quân có ghi tên trong bài viết)} đã cho tôi mạn phép chuyển tải sự thật về ngày 28 & 29 tháng Tư năm 1975 : trung thực, chính xác, nóng bỏng, & vô cùng đen tối hắc ám của lịch sử Việt Nam.
                  Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-29-2015, 09:32 AM.
                  Bút trần nào tả được lưu luyến!
                  Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                  Tình Hoài Hương

                  Comment


                  • Đại Úy Dược Sĩ Gary Carter



                    Đại Úy Dược Sĩ Gary Carter


                    Sau khi học xong khóa huấn luyện căn bản về Kế Toán, thì Hoa được chuyển vô làm tại 3rd Maf Marine Co Head Quarters, trực thuộc Bộ Tư Lịnh Sư Đoàn Hai (đóng tại Sơn Trà, Đà Nẵng), dưới quyền kiểm soát của Đại Úy Gary Carter. Trong phòng làm việc rộng rãi sạch sẽ có máy điều hòa không khí luôn mát lạnh dễ chịu, họ kê cho Hoa một cái bàn riêng, cách xa bàn của “ông chủ” Gary không bao xa.

                    Thoạt nhìn vô những con chữ chằn chịt và những con số chi chít, đầy nhóc luôn nhảy múa, khiến mình hoa mắt. Hoa cảm thấy lạnh toát cả người, choáng váng và xây xẩm mặt mày. À thì ra “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”. Thiệt tình là Hoa lo lắng, bần thần, lúng túng, loay hoay cả buổi, vẫn không làm nên trò trống gì, muốn xỉu. Học hành về môn lý thuyết thì khác hẳn so với sự thực tập & thực hành! Đúng là “học” một nơi “hành” một nẽo!

                    Ngày nào cũng vậy, khi trình văn bản đánh máy kế toán cho Gary duyệt lại, Hoa đều bị anh chàng “khó tính khó nết” nhăn mặt nhíu mày, anh ta bực bội vất trả lại những bản trình ký, bắt Hoa sửa lui sửa tới. Hoa tức và nghẹn ngào ứa nước mắt, thiệt muốn điên đầu, mất mặt, xấu hổ, mà im thin thít, không thể khóc! Lỗi tại tôi mọi đàng, chứ ai dám bảo Gary là người đẹp trai ấy cũng thân thiện dễ mến đâu nào!

                    Dạo nầy, do Hoa thường xuyên tiếp-xúc dạn dĩ nói chuyện với người Mỹ, nếu Hoa nói sai, thì những quân nhân Mỹ ôn tồn tận tình chỉ dạy, và ngày đêm Hoa siêng năng chăm chỉ trau dồi học tập, nên vốn liếng sinh ngữ của Hoa đã kha khá. Tuy thế, luôn luôn ở trong xách tay của Hoa có quyển tự điển song ngữ Anh-Việt và Việt-Anh dày cộm. Những lúc gấp gáp, bắt buộc Hoa quơ hai tay lên trời, để chỉ chỏ diễn tả về một tư tưởng, một chuyện gì đó, mà người nghe vẫn chưa hiểu ý, coi thiệt ngu ngơ và ngố ngáo! Bí quá, Hoa và những anh chàng lính Mỹ hoặc Gary chụm đầu lại lật tự điển ra, để tra cứu.

                    Khi đã thấu hiểu tư tưởng về nhau muốn truyền đạt rồi, Gary nắm bàn tay giơ ngón cái lên trời và giật mạnh xuống, hoặc đưa bàn tay mình ra đánh vô bàn tay Hoa kêu cái bốp. Thế là họ sung sướng ngửa cổ lên trời cười ha hả. Nhờ thế, Hoa cảm thấy Gary dễ thương, Gary cùng Hoa đã dễ dàng thông cảm và thấu hiểu về nhau, thân thiện hơn.

                    Một hôm, Hoa mặc bộ áo dài trắng đi làm việc như thường lệ, Hoa ngồi vô bàn cắm cúi soạn hồ sơ, bất chợt Gary vẫy gọi Hoa đến bàn làm việc của anh, (để dặn dò, chỉ bảo, hay đùng đùng la mắng gì đây). Không rõ! Mặc dù Gary nhìn Hoa đăm đăm, lớn giọng gọi Hoa thêm mấy lần, Hoa vẫn ngồi lỳ! Gary là người cương quyết, tận tâm, và trực tính, anh thấy thái độ ngang bướng, cứng đầu khi Hoa ngồi ù lỳ một chỗ, Gary coi bộ dạng cô nàng ngỗ ngược sao đâu, anh tức mình bực bội hơn.

                    Gary đứng dậy bước nhanh tới bên Hoa, mùi dầu thơm và mùi đàn ông phảng phất tỏa ra nhè nhẹ bay sang Hoa, khiến cô bé biết là Gary đã đứng rất gần sát sau lưng mình. Gary dùng hai bàn tay rắn chắc thò vô nách xốc đứng Hoa bật dậy. Gary thấy vệt máu tươi thấm ướt chiếc ghế nệm. Gary hốt hoảng, luôn miệng thốt ra câu:
                    - Anh xin lỗi, xin lỗi lần nữa. Hãy chờ chút.

                    Gary nhẹ nhàng ấn Hoa ngồi xuống chỗ cũ, anh liền hạ giọng ngọt ngào lựa lời dịu dàng an ủi vỗ về Hoa, rồi Gary vội vã chạy đi lấy một chiếc khăn tắm to, đem đến, Gary lịch sự xin phép quấn chiếc khăn lông quanh hết cả người Hoa, và Gary ân cần ôm bờ vai nhỏ dìu Hoa ra xe jeep, Gary chở Hoa đi về nhà nàng. Ấy là ngày Hoa sung sướng đã lãnh tháng lương thư ký đánh máy đầu tiên rất lịch sử, nhưng đáng ghi nhớ vễ diễn biến sượng sùng, bẽn lẽn, mắc cỡ, xấu hổ khiến Hoa muốn độn thổ và ngượng chín người ấy!

                    Tiền lương thư ký Hoa mang về đưa hết cho mạ lo gia đình các em. Hoa không bao giờ quên chiều thứ sáu tháng 9 năm 1966, Hoa lãnh tháng lương đầu tiên đựng trong phong bì là 2.500 đồng! Ôi! thật to kinh khủng & vĩ đại, số tiền lương nầy lớn hơn lương bốn tháng của cha, nhiều hơn sáu năm lương Hoa “đi ở đợ” thuở trước. Cả nhà tối hôm đó ai ai cũng vui mừng rạng rỡ, cuống quít, tưởng rằng mình nằm mơ, tội nghiệp mạ khá mừng rỡ, nên suốt đêm nằm bên con trằn trọc hoài, mạ không làm sao ngủ được chút xíu nào.

                    Nghỉ ngơi ngày thứ Bảy, ngày Chủ Nhật qua sáng thứ Hai chuẩn bị đi làm lại, thì… Hoa cảm thấy áy náy, e dè, bẽn lẽn, ngại ngùng làm sao, khi phải đối diện với “ông chủ Gary”. Con gái mà vô ý vô tứ, vô tâm không nhớ, chẳng biết chuẩn bị cho “lần trồi lúc trụt” về cái “ngày bị ấy” mới ra nông nỗi. Cô giả vờ bình tĩnh, bình thường, nhưng thật ra trong lòng Hoa dậy sóng!
                    Hoa đang lúi húi soạn hồ sơ trong tủ sắt, thì Gary đến sau lưng nàng, ạm nói nhỏ:
                    - Mỗi ngày đến giờ ăn trưa, và sau giờ làm việc, em ra ngoài ghế đá công viên kia, gần gốc cây phượng, anh sẽ dạy em học thêm. Có chịu không?

                    Hoa mừng rỡ không do dự phân vân gì, vội vàng ngúc đầu lia lịa. Thế là kể từ đó vốn liếng sinh ngữ, và công việc thư ký kế toán đánh máy của Hoa được trôi chảy, tăng nhanh lên vùn vụt. Khi ngồi bên nhau, Hoa lắng nghe Gary ân cần chỉ dạy cho mình hiểu biết công việc, Hoa đã giàu kinh nghiệm hơn. Theo không gian ru tình mây bàng bạc khắp non sông, thời gian bảng lảng ánh hoàng hôn theo tháng ngày đong đưa, thì tình cảm giữa “chàng và nàng” chẳng biết có “tình cờ” nở ra trong bí mật hay không, mà câu chuyện hai người đã dạt dào tăng trưởng và bộc lộ rõ nét. Một ngày đẹp trời kia cõi lòng Hoa rộn rã tiếng chuông ngân vang lời Gary êm ái tha thiết tỏ tình:
                    - My whole soul shook with a tremulous ecstasy: I love you. (tâm hồn anh rung động vì đê mê sung sướng: anh yêu em.)
                    - You… You… once said promises must be kept. (Anh… anh… nói lời xin hãy giữ lời).
                    - Try to understand my feelings. I live forever in my memories of love (Hãy hiểu cho lòng anh nhé. Anh sống trong niềm thương nỗi nhớ). I love you.

                    Thế là đầu tháng 10 Hoa lặn lội đi tìm thuê một căn nhà lớn hơn chỗ cũ, cho mạ và các em cùng nhau chung sống, còn cha thì “miệt mài giong ruổi” gian truân phong trần ở trong đồn trú cùng bạn lính, ít khi cha có mặt thường xuyên tại nhà. Hoa rủ mạ và các em đi Đà Nẵng mua nhiều áo quần mới cho mạ, các em mặc tươm tất sạch sẽ đàng hoàng hơn. Tiện thể ở Đà Nẵng Hoa đưa họ về nhà ở Tam Kỳ, rồi Hoa xin phép cha mạ để làm hôn thú với Gary, thì Hoa bị mạ nổi giận đánh cho một trận nên thân. Cha bỏ mấy quả lựu đạn ra giữa nhà, quắc mắt nghiêm nghị nói:
                    - Cho cả nhà chết hết, không thể sống nhục nhã như thế này được. Thà nghèo cạp đất ăn, nhất định không chấp nhận cho con lấy Mỹ.
                    Hoa lại ra Đà Nẵng, đau khổ buồn rầu khóc lóc và kể mọi chuyện cho Gary nghe, không hiểu sao Hoa dễ dàng bảo:
                    - I am a victim just as thousands of other victims who are subject to the family and overstep my parent’s right. (Em là nạn nhân như ngàn người khác dưới quyền của gia đình, và không thể vượt quyền của cha mạ em).
                    Gary kinh ngạc nhìn Hoa trân trối, sau đó anh buồn bã:
                    - Oh! In Vietnam it is customary to have a gobetween for the children of a respectable family before a marriage can be arranged. Right? (Con trong gia đình tử tế ở Việt Nam phải có mai mối, mới lấy nhau, phải không).
                    - Don’t bawl me out because you misunderstand me. Please! (Xin anh đừng vội hiểu lầm mắng em tội lắm)!

                    Hoa lại khóc. Thôi ta đành chia tay. Anh về Mỹ đi. Cha mạ của em cấm. Chúng mình không thể kết hôn. Bởi lúc đó mãn lính, Gary bàn tính cặn kẽ cùng người yêu, vì Gary nghĩ cưới được Hoa, thì anh xin ở lại làm việc tại Việt Nam, hoặc sang Hồng Kông, để cho Hoa gần quê hương của mình. Không ngờ Hoa quyết định chia tay dễ dàng như thế, Gary rất đau buồn… vài tuần sau chàng lặng lẽ rời khỏi Việt Nam.

                    Tưởng đâu Hoa sẽ quên và tiếp tục làm việc như thường, ai ngờ Hoa buồn và nhớ Gary đến lịm người, cả ngày Hoa cứ khóc, không làm được việc, nên sếp bực mình đe dọa sẽ đuổi, nếu Hoa không tỉnh táo để làm công việc. Không trước thì sau Hoa cũng nghĩ thôi, vì bao nhiêu kỷ niệm tình yêu nồng thắm đầy ắp, và hình bóng của Gary lồ lộ hiện lên trước mặt, đã giết lần giết mòn Hoa từng giây phút! Hoa đi lang thang bên đường Bạch Đằng, thì gặp cô bạn hỏi thăm, nên Hoa tâm sự chuyện tình buồn hết cho bạn nghe. Bạn bảo:
                    - Bỏ nghề “thư ký đánh máy” đi, nghe tiếng “thư ký” thì hay lắm, đẹp lắm… cao cả lắm… Nhưng mi không có tiền nuôi gia đình đâu. Hãy đi làm câu lạc bộ bưng rượu, mà hốt tiền như điên, nghe không.
                    - Sao làm được hỉ, bưng rượu mà tao không biết tên rượu?
                    - Dễ ẹc hà, tao chờ mi tới, sẽ chỉ lại cho biết nà.

                    Hoa theo bạn sang biển Mỹ Khê (lúc đó gọi là China Beach, chỗ Hoa làm là Beach Club). Hoa vào xin việc, là họ nhận liền, tối hôm sau Hoa đi làm thấy quang cảnh ba bên tứ bề người ta ồn ào huyên náo coi bộ vui lắm. Như lời bạn nói không sai, lần đầu tiên ngu ngơ Hoa lúng túng chẳng biết làm gì hết, thế mà tiền tip hôm đó được tám chục dollars (chỉ vài ba giờ mà gần bằng 1/4 tiền lương thư ký).
                    Ai ngờ hôm sau trở lại làm việc, thì tối hôm đó trăng sáng vằng vặc và sóng biển êm êm thổi rì rào… như bản nhạc tình sống động đang trỗi dậy trong lòng Hoa. Thế là mình cứ đứng ở cửa sổ nhìn ra biển mà khóc, khóc hoài. Các bạn gái tình cờ đi ngang qua, thấy vậy, họ kéo tay Hoa đi chỗ khác dỗ dành an ủi. Hoa mủi lòng xót xa lại khóc nhiều hơn. Mấy chàng lính Bộ Binh Mỹ thấy Hoa khóc liền an ủi, có người theo chọc ghẹo, khiến Hoa càng buồn nhớ Gary thêm.
                    Thương mà khóc, khóc sao cho đặng
                    Nhớ mà trông, trông chẳng đặng chàng
                    Đêm nằm gốc thị mơ màng
                    Thị thơm mặc thị nghĩa chàng thiếp chẳng quên.
                    (*)

                    Ngay phút giây bần thần lâng lâng như tỉnh như mê đó, Hoa quên hết: quê hương, gia đình cha mạ, các em út, tiền bạc, sang hèn vinh nhục... Không cần gì nữa hết, Hoa cứ ước ao làm thế nào gió và sóng biển cuộn mình đi về phương trời Mỹ quốc xa xôi, để hy vọng gặp lại người yêu dấu... Hoa nghĩ đến câu ca dao đã đọc:
                    Thấy đó nói ra em đà hiểu ý
                    Muốn cho đào lý hợp với trúc mai
                    Quản chi biển rộng sông dài
                    Ôm duyên đợi “khách Chương Đài” bấy lâu
                    .
                    ***

                    Hoa đã thật sự đến đất nước Hoa Kỳ giàu sang và phồn vinh rồi. Ngay sáng hôm sau, Hoa đang đứng xớ rớ gần bàn ăn, chưa biết làm gì, thì bà mẹ chồng Mỹ pha café mời Hoa uống. Nhưng lúc đó chẳng hiểu sao Hoa quá bồn chồn nôn nao, chỉ muốn biết tin tức của người yêu xưa. Chần chừ giây lát, Hoa quyết định móc trong túi áo ra đưa mẹ chồng số phone, và đánh liều nhờ bà mẹ gọi cho Gary, để cho Hoa nói chuyện với chàng.

                    Mẹ chồng ngẩn ngơ nhìn Hoa giây lát, nhưng bà cũng làm theo lời yêu cầu của con dâu. Phone reng vài ba tiếng thì đầu dây bên kia bắt lên và say “Hello! Hello”. Hoa nghe rõ ở speaker giọng nói của Gary rõ ràng, như hồi xưa khi hai người còn ở Đà Nẵng. Tim Hoa nhảy tưng tưng trong lồng ngực, nàng mừng đến nghẽn nghẹt nơi cổ họng, dường như hụt hơi nghẹt thở, hai hàng nước mắt tự động chảy ròng ròng xuống má. Hoa dựa lưng vô vách tường và:
                    - “Hello. Hello… Gary”
                    Rồi Hoa khóc rống lên rất to. Gary vội vàng hỏi:
                    - Huyền ơi! Em đang ở đâu đó?
                    - Em đang ở Mỹ.
                    - Anh đến với em nhe.
                    - Em yêu anh. Em nhớ anh nhiều. Em muốn đến Mỹ để chung sống với anh.
                    - . . .
                    - Gary ơi! Anh đến đây đón em nhe.
                    Bỗng dưng Hoa nghe tiếng của một người đàn bà bên kia đầu dây nói thật to:
                    - Huyền đó hả? Qua Mỹ hồi nào? Tui giới thiệu với Huyền biết: Gary là chồng của Maria nè.

                    Thượng đế ôi! Hoa như đang ở trên chín tầng mây rơi phịch xuống tảng đá. Hoa thảng thốt hét lên:
                    - Gary, ai vừa nói vậy? Em có nằm mơ không?
                    - Anh… anh… ồ em…
                    - Sao anh lấy vợ? Anh đã hứa với em rằng: Suốt đời trong tim anh chỉ có em thôi mà? Sao anh nỡ giết em?

                    Thế là bất ngờ mẹ chồng bèn giật phăng cái phone trên tay con dâu, và hất mạnh Hoa văng xiểng liểng qua một bên góc tường. Bà mẹ off speaker rồi, mặt bà tái nhợt, dường như bà hét trong phone:
                    - Ông là ai vậy?

                    Bà đứng chống một tay lên ngang hông, im lặng nghe bên đầu dây kia nói gì đó, nói rất lâu. Hoa bưng mặt chạy lên lầu chui vô phòng, ngồi bệt xuống thảm khóc ngất, trong khi Tom vẫn ngủ say như chết, chàng chẳng hề nghe và biết trời trăng mây gió chi cả! Sau đó Hoa nghe bà mẹ nói một hơi dài, nhưng vì ở trong phòng đóng cửa, nên nghe tiếng được tiếng mất. Dưới nhà im ắng khá lâu, bà mẹ chồng bước nhẹ lên lầu, mở cửa phòng lôi cổ Hoa xuống nhà, bà biểu Hoa ngồi xuống sofa, mà hỏi đầu đuôi cớ sự cho ra chuyện.

                    Đến nước nầy rồi thì Hoa đâm lì, không sợ, mà khai ra hết cho bà mẹ nghe. Hoa nói nhưng nghĩ bà mẹ có thể không hiểu được bao nhiêu, vì Hoa nói tiếng Mỹ rất tệ, dù là “tiếng Mỹ bồi”. Tuy thế họ nói gì, Hoa đều nghe, hiểu, biết hết. Có lẽ qua trao đổi phone với Gary và Maria, bà mẹ cũng biết được chuyện tình của hai người. Bà mẹ ngồi đối diện và nhìn thẳng vô mắt Hoa, có vẻ tức giận:
                    - Nầy, con nên nhớ bây giờ con là vợ của Tom, và là mẹ của hai đứa nhỏ. Biết chưa? Hãy suy nghĩ đi.

                    Nấc lên từng cơn, Hoa cúi gầm đầu nhìn xuống chiếc bàn con, lòng đau như xé, hai hàng nước mắt vẫn đầm đìa tuông chảy. Bà mẹ chồng nhẹ nhàng bỏ đi lúc nào, Hoa chẳng nhớ. Khoảng 12 giờ trưa tại phòng khách có phone reng, mẹ chồng nói gì khá lâu, rồi gọi Hoa xuống nhà, và giao điện thoại cho Hoa. Bà lịch sự lặng thinh bỏ đi ra ngoài vườn.

                    Bên kia đầu dây, Gary van lơn:
                    - Anh van xin em đừng nói và đừng khóc, em hãy lắng tai nghe anh giải thích nhe: Anh vừa bảo rằng: anh xin phép mẹ chồng em, cho anh nói chuyện với em một lần nầy nữa thôi. Anh không bao giờ dám tái phạm. Anh đang ở hãng Johnson & Johnson, anh là dược sĩ, vì trước khi vô lính, anh đã làm việc cho hãng nầy rồi. Huyền ạ, em rất biết là anh yêu em tha thiết mà. Lúc anh rời khỏi Việt Nam, anh đau đớn khổ sở vì bị em từ chối, thì anh như người mất hồn. Cuối tháng May thì về đến Mỹ, anh buồn phiền biết bao, anh vẫn nhớ thương em vô vàn, anh chẳng tha thiết làm việc gì hết. Hai tháng sau, anh quyết định trở lại Việt Nam tìm em.

                    Khi phi cơ tới Hồng Kông mọi người phải ngủ lại qua đêm, (sáng hôm sau mới có chuyến bay đi Sài Gòn, xuống phi trường Tân Sơn Nhứt). Đêm hôm ở Hồng Kông anh vào văn phòng R & R của Thủy Quân Lục Chiến thăm mấy người bạn, mà một năm trước từ Việt Nam anh đã qua Hồng Kông làm việc mấy tháng, để giúp đỡ những người đi lính Mỹ đang nghỉ phép. Huyền à. Anh nhắc lại: Em còn nhớ Maria không? Người ấy là cô gái mà khi anh ở Hồng Kông: anh từng nhờ vã cô ta đi mua áo, giày dép, bóp, nữ trang, vân vân… giúp anh; để anh mang về Việt Nam, anh đã tặng cho em. Nhớ không?
                    - Em còn nhớ cô ấy. Cô thư ký người Hồng Kông.
                    - Phải. Khi anh bước vô văn phòng R & R, thì Maria hỏi anh:
                    - “Huyền đâu? Sao không đi với anh”?

                    Anh tâm sự tất cả mọi chuyện ngang trái đau khổ về chúng mình cho cô ấy nghe. Cô ấy an ủi và mời anh đi ăn cơm tối. Lúc đó anh rất buồn, anh nhớ em và uống rượu thật nhiều. Sáng hôm sau giật mình thức dậy, thì đã gần trưa. Anh hoảng hốt đã nói với Maria:
                    - “Anh trể chuyến bay đi về Việt Nam, đã ba giờ rồi”.
                    Cô ta ôm ghì anh lại và cười ngặt nghẽo:
                    - "Anh không chỉ trễ có ba tiếng đồng hồ đâu, mà anh đã trễ cả đời rồi. Biết không?"

                    Thế rồi… vài tháng sau thì anh và cô ấy làm đám cưới. Anh bảo lãnh vợ qua Mỹ và hiện nay ở Long Beach.
                    - Thôi được rồi. Em hiểu. Anh không cần nói nữa. Vĩnh biệt.
                    ***

                    Sao Hoa không như tuổi thơ ngày ấy: dễ giận, reo vui, nhí nhãnh, nũng nịu làm lành khi “người ta” khen một câu vớ vẩn, cũng làm cho mình cảm thấy ỏn ẻn… mừng vui và thùy mị thêm xí nữa. Hoa thẩn thờ buồn bã cúp phone. Chưa hết đâu, vài tuần sau do mẹ chồng tận tay trao cho con dâu một thùng quà thật to. Hoa ngạc nhiên lẫn thắc mắc mở thùng qùa ra xem, nàng thấy áo quần, đồ chơi trẻ con, chút phấn son, hai tấm hình của họ chụp hồi đám cưới tại Hồng Kông!!!

                    Chính Hoa kinh ngạc không hiểu tại sao lúc đó nàng bình tĩnh, điềm đạm, chẳng hề xót xa buồn tủi đau khổ khóc lóc gì! Khiến mẹ chồng nhìn Hoa cũng ngẩn ngơ bàng hoàng. Bà mẹ cứ tưởng con dâu khi thấy hình ảnh của họ, thì sẽ nhảy dựng lên, mà ồn ào vật vã khóc lóc tru tréo, chứ chẳng ngờ… Hoa ung dung nhờ mẹ chồng viết mấy hàng vô tấm thiệp ghi lời cám ơn và gửi đi. Hoa cũng dặn dò mẹ chồng:
                    - Từ nay, nếu họ có gửi quà tới nhà, mẹ không đưa con, nên trả lại, hoặc nói con không còn ở đây. Mẹ ạ.

                    Bà mẹ Mỹ kinh ngạc tò mò nhìn Hoa lần nữa và e ngại mỉm cười. Kể từ lúc đó hình như bà mẹ Tom đã có cảm tình và thân thiện với Hoa nhiều hơn. Bà mẹ và Hoa xích lại gần nhau khi làm bếp, nấu ăn hoặc làm những việc lặt vặt, ví dụ như bà dạy cho Hoa về cách trước khi luộc khoai tây mau chín, chỉ gọt vỏ củ khoai một bên thôi. (To boil potatoes quickly: Skin one potato from one side only before boiling) Hoặc là: Lột võ khoai lang mau, thì ngâm khoai trong nước lạnh trước khi luộc: (To skin sweet potatoes quickly: Soak in cold water immediately after boiling).

                    Có lần Hoa bưng vĩ trứng gà ra định nấu, bà mẹ đã chỉ vẻ cho Hoa: To boil eggs quickly: Add salt to the water and boil (luộc trứng mau, bỏ chút muối vô nước và nấu sôi). - To remove chewing gum from clothes: Keep the cloth in the freezer for an hour. (gỡ kẹo cao su dính vô quần áo: để quần áo trong tủ đông lạnh khoảng một tiếng đồng hồ). To whiten white clothes: Soak white clothes in hot water with a slice of lemon for 10 minutes. Muốn tẩy trắng quần áo màu trắng: ngâm quần áo màu trắng vào nước nóng có bỏ một lát chanh trong vòng 10 phút. (To remove ink from clothes : Put toothpaste on the ink spots generously and let it dry ompletely, then wash). Muốn tẩy mực dính trên quần áo: bôi nhiều kem đánh răng vào chỗ vết mực và để cho thật khô trước khi giặt.

                    Đó là chuỗi hạnh phúc bất tận mình chẳng cần tìm kiếm ở đâu xa cho hoài phí đi.
                    **

                    Tình Hoài Hương
                    Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-01-2017, 01:03 AM.
                    Bút trần nào tả được lưu luyến!
                    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                    Tình Hoài Hương

                    Comment


                    • CHA Tôi


                      CHA Tôi
                      Happy Father' Day. Happy. Happy...
                      THH xin cống hiến quý độc giả bài viết về CHA
                      Thân quý,
                      ***

                      “Tinh thần gia đình là gì?
                      Đó là: Pha trộn tình mến sợ cha. Tình âu yếm sợ mẹ. Kính trọng cả hai. Thán phục nhân đức của cha lẫn mẹ. Bỏ qua các lỗi lầm. Ghi nhớ công ơn. Thông cảm đau khổ. Cảm kích các hy sinh của cha lẫn mẹ”
                      (P. Janet).

                      Ba tôi là người con thứ tư sinh trưởng trong một gia đình bề thế, giàu có, ở Làng Hưng Nhơn, thuộc Tổng An Thơ, Phủ Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Ba làm nghề thầy thuốc Đông Y, lương thiện, ân cần và đạo đức, chu đáo tận tụy trị bệnh nhân khá mát tay. Đúng là “lương y như từ mẫu”. Ngoài ra, ba tôi còn có vài ba nghề tay trái nữa là: nghề cưa xẻ cây gỗ, làm nông, và mở một trang trại ươm cây giống rất to lớn. Dĩ nhiên, mọi công việc nặng nhọc về vườn tượt, đồng áng, ba tôi có nhờ lực điền, tá điền & quản gia phụ việc.

                      Nhắc về ba, tất nhiên tôi phải nói lướt sơ sơ ti tí về má. Má tôi sanh ở Làng Thuận Nhơn rợp bóng hai hàng cây, sát bên con sông xanh êm đềm uốn khúc, nước sông rất trong, ngon và ngọt. Làng nầy thuộc Tổng Cù Hoan, Huyện Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Ông ngoại là một võ quan rất giỏi trong triều đình Huế thời xưa. Gia đình ông bà ngoại khá giàu có, ruộng lúa cò bay thẳng cánh. Má tôi lớn lên công dung ngôn hạnh vẹn toàn và hiếu học, biết chữ. Má sinh ra trong một gia đình đông con, nhưng rồi ông bà ngoại tôi chỉ may mắn còn lại cậu Cửu Ổn và má, mà thôi. Má tôi luôn tôn trọng chồng, nhỏ nhẹ, đôn hậu, hòa nhã yêu thương chồng con hết lòng.

                      Ba Má tôi rất hiền, đạo đức và giống nhau là lòng nhân ái, phúc hậu, (mà các con ưa nói ba má có tính tào lao: ăn cơm nhà vác ngà voi). Ba má tôi sống cuộc đời khá hoàn thiện, ngày nào họ cũng xem là ngày cuối cuộc đời trước mặt Chúa: Họ không gian dối, không thất đức, không lừa gạt ai, họ chỉ biết sống bác ái, ôn nhu, an lành, yêu tha nhân, tận tình giúp đỡ người cùng khốn, cần mẫn tận tụy làm việc.

                      Ba tôi có hẹn với đại gia đình anh chị em tôi khi ba ở Đà Lạt là: “ba sẽ ra Huế để lo thu xếp công chuyện, chuyển giao việc trại ươm cây và đồng áng lại cho người thân. Sau đó ba má sẽ vào sống yên ổn ấm no ở Đà Lạt với các con, cháu”. Ấy thế mà… đâu vẫn hoàn đó, ba má chưa rứt ra nỗi. Điển hình nhất là ba má bị quật ngã biết bao phen trong cuộc đời thăng trầm sướng khổ, cay cực, mà không chịu lùi bước. Ba má tôi khi đã đắn đo suy nghĩ quyết chí làm một việc gì, thì họ đồng tâm hiệp sức phải thực hiện tạo thành cơ nghiệp ấy cho kỳ được. Dù gian truân đến đâu mặc lòng.

                      Ở quê nhà nay chỉ còn hai ông bà cụ lom khom lui cui đi ra đi vào thui thủi. Tôi cảm thấy ba má sống thật neo đơn, vắng vẻ buồn rầu không ít. Thế mà hầu như ba má không lấy đó làm phiền bên ngọn đèn dầu hột vịt tù mù tỏa sáng, đầu ba tôi luôn suy tư cúi xuống quyển sổ bệnh nhân dày cộm, mà cuộc sống của ba má vẫn cùng khó, đạm bạc, khiêm nhường… là sao thế hở ba?

                      Cuộc đời ba má hầu như cắm rễ khá sâu vào miếng đất gia tiên; gắn liền với ruộng nương, vườn sắn, ao bèo, gốc tre, bụi chuối. Chúng tôi chưa có cách gì gỡ ba má ra nỗi trong cái “tam sơn, tứ hải, nhất phần điền” nầy. Dù chỉ một phần điền tẻo teo, bé tí nị, mà ba má vẫn trìu mến ưa thích nén lại chân quê. Nơi mái nhà xiêu vẹo mà ba má đang ở đó, tôi thiết nghĩ đó là chân trời mở ra một cửa ngỏ buồn thảm, không hứa hẹn vui vẻ, tươi sáng, bình an gì hơn, lúc thời kỳ bắt đầu có chiến tranh.

                      Dù có những viên đạn xoáy tít trong không gian tối đen, tạo thành những luồng vàng sáng, loé ánh lửa rực đỏ xẹt xẹt bay vút qua vút lại trên đầu. Thì sự sụp đỗ của một gia đình bề thế do chiến tranh đã bị uốn cong gập, như con đại bàng gãy cánh trên những đống hoang tàn. Mặc cho mặt trời pha máu lửa đỏ chói từ phương Đông lan qua phương Tây. Mặc súng đạn gieo tang tóc lầm than, khốn đốn dày xéo đến bao gia đình, rồi tàn bạo kéo nhau đi nơi khác. Mặc bệnh tật đói rách ở lại, đau thương và khốn nạn trăm điều điêu đứng vẫn còn đây. Ấy vậy mà ba tôi vẫn điềm nhiên ngồi bốc thuốc, vẫn cầm cuốc, cuốc lại từng lát cuốc trên đất cứng pha sỏi đá khô cằn nứt nẻ, với hy vọng bừng lên.

                      Cũng thế, ba má tôi luôn đắn đo, chần chờ, do dự mãi; nếu họ dọn đi ra khỏi vùng Mỹ Chánh, nơi chó ăn đá gà ăn muối, thì ba má thấy thương quá là thương những người dân quê cần cù lao động quá nhọc nhằn, quanh năm cư dân vẫn đói khổ, rách rưới triền miên. Ốm đau bệnh nạn, họ chỉ có nước nằm đó ngáp ngáp quằn quại chịu trận, mà chờ chết. Nếu họ có ba tôi thường lui tới, đi lại an ủi vỗ về, chăm lo, giúp đỡ, săn sóc, thuốc men (có nhiều lần ba tôi làm việc thiện, bỏ công sức và tiền của hoàn toàn không tính toán), thì tình trạng khốn khổ của từng bao nhiêu người đã được vỗ về, an ủi, họ cũng giảm bớt nỗi đau rất nhiều. Họ không có gì đền trả… ngoài sự tận tụy làm việc kiếm sống, niềm tin tưởng, tấm chân tình cưu mang ơn trọng nghĩa cao với ba tôi, bằng cách chia sẻ ngọt bùi, nụ cười thân thiện ấm nồng trìu mến tình quê.

                      Ngoài nghề chính là nghề thầy thuốc, những thì-giờ còn lại, ba tôi muốn vận động cơ thể khỏe mạnh xí, nhưng trên hết là do ba tôi rất yêu đất, mến vườn; nên ba tôi thích đi làm việc bằng tay chân, tùy theo tháng năm chất chồng, chiếc áo cần lao của ba ngày trước còn mịn và mới, do thời gian đã bào mòn sức lực con người, mà những chiếc áo ấy trở thành vá chằn vá đụp, dày cui, khô và cứng đơ. Mỗi lần ba tôi cử động, nó kêu sột soạt như mo cau cọ siết rít vào nhau, tiếng kêu hãnh diện, đắc thắng của người dạn dày kinh nghiệm làm đất đai phải thuần thục.

                      Ba chế ngự mọi thử thách gian khó bằng hai bàn tay “thư sinh lẫn cần lao” cần cù, cùng sự từng trải, thấu hiểu. Hai tay làm việc thoăn thoắt, vất vả, ấy vậy ba má tất bật, chân nầy chưa kịp đặt xuống, chưa kịp bén đất thì chân kia đã nhấc lên. Nhiều lần mãi mê làm việc, ba má tôi quên cả ăn uống. Việc đồng áng nhờ có kiến thức và giàu kinh nghiệm, nên ba tôi có thể truyền đạt lại cho những bạn bè thân hữu nông dân cùng quê khá tốt. Đó là kết quả một đời ba má lao lực, suốt ngày đêm phơi mình giữa nắng mưa khuya chiều, cuốc cuốc cày cày đất cứng khô cằn nứt nẻ không ngơi tay.

                      Ba má tôi thật vất vả nhọc nhằn quá chừng. Khiến một người tao nhã, khôn ngoan, dạn dày kinh nghiệm, trí thức như ba, đôi khi trở thành trầm lặng, lầm lì, cáu gắt, nghiêm nghị và khó tính. Đã một đời ba vì đất vì đai, vì dân quê làng xã, vì bệnh nhân cùng đinh nghèo khổ đói rách tả tơi rồi. Từng ấy nhọc nhằn khốn đốn, mà ba tôi chưa thất kinh, vẫn không chịu ngồi yên. Nay ba lại bươn bả đi mở đất khai hoang, mong đem bình an ấm no cho bao nhiêu người. Đó là niềm tự hào dân tộc, là niềm vui duy nhất còn sót lại trong đời, khi ba tôi tuổi già sức cạn.

                      Tôi nghe quá đắng cay chua xót trong lòng. Làm sao mà ba có thể mang hết cuộc đời, cả gia tài khiêm nhường dành dụm gần suốt đời người, để lo cho bá tánh nghèo khổ quá đông đúc, cho nỗi hỉ!? Hở ba? Khi tôi tận mắt nhìn thấy ba má xắn tay áo lên, lo cho người thương tật, ốm đau, mà ba má không cảm thấy gớm, ghê, không một lời thở than. Niềm vui đó có phải do ba tôi đã vắt cạn kiệt ra từ chất xám để chia sẻ ban tặng cho đời thụ hưởng!?

                      Ba tôi thường lấy câu của bậc tiền bối, thánh hiền, để răn dạy con cái. Ví dụ như: “Tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên. Trạch kỳ thiện giả, nhi tòng chi. Bất kỳ thiện giả, nhi cải chi”. (Ba người cùng đi, tất nhiên có người là thầy ta. Hãy theo đó mà bắt chước từ thiện. Nhìn người xấu, nên tự sửa mình). Hoặc những câu: “Lễ. Nghĩa. Liêm. Sỉ: là bốn rường cột để duy trì, giữ vững quốc gia. Bốn rường cột ấy nếu không căng được lên, có nghĩa là người trong nước mà vô lễ, vô nghĩa, vô liêm sỉ - thì quốc gia phải sụp đổ, và diệt vong mất. (Quan Tử).

                      Đôi khi mộc mạc đơn sơ bình dân hơn: “Tiên học lễ, hậu học văn”. “Nhân bất học bất tri lý, ấu bất học lão hà vi”. “Sĩ phu mà ba ngày không đọc sách, thì soi gương mặt mũi đáng ghét. Nói chuyện nhạt nhẽo, khó nghe”. (Hoàng Đình Kiên).
                      Ba tôi ưa nói câu của cổ nhân để gián tiếp răn dạy con cái:
                      - “Nếu ta có đứa con phải giáo dục. Ta sẽ lo cho nó cái gì? Tạo cho nó thành thiện nhân, hay vĩ nhân?” Ta tự đáp:
                      - “Phải tạo cho nó thành thiện nhân”.
                      ***

                      Có một lần, tôi và anh trai ngồi học bài ở phòng bên, hai anh em nói chuyện lung tung về việc học hành trong lớp. Sau đó tôi to tiếng phê bình giáo sư của mình thế nầy:
                      - “Ông ta đã thiên vị, và trắng trợn có tình ý riêng tư, thân mật đặc biệt với một con nữ sinh nọ, nó có bầu rùi”.

                      Thế là hai anh em say sưa hí hửng, vui vẻ thao thao bất tuyệt nói xấu, chế nhạo “con nhỏ kia, và vị giáo sư khả kính”. Chúng tôi không ngờ ba tôi đang làm việc ở phòng kế bên, đã nghe rõ mồn một. Lúc khá lâu, ba tôi gọi:
                      - Hai đứa con: Dzoãn và Tuyết Thụy mau qua bên nầy, ba biểu.

                      Chúng tôi chưa biết ba gọi các con qua phòng tiếp bệnh nhân của ba để làm gì, nhưng hai anh em vâng dạ rõ to, và vui tươi hí hửng dắt nhau đi qua phòng ba, vừa đi anh em khúc khích tươi cười về chuyện “ông giáo và con nhỏ” ấy. Ở trong phòng làm việc của ba đã vắng khách, ba tôi cúi xuống trên quyển sổ bệnh nhân một hồi lâu. Ba còn cặm cụi làm việc, dường như ba không quan tâm về sự hiện hữu của con cái. Chúng tôi đứng xớ rớ gần cửa sổ, anh Dzoãn xích lại sát bên em, khều khều vào tay tôi, thì thầm:
                      - Chắc là ba sẽ thưởng cho anh em mình ha… vì anh và em đều có tên trong bảng danh dự tháng nầy đó em.
                      - Dạ… phải.

                      Một lúc sau, ba tôi xếp quyển sổ dày cui và cất trong hộc tủ. Ba tằng hắng vài cái, rồi ba tháo mắt kính xệ xuống ; (vì cái kính lão bị bể mất một bên tròng, khiến bên có mắt kính bị nặng, cọng kính lỏng lẽo kéo đã xệ xuống, bên trống lổng không có mắt kính, thì treo lên cao, nhẹ hẩng, coi thật tức cười). Ba tôi ngẩng lên nhìn hai con:
                      - Hai đứa ngồi xuống đó.
                      - Dạ, thưa ba.
                      - Hồi nãy có khách ở đây, nên ba không tiện kêu hai đứa vô nói chuyện. Bây giờ, hai đứa kể lại việc “ông thầy giáo” cho ba nghe rõ coi nà.

                      Hai anh em liếc nhìn nhau, tôi len lén thò tay qua cào béo vào đùi anh mấy cái, cảm thấy phập phồng, hồi hộp… không biết có chuyện gì đây! Như thế, chắc chắn là chẳng phải do anh trai em gái học giỏi, sẽ được ba “thưởng” cho rồi. Anh ấp úng:
                      - Dạ, thưa ba, con… con…
                      - Sao? Hồi nãy hai đứa ngồi bên phòng học, không lo học, mà chuyên nói xấu người thứ ba, nói xấu người vắng mặt. Hừ… Khách và ba đã nghe rõ mồn một mà. Tại sao bây giờ tụi bây lại im re, hả?
                      Anh em chúng tôi lo lắng cúi gầm đầu, anh Dzoãn lí nhí:
                      - Dạ, con… biết lỗi.
                      - Biết lỗi sao!?
                      - Dạ, … thưa ba.
                      - Vậy tốt. Con… (ba chỉ vào anh trai) đi ra ngoài chuồng vịt, bắt con vịt mái, nhớ là bắt con vịt mái thôi nghe, đem vô đây. Còn con Thụy xuống dưới bếp lấy muối, cây đèn, cái rổ, con dao, rồi đem lên đây luôn. Mau.

                      Chúng tôi vâng vâng, dạ dạ… dù có băn khoăn, bỡ ngỡ, ngạc nhiên, thắc mắc… nhưng anh em hí hửng chạy đi làm việc ba sai. Lòng tôi cảm thấy vui vẻ lạ thường, vì nghĩ ba đã bỏ qua chuyện “nói xấu”, ba tha lỗi cho “con dại… cái mang”. Ba sẽ du di xí xóa chuyện con nói hành nói tỏi, nói xấu… và ba sẽ “khao” cho hai anh em đã học giỏi, nên được ba cho ăn thịt vịt, mà ăn thịt vịt mái tơ… thì có trứng non, trứng già, có bộ lòng mềm cùng cái “dồi trường” thơm ngon bá cháy! Khi hai anh em lí lắc cười reo khệ nệ bưng các thứ vô phòng làm việc của ba, con vịt bị anh Dzoãn xách cánh, xách chân, thì nó luôn dẫy dụa kêu la inh ỏi. Thiệt là điếc con ráy quá đi! Ba ra lệnh:
                      - Con Thụy cắt cổ con vịt.
                      - Ôi, dạ… con không thể cắ… cắt… cổ vịt… Con sợ…
                      - Vậy cứ để con vịt sống như vậy, mặc kệ nó kêu la, hai đứa ngồi xuống nhổ lông (khi con vịt còn sống). Sau khi nhổ lông vịt, thả con vịt ra, cho nó chạy về chuồng, mặc nó bị trọc lóc thân thể, mà đau đớn kêu la, và bị đồng bọn vịt bu lại đấu đá, cắn xé, vì con vật không cùng chủng loại dị hợm kia. Thì tụi bây bỏ lông vịt trong cái rổ nầy, đem lông vịt đi vất ra ngoài trời, cho lông vịt bay đi mọi nơi. Sau đó, hai đứa bây đi lượm lại đầy đủ, lượm sạch lông vịt, đem về đây. Ba sẽ thưởng công cho.

                      Tôi kinh ngạc, làm sao có thể đi lượm lại đầy đủ lông vịt khô? Anh Dzoãn chưng hửng vì nghĩ rằng: “Chắc ba đã già, nên khù khờ, lù đù, lẩm cẩm rồi chăng. Vậy mà ba cũng làm ông thầy thuốc, chắc là ba sẽ cà tửng “bóp cổ, diệt” hết bệnh nhân chết queo rùi. Anh “trả treo” :
                      - Muốn nhổ lông con vịt, thì phải cắt cổ vịt, cho nó chết, và trụng nước sôi. Nếu để vịt sống mà nhổ lông, thì không thể nào! Ba nói con đem lông vịt khô ráo, thả ra ngoài trời, thì lông bị gió cuốn bay đi hết, làm sao con đi lượm lặt lại được. Ba.
                      - Không làm được như ba đã nói, hay sao?
                      - Dạ phải.
                      - À… Vậy thì… hai đứa bây đã biết có lỗi gì chưa?
                      - Lỗi… ?
                      - Vẫn không biết mình đã phạm lỗi gì à?
                      - Dạ… thưa ba không.
                      - Hừ… Hứ!... Tụi bây xúm lại a dua nói xấu người ta khi họ vắng mặt, mà không cảm thấy xấu hổ nhục nhã hay sao? Lời nói vọt ra từ cửa miệng, bay xa… ai ai cũng nghe, cũng biết; thì giống như con vịt bị trọc lóc, lõa lồ, không còn lông… đang quang quác kêu la đó. Lời nói xấu thoát ra khỏi miệng, cũng giống như những cái lông vịt khô bay đi, thì tụi bây có lượm lại được không? Hả!?
                      Câu nói như mủi tên, không nên bắn bậy. Tên đã lọt vô tai ai, thì không tài nào rút ra được. Về việc “muối” và “cây đèn”, thì... Thịt. Cá nếu không ướp muối, thì thịt, cá sẽ bị ươn, thúi. Cây đèn khi đốt lửa là cho ta ánh sáng, (tượng trưng cho sự thông minh của trí tuệ). Nếu các con không thấm nhuần nền giáo dục chu đáo, có căn bản từ gia đình, học đường, xã hội, không có đức dục và rèn luyện trí dục. Không tri thức, không có ánh sáng, thì các con sẽ hư đốn, như cá không ăn muối, như cây đèn không tỏa sáng vậy.

                      Chúng tôi cúi gầm đầu im re. Dạ, con hiểu rồi! Hai anh em đã bị ba phạt một ngày. Anh Dzoãn lớn hơn tôi, nên anh đi cuốc đất làm vườn trà. Ba “đì” tôi đi nhổ cỏ cú, cỏ chỉ, cỏ ống, cỏ tranh. Thiệt là quá nhọc nhằn, mệt muốn đứt hơi, tôi quá thất kinh vì cái tội vạ miệng “ăn mắm ăn muối, nói bậy bạ” nên ngồi “lam lũ” ở ngoài nắng. Đáng kiếp! Ôi! Cái chuyện “nhổ lông vịt” muôn đời đáng ghi nhớ ấy… là bài học quý giá hơn trăm ngàn vàng, chẳng thể quên!

                      Anh, chị, em chúng tôi đã được sự giáo dục rất mực tôn nghiêm và chu đáo của mẹ cha. Tôi học hỏi nhiều điều bổ ích từ ơn cha nghĩa mẹ sinh thành dưỡng dục. Con xin trân trọng cảm ơn cha mẹ vô vàn. Tôi nguyện muôn đời ghi nhớ, sau nầy tôi hy vọng… sẽ truyền đạt kinh nghiệm sống và hữu ích lại cho con cháu mình noi theo gương lành.
                      Lòng buồn khi bước về phố cũ
                      Con ra đi đời lãng tử mộng trăng thềm
                      Mơ hồng trần theo sông nước cảnh chiều êm
                      Con nhớ lắm khi trăng lên xóm nhỏ

                      Chân bước ngại ngần mây tím đổ
                      Chiều về khắc khoải áo hồng vương
                      Mẫu thân bên xoan đỏ phía sau vườn
                      Cha dạy: Lý. Văn. Cửu chương. Hóa. Sử cũ

                      Giờ đất khách tri ân mẹ cha trên phím chữ
                      Hiển đạt đời con, ấp ủ mẫu phụ thân
                      Vinh sang hạnh phúc bội phần
                      Công cha dưỡng dục muôn vàn khắc sâu
                      Nghĩa mẹ ngàn thuở bền lâu…
                      (THH)
                      * * *

                      Ngôi nhà ngói ba má tôi đã sinh sống cao năm bậc cấp, có ba gian hai chái, thềm sân rộng lát gạch tàu, bên một gian chái là giàn hoa thiên lý treo chiếc lồng cu gáy sơn son thiếp vàng, chúng đang gù gáy bạn đời, nghe thật hay. Lồng bên cặp cưỡng đen tuyền đang nhảy nhót, chim hót don dỏn giọng tiếng Việt, nghe líu lo. Ngoài những giờ bận rộn, ba tôi có thú tiêu khiển điền viên tao nhã, tri thức mỗi khi trà dư tửu hậu; ấy là lúc ba cùng vài bạn tri âm ngồi dưới giàn hoa thiên lý cạnh hàng hiên bên giại nứa, họ đầm ấm hiền hòa ngâm thơ, vịnh nguyệt, trồng cây kiểng, nuôi sáo, nuôi cưỡng, huấn luyện bồ câu đưa thư, và nuôi chó quý. Họ bàn thảo với nhau về kinh nghiệm nuôi, chọn chim:

                      Nào là: Chim mà có mỏ quắp, là chim hung dữ, đáng sợ . “Chim hồng chim hộc cất cánh bay cao, là nhờ lông cánh. Lông to dưới bụng, lông nhỏ trên lưng, mọc thêm một nắm, bay chẳng cao hơn, Rụng mất một nắm, bay chẳng thấp hơn”. (Hàn thi ngoại truyện).

                      Ba tôi có biệt tài nuôi chim và giàu kinh nghiệm khi huấn luyện loại chim bồ câu đưa thư, cũng như nuôi dạy chó khôn đưa tin đi xa. Trước khi muốn nuôi chim bồ câu, ba tôi tự cưa cây, bào gỗ làm một cái chuồng xinh xắn khá to lớn, chuồng sơn xanh sơn đỏ, vẽ hoa lá cành, nóc lợp ngói, có hành lang song gỗ tròn chạy chung quanh chuồng chim. Ba làm việc gì cũng khéo tay, coi thật cầu kỳ, đẹp lạ thường. Chuồng chim núp dưới bóng mát của những tàng cây rợp lá, chuồng đặt trên một cây cột cao, có rào kẽm gai ở dưới cột (đề phòng mèo rình bắt chim con). Chuồng có những “ngăn phòng” riêng biệt đóng kín, chỉ có một cửa ra vào hình tròn, mỗi “phòng chim” rộng khoảng 30cm, mỗi bề mặt của các ô cửa có tấm màn lưới mỏng treo lơ lửng.

                      1./ Chọn mua vài ba cặp bồ câu có chân đỏ, mỏ đỏ, mắt đỏ, bộ lông mịn trắng (cũng có khi chọn bồ câu lông màu nâu, màu xám). Khi tôi vãi lúa, bắp khô ra sân rộng, nhìn cảnh gia súc: gà, vịt, ngỗng, ngan… vui vẻ nhộn nhịp “tưng bừng nhậu nhẹt”, coi thật thú vị lắm. Đặc biệt ở cạnh trên bốn góc chuồng bồ câu cao, loài chim thông minh nầy được ăn thêm: đậu xanh cà hột giả dập dập, rồi nhào trộn với cám hơi nhão, (do có tẩm xíu nước, để các thứ ấy dính với nhau). Sau khi từng cặp chim bồ câu lớn lên, trở thành “có đôi có cặp”, (việc chọn và biết con chim nào là con trống, con chim nào là chim mái, cũng công phu, phải hiểu biết và có kinh nghiệm). Chim đẻ trứng, ấp trứng nở ra con. Có nhiều cách huấn luyện bồ câu đưa thư:

                      2./ Khi bồ câu đã có con, và “bồ câu nhí” mở mắt, ra ràng, ta để cho bồ câu nhí làm quen và thân thiết với ổ của mình, thì sau đó thả cặp “bồ câu cha mẹ” ra ngoài ổ.

                      3./ Kéo tấm lưới ngăn lại (cho bồ câu nhí không thể bay ra khỏi chuồng, chúng chỉ quanh quẩn ở trong tổ). Bồ câu cha mẹ sẽ đứng ở ngoài tấm lưới mắt cáo, để chúng có thể thò mỏ vô mớm mồi cho hai con nhỏ ăn, uống, dễ dàng.

                      4./ Đem nhốt một trong hai con chim nầy (bồ câu cha, hoặc bồ câu mẹ) ở một cái lồng khác. Chừa lại một con chim ở ngoài trời, Vì cha (hoặc mẹ) không được ở gần con, nên nó luôn luôn quyến luyến, nhớ thương (vợ, hoặc chồng, và con) mà chim sẽ quanh quẩn bên chuồng, bên con.

                      5./ Đem bồ câu cha đã nhốt trong lồng mới, xách lồng đi thật xa chuồng cũ sơn son thiếp vàng kia, để lồng chim ở đó một ngày đêm. Ngày hôm sau, thả con bồ câu nầy ra. Bồ câu cha (hoặc mẹ) lập tức bay về chuồng cũ, và chung thủy “tìm vợ, tìm con”. Ta sẽ thay đổi vị trí, kiên nhẫn làm lại y như thế nhiều lần (với bồ câu cha, mẹ kia).

                      6./ Từ đó, ta sẽ kéo đường dài (kéo cây số) đi một khoảng cách khá xa xa. Ví dụ trước kia khoảng cách giữa chuồng chim ở nhà, và lồng chim là 50 mét, nay bồ câu đã quen bay lui bay tới chuồng, thì tuần lễ sau, ta sẽ kéo dài khoảng cách thêm xa xa thành 100 mét. Ở góc khuất rất xa đó, ta thả bồ câu ra, cho nó tìm đường bay về tổ. Vân vân…

                      7./ Cặp bồ câu nhí không nên thả ra cùng một lúc, vì cả hai con nhí nầy khi đã được bay nhảy, thì tung tăng ngoài bầu trời thênh thang và tự do, chúng sẽ hẹn nhau bay đi xây tổ ấm “mút mùa lệ thủy”, chim bay đi… một bay không trở lại.

                      8./ Hai con nhí đã trưởng thành, (mọc đủ lông cánh) thì ta kéo tấm lưới sắt lên, cho “cha mẹ con cái” sống chung một nhà, để cha mẹ chúng huấn luyện con cái tập bay chuyền, bay bổng, và nhập đàn với bạn trong một thời gian dài.

                      9./ Cách phân ly khác: Tách bồ câu trống ra khỏi chuồng, đem một con bồ câu trống cũ nầy thả cho nó bay ra ngoài trời. Ta nhốt một con bồ câu trống xa lạ khác vô trong chuồng, cho nó ở chung với “con vợ cũ”. “Thằng chồng bồ câu cũ” đang cảm thấy mình bị phản bội, bị kẻ khác ve vãn và sẽ cướp đoạt mất vợ, nên nó điên cuồng nổi cơn ghen, cứ lẩn quẩn bên chuồng chim. Ta vẫn làm “cái sách cũ”, nghĩa là cột một cái ống trúc khô, nhẹ, nhỏ, ở cổ chân chim, sau đó nhốt con trống (hoặc mái) vô trong lồng bịt kín, đem lồng chim đi thật xa, xa hẳn chuồng. Ở địa điểm mới, ta thả bồ câu ra, nó sẽ tung cánh lên cao, liền vội vã bay về tổ ấm. Thế là thành công. Ba tôi còn bẫy chim sáo, nhồng, cưỡng… cho chim ăn ớt, ăn bắp xay, lúa… nuôi dạy chúng biết nói tiếng người. Nghe líu lo hay lắm.

                      Ba tôi còn có một “ngón nghề” tuyệt vời nữa là: cách huấn luyện nuôi dạy chó đưa thư, loại giống chó berger khôn thế nầy:

                      1./ Đại cương về cách chọn giống chó: Không chọn giống chó chấm lông ở ngay chính giữa trán, và bị chấm lọ (bất cứ màu gì) ở đuôi, thì không nuôi giống ấy. Nhưng phía trên, gần hai mắt ở cạnh lông mày của chó, nếu có hai chấm tròn, lông xoáy (vàng, đen, hoặc trắng… khác với màu lông của thân thể chó), là giống tốt “đốm đầu thì nuôi, nhưng đốm ở đuôi thì thịt”. Đặc điểm cần chọn của giống chó tốt: Đuôi chó luôn ở bên trái. Lưỡi chó có đốm đen dài. Bốn chân chó cứng cáp trên thân hình chó vạm vỡ. Có nghĩa là ngực nở to, nhưng phần bụng phải thon gọn. Hai tai chó luôn đứng thẳng, chó thính tai nghe rõ (tai chó không cụp qua một bên). Muốn hai lỗ tai chó thẳng đứng và tinh khôn, (vì hai tai chó đứng thẳng, thì nó nghe rất thính) một tuần vài lần, ta nên cho chó ăn trứng gà tươi trộn phổi bò.

                      2./ Chọn giống chó: Nên chọn chó mõm dài. “bạch cẩu hoàng đầu lưng bối nguyệt” = Thân có lông trắng, đầu lông vàng, lưng chó có lông như hình trăng rằm, mắt to đen láy, mũi hồng, lưỡi dài có đốm đen, tứ túc huyền đề. Giống chó nầy đặc biệt rất quý hiếm, ít thấy.

                      3./ Thân chó lông màu đen, bốn chân lông màu trắng, giống như ở chân chó mang đôi vớ trắng (tất), gọi là = “hắc cẩu tứ bạch”.
                      - Toàn thân chó có màu lông vàng óng ả, gọi là = “hoàng cẩu”.
                      - Lông xoáy ở trên lưng chó mọc xuôi từ đầu chạy về đầu đuôi, gọi là = “Bối kiếm cẩu”.

                      a./ Ngoài bốn chân chó, có thêm bốn cái móng đeo nhỏ lủng lẳng ở mỗi chân, gọi là = “Tứ túc huyền đề”.
                      b./ Ngoài bốn chân chó, có thêm hai đeo nhỏ ở mỗi chân trước, và một đeo ở mỗi chân sau. Gọi là = “Lục hợp cẩu”.
                      c./ Ngoài bốn chân chó, mỗi chân chó có thêm hai móng đeo nhỏ. Có 8 móng đeo ở bốn chân, gọi là = “bát long cẩu”.
                      d./ “Lưỡng cẩu” = là bốn chân chó chỉ có hai móng đeo ở hai chân.

                      4./ Ta thân thiện với “chó nhí” từ khi chúng còn nhỏ. – Biết tính nết chó – Đặt tên chó & gọi tên nó mỗi ngày nhiều lần, cho chó quen biết tên của nó - Huấn luyện chó nhí từ việc nhỏ nhất, ví dụ: thường xuyên dạy chó đứng – ngồi – nằm - bắt tay mình – dạy chó ăn, uống khi nào được cho phép – cùng chó đá banh - ném banh, ném lon ra xa, ta và chó đi nhặt về, nhiều lần. Sau đó để chó tự đi nhặt về đưa cho mình. Mỗi lần chó “làm việc giỏi”, ta thưởng cho chó món ăn mà nó ưa thích.

                      5./ Sau đó ta dần dần huấn luyện thêm những việc khó hơn, ví dụ: dạy chó giữ nhà. Chó biết phân biệt người thân và khách lạ, (chó thông minh, chính vì thế mà chó ưa sủa rần trời, mỗi khi có người lạ, hoặc nhà có kẻ trộm rình). Dạy chó phân biệt gia súc của nhà mình nuôi, khác với gia súc của hàng xóm. Dẫn chó đi săn bắt: chuột, chim, gà rừng, vân vân… Dạy chó đi nhận thư ở nhà nầy đến nhà khác: Ta cùng chó đi gửi thư ở bưu điện nhiều lần, cho chó quen hơi người lạ ấy, ta gọi tên của ông ấy hoài, cho chó ngửi mùi người ấy, sẽ quen hơi. Nó biết nơi chỗ cần đến. Sau đó, một mình ta cột thư ở cổ chó, và dẫn chó đến cho người sẽ nhận thư (người mà chó quen hơi biết mặt trước kia), ta vỗ vỗ vào đầu chó, thân thiện vuốt ve và gọi tên chó: “To Bi… hãy để ông (tên X…) mở túi xách ở cổ ra, nhận thư”. Nhiều lần như thế, tất nhiên con chó thông minh, tinh khôn, và hiểu ra ngay.
                      Ba tôi kiên nhẫn dạy chó, chim (tận tụy, giống như ba tôi đã kiên cường trong việc chữa trị bệnh nhân), nên ba tôi rất thành công trong việc nuôi dạy chim & chó.
                      ***

                      Tình Hoài Hương

                      & mời click link để nghe tựa đề một ca khúc "Đôi chân trần", tiếng hát bạt ngàn vang vọng truyền cảm, giọng người ca nhạc sĩ Y Moan hay & lạ vùng Tây Nguyên :


                      https://www.youtube.com/watch?v=NWHyR-TZGoQ
                      Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-01-2017, 01:41 AM.
                      Bút trần nào tả được lưu luyến!
                      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                      Tình Hoài Hương

                      Comment


                      • Ân Tình Long Lanh: Tom Mitchell



                        Ân Tình Long Lanh: Tom Mitchell


                        Mỗi ngày, khi gió lao xao rì rào nghiêng mình đong đưa trên những rặng dừa, mây in bóng chao lượn ven bờ sông Hàn lúc hoàng hôn chớm buông mình xuống thành phố Đà Nẵng, nơi có dãy Ngũ Hoành Sơn uy linh hùng vĩ và tuyệt đẹp. Lúc trăng non xanh xao bắt đầu len lén e lệ lú ra khỏi hàng phi lao, thì Hoa chậm rãi bước lên chiếc phà to màu trắng, nàng thẩn thờ uể oải lê đôi chân mệt mỏi, rã rời vô nơi làm việc. Làm việc chẳng được bao lâu, mấy tuần sau Hoa nghỉ việc ở Beach Club, vì biển xao động xô sóng ngày đêm đơn điệu luôn ì ầm vỗ vào ghềnh đá rào rạo, khiến Hoa rất buồn đau da diết không thể nào quên người tình! Phải! Hoa không thể nào quên Gary. Làm sao có thể quên dễ dàng một hình bóng thiết tha đã khắc sâu vào tim mình chứ!

                        Thêm bạn gái khác rủ Hoa đi làm ở câu lạc bộ của Hải Quân Kem Tiên Sa. Cũng thế, khi Hoa vào xin việc là được nhận liền. Nhưng họ không cho chạy bàn, mà để Hoa làm Supevisors. Hoa cũng chịu, dù việc đó không kiếm ra nhiều tiền. Đêm đầu tiên Hoa buồn lắm, mặc dầu câu lạc bộ có độ năm chục người “hầu bàn” đang lăng xăng rối rít nhanh nhẹn đi ra đi vô lo chạy bàn. Lính tráng Mỹ vào uống rượu đông đúc cả mấy ngàn người tíu tít reo hò, cười vui ồn ào.

                        Nhưng trong lòng Hoa vẫn trống vắng cô đơn, lẻ loi và buồn khủng khiếp, đầu óc Hoa lúc nào cũng quay cuồng với hình ảnh Gary đang lấp ló ẩn hiện mờ nhòa trước mắt, khiến Hoa muốn chết thôi! Đêm thứ hai, do mãi loay hoay bận rộn nhiều công việc, hầu như Hoa tạm quên Gary, và cảm thấy đỡ buồn phiền tí xíu, do tối hôm đó trong câu lạc bộ có Show, nên khách khứa càng nhộn nhịp đông đúc ồn ào lắm. Ông sếp gọi Hoa đến, hỏi:
                        - Có muốn làm thêm kiếm tiền không? Nghĩa là ngoài công việc cô điều khiển giàn nhân viên chạy bàn ở đây, lúc nào cần, cô sẽ chạy thêm ít bàn… vì khách đông, các chị em làm không xuể.
                        - Có chứ.
                        - Chỉ làm vài ba bàn thôi, cô còn để thì giờ trông coi công việc chính của mình.

                        Hoa OK liền, Hoa tươi tắn đi lui đi tới, loay hoay bưng rượu cho vài ba bàn gì đó, chưa đầy một giờ, thì có bàn số 4, gồm sáu bảy anh Hải Quân đã ung dung ngồi đó chờ. Cô tiếp tân nầy, cô tiếp tân nọ… cô nào đi đến bàn ấy để lo việc tiếp khách, thì họ cũng không chịu cho mấy cô ấy phục vụ. Họ chỉ đòi cho bằng được Hoa phải đến tiếp rượu độc quyền ở bàn số 4 mà thôi. Sếp liền bảo Hoa hãy đến bàn đó làm việc. Hoa gật đầu vui tươi bưng rượu đến phục vụ bảy thanh niên ấy.

                        Mẹ ơi! Mỗi khay rượu bưng đến bàn số 4, Hoa được thưởng 20 đồng dollars mới toanh thơm mùi giấy từ tiền tip. Họ uống rượu, vui vẻ chuyện trò. Thỉnh thoảng họ vỗ vai vỗ vế nhau cười sảng khoái, xù xì chỉ chỏ Hoa, họ lại thúc cùi chỏ, bá vai vít cổ, nháy mắt đưa tình chọc ghẹo một thanh niên trẻ ngồi chung. Hoa nhận tiền tới bốn năm lần như thế. Ồ, một việc mà ít cô tiếp viên nào có thể có niềm vinh dự, nhất là một người còn “bập bẹ mới toanh” như Hoa vừa chập chững thập thò, lấp ló nơi ngưỡng cửa bar để “vào nghề”, và làm việc chẳng có chút kinh nghiệm, thì hiếm có chuyện tiền tip hậu hỉ dồi dào xảy ra!

                        Hoa quên hết mọi sự buồn bã chán chường nhớ nhung người tình cũ, mà vui vẻ hân hoan mừng rỡ quá đi! Lần nào cũng vậy, Hoa nhận tiền bạc rủng rỉnh từ tay một thanh niên trẻ trung và đẹp trai. Thế rồi, Hoa nhận tiền tip khá hậu hỉ được bốn năm hôm như thế, là hết. Vài tuần sau, Hoa không thấy “người khách quý” đến ngồi chung bàn với các bạn nữa. Tự dưng trong lòng Hoa có ý băn khoăn, thấp thỏm, thắc mắc, hồi hộp, đi ra ngó đi vô ngóng, Hoa áy náy xao xuyến đợi trông chàng. Không thể cưỡng chống lại sự tò mò và bâng khuâng, Hoa đành “làm mặt mo” tần ngần lò mò đi tới bàn số 4, mạnh dạn hỏi thăm mấy bạn kia:
                        - Tôi không thấy anh đẹp trai giống tài tử Elvis Presley!? Anh đó đâu rồi, hở?

                        Cả bọn thanh niên Mỹ nhìn Hoa, nheo mắt gật gù, cười rống lên:
                        - Ô, cái thằng si tình em đó hở? nó hết tiền tip cho em rồi, nên nó không dám vác mặt vào đây.
                        Nghe thế, Hoa cảm thấy tội nghiệp anh ta quá, liền vui vẻ bảo mấy bạn của chàng:
                        - Làm ơn nói anh ấy đến đây, tôi trả tiền tip lại cho, anh ta sẽ cùng bạn uống rượu cho vui. Không sao.

                        Ai ngờ họ làm thiệt. Thế là vài tuần sau anh ấy quay trở lại bar, khi thấy người ấy, Hoa lật đật móc ví trả anh ta hết số tiền tip đã nhận. Đôi mắt xanh lam của thanh niên ấy tròn xoe, tỏ ra quá ngạc nhiên ngẩn ngơ nhìn Hoa. Hoa mỉm cười quay về bàn tiếp tân làm việc. Sau đấy mỗi đêm, Tom đều có mặt nơi đây cho tới ngày lãnh lương lần tiếp của kỳ sau. Thỉnh thoảng Tom vui vẻ lịch sự gửi Hoa ít tiền tip, có lần Hoa nhận, cũng có lần Hoa ái ngại lắc đầu không nhận, hai người nhìn nhau nháy mắt nheo mày thông cảm, trao nhau nụ cười trìu mến đầy thiện cảm, lòng lưu luyến rộn ràng khúc hoan ca, mà họ chẳng cân nhắc, áy náy, thắc mắc thêm điều gì.

                        Một hôm, khi hoàng hôn vừa buông bức màn đêm, trăng tròn như chiếc dĩa vàng treo trên đầu ngọn núi đang dịu dàng tỏa sáng, quán bar còn vắng thưa người vào ra, thì anh ấy đến bên Hoa nở nụ cười rạng rỡ, nhưng pha chút ngập ngừng, ngại ngùng, dường như bẽn lẽn, anh ấy rụt rè lúng túng làm quen Hoa:
                        - Anh tên là: Tom Mitchell.
                        - Dạ, em tên là Thu Huyền.
                        - Anh… born and grove up New Castle Pa, anh là con thứ tư trong gia đình Mỹ (có năm anh chị em). Sau khi học ở Maryland, anh tốt nghiệp tại trường đại học Hải Quân Mỹ: US Navy Annapolic (Annapolic Naval Academy).
                        - Anh rất giỏi.
                        - Anh, anh rất… mến em. Nếu thành thật hơn thì… I love you.
                        - Em cũng… tương tự như anh.
                        - Anh cảm ơn em đã tạo điều kiện thuận tiện cho anh tỏ tình, chứ anh ngượng ngùng nhút nhát lắm. I live forever in my memories of love. But… there is still hope of a tomorrow (anh sống trong nỗi thương nhớ triền miên. Nhưng vẫn hy vọng ở ngày mai).
                        - Vậy sao?
                        - Anh thương em, yêu thiệt, mà không dám nói. I can hardly express my self, (anh không sao nói được điều muốn thổ lộ).
                        - Tại sao?
                        - Bởi vì anh rất nghèo, I am poor in money, but rich in youth, future and in hope: Try to understand my feelings. (Anh nghèo tiền, nhưng giàu tuổi trẻ, tương lai và hy vọng: Hãy hiểu cho cảm nghĩ của anh). Anh không tiền, không địa vị… anh lại là người Mỹ nữa. Biết thế, thật tình là anh không dám gì hết! Em ạ.
                        - Oh! You don’t say, but your drooping eyes and face tells it (ồ, anh không nói nhưng ánh mắt ủ rũ và nét mặt anh nói rồi).

                        Đôi mắt Tom trong sáng đượm vẻ trìu mến mong chờ nhìn Hoa âu yếm. Hoa cảm động xao xuyến trước lời Tom nói. Thoạt nghe, Hoa đã cảm thấy Tom thành thật, khiêm tốn, đơn sơ, hầu như đối với Hoa thì Tom có chút thân thiện, gần gũi, chân tình đầy cảm thông phận nghèo, và quá khứ buồn đau đã qua giống như hoàn cảnh của mình. Thế nên Hoa vui, niềm vui bất chợt lâng lâng, đằm thắm, nhẹ nhàng len lõi vào tâm tư: một ý tưởng êm ái rung động mơ hồ, nhưng thư thái, có hấp lực truyền cảm và hấp dẫn trong trạng thái an lành.

                        Suốt buổi tối đông khách nầy, khi thì Tom ngồi cùng bàn vui với bạn bè, khi thì Tom đứng ở quầy tiếp tân nói chuyện ôn tồn lịch sự hồn nhiên bên Hoa. Sau giờ Hoa làm việc xong, Tom lưỡng lự, e dè, rù rì, thủ thỉ rủ Hoa đi dạo biển. Hoa không do dự gật đầu lia lịa nhận lời liền. Thế là hai người vui tươi hớn hở đầm ấm lên xe Jeep đi một đoạn ngắn, rồi cùng nhau xuống xe, Tom thích thú ân cần nắm tay Hoa dung dăng đi dạo biển Tiên Sa. Họ nói chuyện bình thường về xứ mình, xứ người, chuyện cha mẹ, anh chị em đôi bên, cả chuyện hai cô cậu còn độc thân và công việc làm của mỗi người ra sao.
                        Nhìn lên trời đã khuya, Tom bồn chồn pha chút dè dặt, hỏi nhỏ:
                        - Em có cho phép anh đưa em về ở chỗ anh đang làm việc một chút không?
                        Hoa ngúc đầu liền, khi thoải mái ngồi trên xe hơi, Tom chần chừ, băn khoăn, do dự, tỏ ý không muốn đưa Hoa đến nơi đó. Hoa e ấp liếc nhìn Tom tủm tỉm cười:
                        - Em muốn đến xem chỗ ấy ra sao, cho biết thôi mà.
                        Tom bảo:
                        - Nhưng bây giờ đóng cửa rồi, không còn ai ở đó hết.
                        - Càng tốt.
                        - Tại sao?

                        Tom thật hiền lành ngây thơ và ngoan, anh chẳng hiểu tí gì về lời nói bóng gió của mình. Khi hai người về tới nơi muốn đến, ấy là khoảng cuối năm 1970, Tom qùy dưới chân Hoa để cầu hôn. Lúc đó Hoa nói tiếng Anh tiếng U còn ngập ngừng bập bẹ, ấp a ấp úng, nàng vẫn “hiên ngang”, nhưng âu yếm nhìn Tom say đắm; mà ra ba điều kiện (bằng “tiếng bồi”) với Tom:
                        - You marry me… you love my parents, my family.
                        - You marry me only me. No more woman.
                        - And one baby, two baby… OK. But no three baby, if three baby… I kill.

                        Có nghĩa là ý Hoa muốn nói: (“anh lấy tôi, thì anh phải lo cho cha mẹ, gia đình tôi. Anh lấy tôi thì anh phải thủy chung, anh không có người đàn bà nào khác. Và chúng ta chỉ có một, hai đứa con thôi. Nếu thêm đứa con thứ ba, tôi sẽ phá thai). Nhưng Hoa không biết nói chữ “phá thai” nên nàng nói: “giết”.

                        Thế mà Tom nghe, đã hiểu và vui vẻ tươi cười ngúc đầu lia lịa, vì Tom hiểu hết những gì Hoa muốn “truyền đạt thông tin tình yêu” từ trái tím nầy đánh thông điệp qua trái tim kia. Đúng là… Tình yêu say đắm mặn nồng có khác! Nó đã vượt qua tất cả biên giới vô hình hoặc hữu hình! Tom e dè xin phép Hoa, và trang trọng dìu eo ếch Hoa vào phòng… Đến đây, chắc có lẽ ai ai cũng hiểu chuyện gì đã xảy ra trong đêm đầu tiên chỉ có hai người: nam nữ cùng chung một phòng riêng biệt, đằm thắm yêu thương mà rất đỗi nồng nàn tuyệt vời đó rồi…

                        Sáng hôm sau Tom thì thầm xin lỗi khi bắt buộc phải bỏ Hoa nằm co ro cúm rúm sau xe jeep, và đậy tấm drap cho phủ kín người Hoa, Tom lái xe đi qua cổng để che mắt anh lính gác, Tom đưa Hoa ra bến phà trở về Đà Nẵng...

                        Suốt mấy ngày sau, Hoa như tỉnh như mê trong sự bần thần mệt mỏi, choáng váng, và cô đơn tột cùng. Hoa không khóc, không nuối tiếc cuộc tình đẹp mà quá mong manh, như tơ trời lay lắc đong đưa dật dờ trước cơn gió lùa… Lòng Hoa rấm rứt dày vò, buồn đau và chán chường kỳ lạ. Hoa chỉ muốn chết. Suy đi tính lại thật sự Hoa vẫn ước ao: “làm gì thì làm, miễn sao mình đi qua được Mỹ, để gặp lại Gary yêu dấu xưa. Thôi thì, cứ để cho con tạo xoay vần, mình hãy có con với Tom, rồi anh ta phải cưới mình và mang về Mỹ. Khi đó mình sẽ ly dị Tom, sẽ… tìm đến với người tình cũ. Chỉ có cách đó, mới có hy vọng trùng phùng với Gary mà thôi”.
                        ***

                        Tom Mitchell đến Việt Nam làm việc tại Hải Quân Đà Nẵng, từ June năm 1966. Thế rồi ngày tháng trôi qua… đầu tháng Tư, Tom có lệnh giải ngủ. Trước đó ít ngày, Tom đưa Hoa đi làm hôn thú, nhưng họ không làm được, bởi vì anh phải ra khỏi lính, và nếu muốn “hôn thú hôn thiết, hôn hít” gì… thì Tom sẽ từ Mỹ trở lại Việt Nam, mới có thể làm giấy tờ hôn thú được.

                        Trong bộ quân phục Hải-quân trắng toát, thanh nhã mà kiêu sa oai hùng khi Tom Mitchell khoát lên thân thể cường tráng, cao ráo và đẹp trai ấy, ai ai nhìn chàng cũng cảm thấy ưu ái mến thích làm sao. Nhưng Tom chẳng cần biết điều đó, lòng Tom đang khắc khoải, lo âu, muộn phiền, sầu lắng biết bao, vì Hoa đã có bầu ba tháng, thì đầu tháng Tư 1970, Tom đúng thời hạn giải ngũ, buộc lòng anh phải trở về Mỹ. Tom buồn bã vô cùng lúc nói lời chia tay với vợ:
                        - I am so upset that, I can hardly express my self: We part with heavy hearts, disturb (anh nghẹn ngào cảm động không sao nói được những điều muốn nói: chúng ta chia tay lòng nặng trĩu, bứt rứt).

                        Hoa đau đớn tiễn Tom tới phi trường Đà Nẵng để lên máy bay, ấy là một ngày hai người yêu nhau cảm thấy não nề, dài lê thê từng chuỗi tuyệt vọng nối tiếp buồn thảm nhất. Từng bước từng bước rã rời, ngập ngừng uể oải lê chân lên cầu thang, nhưng Tom vẫn ngoái cổ lại nhìn Hoa riết, mà dấu những giọt nước mắt vô ống tay áo mình. Bởi lẽ nếu cấp chỉ huy nhìn thấy Tom khóc, thì Tom sẽ bị phạt nặng. Tuy giải ngũ, nhưng Tom phải về Washington DC nhận giấy giải ngũ, lúc đó Tom mới thay ra bộ quân phục được. Đúng là một kỷ luật đanh thép gắt gao, và lòng phục tùng sắt đá đầy cung cách và nhân cách tuyệt vời trong quân đội Mỹ.

                        Tiễn Tom đi rồi, Hoa ngồi sau lưng xe Honda, vùi đầu vô lưng ông Thọ mà khóc ngất, lệ rơi ướt lưng áo bạn. Hoa về tới nhà mà Tom đã thuê cho hai vợ chồng sống chung, thì trời choạng vạng tối, Hoa cảm thấy trống vắng buồn bã lạ thường, bụng mang dạ chửa đói cồn cào, rất mệt. Muốn lả người, nhưng Hoa chẳng còn tiền mua thức ăn, dù khi ở trong phi trường Tom móc túi để lại thêm cho Hoa $200 nữa. Hoa cất trong xách tay, nhưng Hoa khóc và bị ngất xỉu, nên ai đó đã lấy cắp hết một mớ kha khá tiền cũ, cộng với tiền Tom mới đưa.
                        Đang lăng lộn trên giường, Hoa nghe tiếng Trinh gọi:
                        - Huyền ơi, Huyền hỡi… Mi mô rồi hỉ?

                        Hoa uể oải ngồi dậy, xỏ dép, và đi mở cửa cho bạn vào nhà. Nhìn sắc mặt Hoa bất thần, tái nhợt, héo hon, Trinh thất kinh hồn vía, nàng vội hỏi cớ sự, Hoa ủ rũ bày tỏ hết nỗi niềm lo sợ về tương lai khi mình đã mang thai, không lâu Hoa phải nghỉ việc. Hoa sợ cha mạ đi tìm gặp, nếu cha không giết, thì mạ cũng đánh mình chết. Hoa kể chuyện Tom, chuyện mất tiền, vân vân… khiến Trinh đem lòng thương xót, nàng đã thu dọn đồ đạc của bạn và đưa Hoa về nhà nuôi, mà Trinh nói dối chồng là Trinh thuê Hoa giúp việc cho mình. Chồng Trinh là Ron Stoner khó tính, dân Không-quân thuộc về ngành Trực Thăng phản lực UH1, Ron là một trong những phi công đầu tiên bay loại này với số giờ bay trên 4560 giờ, là người tốt nghiệp huấn luyện viên tại Fort Rocker, Alabama. Ron cũng là bạn đồng khóa của Joseph, Tom, Mike và Gary.

                        Thế là Hoa được sống với bạn, ban ngày Hoa giặt ủi dọn dẹp cơm nước (vì bạn có chồng Mỹ nhưng cũng nghèo, nên Trinh vẫn đi làm), mỗi buổi tối Trinh mang thức ăn còn nguyên (nàng xin ở trong sở), đem về nhà, hai đứa cùng chuyện trò vui vẻ và thong thả ngồi ăn. Nhưng Hoa vui được mấy tuần như thế thôi, vì nhà Trinh ở gần nách phi trường, lúc nào Hoa cũng nghe tiếng phi cơ gầm rú inh ỏi long trời lở đất, Hoa càng nhớ Tom lúc Tom ngoái cổ nhìn Hoa đang đứng ở phòng tiễn biệt trên phi trường Tân Sơn Nhứt. Thế là Hoa lặng lẽ buồn phiền và nhớ Tom khủng khiếp, chẳng muốn ăn uống gì, khiến Trinh lo lắng sợ Hoa hư thai, nên khuyên nhủ:
                        - Hãy ăn uống điều độ, cố gắng chịu đựng những ngày đói kém, mọi việc chóng qua, rồi ngày vui sẽ đến. Tao tìm mọi cách để đùm bọc mi, tới đâu thì hay tới đó, mi đừng buồn phiền làm chi, mà có hại tới thai nhi. Tao nghĩ Tom đã hứa khi anh ta xin được việc làm, chắc chắn Tom qua Việt Nam cưới mi! Tao tin. Nè, sao mi không viết thư cho Tom, nhờ địa chỉ của Ron Stoner mà liên lạc với Tom liền đi.

                        Ồ… Một ý kiến tuyệt vời mà không nhớ ra, Hoa chỉ lo khóc. Hoa liền chồm dậy viết thư cho Tom, và nhờ Ron Stoner chuyển đi. Hơn một tuần sau thì Hoa nhận được thư hồi âm của Tom. Ôi đúng là nhờ máy bay trao tin thư nhanh tuyệt vời (do Ron lái tàu bay giống như gửi Fax vậy mà)! Hoa mừng rỡ không bút mực nào tả xiết, nàng cứ ấp thư trên ngực, mà cười, mà khóc trong nhớ nhung ngập lòng. Thư Tom báo là Tom rất lo lắng: do đã mấy lần Tom gửi thư cho Hoa ở địa chỉ nhà trọ cũ, đã bị trả về. Đồng thời tại Mỹ, Tom hứa là sẽ xin việc làm, và trở qua Việt Nam ngay.

                        Thế là nhờ địa chỉ của Ron mà hai người liên lạc mật thiết với nhau chặt chẽ, trong đó có câu Tom ghi: “Anh cô đơn tột cùng. Nếu đời anh không có em, thì anh sẽ chết mất”. Tuy biết thế, nhưng trong lòng Hoa cảm thấy tuyệt vọng do hoàn cảnh riêng mình và ngoại cảnh: Chung quanh Hoa có nhiều cô gái có bồ là dân Mỹ… đứa thì có vài thằng con lai, đứa đang mang bầu năm bảy tháng, có đứa vớ phải “thằng chồng” giàu xụ, cũng có đứa có bồ nghèo mạt kiếp. Nào có thấy có mấy ai “ung dung đi đứng Mỹ” miết gì! Các bạn xưa đa số trề môi dèm pha:
                        - Lo sinh đẻ, đi làm kiếm tiền nuôi con. Đừng ngồi đó khóc uổng nước mắt. Sức mấy hắn trở lại.
                        Có đứa còn ca vọng cổ:
                        - Anh ơi! anh nỡ lạnh lùng ra đi mà không thương em làm chi… Anh đi về Mỹ Tho Mỹ á… xa xôi, mà à há có con cho em ứ ớ ờ… em bồng!
                        Thu đi để lại lá vàng
                        Anh đi để lại cho nàng đứa con.

                        Ôi! thật ngao ngán đoạn trường và da diết buồn đau thê thiết! Sự thật như thế, nói chung chung thì đa số những chàng trai Mỹ đó ra đi… ít có người quay trở lại Việt Nam cưới vợ! Thế là Hoa lại chua xót ủ rũ, ray rứt, dày vò, khóc sưng mắt, cho tới lúc Trinh đi làm về lên lầu tắm rửa và làm nhiệm vụ với chồng xong, thì Trinh xuống nằm bên Hoa tế nhị vỗ về an ủi với bài hát: “Ngày chàng xa vắng… em chẳng trang điểm đợi chờ” của Y Vân. Trinh ca giọng Bắc rất hay.

                        Từng ngày từng tháng chậm chạp buồn bã lặng lẽ trôi qua… trong đời Hoa. Hoa ở nhà Trinh đến tháng thứ năm, thì bào thai hơn sáu bảy tháng lớn lên vượt mặt Hoa, lúc đó Ron mới sửng sốt té ngữa ra… biết chuyện Hoa là bạn Trinh đã mang thai, chứ Hoa không phải là người ở giúp “việc nhà việc nước” gì cả!!! Dẫu sao, khi anh ở nhà nghỉ ngơi, Ron không thể tự nhiên thoải mái chút nào, vì có bà bầu lù lù đi lui đi tới âm thầm lặng lẽ dọn dẹp. Ron lại phải giữ kẽ vì không thể tự nhiên, phiền phức và bất tiện, tốn kém nhiều việc không đáng kể, nhưng Ron chỉ bực bội nhất là sự mất tự do khi chàng muốn âu yếm nồng nàn với vợ, cũng không tiện! Chẳng thể vui. Thỉnh thoảng Ron nho nhỏ cằn nhằn đay nghiến vợ. Trinh vì thương cảm bạn, nên cúi đầu nín lặng, thật tội Trinh vô cùng. Hoa đang lo lắng suy nghĩ điên đầu: nên đi đâu mà “núp lén” mọi người, và cha mạ em út bây giờ!?
                        ***

                        Sau những thủ tục giải ngũ xong xuôi, ngày ngày trong suốt ba tháng ròng rã mỗi sáng ở Mỹ, Tom đi xin việc làm khắp nơi, đều bị từ chối. Sáng nào Tom cũng ra thùng thư gửi thư và chờ nhận thư Hoa, nếu không có thư vợ, Tom buồn biết bao! Tom muốn về Việt Nam lắm, nhưng không có tiền mua vé máy bay. Tom cảm thấy rất buồn, chỉ muốn tự tử, vì mình không thể đi xin việc, Tom sầu não buồn phiền ủ rũ cứ nằm lì ở nhà, ôm cái máy hát nghe bài: “Hey There Lonely- Girl” của Eddie Holman. Khiến bà mẹ thông cảm rất thương Tom, bà đã lưu ý và “điều tra” nguyên cớ tại sao con trai bâng khuâng phiền muộn. Biết mẹ yêu mình nhiều nên Tom tỉ tê tâm sự… anh xin mẹ dấu nhẹm ba Tom, vì ông bố rất khó tính. Bà mẹ nghe con trút hết nỗi niềm tâm sự, liền hỏi:
                        - Sao con không đem cô ấy cùng về Mỹ?
                        - Luật lệ của hai quốc gia khác hẳn nhau, không dễ dàng qua đây đâu, mẹ à.
                        - Vậy con nên quên cô ấy. Con tìm một cô gái khác tại Mỹ. Rồi cô kia cũng sẽ quên con mà đi lấy chồng.

                        Nghe vậy, Tom quá thất vọng buồn phiền sầu thảm dường bao! Mấy ngày liền Tom đóng kín cửa nằm im trong phòng, không thiết ăn uống, khiến bà mẹ áy náy lo âu và càng thương con hơn. Bà gọi con dậy, bắt con phải đi ăn uống. Bà ngồi bên cặn kẽ hỏi:
                        - Nếu con đi Việt Nam thì tốn bao nhiêu tiền?
                        - Vé máy bay qua về của con, và cô ấy, cộng với tiền làm giấy tờ, tốn khoảng $2,000.
                        Bà mẹ buồn buồn lắc đầu tắc lưỡi:
                        - Ôi! Số tiền rất lớn. Con biết đấy, nhà mình quá nghèo, ba con đi làm chỉ vừa đủ nuôi chúng ta. Gia tài mẹ chỉ có $1,300. Thế tiền lương mấy năm con làm ở Navy, còn đồng nào không?
                        - Không mẹ à.
                        Bà ôm Tom vào lòng hai khoé mắt bà rưng rưng, hai mẹ con nhìn nhau nghẹn ngào:
                        - Nếu con đi Việt Nam đưa cô ấy về đây làm vợ, con có hứa với mẹ là: con sống với cô ấy trọn đời không?
                        - Trong đời con nếu không có Huyền, con sẽ không sống nỗi, thì làm sao con xa cô ấy được, hở mẹ!?
                        - Con à! Khi yêu thương thì ai cũng nói thế. Nhưng lúc vô vòng rồi, sẽ có nhiều phức tạp, rắc rối.
                        - Nếu cô ấy bỏ con, con chịu thua. Phần con, con hứa yêu cô ấy trọn đời. Mẹ biết tính con mà.

                        Thế là bà mẹ vất hết tất cả công việc, bà lo đi vay mượn bạn thêm tiền, để đưa cho Tom $2,000. Tom cảm động ứa nước mắt ôm chầm mẹ, anh ngỏ lời cám ơn và biết ơn mẹ. Tom vui mừng sửa soạn đi Việt Nam. Chẳng hiểu sao trước ngày Tom đi, ba anh biết được, ông tức giận lôi Tom ra “dần, đánh anh một trận tơi tả”. Tom đứng yên cúi đầu chịu trận, cứ để cho ba đánh, không hề bất mãn hay chống cự. Bà mẹ đau lòng thương cảm con, đã xông vô can gián. Cả nhà ầm ỉ ồn ào náo loạn, thì ông mệt mỏi ngừng đánh Tom, nhưng ba quyết liệt đòi từ bỏ chàng. Sáng hôm sau Tom xách va ly đi Việt Nam.

                        Tom đã gửi thư báo trước cho Hoa rõ: ngày 10 tháng 7 năm 1970 anh sẽ trở lại Việt Nam. Lúc nhận thư, Hoa mừng rỡ hét to như người điên. Vẫn nửa tỉnh nửa mê chưa tin ở mắt mình, Hoa nhờ Trinh đọc đi đọc lại lá thư Tom khoảng chục lần. Thế rồi từng giây phút hồi hộp nôn nóng khắc khoải chen lẫn lo âu băn khoăn ấy đã đến, khi họ gặp lại người yêu dấu! Ôi ngày hạnh phúc tuyệt vời đang rung lên từng đường tơ kẽ tóc… Khi Tom & Hoa mắt nhìn mắt môi tìm môi, họ bộc lộ nỗi niềm nhớ nhung mặn nồng dìu dặt trao gửi, mà nhịp tim rung lên bần bật. Tom âu yến ôm vợ vào lòng hân hoan xoa xoa nựng nịu cái bụng bầu xinh xinh. Không có bút mực nào có thể chân thật, linh động, mà diễn tả lại đầy đủ sự trung thực, chính xác về cái ngày hạnh phúc tương phùng, của hai người ở hai phương trời cách biệt xa xôi từ nửa quả địa cầu, nay sung sướng hội ngộ tuyệt vời khi gặp nhau. Hạnh phúc thay!

                        Hoa cứ tưởng cuộc sống của mình bình lặng êm đềm trôi, như nước chảy qua dưới cầu, ai ngờ khi bụng Hoa đã lùm lùm phải trốn ở trong nhà, (như đã nói) suốt bốn năm tháng trời, thì cha cùng em trai là Chiến (lúc ấy cha ở binh chủng Pháo Binh, Tiểu-đòan 22 đóng tại Tam Kỳ) cha xin nghỉ phép, (hoặc có giờ nghỉ cuối tuần), họ lặn lội đi tìm Hoa khắp mọi nơi, vì mấy tháng vắng bặt không có tin tức của Hoa, họ lo sợ Hoa bị đau ốm nặng, hoặc bị giết chết.

                        Rồi một ngày kia, chẳng hiểu trời xui đất khiến sao… một hôm Hoa đang lang thang ở ngoài chợ Hàn, thì bị cha và em Chiến bắt được. Nhìn nét mặt cha đau đớn và hai hàm răng nghiến lại bấy giờ, Hoa biết là cha rất đau khổ buồn phiền lắm. Cha giữ thể diện không muốn người ngoài nhìn ngó xì xào, nên cha bình tĩnh điềm đạm không nói to tiếng, chỉ nghiến răng im lặng, lầm lì lôi Hoa lên xe trở về Tam Kỳ. Cha chỉ nói vắn tắt:
                        - Đi về nhà mau.

                        Trên xe, Hoa ngồi im giữa cha và em Chiến từ Đà Nẵng về nhà ở Tam Kỳ không xa lắm. Suốt buổi không ai nói với ai lời nào. Họ chờ đến lúc trời tối mịt, mới để cho Hoa vô nhà. Cả nhà chợt mừng rỡ gặp nhau chốc lát, nhưng khi hiểu ra cớ sự, thì nhà trên nhà dưới cửa đóng then cài, Hoa bị mạ vừa khóc vừa lấy roi đánh vô đít một trận nên thân, tưởng chết. Tội nghiệp mạ sau khi đánh con, mạ tự đấm vô ngực thụi thụi, và vật vã khóc than. Các em nhỏ thấy Hoa bị nhiều đòn, toàn lưng và hai chân lằn ngang lằn dọc tươm máu, các em thương chị và sợ hãi ôm nhau mà ré lên, khóc sưng cả mắt. Sau đó, vì buồn phiền mạ đỗ bệnh nặng. Bốn năm ngày Hoa trốn tiệt trong nhà, không hề dám lấp ló hó hé nửa bước ra tới cửa. Cuối cùng sợ xóm giềng biết con chữa hoang, thì xấu hổ ê chề nhục nhã, cha mạ bàn với nhau phải cho Hoa trở lại Đà Nẵng vào một buổi sớm tinh sương, khi gà chưa gáy sáng và mọi nhà trong xóm còn đóng kín cửa ngủ say.

                        Tom rất mừng lao vô ôm chầm lúc gặp Hoa. Nhìn những vết thương thâm bầm, thì Tom sửng sốt, bàng hoàng nghẹn ngào ôm Hoa mà khóc nức nở! Hằng ngày Hoa được Tom tận tình chăm sóc chu đáo các vết thương. Vài tháng sau thì Hoa sinh một con trai, hai người hớn hở mừng vui đặt tên con là Thomas. Hoa đắn đo ái ngại báo tin cho gia đình biết. Ba mạ lúc nầy cũng hơi nguôi ngoa phiền muộn đôi chút, nhưng trong nhà dấu kín chuyện Hoa (…) không hề hé môi cho dòng họ, nhất là xóm làng chẳng ai biết.

                        Nhận thư Hoa báo tin, mạ cùng mấy đứa em lật đật đến thăm Hoa. Thấy chuyện con lỗi lầm đã dĩ lỡ rồi, không lẽ giết chết con, họ dè dặt gõ cửa phòng, thấy cháu bụ bẫm kháu khỉnh, coi ngộ nghĩnh, trắng trẻo, hồng hào dễ thương, nên họ đành chấp nhận đổi giận mà thương con, và vui vẻ cưng nựng cháu. Thỉnh thoảng cả nhà kéo nhau đi thăm Hoa với quà bánh thổ sản quê hương, loại thức ăn đặc biệt mà Hoa thích ăn nhất. Ngược lại Hoa vẫn không quên tận tâm lo cho cha mạ và các em có cuộc sống khá đầy đủ mọi thứ, cha mạ các em trong thời gian nầy bình an yên vui.

                        Tom đi làm ở hãng Philco Ford Coperation tại Đà Nẵng, lương tiền khấm khá hơn hồi đi lính, một tháng Tom lãnh hơn $2,000, tiền lương cao gấp mấy lần hồi trước khi Tom ở Navy. Nhờ thế Hoa mướn một căn nhà riêng gọn gàng yên tĩnh đầy đủ tiện nghi, Hoa ở nhà lo cho chồng con đàng hoàng sung túc, gia đình nhỏ của Hoa rất hạnh phúc, Hoa cảm thấy bây giờ đời mình bắt đầu lên hương, đời đẹp như mơ. Sau khi sanh con trai khỏe mạnh, bốn năm tháng trôi qua thì Hoa cấn thai đứa con thứ nhì/ Sang năm thứ hai thì Hoa sanh thêm đứa con gái, đặt tên là Joann. Vị chi mỗi năm một đứa con Mỹ trắng rặc, nhưng sanh tại Việt Nam.

                        Hoa sợ chuyện “mau mắn nhạy cảm” có con cái nhanh quá, nên Hoa đã có chút càu nhàu nhắc khéo Tom hoài chuyện xưa. Tom yêu cô vợ trẻ xinh xinh đẹp đẹp và ngoan hiền, có con thơ nhọc nhằn, nên Tom giữ điều độ và kiêng cử - Ngày kia khi về Mỹ thăm ba mẹ, Tom đi… “thiến” (Abortion). Ngày tháng hạnh phúc tưởng như ngừng đọng lại trong tình yêu tuyệt vời, và sự sung sướng mãn nguyện không tắt trên những đôi môi vợ chồng và nụ cười thắm tươi cùng con trẻ. Ai ngờ… một buổi chiều đầu năm 1972 đi làm về, Tom thẩn thờ ủ rũ như người mất hồn, anh ôm siết Hoa và hai con vào hai cánh tay rắn chắc, khuôn mặt anh trông áo não, giọng nói run run dường như muốn khóc:
                        - Ngày mai mình đi làm giấy tờ để về Mỹ, em à.
                        - Ồ! Tại sao vậy anh?
                        - Anh không thể nói được. Khi về Mỹ rồi, anh sẽ giải thích sau.
                        Mặc dù Hoa hết lời năn nỉ, Tom vẫn không hở môi. Hoa nhìn Tom van lơn:
                        - Nhưng… nếu ở Mỹ, em muốn về lại Việt Nam, có thể được; phải không.
                        Tom ngần ngại một chút rồi âu yếm nhìn Hoa mỉm cười gật gật đầu.

                        Hai người đi làm giấy tờ thật nhanh. Còn chút thời gian ngắn, Hoa vội vã về làng Trường Sanh thăm mệ ngoại và biếu tiền bạc (thân sinh của mạ Hoa). Hoa lại quày quả trở vô Đà Nẵng, lo sắm sửa đầy đủ tươm tất cho cha mạ và các em vào những ngày cận Tết Nguyên Đán thật long trọng. Hoa thuê một chiếc xe chở về Tam Kỳ cho gia đình rất nhiều bánh mứt, áo quần mới, giày dép, gạo thịt và nhiều thứ linh tinh khác, cũng như tiền bạc rủng rỉnh hậu hỉ, để lại cho cha mạ.

                        Nhưng khi cha mạ và các em nghe tin gia đình nhỏ của Hoa phải rời Việt Nam nay mai, thì cả nhà chưng hửng, sửng sốt, buồn bã ủ dột. Bỗng nhiên họ òa lên khóc như một đám tang, không ai có hể mở miệng thốt được lời nào! Còn gì nữa mà ăn Tết với hưởng lộc Tết!? Hoa hứa với cha mạ là khi qua Mỹ ổn định rồi, thì Hoa sẽ trở về quê nhà một ngày gần đây. Hoa nói như thế, để cha mạ không quá sầu não mà có chút yên lòng, chứ chính Hoa cũng không thể biết là mình có thể trở về quê nhà được hay không! Cha mạ các em nằn nặc đòi ra Đà Nẵng để tiễn đưa gia đình Hoa đi Mỹ, nhưng Hoa cương quyết không chịu vì Hoa sợ cha mạ có mặt, sẽ khóc nhiều vì con cháu.
                        ***

                        Ngày 22 tháng Chạp năm 1972 xe của hãng Philco Ford Coperation đến đón vợ chồng con cái ra phi trường. Khi Hoa bước ra cửa, đang quyến luyến nhìn quanh và tần ngần bước lên xe, bỗng dưng Hoa thấy mạ và mấy em lấp ló bên gốc cây phượng, trên tay mạ ẵm đứa em nhỏ mà tay kia mạ quệt nước mắt. Xe rồ máy… vút đi. Ôi chao ơi! Ngồi trên máy bay từ Đà Nẵng vô Sài Gòn, Hoa đau đớn tột cùng đã ngất xỉu mấy lần, khiến tiếp viên hàng không lo sợ tìm bác sĩ tới săn sóc đặc biệt. Tom hốt hoảng quay quắt gọi tên nàng ơi ới, hai tay anh bận bịu ẵm hai con thơ, một đứa 17 tháng tuổi, một đứa ba tháng tuổi. Thiệt khổ hết biết. Phi cơ hạ cánh xuống Tân Sơn Nhứt, gia đình Hoa đến ở một khách sạn sang trọng rất lớn do công ty của Tom thuê bao. Hoa đứng trên lancan khách sạn nhìn xuống thủ đô hoa lệ, mà hai hàng nước mắt dâng trào:
                        Tôi đi băng ngang qua đường phố cũ
                        Nắng Sài Gòn làm rát bỏng làn da
                        Xe cộ chen nhau từng bước chân qua
                        Vẫn phải bước đi giữa dòng xe cộ
                        Nắng rực rỡ không tìm ra bóng đổ
                        Chỉ khói xanh pha với bụi mịt mù
                        (Yên Sơn)

                        Tom đuối sức vì lo lắng chăm sóc cho vợ và hai con nhỏ rất vất vả, khá mệt, nên anh nhờ nhân viên khách sạn lo dùm hai đứa trẻ, để Tom có thì giờ lo cho Hoa. Sáng hôm sau, khi lên Tân Sơn Nhứt và vô trong phi cơ đi Mỹ cũng thế, Hoa cứ nằn nặc đòi mở cửa:
                        - Cho tôi xuống, tôi không muốn đi đâu hết.

                        Tom phải gọi bác sĩ đến khám bệnh, cho Hoa uống thuốc, lúc đó Hoa mới ngủ liên miên không thể “quậy”. Lúc đến Hawaii, Hoa ngất ngư lừ đừ tới làm thủ tục lấy thẻ xanh. Rồi ngày 10 tháng Hai năm 1972 cả nhà Hoa lên phi cơ bay tới phi trường San Fransico. Trưa hôm sau lại bay về phi trường Youngstow Ohio.
                        Ba mẹ chồng vui vẻ mừng rỡ ra đón con dâu, con trai và hai cháu của họ.
                        ***

                        Gió thu lạnh, từng lá vàng run rẩy
                        Cây trơ cành buồn bã hứng trời sương
                        Tôi viết tiếp bản trường ca thứ bảy
                        Chút lòng người vong quốc gởi quê hương !

                        Một quê hương bên kia bờ đại hải
                        Nửa địa cầu vời vợi cánh chim bay
                        Quê tôi đấy, dân đau thương quằn quại
                        Tôi xa quê, lòng nhớ qúa đêm ngày!

                        Xưa, đẹp lắm, từng bờ sông, ngọn núi
                        Giặc tràn về tất cả trắng màu tang
                        Hăm mấy năm tôi chờ cơn gió nổi
                        Tôi đợi Kinh Kha phất ngọn cờ vàng!

                        Anh hỏi chúng tôi sao yêu đất nước
                        Lại âm thầm rời bỏ để ra đi
                        Và chị hỏi vì sao yêu tổ quốc
                        Cần bàn tay xây dựng lại không về ???


                        Đọc bài thơ trên của Ngô Minh Hằng, Hoa nghẹn ngào ngậm ngùi và chua xót… biết trả lời sao cho trọn tình trọn nghĩa với chồng, con, và nơi quê hương xa lắc xa lơ tít mù khơi, cùng cha mạ và bầy em còn nhỏ dại? Hoa đành buông trôi dĩ vãng, thả mảnh bằng đánh máy, cùng niềm đau không cạn trôi về quá khứ. Hoa rụt rè mở cửa tâm hồn cho người khách phương xa ập vào đời, anh quàng lên cổ em sợi xích hôn nhân. Cả hai sẽ bất tỉnh nhân sự trong căn nhà hạnh phúc… cho đến chết.
                        ***

                        Tình Hoài Hương
                        Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-01-2017, 02:23 AM.
                        Bút trần nào tả được lưu luyến!
                        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                        Tình Hoài Hương

                        Comment


                        • "Mụ Vợ" Ui là VỢ {của Tui… }



                          "Mụ Vợ" Ui là VỢ {của Tui…
                          (Chuyện vui buồn, mà có rất thật của Hoàng Ph...)}
                          *


                          Buổi kia, Hoàng Phương Nam đi “coi mắt” vợ là: cô Bạch Phùng. Hôm ấy, gia đình ba má, mấy chị, em, bà Ba Hồng, Nam: cùng nhau leo lên xe hơi nhà, đi đến vùng Phú Thọ. Nam chỉ thấy thoang thoáng hai cô gái ỏng à ỏng ẹo ỏn ẻn yểu điệu ra bưng trà, vô bưng nước để mời khách. Cô nào cô nấy cũng xinh xinh, đẹp đẹp, nho nhỏ nhí nha nhí nhảnh; ui là lá laa… là dễ thương coi mòn con mắt, đã thiệt nhen. Bà Hồng nháy mắt nhìn chàng, cười cười. Từ đó, cả nhà xúm lại “thuyết giải” Hoàng Nam về bổn phận, và “nghĩa vụ gia tộc” của cậu con trai trưởng là: cần phải nhanh chóng “lấy vợ báo hiếu”, để cha mẹ có tí cháu nội bế bồng hun hít.
                          Nam uể oải gật đầu. Vì thế ai ai cũng vui vẻ mách nước với Nam:
                          Lấy vợ nên lấy vợ non.
                          Tóc thề mườn mượt xỏa eo thon.
                          Mắt sáng, môi hồng, da tươi thắm.
                          Đỡ tiền mua sắm những phấn son.
                          . . .
                          Lấy vợ xin anh lấy vợ già.
                          Ra đường “ẻm” biết chuyện gần xa
                          Lỡ anh đi lạc thì em nhắc.
                          Cũng tốt cho anh đó thôi mà

                          Lấy vợ xin anh lấy vợ lùn.
                          Áo quần em mặc, vải hay thun.
                          Người cao một bộ, em hai bộ.
                          Tiết kiệm cho anh gấp bội phần.


                          Và chu đáo hơn, ba má anh chị em của chàng còn khuyên Nam nên kiêng:
                          Lấy vợ nên kiêng lấy vợ hô.
                          Hàm răng lởm chởm nói bô bô.
                          Rủi khi “bà” giận ôm chồng cắn.
                          Đổ máu phu quân chạy thấy mồ.

                          Lấy vợ không nên lấy vợ ù.
                          Đêm nằm ôm vợ tưởng ôm lu.
                          Rủi khi mà nó đè lên bụng.
                          Bẹp xác ông chồng khóc hu hu.


                          Hoặc dí dỏm đắn đo lựa chọn hơn:
                          Không lười biếng
                          Nói nhỏ tiếng
                          Biết chiều chồng
                          Giỏi nữ công

                          Và gia chánh.
                          Biết làm bánh
                          Nấu ăn ngon
                          Biết dạy con

                          Ứng xử tốt
                          Không quá dốt
                          Không quá khôn
                          Không ôm đồm

                          Không ủy mị
                          Không thiên vị
                          Không cầu kỳ
                          Không quá phì

                          Không quá ốm
                          Không dị hợm
                          Không chanh chua
                          Không se sua

                          *

                          Thế là cứ cách vài ngày, Nam lại đến nhà cô ta để “tìm hiểu nhau”. Hôm trước cả nhà chàng đến coi mắt Phùng, thì cô lại đi vắng. Bây giờ, ngồi ở trong phòng khách, chàng nói với Phùng chuyện “trên trời dưới đất” cũng có phần lạt lẽo, hai người cố gắng nói chuyện tào lao xịt bộp cho vui vui xí, chớ ngồi ì ra, lớ ngớ, vụng về trơ trẽn, coi cũng kỳ! Nam bần thần lững thững đi về. Mấy tuần đó Nam và Phùng chưa có một lần đi chơi riêng ra ngoài. Ngoại trừ có một lần duy nhất Phùng hẹn chàng ở đầu đường, để Nam chở Phùng đi xem bói, (vì nàng dấu kín không muốn cho người nhà, và người yêu cũ của nàng biết. Dù sao thì người yêu của cô nàng còn là anh học trò lớp đệ Nhị, con nhà khá… nghèo). Phùng phân vân băn khoăn muốn coi bói thử, là cô có nên lấy anh chồng con nhà giàu xụ nầy không, và số phận của nàng và “anh nầy” sẽ ra sao? Phùng cũng sợ giao trứng cho ác, như mấy con bạn đã bị chớ:
                          Chồng Tây kịch cợm như voi
                          Đêm lăn đè trúng chắc lòi phèo luôn
                          Chồng Tàu ăn mãi nước tương
                          Đứng gần nồng nặc mùi hương xì dầu

                          Chồng Lào mê được chỗ nào?
                          Nhỏ con, èo uột xanh xao gầy còm
                          Chồng Phi Châu chúng đen ngòm
                          Tối về cúp điện dòm hoài không ra!

                          Chồng Mỹ dâm đãng lắm nha
                          Nếu không khéo giữ chắc là teng beng
                          Chồng Đài Loan có máu ghen
                          Léng phéng nó biết, sớm lên bàn thờ


                          Nam dặn dò Phùng:
                          - Em đứng chờ anh ở cột xe bus, gần ngỏ vô nhà em nhe.
                          Thì cô ta lại tưởng là chàng hẹn Phùng đợi đâu đó, nên đi xa lắm. Hai người lạc nhau ba giờ, hồi nầy làm gì có cell phone mô mà gọi? Bực bội thật! Gặp nhau rồi, Nam lái xe hơi chở Phùng đi xem bói xong. Hai người đi về ngay. Vì, ông thầy bói thấy chàng Nam “tốt tướng”, con nhà giàu xụ, đi xe hơi láng cón, ông thầy nhìn Phùng một lúc, cười cười:
                          - Cuộc hôn nhân nầy rất đẹp đôi. Xứng đáng mà! Yên trí lớn sẽ sống với nhau suốt đời. Chả cần phải “khách sáo” mời mọc nhau đi ăn uống, chuyện trò thân mật hỉ? Anh muốn sao, trời cũng chìu anh à:

                          Rồi ông thầy bói lại nói thêm là anh chị sẽ rất hạnh phúc đó:
                          Lấy vợ xin anh lấy vợ cao.
                          Chúng mình đùm bọc lẫn cho nhau.
                          Cây trái anh thèm, em tay với.
                          Đỡ mất công anh bắc thang trèo.

                          Nàng vui vui đã năn nỉ ông ba bà má:
                          Má ơi cứ gả con xa
                          Miễn sao chàng rể trong nhà nhiều “đô.”
                          Thương anh chín đợi mười chờ
                          Đến khi mười một, em “lờ” anh luôn!


                          Cha mẹ hai bên đã gặp nhau, bàn thảo kỹ càng, coi xôm tụ về việc hôn nhân. Ngày chủ nhật, tức là một tháng sau khi quen sơ giao, thì họ làm đám hỏi, tổ chức tại nhà ba má của nàng. Đầu tháng sau, đám cưới Nam+Phùng vô cùng long trọng ở nhà thờ. Buổi tối chiêu đãi thân nhân, họ hàng, khách khứa tấp nập, đông đúc và trọng thể tại nhà hàng Quốc Tế. Hai “anh chị” chả cần biết. Suốt cuộc hành trình đi tìm kiếm hạnh phúc lứa đôi, Nam như là con “rô bô”, như kẻ mất hồn, như Thiên Lôi ai sai đâu tui đánh đó vậy. Chàng kết thúc một giai đoạn cũ với những mối tình quờ quạng lăng nhăng. Không ai hiểu hết, họ tưởng tất cả quá khứ đầy sóng gió của chàng đã chìm vào quên lãng. Chỉ có Nam, và may ra duy nhất chỉ còn “mùi của hoài hương xưa duy nhất của Mười”, mới hiểu rõ Hoàng Nam tui đớn đau như thế nào mà thôi:
                          Dây tơ hồng quấn quanh chuồng lợn
                          Tình chúng mình có “tợn” lắm không?
                          (*)

                          Ngay từ buổi đầu tiên trong ngày “honeymoon say đắm” kia, Nam lái xe hơi cuả ba, ra nghỉ ở Vũng tàu. Dọc đường đi có một cặp khác vui vẻ trẻ trung, cũng lái xe hơi chạy gần gần bên xe hơi của họ. Khi thì xe Nam qua mặt xe của cậu ta. Khi cậu ta qua mặt xe chàng. Cả hai người thanh niên cùng vẫy vẫy tay cười cười vui vẻ. Nhưng Nam thấy mặt Phùng xù ra như lông nhím. Nam nghĩ thầm:
                          “Không vui rồi. Chắc có lẽ… bởi do nàng:
                          Lấy vợ xin anh lấy vợ ghen.
                          Vì anh, em gác cửa cài then.
                          Vì anh, em mới làm như thế.
                          Nên đành phải thức trắng đêm đen.

                          Lấy vợ xin lấy vợ ngáy to.
                          Lỡ bề ăn trộm nó hăm ho.
                          Đêm khuya thanh tịnh em ngay ngáy.
                          Trộm tưởng thiên lôi chạy cao giò
                          .

                          Nam cho xe chạy chậm lại, giả lả to nhỏ với Phùng vài câu chuyện vui để khỏi mích lòng vợ. Ấy thế mà Phùng im thin thít, bĩu môi, nhún vai… lạnh lùng quay mặt đi ra vẻ khinh bỉ. Nam cảm thấy xấu hổ với cặp kia, chàng lại tức vợ cành hông, nhưng cố mím môi nhịn nhục. Vào lấy phòng trong Hotel, Nam soạn áo quần móc vào tủ. Má của chàng chu đáo lắm, má đã mua sắm cho con dâu đầy đủ, tỉ mỉ mọi thứ quần áo, đồ dùng sang trọng không thiếu món gì.
                          Trong khi chờ đợi vợ đi tắm, Nam nằm đọc báo ngoài balcon. Tắm xong, Phùng đi ra chỗ chồng nằm. Từ trên lầu tư cao chót vót nhìn xuống sân. Bỗng Phùng chỉ tay xuống đất, gọi giật chồng lại, hét to:
                          - Coi hai cái đứa mất dạy kia kìa. Chúng nó bám riết theo ta. Cố ý chọc quê tụi mình đó.
                          - Không phải đâu em. Chỉ là sự tình cờ, trùng hợp ngẫu nhiên thôi.
                          - Xì. Tình cờ gì! Mình dời đi chỗ khác. Đi anh.
                          - Sao lại vậy?
                          - Anh không đi hả. Nếu anh thích, cứ ở đây với chúng nó.
                          - Em kỳ ghê à nha.
                          - Ừa. Tui như vậy đó.

                          Nam đành phải thu xếp đồ đạc dời đi hotel khác. Trả phòng, chàng phải nói dối với bà chủ là: Có “điện tín”, cần về Sài Gòn gấp. Dĩ nhiên là mất toi tiền phòng vô lý. Dời đến hotel xa thật xa bờ biển. Khi xuống garage lấy xe hơi, hai người lại “đụng độ” với cặp vợ chồng trẻ lúc chiều. Họ vồn vã hỏi thăm “anh chị” rất lịch sự:
                          - Chào anh chị. Sao anh chị không ở hotel nầy với chúng tôi cho vui nhỉ?
                          Nam áy náy bắt tay ông chồng, vội trả lời:
                          - À... Chả là vì tôi có bà con ở đằng kia, họ đã lỡ hẹn phòng rồi. Cám ơn anh chị. Chúc anh chị những ngày nghỉ hạnh phúc vui vẻ nhe.
                          Phùng trề môi lườm nguýt họ một cái rất dài, cô xù mặt quay đi. Lên xe, trước khi đóng cánh cửa xe hơi “cái rầm”, Phùng thò đầu ra cố ý đốp vào mặt họ:
                          - Cái thứ đó. Anh nói chuyện làm gì!
                          Hai vợ chồng trẻ kia sửng sốt, đứng ngây ra nhìn. Họ nghe rõ mà. Trách sao có người làm câu thơ:
                          Lấy vợ xin anh lấy vợ hô.
                          Lỡ sau mà có gặp côn đồ.
                          Em cười, chúng tưởng Chung Vô Diệm.
                          Hồn xiêu phách lạc cõi hư vô.


                          Nói chung, trong tuần lễ “trăng mật” chả vui vẻ gì! Ui! Cải nhau suốt bốn năm lần. “Chàng” rủ “nàng” đi tắm, thì nàng kêu mệt, bỏ đi nằm ngủ. Khi “anh” mời “em” đi ăn, thì em chỉ thích coi ca nhạc, chồm lên cười hô hố. Hai người đi tắm nửa chừng, nàng nói “không vui”, lại hầm hầm bỏ về phòng ngủ vùi. Nam dỗ dành chìu chuộng vợ hết cách, vẫn không xong. Thế rồi em & anh… suốt ngày Nam tự đấm ngực oán trách:
                          Lúc xưa thì vậy, giờ không còn gì...
                          Cái hôm mà nàng vu quy.
                          Ta biết ta sẽ bị ... đì lai rai.
                          Khổ thân cho kiếp con trai.
                          Một lần lấy vợ bằng hai lần... mù.
                          Lưng thì mỗi ngày mỗi gù.
                          Cày ba bốn jobs để... bù nàng tiêu
                          .
                          *
                          Cuộc hôn nhân nầy như một “trò đùa của định mệnh tàn nhẫn & trớ trêu”. Vì quả thực, hai người vừa ăn ở với nhau chả bao lâu, đã "phát sinh ra" đủ thứ chuyện bực bội rối rắm đầy mâu thuẫn. Mỗi người có một cá tính dị biệt, rất khắc khẩu, hầu như mọi vấn đề đều khác biệt lạ lùng. Nam ngậm ngùi dấu kín nỗi đau trong lòng. Ban đầu, trước khi đến với nhau, Nam thấy vợ cũng xinh như ai, sau khi về nhà chồng, mấy bà chị, em út nhất là mẹ chồng (vì họ ước mong có một thành viên mới, nhất là nàng dâu trưởng) xúm lại bên Phùng, họ dùng quần áo, phấn son và nữ trang vòng vàng kim cương sáng chói để trang điểm cho nàng thêm lộng lẫy.

                          Từ đó, một cô gái nghèo đã vươn lên nấc thang danh vọng đầy kịch tính: Chẳng lẽ cuộc sống của vợ Nam trong gia đình giàu sang nầy, chỉ tẻ nhạt trống rổng từ việc ăn, uống, ngủ, với mẹ chồng và chị em chồng đi mua sắm… trang điểm, suốt ngày đi ra đi vô chăm chút ngắm nghía vẽ đẹp mê hồn, Phùng không phải động tay động chân bất cứ việc nhỏ nhặt nào, mà nàng vẫn không bằng lòng thôi sao? Đằng sau nét đẹp mỹ miều của một phụ nữ nầy là một con người khác. Nam không hiểu được sự gì là vẽ đẹp thật sự từ nội tâm thể hiện ra bên ngoài!? Phùng có thể có vẽ đẹp kiêu sa bên ngoài, nhưng không thể trau dồi vẽ đẹp thuần khiết nội tâm, để Nam có thể tăng thêm tình yêu vợ.

                          Một hôm bà bếp bị ốm, hai người làm thì một người phải trông chừng trẻ nhỏ, một người lau dọn giặt giũ; vợ Nam túng túng vụng về luộm thuộm nấu ăn, chàng cũng muốn thân thiết nên đứng giúp vợ cất dọn những thứ bừa bãi Phùng giăng đầy khắp nơi:
                          - Lửa to quá, vặn lưả nhỏ chút xiú, em coi chừng trào hết canh ra nè.
                          - Nấu canh, em không bỏ đường vô nhiều vậy.
                          Nàng bực tức quăng cái vá:
                          - Lảm nhảm ồn quá, giỏi thì tự làm đi!
                          - Không biết, lại chẳng nghe ai, tức giận nỗi gì ha!
                          - Tui như vậy đó.
                          Chàng cười ha hả, mà lòng đau buốt chỉ ngữa mặt lên trời:
                          Bắc thang lên hỏi ông trời
                          Ðời con đau khổ đã nhiều, thấu chăng?
                          Ông trời cúi mặt than rằng
                          Tao đây cũng khổ, cắn răng chịu đòn!

                          Bắc thang lên hỏi ông trời
                          Vợ con nó quá dữ như bà chằng
                          Ông Trời ổng trả lời rằng
                          Vợ tao còn dữ gấp trăm vợ mày

                          Bắc thang lên hỏi ông trời
                          Vợ con dữ quá, con xin bỏ nàng
                          Ông Trời ngó xuống trả lời
                          Mày bỏ được nó thì tao con mày
                          (*)

                          Nếu “tôi” thích A, thì “người ta” lại thích Z. “Anh” thích màu xanh, “Em” lại thích màu đỏ. Giống như một chiếc xe hơi mới toanh, khổ nỗi lại có hai cái "vô-lăng” hai hộp số, hai cái thắng. Thì, “tôi” định rẽ về bên phải. “Người kia” lại muốn lái về bên trái. “Tui” muốn nhấn ga, thì “bả” muốn đạp thắng. Tréo cẳng ngổng. Mà con đường đời thì không phẳng phiu, êm ái trơn tru gì. Nó quanh co, gập ghềnh, lởm chởm, gồ ghề, uốn lên uốn xuống khúc khuỷu quanh co ghê lắm. Chả có lần Phùng đã “vui vui nhắn nhe anh” ngâm nga ra rả:

                          Chiều chiều bìm bịp kêu chiều.
                          Lấy vợ thì cũng lấy liều mà thôi.
                          Ban ngày làm việc tả tơi.
                          Ban đêm hầu vợ, phận tôi đêm trường.
                          Nằm chung thì bảo... chật giường.
                          Nằm riêng lại bảo... tơ vương con nào.
                          Lãng mạn thì bảo... tào lao.
                          Đứng đắn lại bảo... người sao hững hờ.
                          May ra vợ có... nương tay.
                          Ta mới sống trọn kiếp này dài lâu.
                          Làm chồng phải nhớ lấy câu:
                          "Nhất vợ nhì trời", đừng ẩu... phanh thây.

                          (Mình vì mọi người... mọi người coi mình như..."mọi.")… Bắt đầu “một mái gia đình hạnh phúc” như thế đó.
                          Chim quyên ăn trái nhãn lồng
                          Còn em sao lại hơi chồng “hổng” quen.
                          Tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ
                          Cưới nhau về tắt thở càng nhanh.


                          Từ đó, cuộc sống lứa đôi thật nhàm chán. Đến với nhau chỉ là bổn phận. Vì, thật ra cả hai không hề yêu nhau. Đây chỉ là một cuộc “gạ đổi”. Có lẽ nào như chuyện ngẫu nhiên của “đôi đũa lệch, mốc, chọi mâm son”? Hai đứa không có thì giờ ngồi lại với nhau “tìm hiểu” kỹ càng trước khi bước vào hôn nhân. Chỉ như sự… “bắt đầu ngồi đó”, để “anh chị” làm tròn bổn phận của đứa con chí hiếu. Tuy nhiên, Nam hy vọng (vẫn còn hy vọng chứ) khi sinh ra đứa con, anh mong nó sẽ là: cái gạch nối tình yêu hữu hiệu giữa hai người sẽ tốt đẹp hơn. Nam cố “nịnh” vợ:
                          Vợ là cái máy đếm tiền
                          Vợ là "nội lực" làm nên cơ đồ
                          Vợ là thủ quỹ thủ kho
                          Vợ là hạnh phúc ấm no trong nhà.


                          Thế rồi... Có một đứa con. Hai đứa con. Ba đứa con… Nam cũng chả thấy cái – gạch nối – nào cả!!!
                          Nàng than van: “Đồng vợ đồng chồng Con đông mệt quá”.
                          Hay là: “Con nhà tông không giống lông đỡ giống khỉ”. Thật là: "Tóc quăn chải lược đồi mồi. Chải đứng chải ngồi, quăn vẫn hoàn quăn".
                          Ngày trước nàng dạ nàng thưa...
                          Nói năng dịu ngọt cho vừa lòng anh.
                          Anh tưởng hoa ở trên cành.
                          Bao giờ cũng đẹp, tươi xanh bốn mùa.
                          Lời nói không mất tiền mua.
                          Nên anh... ngọt lại cho vừa lòng nhau.
                          Bây giờ chẳng hiểu vì đâu.
                          Nàng mang chứng bệnh cứng đầu lặng câm.


                          Làm bổn phận người cha, chàng lo toan chu đáo. Đầy đủ, rất mực yêu thương các con. Làm bổn phận người mẹ, Phùng vẫn chăm sóc con toàn vẹn. Với sự hỗ trợ đắc lực của ông bà nội. Nhất là trong nhà có ba người vú em chu đáo lo riêng cho ba đứa con của họ. Ấy vậy, chàng vẫn hậm hực than rằng:
                          - "Lạnh lùng thay! Láng giềng ơi!
                          Láng giềng lạnh ít, sao tôi lạnh nhiều".
                          Vợ, từ thiếu nữ hiền lành.
                          Đến khi xuất giá trở thành... "quan gia".
                          Vợ là con của người ta.
                          Và ta quen vợ chẳng qua vì tình.
                          Có quan thì phải có binh.
                          Nên ta làm... lính hầu tình "quan gia"
                          Con ta do vợ sanh ra.
                          Nên ta với vợ... chẳng bà con chi.


                          Càng ngày thì cá tính của Phùng càng bộc lộ tính cũ lồ lộ những cơn bực bội, nóng nảy tam bành lục tặc, quá vô lý. Nam thừa biết rõ vợ “lên cơn” hổn hào như thế, để thể hiện “cái tôi” chứng tỏ ta đây có “uy”, có quyền, có bản lãnh, ta cần phản kháng, để che dấu mặc cảm thân phận hèn kém nghèo khó. Phùng cóc cần ai và coi họ “như pha”. Nhưng cái lối Phùng “ăn trả nói treo” ngang tàng, hỗn xượt với tất cả người khác trong gia đình. Nhất là "bố lếu bố láo" với ba má Nam, thì Nam không thể nào chịu đựng nỗi cá tính quá thô lỗ, thấp kém hơn một người bình dân có giáo dục. Tạo ra sự mâu thuẫn trầm trọng giữa mẹ chồng nàng dâu, giữa chị em dâu, em chồng. Mặc dù, chàng biết rõ: ba má mình rất yêu thương con dâu; và họ chịu ép mình hạ giọng để nhịn nhục Phùng.

                          Điều nầy, khiến Nam càng xấu hổ, ngượng ngùng vô ngần, với chị, em, và bốn người làm bồi bếp đông đúc ở trong nhà. Ôi thôi! Ngày nào cũng như ngày nấy: "Nội-chiến tưng-bừng" à. Không khí trong gia đình ba má xưa, khi chưa có “dâu về”. Không phải chàng hãnh diện khoe khoang & tự hào, chứ quả thật gia đình Nam là một đại gia đình có lễ phép, anh chị em trên thuận dưới hoà, êm êm ấm ấm, hạnh hạnh phúc phúc thật sự. Đúng nguyên nghĩa hạnh phúc của nó. Nhưng… khổ nỗi chỉ vì cái nhưng:
                          Ngày ấy "khiêng về" cô vợ khùng!!!
                          Bởi vì nàng ăn nói lung tung,
                          Trợn mắt, bặm môi, cười... rồi khóc
                          Khốn khổ đời trai phải sống chung!!!
                          (**)
                          Đến nay, khi đã “rước nàng dzìa Dinh”, mỗi ngày đi làm về, Nam đều phải “dàn xếp” những chuyện chả ra gì. Bên nào cũng trách:
                          - Anh sợ bả, sao anh không dám nói gì vậy?
                          - Anh đừng đội vợ lên đầu.
                          - Vợ gì chẳng có giáo dục, hổn láo hết biết.
                          Cho dù:
                          Vợ là quả ớt chín cây.
                          Đỏ tươi ngoài vỏ rất cay trong lòng.
                          Vợ là một đoá hoa hồng
                          Vợ là sư tử Hà Đông trong nhà.


                          Còn “nàng” khi thấy chàng có mặt ở nhà, đã đấm ngực la làng:
                          Chồng người ta làm ra khấm khá
                          Chồng của mình chỉ phá, chỉ ăn.
                          Lấy chồng cho đáng tấm chồng
                          Uổng công mai mốt lưng ong hổng còn.
                          Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
                          Cưới nhau về tắt thở càng nhanh.
                          Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
                          Vô duyên đối diện cự om sòm.

                          * *
                          Mọi người chịu không thấu nỗi, nên ba của Nam đã cho họ một số tiền lớn, kèm theo số tiền “vợ chồng ta” dành dụm bấy lâu. Ba muốn họ dọn ra ngoài ở riêng, cho yên ổn. Vâng! Chính ông ba của chàng rứt ruột ra quyết định như thế. Nam biết là ba má rất thương con, cháu, không muốn xa rời con cháu bước nào. Nhưng cực lòng đành phải rời xa. Nam đi thuê nhà ở tạm bên đường Duy Tân, chờ ổn định sẽ tìm mua nhà sau. Ra riêng rồi, tha hồ cho Phùng càng “tung hoành”. Những mâu thuẫn vợ chồng càng hiện hình rõ nét, trầm trọng hơn. Mặc dù chàng cố nghiến răng chịu đựng.
                          Trông nhìn ông bụt hiền từ
                          Ngó em cái mặt ôi như bà chằng!
                          Còn mặt thì cứ hầm hầm.
                          Nàng trợn một cái, ta... bầm mấy hôm.
                          Việc nhà chẳng chịu trông nom.
                          Shopping một bận, ba hôm mới về.


                          Nhưng trong lòng Nam quá đau buồn, chàng đi làm về, vừa mệt mỏi cởi đôi giày ra, là có chuyện không vui. Nam muốn ngồi lại đùa giỡn với các con tí chút, cũng không yên. Phùng cứ “lải nhải cằn nhằn" đủ điều bên tai chồng. Phùng dằn mặt chồng đánh đập con túi bụi, cốt ý chửi xiên chửi xéo "cái đồ hư đốn giống thằng cha như đúc".
                          Tội đức lang quân nằm kế cạnh.
                          Mất ngủ lâu ngày chắc phát ho.


                          Nam không còn yêu vợ như “thuở ban đầu lưu luyến ấy” thì ngược lại Nam rất thương con, chàng chịu không nỗi cái cảnh con bị hành hạ tàn nhẫn & vô lý, thế là nhiều phen ầm ĩ, một là chàng ôn tồn can thiệp. Nhưng, càng vuốt ve, xoa dịu Phùng bao nhiêu; thì cô nàng lại càng có cái cớ, làm hung, làm dữ bấy nhiêu. Hai là anh mặc áo quần, bỏ nhà đi ra ngoài phố. Ban đầu Nam muốn giữ Phùng lại bên mình, vì Nam nghĩ mình sẽ “ân cần chịu đựng và huấn luyện” Phùng thành một người vợ tốt. Nhưng sau bao tháng năm… thì Nam hiểu ra mình sai rồi, thật sự hai vợ chồng không ai hiểu ai, không hề có sự đồng cảm, không hề thông cảm. Phùng không xứng với tình yêu và sự kiên nhẫn của mình.

                          Nam bắt đầu sợ và chán, chán không thể tưởng! Một ngày nào đó bằng cách tệ nhất, có thể một trong hai người sẽ chính thức nói lời chia tay. Bây giờ đối với Nam thì không. Nam không hiểu tại sao người ấy lại cố đập đỗ những gì... mà Nam cho là vẫn có thể duy trì trong hôn nhân, gia đình mình sẽ có cách cứu vãn tốt đẹp! Dù trước đó là những lần đay nghiến, làm cho đối phương đau khổ, tổn thương nhau,. Nhưng bây giờ Nam đổi cách cư xử, im lặng, làm ngơ. Nam càng không hiểu tại sao bà vợ lại muốn rời bỏ gia đình nầy và chia tay? Có thể sau 75 "đổi đời" thì tình cảm và tình đời trong Phùng cũng vụt thay nhanh, đổi đời (vì một người đàn ông nào đó, cũng nên).

                          Lúc nghĩ tới chuyện... có con.
                          Nàng hứ một cái, chẳng còn thiết tha.
                          Ra đường thấy vợ người ta.
                          Về nhà thấy vợ... tu cha cho rồi...
                          Nhưng lỡ ăn kiếp, ở đời.
                          Cắn răng chịu đựng, chờ thời đổi thay.
                          Biết đâu sẽ có một ngày.
                          Ta có cơ hội giải bày vợ hay.
                          May ra vợ có... nương tay.
                          Ta mới sống trọn kiếp này dài lâu.
                          Làm chồng phải nhớ lấy câu:
                          "Nhất vợ nhì trời", đừng ẩu... phanh thây.


                          Ra đường, anh không biết đi đâu; làm gì cho hết giờ? Nam chui vào mấy quán Bar uống rượu, gặp vài ba cô cava lôi kéo, ôm hót quờ quạng hun hít, tán hưu tán vượn, cho quên buồn: Đợi đến lúc tối mịt, tối mò, nửa đêm, nửa hôm khuya khoắt, Nam bò về nhà; anh vẫn nghe ra rả bên tai tiếng Phùng chửi rủa con cái, quăng thúng đụng nia, la mắng hai người vú léo nhéo. Phùng chửi xéo, chửi xiên chồng, kèm theo tiếng đập phá đồ đạc. Nam không thể hiểu nỗi tại sao vậy, Phùng muốn gì!? Trong nhà nầy tương tự như một "hoả ngục ở trần gian" rồi. Nam biết “chui” vào đâu mà “trốn” đây hử?
                          Lấy vợ nên kiêng lấy vợ ghen.
                          Áo quần khi xé rách teng beng.
                          Rủi hôm cao hứng chồng về trễ.
                          Bể chén, bể ly, bể cái đèn.…
                          Vợ là quả ớt chín cây.
                          Đỏ tươi ngoài vỏ rất cay trong lòng.
                          Vợ là một đoá hoa hồng.
                          Vợ là "sư tử Hà Đông" trong nhà.

                          Nam than thở… đắn đo; mà bà vợ thì ngầm ngầm nung nấu ý định:
                          Người ơi gặp gỡ làm chi
                          Để rồi hai đứa chia ly hai đường!


                          Hay là:
                          Trên trời có đám mây xanh,
                          Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng.
                          Nếu mà em lấy phải chàng,
                          Em thà thắt cổ cho chàng ở không.
                          (*)
                          * * *

                          Hoàng Phương Nam mong quý vị “tuyệt thế cao chiêu” nếu ai có diệu kế lâm ly độc thủ chi, xin vui lòng bỏ chút thì giờ, to nhỏ mách bảo cho em với, để cho “Hoàng Phương Nam tôi” xin thỉnh giáo, là: … tôi phải có cách nào hay ho, để “trừng trị cái bà nội tướng ác ôn nầy”, cho bà ta im re, xép re, khép nép, lép vế… một xí: Qúy vị: cao thủ, cao kiến, cao học, cao minh, cao lâm, cao vọng, cao niên. Niên trưởng, niên… khóa, niên thiếu, niên giám. Thái giám, thái sư, thái úy, thái tử, thái hậu, thái thượng hoàng … chi chi đó; khi nào có dịp đi qua Miên, xin nhớ nhắc dùm tôi mua cao hổ cốt, và ăn đường thốt nốt… (xin quý vị tha lỗi cho: “tôi bị “mụ vợ” quay tưng bừng, nên điên thật, ăn nói ba xàm ba láp tầm bậy tầm bạ. Chỉ vì “ con mụ vợ” ni rùi!). Tôi ước mong qúy vị siêng… ghé thăm người khùng khùng, điên điên như Nam tôi, vui lòng nhỏ giọt nước mắt xót xa… khích lệ khuyên nhũ Hoàng Phương Nam tôi nên làm gì… làm gì… (với “con vợ”) bây giờ??? Hay là cho tôi “cùi vì vợ” cho bỏ ghét cái tật tui ngu?). Hỡi Trời!

                          Và… và… và… Còn một điều nầy nữa… mặc dù Hoàng Phương Nam tôi đã ghi nhớ những độc chiêu là: những câu Thơ rất quý giá trên; tôi không còn trí óc để nhớ hết các tác giả thần tượng kia; (*) những câu thơ đã ghi trong nầy, về VỢ rất trứ danh. Ai là tác giả… ai là ai… mà quá tuyệt vời đến thế không biết. Bội phục! Vậy, nhân đây “Nam tôi” mong quý thi sĩ bỏ lỗi cho tôi về vụ “tui chôm chĩa”, sưu tầm lượm lặt Thơ Vui của quý vị nhá. Và, Nam mạn phép chêm những câu thơ nầy vào “gia phả nhà họ Cú” của Hoàng Phương Nam; đồng thời xin hết lòng cảm ơn quý thi sĩ và xin tạt dạ ghi ơn.
                          ***

                          Tình Hoài Hương

                          (*) Thơ sưu tầm lượm lặt
                          (**) Thơ Vui Tình Hoài Hương
                          Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-27-2017, 12:35 AM.
                          Bút trần nào tả được lưu luyến!
                          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                          Tình Hoài Hương

                          Comment


                          • Phở Ngầu Pín Ơi là… tả pín lù



                            Phở Ngầu Pín Ơi là… tả pín lù


                            “Ai đó” có thể lừa dối một số người trong một lúc, và lừa dối hết mọi người trong vài lúc, nhưng không thể mãi mãi lừa dối được tất cả mọi người.
                            (Abraham Lincoln).
                            Đôi bàn tay nàng đan chặt vào nhau để ôm đầu gối run rẩy nhô cao, thế mà cũng có lúc hai mu bàn tay rã rời tuột ra rơi rụng buông thõng xuống. Có thể do tấm lòng không rộng rãi, vị tha; nên nhiều lúc nàng không thể quản đại, bao dung, không quên những uất hận đau buồn vò xé trong quá khứ, khiến nàng càng điên tiết, muốn vạch trần bộ mặt gian trá lưu manh của Nam. Nàng muốn đốp chát vô mặt chàng, xỉ vã những lời cay độc, chì chiết, khinh khi và ghê tởm cho lại gan, cho hả cơn giận. Nhưng không nỡ. Nam không còn sức thu hút, quyến rũ, để xoa dịu nỗi hãi hùng và bàng hoàng kinh ngạc, khi chân tướng chàng đã lộ nguyên hình.

                            Dù Nam nhỏ tiếng ngọt lạt năn nỉ van lơn nàng hơn cả chục lần: “anh nói cho cô nghe, anh có lỗi, hãy tha lỗi cho anh”. Hừ! Nàng đã tha thứ cho một người (hơn cả chục lần mình buồn bã tha lỗi rồi đấy chứ), không nhất thiết nàng sẽ bao dung, quảng đại bằng cái miệng, mà bằng sự chân thật từ ái, và lòng đức độ khoan dung. Nhưng bây giờ anh chẳng còn hưởng đặc ân đó, vì anh đã quá tàn ác, nhẫn tâm đối với mối thân tình của em, thì anh đừng trách em sao nỡ đáp trả lại như thế nhé. Chẳng qua em vừa giống anh, em đã học cái sách ấy từ anh đó thôi. Đừng, anh van xin làm gì! Vô ích.

                            Hoàng Nam cũng biết giận mà nhấn mạnh tiếng: “anh nói cho cô nghe” một cách bề trên, kẻ cả, láu cá, trịch thượng, chứ không hẳn do tinh tế biết nhận điều sai trái qua chữ “cô” thay thế chữ “em”, như bao lần chàng âu yếm dịu giọng làm hòa, có căn bản giáo dục cuả một gia đình khả trọng tôn ti. Lòng nàng lơ lững, phiêu linh, chênh vênh như lá cuốn trong gió lùa rần rật trên lưng áo thưa. Nàng cảm thấy rất buồn, vì một hôm vào ngày nắng tươi, nàng đã mời bốn người: Hoàng Nam, Vịnh, và Vượng (gồm có ba ông và một bà) - cùng đi ăn thịt cá sấu ở một nhà hàng thơ mộng, tại vùng quê Bình Thới. Ban đầu mọi người vừa ăn, vừa uống… và rỉ rả chuyện trò vui vui. “Hoàng Năm To Bị” (trong giới nhậu nhẹt xỉn xỉn đã đặt biệt hiệu cho Nam đấy), mở đầu chuyện tiếu lâm đã sưu tầm:

                            Ba gã bợm đệ tử lưu linh đi ăn giỗ ở nhà nọ. Nhậu từ sáng tới tối, xỉn quá, cả ba bò vào căn nhà bếp của chủ nhà, để ngủ tạm. Nửa đêm, một gã mắc tiểu, bèn bò dậy đứng ở cửa tè. Đúng lúc đó, trời đổ cơn mưa, và không hiểu vì lý do gì gã cứ đứng đó cho tới sáng. Một gã khác bị muỗi đốt, ngứa quá bèn gãi lấy, gãi để cái chân gã bên cạnh. Hôm sau, một gã nói:
                            - Uống rượu làm bụng mình to ra. Đêm qua tao đi tiểu từ nửa đêm đến sáng, mà không hết nước!"
                            Gã thứ hai phàn nàn:
                            - Uống rượu làm mình tê dại, mất cảm giác. Đêm qua tao ngứa quá trời, mà gãi hoài không hết ngứa!"
                            Gã thứ ba phụ họa:
                            - Đêm qua tao bị con gì cào chảy máu, tới sáng vẫn không biết!
                            (st)

                            Sau khi ba người đàn ông nầy, mỗi người đã uống bốn lon bia hộp ngoại, vỏ lon để ngổn ngang dưới chân bàn. Có lẽ do tu quá nhiều bia, nên họ ngà ngà say, hay do hai ông kia có ý nói muốn nhắn nhe cho nàng biết rõ về câu chuyện của “Hoàng Năm to-bị" và con “Phở xí Kiêm”, cũng nên. Họ đặt tên con bồ Kiêm là "xí Kiêm", có hai nghĩa: xấu xí & xí phần: Ông Vịnh cười to:
                            - Tui kể cho mấy già nghe chiện nầy:
                            Sau lưng người đàn ông long nhong là người đàn bà long đong.
                            Sau lưng người đàn ông ngoại tình là người đàn bà ngồi rình.
                            Sau lưng người đàn ông bất lực là người đàn bà rất bực.
                            Sau lưng người đàn ông yếu đuối là người đàn bà...chán chuối.
                            (st)
                            Vượng tóc bạc khơi chuyện:
                            - "Hoàng Năm to... bị" thiệt sung sướng quá! ăn chưa no lo chưa tới. Còn tui tui ăn cơm mới nói chuyện cũ… đây bạn. Ông Năm đúng là đào hoa do đào mỏ to mà ra à nhe:
                            Sáng đèo cơm đi ăn phở.
                            Trưa hăm hở rước phở đi ăn cơm.
                            Chiều cơm về nhà cơm.
                            Phở về nhà phở.
                            Tối nằm với cơm nghe thơm thơm mùi phở.
                            (1)
                            Vượng dằn mạnh lon bia cái cộp trên bàn, lắng nghe bạn Vịnh nói:
                            - Hẳn “cụ mi” biết con Kiêm là tình nhân của Vượng nhà ta, từ chín năm nay rồi?
                            - Khà khà! Biết chứ. Tôi đã đọc ở đâu đó: “vợ” là cơm nguội của ta. Mình ăn hoài thấy ngấy lên tận cổ... Nhưng mà phở tái là của cha láng giềng. Tôi ăn phở tái... hì hì tất nhiên ăn bánh trả tiền, có hao tốn tiền bạc thiệt, đôi khi run sợ phải mang bệnh Aid. Tuy vậy tôi vẫn thèm… ăn phở, ăn “thịch”, kèm với ngầu pín và tả pín lù. Mặc dù tôi bị heart attach và protaste, vậy mới "chít".

                            Bây giờ hai ông kia không nói chuyện tiếu lâm nữa, mà bắt đầu nhập đề:
                            - Hẳn là ông Hoàng Năm biết chắc con xí Kiêm là ca va, nó có bốn đời chồng không chính thức, có hai dòng con riêng. Nay con ghẹ ấy vẫn đèo thêm một số tình hờ. Ông biết rõ nó đục khoét của Vượng không biết bao nhiêu của chìm của nổi, kể sao cho hết? Vậy mà, ông còn công nhận mình là bạn già U-70 cuả Vượng nầy ha?
                            - Dĩ nhiên... Chả thế có một bài thơ “tiếu Tức” của THH tả về con xí Kiêm sao, nghe nè:
                            Anh đi vắng, thâu đêm em thức.
                            Cỡi áo vì em đang bức rức...
                            Chỗ ấy bi giờ vẫn nóng nực.
                            Nhìn xuống nhìn lên càng thêm tức.

                            Nhìn lên nhìn xuống đà quá tức.
                            Nhìn qua nhìn lại không có thực!
                            Anh ẵm mụ nào vô xó... xực ?
                            Sao bằng em... múi mít thơm phức!
                            (2)
                            Vịnh đứng dậy, một tay chống ngang hông, ông ta lừ mắt nhìn soi mói vào mặt hắn:
                            - Nay ông đang cặp bồ với con xí Kiêm hử?
                            - Nghe anh Vượng không còn bao con xí Kiêm, họ xù độ rồi mà? Thì tôi cũng muốn ăn phở vui chơi qua ngày thôi... Tui với nó cũng như: “kẻ trộm mới đi ăn đêm. Ai người tử tế ra đường giữa đêm”!? Ừ, tôi nào có hạnh phúc như anh: “Có phước lấy được vợ già. Sạch cửa sạch nhà lại ngọt cơm canh”. Khổ thân! Riêng tôi thì đã hơn hai mươi lăm năm nay: “Đói cơm lạt áo kém hem. No cơm ấm áo lại tìm nọ kia”... Nhất là lúc tôi nhìn thấy phở, thì nước miếng nước mồm tuôn ứa ra bên mép: “Có làm thì mới có ăn. Ngồi không ai dễ đem phần đến cho”. Tất nhiên là tôi phải làm tới, là là... tôi phải tán hưu, tán vượn con ghẹ, con mồi mới chịu đèn, chớp mắt lia chia, nhoi nhoi cái đít vịt ra. Ha ha...
                            Nam cười rất đễu, tiếp tục:
                            - Tôi dùng hết thủ thuật, lân la làm quen, hầu nhữ cho được “con mồi phở”. Tôi tủm tỉm "cừi cừi" nói nói, tôi cố ý lê la tới gù gạ cắn cái phao câu con ghẹ. Nói thiệt với mấy ông nghen, nó xấu xí bỏ mẹ à... Nhưng có hề gì, nó xấn tới xáp lá cà ráo riết, thì tội gì mình không vồ: Tôi mở mòi tán con ghẹ: (có phải xóm em đang… “hôm nay có đám giỗ gần. Trong bụng bần thần em chẳng muốn nấu cơm”, cho anh ăn không vậy? Cưng ui)! Thế là chỉ mươi phút sau, chúng tôi dễ dàng xáp lại với nhau cái rột! “Được đà cứ tiến, được miếng cứ ăn”… Chỉ có vậy!

                            Vượng vuốt ngược nhóm tóc bạc ra sau gáy, ông ta lừ mắt:
                            - Thì có lần chạm mặt nhau, tui đã hỏi Hoàng Năm To bị: “Hỏi anh, anh nói học trò, sao mà tui thấy cỡi bò hôm qua”?! Hừ! Tui thật lấy làm tiếc, khi ông đã làm một chuyện mà tôi thấy một người luôn tự hào trí thức, có tư cách như ông, đều không ai dám làm. Ông là bạn cuả tui, ông thừa biết tui coi con xí Kiêm là “cơm áo gạo tiền” Vượng coi xí Kiêm là vợ chính thức (vì vợ tui đã chết). Chớ có phải là loại “cơm hàng cháo chợ” chi đâu! Mà ông vẫn lao đầu vào, để giật vợ của bạn. Là sao? Hử!?
                            Vượng ngừng một lát. Còn Vịnh thì nhìn trừng trừng vào mặt hắn:
                            - Nhất là, ông không làm gì ra tiền, ông ăn bám “cơm thừa canh cặn”, bòn rút vào con rể việt kiều của ông. Rồi… ông bu bám người đàn bà hải ngoại, ông nói với nàng ấy: “Em chính là tình yêu của anh, em là tình đầu, và sẽ là tình cuối. Ngoài em ra, anh không còn yêu ai, không hề yêu ai được”. Ông dùng tiền của mồ hôi nước mắt những người bạn khác, đục khoét tiền của những người thân khác, mà ăn chơi xã láng. Ông không có liêm sĩ và làm những chuyện ác ôn, táng tận lương tâm, láo lường gạt gẫm bạn bè. Nào ông nói là: “ông bị đau cổ họng có thể ung thư, bị suyễn kinh niên, và tiền tuyến liệt, phải cấp cứu vô bệnh viện không tiền lo, xin bạn tận tình giúp. Các bạn hải ngoại và thân nhân tưởng thật, đã thương cảm, quyên góp tiền gửi về cho ông hậu hỉ.

                            Thật ra ông mạnh như trâu chẳng hề ốm o ho hen gì ráo. Ông đem số tiền ấy đi chơi bời, ăn “phở triền miên”, hầu thoả mãn dục vọng, và tự ái của thằng đàn ông sa đoạ, vì ông cứ tưởng mình hào hoa phong lưu, mà bị vợ bỏ. Ông hận vợ, hận đời. Nói thật với ông nhe: Tại sao ông không nhìn kỹ lại bản thân của ông đi, ông có ác ôn làm sao, thì chắc chắn ông mới bị "cô mối tình đầu từ năm 60", là người ông yêu quý nhất đời lặng lẽ chia tay? Bây giờ tui mới biết rõ cái bản chất của ông, tui nhục nhã khi quen biết ông, ông không xứng đáng làm bạn với chúng tôi nữa đâu. Hèn quá mà!

                            Vịnh trợn mắt đứng nghiêng qua một bên, xỉ xỉ ngón tay thẳng vào mặt hắn:
                            - Chỉ có loài thú “cơm niêu nước lọ” mới trơ cái trán bóng, mặt dày mày dạn ra. Loài chó nó có nghiã, nó cũng không làm cái chuyện đi lấy bậy. Đừng nói ông là con người có học thức cao, mà lén đi húp xái nước lèo, lấy vợ của bạn, rồi đi rêu rao ta có một thời phong lưu đào hoa. Nè, đào hoa cũng có nơi có chỗ với năm bảy hạng đào hoa, phong lưu. Tui vì ông Vượng thân quý, hôm nay tui đến đây là lần đầu tiên tui gặp ông, và cũng là lần cuối cùng nha.

                            Nạn nhân Ngọc Vượng nhìn nàng gật gật gù gù, nháy mắt nheo mày, lắc lắc mái tóc bạc phơ, như muốn trút bỏ cơn say, hay ông ta muốn nhắn nhe gì? Nhưng Vượng là người miền Bắc có giọng nói ngọt ngào, anh khôn ngoan, từ tốn, ảnh nhẹ nhàng can ngăn bạn thân:
                            - Thôi ông ơi! :
                            “vợ là địch.
                            Bồ bịch mới là ta.
                            Khi chiến sự xảy ra.
                            Ta buộc về với địch.
                            Nằm trong lòng địch.
                            Rục rịch ta nhớ ta”.
                            (1) Ông xĩn rồi. Tụi mình đến đây mục đích là thăm chị Thương Mười, vui gặp chị cho biết ân tình xí... Thôi. Để tui đưa ông đi về gấp nà...
                            Vịnh hất tay bạn ra, cự nự:
                            - Tui phải nói cho thằng chả sáng mắt ra. Thật là ngu, khi hắn có người yêu qúy xa xưa, dám từ bỏ tất cả, để tới với hắn, chị Mười từng chăm lo và thủy chung với hắn như vậy, mà hắn còn đi tơ tưởng, khèo móc tùm lum, hắn lại dở trò bú dù với vợ của người khác. Xấu hổ, hãy mở mắt ra mà quay về với người xưa, cố nhân đã từng yêu ông suốt 45 năm qua đi: “Hoàng Năm to bị” cứ tưởng con ruồi nằm trên lưới mạng nhện, thì dễ dàng thoát thân những con ghẹ từng hút máu ông sao. Nghe nè... :

                            Bồ là cô gái qua đường
                            Vợ mới trân quí nhớ thương vô vàn.
                            Bồ thì nũng nịu than van
                            Vợ lo nhà cửa lầm than vô cùng.
                            Bồ hay mơ mộng mông lung
                            Vợ rất thực tế vô cùng đáng yêu.
                            Bồ luôn đòi hỏi đủ điều
                            Vợ lo cơm sáng cơm chiều quanh năm.
                            Bồ chỉ lo chuyện ăn nằm
                            Vợ thường chịu đựng cả năm mới tài.
                            Bồ nào nghĩ đến tương lai
                            Vợ lo tính toán chuyện dài mai sau.
                            Bồ thì chưng diện muôn màu
                            Vợ chỉ quanh quẩn trước sau trong ngoài.
                            Bồ luôn đòi hỏi, ăn xài
                            Vợ thì vun xén một hai ba đồng...
                            (1)

                            Hai ông bạn già đứng dậy, nháy mắt chào nàng rồi ung dung tự tại bá vai vít cổ, dìu nhau ra bãi giữ xe. Anh tóc bạc chở anh tóc hoa râm đi, tràng cười ha ha ha… lướt thướt lùa trong gió, rớt lại sau tấm lưng “Hoàng Năm to bị”. "Thằng chả" hai tay bưng lấy mặt, cúi gục đầu, hắn nhiên Nam đã nhận gáo nước sôi tạt vô mặt đau điếng. Mặt mày Nam thộn ra, sượng sùng, tái nhợt rồi bừng bừng đỏ au lên, Nam trợn mắt, hàm răng nghiến trèo trẹo.
                            * * *

                            Do sơ ý khi nàng mở nắp lon bia cho chàng, (bây giờ nàng bắt chước mấy ông già U 70 kia, không dám thân thiết âu yếm gọi anh là Hoàng Phương Nam nữa, mà gọi là Hoàng Năm To Bị), nên miệng lon đã cứa đứt cạnh bàn tay và hai ngón tay của nàng, chảy máu. Lẽ ra, thì chỉ đau nhức ở cạnh bàn tay và ngón tay thôi. Nhưng không hiểu sao nàng lại nhói lên từng cơn đau đớn ở bờ ngực trái kinh khủng!? Dường như có ai thọc con dao găm vô trái tim nàng ngoáy sâu lút cán vậy. Đau ghê lắm! Tình bạn già và tình yêu mà nàng tưởng lầm là: thần tượng, lý tưởng cao vời, nay đã lố bịch sụp đỗ, rơi tỏm xuống vũng bùn.

                            Buồn lòng và cay đắng nghẹn ngào, đau xót nhất là: từ nãy giờ lắng tai nghe lời họ nói, nàng mới bừng tỉnh, mắt nàng mở ra, cảm thấy sự thật phũ phàng qua những điều sống-sượng quá trơ trẽn. Nàng nhận chân được giá trị về sự mỉa mai và đau xót khôn lường: Hoàng Phương Nam có một thời hào hoa và phong lưu, (dựa vô gia đình cha mẹ giàu sang, mặc sức con hào phóng ăn chơi với ai ai, chứ chẳng hề có nàng dự cuộc, dù một món quà nhỏ). Nay tự bản thân "Hoàng Năm to bị" chỉ là một kẻ hèn mọn, là tên lường gạt lố bịch, quá thô bỉ và tầm thường mà thôi.

                            Nàng khá choáng váng, bất ngờ, hốt hoảng tột độ, đờ đẫn cả người, ngượng nghịu ngồi chết trân, không kịp phản ứng. Chao ơi là đau kinh khủng! Mười chỉ biết ngậm ngùi xót xa, kèm theo những tiếng thở dài thườn thượt, lặng lẽ suy tư. Mười im lặng suốt từ đầu đến cuối, sửng sốt, trợn mắt, há hốc miệng chăm chú nghe họ kể về “chàng”. Mười cắn mạnh môi ngăn chặn mọi đảo lộn khác thường. Trong tim Mười dẫu sao cũng có chút bừng bừng cơn sốt, tiếc thương vang vọng trở về mỗi lần có người nào vô tình gợi nhớ đến “người xưa”. Thuở trước, ngày xa xưa ấy, khi nàng và cố nhân mới yêu nhau, trái tim nàng bừng bừng co siết nhiều giọt mật say sưa cuồng quay trìu mến, dạt dào tình âu yếm. Tình yêu cuốn trôi mọi thứ đến tận tơ rung từng tế bào run rẩy, nồng nhiệt lẫn đam mê, nhưng khá trong sáng và êm ái, làm phẳng phiu mọi buồn đau trong lòng nhau.

                            Rồi thì bức biếm họa tình cảm có hai chân ngang trái, có bước thấp bước cao, lạnh lùng chụp mũ lên đầu hai người ra đi. Quá khứ hay tương lai như hòn sạn khô niêm kín giữa hai hàm răng nghiến chặt. Dẫu khát khao, quay quắt về cuộc tình xưa kia ôm nhiều kỷ niệm tái tê, khiến nàng đau đớn, chới với, hụt hẫng như bong bóng bay cuốn hút lên trời. Cuộc sống ấy đã có một thời đầy cạm bẫy, phức tạp, éo le, chua chát, dày vò... đi vào căn nhà định mệnh từ tiền kiếp tới hôm nay. So sánh và nhận định một người thân yêu có hai mặt xưa và nay: Nàng xót thương, dày vò, ân hận… hối lỗi, lẫn tôn trọng, kính yêu chồng cao thượng và thương các con lắm. May mắn hết sức là bây giờ Mười đã dứt khoát bay thoát ra, tình cảm không cho phép nàng tiếp tục dệt mộng trên bãi cát vàng với “cố nhân”. Để rồi, khi bừng tỉnh giấc mơ, Mười nghe bạn bè ai ai cũng nhắc tới tên “Hoàng Năm to bị” với nhiều điều xấu xa, thô bỉ kinh dị… hơn là sự tốt đẹp của một Hoàng Phương Nam thời dĩ vãng vàng son 1960 một thuở; khiến Mười ngao ngán bỗng giật mình, lạnh toát cả người. Hết lòng tạ ơn Trên! Thì ra con chưa phải là người “xấu số”…

                            Từ ngày xưa đến nay nàng chỉ: “Tri nhân tri diện, bất tri tâm. Hoạ hổ hoạ bì, nan hoạ cốt” (thấy người thấy mặt, không thấy lòng. Vẽ hổ vẽ da, không thể vẽ xương). Càng về lâu về dài thì nàng mới biết: "Hoàng Năm to bị" ích kỷ vô cùng, anh muốn thoải mãn bản thân thôi, mà quên đi đạo đức tất yếu của con người biết tự trọng. Lòng tự trọng không ngăn nỗi tính già khú vẫn "háo thắng phong tình", và tội lừa phỉnh mọi người ùa về. Năm yêu bản thân riêng mình đến độ hèn hạ, mất thể diện và ô danh. Tính nào tật nấy, ngựa cũ quen đường xưa, đồng thời Năm chuyên lợi dụng người khác, sự lạm dụng trắng trợn đầy bất nhân, thất đức:

                            Thời xuân trẻ trai tráng cho đến bây giờ, không khác gì nhau: > Năm từng đi ngủ với nhiều hạng người: Từ bà chủ chứa gái từng lấy guốc sắt đập trên đầu Năm đã lõa máu tươi, (chỉ vì anh từng ngủ với bà ta, mà còn ngủ với con ghẹ trẻ, là con riêng của bà ấy, nên bà ta ghen thôi!). Khi Hoàng Năm bỏ hai mẹ con bà ta, thì năm 2000 tiến tới con bé ăn sương bị mù loà, tối tối con nhỏ đứng chờ bên hẽm Hai Bà Trưng, để đón khách đưa lon xin tiền. Hoàng Năm dám khoe với nàng và bạn bù khú điều ghê tởm đó, mà anh không hề đỏ mặt; như là một sự hào hoa, bay bướm, lả lướt, phong lưu của con đĩ đực!

                            Từ hồi xa lắc, cũ rích thuở mười tám hai mươi, Năm đã dan díu với mụ già khú Tư Râu Rậm ở gần nhà, mụ ta hơn tuổi Năm tới một con giáp, có chồng và sáu con, con gái của mụ nhỏ hơn Năm ba tuổi. Rồi; Năm lăng nhăng với “bà phở” bên sát hông nhà, Năm dám cả gan tò te với bà xồn xồn nầy đã có chồng con. Nói nào ngay dù có chồng, nhưng “gái một con trông mòn con mắt” mà. Năm thèm quá... ngồi ở góc cửa nhà mình, dòm lom lom qua nhà mợ kia, Năm canh me rình rập, khi chồng “mợ phở” đi vắng, Năm liền đảo qua lượn lại, tằng hắng tì hí, nháy nhó, thì thụt rủ rê “mợ phở” qua nhà. Con mợ ấy làm bộ ôm túm quần áo qua nhà Năm, để ủi nhờ. Hòang Năm liền đè “mợ phở” ra trên gác xép và lấy mụ. Có ngờ đâu con gái út của Năm ở trong phòng, vô tình con hé cửa nhìn thấy hành vi của cha. Kể từ đó các con ra mặt phản đối, khinh bỉ biết chừng nào!

                            Nhiều lần sau, Năm nháy nhó hẹn mợ phở xồn xồn đi du hí mặn nồng ái ân nơi khác, thì một hôm chuyện tồi tệ bị đổ bể; khi Năm gò lưng trên chiếc xe đạp, chở mợ phở ấy về gần ngỏ nhà, thì đôi gian phu dâm phụ bị chồng của mợ phở rình rập, và bắt gặp quả tang. Chồng của mợ phở nổi cơn lôi đình dzợt hắn một tăng te tua. Thằng chồng của mợ phở cầm con dao nhíp, lăm le đòi lụi Năm. Hoàng Năm đã sụp quỳ xuống giữa lề đường góc Hiền Vương và Hai Bà Trưng. Mặt bầm dập sưng u, đỏ mặt tía tai, Hoàng Năm dập đầu xuống sát lề đường, hai tay chắp lại lạy lục ông chồng của mợ phở lia lịa, như tế sao. Năm khẩn cầu, van lơn xin “ông” tha mạng, (trước bao nhiêu kẻ qua người lại, kể cả mụ Tư Rậm ở ngoài sân nhà mụ ta, và hai đứa con gái thứ, con gái út của Năm cũng thấy. Các con kể lại cho nàng nghe). Ông chồng của mợ phở bị mọc sừng, mà còn lưu lại chút tình người, thật ra ông ta giữ sĩ diện gia phong của riêng mình, chứ không tử tế gì, và không vô liêm sĩ như cái thằng đã quỳ mọp dưới đất, mà tha chết cho Năm. Ông chồng của mợ phở sợ thằng hàng xóm 35 xấu nết quá, ổng lo bán nhà gấp, tức tốc thu dọn vợ con đi mất biệt!

                            - Tính nào vẫn tật đó, Năm quơ cả bà Nga nghèo khổ buôn mồ hôi bán nước mắt, tay bưng thúng xôi vò ngồi bệt ở vỉa hè ở đầu ngỏ Hiền Vương. Ngày ngày Năm ghé xe đạp qua góc đường, ung dung lấy vài ba vắt xôi. Bà ta thương yêu con người phong lưu kia, luôn dúi cho gói xôi, kèm chút tiền com cóp nhặt nhạnh trong thời kỳ mới hoàn tất cuộc cách mạng 75 – Kế đến bà Lan, là bạn nhậu bù khú với nhóm của hắn, bà ta tu rượu như uống nước lạnh, thời gian đó Năm bị vợ bỏ, đã say bí tỉ, nhậu nhẹt ly bì không biết trời trăng. Bọn họ ăn nhậu say sưa, khèo móc nằm la liệt ôm nhau làm tình chung chạ chẳng hổ ngươi, họ không phân biệt “ông bà” như cá mè một lứa, như loài thú hoang ở ngoài chợ ngoài đồng, nhất là "xí Kiêm" mặt ngựa thô thiển xấu xí, ốm nhom ốm nhách, giơ ra cặp “trường túc bất chi lao” khẳng khiu, giọng nói bà ta lơ lớ, đanh đá, hung dữ, bặm trợn hết biết. Mấy người đó chả giống con giáp nào! (như Năm đã tả chân về những đàn bà đó, khi xỉn xỉn, Năm thường oang oang kể cho bạn, hoặc cả nhà nghe, mà không cảm thấy xấu hổ); lớn, bé, già, trẻ, “thằng chả” cũng bòn mút liếm láp hết, không tha.

                            Hoàng Năm đã dùng lời lẽ ngon ngọt đúng “một tông y khuôn đúc” đem ra sao chép, để phỉnh lừa họ. Chỉ vì Năm muốn dùng những người đàn bà kia, để thoả mãn tự ái: Ta vẫn còn phong lưu, hào hoa, phong độ, có sức chinh phục mê-hoặc quý đàn bà nhẹ dạ, vì cái vỏ bên ngoài trau chuốt khá đĩ trai, Năm ưa dùng nước hoa sực nức mùi thơm dạ lý hương xịt quanh người. Hoàng Năm hận! bị vợ ly dị, (vì sự sa đọa trác táng chính mình). Nhất là Năm muốn trả thù đàn bà, muốn che đậy niềm đau đớn đã bị người con gái xưa kia mình rất yêu, thế mà “cô nàng”… bỏ rơi Hoàng Năm. Năm đã lường gạt tiền của bạn bè, và tiền của người yêu đã gửi về lo cho mình đầy đủ mọi phương diện.

                            Sau khi chia tay người mà Năm rất yêu, (nàng không còn lo cho Năm nữa), thì Năm túng thiếu vô cùng, Năm bán tống bán tán cái nhà, để mua một căn nhà nhỏ ở Gò Vấp, vả đưa "mụ phở xí Kiêm" về chung sống như con vợ hờ lòi tói. Năm dùng tiền bán nhà ở Quận I, để mua nhiều vé số cặp, may mắn thay Năm đã trúng 6 tỷ bạc. Và vẫn do… Năm muốn ăn cho khoái khẩu, nên Năm bị “phở xí Kiêm” mụ nầy là tay không vừa, rất tinh quái và thủ đoạn, thật là võ qúit dày có móng tay nhọn. Mụ xí Kiêm mơn trớn dụ khị Năm, nghe bùi tai và đừ đẫn, Năm sang tên cho mụ căn nhà mới mua! đồng thời Năm đưa tiền cho mụ ta đứng tên tài khoản riêng là 80 triệu đồng tiền VN, để mụ ta có hiện kim, hiện vật làm bảo chứng, "nhà nước" sẽ chấp thuận cho họ tung tăng diễu trên đất Mỹ. Năm đinh ninh rằng mụ ta sẽ làm giấy tờ đi Mỹ du lịch với mình. Nào ngờ mụ xí Kiêm có chủ ý hẳn hoi, nên khi vô phỏng vấn, mụ xí Kiêm ú a ú ớ, làm bộ ngu ngơ, giả nai, ấp úng, thì thọt, nháy nhó. Nên mụ xí Kiêm bị Mỹ từ chối. Trúng kế mụ xí Kiêm rùi! Thế là Hoàng Năm đành đi du lịch mình ên.

                            Ở nhà, mụ xí Kiêm tom góp tiền bạc, vì mụ Kiêm biết Năm lại vi vút phong lưu với một con đàn bà khác. Mụ xí Kiêm chả thèm ghen tuông gì, mụ ta chỉ cần bắt tại trận, là xong béng. Thế là mụ Kiêm tống cổ hắn ra khỏi chính cái nhà mà “anh yêu” đã sang tên cho mụ! Mụ xí Kiêm không yêu mến gì Năm, bấy lâu nay mụ ta sống với Năm chỉ vì tiền. Châm ngôn của mụ xí Kiêm: "đàn ông không thiếu giống gì, không là cái thá gì, không ông nầy thì có ông khác. Chỉ có tiền là trên hết".

                            Nhân dịp Năm khăn gói lên đường đi Mỹ nầy, mụ “phở xí Kiêm” ở nhà dọn sạch đồ đạc của hắn vất ra khỏi căn nhà, mụ thay ổ khoá cho hắn ra rìa! Ồ! đúng “hắn” là thằng ma cô, thì gặp con phở xí Kiêm ta đây Tú Bà, là ma cạo! Hoàng Năm hận vô cùng. Thế là… sau đó có rất nhiều chuyện kinh thiên động địa đã xảy ra… “Phở pin ngầu tả pín lù nhà hắn” đã bốc hơi thúi thum thủm ra thành phân, thúi hoắt mất rồi! Than ôi!

                            Quý anh thân kính ơi! Nếu chung thủy & chân thành thương yêu “cơm” xin hãy sớm lìa xa “phở”. Chớ có dại dây dưa, mà hại thân già! Mình khổ! Xin hãy nghe lá mơ khuyên bồ không ăn phở:
                            Bồ tôi chỉ thích ăn quà…
                            Về nhà lén vợ qua phà ăn thêm.
                            Phở bò gân tái sụn mềm…
                            Ăn cơm quá ớn Bồ thèm phở… rơi!

                            Phải chăng duyên phận do Trời?
                            Bồ tôi có đủ… đầy vơi các nàng!
                            Nước hoài chàng chớ mơ màng.
                            Ngày đêm nút chát với nàng vi vu…

                            Mặc dù con vợ lù đù!
                            Khui ra Bồ đã nhảy dù bao phen…
                            Xấu chàng hổ thiếp phận hèn.
                            Tên anh sẽ phải lem nhem danh đời!

                            Khôn ngoan chàng hãy nên rời.
                            Từ nơi “phở tái”… “cơm” thời xa anh!
                            Lôi thôi lốc thốc sao đành.
                            Tối ngày chàng ngủ gốc chanh hận đời.

                            Chẳng ai màn tới Phở dai…
                            Chàng ra nông nổi tiếng hoài thị phi.
                            Thử coi chàng bỏ lần ni.
                            “Cơm” không có mút nói gì “Phở” thiu!

                            Chẳng qua em chỉ vì yêu.
                            Khuyên chàng khuya tối sớm chiều bên em.
                            Vòng tay ấm áp xiết thêm.
                            Trải giường mơ lá mình êm chàng nằm…
                            (2)
                            *

                            (1) Thơ sưu tầm lượm lặt.
                            (2) Thơ tiếu lâm Tình Hoài Hương
                            (3) Tục ngữ & ca dao...
                            ***

                            Tình Hoài Hương
                            Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-27-2017, 12:50 AM.
                            Bút trần nào tả được lưu luyến!
                            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                            Tình Hoài Hương

                            Comment


                            • Khi Người Lính "Thua Cuộc..."



                              Khi Người Lính "Thua Cuộc..."
                              Tình Hoài Hương
                              *

                              Hầu như suốt hơn hai tuần qua, nhóm di tản chúng tôi hùn tiền để nấu cơm ăn chung, tối tối ngủ nhờ ở trong góc vĩa hè, (dưới mái hiên nhà thờ Huyện Sĩ). Lòng tôi trĩu nặng nỗi ray rứt muộn phiền, sầu đắng theo từng cơn lắc léo luồng chảy trên dòng đời phức tạp, điệp trùng núi tiếp núi đồi tiếp đồi, chập chùng bóng tối hoang vu, tĩnh lặng kỳ lạ. Người ta càng ồn ào, náo nhiệt buôn buôn bán bán, đổi chác bao nhiêu thứ lăng xăng, thì tôi càng lo lắng, bồn chồn, ray rứt bấy nhiêu. Tôi cảm thấy lạc lõng, bơ vơ, dường như bị bỏ rơi giữa đời, không nơi nương tựa. Cuộc sống dày vò tôi suốt đoạn đường ly hương trên quê cha đất tổ; khi chồng tôi cầm tờ giấy trình diện đi “học tập cải tạo” mười bốn ngày, (than ôi 14 ngày, hay là mười bốn năm, nào ai biết!!!) được ghi thêm câu thòng-lọng:

                              - … , sau nầy nếu cần, phải trình diện theo đường lối khoan hồng.

                              Mấy bạn cùng chồng tôi đứng xớ rớ ngoài gốc cây sao, gần trung tâm trình diện, họ đã nghe cán bộ phóng loa thông cáo thứ hai ra đời:

                              - Quân nhân cấp: Úy, Tá, Trưởng phòng, Trưởng ty, Sở, đi học một tháng!

                              Một ông thượng úy khác dõng dạc thòng thêm câu:

                              - Các anh có biết: Jean De Lattre De Tassigny không? Ông ta là Tư-lệnh quân đội viễn chinh Pháp đấy.

                              Ông ta có cậu con trai là trung úy Bernard De Lattre, vào tháng 5 năm 1951 tên Bernard đã bị đàn anh của chúng tôi, (mà hồi xưa thường gọi các “đồng chí” ấy là Việt Minh đấy), chặt đầu tại Ninh Bình. Các đồng chí ấy cột cái xác không đầu vào thân con trâu, họ phát một cái rõ mạnh vào mông con trâu, thế là con trâu ù té chạy xộc vào trong đơn vị trú đóng của Bernard. Khiến quân đội viễn chinh hoảng loạng, chúng lo đầu hàng gấp, cút xéo về Tây, chạy có cờ! Bọn thực dân mà còn sợ kinh như thế, huống hồ ai… Hử?

                              Rợn người! Dẫu Luật thì-thầm bên tai, nhưng tôi chẳng thể nghe gì. Tôi chỉ thấy tiềm ẩn trong tâm tư: hình ảnh diễm kiều của đường chiều trong dáng hoàng hôn ve vuốt, nâng niu bao ước vọng thanh bình, an ấm của con người thuở xưa bay bổng lâng lâng dâng lên cao vút. Nay đã phũ phàng rơi cái độp xuống vực thẳm mênh mông không đáy. Rồi sẽ ra sao đây khi anh (chồng tôi “cù lần, dại... dột nghe người ta ngọt ngào lừa phỉnh”), Luật đã dứt khoát rủ bỏ tất cả, để rứt áo ra đi... vô trại tập trung, mong tiến tới ngày mai, anh dấn thân tới vùng tương lai mù mờ, sâu hoắm, mịt mùng, mà tôi không thể; không làm sao ngăn cản anh nỗi)!? Vì Luật lý luận với tôi:

                              - Cái bóng vinh quang của anh (trước ánh mặt trời) đã lùi lại sau lưng, quá khứ đối diện với hiện tại mới là chuyện cần đương đầu với tương lai. Cuộc sống mới ra sao, không quan trọng nữa; mà mình cần biết là ta đang sống, sẽ sống với ai, làm gì với ai. Em à.

                              Phía sau và đằng trước con đường đầy sương mù đó, hầu như còn đọng lại cái nhìn gay gắt, lạnh lùng (của con tàu định mệnh) có nửa quá khứ hào hùng, và nửa tương lai mù tối, đang trôi lênh đênh theo từng cuộn mây trắng đục trên đầu. Rồi sẽ ra sao nữa đây? Khi chồng tôi ở một nơi nào xa xăm biền biệt không tin tức, và tôi: bà vợ ngu ngơ đần độn, cùng bầy con ngây thơ thủng thỉnh dò dẫm từng bước thấp cao, với mẹ già lum khum một nẽo rị mọ đớn hèn, chúng tôi cùng dắt díu nhau phiêu lãng lang bạt nơi nao? Bao tủi nhục làm thân cô thế khô, tôi sẽ biến dạng làm con rùa lọt tọt, con cò lẹt đẹt âm thầm lặn lội kiếm sống trong Mười Tám Thôn Vườn Trầu Bà Điểm, Hóc Môn? Chao ôi! Da diết buồn đau biết mấy!!!

                              Chẳng hiểu sao lòng tôi dấy lên một cảm khúc quặn lòng, đớn đau, chua xót, đắng cay, nghèn nghẹn ứ nghẽn vô bờ?! Tôi cảm thấy dường như mình hẩng hụt, chơ vơ, lạc lõng khát khao từ mọi phía. Hơn hai tuần đã qua, mắt còn ngái ngủ, bỗng chốc tôi bàng hoàng gặp giữa khuya trùng trùng lớp lớp, toàn những khuôn mặt xa lạ, lạnh lùng, thô thiển và bất nhẫn. Chúng tôi lo sợ những cuộc trả thù triền miên đột nhiên dội vào đời. Cơn sốt “Hòa-bình” trong âm mưu chính trị đã đến, nhiều kẻ hắc ám hí hửng hân hoan, reo vui, mừng rỡ đón chào khách lạ phương xa. Cũng có người bồn chồn, lo sợ tột cùng, dè dặt, bơ vơ, đầy ngao ngán, lặng im, tò mò, hiếu kỳ, và nhút nhát rụt rè như tôi. Mọi người mưu tìm cho chính thân cuộc sống mới, đầy bon chen, kỳ thị, chính kiến từ cơn lốc cao độ trong nền chính trị (“30/4 giống đúc đêm giao thừa”)!

                              Chiến cuộc giao tranh tàn khốc thì đổ máu, hận thù, tang thương, cay đắng, và chết chóc. Còn hoà bình lại ngậm ngùi bi thương ở muôn mặt khác. “Thanh niên phụ nữ 30” từ đâu đâu chả biết, ồn ào hí hửng đeo băng đỏ, mang súng AK đi đầy đường. Đám thanh niên ngồi trên xe lam phóng loa kêu mọi quân nhân và công chức đi trình diện. Đột nhiên họ trở thành những tay “sừng sỏ”, là những ông Trời con đầy uy quyền nhất trong buổi giao thời lộn xộn kinh khủng nầy. "Nhân, nghĩa, trí, tín" của những tên đeo băng đỏ chẳng khác nào bàn tay lật ngửa là trắng, khi úp xuống thì mặt đen lòi ra.

                              Tôi ngậm ngùi mãi suy nghĩ về: “quyền lực” trong buổi giao thời thật vô cùng chua xót và đớn đau!!! Quyền lực là một cây kiếm không có khả năng: nói, nghe, nhìn... Khốn thay nó lại cảm thụ trong nội tâm từ âm thanh, là con dao hai lưỡi, chỉ cần có người thách thức với "ta", bất kể người đó là ai, thì nó cũng có thể chém xuống những lát kiếm nguy hiểm; và bước vô trận chiến để tranh giành ngôi vị mà sinh tồn.

                              Quyền lực có hai mặt: Có điều đúng và có điều sai. Quyền lực mà ai đang nắm trong tay (cho dù đó là kẻ chiến thắng) không phải do lưu manh gian trá, lừa lọc tước đoạt, giành giựt. Mà, quyền lực cần dung hòa, thông cảm, độ lượng, chia sẻ lẫn nhau, có lẽ phải, và nhận biết điều trái. Để bảo đảm mọi điều ta đang hoài bão về lý tưởng hằng ước ao: Không vinh quang nào mà không trả giá bằng gian khổ, mồ hôi, nước mắt, máu; ngỏ hầu duy trì sự trường tồn cho một dân tộc (cần có tự do nhân quyền, độc lập và hạnh phúc vinh quang thực sự).

                              Thế nên, khi mọi quân nhân của Quân-lực Việt Nam Cộng Hoà tuân phục thông báo mới ấy (của phe "giải phóng" 30/4), thì họ đã tấp nập chen lấn xô đẩy nhau đến các nơi tập trung, để làm giấy tờ. Thậm chí những quân cán chính ở trong chế độ cũ quả thật “cả tin, hiền triết” răm rắp chấp hành thông báo, quy phục theo lệnh lạc mới ban hành của “nhà nước vĩ đại”, là toàn thể sĩ quan và công cán chính đều tập trung đi trình diện cách mạng. Họ nộp giấy tờ tùy thân, được phát cho một tấm giấy viết tay nguệch ngoạc chứng nhận đã trình diện với ủy ban giải phóng. Họ xin giấy phép chứng nhận đi đường, ở các bến xe đông nghẹt người, họ ngủ lại đêm nầy qua đêm khác, tuần nầy qua tuần khác, ngỏ hầu mong có chuyến xe đêm, trở về nguyên quán, để trình diện Ủy-ban Giải-phóng địa phương. Người ta xì xầm to nhỏ và riu ríu tuân theo. Không ai muốn hó hé động đến “cách mạng Việt+ phi thường”, vã chăng ai ai cũng muốn đất nước thanh bình, thịnh trị, để toàn dân yên ổn an cư lạc nghiệp.

                              Chính bởi họ là “Quan”... của một chính phủ Việt Nam Cộng Hòa: do quan VĂN lấy trí, dùng lời để luận người, sống chết vì lời nói, cây bút, công tâm vi thượng. Quan VÕ lấy sức dùng tài sống chết ở sa trường, xã thân ngoài chiến địa, da ngựa bọc thây, là chuyện thường. Hai loại QUAN cộng với Tướng, Tá, Úy, Binh... đều tương-đồng: trọng NHÂN, trọng chữ TÍN (chữ tín rất quan trọng) trọng NGHĨA, bảo vệ lãnh cư và dân tộc; họ lấy trách nhiệm và danh dự làm gốc, để lập thân, cùng nhau ôn hòa chung vai nếm mật, và chia sẻ với DÂN mà cộng khổ ; ngỏ hầu trải qua: “Chua. Cay. Mặn. Ngọt. Bùi. Đắng. Lạt. Trong”.

                              Vậy thì, “Việt+ cách-mạng lâm-thời” muốn có tất cả, thì họ phải chiếm được lòng dân, phải được dân tôn trọng. Muốn có sự tồn sinh của một đất nước phục-hưng vĩnh-thịnh, và một dân tộc giàu mạnh phú cường... điều ấy sẽ tùy thuộc vào các cấp chấp chính lãnh đạo đất nước: nếu họ anh minh, chính trực , thì họ có cả thiên hạ, và dân tộc ấy sẽ trù phú, vinh quang, đất nước ấy thái bình, tự do, hạnh phúc trường tồn thật sự! Cuộc đời như một trò chơi, một ván cờ... cho đến lúc nào đó ta phải có sự chọn lựa, cân nhắc, dứt khoát quyết định, và đặt hết nhiệt tình tin tưởng vào trò chơi đó. Ai may mắn “thắng” chưa chắc là do mình hoàn hảo, tuyệt vời; hoặc người “bại” sau cuộc “đổi đời” không hẳn là kém, mà trớ trêu thay người thua cuộc (không phải quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà là người thua trận chiến, mà là "người thua cuộc cờ... ; trên bàn cờ quốc tế"), thì chắc chắn họ sẽ bị kẻ thắng lừa, trả thù, và hại cho thê thảm...

                              Nhưng họ vẫn can trường chấp hành, tuân phục điều luật do “Việt+ nhà nước” mới thành hình ban hành. Họ tuân phục chấp nhận đi trình diện “học tập cải tạo trong tù” 14 ngày, (như cách-mạng lâm-thời đã ra rã rao truyền trên những loa phóng thanh đặt khắp các nẽo đường); cũng có nghĩa là quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà trọng chữ tín, và tận trung muốn tìm ra con đường chính nghĩa đứng đắn, không lừa đảo và bội tín. Họ đi tìm hạnh phúc thực sự không tự đến (trong tương lai mù sương), mà ta phải quyết giành về cho tổ quốc, cho quê hương, cho gia đình và riêng bản thân. Vì sức trai hào hùng tung hoành vẫy vùng dọc ngang qua bốn bể:


                              Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
                              Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
                              Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
                              Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
                              Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
                              Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
                              (*)

                              Tôi trộm nghĩ: “khi người đàn bà (hoặc đàn ông) đã thành thật yêu ai, thì họ cố bảo vệ, tôn trọng, duy trì hạnh phúc đến phút cuối cùng. Họ đặt hết niềm tin tưởng, yêu mến thiết tha, và trân trọng ngưỡng vọng người ấy... Nhưng khi họ biết rõ mình đã bị lừa gạt, (cả ba phương diện: tinh thần, vật chất và thể chất), họ đã bị cái gọi là “cách mạng lâm thời 30” thô bỉ phản bội; thì trong lòng họ (đa số) rất tức giận, uất hận... và chỉ muốn tìm cơ hội phục hận. Thế nhưng theo thiển ý của riêng tôi thì: những người bị gọi đi “Tù” trên danh nghĩa: “học tập cải tạo”; khi biết mình đã bị trắng trợn “lừa vào rọ tù”, (tù; vì tội yêu quê hương, yêu tổ quốc, yêu đồng bào, họ phải đi “học tập cải tạo” có ngày đi, mà không biết có ngày về, chẳng có án tù:

                              Đó chính là một biến thể của cú bất nhẫn ác ôn khi quay giò lái, đã minh định sự trả thù bỉ ổi về hai ngã rẽ cuộc đời đối nghịch tất yếu, vì chính kiến. Đó là hình phạt trắng trợn, đê hèn, và ghê tởm của con người đối với con người). Ấy thế mà “người can trường trong chiến bại” vẫn ôn nhu, kiên trì, khoan dung, vị tha, bao dung và chịu đựng, nhẫn nhục, xót xa, cam phận; ngỏ hầu cho “trải sự đời”:


                              Ăn ở sao cho trải sự đời.
                              Vừa lòng cũng khó há rằng chơi.
                              Nghe như chọc ruột, tai làm điếc.
                              Giận đã căm gan, miệng mỉm cười.
                              Bởi số chạy đâu cho khỏi số.
                              Lụy người nên mới phải chiều người.
                              Mặc ai chớ để điều ân oán...
                              (*)

                              Họ thành tâm muốn hòa mình với cỏ cây và nhân quần, để níu lấy cơ duyên “làm lại cuộc đời”. Nếu họ có buồn, có đau đớn, có đắng cay, khổ sở và cơ cực (chắc chắn là khổ cực trăm bề rồi: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại mà”. Một ngày trong tù bằng ngàn thu ở ngoài), thì họ cay đắng ngậm bồ hòn, xót xa tự trách thân:

                              Ngồi buồn mà trách ông xanh,
                              Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
                              Kiếp sau xin chớ làm người,
                              Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
                              Giữa trời, vách đá cheo leo.
                              Ai mà chịu rét thời trèo với thông
                              (*)

                              Vô cùng khó khi họ đã u trầm, chua xót, đắng cay, nghẹn ngào, lặng thinh, ẩn nhẫn trong cách đối nhân xử thế! Tôi xin nghiêng mình ngã mũ cung kính chào qúy vị “Tù Cải Tạo” (chữ “tù cải tạo” được riêng tôi, và có thể nhiều thế nhân trang-trọng, tôn vinh trong hai cái “ngoặc kép”). Đáng trân-trọng và khâm-phục lắm thay!
                              *
                              (*) Thơ: Nguyễn Công Trứ
                              _ * _


                              Tình Hoài Hương
                              Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-27-2017, 01:06 AM.
                              Bút trần nào tả được lưu luyến!
                              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                              Tình Hoài Hương

                              Comment


                              • Chứng Nhân Một Sự Kiện Lịch Sử:

                                Chứng Nhân Một Sự Kiện Lịch Sử
                                (Về Ngày 2 tháng 11 năm 1963)


                                Sau những chấn động kinh khủng xảy từ vụ hăng say hoạt động cách mạng, chống đối, xuống đường biểu tình biểu tọt liên miên bùng nổ, thì lúc nầy tình hình chính trị tại miền Nam Việt Nam như chiếc ghế cũ, chỉ còn ba chân gập ghềnh càng ở vào giai đoạn “dầu sôi lửa bỏng”. Vì Dân tôi nghiệm thấy đằng sau hậu trường có bóng dáng của những tay “mưu đồ chính trị chuyên nghiệp”, họ đã giựt dây, ngầm tạo ra sự vô tổ chức về những đợt sóng bạo loạn.

                                Có tình trạng những kẻ "trẻ người non dạ rất hỗn”, hầu lợi dụng thời cơ… vênh váo thừa nước đục thả câu, điều nầy sẽ rất nguy hiểm khi họ có quyền lực trong tay, mà không biết ôn nhu, khoan hoà, khiêm tốn, khôn ngoan, nhất là phải tri thức và trung dung. Nói chung, tình hình chính phủ lúc đó quả thật là một xã hội rối rắm như mớ bòng bong, đang trôi bồng bềnh trên biển cả, giống như một chiếc tàu không người lái. Mặc ai muốn làm gì thì làm. Luật pháp bị xô ngã, nhường bước cho sức mạnh bạo lực hổn độn lên nắm chính quyền điều hành.

                                Dạo ấy, các bạn sinh viên năm thứ hai Văn Khoa, cùng Vì Dân tuy còn rất trẻ, nhưng nàng có nhiều băn khoăn, đắn đo, bâng khuâng suy nghĩ về khả năng, tài đức… của những vị “lãnh đạo cách mạng” nầy. Thêm vào đó, dựa vào một vài dữ kiện đáng ghi nhớ đã xảy ra về sự kiện lịch sử: cay đắng đến xót xa bàng hoàng, khiến nó mất đi tất cả lý-tưởng, tín-trung vào cuộc đấu tranh trung-dũng. Vì Dân cảm thấy cách mạng nhạt nhẽo, mù mờ, vô bổ từ đó. Hơn nữa, chính lúc nầy chuyện bè phái chính trị hoàn toàn không phù hợp với quan niệm, hoài bão, lập trường của Vì Dân.

                                Vì Dân muốn tìm riêng cho mình sự thảnh thơi, bình lặng trong đời sống, nàng quyết giữ tinh thần ôn nhu, trong sáng, tìm một cuộc sống vô-tư-lự, thanh thản, hữu hiệu, thật sự đáng sống; để mình có thể góp phần nho nhỏ giúp ích trong cuộc đời, một cuộc đời thực sự bình dị, mến thương nhau, ôn hoà, an lành, có nghĩa có tình như mọi công dân hiền hậu khác: Không oán ghét, chẳng vò xé hận thù. Không vướng mắc mọi ưu tư trong lòng.

                                Do một tuần lễ công tác trong Tổng-hội sinh-viên Việt Nam ở Huế, đã gây cho Vì Dân bao điều băn khoăn, nghẹn ngào, xót xa quá cay đắng. Vì, khi cùng làm việc với Vì Dân trong tuần lễ đó, có một anh sinh viên sống tại Huế rất qúy mến các bạn từ Sài Gòn, Đà Lạt... Anh ta ngầm ngầm báo với Vì Dân là:
                                - Hãy hết sức cẩn thận. Đề phòng. Tính mạng của các anh chị hiện đang nằm gọn trong tay “họ”.

                                Thú thật, nàng Vì Dân không hiểu nỗi mình đã làm gì sai? Và, khi anh ta nhấn mạnh ở điều nầy, thì nàng chẳng thể biết ra sao. Nàng không hình dung chữ “họ” ở đây, là anh ta muốn “ám chỉ” về ai? Ai? Bởi vậy, ban ngày Vì Dân và các bạn ghi tên ở khách sạn, nhưng ban đêm cùng nhau lo đi ẩn nấp, chui rúc nơi bờ bụi như lũ chuột, khi các bạn ngủ chỗ nầy, khi ngủ dưới ghe bà Nẫm, đến khuya các bạn lại cho ghe neo đi chỗ khác, lúc thì lên gần gầm cầu Bạch Hổ, khi chạy về khu Gia Hội. Vân vân... Đồng thời, Vì Dân rất buồn vì chuyện tình yêu giữa “chàng và nàng” bị đổ vỡ vô cớ. Kèm theo chuyện chính trị náo loạn dị kỳ. Dân quá chán ngán không muốn mọi thứ ấy luôn thọc mũi dùi vào đời sống sinh viên, quấy rối lòng mình nữa! Bởi vì; (tất nhiên trong đó có cả các anh chị bạn, và... nhất là có người yêu dấu của Vì Dân):

                                Vì Dân cảm nhận ra rằng ở tại miền Trung bấy giờ hoàn toàn do nhóm sinh viên sừng sỏ hùng hậu chi phối chính quyền địa phương. Đấy là dấu hiệu “loạn” đã lên cao độ rồi. Cái nền độc lập tự do dân chủ vừa mới sơ sinh, mà manh nha nhiều thủ đoạn “rối” như thế nầy, thì… tương lai đất nước sẽ tối đen như đêm ba mươi Tết. Theo thiển ý cuả Vì Dân: nếu tham gia làm cách mạng (vì thực sự yêu nước, muốn cùng nhau xây dựng một quốc gia hùng cường, một đất nước tự do hưng thịnh, vinh sang và trường tồn); thì ta không chỉ chìm đắm bới móc quá khứ, và ôm hận thù. Điều cần thiết và cấp bách là muốn thực thi cách mạng, trước tiên ta cần phải an-nội. Thế nhưng… giờ đây thanh niên là rường cột của quốc gia, đang giống như con dao hai lưỡi. Rồi mọi chuyện sẽ đến đâu? đi đâu? về đâu? Vì Dân cảm thấy buồn bã, chán nản lên tột đỉnh. Cúi đầu nhanh nhẹn quay gót, lo thụt lùi lui xa chính trường, Vì Dân không hề dám ngoảnh lại len lén liếc nhìn…
                                ***

                                Bởi, Vì Dân còn nhớ rất rõ: Buổi chiều đó, một buổi chiều có mây trắng bồng bềnh bay bay trên lưng trời, có nắng nhạt nhè nhẹ rót xuống thế trần, có gió mơn man trên đầu cây ngọn cỏ, cảnh vật êm ả bình thường như bao buổi chiều khác. Có khác chăng là một tí nữa đây Vì Dân và hai ba anh bạn sẽ được vinh dự trở thành số ít người hiếm hoi, tận mắt chứng kiến một sự việc đặt biệt ghi đậm nét như một dấu ấn lịch sử: Từ đầu đến cuối sự kiện trọng đại nầy: đã có nhiều dư luận, có nhiều lý thuyết, có nhiều phán đoán, có nhiều nghi vấn. Nhưng “trăm nghe không bằng mắt thấy” về những nhân vật trọng đại, liên hệ đến lịch sử. Đó là một buổi chiều định mệnh… vô cùng đớn đau bi thảm vào đầu tháng 11 năm 1963.

                                Đúng hơn là buổi sáng ngày 02 tháng 11 năm 1963, ông Trần Trung Dung (nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Ông Dung đã gọi phone đến nhà Năm. Trong nhà có thêm bạn: Trung, Thạch, và Vì Dân ngồi gần bàn làm việc. Năm bắt phone và chuyển sang cho ông Ba chủ trại hòm Tobia. Sau một hồi trao đổi, giọng ông Ba trở nên lo lắng. Bối rối. Quắt quay. Bồn chồn. Như có điều gì bức bách lắm. Cuối cùng ông Ba thở dài, buông phone xuống, e dè nhìn mọi người hiện diện, đôi mắt ông rướm lệ rồi ngập ngừng nói nhỏ:
                                - Tổng thống, và ông cố vấn đã chết trong chiếc thiết vận xa M113 mang số 80.989, bởi lệnh của ông Dương văn Minh, do sát thủ là Nguyễn văn Nhung giết hại rùi.

                                Sửng sốt, bàng hoàng. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, tất cả vội túc trực trong phòng khách, mở radio lên lắng nghe. Hội đồng tướng lãnh do Trung-tướng Dương Văn Minh đứng đầu đảo chánh đã thành công. Ông Minh tuyên bố: “Tôi tạm thờ lãnh đạo quốc gia”. Đài Phát Thanh Sài Gòn chỉ mở nhạc hoà tấu, nhưng luôn luôn nói đi nói lại là: “Anh em ông Diệm đang ẩn nấp, hoặc tẩu thoát đâu đó”…

                                Chẳng nói chẳng rằng, ông Ba vội vã kiếm người đi gọi đạo tỳ đến xưởng hòm, để chuẩn bị “hậu sự” cho Tổng Thống Diệm và ông cố-vấn Nhu. Ở nhà kho của ông Ba có nhiều hòm tuy đẹp, đắt tiền. Nhưng không mấy xuất sắc. Chỉ còn một cái hòm tốt nhất bằng gỗ gia tỵ rất quý hiếm, có bọc sẵn thêm cái hòm kẽm ở bên trong. Ý ông Ba muốn để cái hòm nầy cho ông cố vấn Nhu. Ngoài ra, còn một cái hòm nhôm mới toanh láng cón của quân đội Mỹ. Chiếc quan tài nầy rất đẹp, làm bằng nhôm nhẹ, có hai lớp. Bên ngoài mạ lớp sơn bóng loáng, bên trong bọc một lớp đệm nhung mỏng, êm ái như tấm đệm giường ngủ, có thể mở nắp ra đóng vào bằng kính dễ dàng, lộ cả khuôn mặt người quá cố, cho mình nhìn tiễn biệt phút cuối cùng, hòm có chốt cài bên hông. Nếu là xác đã ướp lạnh, có thể để lộ hẳn ra ngoài. Ở Việt Nam chưa xuất hiện loại hòm tân thời như thế.

                                Lẽ ra là chiếc hòm rất sang trọng đẹp đẽ qúy hiếm nầy sẽ đựng thi hài của một viên Tá người Mỹ đã từ trần tại Việt Nam. Nhưng không hiểu sao họ lại mang vứt bỏ chiếc quan tài ấy ở bên hông nhà ướp lạnh trong phi trường Tân Sơn Nhất!?. Tình cờ ông Ba đi làm việc đã thấy. Tiếc quá nên ông Ba nài nỉ, thương lượng với tên quản lý nhà xác, và ông đã mua lại. Ông Ba đem về trưng bày trong tiệm cuả mình, coi chơi. Ai đến mua giá cao cỡ nào, ông cũng không bán. Thế là ông Ba quyết định:
                                - Chỉ có Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới xứng đáng nằm an nghỉ trong đó thôi.
                                Cả hai khuôn hòm được mang ra lau chùi bóng loáng, sát trùng sạch sẽ, họ chuẩn bị sẵn sàng; chờ lệnh. Gần 11 giờ trưa, phone của ông Trần Trung Dung gọi báo:
                                - Nhờ ông vui lòng mang khuôn hòm đến nhà xác bệnh viện Saint Paul. Ở đường Tú Xương. Tuyệt đối không cho đông người đi, và người lạ tháp tùng. Xe chỉ chở đến đó… mỗi lần một quan tài mà thôi.
                                Ông Ba nêu ý kiến:
                                - Có nên lấy thêm một xe nữa. Đi theo phía sau xa xa xe kia. Hay không?
                                - Không. Chở từng cái một, mỗi xe đi cách xa nhau khoảng nửa giờ. Mang cái “đầu tiên” đi trước.

                                Ông Ba tuân lệnh. Đem cái hòm đặc biệt “đầu tiên” đi. (ý họ muốn nói đến “cái đầu tiên”: là khuôn hòm của Tổng-thống Diệm, người sẽ liệm trước tiên). Chiếc xe tang từ từ lăn bánh. Trên xe có bà chủ tiệm hòm, Năm, Vì Dân, Thạch, Trung, cộng thêm bốn người đạo tỳ. Xe lao vào đường phố vắng tanh như đi trong thành phố chết, hoặc đang vào giờ giới nghiêm, thiết quân luật vậy. Đến đường Tú Xương, Vì Dân mới thấy phe cách mạng lật đổ chính phủ đã cho cảnh sát, quân cảnh đứng canh gác ở các chốt. Xe jeep chận ngang ngỏ vào nhà xác.

                                Ngoài các anh: Năm, Thạch, Trung, Vì Dân, bà chủ tiệm và bốn đạo tỳ ra, còn có hai soeur có lẽ ở bệnh viện nầy. Thêm vợ chồng cháu rể của tổng thống đang lăm le chiếc máy ảnh trong tay. Khi xe tang vào tới bên trong, thì một soeur rón rén, lấp ló, len lén nhìn trước ngó sau, coi soeur có vẻ gian, sợ sệt lén lút, như người làm chuyện mờ ám gì, chả biết. Hình như soeur có lệnh trước, đã vội vàng kéo cánh cửa đóng ập lại liền. Trong nhà xác chỉ có một ngọn đèn vàng lù mù, leo lét, treo lơ lửng tòn ten trên trần.

                                Bốn đạo tỳ mang quan tài đặt trên bệ đá cẩm thạch trong nhà xác. Họ đợi khoảng hai mươi phút sau, thì có một chiếc xe hồng thập tự kiểu Dodge nhà binh (màu cứt ngựa) thắng lết bánh, đỗ xịch lại. Bà soeur canh cổng kia lật đật mở cánh cửa nhà xác ra. Từ trên xe có bốn quân nhân nhảy phóc xuống, họ vội vội vàng vàng khiêng chiếc băng ca lắc lư nhún nhảy. Trên đó có một người nằm cũng nhún nhảy lắc lư theo nhịp bước mau. Họ mang băng ca vào hẳn phía trong, để xuống dưới đất. Họ chả buồn nhìn ai hay nói câu nào, họ cúi đầu vội vã quay trở ra, leo tọt lên xe. Chiếc xe Dodge rít lên nghe rợn tóc gáy vút đi trong sự im lặng hãi hùng…

                                Lúc bấy giờ cả nhóm đông trong phòng liền bước tới đứng sát bên băng ca. Người nằm trên băng ca là vị tổng thống kính mến của nền Đệ Nhất Cộ̣ng Hòa miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm (1901-1963). Ngài mặc bộ veston màu xanh rêu, thắt cà vạt xanh đậm có chấm trắng. Dưới chân ngài mang một chiếc giày màu đen, bên chân kia chỉ có một chiếc tất trắng. Cả bộ comple chìm trong màu máu, trên đầu tổng thống có một vết thương sâu từ dưới ót trổ lên đỉnh đầu, bê bết máu. Ngài nằm đó thản nhiên im lặng, dường như tổng thống say chìm trong giấc ngủ ngàn thu bình an không muộn phiền, chẳng khổ đau…

                                Ánh sáng vụt loé lên. Thì ra ông cháu rể ngoại quốc kia đã bấm được vài ba tấm ảnh. Chả hiểu ông cháu nầy lúng túng, run rẩy, sợ hãi, lo lắng hay sao, mà ông lại vội cất dấu máy hình, không chụp thêm mà lại ngưng? Hay ông thấy cảnh máu me lan tràn như thế, thật hãi hùng và đau lòng. Nên ông không cầm nỗi cơn nghẹn ngào xúc động đau đớn dâng tràn bờ mi?!
                                Đạo tỳ khiêng xác ngài lên, đặt trên một bệ đá cẩm thạch có lót hai lớp vải trắng. Bà chủ tiệm nói với Năm, Thạch, Trung, Vì Dân, và hai soeur:
                                - Nhờ lấy bông gòn và compresse nhúng đầy alcohol, lau nhẹ nhàng, lau sạch sẽ, lau rất cẩn thận các vết máu cho tổng thống giúp tôi.

                                Họ lộ vẻ kính cẩn, ân cần, chu đáo sửa sang áo quần Tổng-thống Diệm chỉnh tề, ngay ngắn. Bốn đạo tỳ chăm chỉ cắm cúi lo tẫn liệm ngài đàng hoàng. Bà chủ tiệm hòm lâm râm đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn người quá cố. Bà nhét vào tay tổng thống xâu chuỗi hột mân côi. Hình như Tổng Thống Diệm vừa mới chết, cho nên hai bàn tay ông đã nhẹ nhàng khép lại dễ dàng giữ xâu chuỗi, như ông đang lim dim đọc kinh lần hạt. Mọi người hiện diện nín thở, có cảm tưởng tim đập thiếu nhịp, thở hụt hơi: Nghẹn ngào. Ngậm ngùi. Cay đắng. Bẽ bàng xao động. Đau xót kinh khủng. Thương tiếc sâu sa. Buồn mênh mông cho kiếp phù sinh bạc mệnh. Ngắn ngủi!

                                Họ chưa kịp đậy nắp hòm, thì chiếc xe hồng thập tự lúc nãy đã trờ đến. Cánh cửa lớn do bà soeur kia lum khum hé mở ra. Đám lính lật đật bưng cái xác thứ hai vào. Bà soeur vội vàng khép nhanh cánh cửa ngay. Đó là ông Cố-vấn Ngô đình Nhu mặc áo sơ mi trắng cụt tay ngực đẫm máu. Áo bỏ trong quần màu nâu hơi xộc xệch, thắt dây lưng da, chân mang đôi giày màu kem. Gương mặt ông Nhu có vẻ oán hận, bất bình điều gì, vầng trán thật cao cau lại với nhiều nếp nhăn. Đôi môi ông mím chặt nghiêm nghị. Không thấy ông Nhu có nét thanh thản bình an (như gương mặt thản nhiên của người anh). Ông nằm hơi nghiêng qua một bên. Họ thấy ông bị nhiều vết đâm sau lưng, loại dao bayonet của quân đội. Máu vẫn ứa ra từ các vết thương đó. Trên đầu, ngay thái dương có hai vết thủng. Đó là dấu đạn đi từ bên nầy xuyên sang bên kia.

                                Công việc tẫn liệm cũng tuần tự diễn ra. Cẩn thận, nhưng hơi vội vàng như lần trước. Không khí lúc nầy quả thực nặng nề kinh khủng! Im lặng hoàn toàn. Hình như ai ai cũng thở rất nhẹ. Vì họ sợ mỗi tiếng động làm dấy lên từ đáy lòng mình tiếng nấc, mà họ đã kềm sâu trong lòng, để khóc thương một kiếp người phù sinh: khi họ đứng trên tột đỉnh danh vọng cao sang dường bao, ấy thế mà lúc họ lìa đời thì quá ư bẽ bàng, bạc phận!? Hoặc sẽ làm hỏng không khí kính cẩn tôn nghiêm; nơi con người thực sự đã bước chân vào cõi vô cùng hư vô? Quả đúng là phân giới giữa sự sống và cõi chết: chỉ ngăn cách bằng một sợi tóc dài lê thê và mỏng tanh, bởi một bức màn sô vô hình tầm thường mà mong manh như sương khói. Nhưng, kiếp người ở hai phân giới ấy đã không thể làm gì khác hơn. Người ở biên giới nầy không thể va mặt, chạm tay vào biên giới vô hình kinh khủng bên kia, và càng không thể biết thêm gì nhau hơn!

                                Đó là hình ảnh nhỏ nhoi tầm thường rất cô độc của con người hiện hữu đối mặt trước sự siêu hình, cao cả của sự sống và sự chết. Quả thật không là gì cả khi thân xác ấy trở thành bất động, lung linh như ảo ảnh hư vô mà vô cùng sống động, thực tế và quá đỗi thương tâm. Vì Dân sẽ không bao giờ quên, không bao giờ phai mờ hình ảnh bi thương ấy trong trí óc. Vì, rất thật. Quá thật tình cờ… vô tình mình làm chứng nhân một sự kiện lịch sử trong thế kỷ. Ý thức nhận rõ ràng: Cuộc sống sao quá mỏng manh như một bóng mây trắng hờ hững bay giữa lưng trời rám bạc. Như cành cây oằn thân trong bão khi gió muốn lặng, mà dễ đâu nào!

                                Vì Dân cảm thấy mệt lả, nhịp tim rung lên từng cơn run rẩy, nghẹn nghẽn nỗi đau trong cổ, nàng vội kéo Năm, Thạch, Trung, bước ra thềm nhà xác, đi về hướng Phan Thanh Giản, là mong cho dễ thở hơn. Ngay lúc đó, Vì Dân thấy một đoàn biểu tình náo nhiệt rầm rộ kéo nhau xuống đường. Họ vừa đi vừa giơ nắm tay hò la, hét tướng lên: đả đảo “chế độ gia đình trị họ Ngô”. Họ đi thẳng tới biệt thự đường Phan Thanh Giản của ông Bộ-trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương, (người đã từng nắm giữ chức vụ Tổng Ủy-trưởng, Tổng Ủy Di Cư năm 1954).

                                Họ lao vào nhà ông Lương đập phá, hôi của. Tất cả mọi thứ trong nhà thoáng chốc “biết đi” biến sạch hết ra ngoài đường. Thậm chí Vì Dân còn thấy có mấy người bưng hai con chó Nhật sợ hãi nhìn quanh, như nó đang muốn tìm cố chủ. Đám biểu tình nhốn nháo bắt đầu xúm lại nổi lửa trong sân. Rất may, lúc đó có toán Cảnh-sát Dã-chiến đến. Họ can ngăn kịp thời. Ôi! Cuộc Cách Mạng phừng phưng thành công rồi đó. Toàn dân bấy giờ đã thoát ra khỏi chế độ “gia đình trị Họ Ngô”. Nhưng, rồi đây sẽ đến phiên ai đi tới đi lui, đi lên và đi xuống, đi qua và đi lại? Sẽ ra sao? Xin nhường câu trả lời cho lịch sử từ bây giờ và những tháng năm sau nầy phán xét.

                                Nghe tiếng bà chủ gọi, các anh, chị, vội chạy trở về nhà xác: khi hai chiếc xe hồng thập tự đã đến lấy quan tài hai anh em họ Ngô. Họ nói với tài xế: “Vô Bộ Tổng Tham Mưu”. (Vì lý do an ninh, nên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chuyển hai xác anh em tổng thống vào Bộ Tổng Tham Mưu, an táng trong khuôn viên trại Trần Hưng Đạo, cạnh chùa An Quốc). Hiện diện, làm việc cấp tốc trong đêm khuya có vị linh mục người Pháp, ông bà Trần Trung Dung, Trung-tá Nguyễn Văn Luông (trưởng ban mai táng), một số ít quân nhân ở Tổng Tham Mưu.

                                Thế rồi tiếp theo sau mấy cuộc đảo chánh. Chỉnh lý. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đương nhiệm nghe lời ông thầy địa lý phán một câu xanh dờn:
                                - Vì hai huyệt mộ kia đã chôn nhằm “long huyệt”. Cho nên đất nước Việt Nam đã xảy ra lộn xộn liên tục. Muốn cho yên ổn. Phải cho dời ngay đi.

                                Thế là sau ngày đảo chánh ít lâu, bên phòng mai táng ở quân đội miền Nam Việt Nam Cộng Hòa lại cho mời ông Ba đến, họ bàn trước tính sau cặn kẽ. Họ nhờ ông Ba làm hai cái kim tĩnh xây gạch, tráng xi măng trước. Ông Ba lại cho người lên bộ Tổng Tham Mưu lén lút, hì hục đào bới cả hai anh em cố Tổng Thống vào ban đêm. Đạo tỳ làm việc bù đầu suốt canh thâu; từ choạng vạng tối đến tờ mờ sáng mới xong. Ông Ba đem hai thi thể: ông Diệm và ông Nhu về chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.

                                Khi hạ rồng rồi, ông Ba có lệnh chỉ được phép lóng cát phủ lên bề mặt hai ngôi mộ bằng phẳng cho đầy. Bên trên mặt chỉ được lấp ba tấm ván sơ sài. Trông hai ngôi mộ rất hèn mọn, quá tầm thường. Tuyệt đối ông Ba không được phép ghi tên tuổi, ngày tháng trên bia mộ gì cả. Dù chung quanh đó có những ngôi mộ cẩm thạch bóng loáng, vinh sang hào nhoáng lộng lẫy khác. Vì nền Đệ Nhị Cộng Hoà “họ” sợ dân biết tin hai vị ấy nằm đó, dân sẽ đến cầu nguyện và ngưỡng mộ (!?). Nhưng làm sao mà che được tai mắt dân lành!? Không biết do đâu “rò rỉ ra” nguồn tin:
                                - Chính hai ngôi mộ đơn sơ không tên không tuổi, không hình bóng nầy: là mộ phần của anh em Tổng-thống Ngô Đình Diệm.

                                Thế là từ đó, mỗi khi ai ai có dịp vào thăm nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Họ liền đi vào cổng chính, đến đoạn giữa “hai ngôi mộ Anh Em”, nằm đối diện với cái tháp tưởng niệm, và ngôi mộ cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ to lớn nguy nga, “hoành tráng” nhìn sang “hai anh em: Gioan Baotixita Huynh ; Giacobe Đệ”. Có một điều rất khác biệt với những ngôi mộ lộng lẫy sang trọng kia, thì trên hai ngôi mộ đơn sơ đạm bạc đớn hèn khiêm tốn nầy, luôn luôn có những bó nhang trầm nghi ngút khói, có đóa hoa tươi màu thay đổi mỗi ngày, có bốn ngọn nến sáng lung linh thắp suốt đêm. Hình như người dân dù sợ hãi người khác thanh trừng, nên chỉ âm thầm lén lút đi thắp nến đốt nhang cầu nguyện. Họ luôn tưởng niệm cho “Ngày dài nhất thế kỷ, buổi chiều định mệnh đó”. Họ là những người dân hiền lương ẩn danh nghèo hèn như thầm nói:

                                - Vĩnh biệt Tổng Thống Diệm. Vĩnh biệt ông Cố-vấn Nhu. Xin các ngài cứ bình thản an nghỉ. Vì, đất nước Việt Nam vẫn còn là đất nước Việt Nam. Có thay đổi chăng, chỉ là đổi mới những sự kiện, và những con người lãnh đạo quốc gia mà thôi. Nguyện cầu nhị vị an nhàn bình thản ra đi… hạnh phúc phiêu lãng ngao du sơn thủy, đi khắp trên mọi miền đất nước Việt Nam, và xin quý ngài phù hộ cho dân lành được ấm no, bình an hạnh phúc thật sự, như qúy vị hằng đợi mong. Xin qúy vị lãng quên cuộc đời bạc bẽo. Quên con người hết sức trắng trợn độc ác tham tàn và… xin hãy tha thứ cho con người rối rắm hèn kém suy nghĩ kia, những kẻ đã tàn nhẫn hại mình. Kiếp người ô trọc đảo điên và phù du rồi sẽ khép lại sau đôi mắt hờ hững lặng nhìn. Vì Dân tôi, một chứng nhân vô tình hèn mọn trong bóng tối lịch sử buông tiếng thở dài sâu lắng, trầm buồn và ngậm ngùi trên mỗi phím loan: Ối ôi ồi!!! …
                                ***

                                Mãi về những năm gần đây, sau nầy thôi, thì hài cốt "hai huynh - đệ: Gioan Baotixita Huynh ; Giacobe Đệ" (trên bia mộ vẫn không ghi tên thật, ngày tháng năm gì cả) lần thứ ba, họ lại được thân nhân đào lên, cải táng cho nhị vị về an nghỉ tại "Nghĩa-trang số 6", ấp Đông An, xã An Bình, huyện Dĩ An. Lần nầy, Vì Dân khẩn thiết cầu xin cho quý vị "Huynh-Đệ" thật sự bình an, yên nghỉ vĩnh viễn dưới lòng đất quê hương Việt Nam.

                                * * *

                                Tình Hoài Hương
                                Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-27-2017, 01:18 AM.
                                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                                Tình Hoài Hương

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X