Trên Chiếc Nón Sắt... &
Trên Chiếc Nón Sắt...
& Vòng Couronne Mortuaire Cườm Đen Băng Tím
(Tưởng nhớ về bạn LVT đã vĩnh viễn ra đi: Mar.14.72)
* * *
Từ nay đã thiếu vắng anh Trọng! Trọng đã đi qua rồi. Xong rồi! Hết rồi tận cùng bàng hoàng kinh hoảng! Trọng dọt lẹ quá! Bây giờ anh thật sự vô cùng đơn độc. Đơn độc kinh khủng đúng với nghiã của nó! Chiến sĩ ấy lạnh lùng hững hờ quay lưng, xoá bỏ tất cả mọi thứ trên bàn cờ (khi cuộc chơi chưa kết thúc). Trong binh thư không dạy anh buông súng gác mũ, vì đấy là người bạn đời thân thiết nâng niu ấp yêu bất khả ly thân của Lính. Thế sao Trọng đành vứt mũ sắt, buông súng bỏ cuộc? Không đầy bước chân, anh đã vụt nhảy qua bên kia bờ vực thẳm, đột ngột trở về cát bụi phù dung trong lòng đất mẹ.
Anh ra đi mang theo vết dạn xuyên thù vùi xuống dưới vùng cỏ non! Trọng đã từ giã bạn bè ra đi giữa hai lằn đạn, chẳng thèm thấy bụi lau sậy lô xô bông xoay xoay bay trắng đồng quê. Trọng không còn thấy tre la ngà sọc xanh da vàng rì rào mọc bên suối, suối nước uốn quanh róc rách chảy xuôi đập vào mô đá rêu rong, tạo thành những bọt nước trắng xoá, òa vỡ rồi chìm khuất. Anh không nghe cây cối bực bội cựa mình lao xao suốt tháng năm rồi!
Trọng như chiếc lá xanh tươi mơn mởn, đột ngột bị bứt ra khỏi cành, biến đổi Trọng từ trạng thái sinh tồn, sang trạng thái tử quy lạnh giá đau buốt. Anh đã bị chiến tranh lừa mình hụp xuống con đường tử tuyệt sâu hun hút không có lối lên. Trọng gửi xác thân trên quê cha đất tổ, mặc triền cỏ ướt sũng phủ đầy nước sương, nước mưa, nước mắt tình nhớ, tình bạn, tình quê đan quyện bện chặt đan vào nhau mỗi lần họ ghé qua mồ Trọng, họ nghẹn ngào tiếc nhớ, nức nở khẽ khàng đặt lên nấm mộ anh bó hoa tươi. Anh không thấy bao vòng couronne mortuaire cườm đen băng tím có những hàng chữ phân ưu: “Vô cùng thương tiếc”… “Thành kính phân ưu”… hoặc “Chúng tôi vô cùng đớn đau…” làm tâm hồn bạn bè ngậm ngùi, đau đau mà tột độ nhức nhối, rã rời, xúc động mãnh liệt!
Trúc phẫn nộ suy nghĩ miên man. Trọng biết yêu nồng nàn tha thiết từ tấc lòng: anh yêu gia đình cha mẹ, anh em, bà con, bạn bè đằm thắm cơ mà! Nơi quê hương nầy cách đây hơn hai mươi sáu năm, Trọng đã sinh ra, lớn khôn từ bầu sữa mẹ ngọt ngào. Cha mẹ anh chắt chiu từng vồng sắn, vườn rau, ao bèo, hồ nước, nơi có khúc sông bên bồi bên lở, con đò xuôi ngược lên xuống qua dòng lưu thủ luân lưu xuyên khắp mọi mạch nguồn chảy ngầm trong lòng đất. Trước cuộc tương tàn đẫm máu quyết liệt, anh không nở ra tay giết hại một ai. Cho dù Trọng đã biết rất rõ, (kể cả người chú tên Linh (tự là Sáu) cùng chung huyết thống với mình. Tất nhiên Trọng đã mất mạng. Trọng là chứng nhân dòng họ đối nghịch đang bôi nhọ từng trang sử tương tàn trong cảnh nồi da xáo thịt.
Trọng yêu luống khoai vồng sắn, luôn giữ gìn từng tấc đất ông cha truyền lại từ ngàn xưa. Trong năm điều: Nhân. Lễ. Nghĩa. Trí. Tín, thì Trọng giữ chữ Nhân đứng ở hàng đầu. Nào có phải anh là người bội bạc, dã man tàn ác muốn cầm súng đi xâm lăng kẻ khác đâu! Khốn thay điều ước nguyện duy nhất của Trọng: "Thiết tha mong đợi ngày an bình, ấm no hạnh phúc thực sự, mang canh cánh bên lòng niềm khát vọng kỳ phùng, để khi tàn chiến chinh anh có thể trở về sống trong mái nhà ấm áp xưa. Anh sẽ ngồi dưới giàn hoa thiên lý cùng ba mẹ, anh chị em, bạn bè tri kỷ, và có thể có thêm một cô bồ be bé xinh xinh; hầu mọi người hàn huyên tâm sự… cho vơi những ngày thương nhớ”.
Thật, chẳng bao giờ Trọng muốn bất hiếu với ba mẹ, khi anh đột ngột lìa đời thế nầy. Trọng không ưa rứt ruột mà chít vành sô tang trên mái tóc xanh, để mặc áo quần đại tang phục sô gai may bằng tay. Khi mẹ cha ngoài trăm tuổi, Trọng sẽ không thích đội mũ cuộn bằng rơm, lưng thắt dây làm bằng bẹ chuối khô. Nếu ngày cha lìa đời, anh sẽ phải quỳ lết, đi cong người chống gậy tre. Mẹ mất, anh chống gậy gỗ vuông. Em gái sẽ mặc vải sô gai buông gấu, đội vải sô gai phủ mặt. Hàng bậc cháu thì chít khăn tang đỏ. Hàng chắt là chít khăn vàng. Hàng chút quấn khăn xanh.
Trước di ảnh cha mẹ già tóc bạc răng long, Trọng sẽ đặt bát nhang trầm nghi ngút khói. Hướng đông bình hoa, hướng tây đĩa trái cây. Trọng sẽ vái hai vái tượng trưng cho âm dương nhị khí. Hai hàng nước mắt tuôn trào, tay anh sẽ run run rót ly rượu tăm, lạy tạ công ơn sinh thành dưỡng dục, kính thờ cha mẹ trước khi anh nhắm mắt xuôi tay, Trọng khẽ nói câu của Léoparde:
- "Ôi! Đất Mẹ êm ái. Nguồn sống đã cung cấp cho con. Nầy đây con xin trả lại".
Tuyệt nhiên Trọng không dám để cha mẹ phải than: “Lá vàng còn ở trên cây. Lá xanh rụng xuống. Trời ơi là Trời!!!”. Có phải giờ đây anh tột cùng đau xót nghẹn ngào câm nín, ngồi trước trên bàn thờ, Trọng muốn nói như thế hết sức? Phải không hở anh? Anh nằm xuống vĩnh viễn quên đi quá khứ, quên hiện tại và tương lai khi quê hương điêu linh, buồn đau. Không trách nhiệm. Không đùm bọc. Không yêu thương. Đầy thù oán. Chém giết. Khổ đau. Lỡ lầm trách nhiệm. Lỗi lầm trong cuộc: Giữ Nước và Giành Nước tột cùng kinh khủng! Có điều gì vượt quá sức con người. Nó hút Trọng vào điệu quay chóng mặt, tận diệt niềm khát vọng tái tê. Sự căm thù ác độc hung hăng giữa - Người với Người hiện ra rõ rệt. Lòng Trọng bừng bừng ngọn lửa mến yêu quê hương xứ sở, thân nhân, tha nhân, và năm điều "từ Nhân. Lễ. Nghĩa. Trí đến Tín" kia. Khi kẻ khác lòng hừng hực cuồng quay đi từ Bắc vô Nam đốt lên ngọn lửa xâm lăng quyết không buông.
Thì ra tử thần thật chí công vô tư không thiên vị anh hùng kiện tướng. Không nể mặt ai! Quê hương hiền hòa, nay buồn thảm, lặng thinh, nhận thêm một nấm mồ chưa xanh cỏ. Chính Trọng, người chiến binh hiền lành, oai dũng, trẻ trung, dĩnh ngộ tự tin, tự trọng, mưu cầu nghệ thuật vị nhân sinh, dạt dào tình cảm, không thích súng ống đạn dược. Anh trung thành nồng nhiệt với chiến hữu, không ngần ngại chung vai góp sức cống hiến tuổi xanh, dâng tình yêu cho nước, vì quê hương xứ sở anh đã sống quên mình. Đời Trọng dầm mình trong chiến tranh, cuối cùng chấm dứt cuộc sống thảm thiết.
Sinh nghề tử nghiệp chưa đúng, thật ấm ức hậm hực khi tên anh đã ghi vào danh bạ quân tử. Đau đớn thay! Nơi Trọng vùi tấm thân xuống dưới ba tấc đất, trong chiếc quan tài kẽm phủ kín, có lá cờ vàng ba sọc đỏ phủ đậy lên. Có tấm thẻ bài ghi tên: Lê Văn Trọng Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, kèm Anh Dũng Bội Tinh và Nhành Dương Liễu, cấp bậc cố Đại Úy; đã có dấu đạn xuyên thù trên chiếc nón sắt vấy máu, vẫn hằn sâu dấu tích những viên đạn diệt nhân lỗ chỗ. Chiếc nón sắt thân thương bây giờ đã lìa xa trên đầu Trọng, bị đặt úp nơi bàn thờ nghi ngút khói hương. Cho dù có nước mắt bao người thân tuông chảy, vẫn không bao giờ kỳ cọ gội rửa sạch dấu ấn lỗ thủng hờn căm rỉ máu triền miên.
***
Mộ chí chôn người thân chưa kín cỏ. Bỗng một hôm thêm một lần do bị bọn dã nhân pháo kích, đã nhẫn tâm cày xới nấm mồ của Trọng tanh bành, tả tơi. Trọng bị móc thây ma lên. Thối um! Họ hàng thân quyến của Trọng vừa khóc vừa rên, họ lò mò nhặt từng món thịt, từng món xương, từng món… để ráp nối hình hài. Thân thể anh thiếu sót thô vụng, cái mất cái còn, không toàn vẹn tấm hình hài sình thối, trương phình, đụng vào thì rửa nát bầy nhầy, chân một nơi, tay một ngã, đầu một góc.
Trọng nào có biết cha mẹ, đàn em nhỏ đã khóc đỏ máu mắt, vẫn chối bỏ sự thật cay nghiệt phũ phàng. Họ không thể đối diện với sự hủy diệt thân thể anh lần cuối cùng đầy bất nhân. Anh ôi! Họ tưởng nếu Trọng có sống khôn thác thiêng, anh nên kéo cha mẹ và đàn em xuống mồ sâu bít kín tối tăm, không cho họ trông thấy điều tàn nhẫn thêm. Hơn là để họ sống lụi hụi, lù đù, buồn xo, dúm dó, hậm hực, ấm ức trên thế gian, mà chứng kiến cảnh đau đớn xé lòng; (khi nhìn thấy thây Trọng thêm một lần nữa tan nát tả tơi nơi cõi đời ô trọc). Có đâu cảnh cha mẹ già mãi hoài khơi lại vết thương không khép miệng, khóc con trẻ bội bạc bỏ cha mẹ mà đi…
Trọng nỡ lòng nào từ bỏ cha mẹ, lạnh lùng đơn độc ra đi. Mà lại ra đi biền biệt vào vùng cỏ non thế không biết!? Bởi vì cha mẹ đã phổ tình yêu tuyệt đỉnh vào từng thớ tí nhau, tạo thành một Trọng đẹp như vị thiên thần, anh dần dà lớn lên thì hào hoa, thanh cao, trí thức, thông minh, anh có đời sống tràn đầy sinh khí, dồi dào sức sống. Anh tao nhã thanh lịch, khả ái khi còn sống, và lưu danh thơm sau khi lìa đời. "Cọp chết để da, người ta chết để tiếng" mà. Chứ họ nào dám chứng kiến anh đã một lần oan khiên dẫy chết rồi.
Cay đắng xiết bao! Họ không dám nghĩ tới ngó anh lần thứ hai, chỉ đứng ù lì như trời trồng trơ mắt chứng kiến đống xương thịt bầy nhầy, tanh hôi ruồi bu kiến đậu, bọ rúc trương sình kia: chính là đứa con ruột ngoài hai mươi sáu tuổi: đã có nhiều lần cha mẹ bịn rịn lưu luyến tiễn đưa con hăng hái ra chiến trận, con hiên ngang đi thi hành bổn phận nghĩa vụ làm trai. Và mỗi lần nơi biên thùy xa xôi Trọng hân hoan về phép vui vẻ thăm nhà.
“Xin cha mẹ tha lỗi cho con, vì sự bất hiếu trót lỡ lầm qua mặt ra đi trước cha mẹ, để cha mẹ đau đớn cúi đầu, gục mặt rơi nước mắt vì con trẻ hoài mãi thế nầy”! Có phải anh muốn nói như thế lắm không? Phải không anh? Câu: "Ce dernier soupir de ma vie, je le garde pour aimer", (Lamartine) hoặc câu: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng"; với Trọng giờ phút nầy hoàn toàn rỗng tuếch. Vô nghĩa. Dù hiện tại buốt tê, lạnh lẽo, hoặc an lành đang nghiêng mình trên dĩ vãng, hiện tại đầy cay đắng, đau khổ? Trọng thật sự vĩnh viễn ra đi, như con đò khuất dạng sau đám cỏ lau sình lún; như con tàu suốt biến vào vùng dĩ vãng, khuất xa góc trời tao loạn mù mịt khói súng mất rồi.
Trọng vĩnh viễn nằm xuống một mình, anh soãi đôi tay ôm trọn từng cục đất quê hương vào trong lòng; khi bạn bè còn oai dũng chiến đấu bên nhau thế nầy. Hỡi anh ôi?! Hoá ra… Trông điệu bộ Trung-úy Đức có mái tóc bạc phếch bụi phong trần, mặc áo flight jacket xệ vai, anh hóm hỉnh giả vờ khậc khưởng làm người say, nách anh cặp vỏ chai rượu Martel, mơ màng ngâm mấy câu thơ tình. Các bạn không thể nhịn cười vì lối diễu ra trò ấy. Sự quyến rũ tuyệt vời nầy làm các bạn mê anh.
Thế mới chết. Bạn bè lại sửng sốt bừng bừng mặt tím, xôn xao bàn tán về cái chết đột ngột cuả Trọng, rồi cay cay uống từng men đời say túy lúy. Đã có nhiều lần bạn với Trọng chuyền tay nhau từng điếu thuốc dỡ ngọn!? Bao lần sau tác chiến sống sót an toàn trở về đơn vị, họ vui mừng nâng ly rượu trên tay chúc tụng nhau rồi!? Hay là có lần đầu mà chẳng còn lần cuối!? Tên gọi thân mến cuả những người lính dần dà mất lần lần đi đâu hết? Mất lần theo bóng tối kinh hoàng, chìm sâu vào miên viễn rồi ư!? Cái chết của chiến binh từng xông pha ngoài sa trường giữa hai lằn đạn sát đầu tơ kẽ tóc, thì thỉnh thoảng họ có họp mặt, để “dzăn nghệ dzăn gừng” ti tí, cho đời lên hương chút xíu, ngỏ hầu xóa tan bao nỗi... Cũng vui mà.
Vậy, điều tôi muốn nói: Xin Đời rộng lượng bao dung, đức độ, nhân ái và vị tha cho người Lính Thiên Lương (nếu họ có sơ sót, có sai phạm tí lỗi lầm, bởi nhân vô thập toàn)! Xin hãy mến yêu Lính. Hãy thương Lính. Họ là những công cụ, là sản phẩm của chiến tranh. Trong cơn đau buồn tột độ nào đó… họ có quậy phá tưng trời, do cuộc vui lụi tàn đôi khi men nồng lên, để lại trong lòng họ dư âm trống vắng, xót xa, phiền não vô tận. Có thể nay mai sự bất hạnh tràn đến, thì đấy không là điều thất trách, thất thố cuồng loạn lắm đâu.
***
Trong tiệm ăn vẳng tiếng đàn hạ uy cầm tha thiết đẩy nỗi buồn phiền, băn khoăn, tiếc thương những người bạn xấu số đã ra đi chợt dấy lên trong lòng bạn bồn chồn ray rứt. Bạn bè dùng rượu đè nén bi thương nội tâm xuống, họ dùng rượu khơi dậy lòng tiếc thương vô vàn, mãi mãi là niềm tiếc thương sâu thẳm, ngút ngàn dâng cao! Đồng thời, họ dùng rượu hầu đốt lên niềm vui mừng may mắn còn ngồi bên nhau, lúc chiến tranh tàn khốc vờn quanh con người và ngang nhiên đi giữa cuộc sống, lửa bạo tàn đang đe dọa từng nhân mạng.
Mấy bạn ngồi bên nhau trong bàn tiệc nhỏ, họ từ nhiều vùng đất xa xôi khác nhau, có phong tục tập quán khác nhau, suy tư và tình yêu chẳng giống nhau. Nhiều giọng nói trầm ấm, ngọt ngào, hồn nhiên, cũng không ít có giọng nói gắt gỏng, hoặc sảng khoái cười ha hả mang dấu tích Mẹ Quê Hương Việt Nam ba miền: Trung. Nam. Bắc rì rào giọng nói ấm nồng, súc tích, thân thương đầy âm giai tuyệt diệu, pha hương sắc đặc biệt trìu mến riêng của mọi miền.
Họ hoàn toàn riêng lẽ, ánh mắt ngời sáng vui vẻ không ngừng ánh lên nỗi ngạc nhiên, qua câu chuyện vui buồn, trầm lắng, lịch duyệt, dí dỏm, hóm hỉnh không ngờ. Nụ cười họ nở trên khuôn mặt nhuộm nắng gió khuya chiều sâu lắng nỗi niềm ưu tư âu lo chung. Họ không có gì hơn là: gieo tiếng cười, pha nước mắt ân tình, làm quà tặng chân tín trao nhau, ngỏ hầu san sẻ niềm đau quặn thắt dại tê trong thời chinh chiến, chia nhau ly rượu nồng, tách cafe đắng, hay điếu thuốc Quân Tiếp Vụ. Và, trìu mến gửi tiếng lòng thì thầm gọi mời nhau, trầm lắng ngậm ngùi rung lên từng đợt nấc cuồng quay trên mỗi phím loan.
***
Nhớ về anh quý trọng, tôi xin thay mặt bạn Tuyết Ngọc Trúc ghi lại mấy vần thơ:
Sau Bảy Lăm bỏ quê hương dấn bước
Giạt trôi về Mỹ quốc chốn xa xăm
Đêm từng đêm em ngồi khóc âm thầm
Đời phụ nữ đã một lần lỡ dở
Cầu ván gỗ nằm bên phượng đỏ
Nấm mồ anh nghỉ cạnh dừa xanh
Bên dòng phù sa sóng vỗ trôi nhanh
Rơi giọt lệ mong anh về nước Chúa.
Trơ dưới nắng cây cầu ván cũ
Đường thôn ta hàng so đũa ngày xưa.
Vườn cau, bông gạo, hàng dừa
Anh đi... để lại bài thơ quê nghèo
Chim kêu, vượn hú chiều chiều... (*)
*
(*) thơ Tình Hoài Hương
Tình Hoài Hương
Trên Chiếc Nón Sắt...
& Vòng Couronne Mortuaire Cườm Đen Băng Tím
(Tưởng nhớ về bạn LVT đã vĩnh viễn ra đi: Mar.14.72)
* * *
Từ nay đã thiếu vắng anh Trọng! Trọng đã đi qua rồi. Xong rồi! Hết rồi tận cùng bàng hoàng kinh hoảng! Trọng dọt lẹ quá! Bây giờ anh thật sự vô cùng đơn độc. Đơn độc kinh khủng đúng với nghiã của nó! Chiến sĩ ấy lạnh lùng hững hờ quay lưng, xoá bỏ tất cả mọi thứ trên bàn cờ (khi cuộc chơi chưa kết thúc). Trong binh thư không dạy anh buông súng gác mũ, vì đấy là người bạn đời thân thiết nâng niu ấp yêu bất khả ly thân của Lính. Thế sao Trọng đành vứt mũ sắt, buông súng bỏ cuộc? Không đầy bước chân, anh đã vụt nhảy qua bên kia bờ vực thẳm, đột ngột trở về cát bụi phù dung trong lòng đất mẹ.
Anh ra đi mang theo vết dạn xuyên thù vùi xuống dưới vùng cỏ non! Trọng đã từ giã bạn bè ra đi giữa hai lằn đạn, chẳng thèm thấy bụi lau sậy lô xô bông xoay xoay bay trắng đồng quê. Trọng không còn thấy tre la ngà sọc xanh da vàng rì rào mọc bên suối, suối nước uốn quanh róc rách chảy xuôi đập vào mô đá rêu rong, tạo thành những bọt nước trắng xoá, òa vỡ rồi chìm khuất. Anh không nghe cây cối bực bội cựa mình lao xao suốt tháng năm rồi!
Trọng như chiếc lá xanh tươi mơn mởn, đột ngột bị bứt ra khỏi cành, biến đổi Trọng từ trạng thái sinh tồn, sang trạng thái tử quy lạnh giá đau buốt. Anh đã bị chiến tranh lừa mình hụp xuống con đường tử tuyệt sâu hun hút không có lối lên. Trọng gửi xác thân trên quê cha đất tổ, mặc triền cỏ ướt sũng phủ đầy nước sương, nước mưa, nước mắt tình nhớ, tình bạn, tình quê đan quyện bện chặt đan vào nhau mỗi lần họ ghé qua mồ Trọng, họ nghẹn ngào tiếc nhớ, nức nở khẽ khàng đặt lên nấm mộ anh bó hoa tươi. Anh không thấy bao vòng couronne mortuaire cườm đen băng tím có những hàng chữ phân ưu: “Vô cùng thương tiếc”… “Thành kính phân ưu”… hoặc “Chúng tôi vô cùng đớn đau…” làm tâm hồn bạn bè ngậm ngùi, đau đau mà tột độ nhức nhối, rã rời, xúc động mãnh liệt!
Trúc phẫn nộ suy nghĩ miên man. Trọng biết yêu nồng nàn tha thiết từ tấc lòng: anh yêu gia đình cha mẹ, anh em, bà con, bạn bè đằm thắm cơ mà! Nơi quê hương nầy cách đây hơn hai mươi sáu năm, Trọng đã sinh ra, lớn khôn từ bầu sữa mẹ ngọt ngào. Cha mẹ anh chắt chiu từng vồng sắn, vườn rau, ao bèo, hồ nước, nơi có khúc sông bên bồi bên lở, con đò xuôi ngược lên xuống qua dòng lưu thủ luân lưu xuyên khắp mọi mạch nguồn chảy ngầm trong lòng đất. Trước cuộc tương tàn đẫm máu quyết liệt, anh không nở ra tay giết hại một ai. Cho dù Trọng đã biết rất rõ, (kể cả người chú tên Linh (tự là Sáu) cùng chung huyết thống với mình. Tất nhiên Trọng đã mất mạng. Trọng là chứng nhân dòng họ đối nghịch đang bôi nhọ từng trang sử tương tàn trong cảnh nồi da xáo thịt.
Trọng yêu luống khoai vồng sắn, luôn giữ gìn từng tấc đất ông cha truyền lại từ ngàn xưa. Trong năm điều: Nhân. Lễ. Nghĩa. Trí. Tín, thì Trọng giữ chữ Nhân đứng ở hàng đầu. Nào có phải anh là người bội bạc, dã man tàn ác muốn cầm súng đi xâm lăng kẻ khác đâu! Khốn thay điều ước nguyện duy nhất của Trọng: "Thiết tha mong đợi ngày an bình, ấm no hạnh phúc thực sự, mang canh cánh bên lòng niềm khát vọng kỳ phùng, để khi tàn chiến chinh anh có thể trở về sống trong mái nhà ấm áp xưa. Anh sẽ ngồi dưới giàn hoa thiên lý cùng ba mẹ, anh chị em, bạn bè tri kỷ, và có thể có thêm một cô bồ be bé xinh xinh; hầu mọi người hàn huyên tâm sự… cho vơi những ngày thương nhớ”.
Thật, chẳng bao giờ Trọng muốn bất hiếu với ba mẹ, khi anh đột ngột lìa đời thế nầy. Trọng không ưa rứt ruột mà chít vành sô tang trên mái tóc xanh, để mặc áo quần đại tang phục sô gai may bằng tay. Khi mẹ cha ngoài trăm tuổi, Trọng sẽ không thích đội mũ cuộn bằng rơm, lưng thắt dây làm bằng bẹ chuối khô. Nếu ngày cha lìa đời, anh sẽ phải quỳ lết, đi cong người chống gậy tre. Mẹ mất, anh chống gậy gỗ vuông. Em gái sẽ mặc vải sô gai buông gấu, đội vải sô gai phủ mặt. Hàng bậc cháu thì chít khăn tang đỏ. Hàng chắt là chít khăn vàng. Hàng chút quấn khăn xanh.
Trước di ảnh cha mẹ già tóc bạc răng long, Trọng sẽ đặt bát nhang trầm nghi ngút khói. Hướng đông bình hoa, hướng tây đĩa trái cây. Trọng sẽ vái hai vái tượng trưng cho âm dương nhị khí. Hai hàng nước mắt tuôn trào, tay anh sẽ run run rót ly rượu tăm, lạy tạ công ơn sinh thành dưỡng dục, kính thờ cha mẹ trước khi anh nhắm mắt xuôi tay, Trọng khẽ nói câu của Léoparde:
- "Ôi! Đất Mẹ êm ái. Nguồn sống đã cung cấp cho con. Nầy đây con xin trả lại".
Tuyệt nhiên Trọng không dám để cha mẹ phải than: “Lá vàng còn ở trên cây. Lá xanh rụng xuống. Trời ơi là Trời!!!”. Có phải giờ đây anh tột cùng đau xót nghẹn ngào câm nín, ngồi trước trên bàn thờ, Trọng muốn nói như thế hết sức? Phải không hở anh? Anh nằm xuống vĩnh viễn quên đi quá khứ, quên hiện tại và tương lai khi quê hương điêu linh, buồn đau. Không trách nhiệm. Không đùm bọc. Không yêu thương. Đầy thù oán. Chém giết. Khổ đau. Lỡ lầm trách nhiệm. Lỗi lầm trong cuộc: Giữ Nước và Giành Nước tột cùng kinh khủng! Có điều gì vượt quá sức con người. Nó hút Trọng vào điệu quay chóng mặt, tận diệt niềm khát vọng tái tê. Sự căm thù ác độc hung hăng giữa - Người với Người hiện ra rõ rệt. Lòng Trọng bừng bừng ngọn lửa mến yêu quê hương xứ sở, thân nhân, tha nhân, và năm điều "từ Nhân. Lễ. Nghĩa. Trí đến Tín" kia. Khi kẻ khác lòng hừng hực cuồng quay đi từ Bắc vô Nam đốt lên ngọn lửa xâm lăng quyết không buông.
Thì ra tử thần thật chí công vô tư không thiên vị anh hùng kiện tướng. Không nể mặt ai! Quê hương hiền hòa, nay buồn thảm, lặng thinh, nhận thêm một nấm mồ chưa xanh cỏ. Chính Trọng, người chiến binh hiền lành, oai dũng, trẻ trung, dĩnh ngộ tự tin, tự trọng, mưu cầu nghệ thuật vị nhân sinh, dạt dào tình cảm, không thích súng ống đạn dược. Anh trung thành nồng nhiệt với chiến hữu, không ngần ngại chung vai góp sức cống hiến tuổi xanh, dâng tình yêu cho nước, vì quê hương xứ sở anh đã sống quên mình. Đời Trọng dầm mình trong chiến tranh, cuối cùng chấm dứt cuộc sống thảm thiết.
Sinh nghề tử nghiệp chưa đúng, thật ấm ức hậm hực khi tên anh đã ghi vào danh bạ quân tử. Đau đớn thay! Nơi Trọng vùi tấm thân xuống dưới ba tấc đất, trong chiếc quan tài kẽm phủ kín, có lá cờ vàng ba sọc đỏ phủ đậy lên. Có tấm thẻ bài ghi tên: Lê Văn Trọng Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, kèm Anh Dũng Bội Tinh và Nhành Dương Liễu, cấp bậc cố Đại Úy; đã có dấu đạn xuyên thù trên chiếc nón sắt vấy máu, vẫn hằn sâu dấu tích những viên đạn diệt nhân lỗ chỗ. Chiếc nón sắt thân thương bây giờ đã lìa xa trên đầu Trọng, bị đặt úp nơi bàn thờ nghi ngút khói hương. Cho dù có nước mắt bao người thân tuông chảy, vẫn không bao giờ kỳ cọ gội rửa sạch dấu ấn lỗ thủng hờn căm rỉ máu triền miên.
***
Mộ chí chôn người thân chưa kín cỏ. Bỗng một hôm thêm một lần do bị bọn dã nhân pháo kích, đã nhẫn tâm cày xới nấm mồ của Trọng tanh bành, tả tơi. Trọng bị móc thây ma lên. Thối um! Họ hàng thân quyến của Trọng vừa khóc vừa rên, họ lò mò nhặt từng món thịt, từng món xương, từng món… để ráp nối hình hài. Thân thể anh thiếu sót thô vụng, cái mất cái còn, không toàn vẹn tấm hình hài sình thối, trương phình, đụng vào thì rửa nát bầy nhầy, chân một nơi, tay một ngã, đầu một góc.
Trọng nào có biết cha mẹ, đàn em nhỏ đã khóc đỏ máu mắt, vẫn chối bỏ sự thật cay nghiệt phũ phàng. Họ không thể đối diện với sự hủy diệt thân thể anh lần cuối cùng đầy bất nhân. Anh ôi! Họ tưởng nếu Trọng có sống khôn thác thiêng, anh nên kéo cha mẹ và đàn em xuống mồ sâu bít kín tối tăm, không cho họ trông thấy điều tàn nhẫn thêm. Hơn là để họ sống lụi hụi, lù đù, buồn xo, dúm dó, hậm hực, ấm ức trên thế gian, mà chứng kiến cảnh đau đớn xé lòng; (khi nhìn thấy thây Trọng thêm một lần nữa tan nát tả tơi nơi cõi đời ô trọc). Có đâu cảnh cha mẹ già mãi hoài khơi lại vết thương không khép miệng, khóc con trẻ bội bạc bỏ cha mẹ mà đi…
Trọng nỡ lòng nào từ bỏ cha mẹ, lạnh lùng đơn độc ra đi. Mà lại ra đi biền biệt vào vùng cỏ non thế không biết!? Bởi vì cha mẹ đã phổ tình yêu tuyệt đỉnh vào từng thớ tí nhau, tạo thành một Trọng đẹp như vị thiên thần, anh dần dà lớn lên thì hào hoa, thanh cao, trí thức, thông minh, anh có đời sống tràn đầy sinh khí, dồi dào sức sống. Anh tao nhã thanh lịch, khả ái khi còn sống, và lưu danh thơm sau khi lìa đời. "Cọp chết để da, người ta chết để tiếng" mà. Chứ họ nào dám chứng kiến anh đã một lần oan khiên dẫy chết rồi.
Cay đắng xiết bao! Họ không dám nghĩ tới ngó anh lần thứ hai, chỉ đứng ù lì như trời trồng trơ mắt chứng kiến đống xương thịt bầy nhầy, tanh hôi ruồi bu kiến đậu, bọ rúc trương sình kia: chính là đứa con ruột ngoài hai mươi sáu tuổi: đã có nhiều lần cha mẹ bịn rịn lưu luyến tiễn đưa con hăng hái ra chiến trận, con hiên ngang đi thi hành bổn phận nghĩa vụ làm trai. Và mỗi lần nơi biên thùy xa xôi Trọng hân hoan về phép vui vẻ thăm nhà.
“Xin cha mẹ tha lỗi cho con, vì sự bất hiếu trót lỡ lầm qua mặt ra đi trước cha mẹ, để cha mẹ đau đớn cúi đầu, gục mặt rơi nước mắt vì con trẻ hoài mãi thế nầy”! Có phải anh muốn nói như thế lắm không? Phải không anh? Câu: "Ce dernier soupir de ma vie, je le garde pour aimer", (Lamartine) hoặc câu: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng"; với Trọng giờ phút nầy hoàn toàn rỗng tuếch. Vô nghĩa. Dù hiện tại buốt tê, lạnh lẽo, hoặc an lành đang nghiêng mình trên dĩ vãng, hiện tại đầy cay đắng, đau khổ? Trọng thật sự vĩnh viễn ra đi, như con đò khuất dạng sau đám cỏ lau sình lún; như con tàu suốt biến vào vùng dĩ vãng, khuất xa góc trời tao loạn mù mịt khói súng mất rồi.
Trọng vĩnh viễn nằm xuống một mình, anh soãi đôi tay ôm trọn từng cục đất quê hương vào trong lòng; khi bạn bè còn oai dũng chiến đấu bên nhau thế nầy. Hỡi anh ôi?! Hoá ra… Trông điệu bộ Trung-úy Đức có mái tóc bạc phếch bụi phong trần, mặc áo flight jacket xệ vai, anh hóm hỉnh giả vờ khậc khưởng làm người say, nách anh cặp vỏ chai rượu Martel, mơ màng ngâm mấy câu thơ tình. Các bạn không thể nhịn cười vì lối diễu ra trò ấy. Sự quyến rũ tuyệt vời nầy làm các bạn mê anh.
Thế mới chết. Bạn bè lại sửng sốt bừng bừng mặt tím, xôn xao bàn tán về cái chết đột ngột cuả Trọng, rồi cay cay uống từng men đời say túy lúy. Đã có nhiều lần bạn với Trọng chuyền tay nhau từng điếu thuốc dỡ ngọn!? Bao lần sau tác chiến sống sót an toàn trở về đơn vị, họ vui mừng nâng ly rượu trên tay chúc tụng nhau rồi!? Hay là có lần đầu mà chẳng còn lần cuối!? Tên gọi thân mến cuả những người lính dần dà mất lần lần đi đâu hết? Mất lần theo bóng tối kinh hoàng, chìm sâu vào miên viễn rồi ư!? Cái chết của chiến binh từng xông pha ngoài sa trường giữa hai lằn đạn sát đầu tơ kẽ tóc, thì thỉnh thoảng họ có họp mặt, để “dzăn nghệ dzăn gừng” ti tí, cho đời lên hương chút xíu, ngỏ hầu xóa tan bao nỗi... Cũng vui mà.
Vậy, điều tôi muốn nói: Xin Đời rộng lượng bao dung, đức độ, nhân ái và vị tha cho người Lính Thiên Lương (nếu họ có sơ sót, có sai phạm tí lỗi lầm, bởi nhân vô thập toàn)! Xin hãy mến yêu Lính. Hãy thương Lính. Họ là những công cụ, là sản phẩm của chiến tranh. Trong cơn đau buồn tột độ nào đó… họ có quậy phá tưng trời, do cuộc vui lụi tàn đôi khi men nồng lên, để lại trong lòng họ dư âm trống vắng, xót xa, phiền não vô tận. Có thể nay mai sự bất hạnh tràn đến, thì đấy không là điều thất trách, thất thố cuồng loạn lắm đâu.
***
Trong tiệm ăn vẳng tiếng đàn hạ uy cầm tha thiết đẩy nỗi buồn phiền, băn khoăn, tiếc thương những người bạn xấu số đã ra đi chợt dấy lên trong lòng bạn bồn chồn ray rứt. Bạn bè dùng rượu đè nén bi thương nội tâm xuống, họ dùng rượu khơi dậy lòng tiếc thương vô vàn, mãi mãi là niềm tiếc thương sâu thẳm, ngút ngàn dâng cao! Đồng thời, họ dùng rượu hầu đốt lên niềm vui mừng may mắn còn ngồi bên nhau, lúc chiến tranh tàn khốc vờn quanh con người và ngang nhiên đi giữa cuộc sống, lửa bạo tàn đang đe dọa từng nhân mạng.
Mấy bạn ngồi bên nhau trong bàn tiệc nhỏ, họ từ nhiều vùng đất xa xôi khác nhau, có phong tục tập quán khác nhau, suy tư và tình yêu chẳng giống nhau. Nhiều giọng nói trầm ấm, ngọt ngào, hồn nhiên, cũng không ít có giọng nói gắt gỏng, hoặc sảng khoái cười ha hả mang dấu tích Mẹ Quê Hương Việt Nam ba miền: Trung. Nam. Bắc rì rào giọng nói ấm nồng, súc tích, thân thương đầy âm giai tuyệt diệu, pha hương sắc đặc biệt trìu mến riêng của mọi miền.
Họ hoàn toàn riêng lẽ, ánh mắt ngời sáng vui vẻ không ngừng ánh lên nỗi ngạc nhiên, qua câu chuyện vui buồn, trầm lắng, lịch duyệt, dí dỏm, hóm hỉnh không ngờ. Nụ cười họ nở trên khuôn mặt nhuộm nắng gió khuya chiều sâu lắng nỗi niềm ưu tư âu lo chung. Họ không có gì hơn là: gieo tiếng cười, pha nước mắt ân tình, làm quà tặng chân tín trao nhau, ngỏ hầu san sẻ niềm đau quặn thắt dại tê trong thời chinh chiến, chia nhau ly rượu nồng, tách cafe đắng, hay điếu thuốc Quân Tiếp Vụ. Và, trìu mến gửi tiếng lòng thì thầm gọi mời nhau, trầm lắng ngậm ngùi rung lên từng đợt nấc cuồng quay trên mỗi phím loan.
***
Nhớ về anh quý trọng, tôi xin thay mặt bạn Tuyết Ngọc Trúc ghi lại mấy vần thơ:
Sau Bảy Lăm bỏ quê hương dấn bước
Giạt trôi về Mỹ quốc chốn xa xăm
Đêm từng đêm em ngồi khóc âm thầm
Đời phụ nữ đã một lần lỡ dở
Cầu ván gỗ nằm bên phượng đỏ
Nấm mồ anh nghỉ cạnh dừa xanh
Bên dòng phù sa sóng vỗ trôi nhanh
Rơi giọt lệ mong anh về nước Chúa.
Trơ dưới nắng cây cầu ván cũ
Đường thôn ta hàng so đũa ngày xưa.
Vườn cau, bông gạo, hàng dừa
Anh đi... để lại bài thơ quê nghèo
Chim kêu, vượn hú chiều chiều... (*)
*
(*) thơ Tình Hoài Hương
Tình Hoài Hương
Comment