Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
X

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Noel Ơi! Ôi là buồn!!!



    Noel Ơi... Ôi là buồn!!!
    (gợi nhớ sau chuyến viễn hành 12-2015)
    ***

    Vài tháng sau ngày Hoàng Phương Nam & Thương Mười đính ước, và sau đêm Nam ở lại trên phòng riêng của Mười, hai người vẫn vô-tư-lự và sạch trong với nhau, không hề có một gợn đục tình cảm nào. Mừng vui thay! Thì… hôm nay, do cùng chung đường về, Thu Hồng mời Mười ghé đến nhà cô ăn chè đậu ván (món ăn Mười thích nhất). Ngồi dưới bếp, hai đứa ăn uống, chuyện trò vui vẻ xong, Mười vào phòng tắm rửa mặt. Gió lộng thổi cánh cửa đánh bật ra, nên Mười đến bên cửa sổ, vói tay định kéo cánh cửa vào.

    Bỗng nàng giật nẩy người, lùi hẳn nép người vô bóng tối, thập thò lấp ló nhìn qua bên khách sạn Mimosa. Phương Nam! Trời ơi! Phải! chàng ở trần, khăn tắm vắt vai, Nam đang tựa bên cửa sổ hút thuốc lá. Sau cửa sổ là người đàn bà xoã mái tóc rối, cô ả kêu réo cười cợt, eo éo chớt nhã gọi Nam. Nam khuất vào một bên vách, để lộ ra giường nệm xô lệch, gối rơi xuống sàn nhà, cạnh bộ quần áo của chàng (mà tuần trước Mười đã giặt ủi cẩn thận). Tiếng người đàn bà bỗng gào rú lên, chen lẫn tiếng nước chảy trong phòng tắm lơi lả.

    Thương Mười vẫn tự hào là người đẹp chưa bao giờ bị tình phụ, để nếm mùi đau khổ, cho biết đời. Người con gái diễm kiều rất thông minh, khôn ngoan, thùy mị nết na nầy luôn luôn có những “cây tình si” ao ước làm người bạn đời, thiết tha, trìu mến yêu thương cô. Thế nên, Mười vẫn hồn nhiên với tình yêu giữa Nam & Mười là thần thánh, sạch trong, mà cuộc đời tỏ ra ưu ái khoan dung, nuông chiều theo sở vọng riêng ta. Đến mức Mười chẳng lo lắng về tương lai, hạnh phúc, tình yêu sẽ vỗ cánh bay đi. Ngược lại, Mười rất bình yên, không bao giờ nghĩ rằng mình sẽ bị phản bội.

    Nào ngờ!... bây giờ sự thật đã phơi bày! Mười thấy lòng hẫng đi, điên cuồng, nhục nhã, xấu hổ, quay quắt. Giống như có vật gì bén nhọn, như cây mã tấu đâm vào trái tim, khiến trái tim và đầu óc nàng tan nát, vỡ vụn ra từng mãnh, bèo bọt xót xa vô ngần. Lòng Mười trĩu nặng đớn đau, dày vò, tủi thương thân, rã rời điếng lặng. Tình yêu như chiếc mặt nạ vừa rơi tuột qua kẽ tay! Đáng lẽ ra Nam không nên đưa ba má anh lên làm dạm ngỏ, đính ước, đám hỏi, đám… “khỉ gió mốc xì” gì cả. Giờ đây, ai ai cũng biết Mười là vị hôn thê của Nam. Trời ơi! Ba má anh ta đã mang quà sính hôn đến nhà, công nhận Mười là con dâu nhà họ "Đỗ, Lữ" làm gì sớm thế. Hở Trời!?

    Khi Mười như con điên lò mò lê đôi guốc kêu xèn xẹt từng bước thấp bước cao trên đại lộ vắng hoe, bờ vai nàng khoát hờ chiếc áo lạnh xề xệ, kéo lết bết trên đường ướt mưa. Mười đi bộ về nhà dưới cơn mưa tầm tã, thì trên phòng riêng của mình đang sáng đèn. Mười găp chị Tuế ở cầu thang lầu, chị nói Nam đã đến nhà chờ Mười khá lâu. Mười mới đi khỏi căn phòng thân yêu nầy chỉ một ngày, một buổi chiều, và gần nửa đêm thẩn thờ lang thang đó đây, mà nay Mười tưởng chừng như mình xa vắng nơi đây cả đời người, vẫn chưa về đến đích gần nhất, (trong cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc dường như vừa mất). Gặp Nam ở balcon, Mười không thể khóc, chỉ lạnh nhạt nói:
    - Đừng đụng tới em. Chờ chút, em có chuyện cần nói với anh.

    Chàng trìu mến nở nụ cười, nụ cười á thánh ngây thơ, lẽo đẽo theo nàng vào phòng, Nam bình thản lấy gói thuốc lá rồi quẹt diêm. Mười đi thay bộ quần áo ướt sũng nước, lòng những tưởng sau khi gặp chàng, Mười sẽ vồ xé Nam cho tan ra từng mãnh. Hoặc Mười tìm những lời nói cay độc để xỉ vả, đay nghiến, cằn nhằn Nam. Cũng có thể nàng lăn kềnh ra đất kêu gào, xé áo xé quần Nam khóc lóc thảm thiết vì ghen, (giống như xem trong phim ảnh). Chứ có ngờ đâu tuy lòng đau hơn bị dao cắt, mà mặt Mười cố làm ra vẻ tỉnh bơ, lạnh tanh thế nầy! Mười bước ra phòng tắm, kéo ghế ngồi đối diện:
    - Có lẽ, không còn gì để nói với nhau nữa. Ta nên xa nhau đi là vừa.
    - Lại định giở trò gì đây? Cưng!
    - Không dám. Nam yêu em, chỉ chuốc thêm ưu phiền, bực bội. Chả ích lợi gì đâu.
    - Kỳ quặc hết chỗ nói.
    - Hẳn là anh chưa quên hỉ!
    - Quên... sao được!
    - Hừ!
    - Em lộn xộn quá.
    - Hồi xưa anh kể chuyện: một thằng “Tây Ban Nha” nọ, đã lừa bịp, phản bội vợ hắn. Sau đó hắn trở thành “Tây Bán Nhà”, bị điên, vì tiếc người tiếc của. Hỉ!?
    - Ừa.
    - Hồi chiều, anh rời khỏi Hotel Mimosa về đây, anh giống hệt thằng bán nhà kia. Anh đã trở thành hắn.
    - Ớ… Á…
    - Có gì đâu, tình cờ thôi à. Quả thật rất tình cờ đó, ông Trời mở mắt cho em thấy: từ chiếc khăn tắm sọc xanh đỏ anh vắt trên vai trần; đến cái mini robe màu đỏ tươi của người đàn bà kia, bả sung sướng hét to lên từng cơn thống khoái, cợt nhả nơi phòng tắm đó. Hẳn anh chưa quên hỉ! Nam nè, anh biết tính em; không phải là em chủ tâm đi rình mò, theo dõi, dò xét anh đâu nha. Em ngu sao cần gì đeo mặt nạ làm vậy. Quê lắm, thộn lắm!

    Chàng trợn trừng mắt, kinh ngạc tột cùng bàng hoàng nhìn nàng. Có lẽ điều Mười vừa thốt ra, là một trong những chuyện quái ác, kinh dị hơn gáo dầu sôi bỏng tạt mạnh vào mặt nhau. Nóng bỏng. Lạnh lùng mà hết sức phũ phàng, đau đớn; đã để lại vết sẹo ghim trên trán Nam, khó phai. Mỗi lần Nam soi gương chải tóc, rửa mặt, nó vẫn là vết sẹo vô ý thức lột phăng cái mặt nạ trơ trẽn, trần trụi rơi tụt xuống, nó lạnh lẽo và vô trách nhiệm trong cuộc tình chung nầy, cũng nên?

    Lẽ ra, Mười không nên thẳng thừng bốp chát quá vậy!? Mười đứng dậy, lấy chùm chìa khóa đến cửa phòng mở cửa, đi ra ngoài, rồi khóa trái lại. Trong lúc đó, Nam cứ tưởng nàng đi khóa cửa như mọi lần. Ở trong phòng ngẩn ngơ vài giây, Nam vội vàng nhảy đến cửa lớn, gạt tấm màn voan sang một bên, Nam gỏ gỏ vào cửa kính liên tục, mạnh và lớn đến nỗi Mười sợ anh chị Tuế ngủ dưới lầu nghe thấy. Lưỡng lự đôi phút, Mười đành quay bước lên bậc thang, nàng đút chìa khóa vào ổ, mở ra. Mặt Nam đỏ bừng vì giận, Nam xoay tay nắm giật cánh cửa mở tung ra, cơn gió canh khuya ào ào lùa vô phòng rất lạnh giá. Chàng kéo giật cánh tay Mười lôi vô phòng, đóng sập cửa lại, mạnh đến nỗi làm cánh cửa bung ra. Mười thản nhiên đến bên giường, rủ gối mền, cười gằn:
    - Lãng chưa! Người đau khổ nhất cần được vỡ tung ra là em. Chứ cánh cửa nào có tội tình gì, mà anh hành hạ nó đau. Tội quá!

    Chàng khóa cửa lại, cất dấu chìa khóa ở đâu đó, Nam thay bộ veston, vắt trên ghế dựa, (chàng mặc bộ pirama vẫn để lại đây phòng hờ, mỗi khi chàng đến nhà nô đùa với cháu), Nam cởi giày, rồi lặng lẽ úp mặt nằm lên giường, hai tay ôm lấy đầu, thở vắn thở dài. Trong khi Mười quay mặt vào vách, hai hàm răng nghiến chặt, lòng dặn lòng cương quyết không khóc lóc, không kêu la, không rên xiết, không van nài, không xin xỏ. Mười dặn lòng phải nhất định quên chuyện đau đớn đang phừng phừng dày xéo lên trái tim. Mình phải đoạn tuyệt với con người dã man tàn ác nầy.
    - Thương Mười!
    -. . .
    - Em ơi, hãy cố gắng hiểu nguyên nhân của dữ kiện, đừng tìm hiểu sự kiện trước mắt, để rồi vội vàng kết luận. Sự việc xảy ra ít lâu nay, phần lớn do bạn bè thách thức, khiêu khích, cá độ anh, nhất là vì anh tự ái khi bạn bè thách đố anh. Họ nói: - “Anh chỉ là thằng hề trước mặt người đẹp, anh không cua được cô hoa khôi kia đâu”. Thế nên, anh đã... xác minh cho họ tận mắt chứng kiến vụ việc, như em thấy. Hồi xế chiều họ đã đến đây tạ lỗi cùng em. Chờ em không nỗi, họ vừa về. Anh xin lỗi em.
    - Hừ… Không thể tưởng tượng ai đó nỡ… “bẽ cành bán rao”.
    - . . .
    Mười cười khẩy:
    - Họ không nhào vô "bà đó", (bi giờ em không gọi Hà là cô, vì Hà đã trở thành đàn bà, không còn là con gái), họ chỉ ranh ma đứng ngoài khiêu khích anh, để anh hí hửng nhập cuộc. Họ vỗ tay hoan hô ai đây? Ấy, tình yêu là gì? khi anh dám đánh giá… cá độ cả tình yêu, tương lai và hạnh phúc, để đổi lấy hư danh hão huyền. Vì chút danh dự hay tự trọng “dỡm đời”, bồng bột của thằng con trai háo sắc và háu chiến. Chữ “yêu” bắt đầu từ chỗ dễ dàng trao đổi một lần… năm ba lần… khi đó có con cái, (dù không phải tác phẩm của anh chăng nữa, nhưng có bạn bè chứng kiến mà). Ừa, cũng vui ha.
    - Làm gì có chuyện đó. Anh xin lỗi em.
    - Anh có lỗi gì mà xin.
    - Anh khẳng định trước em và bạn bè, anh không hề yêu cô... à à,... bà Hà ấy. Em nghe rõ nhé, anh không yêu ai cả, ngoại trừ anh yêu em. Em là tình yêu của anh.
    - Lạ quá! Chờ đến lúc tình yêu giữa anh và em hoàn toàn tan vỡ, anh mới tỉnh ngộ chắc. Kể cũng lạ!
    - Chuyện vớ vẩn xui xẻo qua đường mà em. Anh đã đạt đến đỉnh danh dự, xoa dịu lòng tự trọng, tự ái rồi, anh hứa chẳng bao giờ bị vấp ngã nữa.
    - Anh biết là em rất yêu anh, em từ bỏ tất cả để có anh. Nhưng tại sao anh lại làm vậy? Gia đình em thấy anh với bà Hà nhiều lần, chính em và bạn bè cũng thấy. Ngồi trên xe lam em thấy anh chở Hà và Hoàng Hồng Anh đó. Họ nghĩ thế nào về chuyện nầy, hở anh?
    - Anh với Hà, hay với Hồng Anh, chỉ đơn thuần là bạn.
    - Hừ! Bạn gì mà ôm eo nhau, chở đi ngoài phố, thân mật như anh với em bi giờ. Ngộ ghê.
    - Em nói nhiều, ồn quá.
    - Nếu không thích ồn... Anh hoàn toàn tự do đi về nhà.

    Thương Mười giận, nằm quay mặt vào sát tường, nàng nghiến chặt hai hàm răng, cho khỏi bật thành tiếng khóc. Chàng quay mặt ra ngoài hút thuốc liên miên. Thỉnh thoảng Nam thở dài thườn thượt. Thấy mà ghét. Khi điếu thuốc cuối cùng trong bao đã tàn, Nam xoay người trên nệm, nhẹ nhàng nâng tấm mền bông đắp lên ngực Mười. Nam vòng tay qua ôm Mười, chàng hôn lên tóc, lên má em, rồi nói:
    - Đừng buồn vì chuyện nhỏ mà em. Em biết là anh rất yêu em. Ngoài em ra, trước em và sau em, anh không hề yêu ai. Anh nhắc lại: em không chỉ là người yêu, mà em chính là tình yêu duy nhất, là tình đầu cũng là tình cuối của anh. Muôn năm.
    Mười nhắm nghiền mắt, bĩu môi không đáp vì nghe: “muôn năm” khiến nàng tức cười, nhưng Mười cố nín khe, không dám cười. Mãi lâu, chàng tiếp:
    - Chính vì vậy, có lần anh dấu em vài chuyện, vì anh xét thấy nó không là cái đinh gì cả. Không cần thiết. Không quan trọng. Chuyện nhỏ mà em! Nói chung, anh chỉ yêu một mình em. Hãy tin tưởng nơi anh.
    Nam vuốt má, tha thiết hôn lên môi Mười, ân cần nói:
    - Anh xin lỗi, vì có điều không phải với em. Nhưng anh muốn khuyên em một điều: Hãy tin tưởng và nghe những gì anh nói: Anh yêu em nhiều kinh khủng! Anh không thể thiếu em.
    Nghe những lời “đường mật tha thiết và hứa hẹn đầy ắp tình yêu”, khiến Mười quên hết mọi sự, quên Nam đã làm gì ở Hotel, quên hết… quên tuốt luốt! Chẳng hiểu tại sao Mười quá nhẹ dạ, lạc lòng, dễ dàng tha thứ cho Nam, tha một lỗi phản bội tình yêu trắng trợn như thế!? Mười ngúng nguẩy nguýt Nam một cái rõ dài, bắt chước nói:
    - Anh nói nhiều, ồn quá!
    Chàng cười say đắm ôm nàng vào lòng, môi tìm môi. Hơi thở dập dồn, nồng say, như quyện lấy hai thân thể. Mười quên giận, quên ghen ngay. Mười khe khẽ nói:
    - Nam ơi! Hãy làm chồng em, đêm nay.
    - Không được. Anh yêu em ngần ấy, đủ rồi.
    - Anh chẳng yêu em.
    - Chính vì yêu em kinh khủng, nên anh mới giữ gìn cho em đó. Mình để dành tuần trăng mật sau ngày cưới chứ em. Lo gì mà sợ mất. Đêm tân hôn thì em... chết mí anh.
    - Vậy thì mình đi ngủ nghen anh. Chúc anh ngủ ngon.
    - Từ hồi nhỏ đến giờ, anh quen ngủ một mình, không ngủ chung với ai, nhất là nếu ai ôm anh, thì coi như anh thức trắng đêm. Em đừng ôm anh nhe. Chúc em ngủ ngon.
    - Dạ, hổng thèm ôm anh đâu.

    Chàng hôn lên môi, lên má Mười, rồi nằm ngửa, mắt nhắm lại, hai tay vòng trước ngực, chỉ mươi phút sau, giấc ngủ an lành dễ dàng đã đến. Trong khi Mười nằm im, không dám nhúc nhích cục cựa, sợ quấy rầy Nam đang say giấc mộng đẹp. Hai người lại ở bên nhau đằm thắm nói chuyện gần đến sáng, như ngày tháng đong đưa sợi tơ nhện trên cành thông là đà, như đôi bạn chí thân, hồng nhan tri kỷ. Họ yêu nhau chân thành, say đắm, ngọt ngào và thanh cao: Vì hai tâm hồn đồng điệu, vì thấu hiểu hạnh phúc vô bờ. Chứ không vì thể xác hèn mọn. Đôi khi chàng chỉ âu yếm Mười qua môi hôn ngọt lịm tươi nguyên nét xuân thì, nương nhẹ. Tuyệt đối Nam không tìm cơ hội “chiếm đoạt tài sản quốc cấm quý giá cuả Mười”. Điều nầy khiến Mười suy nghĩ nhiều... Rất có thể đúng: Nam thật sự yêu Mười kinh khủng! Một tình yêu cao khiết, thánh thiện, nâng niu giữ gìn và trân trọng.

    Nếu đêm hôm đó Mười trở thành vợ Nam, dù chưa chính thức làm lễ cưới, hay nói đúng ra chưa cột sợi dây xích hôn thú tròng vô cổ, mà Mười đã trở thành người đàn bà của Nam, thì giờ đây chắc sẽ không có sự việc đáng tiếc xảy ra. Mười quả quyết như thế, sau khi suy nghĩ nhiều tháng nhiều đêm ngày.
    * * *
    Suốt ngày lễ giáng sinh, Mười trông đứng trông ngồi, nhưng bóng dáng Nam vẫn bặt tăm, bặt tích. Các anh sinh viên ở cùng nhà trọ với Nam đã mời Thu Nhi, Vân, Đấu… đi chung vui. Mấy cô tới rủ Mười đến nhà họ dự party. Còn Nam dấu nhẹm, không hề nói với Mười việc nầy, cũng như không hề nhắc nhở Mười đi lễ Noel. Vì quá yêu chàng, Mười đâm ra mù quáng, quên cả tự trọng, nàng thay quần áo đẹp đi cùng bạn. Các anh ở chung nhà nhìn Mười bằng con mắt xót thương, ái ngại. Họ không thể nói những điều không mấy tốt về Nam, khiến chính họ cũng đau lòng thay. Họ im lặng và dè dặt. Nhìn những cử chỉ của bạn, Mười là cô gái thông minh đã hiểu, càng khiến Mười cảm thấy đắng cay, đau đớn tủi hờn hơn!

    Biết Cầu đau ốm nặng nằm dưới lầu, mượn cớ đi thăm người đau, Mười ngồi riết trong phòng anh ấy, hai người nói đủ thứ chuyện vớ vẩn, Mười không đề cập về việc Cầu làm “nội-gián” cho bọn phản nước hoạt động kín ở trong bưng. Tuyệt nhiên Mười cũng không đề cập đến chuyện Nam. Tầng trên lầu nhạc dìu dặt bắt đầu rộn ràng cho buổi “bum” khá lâu, những cặp trai gái đã dìu nhau nhảy lộp cộp có khi rầm rầm trên đầu, rất ồn ào. Thế mà không hiểu sao Cầu chỉ mỉm cười nhìn lên, không hề than van. Mười cảm phục cho sự kiên trì chịu đựng nhẫn nhục của Cầu.

    Vả chăng ngồi hoài cũng thấy kỳ, để Cầu nghỉ ngơi, nên Mười từ giã anh ta. Nàng trở lên lại trong phòng khách. Bất ngờ, Nghi hiện ra nơi khung cửa tối đèn. Nghi vui vẻ chào và dạy Mười mấy điệu nhảy. Nàng yếu kém trong chuyện “nhảy với nhót”, cứ bị dẫm lên chân Nghi hoài. Nghi kiên nhẫn dạy, cứ mỉm cười trêu Mười. Nghi thủ thỉ bên tai Mười:
    - Anh thú nhận: mình vẫn yêu Mười câm lặng, mặc dù anh biết trái tim em đã thuộc về ai. Nay anh đã có “bồ”, nói rõ ràng là bồ bịch vui vui, chứ không phải người yêu, người tình!

    Bất ngờ và lúng túng, Mười xiểng liểng suýt đo ván trên sàn nhảy. Thấy ngượng, nàng buông bạn ra, tới ngồi trên ghế xem các anh chị trình diễn “khiêu vũ thời trang”. Khoảng hơn mười một giờ khuya, Nam về. Nhìn nét mặt chàng, Mười biết chắc chắn là chàng đang tức giận, bất đồng, bực bội gì đó với "bà ta” vì cuộc đi chơi riêng không thú vị đã qua. Hình như có ai đã tàn nhẫn tháo chiếc mặt nạ rời ra, để lộ khuôn mặt Nam ủ dột, đầy buồn phiền trơ trẽn trước mặt Mười rồi! Có lẽ Nam không nghĩ Mười có mặt trong buổi party nầy, thế nên lúc bất ngờ gần như sửng sốt thấy Mười ngồi lù lù trong góc nhà, gần phòng ngủ của Nam, Nam tỏ ra khá lúng túng, hơi ngượng. Nam ngồi cạnh Mười mà thừ người ra khá lâu. Nhảy nhót là môn Nam thích nhất, nhưng chẳng hiểu sao hôm nay chàng chẳng có hứng thú??? Nam chỉ ngồi ì xem các bạn nhảy đầm. Mười mở lời:
    - Chào anh mới về.
    - Chào em.

    Một lúc sau chàng thì thầm bảo Mười vào phòng riêng. Quả thật Nam không ngờ Mười đến nhà hôm nay. Nam không hề báo tin cho Mười biết có mở cuộc vui nầy, nên Nam quên lững chuyện tấm ảnh của Mười do Nam thường chưng trên mặt tủ, bây giờ tấm ảnh đã bị úp mặt vào tường, (thay vào đó là tấm ảnh của Hà). Nam vội quay lưng lại, rất nhanh, chàng thò tay lấy khung ảnh của Hà dấu vô trong hộc tủ. Mười vờ không nhìn thấy cử chỉ ấy, nàng e ấp vén tà áo dài tím, ngồi trên nệm, lòng trũng xuống những cơn buồn trĩu nặng xót xa và tê tái, nàng thầm nghĩ: Đã muộn rồi, anh ơi!

    Ôm hôn Mười như bao lần gặp gỡ, Nam thẩn thờ âu yếm nàng như người mất hồn, như kẻ mộng du, như khách phiêu bồng lỡ hẹn. Mười cảm nhận mật ngọt yêu thương thật sự mất rồi ở đầu môi tình phụ! Một lần nữa, đáng lẽ ra thừa cơ hội nầy, Mười nên tỏ ra là người vợ tương lai dễ thương, khôn ngoan khéo léo chìu chuộng, âu yếm, vuốt ve Nam, để giành lại người yêu dấu từ tay "con kia", mới phải. Nhưng nàng buồn nãn, đau đớn, khổ sở buông xuôi, mặc cho tình yêu vỗ cánh xa bay, kệ con thuyền tình muốn trôi giạt đi đâu, thì đi, đến đâu thì đến. Mười không thèm khát nâng niu và níu kéo nữa. Nói trắng ra, nàng cảm thấy chán ngấy lên tột đỉnh kinh khủng! Đó là mãnh tình-sầu đã trôi theo nụ hôn nhạt nhẽo nơi lần yêu cuối cùng.

    Mười hai giờ kém mười lăm phút, tất cả đi lễ ở nhà thờ Domain De Marie. Gió lồng lộng thổi trên ngọn đồi cao, trời lạnh kinh khủng, cái lạnh tê buốt, xoáy vào thịt da, se sắt lòng người khiến ai nấy đều xuýt xoa rùng mình. Mười đăm đăm nhìn lên cung thánh, thì thầm lời cầu xin. Thật ra từ đáy lòng Mười bật lên tiếng rên xiết, than vãn, oán trách vô biên mọi vị thần linh đứng trên bục cao cúi nhìn, vừa lạnh, vừa im lìm, thờ ơ không chịu để tâm nhìn xuống kẻ phàm trần cơ-khổ, bỏ mặc Mười trong cơn đớn đau, khốn cùng thế nầy!?
    * * *
    Khi tán lá còn vương từng mảng tối, sương muối kéo từng bè, như chiếc sô tang mỏng tanh quấn trên đồi cỏ non. Rồi tấm màn mây màu lưu huỳnh trùm lên đỉnh đồi khu Domain dần dà hé mở, ánh mặt trời vươn lên, trở lại màu sắc rạng rỡ tự nhiên mỗi ngày. Cả vùng rộn lên tiếng thông reo vi vu triền miên. Tiếng chim hót líu lo từ trong thinh không im vắng. Buổi sáng tinh mơ của ngày lễ có ông già Noel đứng gác cửa nhà Nam (Santa Claus), (chữ Noel là tiếng Pháp, viết tắt từ chữ Emmanuel) mà Nam ưa nói "Merry Christmas" với bạn, cũng do từ tiếng Anh: Christ / ngắt chữ mass ra). Một mình Mười đứng vẩn vơ trước ngôi biệt thự nơi Nam cư ngụ. Bỗng nhiên Mười cảm thấy do dự, ngập ngừng, không muốn gõ cửa vào nhà Nam. Lỡ đằng sau cánh cửa phòng riêng, vô tình lại vén lên tấm màn đau xót quá thật: giữa Nam và Hà khắng khít mật thiết bên nhau như bao lần, thì sao!? thì… tan nát cõi lòng mình hơn. Mười ngập ngừng, e dè rón rén quay gót trở về nhà. Thật não nùng!

    Ôi! Noel năm xưa, sao cả anh và em đều rộn ràng dấu ấn hoan ca, sao ngọt ngào, thắm thiết lạ thường, ríu rít trìu mến xiết đỗi! Thế sao Noel bây giờ không còn dư vị đắm say ngọt ngào trìu mến ngày cũ? Tình yêu bây giờ không còn tuyệt vời thuở trước? Bây giờ cũng là Noel rồi đó anh, sao anh nở lòng nào!? Mình đã nhẫn tâm tạt vào mặt nhau hũ mật đắng, nhuộm đen cuộc đời kinh khiếp thế sao đành? Vòm trời Cao Nguyên Lâm Viên lồng lộng, có gió lạnh sương mù vây kín núi, có tiếng thông reo vi vu rất nên thơ, đầy xao xuyến một thuở tôi mến yêu người. Giờ nầy hết mộng với mơ, hết quyến rũ rồi.

    Bao đau khổ đã xảy ra trong những ngày kế tiếp. Mười sống trong ngọn lửa yêu mến, với lòng nhớ nhung không tắt. Mười hy sinh tất cả, sống trọn vẹn cho người chồng tương lai. Buồn một nỗi nàng không uốn lòng biết niềm nở “dẽo mồm, dẽo miệng” săn đón chăm sóc chàng, hầu kéo Nam trở về với mình. Mặc dù chàng vẫn ân cần, niềm nở; nhưng Mười tự bảo lòng: đó là sự giả dối tráo trở đáng nguyền rủa. Vô tình Mười đứng về hướng đối nghịch, đá hất Nam ra khỏi vòng ôm mê đắm, xua chàng đi về hẳn với kẻ tình địch bất cộng đái thiên rồi.

    Mười đau đớn nhận thấy tự mình đã nhận chân được giá trị tình yêu hiện hữu, trước khi nó trở thành quá tệ. Đây chính là giờ phút Mười cần có nghị lực, kiên cường, quyết định dứt khoát mối tình say đắm nầy, chen lẫn nỗi niềm đắng cay, chua chát, buồn phiền, thách đố, chán nãn, và long trọng phủ định biện chứng tin yêu. Nỗi đớn đau (ghen tương và thù hận) làm Mười dại người. Mười trơ mắt nhìn cuộc đời trôi đi, (trong đó có chàng: đã dối trá, đả thương nàng). Ở đâu, nghe gì, thấy gì lòng cô em cũng lạnh lùng, trắc ẩn, ngờ vực, khinh dễ. Chính vì thế, Mười đã phá tan mối thâm giao với chàng từ gốc rễ. Mười nghĩ: sự ân cần nhã nhặn của chàng đối với mình; chỉ là phỉnh phờ, lừa dối. Thất vọng làm sao khi dòng đời tách rời hai người đi về hai hướng riêng biệt: gạt phăng Mười và Nam ra một bên, không có cục nam châm nào thu hút, quyến rũ lôi kéo hai người trở về nguyên thủy tình yêu trong vắt, thanh cao, thánh thiện, sáng ngần, xưa cũ... Ôi là buồn!!!
    * * *

    Tình Hoài Hương
    Last edited by Tinh Hoai Huong; 12-22-2015, 04:16 PM.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • Tự Khúc của Em Tôi



      Tự Khúc của Em Tôi
      (Tiếp theo loạt bài Tình Hoài Hương đã viết & post trên HQPD về em THU HUYỀN HOA: bài dưới đây do tự em Hoa suy nghĩ, viết, đã đăng trên Việt Báo).
      ***


      Ngày ấy là ngày 15 tháng 2 năm 1972, tôi ôm hai đứa con thơ, theo chồng về Mỹ. Vùng đông bắc Hoa Kỳ lúc ấy đang cuối mùa Đông, chưa sang Xuân nên trời vẫn còn lạnh, mà từ quê nhà mới qua, tôi đâu có biết nó lạnh đến cỡ nào.

      Chỉ mấy ngày sau khi ngủ đủ sức rồi, là tôi háo hức đòi chồng tôi đưa đi chợ. Sửa soạn thật đẹp, với quần ống bát, áo vải mỏng, bông hoa loè lẹt, guốc Việt Nam cao gót... Vừa từ trên gác bước xuống, gặp bà mẹ chồng ngay dưới cầu thang, bà la lên hoảng hốt,
      - Ôi! Chúa ơi! Con tưởng là con đang ở Việt Nam ư? Con có biết ngoài trời chỉ có 10 độ F thôi không?

      Không hiểu hết điều bà nói, thấy anh chồng gãi đầu gãi tai, lúng túng, tôi vội kéo tay anh ra khỏi nhà cho gấp, kẻo đụng lỡ hai đứa con nhỏ khóc lên, thì sợ mẹ chồng đổi ý, không cho đi.

      Anh bảo tôi đứng tại cửa, để anh đi lấy xe, khi xe đến trước cửa, tôi vội chạy ra, không may té một cái đau quá trời đất, nhưng cũng gượng đứng dậy bước tới xe được. Anh chồng lo bật máy sưởi trong xe, không thấy tôi bị té. Khi vào trong xe rồi, nó lạnh run lập cập, chồng tôi phải cởi áo ấm của anh ấy choàng cho tôi, lại tới phiên anh ấy run lập cập.

      Xe ra đến phố rồi, anh bảo tôi ngồi trong xe, để anh vào trong Sear mua áo lạnh cho tôi. Khoảng mười lăm phút sau, thấy anh đi ra với cái áo ấm, tôi chê bai đủ điều, nhưng anh bảo:
      - Thì em mặc đỡ đi, rồi mai mốt mình đi mua áo đẹp hơn.

      Anh chạy xe một vòng quanh phố. Tôi hỏi:
      - Anh đi đâu, mà không đưa em đi phố?
      Anh bảo:
      - Đây là phố.

      - Ôi, Trời đất ơi, phố xá chi lạ vậy? Sao không thấy người đi, sao không thấy phố mở cửa, sao vắng hoe vậy, sao nghèo nàn quá vậy? Anh có đùa với em không?

      Anh nhìn tôi với vẻ thất vọng. Cuối cùng tôi làm mặt giận, tôi nói thôi đưa em đi chợ. Lại nữa, tôi cảm thấy hụt hẫng vô cùng khi bước chân vào siêu thị. Toàn là đồ hộp, cá tươi thì không thấy, chỉ thấy toàn là thịt bò, thịt heo, thịt gà, gói lại hết, và cũng rất ít, không phải như siêu thị bây giờ, rau rợ thì cũng chỉ vài bó loe hoe, thấy buồn hiu buồn hắt! Thế thì hình ảnh mà tôi thường xem trong phim ở đâu? Hay tôi đang lạc vào quê hương xứ sở nghèo nàn của nước nào? Đang thất vọng não nề, chân cẳng thì lạnh tê buốt, vì đi đôi guốc vụng về mà người ta ai đi ngang qua cũng nhìn mình một cách quái gở.

      Trong lúc đang tức bực thất vọng, thì một bà lão mỉm cười và hỏi:

      - Cô từ đâu đến?

      - Thưa bà tôi đến từ Việt Nam.

      Bà ấy nhìn tôi rồi mỉm cười hỏi lại:

      - Việt Nam ở đâu?

      Ôi, đúng lúc cho tôi xả bỏ cơn bực tức vô lối ấy:
      - Bà không biết Việt Nam ư?

      Tôi huơ tay múa may nói thật to, với số vốn tiếng Anh ít ỏi, lại phát âm theo giọng Quảng Trị cho mọi người đang vây quanh nghe:
      - Việt Nam mà bà không biết, Việt Nam của tôi lớn lắm, bà biết không, ai mà không biết Việt Nam, sao bà không biết vậy hả?

      Thế là chồng tôi cuống lên, kéo tay tôi đi thật nhanh, ra ngoài cửa rồi anh ấy nhấc bổng tôi lên, liệng vào xe, và cho nổ máy xe chạy thật nhanh về nhà, không nói lời nào hết.

      Còn tôi thì tức tối quá, nên khóc bù loa, và đòi anh hãy đưa tôi về lại Việt Nam, ngay bây giờ, tôi không muốn ở đây nữa. Anh tấp xe vào đoạn đường vắng và dỗ dành. Tôi vẫn trách móc anh đủ thứ, cuối cùng thì anh nói rằng:
      - Thôi được em không muốn ở đây, thì bốn tháng sau, khi anh mãn hạn công tác tại Việt Nam rồi, chúng ta đi xứ khác. Ở Mỹ có nhiều nơi cũng đẹp lắm. Thôi em nín đi đừng khóc nữa kẻo về nhà ba mẹ thấy thế, ba mẹ buồn.

      Nghe thế tôi cũng yên tâm, lau nước mắt bước vào nhà. Mẹ chồng hỏi:
      - Sao, con có thích không?

      Tôi bỏ chạy lên gác nằm khóc. Anh phải lo cho hai đứa nhỏ, và nói gì với mẹ, tôi cũng không biết, nhưng khi tôi đói bụng xuống nhà lục đồ ăn, thì thấy mẹ chồng mặt mày buồn hiu. Tôi ân hận lắm, nên lại ôm bà, và bà cũng ôm tôi thật chặt. Bà nói chi nhiều lắm, tôi không hiểu hết được.

      Ngày hôm sau chồng tôi đưa cho xem quả địa cầu, và chỉ cho tôi thấy vị trí của Việt Nam trên đó. Anh chỉ tay, nói:
      - Đây là nước Mỹ, đây là nước Tàu, đây là nước Nga… và đây là Việt Nam của em nè.

      Tôi lại nổi cơn điên lên, cái tự ái lại cao hơn bình thường và thầm nghĩ, anh sỉ nhục tôi, nên tôi liệng quả địa cầu cái rầm trong phòng khách. May cho tôi khi ấy chỉ có hai đứa em và mẹ chồng ở nhà thôi. Bà mẹ chồng tưởng đâu tôi sẩy tay, chứ không biết đứa con dâu của bà hung dữ như quỷ sứ.

      Sau đó, có những lúc cả nhà đi vắng, tôi lấy quả địa cầu ra xem lại. So với nước Mỹ thì VN ta chỉ tương đương với tiểu bang Texas. So với nhiều nước thì... mà thôi, tôi mỉm cười và tự bào chữa cho mình:
      - Ừ, thì quê hương tôi nhỏ bé như thế đấy, nhưng ở đó có tới bốn ngàn năm văn hiến chứ bộ.
      Bây giờ đôi khi nghĩ lại ngày ấy, tôi thấy mình hồ đồ mà tự thẹn với mình. Tuy ở Mỹ tại Tiểu bang Pennsylvania, nhưng nhà chồng tôi chỉ là một gia đình gốc Tiệp Khắc di dân rất nghèo, lại sống tại vùng quê, nhà này cách nhà kia rất xa. Trong nhà chỉ có một buồng tắm, một toilet thôi, nên tám người mà một buồng tắm, thì rất bất tiện. Ngoài vườn cũng có một cái nhà vệ sinh như bên Việt Nam mình vậy. Mùa hè thì đàn ông đi ngoài đó nhiều hơn. Áo quần giặt xong những ngày có nắng cũng phơi bên ngoài sân, như ở quê nhà. Đứng bên cửa sổ nhìn ra bên ngoài, thì chỉ thấy bò và bò…

      Ôi chao là buồn! Thế rồi một tháng trôi qua, chồng tôi phải trở lại Việt Nam, bởi với công tra làm việc đã ký, anh ấy còn bốn tháng nữa mới hết hạn. Tôi và hai con ở lại với nhà chồng. Trước ngày rời nước Mỹ, anh nói với mẹ chồng tôi:
      - Nhờ mẹ thường ngày đừng để vợ con đi lấy thư, kẻo có chuyện nguy hiểm.

      Số là bên kia đường của nhà chồng tôi là một gia đình hàng xóm có người con trai tử trận tại Việt Nam. Chồng tôi nghĩ người hàng xóm biết tôi đến từ Việt Nam, ông ta có thể giết tôi, để trả thù cho con họ. Vì thế, hàng ngày cha chồng tôi thường ra lấy thư.

      Sau nhiều ngày lo sợ khi nhìn sang nhà hàng xóm, tôi nghĩ rằng mình phải đối diện với sự thật một lần. Tôi bỏ công lôi cuốn tự điển Anh Việt - Việt Anh của Lê Bá Kông mà tôi mang theo khi về Mỹ, ghép lại thành từng câu và học thuộc lòng. Sau đó, tôi lấy hết can đảm tự mình sang nhà hàng xóm, xin gặp bà chủ nhà. Tôi tỏ bày với họ như vầy:

      - Thưa bà, tôi xin chia sẻ niềm đau mất mát với bà. Xin bà đừng ghét tôi, vì tôi cũng có cha và em trai đang đánh giặc ngoài chiến trường. Cha và em trai của tôi cũng có thể chết sống trong tích tắc bất cứ lúc nào. Mẹ tôi và biết bao bà mẹ Việt Nam khác nữa cũng chỉ là nạn nhân trong cuộc chiến nầy như bà. Quê hương tôi cũng khổ đau lắm, riêng tôi rất yêu thương và quý trọng người Mỹ, đã nhân danh tự do, giúp đất nước tôi chận đứng làn sóng đỏ từ phương Bắc đổ xuống. Nếu không vì cộng sản Nga Tàu, thì quê hương tôi không có chiến tranh, nhân dân tôi sống yên yên và người Mỹ đến đó chỉ là khách du lich…

      Tôi chưa kịp nói hết những gì mình đã học và muốn bày tỏ nỗi lòng, thì hai ông bà đều sang ôm tôi vào lòng khóc nức nở, tôi cũng khóc với nỗi đau của họ và nỗi đau của chính mình! Vậy mà, không hiểu sao, ngày hôm sau nhiều người đến gõ cửa nhà mẹ chồng tôi để gặp thăm tôi, họ là những người của xóm Mount Jackson này, đến để đón chào người con dâu Việt Nam đến với xóm làng họ.

      Thế là từ đấy tôi không còn lo sợ và lẻ loi nữa, khi thì người này đến chở đi ăn kem, khi thì người khác mang chút quà lại cho hai con nhỏ của tôi. Mỗi khi có ai đưa đi đâu, thì nhiều người xúm lại hỏi han thân thiện. Với khu xóm như vậy, là tôi yên ổn, nhưng với chính mình và gia đình nhà chông thì còn nhiều sóng gió.

      Khi còn ở Việt Nam, công ty của anh ấy cho biết rằng:
      - Ai có vợ Việt, hãy đưa gia đình rời khỏi trước Tết âm lịch, đó là tin “mật”.

      Sau đó là trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa xảy ra ngay trên quê hương tôi. Sau này, khi đã tới nước Mỹ, tôi mới hiểu vì sao… Thì ra chính phủ Mỹ đã sắp đặt bỏ rơi miền Nam Việt Nam. Ôi còn đau đớn nào bằng. Quê hương tôi giờ đây là “Đại Lộ Kinh Hoàng”, là “Mùa Hè Đỏ Lửa”... Khi hiểu ra điều này, tôi oán trách nước Mỹ. Tôi ghét luôn cả người chồng của tôi, cả gia đình dòng họ, xóm làng của họ luôn.

      Cùng thời gian này, cha chồng tôi thấy tôi, lúc nào cũng như gây chiến tranh với ông. Ông đã không thích tôi từ đầu, bây giờ lại càng khó chịu hơn. Tôi cũng không vừa gì với ông, hai bên cứ căng thẳng như thế. Hàng ngày cha chồng tôi phải ra thùng thư lấy thư. Một hôm, ông cầm thư vào không chịu đưa cho tôi, mà còn la lối um sùm, nào là:
      - Thằng con bất hiếu, nó xem vợ lớn hơn cha mẹ nó, gửi thư cho vợ hàng ngày mà không gửi cho cha mẹ.

      Tôi hỗn với Ông. Tôi nói thẳng rằng:
      - Ông độc tài quá, ông đã bỏ xứ Tiệp Khắc cộng sản sang đây rồi, mà ông cũng không bỏ được máu cộng sản trong ông, là ích kỷ và độc tài.
      Ông đáp lại:
      - Thì mày cũng thế, mày là con cháu Hồ Chí Minh tàn tệ đấy thôi.

      Thế là trận chiến bùng nổ dữ dội, tới mức có lúc tôi đã phải gọi người bạn bên Dayton, Ohio sang chở tôi về bên đó, cho đến ngày chồng tôi về lại Mỹ. Câu chuyện nầy dài dòng không thể kể hết. Nhưng cũng may là tôi có được bà mẹ chồng tuyệt vời, bà luôn coi tôi như là đứa bé không hơn không kém, nên hết lòng che chở.

      Chuyện “chiến tranh” giữa cha chồng và tôi sau cùng được thu xếp tốt đẹp. Tôi là người đứng ra xin lỗi ông, bởi lúc nầy tiếng Mỹ của tôi cũng tạm được, đề giải bày uẩn ức của mình với ông, và cám ơn ông bà đã sinh ra người con trai mà hôm nay là người chồng tốt của tôi, người cha mẫu mực của hai đứa con của tôi. Sau khi biết nói lời xin lỗi, tôi đã được ông tha thứ. Dần dà, tôi còn được ông đặc biệt thương yêu, còn hơn hai nàng dâu bản xứ của ông.

      Cũng từ đấy, tôi bắt đầu vào đời với công việc làm ăn bận rộn vất vả, để tự nuôi sống cho chính gia đình nhỏ bé của mình, nuôi hai con một gái một trai, ăn học, rồi lo cho chúng vào đại học, vào y khoa. Cả hai đều học hành đến nơi đến chốn, và tốt nghiệp bác sĩ. Ngoài việc lo làm ăn nuôi con, tôi còn lo giúp đỡ gia đình bên quê nhà, nào là lo cho mẹ tôi bịnh bán thân bất toại, rồi lo cho các em đi vượt biên, bao nhiêu lần không được, lại lo cho cuộc sống trong thời gian chờ đợi bảo lãnh đoàn tụ… Rồi một ngày, các em và gia đình của chúng cũng được sang Mỹ đoàn tụ, tất cả 15 người. Bây giờ thì hơn 30 rồi. Kế tiếp là những đứa cháu ngoại như thiên thần xuất hiện. Thế là tôi chẳng còn thời gian để dời đi xứ đẹp, xứ ấm, phố phường đồ sộ nữa, mà lạ thay hạnh phúc từ đó vững mạnh và vươn cao.

      Quảng Trị vẫn in dấu trong tôi, tôi vẫn nhớ thương nơi chôn nhau cắt rún... Nhưng tại quê hương mới, gia đình chúng tôi đã như cây cổ thụ, gốc rễ đã mọc ra chằng chịt bám vào mảnh đất này. Mẹ chồng tôi năm nay 91 tuổi vẫn khỏe và rất minh mẫn, vẫn thương yêu tôi như ngày nào. Người chồng quê mùa chất phác, mà khi qua chiến đấu tại chiến trường Việt Nam, khi chỉ mới học xong high school năm xưa bị tôi hờn trách, hôm nay vẫn còn bên cạnh cuộc đời như chuyện tình “đôi dép”. Con gái mở phòng mạch tại đây. Thằng con trai hơn 40 tuổi không lấy vợ, vì bận rộn với công việc và không thích ràng buộc.

      Gần 10 năm nay vùng quê Mỹ nghèo của tôi nay đã có được Walmart và Highway 376. Trong nhà đã có microwave để hâm nóng thức ăn, mà hồi đó, 43 năm trước không có.

      Kể từ 1972 khi đứa con gái từ quê nhà Quảng Trị một mình phiêu bạt qua đất Mỹ, lòng ngổn ngang trăm mối. Thời ấy, số người Á Đông tại nước Mỹ còn rất nhỏ, đâu được như ngày nay, riêng cộng đồng người Việt đã có tới hơn một triệu bảy trăm ngàn người.

      Viết đến đây, tâm hồn tôi cảm thấy tràn ngập tình thương và biết ơn với nguời chồng khác chủng tộc, cũng như với người Mỹ, nước Mỹ quê hương thứ hai của mình. Xin đa tạ anh, nguời bạn đời yêu quý, và xin tạ lỗi với nước Mỹ ngày ấy bị tôi trách móc, hận thù.
      ***


      Trương Thị Thu Huyền
      *
      Last edited by Tinh Hoai Huong; 12-10-2017, 01:45 AM.
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • Xuân Mộng Đào Nguyên




        Xuân Mộng Đào Nguyên
        Thân kính tặng qúy quân nhân QLVNCH đã có một thời vang bóng trên quê hương chinh chiến, nhất là vùng: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Mộ Đức, Sa Huỳnh, Minh Long…
        THH

        ***

        Sau ngày Hoài hân hạnh đạt danh hiệu rực rỡ: Hoa Hậu Cây Mùa Xuân tại Sơn Trà – Đà Nẵng, thì Hoài được mời vào làm việc tại Sư-đoàn 2. Phòng 5, đến nay là chín tháng rồi. Do đó Hoài cũng quen khá thân với Thắng, và khi cả phòng đi công tác ra Quảng Ngãi, lên các vùng điạ đầu giới tuyến Hoài đã quen biết thêm nhiều anh chị khác tận miền Quảng Ngãi, Mộ Đức, Sa Huỳnh, Tà Biên, vân vân…

        Hoài đã quen thân một vị sĩ quan đang trú đóng ở tiền đồn Minh Long xa xôi heo hút, giá lạnh, khói lửa liên miên và buồn vô cùng. Anh ấy tên Đan, tính tình Đan trầm lặng, buồn vui ẩn trong nhiều ý nghĩ sâu sắc, và chắc chắn một điều là Đan... cân nhắc thận trọng khi thổ lộ cùng nàng qua những trang thư gửi từ chiến trường KBC... dễ thương: “Anh đã bị em ăn trộm trái tim và khối óc từ lúc chính thức biết rằng: anh yêu em rất nhiều và chân thật… ”.

        Thiệt tình! Một người đã bị mất trộm cả khối óc và trái tim trên chiến trường, ấy thế mà vẫn sống can trường và dũng cảm oanh liệt trong binh đao khói lửa! Thế mới lạ. Hoài ngây ngất với niềm vui & nỗi nhớ nhung vời vợi... dù chưa một lần tay nắm bàn tay nhau. Chi lạ rưá!? Rồi thì… dưới bóng mát ven khu rừng già, phía trước mặt là ruộng lúa mênh mông, thân lúa kết quả đơm bông vàng rực, óng ánh dưới nắng, lúa oằng cong ngọn nằm ngã mình lả lơi lên nhau, trĩu hạt no tròn mum múp trông quá dễ thương. Nhờ màu xanh cây lá bên bìa rừng cành cây không rậm lá, lộ ra khoảng trời xanh êm mát mênh mông, lọt nắng vàng tươi qua kẽ cành đong đưa, theo gió rì rào lao xao, mà cảnh vật trong vùng chiến tranh đỡ tiêu điều, hoang vu và cô quạnh biết mấy.

        Một chiều xuân bất ngờ, Đan tìm đến Hoài, khi nàng đọc quyển "Một Lần Gặp Nhau" của Châu Trang Long. Chàng đưa hoa sen lên môi hôn, rồi ân cần tặng Hoài cánh sen còn tươi rói làn môi. Có lẽ Đan vừa hái ở đâu đó, cuống hoa và cánh hoa mọng nước, sắc hồng điểm màu trắng nhạt ven cánh. Trông tuyệt diệu dưới ráng chiều dắt vàng chan hòa trên cỏ cây nơi vùng hoang dã. Hoa sen ở miền Trung và tại Huế trồng dồi dào nhất. Người ta ưa thích nó về nhiều mặt: Cánh sen ướp với trà uống vào có hương vị thật đặc biệt, trong trà lúc đó có vị chát, vị đắng cuả tim sen, khổ qua. Hoa sen cắm vào lọ chưng bày trên bàn thờ lâu tàn hơn các loài hoa khác. Hạt sen nấu chè thật bùi, hoặc hầm các món ăn, hạt sen còn làm bánh mứt. Thân non làm gỏi ngó sen, lá sen dùng gói hàng. Hầu như sen không bỏ phí đi một thứ gì mà trời đã ban tặng.

        Sen là loại thực phẩm vừa ngon, vừa đắt, tận dụng, tiện dụng và hiếm quý. Việt Câu Tiễn dâng nàng Tây Thi, cô gái nước Việt sắc nước hương trời, đẹp tuyệt trần sang Tàu triều cống Ngô Phù Sai thâm độc kinh khủng, mục đích làm cho Ngô Vương say mê đắm đuối Tây Thi; khi hoa sen cùng người đẹp Tây Thi xuất thân đến xứ người, thì dân Đế Đô ngàn năm cổ kính đất Thần Kinh càng yêu thích, luyến thương hoài nhớ Tây Thi, nên ưa trồng nhiều sen hơn. Thì phải!?
        Hoài vui mừng và sững sờ bỏ quyển sách xuống nệm cỏ xanh, hỏi Đan:
        - Ồ. Chào anh. Anh đến có việc gì gấp không? Anh!

        Đan lắc đầu, chàng hóm hỉnh mỉm cười không đáp. Ngồi xuống bên cạnh nàng, Đan lấy gói Pallall ra gài điếu thuốc lá lên môi, mồi lửa, Đan chỉ ghiền hút thuốc lá không đầu lọc và uống cà phê đen đậm không đường mà?! Chàng nheo mắt thở ngụm khói nhỏ. Khuôn mặt trầm tư nén bớt vẻ khắc khổ, màu đen trên mái tóc chàng pha màu khói lam, đôi mắt Đan đẹp, sáng long lanh nép dưới hàng mi cong vút rung nhè nhẹ. Hoài thắc mắc nhìn Đan mỉm cười, dò hỏi:
        - Sao anh biết em ở đây, mà tìm thấy vậy?
        - Nơi thanh vắng thế nầy hợp với em. Cũng như chỉ có Hoài, mới quyến rũ bước chân hồ hải của anh thôi.
        Đan mỉm cười, nghiêng đầu ung dung ca nho nhỏ: Từ khi anh thôi học, là từ khi anh thích aó treilli. Từ khi anh xa nhà, một ngàn đêm nhung nhớ giữa trời mây. Ngại chăng đêm di hành, và thường khi dừng bước giữa hoang vu (…) Đồn anh bên sông cạn, và hoàng hôn ưa tắm đáy sông thơ. Nhiều tên trong đơn vị gọi đùa anh chiến sĩ của mộng mơ. Thường khi hai ba thằng, chiều chiều ra bờ vắng ngắm mông lung (…). Thư của lính không xanh màu trời như mơ ước đâu em. Thư của lính không thơm nồng hương, không nét hoa đa tình. Thư của lính ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay. Nhưng thư của lính ghi giữa rừng cây khi nhớ em thật đầy. (1)

        Vẻ thanh lịch của Đan, có thể nói toát ra từ cử chỉ, dáng dấp ung dung, thư thái, vô hình trung tác động đến nàng. Tim Hoài bỗng nhiên đập rộn ràng trong lồng ngực, vui vui, say say, và mơ mơ. Đan cầm quyển sách của Hoài đang đọc lên. Vô tình phong thư Hoài viết chưa kịp gửi cho Thắng, rơi xuống nệm cỏ giưã hai người. Có một vài giây, trái tim Hoài co xiết cuồng quay, dường như ngừng đập. Nàng e dè dõi mắt liếc nhìn từng cử chỉ Đan thế nào, hầu xác định mối liên lạc tương lai, giữa Hoài và..."ba anh bạn (bạn đúng nghĩa): Phú. Thắng, & Đan". Nàng ấp úng:
        - Anh nầy có nghĩa là anh... anh trai của Hoài…
        Đan nhìn phong thư ghi KBC, chàng nheo nheo mắt, mỉm mỉm, cười cười, hóm hỉnh rất dễ... ghét:
        - Lính kèn hả? Hay là lính kiểng?
        - O… Ô!... Em không hiểu anh muốn nói gì?
        - ...
        - Vả lại em hỏi điều nầy, anh đừng trợn mắt lên à nha - "Lính kèn, Lính kiểng" là thế nào anh ha?
        - À, là Lính thành phố thổi vào tim em bản tình ca muôn thuở. Là Lính cảnh, đưa em đi dạo phố phường, trước sự chiêm ngưỡng mến phục của mọi người. Đó em!
        - Ơ... Cái anh nầy.
        - Coi em kìa: sao em bẽn lẽn, rụt rè, ngập ngừng khiếp vậy?
        - Anh không làm việc sao, lại đến nơi nầy?
        - Làm gì nỗi bây giờ? Em!
        - Vậy sao?
        - Anh buồn và nhớ... lạ lùng.

        Tất cả quá khứ thoáng chốc trở về như tia chớp sáng lòa, làm choáng ngợp đầu óc Hoài. Chân trời nầy sẽ trở lại rạng rỡ vui tươi, mời mọc, chào đón; Hay thê thảm buồn tênh hơn? Nàng biết rằng: Tình yêu thật kỳ diệu, nó đang mang hương nồng mới đến. Và, có thể xóa nhòa đi tất cả dĩ vãng ưu phiền lui xa. Hoài chợt nhớ đến chùm hoa “Forget Me Not” màu tím nhạt âm thầm, rụt rè khoe sắc trước mùa xuân xưa cũ. “Ai đó” đã cài đoá hoa bẽn lẽn lên mái tóc nàng?. “Anh ta” nói câu gì ấy nhỉ? Hoài quên bẵng, quên phứt theo tháng ngày mệt nhọc niềm nhớ bâng khuâng, buồn bã cơ khổ, lao đao theo chiến cuộc nơi chốn tha phương, ở xứ lạ quê người rồi sao?

        Hai người nhìn nhau không chớp mắt. Bỗng Hoài phì cười. Tiếng cười trong veo như mạch suối rừng hoang dại. Đan khẽ mỉm cười, lắc đầu nhè nhẹ, chàng kín đáo thở dài. Dụi tắt điếu thuốc trên thân cây, rồi vứt đi, Đan nói:
        - Em còn trẻ con không chịu được. Anh nói anh buồn, anh nhớ. Mà em cười ngạo anh. Hở?
        - . . .
        - Ngày đầu tiên, khi anh lội qua sông Nghĩa Phú, là anh mong ước làm quen với em. Em còn nhớ không?
        Hoài nhớ “anh lính ấy” vô cùng. Nhớ đến nỗi nàng e dè cúi mặt xuống, vì bẽn lẽn, thẹn thùng, bối rối. Anh Đan xoay Hoài như xoay dế thế kia. Hoài không bối rối sao được chứ. Bởi vì, điều êm ái mới lạ đã xảy ra, rộn ràng mở hội trong trái tim muốn bừng lên hơi thở ngất ngây, say nồng lẫn dịu ngọt, trìu mến lạ thường...

        - Bây giờ cũng vậy. Có khác chăng là ngày ấy anh lội qua sông sâu nước lạnh, dò tìm... Giờ đây, anh băng rừng vượt dốc, để đến bên Hoài. Anh sẵn sàng trả giá cao, để được sống giờ phút êm dịu, ngọt ngào, thi vị, mà anh đã chọn. Em có hiểu không. Hở em?
        - . . .
        - Em... Hoài thấy thế nào?
        - Dạ... Chỉ sợ em không có diễm phúc đạt được ước mơ. Làm sao em biết được, ước mơ nầy sẽ có thật, đến mức độ nào... Anh à.
        - Vấn đề là còn tùy... ở em đó.

        Khu rừng bảng lảng ánh hoàng hôn. Gió thì thào trên đầu ngọn cây phong, như ươm vàng dưới ánh chiều nhợt nhạt buông lơi. Từng bè mây xám đục chen lẫn mầu huỳnh tía, rồi ngả sang màu hoàng hôn ven đêm. Bầu trời lấp lánh vì sao hôm và những vì sao lác đác trong cảnh hoang tàn còn tươi nguyên dấu vết. Có một cái gì rờn rợn; lành lạnh, lồ lộ, ơn ớn vàng phai trên bình nguyên đang in lằn đạn bom tai biến. Hai người thu xếp túi xách, về phố nhỏ ăn cơm. Ráng chiều theo dòng men bia 33 rót vào lòng ly của chàng. Hôm nay Đan có vẻ ưu tư hơn mọi ngày. Thỉnh thoảng vầng trán rộng in nếp nhăn. Hoài bắt gặp nhiều lần chàng kín đáo thở dài nhè nhẹ. Hoài dè dặt liếc liếc nhìn Đan dò hỏi:
        - Trông anh có vẻ buồn?
        - Một vài tuần nữa, thì chúng ta chia tay. Không biết bao giờ mới gặp lại. Anh muốn xin đổi về hậu cứ, không đi tác chiến nữa... để được gần em.

        Hoài không biết trả lời sao cho phải, nàng chỉ lặng lẽ nhìn Đan trìu mến, trên môi Hoài nở nụ cười sâu sắc, nguyên vẹn tình nồng. Đan dè dặt xin Hoài tấm ảnh. Hoài được chàng tặng lại hai tấm ảnh, Đan kèm theo một phong thư dày, (mà chàng đã viết sẵn từ hồi nào không rõ):
        - Lát nữa về trong Đoàn, em hãy đọc nhé.
        - Không. Em đọc ngay... bi giờ kia.

        Tính mở ra đọc thật, nhưng thấy mặt Đan đỏ bừng, như người uống rượu quá say. Cô quân nhân binh nhì, lính mới tò te vừa nhập ngũ, thấy thương thương anh sĩ quan từng trải, nên Hoài không nở trêu phá chàng. Hoài tủm tỉm cười thầm nghĩ: [Một anh chàng phong trần, dũng cảm xông pha ngoài chiến trường, không hề sợ súng đạn "diệt" giữa chốn giang đầu, mà em chỉ sợ anh sẽ bị con muỗi Anopheles (như em) đốt cho bị sốt rét rừng, mà sinh bệnh "tương tư", thì khốn!]. Hoài cất thư Đan vào quyển sách, nơi đã có phong thư Hoài định gửi đi cho bạn.

        Ngồi đối diện với Hoài, Đan chống một tay lên cằm, kín đáo nhìn Hoài, nói:
        - Em hãy đọc thư anh một lần. Anh mong chúng mình sẽ mang đến cho nhau niềm vui tràn ngập…
        - Em biết nói gì bây giờ?
        - Anh không muốn em nói gì cả, khi em chưa đọc thư anh.

        Hoài nhìn rõ đâu đây trong quá khứ xa xôi, nhạt nhòa niềm hạnh phúc, đau khổ, buồn rầu nào, qua bóng dáng “người xưa” lung linh trong khói thuốc vờn bay tản mạn vào không trung. Tuy buổi chiều đầu mùa xuân nhưng không khí cuối đông còn vương sót lại trên đầu cây ngọn cỏ, nên nắng yếu ớt chiếu xiên, hắt lên tường hai cái bóng cuả Hoài và Đan mờ mờ, chập chờn rung rinh. Hoài bỗng thấy lòng trào dâng lên nỗi buồn lâng lâng, man mác, lẫn dịu cảm ngọt ngào. Bởi tại đâu? Hay tại tiếng tơ lòng băn khoăn, xao xuyến, vấn vương do dự chút hạnh phúc từ những con sóng xô về, xếp lớp lăn tăn uốn lên uốn xuống, cùng con nước chảy trên dòng đời dạt dào giao động theo phím tơ rung?

        Trở về phòng, chưa kịp thay quần áo, Hoài vội vàng ngồi xuống ghế bố, tay run hơn bao lần khi mở thư bạn ra đọc. Hai bàn tay Hoài lạnh toát mồ hôi. Trái tim đập thình thịch trong lồng ngực, toàn thân nàng nóng ran, dường như bị lửa đốt. Hoài đọc đi đọc lại lá thư màu xanh, có nét chữ nghiêng nghiêng, đều đặn rõ ràng và khá đẹp của Đan. Trong căn phòng ngủ vắng lạnh, nàng đi đi lại lại nhiều lần. Cuối cùng Hoài ngồi phịch xuống ghế bố, nhắm mắt hồi lâu. Có lẽ cánh thư đầy ắp ân tình trìu mến của Đan vừa qua, là cả một sức mạnh đích thực làm cán cân tình cảm nghiêng hẳn về một phía, mà trước đó Hoài do dự giữa ngả ba đường: Phú. Đan. Thắng.

        Hoài bối rối, băn khoăn, ray rứt giữa ba hình ảnh đó thật. Nói rằng nàng "có số đào hoa". Có đúng không!? Nhưng lúc nầy Hoài như cánh hoa rừng vừa chớm nở, không nhiều thì ít, vẫn có hương vị mùa xuân đằm thắm ngọt ngào, quyến rũ, chân thật, dịu êm. Mà ai ai cũng trải qua một vài lần: trong thời kỳ mới chớm lớn khôn. Không sững sờ run rẩy sao được! Khi chính Đan viết thư tỏ tình như thế nầy: ... & ... "Nếu Hoài đồng ý, không từ chối, thì anh về phép vào tháng tới. Anh sẽ bàn tính cùng gia đình xin cưới hỏi Hoài trong dịp Tết năm nay. Em à. Chúng ta sẽ là: Vũng Nắng Ươm Tình
        Vũng nắng mây vàng hanh.
        Đan trong biển nước xanh.
        Tơ trời bay lác đác.
        Cành lá reo dịu dàng.

        Chiều nhớ thương mơ màng.
        Hoàng hôn ươm hồng hơn.
        Ráng hà gieo bảng lảng.
        Chiếu xuống bàn chân son.

        Da trời áo xanh nhạt.
        Chắp tay xin nguyện cầu.
        Hai ta chung làm một.
        Xây cuộc tình bền lâu.

        Dẫu mai sau bạc đầu.
        Mình thủy chung trước sau.
        Cánh tơ trời có mỏi.
        Dù thời gian qua mau.

        Tình yêu lên tiếng gọi.
        Chiều lặng yên nơi nơi.
        Thời gian ta vẫn đợi.
        Khải hoàn ca tuyệt vời…
        (2)

        Ôi! Thật sự như thế sao? Hoài như con chim bị thương nhốt trong lồng, bỗng nhiên được trả tự do, đâm ra choáng váng ngỡ ngàng, lúng túng, rụt rè do dự nhìn lại ô cửa quá khứ. Hoài quên mình có đôi cánh tung bay, tự do giữa biển trời lồng lộng! Cách xử thế khác nhau của mỗi một người trai đoan chính thân quen, họ đã cho đời sống và tình yêu của nàng: hạnh phúc ít hay nhiều. Hoài đã sống trong âu lo, run sợ, đau khổ do chiến tranh tàn khốc, chết chóc gần kề miệng vực giữa hai lằn đạn diệt vong. Nay Hoài nhận nơi Đan nụ cười ấm dịu, tha thiết, thân mật, tình yêu đằm thắm, ngọt ngào, êm ái, ngất ngây. Dù giữa Đan và Hoài hề chưa có một lần tay nắm nhẹ bàn tay ân tình trìu mến. Đan chưa hề hôn lên mái tóc phiêu bồng gợn sóng của Hoài. Nhưng... Hoài hạnh phúc xiết bao!

        Mùa xuân nơi đây không nắng gắt oi nồng từng đợt gió chiều thoảng nhẹ, gợi lên trong lòng Hoài nhiều nhớ nhớ. Thương thương. Mến mến. Rưng rưng. Say say dấu tình hoang dại… Nàng nghĩ nhiều đến Đan, và cảm thấy lòng trầm lắng xuống nỗi xúc động dịu êm, ngọt ngào trong bình yên, đỡ quạnh hiu, hay buồn vu vơ biết mấy!
        * * *
        Đan lái chiếc xe jeep dã chiến bạc phếch bụi đỏ đường hành quân chạy chầm chậm, trên quốc lộ 24B ra một bãi biển cách Quảng Ngãi độ chừng 15 km, thuộc vùng Cổ Lũy thôn. Xe lùa bụi đất mù bay dưới hàng thùy dương lộng gió làm nghiêng ngã lá cành. Ba anh lính ngồi đằng sau ghế quay lưng lại phía Hoài, bá vai vít cổ nhau khoái chí vui vẻ cười to. Đại dương bao la rì rào gió biển. Đường chân trời quang rạng như viền chỉ bạc lóng lánh, ngời sáng tít dặm ngàn hải lý. Nắng chiều hây hây thoi thóp và phe phẩy, nhè nhẹ rơi xuống mặt biển hờ hững. Biển ngủ quên trong niềm thống khổ, trên bao mái nhà ưu phiền, đớn nghèo nơi quê hương.

        Họ xuống xe, nhàn hạ tản bộ trên bãi cát mịn, độ dốc thoải, phía sau lưng là rừng dương bạt ngàn xanh thẳm. Các anh chọn tảng đá nâu vàng nhô mình ra góc biển. Phía xa, làng chài với những tấm lưới Đăng, lưới Rút, lưới Rồng, lưới Rê, lưới Rẽo, lưới Văng, phơi chằng chịt trên bãi cát vàng. Thấp thoáng xa xa có dăm bảy ụ muối trắng, mấy ngư dân đang lúp xúp làm việc: “Chồng chài. Vợ lưới. Con câu. Thằng rể đóng đáy. Con dâu đi mò”. Bức tranh đồng quê hiền hoà lặng lẽ chất phác, quả là tuyệt vời an phận, mà vui.

        Dưới bãi cát vàng óng, các bạn đang chạy nhảy, nô đùa bơi lội dưới sóng nước. Đan bóc quả cam, tách ra từng múi rồi đưa cho Hoài. Hoài lí nhí nói lời cám ơn, e dè nhón lấy múi cam. Làm như sợ đụng tay chàng trai mà cô đã phải lòng. Một cảm giác thật êm đềm ấm áp gợn lăn tăn trong lòng chàng. Đan nghĩ mãi không ra: chàng trai đã từng trải chuyện yêu đương giữa trai và gái thuở xưa, chứ nào phải anh yêu Hoài là người tình đầu đâu, mà mình vẫn ngại? Tại sao một anh lính phong trần gan lì dũng cảm như Đan, ngồi bên người đẹp cũng có cử chỉ rụt rè, chết nhát, khi diện kiến cùng nàng? Hay có lẽ tại vì Hoài quá bẽn lẽn, thơ ngây, và xinh đẹp trong nét tinh khôi, khiến mình e ngại!

        Mỉm cười ý nhị, chàng lặng nhìn vóc dáng đan thanh của Hoài, Đan đằm thắm nói:
        - Em có chịu về ở Đà Nẵng, chờ đợi anh không?

        Cúi đầu gật nhẹ mấy cái. Nàng chịu, chịu đến nỗi hai má hồng thắm hây hây như nhấp men say. Bóng dáng thon gọn, nhưng dường như tâm Hoài chứa đựng cả một lòng đại dương gào sóng xao động mạnh. Mắt Hoài ánh lên tia hy vọng mừng rỡ, nụ cười xinh tươi, làm ngời sáng khuôn mặt:
        - Có điều… sự mong ước và thành tựu, là hai việc khác nhau. Anh Đan à.
        - Anh biết. Anh nói, vấn đề là... còn tuỳ ở em thôi.
        - Mai em xin đi lên Tà Noát cho anh coi. Tùy em mà.
        - Bắt đền anh cái gì cũng được. Nhưng cho anh xin. Em đừng đi đâu hết. Em về nhà, chờ anh đôi ba tháng nhe.
        - Không. Em cứ đi.
        - Chà. Em tôi cứng đầu, lì lợm ghê à nha. Anh sợ em rồi đó.

        Biết nói thế nào cho trung thực với lòng Hoài nhỉ! Khi ánh mắt anh thiết tha, nụ cười mời mọc, giọng nói ngọt ngào đầy ắp ân tình, qua cung cách Đan ung dung, điềm đạm, đứng đắn và chân thật đến vậy! Có phải cư xử như thế là anh đang tỏ tình không? Nhưng Đan chẳng làm gì hết. Lạ thật! Sao mà anh ấy đứng đắn quá đi, khiến Hoài cứ tưởng là anh ấy không tha thiết mấy chuyện yêu thương. Anh lính chiến chỉ nói đùa giỡn ngoài miệng cho vui mà thôi.
        Ngập ngừng do dự, Đan mở lời:
        - Còn hai ngày nữa là mình chia tay. Việc anh ngỏ ý trước đó... là muốn em có thời gian suy nghĩ, trước khi quyết định việc hôn nhân. Hôm nay, em có thể cho anh biết, để anh liệu, rồi anh sẽ về thưa với ba me vào dịp anh nghỉ phép sắp đến không em?
        - Anh thấy ngôi nhà lai xinh đẹp có tường cao, rào chắn kỹ càng, bên kia đường chứ? Gần kia là căn nhà đất mái tranh xiêu vẹo. Giữa hai nhà, có con đường tráng nhựa rộng thênh thang. Nhà ngói không thể xích lại, ở cạnh chung nhà tranh. Đan à. Anh và Em, có thể bị ngăn cách bởi lý do giản dị, gần như vậy.
        - Em có ý tưởng lạ lùng. Anh yêu em, và tin rằng: Ba me anh hoàn toàn không phản đối. Các cụ tôn trọng sự tự do lựa chọn của anh. Họ không môn đăng hộ đối, mặc dù thuộc dòng dõi quý tộc. Anh chị, ba cô em gái, cậu em trai của anh, càng không phản đối. Hoài à.
        - Em thấy khó khăn, chứ không giản dị như vậy đâu. Anh và em không cùng tôn giáo. Chắc là không... gia đình anh không chịu em đâu.
        - Điều ấy anh bảo đảm: Không có gì rắc rối.
        - Còn một việc nữa, em thấy không xứng với anh: Hẳn hai bác không thích có con dâu "xướng ca vô loài".

        Đan dụi tắt điếu thuốc nửa ngọn không đầu lọc vào gốc cây, rồi vứt xuống cát. Chàng hơi phật ý. Đổi tư thế ngồi đối diện với Hoài, nhìn thẳng nàng, Đan nói:
        - Ngày chúng mình gặp nhau trên Ô Chai, anh đã nói về việc đó thế nào. Em quên rồi ư? Em không nhớ gì ráo trọi lời anh nói ha? Em ưu phiền đặt nặng vấn đề ấy, khi anh tin yêu em. Hở? Tại sao Hoài?
        - Anh là cánh lá ngọc... giát vàng bay giữa trời. Em vươn tay ra đón. Nhưng, muộn mất rồi. Xin ngã mũ kính chào anh.
        - Đừng đùa dai như vậy. Cưng. Đau khổ lắm. Em nói đàng hoàng cho anh nghe. Em nghĩ sao về đề nghị đó?
        - Em băn khoăn là mình còn quá trẻ, liệu em có mang lại hạnh phúc cho anh? Cho chính mình đi đến bến bờ hạnh phúc dài lâu? Vả lại, em còn xin... lĩnh hội ý kiến của gia đình em nữa.

        Câu chuyện tình tứ ở một góc đường thiên lý, về giấc mộng vàng bên dãy thùy dương rủ bóng kia reo vui men hạnh phúc, vừa hé mở, đã phũ phàng đóng ập lại ngay, làm rung khẽ cánh buồm ước mơ chân thật, mê đắm trong lòng mỗi người. Hoài băn khoăn lo lắng. Băn khoăn thật sự. Mười bảy tuổi đầu, hai bàn tay trắng, ít kiến thức khiêm nhường, hạn hẹp. Cuộc sống là con số không vĩ đại, mà có gia đình? Mỉa mai làm sao!

        Phần Đan, chàng muốn tiến tới việc hôn nhân, lẽ là anh yêu Hoài chân thành, Đan mong Hoài sống an ổn bình lặng, chàng có quyền lo sợ, săn sóc nàng về mọi mặt. Anh ấy có đầy đủ mọi yếu tố, và dồi dào điều kiện thuận tiện, để xây dựng một gia đình hạnh phúc thật sự. Thật cảm động vô cùng.
        *

        (1) “Tình Thư cuả Lính”: Trần Thiện Thanh
        (2) Thơ Tình Hoài Hương
        ***

        Tình Hoài Hương
        Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-26-2017, 11:23 PM.
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • Tết Cổ Truyền và Lễ… Cưới


          Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-26-2017, 11:34 PM.
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • Tết Mậu Thân Xưa (1968) tại Đà Lạt



            Tết Mậu Thân Xưa (1968) tại Đà Lạt


            Từng chòm thông tươi tốt mọc thẳng lên cao vút, xòe táng lá xanh mướt, um tùm, trông cao lớn, phơi phới, mát mẻ lạ thường. Tiết trời quang đãng, trong thanh ấm dịu, vừa xua tan đêm trừ tịch nơi thành phố Đà Lạt an hòa có lắm mộng nhiều mơ. Muôn ngàn chim én líu lo, xôn xao tưng bừng, ríu rít chao lượn từng đàn đông nghẹt trên mái ngói lầu cao. Tự lúc nào không biết gió xuân về mát rượi, khiến tôi cảm thấy trong lòng dâng lên nỗi an thư ngọt ngào lâng lâng, xao xuyến ngất ngây vô vàn. Niềm vui đọng lại trên non ngàn những giọt sương long lanh, rưng rưng nơi cánh hoa anh đào, hoa mimosa và nơi đài hoa mai chúm chím e ấp buổi giao mùa.

            Kể từ ngày 23 tháng Chạp, mọi người nôn nao đưa Ông Táo về Trời, nhờ ông tấu trình với Ngọc Hoàng công việc làm ăn ở trần thế. Thì ngày xưa ở cung điện hoàng gia vua chúa nước ta, từ nhất phẩm đến cửu phẩm sắp hàng thứ tự trước điện rồng, để làm lễ bái tạ Trời. Đất. Vua, quan, viên chức uy quyền trong triều đình tới hàng dân dã, ai nấy đều làm lễ trừ tịch, tống cựu nghinh tân. Các lễ trong triều thần quan trọng là: Nguyên Đán. Phất thức. Tịch điền rước thần nông. Tế xuân. Du xuân (hưởng: Xuân, Hạ, Thu, Đông). Cúng tam sinh: Trâu (hoặc, bò, dê). Ngoài ra còn có lễ tế cờ: Có ba bài vị gồm: một viên tướng cờ đi đầu. Sáu vị tướng cờ đi giữa. Năm vị thần cờ đi hai bên.

            Toàn dân đón xuân náo nhiệt, tưng bừng vui vẻ, linh đình. Người ta bày hương án, bánh trái hoa quả cúng gia tiên, mâm cổ đầy nhóc trên bàn: nào là xôi, gà, vịt, heo, bánh trái, vân vân... Sau đó họ đi thăm mồ mả. Đi lễ chùa hái lộc đầu năm, thăm đình đài lăng miếu. Dân gian được tự do chơi bài Chòi. Tam cúc. Cờ tướng. Xóc dĩa. Bài tây: xì lát, đánh xì tố, xóc bầu cua, vân vân... Sau ngày hạ cây nêu, thì có lễ hoá vàng, đốt vàng giấy, lúc giấy gần tàn, họ đổ ly rượu cúng vào lò đốt, là chấm dứt ngày Tết.

            Nay thì nghi thức nghinh xuân ấy được đơn giản rất nhiều. Nhưng vẫn theo phong tục cổ truyền Việt Nam, dù bận rộn, đa đoan với muôn vàn công việc chất chồng. Dù cách trở xa xôi đến đâu, thì ba ngày Tết người ta vẫn quay về mái nhà xưa, hầu gặp gỡ người thân tay bắt mặt mừng hân hoan chúc tụng nhau, chuyện trò thân mật, hưởng Tết Nguyên Đán linh thiêng đầm ấm, là ngày sum họp rất quan trọng. Họ mong quay về với gia đình, thong dong vui hưởng những niềm vui, mừng ngày trọng đại của cả dân tộc. Ngày Tết là ngày hưởng lộc đầu năm, ngày linh thiêng, thế nên ai ai cũng trân trọng, kiêng cữ, không làm điều sai quấy, nói năng bậy bạ. Cúng giỗ thờ kính tổ tiên, vui vẻ hân hoan chúc tụng nhau bao ý lành.

            Ngày mồng Một Tết, (tức là ngày 30, tháng Giêng, năm 1968, Mậu Thân). Gia đình tôi đi chúc tết ông bà Cương, và bà con thân nhân bên nội ở trong Hà Đông. Ai nấy chúc nhau:
            Năm mới Tết đến
            Rước hên vào nhà
            Quà cáp bao la
            Mọi nhà no đủ

            Vàng bạc đầy hủ
            Gia chủ phát tài
            Già trẻ gái trai
            Sum vầy hạnh phúc

            Cầu tài chúc phúc
            Lộc đến quanh năm
            An khang thịnh vượng.
            Đong cho đầy hạnh phúc

            Gói cho trọn lộc tài
            Giữ cho mãi an khang
            Thắt cho chặt phú quý…
            Cung chúc tân niên,

            Sức khỏe vô biên,
            Thành công liên miên,
            Hạnh phúc triền miên,
            Túi luôn đầy tiền,
            Sung sướng như tiên.
            (*)

            Xế trưa vợ chồng tôi chạy xe lên trên Couvent thăm hai gia đình anh chị Thái, Thiệu, rồi đến khu nhà Bò (Đào Duy Từ), qua bên Nhà Chung gần nhà thờ con gà thăm anh chị bên họ ngoại. Chúng tôi lại ra phố thăm hỏi anh chị, bạn bè xóm làng thân thương. Đâu đâu pháo cũng nổ dòn: đùng... đùng... đùng... thật vui vẻ rộn rã tưng bừng. Người người hớn hở tay bắt mặt mừng, muôn câu chúc tụng hân hoan ấm nồng luyến thương hoài nhớ. Nhà nhà người nào người nấy tụm lại gây sòng đánh xì phé, đánh chắn, xóc dĩa. Trẻ con chơi lắc bầu cua ở góc hiên nhà. Thanh niên nam nữ và tráng niên lại chúc:
            Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
            Phúc lộc đưa nhau đến từng nhà
            Vài lời cung chúc tân niên mới
            Vạn sự an khang vạn sự lành.

            Đầu xuân năm mới chúc BÌNH AN,
            Chúc luôn TUỔI TRẺ chúc AN KHANG.
            Chúc sang năm mới nhiều TÀI LỘC
            Công thành danh toại chúc VINH QUANG.

            Các cô tuổi Tý chưa chồng.
            Năm mới sẽ hết nằm không một mình.
            Còn riêng các bạn học-sinh.
            Tương-lai sáng-lạng, quang-vinh một đời.
            (*)

            Cận khuya chúng tôi mới lò mò trở về nhà. Nhà tôi ở tại ngả Tư Trần Bình Trọng và Mai Hắc Đế, cạnh bên trái hông nhà tôi là khu Dân Y Viện Đà Lạt, ngược về hướng dòng Domain (là đi xuống trường Đa Nghiã và Khu số Bốn). Trong tận cùng im vắng của đêm trường đầu xuân mát rượi lẫn ngọt ngào hương vị ngày Tết, bỗng nhiên tôi nghe từ nơi xa xa đạn réo vù vù trên không trung. Súng lớn súng nhỏ đồng loạt khạc đạn, làm rung chuyển mặt đất, tung tóe lửa dữ dội. Khu đồi Domain de Marie yên tĩnh ở phía bên kia vực thẳm, sau lưng nhà tôi dội lại tiếng gầm thét dị kỳ: xì xì, xẹt xẹt… ùm… ùm…, pằng… pằng…, tạch tạch…, cắt bụp, cắt bụp… xè…! Đạn rạch đêm tối vút vút bay qua bay lại, đan chéo qua chéo lại. Những đóm mắt sáng đục hỏa châu lơ lửng trên không trung nở vàng bầu trời khuya. Quả sáng tụt nhanh xuống mặt đất, tắt đột ngột, trả lại bóng đêm tối thui, như khi nó chưa nở rực ra trên bầu trời khuya quạnh vắng đẫm ướt sương mù.

            Trong màn đêm đầy sương trắng xoá dày đặc bị xé rách bởi lằn đạn tóe lửa. Mặt đất phả ra làn hơi sương nhút nhát e dè lởn vởn bay bên mấy bụi cây. Ban đầu Lâm ngỡ là mình nằm mơ ngoài trời đốt pháo Tết, nhưng sau khi chàng thấy trái sáng rợp trời, súng đạn rạch không khí bay chíu chíu… xịt... xịt, có cả thứ súng “cắt, bụp, xè”; nên chàng tỉnh hẳn người. Lâm gọi mẹ, vợ con dậy ngay. Nhanh như chớp, vụt thoáng trong giây lát tôi và Lâm kéo nệm xuống gầm giường, hai chúng tôi lò mò trong bóng tối để giăng mùng cẩn thận, rồi Lâm bế hai đứa con mắt nhắm mắt mở chui vào mùng. Chúng tôi nằm sát bên vách gỗ, đắp kín mền mà vẫn cảm thấy lạnh giá, hai hàm răng va vào nhau lụp cụp, tay chân run cầm cập. Tôi sợ hãi gần như nghẹt thở, lạnh toát cả người, bủn rủn tay chân. Súng nổ dập dồn không lúc nào ngơi hung hăng tống vào ngọn đồi thưa, nơi có mấy công xưởng, ty Hiến Binh hồi xưa (nay là chi nhánh của Ty Công An, nằm về phiá tay phải nhà tôi) nghe rát ù tai. Thật ghê hồn.

            Lâm bấm bấm vô cánh tay tôi, để ngón tay trỏ lên miệng anh, khoèo vào hông tôi và ra dấu cho tôi bò theo. Chúng tôi mò mẫm lồm cồm bò bò từ phòng ngủ ra phòng khách tối. Lâm nhón người nhẹ vén bức màn voan, nhìn ra đường quan sát. Đường phố im lìm vắng lạnh. Nhà nhà đều cửa đóng then cài cẩn thận. Tuy vậy, tôi thấy nhiều tấm màn bên những ngôi nhà ấy khẽ lay động. Hỏa châu đỏ nở rộ trên trời như những đôi mắt hung thần, soi rõ cảnh vật. Trên trời liên tục bừng sáng và hoả châu rơi xuống, chìm lẫn vào bóng đêm.

            Do tôi mãi nhìn đường phố vắng lạnh, thì Lâm vội bụm miệng tôi, anh kéo tay vợ nép vào góc tường. Khi ấy tôi thấy khoảng năm sáu tên đội nón cối, mặc đồ đen, đồ xanh rêu cháo lòng, hay mặc đồ lộn xộn, ống quần rộng thùng thình, lụng thụng cột túm vô mắt cá chân. Tay họ cầm súng lưng đeo đạn. Quanh thân dắt cành lá, họ cúi đầu lom khom lủi lủi gần sát bên hiên nhà của nhà tôi. Họ mò mò cúi khom lủi chạy đi về phía đồn Công-an trên đồi. Họ đêm thành thạo, hình như họ thích hợp, quen thuộc với bóng tối, hay do ý tất thắng chiếm đoạt, muốn vượt qua trở ngại, hầu đạt đến khát vọng xâm lăng điên cuồng? Tiếng kêu lách tách lạch cạch do súng đạn cặp bên hông va đập vào nhau lộp độp theo mỗi bước đi cử động của họ, tôi nghe rõ, rùng rợn, hoảng sợ mà sởn ốc trâu và ớn lạnh! khiến tôi càng rợn người kinh khủng. Giây lát sau tôi nghe ở cửa cổng đồn Công An (rất gần khu nhà dân) có tiếng quát hỏi:
            - Ai đó???... Đứng lại.
            - Đứng lại, không tôi bắn.

            Không trả lời, lập tức đạn nhỏ súng lớn đồng loạt bay vèo vèo Pằng… pằng… pằng… Đùng… Đùng… Đùng… Oằng… Ùm… vút vút bay tới tấp trên đầu người dân. Thành phố Cao Nguyên Lâm Viên truyền cảm xiết bao đã bị xâm lăng, thành phố Đà Lạt nổi danh là thành phố thơ mộng, hiền hoà, một thành phố duyên dáng duy nhất không có đèn xanh đèn đỏ ngăn cản bước chân người, và chận dòng xe lớn nhỏ tuần tự nhịp nhàng chuyển động, đã thực sự đã đi vào binh đao, và bùng lên ngọn lửa chiến tranh hung tàn rồi! Đạn nổ lốp đốp, rơi rào rào, loảng xoảng, ào ạt rớt xuống mái tôn nhiều nhà lân cận, nghe sắt và lạnh. Khi chiến cuộc bước vào con đường an cư hòa ái của xứ lạnh hiền hậu nầy, dân cư ngơ ngơ ngáo ngáo và bàng hoàng lo sợ ghê lắm (vì ở nơi nầy yên bình ít chiến tranh).

            Vài phút trước đó trong xóm tôi kêu gọi nhau chui xuống gầm giường, gầm bàn trốn đạn inh ỏi. Tiếng kêu rú khóc la, xen lẫn tiếng súng bắn, mìn nổ thật gần, nghe rợn xương sống, đinh tai nhức óc, tức ngực quá chừng. Ôi lạy Chúa! Trẻ con bên hàng xóm cứ khóc thét toáng lên từng hồi, giống như có người nào ngắt nhéo chúng, hay cắt tay chặt chân chúng nó vậy. Còn đàn ông con trai thì im thin thít. Bây giờ nếu có tiếng la giọng nói của đàn ông, là càng làm người khác lo sợ gấp ngàn lần. Người ta lo sợ sự giao tranh súng đạn ngoài kia, và tiếng đàn ông núp ở trong xó nhà lắm. Có khác nào mấy ông tự tố cáo "lạy ông tui ở bụi nầy". Việt-cộng sẽ chĩa súng vào ngực họ, mà bắt đàn ông thanh niên đi làm bia đỡ đạn. Hay bị bắn cái đùng. Thì khốn.

            Nhưng khi căn nhà gỗ của bác Thao bị sập một bên, càng khiến cư dân trong khu xóm hoảng hốt la to, kêu rống, hét tướng lên réo gọi tên nhau, kêu khóc ồn ào huyên náo bội phần. Bảy căn nhà vách ván đơn sơ ở xóm nầy đã đứng chênh vênh, lẻ loi, trống trải, cô độc trong địa bàn giao tranh, bất lợi từ mọi phía, không ai có một tấc sắt để tự vệ. Biết lấy gì chống đỡ! Họ vẫn phơi bộ mặt cơ hàn, giơ cái bụng lép xẹp ra trước thời gian ở nơi lằn đạn mũi tên thế! Trốn tránh thế nào được! Khu xóm cao chênh chếch như một cù lao đứng giữa hai lằn đạn thì... có mà chạy trốn lên đằng trời. Chưa việc gì mà! Phải! Phải! Nhưng lạy Chúa! Sao tôi run lẩy bẩy, lo sợ tột cùng, miệng lưỡi co cứng, cổ họng đắng chát, khô khốc, hai bờ môi khô lông lốc dính chặt vào niếu, không một giọt nước miếng, không thốt được một âm!

            Bầu trời bỗng dưng lặng ngắt như tờ, im ắng bao trùm còn đe dọa rùng rợn hơn cả sự chết chóc. Sương mù và bóng tối không đồng loã với bình yên, nó bốc đồng và phản bội con người lúc nào. Chẳng rõ. Bây giờ không còn dòng suối mát, không ao hồ, thác nước thơ mộng đầy quyến rũ mang vẻ duyên dáng nên thơ Đà Lạt với danh lam thắng cảnh xứ hoa đào rồi. Biết đâu sẽ diễn ra “u mê ám chướng chiến tranh”. Súng đạn chằn chịt theo khói lửa bay về thành phố nổi danh quyến rũ mơ màng! Đạn vèo vèo bay, xoắn tít hình trôn ốc ghim vào lòng đất, khiến địa hình Đà Lạt thi vị trở nên xấu xí, nhăn nhúm, biến dạng lởm chởm hẳn đi. Nhìn thấy nó mình mất cả hồn cả vía, chứ thơ mộng duyên dáng, gợi cảm cái nỗi gì nữa không biết.
            * * *

            Ánh nắng rực rỡ bừng lên. Lớp sương mù dày đặc đọng lại trên các cành hoa anh đào, chạy suốt con suối cạn gần khu Domain de Marie mọc đầy lùm dã qùy to lá, nhụy nâu vàng hoa nở dọc theo bờ đất lỡ cuối vườn nhà tôi. Nước rỉ rả chảy xuống hố, rồi uốn lượn quanh co trong nhiều đám sậy nhấp nhô. Một ngày mới lại bắt đầu trong cuộc sống bất trắc âu lo. Phiền muộn. Hãi hùng âm thầm mà đau, đầy băng giá, mang mùi vị tởm lợm chết chóc và chiến chinh. Cái chết đe dọa từng giờ trên đầu mỗi người, ở trong thành phố Đà Lạt nổi tiếng hiền hòa thơ mộng xinh đẹp đang bị vây hãm. Súng đạn khiêu khích từng ngày, từng đêm, từng giờ, tệ mạt hơn là người dân phải chịu đựng những cơn xoáy lốc bốc lửa rít lạnh tê người khôn nguôi. Tim mọi người đập thình thịch không ngừng, không vì trận gió từ đỉnh đồi Lâm Viên thổi về. Mà vì nhiều loạt súng của kẻ xâm lăng đùng đùng đùng… Cắt bụp cắt bụp… Xè xè… và loại súng bắn trả: Pằng pằng pằng… Tạch tạch tạch… vang lên tứ phía liên tục luôn mãi, nhức nhối tai.

            Từ ngày mồng Hai Tết Mậu Thân (1968) đến nay, mỗi ngày khoảng ba giờ chiều, bà con cô bác từ các đường: Hoàng Diệu, Trần Bình Trọng, Mai Hắc Đế, Yết Kiêu, Số Bốn, Số Sáu, Hai Bà Trưng, vân vân… lại ùn ùn chạy lên nhà thờ Domain, xin các bà dòng tu cho tạm trú dưới từng hầm. Họ mong tìm đến với nhau cho vơi sợ hãi và quên âu lo. Họ mong xích lại gần nhau tìm chút hơi ấm qua đêm. Sáng sáng họ lại lục tục kéo nhau ra đi, ai về nhà nấy. Từ trên dòng Domain về nhà, tôi nhìn trước ngó sau dáo dác như kẻ trộm. Căn nhà đêm trước bỏ hoang mở toang hoác cửa ngõ, chẳng cần cửa đóng then cài làm chi! Vì đã có súng đạn giữ gìn hộ rồi, chả lo gì mất của cải! Thời buổi nầy, lo giữ gìn bản thân chưa xong, chả an toàn, hơi sức đâu ai thèm đi giữ gìn của chìm của nổi, và hôi của người khác nữa không biết.

            Tôi nấu vội nồi cơm thật lớn cho cả nhà ăn một hoặc hai ngày, rồi thấp thỏm tất tả chạy ra chợ xép ở đường Hoàng Diệu bòn mót đủ thứ đồ uống thức ăn cho có chất rau tươi. Tôi giành giật ở ngoài chợ mua nhặt từng chục trứng vịt, vài bó rau, dăm ba ký gạo. Thịt, cá, thì mắc như vàng! (còn khu chợ lầu Đà Lạt to lớn là thế, mà nay leo teo mươi hàng rau đậu héo uá, dập nát). Có bao giờ người dân phố núi nghĩ ra: nơi thành phố thơ mộng quyến rũ nầy, lại có bộ mặt độc ác cuả kẻ xâm lăng vô Nam khuấy nhiễu, gây ra chiến tranh, ngỏ hầu người dân tích trữ thực phẩm khô, trong mùa xuân dồi dào nhựa sống chứ! Các tay đầu tư thì cất dấu thực phẩm thật kỹ, cửa đóng then cài kín mít. Thỉnh thoảng có vài tiệm buôn lớn he hé cửa ra, họ “bố thí” nhỏ giọt từng ký gạo cho đồng bào, than ôi mình rớ vào muốn phỏng tay với giá tiền cao cắt cổ kinh khủng. Đại lý gạo Sơn Hà lớn nhất thành phố, tuyệt nhiên không thấy xuất đầu lộ diện, không có một hột gạo nào thoát ra khỏi khe cửa. Người ta đồn tiệm nầy “kinh tài” cho Việt Cộng (!?) Ô ô hô... gạo thơm để nuôi dân lành cần cù lam lũ làm ăn, hay nuôi ong tay áo, nuôi khỉ đốt nhà hử!?

            Mấy ngày đầu năm mới (trong cuộc chiến Mậu Thân), người ta mang theo vào tầng hầm trú ẩn nào là: bánh chưng, bánh tét, xôi, thịt, cơm gà cá gỏi. Đủ loại mứt, trái cây, hạt dưa, vân vân... Hương vị ba ngày Tết chưa kịp ăn. Nhà nhà đều dư thừa thức ăn ê hề, không thiếu món gì! Sau đó thực phẩm ứ đọng, thiu thối, hư hại sạch. Mọi người hồi hộp lo sợ, băn khoăn ngao ngán, nên không nuốt trôi, nhịn đói mà khóc, không thể ăn. Họ đem ra vứt sau sườn đồi của nhà thờ Domain cạnh khu trường học, tha hồ cho lũ chuột cống, ruồi bọ tranh nhau lúc nhúc loi nhoi giành ăn.

            Bất kể lúc nào, hễ nghe tiếng súng dồn dập, xa xa, về hướng Cam Ly. Khu Số 6. Khu Số 4. Dòng Chúa Cứu Thế. Lạc Dương…. Là bà con trong xóm tôi tê tái, hoảng hốt, ơi ới gọi nhau, sẵn sàng tay ôm tay xách, cổ đìu lưng cõng con cháu vụt chạy nhanh lên ngôi nhà thờ kiên cố trên đỉnh đồi, cần sự xích lại tương thân tương trợ ấm áp. Chúng tôi mong xích lại gần nhau, tìm chút an tựa, cần sự lân mẫn tự nhiên của người đồng cảnh ngộ. Khoảng ba giờ chiều, người người lục tục kéo nhau đi đến các nơi kiên cố và đông đúc. Tại khu hầm trú mỗi gia đình "xí phần" một góc, vừa đủ trải vuông chiếu ngả lưng sơ sài. Trên manh chiếu nương thân, họ dùng làm chỗ ngồi, ngã lưng nằm, và cả nhà ăn uống qua loa chén cơm để cầm hơi.

            Cũng tại trên vuông chiếu nầy, người ta chồng chất đủ thứ lặt vặt cần thiết đã vội vàng mang theo.
            Giống như những ngày hôm trước, sáng sáng tản mác mỗi người về mỗi nhà. Họ gồm đủ mọi thành phần trong xã hội, đủ khuôn mặt già trẻ lớn bé, xấu đẹp, ốm mập, đen trắng. Đặc biệt giữa đa số khuôn mặt bình dân thảng thốt ưu phiền, lo sợ, thì có bảy tám thanh niên thiếu nữ xinh tươi ở đâu tập họp lại, ưa náo nhiệt.

            Trước đó quần áo các cô cậu coi hợp thời trang, họ ung dung lượn quanh hầm, vui vẻ cười nói huyên thuyên, móng tay móng chân các cô đỏ chót. Vài ngày sau tôi dòm họ xộc xệch, túi vải lịu địu máng trên vai có tô thêm đất bùn lem luốc. Họ mệt mỏi cố vơ vét tất cả gia tài nhét trong xách da căng cứng bung hết dây kéo. Họ luôn mang kè kè bên hông. Họ không khóc được, vì sự kinh sợ đã kéo dài khá lâu, vượt quá tầm mức chịu đựng của con người. Họ hãi hùng kêu tên nhau, i ỉ thút thít, nước mắt cạn khô, ráo hoảnh, ngơ ngáo bất động thì thôi.

            Riết rồi ngày ngày chung đụng, người ta biết mặt, biết tên nhau, biết biết, quen quen, thân thân, hỏi hỏi, nói nói, ồn ào như vỡ chợ, nhưng nét mặt mọi người mỏi mệt bần thần băn khoăn đầy ngao ngán buồn thiu. Người ta mất ăn từng ngày, mất ngủ từng đêm âu lo tột độ. Sự đông đúc đầy dị hợm bắt đầu tẻ ngắt trong căn phòng chen chúc chật cứng, ngột ngạt như lò hồ quang, thiếu ánh sáng, thiếu không khí, thiếu mọi tiện nghi. Cảnh di tản có đủ thứ chuyện vui buồn. Tin tức nóng bỏng nhất được truyền khẩu trong ngày, trong tuần lan từ đầu nầy đến đầu kia, nhanh như chớp. Không gian và thời gian im lặng tẻ ngắt, đầy ghê rợn suốt buổi trong căn phòng chứa khoảng hơn ba ngàn người. Họ chen chúc ở nơi ngột ngạt, thiếu không khí, thiếu ánh sáng. Đôi lúc trên đầu loé lên tia lửa rạch không khí, bay vù vù trong không gian. Lằn đạn xẹt qua. Hai ba chiếc phi cơ không nhìn thấy rõ bay vút trong bầu trời, qua khung kính trên vòm mái cao. Giây lát sau tiếng rền rú uồm uồm uồm… ghê rợn. Hàng loạt đại bác trút xuống đỉnh đồi, vào khe suối xa xa…

            Tôi xiết bao kinh hoàng lo lắng, và bồn chồn sợ hãi, vì Lâm đi trực về báo tin nhà ba mẹ tôi ở tại một Villa trên đường Pasteur, đối diện với Tiểu Khu Đà Lạt bị đốt cháy mất ¼. Ngôi nhà đồ sộ nay chỉ còn bức tường gạch (ở mặt trước đường Yersin), và bên mặt tiền phiá phải cuả ngôi nhà về hướng Pasteur) còn mấy hàng cột trơ trẽn (!?). Sau tiếng súng cắt, bụp, xè… thì mọi thứ bị đốt tan tành. Phố xá hỗn độn, khói lửa hừng hực bốc cao, khét lẹt bao ngày chưa dập tắt, kể từ khi cơn binh biến hùng hổ đến vỗ mãi những âm buồn. Nghe mà thật đau đớn bàng hoàng hốt hoảng và lo âu xiết đỗi. Một ngày kia tôi vội vã chạy về nhà. Đứng trên một góc tầng lầu nhà của ba má tôi đã bị sập gần hết một phần tư, trong nhà tối om, vắng tanh, đồ đạc ngổn ngang hư nát. Ba má và anh chị tôi đi đâu hết rồi? Họ có an toàn không?! Tôi lo lắng, bồn chồn, lấp ló thụt thò, dáo dác len lén nhìn sang phía bên kia đại lộ Pasteur, (đối diện nhà ba má tôi là cổng Tiểu Khu Đà Lạt/Tuyên Đức), hai mặt tiền nhà ba má tôi và Tiểu Khu chỉ cách một đại lộ, gần xịt.

            Những anh lính trong doanh trại Tiểu-khu vội vã chạy lui chạy tới, lăng xăng, bồn chồn làm cái gì đó, xem có vẻ cấp bách, cần thiết lắm. Việt Cộng đã dùng bangalore phá một góc rào cuả Tiểu Khu. Một chiếc xe thiết giáp bị trúng ba quả B40 vẫn bốc cháy ngay trên đường Pasteur (sát cuối hông vườn sau nhà ba má tôi). Việt Cộng lẻn vào khu nhà xây gần Viện Pasteur để bắn vào Tiểu-khu. Nhưng xem ra không mấy thiệt hại. Kho Quân Tiếp Vụ bốc cháy, sáng rực cả một góc trại. Ty Cảnh Sát Đà Lạt sát bên nhà thờ Chánh Toà cũng bị hư hỏng nặng. Khẩu đại liên 30 đặt đâu đó, có thể là ở khu Quân Cụ thỉnh thoảng quạt một hồi vài tràng bâng quơ, tôi nghe rát bỏng, sợ hãi và điếc ù hai tai.

            Trên bức rào cuả Tiểu Khu tôi thấy có ba thân thể cháy đen, mà rải rác gần đấy có năm cánh tay, ba bàn chân lủng lẳng quai dép râu. Những núm ruột người trắng hếu, dài lòng thòng còn lắc lẻo, đung đưa lắc lư vắt trên hàng rào gạch kiêm hàng rào B 40 rung rinh. Ruồi bọ lúc nhúc bu đông đen, rồi vụt ù ù bay lên đáp xuống. Khi ấy có vài người rảo bước liếc nhìn vội vã đi qua. Úi trời ơi! Mùi thúi thì thật hôi ơi là hôi kinh khủng. Khiến tôi bịt hai lỗ mũi vẫn cảm thấy chịu không nỗi mùi thum thủm thúi hoắt khiến mính không muốn vẫn nôn ọe ra. Có con chó lài hoang ốm tong ốm teo, lông lá lưa thưa nhô cao bộ xương sườn, từ góc đường Yersin + Pasteur nó rón rén lủi đi kiếm ăn, con chó rụt rè ngơ ngác nhìn quanh, nó vội cụp đuôi vô trong háng, cúi đầu cắm cổ chạy đến bên mấy xác Việt Cộng. Nó liếm liếm khúc ống quyển đen thui, và nó dỏng tai hếch mỏ lên... Trời ơi! Khúc ruột chỗ trắng chỗ đen vắt vẻo trên hàng rào gạch đong đưa, khúc ruột dài ngoẵng chui thật nhanh vào hai hàm răng con chó gầm gừ trắng trợn nhe ra.

            Tôi sợ dựng tóc gáy, xớn rớn, chao đảo, giao động mạnh, điên cuồng, dày vò, và đau đớn cào xé con tim, hãi hùng tột cùng muốn xỉu. Hai đầu gối tôi run rẩy va đập vào nhau lộp cộp, như người mắc bệnh parkinson luôn tiết ra chất dopamine, khiến mình bại hoại rã rời tứ chi, lồng ngực tôi nhô lên hụp xuống sâu hơn. Tôi run bần bật ngồi bệt xuống dưới góc balcon, chẳng hiểu sao tôi cứ ói ra nước, rồi ói ra hoài, và toàn thân muốn rệu xuống. Mấy tháng trước bà chị của tôi đã làm thịt chó, chị nấu đủ thứ, nào là: Rựa mận. Nướng. Hon. Thui. Thịt tái chanh. Thịt luộc. Xào lăn, vân vân... Hôm ấy có mấy gia đình anh chị em vui vẻ “xơi” thịt chó thơm phức ngon lành, chúng tôi ăn từ đầu chó tới đuôi chó, thậm chí cả bốn móng cẵng chân giò, xương chó cũng chặt ra làm nồi nước lèo xúp chó hầm ngon nhức nhĩ! Sao lúc ấy tôi chẳng thấy sợ hãi như bây giờ!?

            Bỗng dưng tôi sực nhớ tới chuyện rùng rợn ở Tây Tạng, nơi thủ phủ Lhasa đến một vùng hẽo lánh kia, có tục lệ rất kinh dị khủng khiếp. Họ thường làm nghi thức tiễn người chết rùng rợn từ lúc rạng đông: Họ từ tốn lấy dao lóc từng miếng thịt người chết ra miếng nhỏ, rồi để trên những tảng đá cho kênh kênh ăn. Lại có nơi lóc thịt người chết vất xuống nước cho cá ăn. Hoặc họ vạc một phần trên sọ, chẻ sọ người chết ra, dùng sọ người làm chén ăn. Họ nghĩ: hoả táng tốn kém than củi và tăng oxide carbone (CO) thì uổng. Thủy tang hại nguồn nước môi sinh, mất công uống cả xác tro người chết vô bụng. Chi bằng cho loài kênh kênh xực, cá ăn, cho chắc ăn! Do nghĩ như vậy, thịt chó và thịt người chết treo lủng lẵng nơi góc hàng rào kia; khiến tôi càng tởm lợm và nôn ọe ra mật xanh mật vàng!

            Chiến cuộc từ thời kỳ giặc giã đã tàn phá biết nhiêu mà kể xiết trong đất nước nầy, chiến tranh gây hận thù và chết chóc, bao đau khổ người dân còn kẹt lại trong cái thế trên đe dưới búa. Làm gì được lúc con người gây ra chiến tranh thật phi nhân, phi đạo đức. Làm chi được hỉ với con cáo, con hồ, con cọp, con chó sói, thậm chí cả con chó nhà đang nhe hai hàm răng trắng, hoặc giống như loài bò sát rắn độc?: nếu ta không biết “thời thế thế thời thời phải thế” khôn ngoan trầm tĩnh thu mình dẽo dai chịu đựng! Mặc dù loài vật hung ác, nhưng nó biết đối xử tốt và bênh đỡ đồng loại. Tuy beo, cọp, chó sói: là giống ăn thịt sống chẳng hạng; nhưng đối với đồng loại chúng vẫn hiền lành lui về hang ổ (nơi an tựa ấm áp, thân tình), và chúng biết yêu quý hổ con, sói con cuả mình. Càng hơn nưã chúng nhận biết đồng bọn, luôn trấn giữ bảo vệ bè-đàn cuả mình, không để tên “dị chủng” khác chủng loại xâm phạm.

            Nhưng khi có những kẻ vượt lằn biên qua vĩ tuyến: táo tợn xâm lăng thành phố thơ mộng, chúng ngang nhiên đặt chân vào miền đất hiền hòa, cẩu thả dùng súng đạn bay vèo vèo, ầm ầm, đùng đùng trút trên đầu nhân thế vui hưởng ngày Tết, lúc mọi người tưng bừng nôn nao rước tổ tiên ông bà về chung vui với con cháu, và dáng xuân huy hoàng êm đềm ngự trị trên thế trần. Thì xin mạn phép cho hỏi:
            - Kẻ đi xâm lăng và xâm phạm tới người khác, tàn ác gây ra đau thương tang tóc; thì thuộc về “hạng gì”?

            Lo lắng rón rén bò bò trên hành lang nhà, và tụt xuống những bậc cấp, tôi tất tả chạy rõ nhanh về nhà mình, vừa chạy vừa thở hồng hộc, khiến tôi mệt kinh khủng! Từ nhà ba má ở đại lộ Pasteur, tôi cắm đầu chạy bán sống bán chết xuống đường Bà Triệu, tới Cầu Bá Hộ Chúc, qua góc Cường Để và vòng ngược lên đường Thành Thái, chạy qua rạp ciné Ngọc Lan. Tôi hổn hển ngơ ngác đi ra phố Hòa Bình: Hai chiếc xe jeep (ở khu Hòa Bình) bị Việt Cộng núp đâu đó bắn mấy quả B40, hai xe nầy cháy rụi. Tất nhiên là có người chết thảm rồi. Tiệm Hồng Châu ở sát bên cây cầu cuả Chợ Mới cũng cháy rụi, đen thui. Mấy tiệm lân cận ở quanh khu Hoà Bình, đường Phan Bội Châu cháy khét, khói lửa mịt mù, mùi hôi kỳ lạ tỏa ra cùng khắp. Phố xá buồn thiu, vắng hoe, tan hoang, lạnh lẽo như một thành phố chết.

            Lác đác có mấy bộ hành tất ta tất tưởi, dáo dác lấm lét nhìn quanh, rồi dọt lẹ! Bốn người Thượng già: một người vạm vỡ đóng khố sọc ngang rằn ri. Một đàn ông trung niên thân quàng tấm mền len cũ. Một phụ nữ ở trần giơ bộ ngực no tròn có núm vú đen đen ra giữa lộ thiên, và một thằng bé con khoảng ba tuổi trần truồng. Họ thường bán hoa lan ở trên góc phố. Mấy người lớn đang khóc hụ hụ, họ hỉ mũi sột rột, họ bập bập cần tẩu cong cong như chữ S, mùi thuốc lá hăng hắc nồng nồng phả vào không trung mù khói đen xám, quyện lẫn làn sương núi mờ mờ vật vờ bay bay dưới nắng xuân chan hoà. Ông ta khạc nhổ bãi nước miếng văng xuống đất, coi gọn ơ:
            - Khu Du Sinh trên cuối đường Huyền Trân Công Chúa, đã bị lửa cháy rụi hết, khiến nhà cửa tui tiêu tan. Mất hết! Kể cả gà chó ngựa và con người. Hụ hụ hụ... Các ôn ơi!

            Tôi phiền não chạy riết về đường Minh Mạng, qua hướng Cẩm Đô, leo lên dốc ở nhà xác cạnh nhà thương. Chạy tắt trên đồi cỏ sau bệnh viện để về nhà, tôi nằm vật ra giường, thở hổn hển, mắt trợn ngược mở trừng trừng nhìn lên trần nhà, ngao ngán thở dài và lo lắng sầu khổ biết bao!
            *

            Tình Hoài Hương

            (*) Sưu tầm đó đây
            Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-26-2017, 11:38 PM.
            Bút trần nào tả được lưu luyến!
            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
            Tình Hoài Hương

            Comment


            • XỨ Mai Anh Đào ĐÀ LẠT đã Kinh Hoàng


              Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-27-2017, 12:05 AM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • Anh BỬU ĐAN



                Anh BỬU ĐAN


                Từ cánh bướm vàng trắng chập chờn do dự trên dòng sông rực nét tình xưa… dẫn Hoài quay về bao ngày hái hoa, bắt bướm ép khô trong trang sách học trò nơi ngôi nhà cũ. Nàng thấy từng người thân qua mỗi đoá hoa: pensée, violette, coquelico, mimosa, forget me not, kim châm, hoa giấy trắng, tím, hồng; hoa ngâu, hoa sứ, tường vi, mãn đình hồng, sen địa, hoa bằng lăng màu tím luyến thương rộ nở bên góc hè nhà, vân vân...

                Hoài nhớ những chiều năm ấy dọc theo bờ suối, nhớ tình yêu vô cớ tàn phai phi lý. Cánh hoa thiên lý có chú bướm nhởn nhơ bay về, đưa Hoài quay trở lại thuở nhỏ cùng ngày tháng tha hồ rong chơi bên suối. Hoài ưa vớt lục bình trôi lênh đênh nhấp nhô bên sông Bồ. Nước chảy dưới cầu Thanh Long xuôi về Bao Vinh, dẫn Hoài theo dòng lưu thủy tan vào cuối nguồn. Nước từ sông Thạch Hãn, Như Lệ, Phá Tam Giang đi Trà Khúc, sông Vệ, Nghiã Hoà... ưu ái hòa thông ngoài biển rộng bao la. Nước yêu thương luân lưu đến đầu non Minh Long, Tà Noát có thể nhập hội trùng dương lắm!?

                Rồi cánh bướm hôm nay vụt bay đi lên rừng cây kiền kiền thân thẳng gỗ lớn, mặt lá mốc trắng rơi rào rào trước sức gió nghiêng ngã dồn dập xô về. Bướm không buồn quay lại bên đoá bằng lăng tim tím yêu kiều, để Hoài ngồi trơ trọi, liu riu ngu ngơ trông ngóng, bơ vơ một mình xót xa trong ca bin xe GMC. Hoài nghĩ đến tình quê, nghĩ đến điều bất hạnh vong gia thất thổ: xóm, làng nầy gánh chịu đời sống kinh hãi, khổ ải tận cùng trong chiến tranh đau thương, chưa biết có kết thúc hay không nữa! Hoài nhìn xuyên suốt qua lũy tre xanh ẩn khuất có dòng sông lặng lờ uốn khúc nhấp nhô cánh lục bình, lùm dừa nước tàu lá xoè to đâm thẳng lên trời.

                Hoài thấy một giang đỉnh đi trên sông, cột nước vọt thẳng đứng lên cao. Giang đoàn trưởng cho con tàu neo gần bờ, để chờ đợi nước xuống thấp, thì tàu chui qua cầu Cộng Hoà. Nhà nào cũng có bụi chuối mương tre, gốc cam cây ổi, chen chân với cây cau dây trầu óng ả quyến luyến tình thân. Trên cây cau bện dây trầu quấn quanh có năm ba chú ve tơ dạm ngỏ duyên tình tán tỉnh cô nàng ve mái dễ thương. "Chàng" khoe bộ cánh mỏng tanh, đỏ rực màu lửa với "cô nàng" ưa làm le, làm dóc, làm bộ ra cái điều cô ả ỷ mình đang độ thanh xuân xinh đẹp nhất, cứ ra rả: "em... ve ve ve! Em... ve ve ve”...

                Hoài nhìn xuyên suốt qua lũy tre xanh ẩn khuất có dòng sông lặng lờ uốn khúc, nhấp nhô cánh lục bình, lùm dừa nước tàu lá xoè to đâm thẳng lên trời. Hoài thấy một giang đỉnh đi trên sông, cột nước vọt thẳng đứng lên cao. Giang đoàn Trưởng cho con tàu neo gần bờ, để chờ đợi nước xuống thấp, thì tàu chui qua cầu Cộng Hoà. Chìm đắm trong sự yên tĩnh như thế không biết bao lâu, thì từ phía sau hông xe, Thu Hoa mở cửa nhảy lên, với năm sáu chiến lợi phẩm đã tịch thu. Thấy bạn, Thu Hoa tươi nét mặt quay qua phía hai người lính trẻ đứng dưới đất, Hoa vui vẻ nói:
                - Em xin giới thiệu: đây là Hoài. Cô gái vừa rồi đã ngâm bài thơ “Tình Nhớ Tha Phương”, mà anh Đan hỏi: "Ai rứa". Còn đây là anh Văn, anh Đan, đó Hoài.

                Hoài chào hai chàng trai, họ mặc áo trận bạc màu nắng gió khói sương, bạc phếch thời gian và đầy bụi đỏ. Đan trầm ngâm đứng chống tay ngang hông, hút thuốc lá anh nhìn vu vơ lên giàn hoa thiên lý, rồi nhìn qua hàng bằng lăng tim tím, nhìn hoa bạch đàn nở vàng cây phía trước. Họ không mang phù hiệu, cấp bậc, huy hiệu. Ai nấy có vẻ dễ nhìn và thanh lịch, khuôn mặt rắn đanh, bất khuất kiên cường ở bờ chiến tuyến, màu đen trên mái tóc ngả bụi vàng đường xa. Thấy ngón tay tháp bút vàng khói thuốc và không đeo nhẫn của Đan, Hoài chợt thấy lòng nao nao, trào dâng niềm vui vui lâng lâng đầm ấm khó tả. Tại sao lòng vội vã dâng ngập niềm vui, khi mình chưa khẳng định Đan còn độc thân, hoặc anh đã có gia đình, nhưng chẳng đeo nhẫn cưới, thì sao!?

                Họ đang hiên ngang đánh chiếm, giành lại, gìn giữ lại từng Ấp Chiến Lược, gò mối, lũy tre, ao làng, ruộng vườn, nhà cửa của dân cư, lính quý từng mảnh đất thân yêu trên khắp bốn vùng chiến thuật. Quân nhân miền Nam Cộng Hòa Việt Nam anh dũng và lẫy lừng qua chứng tích đã đạt được: những trận đánh có cường độ oanh tạc tàn khốc, hữu hiệu, chính xác, kèm chiến thuật quân sự lẫn chiến lược chiến tranh chính trị. Không cần huân chương, mề đay, họ đã tặng lại cho Thu Hoa đem về nộp những thứ đó làm thành chiến công riêng mình. Văn cầm xâu chìa khóa tung lên trước mặt, rồi đưa tay ra đón bắt. Sau đó Văn quay qua vỗ vỗ vào vai bạn thân, trêu đùa:
                - Thế nào? Anh bắt tôi cùng lội qua sông Nghĩa Phú cho bằng được, để anh có dịp làm quen, nói chuyện với người em cùng quê hương. Bây giờ, đứng trước mặt cô em rồi... sao anh im lìm như gỗ đá vậy? Anh?

                Đan ngẩng nhìn Hoài qua hàng mi cong che nửa giếng mắt u buồn, nét mặt anh trông nghiêng đầy vẻ bất khuất kiên cường như khắc trên tấm phù điêu. Vầng trán Đan cao rộng biểu lộ con người thông minh, dáng anh hiên ngang oai dũng, hai ống quần lính ướt sũng nước còn bì bọp trong đôi giày đinh. Đôi mắt Đan khá đẹp ẩn dưới hàng mi dài dày cong vút, môi Đan thoáng động đường răng trắng bóng, với cái nheo mắt hữu tình nhìn... nhìn Hoài trìu mến:
                - Ấy... đứng trước giai nhân thì… bao nhiêu dự tính tiêu tùng ráo trọi. Có lội qua sông, tôi mới biết là sông sâu, nước lạnh. Khó dò.

                Phút định mệnh thật tình cờ cúi xuống nhìn đã đọng lại qua nụ cười. Hoài thấy Đan nhã nhặn quá đỗi và nàng cảm nhận mình có “cảm tình đặc biệt” với anh. Bỏ thói độc hành để song hành cùng người mới gặp, Hoài nhẹ nhàng mỉm cười:
                - Xin phép anh Đan cho em được gọi anh bằng anh Đan, và tự xưng là em, nhe anh!
                - Xưng hô là tượng trưng về sự thân tình quý mến nhau. Muốn gọi sao thì gọi, có hề chi! Em.
                - Dạ dạ… Anh Đan à! Nguyễn Bá Học nói câu nầy: "Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Theo thiển ý của em thì anh vượt thắng sông núi rồi. Vì, dưới đôi ống quần của anh còn ướt sũng nước đó. Anh đạt vài ý nguyện, bằng cách là Hoài đang đối diện, đối thoại với anh nè.
                Văn ngửa người ra cười ha hả, vỗ bôm bốp vào vai bạn mấy cái:
                - Tuyệt cú mèo chưa! Anh mình?
                - Cả anh Văn nữa! Các anh lội qua sông, hãy coi chừng tránh xa thủy lôi Việt Cộng thả theo dòng nước. Các anh ưa đi ven bờ, hoặc lội qua bên kia sông, sẽ có lúc bị ướt hết quần áo, giày đinh, và nguy hiểm đó.
                - Em chu đáo quá! Cám ơn em.
                Thu Hoa reo lên như tiếng chim hót:
                - Hoài là cô bé cưng dễ thương! (nhưng thương không dễ á). Có nhiều người trồng cây mơ, cây si, cây mê. Tuy vậy, Hoài còn cô-đơn nhất à nha.
                - Hai anh đừng nghe Thu Hoa nói xạo, mà bán hết gạo ăn bây giờ.
                - Ê! Bồ tèo. Trưa nay tui cho bồ nhịn đói hì.
                Văn khoát tay lia liạ:
                - Đừng lo Hoài, mời em qua doanh trại anh dùng cơm từ hôm nay nghe.
                Thu Hoa chúm đôi môi, nguây nguẩy giây lát, rồi nói:
                - Hai anh không mời em há?
                - Dĩ nhiên anh muốn mời cả em nữa chứ. Do em chỉ lối đưa đường, anh Đan mới có dịp đứng thộn ra, ngẩn ngơ vì... cảm động nè.

                Màn đấu hót tay đôi giữa Văn và Hoa nghe vui tai. Mặc bạn ríu rít cười nói trêu ghẹo nhau. Đan bắt chuyện:
                - Ở Huế, em ở đường nào vậy?
                - Dạ, nay ba má em dời về ở Mỹ Chánh. Các anh chị ở An Cựu, và Gia Hội. Còn anh, ở chốn núi rừng hẳn anh nhớ nhà. Buồn lắm nhỉ?
                - Quen rồi em. Lâu nay em có về Huế không?
                - Dạ không anh à. Em ở Đà Nẵng.
                - Anh biết.
                Ngạc nhiên, Hoài tròn xoe đôi mắt nhìn Đan:
                - Anh biết... Hoài?
                - Có gì đâu. Ngày đầu tiên anh thấy em leo lên đỉnh Núi Thần. Anh nghe bạn nói các em đặt tên núi là “Tê Tê bại bại” gì đó. Anh để ý dò hỏi, mới biết em cùng quê, là cánh hoa rừng biết nói. Một sơn ca. Càng không ngờ em là một hoa hậu dễ bị ngất xĩu nhiều lần vì... bệnh tim thời đại. Ha ha ha...
                Thoáng mắt bất ngờ giao nhanh, họ cùng cười hồn nhiên. Hoài:
                - Hẳn là anh nhớ lắm cô em áo trắng xa xưa, tóc thề bay trong gió, cặp ôm ngang ngực, mong manh bài thơ trên nón lá có tơ vàng óng ánh rồi, há anh?
                Thời hoa mộng đó đã trôi qua. Giờ đây, anh là người lính độc hành, lang thang trên ngõ cụt tình yêu.
                - Sao vậy anh?
                - Lính tráng như anh, làm sao có cái nhìn thân mật, ngọt ngào, ấm áp hương vị mùa xuân. Hở em? Anh đã đánh mất nửa hồn mình trên nẽo đường bơ vơ lạc loài tìm kiếm. Thật khó bắt gặp nửa hồn ai đồng điệu, hợp tình hợp ý, thấu hiểu, khoan dung, rất mực yêu thương lính... Anh có đôi lần yêu; tuy nhiên muốn tìm người bạn đường, phù hợp đã khó, anh tìm một bạn đời, càng khó hơn. Em ạ!
                - À... ra thế.

                Tiếng depart đạn súng cối giới hạn tầm bắn vùn vụt xoáy rít, khô khan sắt lạnh bay cao vút trên trời. Bỗng ùm! ùm! ùm!!! Pháo binh nã đạn về cuối ghềnh. Nghe từ xa giống như tiếng thủy lôi tàu ngầm nổ rầm rầm, hoặc như trận mưa giông sấm sét rất lớn, hay như người ta giật mìn, làm nổ hầm đá, để lấy đá trong núi. Mấy chiếc máy bay vụt bay qua trên không trung, giây lát sau có những tiếng nổ lớn rung chuyển cả bầu trời, làm nghiêng ngả hàng cây bằng lăng, cành cây bạch đàn đã gãy lìa.

                Hai người lính điềm nhiên ngước nhìn về mấy đụn khói đen và mỉm cười, họ tiếp tục chuyện trò thân mật, họ không thấy vẻ mặt ngờ nghệch tái xanh, run rẩy của hai cô bé khờ. Câu chuyện đang hào hứng, bỗng khựng lại đến đấy và luyến lưu chia tay. Đoàn xe của Hoài vội vã lên đường trở về ngọn đồi “T T 2”. Đan cùng bạn lại lội qua sông rộng nước sâu, trở về với doanh trại cuối làng mạc quạnh hiu ở chân núi đầu đèo hoang dã.
                * * *

                Bửu Đan sinh ra và lớn khôn trong dòng tộc vương tôn được dưỡng dục rất mực tôn nghiêm, chu đáo và đầy tình thương yêu nồng ấm của gia đình. Đan đã đi Pháp từ lúc tròn mười hai tuổi. Mỗi năm, anh đều trở về Việt Nam hai ba lần thăm quê nhà vào dịp Lễ, nghỉ hè, Tết. Sống ở xứ người từ thuở nhỏ qua nền giáo dục phương Tây, đã dạy cho anh hấp thụ tính sòng phẳng, công bằng, tổ chức đời sống có khoa học, anh biết phép lịch sự, nhã nhặn đối nhân xử thế tuyệt vời. Mặc dù sống trên xứ người văn minh, tiện nghi, đầy đủ, sung túc. Nhưng Đan vẫn nhớ thương gia đình, nhất là Đan thương nhớ me và hoài hương xiết bao!

                Đan thấy đất nước mình chậm tiến, tuy nền giáo dục tốt hơn về giáo dục & đức dục: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Ông bà rất thương con cháu, nhưng không quá chiều chuộng con cháu ưa lì lợm, vòi vĩnh nầy nọ hoặc nhõng nhẽo. Họ không buông thả cho chúng tự do quá trớn, trẻ con ít “hành” người lớn quá đáng như lũ con bên Tây. Con cháu ở Việt Nam biết kính trọng, nể sợ, thương yêu ông cha một phép, chúng không trân trân tráo tráo, láu cá còn choai choai dé dé xíu xíu non dại... mà eo xèo “đòi hỏi” tự do quá mức như đám Tây con. Cha mẹ biết là con cháu chưa "mất dạy" nhưng thiệt là "khó dạy" và lại sợ con “xu; xù” nên không dám hó hé!

                Ở tại viễn xứ xa lắc xa lơ kia, một vài ngày trước Noel, tình cờ Đan quen "cô nàng" cạnh giáo đường Maubert Mutualité, gần tả ngạn sông Seine. Khi ấy trời mưa tầm tả, hai người vô tình đang đụt mưa, họ vui vẻ trao qua đổi lại từ chuyện thời tiết gió mưa, tới chuyện: Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19, trải qua một cơn khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học: Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy, không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông. Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:
                - Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?” Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ:
                - Thưa Thầy, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép Thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin!
                Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn:
                - Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm?
                Chàng sinh viên liền hỏi:
                - Thưa Thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?
                Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:
                - Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi! (1)

                Thế là từ đấy hai người hợp ý nhau... Đan có một mối tình say đắm với người con gái dễ thương sao đâu (nàng học tại L’Ecole supérieure des Beaux Arts de Montpellier Aggomération, tức là trường Trang-trí Mỹ-thuật Montpellier). Tình yêu đã đem lại ngọn lửa tình vút lên từ đôi tay Đan kính cẩn chấp vào, khẩn thiết chân thành kêu xin. Sau đó hai người thường hò hẹn đi ăn tối tại Perle-du-Lac, trên bờ hồ Leman thơ mộng. Từ nơi quê hương nàng, anh nhớ da diết và yêu đôi mắt xanh lam, mái tóc vàng óng đầy xao xuyến, thân hình nàng rất hấp dẫn, quyến rũ đã khắc sâu vào đời Đan những vết dao đậm sâu, đầy yêu thương, quyến luyến và nhớ nhung vô vàn. Tình yêu đối với nàng là một tình cảm vô cùng đặc biệt; cho dù người anh yêu khác chủng tộc, màu da, tiếng nói. Nàng chưa toàn vẹn hiểu Đan sâu sắc, hoặc hồi đáp lại Đan điều gì khao khát từ trong tư tưởng như anh mong đợi.

                Nhưng với hai người thì mối tình ấy khá hồn nhiên, gắn bó, chân thật, trao nhau hết tình. Bên nàng vui vẻ và khả ái thì anh cảm thấy thoải mái, ý nhị khi nàng thích kể cho anh nghe chuyện bà thánh Jeanne D'Arc, (tên thánh của nàng) bà ta hô hào cư dân Pháp đứng lên, lật đổ chống lại sự thống trị cay nghiệt của Hoàng-gia Anh năm 1429 tại thành phố Orléans. Sau đó, bà bị hoàng gia Anh-quốc bắt bỏ tù và thiêu sống. Đan cũng hùng hồn kể cho nàng nghe về oai danh Bà Triệu, về hai Bà Trưng Trắc, Trưng Nhị của nước Việt Nam. Vì thù nhà nợ nước, họ đã đứng lên chiêu mộ quân sĩ, đánh đuổi bọn Tàu ra khỏi đất nước được ba năm. Sau đó, Mã Viện đem quân sang Việt Nam xâm chiếm. Thế yếu lương cạn, bị thua trận, hai bà can đảm nhảy xuống sông Hắc Giang tự tử. Nghe xong nàng gật gù thú nhận bội phục phụ nữ Việt tuyệt vời hơn bà thánh của nàng.

                Đan lại kể cho nàng về chuyện danh nhân: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris: Trên tuyến xe lửa đi về Paris, có một thanh niên trẻ ngồi cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt, và chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng không thể chịu nổi, anh ta mạnh dạn lên tiếng:
                - Thưa Ông, ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí thế à?
                Cụ già thản nhiên trả lời:
                - Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
                Người thanh niên xấc xược trả lời:
                - Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin vào những chuyện nhảm nhí ấy được, bởi vì khoa học đã mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi và hãy học hỏi những khám phá mới của khoa học, rồi ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến nay đều là những chuyện nhảm nhí hết.
                Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên:
                - Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học, liệu cậu có thể giúp tôi hiểu được chúng không?
                Người sinh viên nhanh nhẩu trả lời:
                - Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi sách vở đến cho ông, rồi ông sẽ say mê đi vào thế giới phong phú của khoa học cho mà xem.
                Cụ già từ từ rút trong túi ra một tấm danh thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên xấu hổ đến tái mặt, lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris. (1)

                Bên nhau trong ngôi biệt thự xinh xắn của cha mẹ nàng ở vùng ngoại ô Gif-Sur-Yvette, cách xa kinh thành Ba Lê khoảng hai mươi sáu ki lô mét về hướng Tây Nam. Họ trao nhau tình yêu mặn nồng đầy thắm thiết ái ân… Ấy thế mà cuối cùng trong thành phố Lyon... chàng và nàng cùng cậu con trai tí hon đã đồng thuận chia tay nhau vĩnh viễn ở sân ga Part Dieu. Dù rằng tình yêu ấy đã từ đôi tay nầy ân cần chấp lại khẩn thiết cầu xin; thì nay cũng từ đôi tay ấy đã mọc cánh vút xa bay trong nỗi xót thương, tiếc nuối khôn cùng, rồi trở thành dại khờ đau buốt. Như Verlaine đã nói: "Il pheut sur la ville, comme il pheure dans mon coeur".

                Mà thôi. Xin hãy qua đi! Xin hãy quên đi! Xin cho bình lặng tâm hồn. Đan không muốn nhắc đến tên nàng, dù vô tình anh đọc trên sách báo có chữ “tên ấy” cũng vậy. Đan yêu me của mình hơn bất cứ ai, anh không muốn me đau buồn, bởi vì cô sinh viên đoan trang và anh thư ấy là... đầm. Rồi có một ngày ta sẽ quên. Quên. Có thể. Bao giờ nhớ đến em, từ trong giấc chiêm bao, anh sẽ ghé về Paris thăm hai mẹ con em nhe. Chúng ta sẽ hàn huyên tâm sự, cho bỏ những ngày trống vắng chia xa. Ta sẽ tìm thấy nhau trong giấc ngủ bình yên muộn màng. Em ơi!

                Sau bao năm học hành và thành đạt vinh hoa, Đan vừa trở về quê nhà mong đem chút kinh nghiệm đã học hỏi bấy lâu ra giúp đời. Nhất là vì từ thuở nhỏ anh đã yêu con đường binh nghiệp. Thế rồi giờ đây… ngày nầy qua ngày khác, Đan vẫn soi chiếc bóng cô độc chao đảo khi tỏ khi mờ trên dòng suối lờ lợ đục. Mỗi lần, chỉ cần trông thấy chiều tàn dần vắt qua sườn dốc, khi đám mây trắng bạc bồng bềnh thấp thoáng, âm thầm bay qua bên kia lòng khe, vách đá, nước chảy róc rách trên lưng đồi Minh Long suốt thế kỷ, dội xuống lòng suối lững lờ trôi xa. Nghe tiếng súng đạn dày xéo suốt đêm ngày trên quê hương điêu tàn, đổ nát, là vết thương đậm sâu không trông thấy vẫn nhói buốt đau đớn trong lòng Đan nhức nhối. Cơn lốc tình cảm thuở Đan còn ở bên Tây, làm tan nát tâm hồn tươi trẻ trước kia. Giờ rụng đi từ đôi mắt Đan sáng loáng, ẩn sâu dưới hàng mi cong vút thấp thoáng ánh chìm đục, say đắm mơ màng.

                Tiếng nói của Hoài hôm trước văng vẵng đâu đây, ngày này qua ngày khác đêm nầy qua đêm khác, thấm vào tâm tư Đan cô lẽ như những giọt mật tròn, mật đắng, đắng không thể tả. Hạnh phúc xưa bất chợt, bé nhỏ liu riu thoáng qua nhanh, chưa thể làm lòng Đan ấm áp, bình yên, an vui giữa cơn gió xoáy rét mướt nơi sơn khê ngun ngút dặm ngàn. Đan vẫn thầm tự hỏi lòng: “Mình có thể thay đổi tình yêu xưa bằng một tình yêu khác không? Biết đâu nó sẽ có những dễ thương trùng hợp đáng yêu; như thế, hoặc hơn thế nữa”!? Đan bỗng nhớ một câu của Montamayor viết: "Hỡi ký ức thù nghịch sự yên tĩnh của tôi, sao ngươi không lo giúp tôi, quên các khốn nạn hiện tại. Hơn là nhớ đến những nguồn vui thuở xa xưa?".

                Đan đắm mình trong khí ấm mùa xuân thu hút vuốt ve có mật ngọt và hương hoa, có tia vui hào quang dọi sáng, có khúc nhạc nên thơ êm mát, do gió núi trong lành lao xao nét tình quê xanh thắm thoảng lại. Đan vẫn thầm nhũ với lòng mình:… Mà nè Đan, biết biễu lộ tình cảm dưới dạng thức nào, cho trung thực đối với cô gái Đà Lạt dễ mến đó, qua bề ngoài câm nín của cái vỏ cuộc sống? Anh mến Hoài từ lần gặp gỡ đầu tiên tình cờ buổi nọ. Đan hai mươi lăm tuổi, chưa có gia đình. Đan sống giữa chốn núi rừng Minh Long nầy, tâm tư không phải là không có điều nhớ nhung, yêu thương, băn khoăn, dằn vặt, ưu phiền, buông thả, dày vò, âu lo.

                Nhưng Đan không tỏ ra yếu mềm, mà chỉ trầm ngâm, lặng lẽ ngấm ngầm suy tư dưới gốc đại thụ mọc đủ mọi thứ măng le, tre, nứa, giang, dây leo không tên mọc um tùm, chằng chịt. Thế mà vẫn có vài con đường mòn đất nâu xám láng trơn len lỏi trũng xuống cận dòng suối đỗ dồn. Bốn bề núi đồi hoang vu bao bọc, hệt như lòng chảo Điện Biên Phủ. Dốc đứng đồi nghiêng cheo leo hoang tàn. Lô cốt Minh Long kẽm gai trại lính hầm hào giăng mắc chằng chịt. Điếm canh chênh vênh xác xơ lắc lư gió táp mưa gào.

                Rừng sậy già rậm rịt, um tùm lô xô thân ống sậy như lóng mía. Cỏ lau sậy bông màu trắng to xù cong cong, giống cái đuôi con sóc leo trèo trên những cây sấu vàng ửng tàng lá tỏa rộng bay xào xạc trong gió. Ở đây toàn vách đá cao lênh khênh, cheo leo, mịt mùng. Núi. Rừng. Đồi. Suối. Ao. Đầm. Cỏ lướt cỏ. Cây đan cây, cành đan cành. Lá đan lá chằng chịt quấn quít. Vượn hú kêu đàn thảm thiết buồn bã. Những con quạ mình to đen bóng xoè hai cánh rộng giăng ra thật lâu, nó ngóng cổ lên cao hoác miệng kêu "quạ! quạ!" Quạ gù gù lưng cúi cổ nhảy từng bước cụt, như cô gái già đơn điệu nhảy cò cò. Không hiểu ở đâu nước từ thượng nguồn dội xuống lòng khe suối rộng xuôi chảy.

                Ven bờ dừa nước, lau, sậy, năn, lát gỗ có vân đẹp, gốc bành lớn, hoa màu vàng nhạt, lá kép lông chim đầy duyên dáng mọc chen cánh với rừng bằng lăng hoa tím nở rộ. Ôi! Phong cảnh nơi đây rất tuyệt diệu… thế nhưng xin hãy coi chừng vô số muỗi, ruồi, vắt, ve,... ưa búng mình bò lên hút máu. Một phía bên kia suối nước bỗng trổ màu nâu hồng lờ lợ đục, nước lờ nhờ giống màu đỏ sông Hồng trôi lặng lờ trên xứ Quảng. Thấy mà ghê hồn. Cuối tuần ở Minh Long cảnh vật nơi đây hoang vắng u buồn. Đan sống những giờ phút xao xuyến, mơ mộng, ưu phiền bên ngọn suối bạc uốn quanh triền núi, gợi lên lòng anh biết bao nhớ nhung, buồn thương da diết vệt nắng rải sau hè rực nét tình xưa qua: Giếng Mắt Đẫm Giọt Sương


                Hoàng hôn tỏa những tia nắng nhạt.
                Đường em đi bóng mát cây dài.
                Nắng xiên trên hàng hoa lác đác.
                Mặt hồ xưa lóng lánh mây bay.

                Nỗi niềm riêng xôn xao gợi nhớ.
                Tình yêu ơi! Hoài vọng ước ao.
                Đường em về cỏ đầy lối nhỏ.
                Mùa đông qua, xuân mới bước vào.

                Hàng thông xanh im mờ phủ bóng.
                Giữa cuộc đời cảm thấy bơ vơ.
                Giếng mắt đẫm giọt sương mòng mọng.
                Lá sầu đông tê tái phất phơ.

                Thác ven rừng uốn lên chảy xiết.
                Nước rẽ dòng thương kẻ chia ly.
                Đường về quê nhớ phút phân kỳ.
                Mối tình tựa ngấn sương tiễn biệt.

                Mộng ước đêm dài luyến thương nhánh cỏ.
                Nhạc sương gieo tình cọng cỏ tơ vương.
                Nhún nhảy dưới trăng lá cỏ ngậm sương.
                Sương rơi rụng ướt cỏ đường đêm vắng.

                Bông cỏ ngậm sương nở hoa vàng trắng.
                Tình yêu thiên nhiên quyện lẫn cỏ cây.
                Nghê Thường đâu hãy tấu khúc đêm nầy.
                Sương tưới cỏ đời vui thêm tươi mát.
                (2)
                *

                (1) sưu tầm
                (2) Thơ Tình Hoài Hương
                Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-27-2017, 12:11 AM.
                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                Tình Hoài Hương

                Comment


                • Mail & Chat: Bù Khú kể chuyện linh tinh...



                  Mail & Chat: Bù Khú kể chuyện linh tinh...
                  (của ông già gân & bà già khọm).

                  Date: Mon, 1 - 26 - 2006 -00:05:34 -0700 (PDT)
                  From: "Tony Dautry Hoàng" < khanhson21@saigon.vn >
                  Add to Address Book Add Mobile Alert
                  Subject: Thư mang số # 5.946 *Chuyện MAIL & “CHAT” bù khú.
                  To: "Wit Mi Mi" < tio1@yahoo.com > *

                  Em ơi! Mail nầy anh em mình kể chuyện bù khú linh tinh nhen.
                  Nhân dịp có: Hậu, Hạnh, Bé, là bạn ở bên Mỹ về thăm quê. Hoàng Năm đã kẹp bà Kiêm đi chơi với họ mấy ngày. Về nhà, sau khi Năm trao đổi chuyện trò với các con. Đêm về chàng cứ nằm đó suy nghĩ (và bị “dày vò” như ai vậy). Các con chàng đã quyết như thế, nghĩa là ngoài mẹ chúng ra, thì chỉ có “nàng” là người mẹ quan trọng thứ nhì không kém mẹ ruột thôi. Vì những câu mà bé Hai đã nói ra giữa bốn cha con là do các con nói ra tự đáy lòng. Chứ đứa con gái lớn của Năm không bị ảnh hưởng, hay do tác động bên ngoài như con bé Tư đâu.

                  Hoàng Năm hiểu rõ bé Hai rất quý trọng yêu thương nàng, là người anh đã yêu tha thiết. Năm biết hồi xưa, thì bé Hai chưa có cảm tình với Mười. Vì con bé khép kín, ít giao tiếp với nàng. Vã lại bé ở gần mẹ nó nhất, dĩ nhiên bé Hai thương mẹ nó rất nhiều. Bây giờ, sau khi mẹ nó ly dị và lấy người khác, có con riêng, thì ngoài nàng ra - Chả có ai có thể làm cho các con của chàng thương đến độ đó. Bé Hai đã nói một câu dưới đây, mà Hoàng Năm nghĩ đi nghĩ lại, như là điều mà chính mình đặt lời nầy vào miệng con vậy:

                  - Ba đã thấu hiểu và biết chắc rằng: Trên đời nầy chẳng có ai yêu thương ba, chịu đựng những cố tật xấu của ba, như cô Thương Mười! Điều nầy đã được xác nhận. Vậy, chúng con mong ba đừng làm cô ấy đau khổ thêm nữa. Ba đã gây ra nhiều sóng gió từ mẹ của các con rồi. Bây giờ ba đã già, cần tìm một người hết lòng yêu thương ba, để sớm hôm có nhau. Chứ con không thể lo cho ba mãi. Ba quyết định đi. Nếu ba yêu cô Mười, thì ba phải trân trọng tình yêu. Còn không thì ba cứ nói cho cô rõ. Chứ ba không nên để cô ấy từ Mỹ lặn lội về đây, mà chịu khổ, chịu buồn đau vì những sự lăng nhăng, và nhất là vụ lấp lững tiền bạc ấm ớ không tốt của ba.

                  Ba đừng vướng mắc với mấy bà đó nữa. Phiền phức lắm. Ba nên tu thân tích đức, để phước lại cho ba đứa con gái của ba nè. Rồi đây khi ba về già sẽ có người “nâng khăn sữa áo” cho ba. Ba thấy không: nào ba quen với bà bán xôi trước ngả tư nghèo khó, mỗi sáng khi ba đi làm, thì bà ta cố dành dụm cho ba mấy gói xôi to. Bà ấy chí tình như vậy, rồi ba cũng bỏ. Ba lại quen bà Nga chủ chứa đã chạy theo xách guốc cao gót đánh ba chảy máu đầu lênh láng (khi ba ngồi trên xe xích lô, với gái đó, Ba nhớ không?). Ba lại quay qua bà Dậu, bà Hồng, bà Dung, bà Nguyệt, bà Kiêm. Bây giờ nếu ba bỏ mấy bà ấy, ba sẽ có bà khác mồi chài cho coi. Rồi họ cũng dông tuốt luốt. Ba biết rõ mà: Họ chỉ lợi dụng ba, chỉ dòm vào túi tiền của ba thôi, không ai yêu thương gì ba cả.

                  - Con ơi! Ba chán lắm! Ba nhiều lần đã xin lỗi cô Mười rồi. Ba quyết tâm phải từ bỏ “nó”. Không để cho mấy bả có cơ hội gặp mặt, rủ rê ba vào chuyện yêu đương. Muốn yên thân, nên ba tuyên bố với các con: ba đã nhổ bãi đờm xuống đất. Chẳng lẽ ba cúi xuống liếm lại? ba là con người, chứ không phải là con vật, mà không có tự tin và tự trọng! Ba đã chạm trán và tỏ thái độ dứt khoát, nói huỵch toẹt, vạch từng cái xấu, ích kỷ, lạm dụng của họ rõ ràng như vậy rồi. Còn mong gì mà níu kéo. Đã không hợp nhau, thì “nghỉ chơi”, như một vỡ kịch được dàn dựng rất công phu. Nhưng trước khi trình diễn, thì hai ba bà đó bị bể mất, đã bị lật tẩy, còn mặt mũi nào mà yêu đương? Vã lại họ cũng biết là ba vẫn yêu cô Mười nhiều. Họ không có cách gì giựt ba ra khỏi vòng tay của cô Mười đâu con.

                  - Vậy rất tốt. Ba biết có bà nào chịu đựng nỗi ba, như cô Mười không? Bây giờ ba sáu mươi tám bảy mươi tuổi, mà ba cứ lông bông vậy, ba tính thui thủi một mình hoài sao? Ba đừng gây thêm cho cô Mười những nỗi đau nữa ba à. Tội lắm. Ba vô cảm đến độ để cô ấy đau khổ, âm thầm chịu đựng thêm “cái của nợ là ba”, để trả giá cho hạnh phúc tình yêu sao! Thì cũng tội quá đi! Cuộc đời cô Mười từ tấm bé đến giờ, có mấy khi cô ấy tìm ra hạnh phúc với ba! Rõ ràng bất công quá! Nhưng tụi con nghĩ rằng: Để đánh đổi lấy hạnh phúc tình yêu chân thật: Là con đường sẽ gặp nhiều chông gai, gian nan. Mà cả hai người yêu nhau phải cố gắng vượt qua. Bi giờ ba không nên vướng vô chuyện “ruồi bu”. Ba không giấu diếm các con và cô ấy nhen ba.

                  - Ừa. Cô Mười và ba đã từng bàn tính với nhau rất kỹ về việc nầy: Cô đã chấp nhận về với gia đình mình, tất nhiên cô không quản ngại việc nhỏ đó. Duy chỉ có điều cô ấy e ngại là ba chưa “cải tà quy chánh, tu thân, tu tình”. Nhất là cô Mười nói:
                  - Cô không muốn về đây, để mang thêm gánh nặng áo cơm cho bé Hai đã nuôi ba, nuôi em, nuôi ông bà ngoại, nuôi dòng họ ngoại dì, cậu... Nên cô Mười muốn tạm thời ở Mỹ làm việc, thu tóm một số tiền lớn, khi cô Mười trở về ở luôn Việt Nam, ít ra cô ấy cũng có một số vốn kha khá, để lo tuổi già cho hai người. Chứ không thể yêu nhau trong “một túp lều tranh, hai quả tim vàng”, mà nhịn đói, nhịn khát. Vấn để thiết thực là cơm áo, nếu không có kinh tế, thì thử hỏi làm sao mà tránh khỏi lục đục trong nhà, sẽ không có cảnh “cơm lành canh ngọt”. Do vậy, cô Mười đã dành dụm gửi tiền về, khoảng mươi năm nay ba cất giữ được vài chục ngàn USD.

                  - Dạ, con tin ba: Tình yêu có ba thái độ khởi sự: - Thứ nhất là: Yêu thích ngay khi vừa gặp, nên cố tìm mọi cách để chinh phục (như tiếng sét ái tình). Thứ hai là sau khi tìm hiểu, thấy không hợp, thì dửng dưng, như chưa hề yêu thương. - Thứ ba là đã yêu rồi ghét, như chưa bao giờ từng ghét ai đến thế (vì người ấy đã gian dối, lừa gạt tình và tiền, xúc phạm trắng trợn đến tình cảm). Thì thật sự chả có gì gọi là tình! Phải không ba? Được như vậy, các con rất mừng. Ba phải dứt điểm với bà Dung, Nguyệt, bà Kiêm đi.
                  - Ba đã dứt khoát rồi. Thì quyết không thay đổi.
                  - Không cứ gì cô Mười, mà các con biết được điều nầy, sẽ vui mừng lắm.
                  * * *

                  Ghi chú CHAT :
                  *
                  - Hoàng Năm = lời của chàng già gân.
                  - Mười (Mi Mi) = lời của nàng già khọm.


                  Hoàng Năm.– Hello… Ah! Chào em yêu thương, (từ bi giờ anh phải gọi em là con mèo Mi Mi của anh nha): Hôm đầu tháng Giêng, anh bị con “vòi vọi” to như con bọ xít, thân đen bóng, cánh cứng, có vòi như cây kim cong cong, nhọn hoắt. Nó có bốn chân, và hai cái râu, từ dưới gầm giường nó bò lên nệm. Thừa lúc anh ngủ say, nó chích anh mấy phát. Ui! cái trán sưng chù vù, cứng ngắt và ngứa ngáy, nhức nhối kỳ lạ. Gần cả tháng rồi, vẫn đau nhức, trán vẫn u, sưng tấy lên và ngứa lắm. Vậy mà em còn chọc quê anh là “mọc sừng” ha. Giận thì thôi.

                  Mười.- Ui! Em cứ tưởng là do anh đi hoang. Xin lỗi nha.

                  Hoàng Năm.- Hôm nay, anh tức quá, đi thay tấm drap mới, giặt mền, gối, rồi anh lật hết những thanh giường ra. Lau nhà sạch sẽ xong, anh lấy thuốc xịt hết vào mấy cái khe. Thì thấy hai con “vòi vọi” đen đen lăn ra chết. Chứ nó chạy nhanh kinh khủng, không thế nào đập trúng. Anh bỏ nó trong bao nylon. Chiều nay sẽ đem nó xuống bác sĩ chữa trị da liễu, cho ổng xem. Vì bác sĩ cho rằng nó là con A Sừng! Cách đây vài tháng anh cũng bị nó chích như thế, nay vẫn còn u lên một cục cứng ngắt.

                  Mi Mi.- Anh cẩn thận nhen. Ở một tỉnh thành gần khu núi đồi, hồ ao, đầm lầy bên Úc (nơi chị Tú ở). Có một chỗ dành để người dân cắm trại. Nhiều mái lều dựng lên, ăn ở vui vẻ. Bỗng họ nghe tiếng hét to kinh khủng, ở một cái lều hơi gần gần bờ hồ, có con cá sấu to lớn bò đến ngoạm chân người đàn ông, lôi đi xềnh xệch. Cả khu cắm trại hốt hoảng nhốn nháo, họ ùa ra bãi xem chuyện gì. Thì một người đàn bà cùng gia đình cắm lều gần đó, nhìn thấy cảnh tượng hãi hùng đó trước tiên. Hai bàn tay không, bà ta can đảm nhảy xuống hồ, bà cỡi lên mình con cá sấu. Hai tay bà ta ôm ghì lấy lưng và nách con vật, hai chân bà quắp chặt vào bụng nó. Con cá sấu giật mình, nó hãi hùng nhả chân người đàn ông ra. Nó quay ngược mỏ lên, táp táp vào người đàn bà không được.

                  Thế là nó vát bà ta chạy tuốt xuống hồ nước. Mọi người bất ngờ sững sốt, nhốn nháo, sợ hãi kêu la inh ỏi. Một người đàn ông ở lều khác, bình tĩnh xách súng chạy đến gần. Tay thiện xạ do dự một phút, rồi đưa súng lên nhắm và bóp cò. Đùng!... Đùng! Con cá sấu giẫy giụa vài cái, rồi nằm ngay đơ nửa trên nửa dưới hồ nước. Người đàn bà can đảm phi thường cỡi con vât ấy không bị lạc đạn. Mệt đứt hơi, bà ta nằm vật ra bên con vật nhuộm máu đỏ. Người ta vội vã gọi trực thăng đến, cấp cứu hai nạn nhân. Một người bị cụt chân, một bà bị gãy tay. Chỉ vì “cái mỏ” con cá sấu.

                  Hoàng Năm.- Còn một chuyện có thật nữa: Hai chị em cô bé nhà kia đi tắm sông ở Nam Phi. Cô chị độ mười tuổi, thấy em nó bị con cá sấu ngoạm, con cá sấu đang cố sức lôi đứa em xuống sông, để ăn thịt. Cô chị quýnh quá, không biết làm sao, cô ấy không còn sợ hãi, cô ấy chạy đến bên con cá sấu, cô gái lấy ngón tay trỏ chọt lủng mắt con cá sấu, chọt rất mạnh. Con cá sấu bị bất ngờ, và đau lắm. Nên nó nhả cô em ra. Nó lo chuồn xuống nước, lặn mất tiêu. Cô em bị thương nặng. Họ cấp cứu hai chị em vào bệnh viện.

                  Mi Mi.- Đó, anh thấy chưa? Mà anh còn đòi cuối tuần nầy, đi ăn thịt cá sấu với anh Vượng, anh Nuôi hỉ! Em sợ nên em “ghê tởm” cá sấu. Vì thấy nó dữ dằn, da lởm chởm sù sì gớm ghiết, móng chân móng tay nhọn hoắt. Cái mỏ và hàm răng ôi thôi kinh dị. Nhất là buổi tối hôm đó, ngày chúng mình đi vào trại nuôi cá sấu xem. Trong bóng tối, mình lấy đèn pin rọi xuống ao, hồ, thì trông thấy những đôi mắt của nó, như là ánh sao lấp lánh. Vì hai con mắt nó sáng rực, đỏ au, từng con từng con nhìn sững vào ánh đèn. Thịt nó trắng, mềm và thơm ngon. Lại có hương vị đặc trưng thơm hơn thịt vịt, thịt gà nữa. Em làm thịt cá sấu sạch, xào với sả, ớt, mè, tỏi, hành, ngũ vị hương, ít dầu hào, ăn với bánh tráng nướng. Thật ngon hết sẩy.

                  Hoàng Năm.- Rượu nầy là môn thuốc, người ta nói để trị bệnh suyễn hữu hiệu lắm em ơi! Uống vào nghe "đã" đến óc. Tuyệt cú mèo. Rồi anh hỏi đố em: Có biết con cá chình không? Mất mấy trăm ngàn đồng Việt Nam, anh mới mua được một con cá chình, chỉ nặng vào khoảng 800 gr. Ở Việt Nam bây giờ con gì cũng được đưa lên bàn ăn, để thiên hạ xài, có tiền là “chiêm ngưỡng” hết: Chồn. Cheo. Rùa. Mễn. Nai. Rắn. Ba ba. Vân vân… Ôi thôi đủ thứ hết. Đến nỗi bi giờ hầu như những loài qúy hiếm e có nguy cơ diệt chủng. Đã có lệnh cấm săn bắn, cung cấp thịt rừng. Cho tiền thuê, bạc mướn, có lẽ em cũng hổng dám ăn thịt cá sấu.

                  Mi Mi.- Anh lại nhem thèm em nếm tí rượu cá sấu nữa hả? Ghê quá đi.

                  Hoàng Năm. - Em có thấy ớn lạnh không? Người đàn bà cỡi lưng cá sấu. Cô bé chọt mắt cá sấu. Rất phi thường. Can đảm lắm. Nhưng... Chưa đáng kính phục bằng một người đàn bà Việt Nam đám cỡi lên mình con rắn, và bóp nát trái tim con rắn nữa. Và nhất là bà ta đã làm con rắn cúi đầu khuất phục. Thật đáng ngợi khen. Anh đố em biết bà ấy là ai nào?
                  Mi Mi.- Bói bài hay cầu cơ cũng chịu thua. Đừng nói tới em. Em hổng biết.

                  Hoàng Năm.- Ấy! ... Là em đó.

                  Mi Mi.- Ui chà chà. Thương thiệt!

                  Hoàng Năm.- Anh lại đố em 4 chữ MEN nè:

                  1.- MEN TAL ANXIETY : Hoảng loạn tâm thần.
                  2.- MEN TAL BREAKDOWN : Suy sụp thần kinh.
                  3.- MEN STRUAL CRAMPS : Co thắt khi có kinh.
                  4.- MEN OPAUSE : Hiện tượng tắt kinh.

                  Mi Mi.- Ôi! Thì anh đố em, nhưng anh đã giải thích hết rồi. Lại còn phải hỏi ư.

                  Hoàng Năm.- Em có để ý là tất cả nguyên nhân các sự kiện ở trên, đều do chữ MEN mà ra không nhỉ! Đó đàn ông các anh là thiên đường. Mà đàn ông cũng là địa ngục. Em à.

                  Mi Mi.- Ồ! Cái nầy họ “chơi chữ” quá hay. Vì trong bốn triệu chứng của người đàn bà, đều bắt đầu từ chữ “MEN” mà ra! Dễ ghét mà rất dễ thương. Anh hỉ!

                  Hoàng Năm.- Loài chuột có thể giao phối hơn 20 lần/ngày. (Còn hơn con dê nữa ha)! - Con gián có thể sống trong suốt vài tuần với cái đầu lìa khỏi thân. Voi là loài động vật có vú duy nhất không thể nhảy cao. - Muốn luộc con ếch hoặc con rắn trước tiên ta bỏ nó vô trong nồi nước lạnh, đậy kín nắp, và mở gas thật nhỏ, chờ bao giờ nồi nước từ từ nóng và sôi. Chớ nếu bỏ nó khi nước đang sôi, thì nó sẽ quậy lung tung và nhảy phóc ra khỏi nồi. À, anh nhớ có chuyện nầy nữa… Ôi vui ơi là vui. Đúng rồi! Sau đêm em bị ma đè (chứ hổng phải người đè à nha), thì cả anh và em đều hoảng loạng, đến nỗi rắc rối… bồi hồi, quên trước quên sau, quên đầu quên... quên… luôn cái phao câu! (con gà con vịt, thì ít khi ai gọi là đuôi gà, đuôi vịt. Mà họ “thít” gọi là phao câu mập ú nù. Phải hông nà?

                  Mi Mi.- Đúng quá đi thưa “bác xĩ mu rùa hóc môn”.

                  Hoàng Năm.- Ha ha! Ui xà, dzậy mà còn phong cho anh làm tới chức “bác sĩ mu rùa hóc môn” nữa chứ. Ôi trời ới! Nếu vô tình, có ai lọt chân vào trong mạng internet riêng của chúng mình, thì chắc là họ sẽ cười bể bụng, vì mấy cái chuyện tiếu lâm của hai ông bà già gân 60-70U lẩm cà lẩm cẩm nầy ha.

                  Mi Mi - Vậy chứ công dụng của cái rốn là gì nè chàng?

                  Hoàng Năm.- Để cuống rốn gắn liền tí nhau với người mẹ, như sự nương tựa vào sự sống của con từ mẹ mà có. Nhưng khi sinh ra đời, cuống rốn của em bé được cắt đi, thì từ đó sự sống hay gọi nôm na là hơi thở của em bé tách rời mẹ, độc lập. Đáng lẽ ra khi cái rốn lành, phải thành một vết sẹo bằng phẳng. Chứ tại sao cái rốn lại teo tóp nhăn nhúm, và trở thành sâu hoắm thế cô nương của anh?

                  Mi Mi.- Xin chịu thua.

                  Hoàng Năm.- Còn nữa, cặp vú của người đàn bà có công dụng: Là để nuôi con. OK! Thế thì, người đàn ông không thể cho con bú mớm gì. Sao vẫn có vú hỉ?

                  Mi Mi.- Công dụng nầy, chỉ có Trời mới biết.

                  Hoàng Năm.- Rồi, khi người đàn ông đi “quờ quạng ăn phở bậy bạ”, hắn gặp một “gái già bia ôm” nên bị lây rận, (do người đàn ông khác “di dân rận” cho bà ta), con rận thân dẹp lép, bò lết tới mình tên đàn ông thứ tư, thứ năm gì đó. Họ chỉ cần hai thân thể áp vào nhau chừng vài phút thôi, là lãnh đủ! Có hơi ấm cơ thể, thế là lũ rận bò sang người mới, định cư liền. Tên đàn ông trăng hoa đó lại mang rận về, tặng lại cho vợ.

                  Mi Mi.- Úi quơi Trời đất thiên địa ui! Vậy ra anh đã từng mang rận đi, mang rận về ư! Xin bái biệt và tống khứ anh.
                  Hoàng Năm.- Không. Đừng nóng thế em.
                  Mi Mi.- Dieu seul le sait...

                  Hoàng Năm.- Nè em: ngày anh còn học chung với Trung trong đại học Y Khoa Sài Gòn. Trong phòng thí nghiệm có kính hiển vi điện tử. Hôm xưa, chả biết làm sao Trung có được mấy con rận, nó mang rận vào lớp. Ta có thể soi rọi con rận ra to chừng 15.000 lần thực tế. Rận có cả thảy ba đôi tay chân (6) lông lá xồm xoàm! Phía trước rận có hai càng nhọn hoắt, dùng để đào hang. Con rận màu trắng ngà khác với con chí màu đen. Con rận đẻ trứng bám chặt trên những sợi lông, giống như con chí đẻ trứng trên những sợi tóc của người ta. Lấy trứng rận ra để trên bàn: giết, nó cũng kêu “cái cốc”, y như trứng chí vậy.

                  Rận không sống ở ngoài da, mà nó đào hang. Nghĩa là nó dùng càng đào lỗ, chui vào lỗ chân lông mà nằm ở chỗ kín, dơ bẫn. Nó không giống con chí sống lúc nhúc, luôn bò rần rần, loi choi hút máu ở trên đầu (do người ít tắm gội). Khi nào đói, rận mới bò ra châm vòi vào thịt, hút máu tươi để sống. Mình ngứa điên cuồng là đó. Rận giống như con rệp tiết ra chất hôi, chuyên sống ở khe vách, giường, phản. Rận, rệp, chí, đều sinh sôi nẫy nở rất nhanh. Em có biết: kinh khủng vô cùng là con gián có thể sống suốt vài tuần với cái đầu lìa khỏi thân. Anh quên nói mỗi năm, số người chết do ong đốt còn nhiều hơn cả số người chết do rắn cắn.

                  Mi Mi.- Phải làm sao mà diệt chúng nó chứ anh.

                  Hoàng Năm.- Biện pháp duy nhất là ta phải hy sinh cạo bộ lông, cạo tóc. Không còn chỗ cho chí rận bu bám. Mỗi ngày ta nên tắm gội sạch sẽ, lấy DDT (thuốc diệt côn trùng) xoa đều lên bề mặt da. Làm như thế cả tuần nhe, thì chí rận mới “dứt điểm”, sẽ chết hết. OK! Đó là phần giải thích của anh là “bác sĩ mu rùa hóc môn”. Em thỏa mãn chưa?

                  Mi Mi.- Cảm ơn chàng. Nhà em có quá nhiều kiến. Tại sao Trời sinh con kiến để làm gì? Tả và nói con kiến có công dụng gì. Cho em nghe nhe.

                  Hoàng Năm.– Cô Nương! Coi chừng mùa nóng thường có nhiều kiến nhen. Bọn kiến tinh ranh, khôn đáo để đó em. Trời lạnh lẽo hay sắp chuyển mưa, là chúng biết trước, lo dời trứng lên cao, phòng trú trên trần nhà. Trời nóng nó lại chuyển chỗ xuống đất. Vì thế, kiến không tha mình chỗ nào cả. Đâu đâu nó cũng bò tới “thám thính” được. Ngay cả tủ quần áo, khi không còn mùi long não (naphtalin), nó cũng chui vào. Nhất là nhà em có thịt, cá, chất béo, mỡ, mật ong, thức ăn, thực phẩm khô, là có kiến. Vì thế, anh phải cẩn thận với thức ăn. Mệt lắm. Em đọc đi: Ants hate cucumbers. Keep the skin of cucumbers near the place or ant hole. (Trị kiến: Kiến ghét dưa leo. Bỏ võ dưa leo gần chỗ có kiến hay ổ kiến).

                  Mi Mi.- Em hỏi chàng, vậy chứ con kiến có cái đuôi, như những con vật khác không anh?

                  Hoàng Năm.– Ha ha ha!!! Nương ơi! Đúng nguyên tắc thì con kiến cũng có đuôi đó em à. Hổng phải nó có đuôi rõ ràng như đuôi chó, đuôi mèo, hay “đuôi phao câu gà, vịt”. Em có tin không? Kiến có đuôi. Nhưng kiến có hai cái đuôi, chứ không phải một cái đuôi đâu em. Đuôi mọc ngược phía trên đầu. Mà ta nôm na gọi là hai cọng râu. Theo khoa học thì con kiến bài tiết trên các cành cây. Và chúng liên lạc truyền tin với nhau bằng hai “cọng đuôi râu” nầy. Nếu loại kiến là “cùng chung một nòi giống”, thì nó sẽ có chung một tần số âm thanh như nhau. Còn nếu khác giống nòi, nó tự động phát ra những tần số âm thanh khác. Lập tức nó dùng càng to cắt đứt đầu đối thủ. Nói chung, loài vật đều có đuôi cả, tùy theo dài, ngắn, to, nhỏ, cụt đuôi nữa.

                  Mi Mi.- Ồ thì ra... cọng râu con kiến cũng “hoá thân” là cái đuôi tinh xảo anh nhỉ! Mấy loài khác, thì em thấy cái đuôi rõ rệt. Còn con ruồi, con kiến, khi xem trong discovery em ”nỏ thấy”. Con kiến có thể nâng một vật nặng gấp 50 lần trọng lượng của nó và nó luôn ngã về phía phải khi bị ngộ độc. Kiến không biết ngủ. Anh à, mỗi năm, số người chết do ong đốt còn nhiều hơn cả số người chết do rắn cắn. Vậy cái đuôi con rắn, thì có ở từ khúc nào nè anh?

                  Hoàng Năm.- Cái đuôi của con rắn, theo anh biết thì tính từ khúc cuối cùng của các đốt xương sống. Nghĩa là từ 1/5 đoạn cuối cùng của con rắn. Đặc biệt ở Thái Lan em đã chứng kiến người Thái biểu diễn màn xiệc rắn. Họ cho người đi du lịch “nhâm nhi” chút rượu thuốc ngâm rắn. Họ lại cho em sờ vào chỗ bộ phận sinh dục con rắn đực, nó chia ra làm đôi. Ổng nói ai mà sờ được chỗ đó đó, thì lucky lắm.

                  Mi Mi.- Em nhớ ra rồi. Hồi ấy thật thú vị, vui quá à.

                  Hoàng Năm.- Còn tính về con người "tiền kiếp"... thì cũng có “cái đuôi” ngắn tủn ngắn tỉn, như cục thịt thừa đó chứ em. Họ ưa chà đít xuống đá, để mài đuôi cho rụng đi. Nay mất gốc rồi. Vì mọi sự yêu thương truyền cảm, cũng từ “cái đuôi” mà phát xuất ra. Phải chăng đó là giây liên lạc mật thiết của con người không ha?

                  Mi Mi.- Anh nầy vớ va vớ vẩn. Bộ cứ “Nhân Chủng Học” là anh tin vào thuyết Darwin, thì loài người xuất thân từ loài đười ươi sao! Họ cũng có cái đuôi rất ngắn. Nhưng sau vài triệu năm, thì cái đuôi của loài người rụng đi?? ( Ah! Em lại tưởng tượng giống như con nòng nọc, con thằng lằng rụng mất đuôi!?). Rồi do cái thế đi đứng của loài người mình ung dung, hoàn hảo hơn, nên họ đứng lên, bắt đầu đi bằng hai chân. Chứ ngày xưa như trái đất, thì họ đi bằng bốn chân há?

                  Hoàng Năm.- Vậy ra, em là “cái đuôi” của anh rồi. Anh phải “bảo-trì” thật tốt, cái đuôi yêu dấu của anh nha. Từ nay anh sẽ chính thức phong chức cho em là: “Người quản-đuôi yêu dấu của anh”. Còn anh sẽ là NO của em: Nô nức. Nô đùa. Nô giỡn. Nô bộc. Nô tỳ. Nô lệ. Nô gia. Nô nhân. Nô dịch... No. No. No. Yes. Yes. Yes... của em suốt đời. Chịu chưa Mi Mi Nương nương?
                  Mi Mi.- Dạ vâng! Nhưng, anh cho em xin anh cái đuôi khúc giữa kia.

                  Hoàng Năm.- Ui Trời! Sao em khôn thế. Nếu em là cái đuôi của anh. Tất nhiên em là hiện thân tình yêu trọn vẹn duy nhất của anh rồi. Em đã trở thành cái đuôi, mà em còn đòi chọn khúc đầu, khúc giữa, khúc nầy, khúc kia nữa. Thôi xin em hãy bằng lòng làm cái đuôi lý tưởng của con rắn nha! Em biết anh tuổi “Tân Tỵ” mà! Thì rắn đi đâu cũng phải “tha” cái đuôi kéo lết đi theo. Đi đâu rắn cũng “có đầu có đuôi” kéo lê thê lòng thòng theo cùng. Hà gì em phải lo lắng, chọn khúc giữa cho ấm áp an toàn hỉ!

                  Mi Mi.– OK Salem!
                  Hoàng Năm.
                  - Yes. Amen!
                  ***

                  Tình Hoài Hương
                  Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-27-2017, 12:24 AM.
                  Bút trần nào tả được lưu luyến!
                  Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                  Tình Hoài Hương

                  Comment


                  • Con Tìm Hạnh Phúc Cho Cha



                    Con Tìm Hạnh Phúc Cho Cha


                    Bà Lùn đọc mấy chuyện khôi hài in trên tờ nhật báo đã ghi:

                    - Người tuổi Sửu hợp với người tuổi Ngọ, theo quẻ… “đầu trâu mặt ngựa”. Người hai tuổi này mà cưới nhau chắc chắn sẽ thành công, tấn tới, nếu cả hai vợ chồng cùng làm việc trong lĩnh vực xã hội... đen (đâm thuê, chém mướn).
                    - Người tuổi Tỵ rất khắc với người tuổi Dậu, theo quẻ là “cõng rắn cắn gà nhà”. Nếu hai người này cưới nhau về, thế nào người tuổi gà cũng bị người tuổi rắn cắn chết, không loại trừ trong lúc yêu đương bị đương sự cắn lầm.
                    - Người tuổi Mùi hợp với người tuổi Tuất theo quẻ “treo đầu dê, bán thịt chó”. Hai vợ chồng tuổi này chắn chắc sẽ làm ăn phát đạt, thịnh vượng, đặc biệt là trong lĩnh vực… buôn gian bán lận, lừa đảo.

                    Bà Lùn vui vẻ mỉm cười hân hoan nghĩ tới vị ân nhân cứu độ sẽ xuất hiện trong đời mình lần nữa. Sau một lần Lùn leo lên thuyền hoa cùng anh chồng trẻ làm tại nhà máy đường ở Cầu Ngang, vợ chồng đã có ba mặt con, một ngày u ám kia, anh chồng bỗng nhiên đột quỵ và ngoẽo. Ôi! Từ đó… thì cuộc đời Lùn chỉ sống trong bóng tối triền miên. Sau những tháng năm đất nước bị đổi đời, ngày ngày Lùn lội bì bõm ra kinh lạch bắt cua bắt còng; mồ hôi nhỏ tong tong xuống đầm lầy nương rẫy. Nhọc nhằn biết mấy mà kể!

                    Nay có người chú họ ở Mỹ muốn mai mối cho mình một tân lang. Tuy rằng chuyện ông ta phức tạp chút, khi chú thím (người đã làm mai mối) gọi phone méc, rồi hỏi ý bà Lùn:
                    - Cô có nên tiến tới với ông ta hay không, nếu cô đã nghe câu chuyện thật của ông ta đã xảy ra trên nước Mỹ: Trong một buổi lễ làm phép xác tại giáo đường Ontario, ông Phùng xấp xỉ 70 tuổi đã đứng trước quan tài của bà vợ quá cố; đầy đủ “bá quan” thương tiếc đi tiễn đưa bà Phùng đến nơi an nghĩ cuối cùng. Thì ông Năm Phùng cầm tờ giấy hôn thú (của hai ông bà)… Ông ta giơ lên cao, phe phẩy mấy lần, cốt cho tất cả mọi người nhìn, chú ý lắng nghe. Tự tay ông Phùng xé toạt tờ “giá thú” ra, rồi dường như giận dữ quăng xuống trên đầu áo quan, ông ta dõng dạc tuyên bố:
                    - Kể từ hôm nay, tôi chính là người rất sung sướng tìm lại được sự tự do, hạnh phúc và an nhàn sống đời độc thân đích thực.
                    Khiến cả nhà thờ xôn xao, xớn rớn… Họ nhìn ông Phùng ngơ ngác và sượng sùng... tím mặt vì cái: {“giá” của hôn thú muôn năm}.

                    Bà Lùn ngồi tần ngần hầu như bất động trên ghế dựa, bà nghĩ đến ông Phùng xa lạ trên xứ sở tột đỉnh văn minh, nghĩ lại thân phận hẩm hiu của mình, bà suy nghĩ miên man về việc nọ, việc kia… Ồ việc gì thì việc, mình cứ thuận theo lẽ tự nhiên, có duyên sẽ gặp, tới đâu hay tới đó, miễn sao mình có thể thoát ra cái xứ sở buồn nãn khốn khổ nầy, thì còn gì bằng!
                    * * *

                    Số là như thế nầy: Ông Năm Phùng, hồi xưa ổng ở Sài Gòn, gần nhà chú thím họ của bà Lùn; lúc xưa ông Năm Phùng đã có gia đình, sinh một bầy con khá đông đúc: 8 đứa con. Thế rồi... sau một năm ốm đau, thì bà vợ của ông Năm Phùng từ trần, để lại cho ông Năm Phùng gánh nặng là bầy con lút chút lít chít... đứa con út mới tròn mười tám tháng. Ngày ngày ông Năm Phùng cùi cụi tần tảo đi làm ở sở Nhà Đèn, để nuôi bầy con nheo nhóc. Thời gian năm tháng thấm thoát trôi qua, nay chúng đã lớn khôn và nên người... Điều đáng nói là mặc dù vợ ông chết. Thời trai tráng sung sức phong độ đến thế mà... lúc đó “anh ta” chẳng màn tơ tưởng tới chuyện vợ bé vợ lẽ gì cả! Thật là ngộ! Bởi vì bà vợ cả có đầy đủ công dung ngôn hạnh:

                    Không cắc cớ
                    Chửi chồng con
                    Không phấn son
                    Không nhiều chuyện

                    Không hà tiện
                    Không càm ràm
                    Phải siêng năng
                    Không lười biếng

                    Nói nhỏ tiếng
                    Biết chiều chồng
                    Giỏi nữ công
                    Và gia chánh.

                    Biết làm bánh
                    Nấu ăn ngon
                    Biết dạy con
                    Ứng xử tốt … (*)

                    Cho đến… sau ngày 30 tháng Tư đổi đời, thì ông Năm Phùng cho ba đứa con lớn vượt biên qua Mỹ. Năm 1985 ba thằng con có khả năng bảo lãnh cho cha cùng ít anh chị em ở quê nhà đến sống trên đất Mỹ. Ông Năm Phùng qua Mỹ dù tiếng Anh tiếng U cũng kha khá, thế nhưng ông muốn làm việc tay chân, tự do không gò bó trong văn phòng hay công xưỡng, việc ông đã từng trải là điều ông đại ghét. Nên ngày ngày ông Năm Phùng cặm cụi quần quật làm chủ trại gà nho nhỏ ở Ontario, và cắt cỏ tại mấy trường trung học... dành dụm tiền dư, phụ với mấy đứa con lớn, hầu bảo lãnh thêm những đứa con còn kẹt lại ở Việt Nam.

                    Khi con cháu qua hết bên xứ tự do nầy... thì ông Năm Phùng “xuân xanh” đã héo úa 70t. Ấy thế mà trông ông vẫn phong độ, to con "phốp pháp" khỏe mạnh... như ai! Ngặt một nỗi cho dù ông Năm Phùng có cả bầy con trai gái, dâu và rể, đông đúc sinh sôi nẫy nở ra thành mười tám đứa con, mười ba đứa cháu nội ngoại. Ấy dà! chúng nó nào có hơi sức đâu để lo cho cha. Gia đình riêng của chúng ăn chưa no lo chưa tới, vẫn chưa xong nữa là hiếu với thảo. Thành thử chúng không thể sớm hôm lo cơm nước chu đáo cho ông Năm Phùng. Chúng nó bèn họp nhau lại và bàn rằng:

                    - Ba nên về Việt Nam mà cưới bà vợ bé, trước là để bà dì nâng khăn sửa túi, sớm tối hầu hạ cho ba chén cơm ly nước. Sau nữa là có chỗ để ba và dì an ủi chia xẻ khi xế bóng lúc về già lụm cụm, thì hai cụ bớt cô đơn, quạnh quẽ. Còn chúng con dù rất thương ba, nhưng khi chưa có dâu hay rể… thì khác. Nay ai ai cũng có gia đình riêng, có nhiều ý kiến khác nhau như ba thấy đó. Chúng con mong ba thông cảm vì không có thì giờ lo chăm sóc ba cho xuễ.

                    Các con của ông Năm Phùng cứ nheo nhéo nói hoài nói hũy, nói mãi chuyện lập “phòng nhì” nầy… Ban đầu nghe con cái “xúi dại” ông Năm Phùng có ngượng ngùng chút xíu. Nhưng rồi suy đi nghĩ lại cũng phải! Ông cảm thấy trong lòng thinh thích và “hưng phấn” hẳn lên! Ông Năm Phùng nghe con "tụng" về chuyện "nâng khăn sữa túi" cho mình khi về già sống trên đất Mỹ cô độc, ông càng bùi tai và thấm thía cái cảnh cô đơn, phòng không gối chiếc lạnh lẽo suốt bao năm dài lê thê, cũng thật là da diết buồn.

                    Thế là ông Năm Phùng “trăn trở” xôn xao, băn khoăn hoài, ông mới đồng ý diện bộ áo quần láng cón, tươm tất, cùng bầy con trở về nguyên quán… để các con chọn cho cha một mụ vợ. "Phái đoàn" cha con dâu rể cháu chắt dắt díu nhau lên đường quay gót về Việt Nam; Họ quan niệm: Sống trên đất Mỹ, có sức chơi thì có sức chịu, có tiền bạc, là có hạnh phúc, chứ về tuổi tác chênh lệch quá xa tầm tay; thì cha hay con cháu... ai... "ai đông ke". Họ rủ rỉ bàn tán, cốt cho cha già nghe:

                    Lấy vợ không nên lấy vợ ù
                    Đêm nằm ôm vợ tưởng ôm lu
                    Rủi khi mà nó đè lên bụng
                    Bẹp xác ông chồng khóc hu hu
                    . . .
                    Lấy vợ nên kiêng vợ móm răng
                    Giận con lè lưởi tựa bà chằng
                    Tiệc tùng rủi gặp bò nhúng giấm
                    Mắc nghẹn có ngày té ngã lăn
                    . . .
                    Lấy vợ nên kiêng lấy vợ hô
                    Hàm răng lởm chởm nói bô bô
                    Rủi khi bà giận ôm chồng cắn
                    Đổ máu phu quân chạy thấy mồ
                    . . .
                    Lấy vợ không nên lấy vợ ghen
                    Áo quần lúc giận xé teng beng
                    Rủi hôm cao hứng chồng về trể
                    Đập chén quăng ly, vở cả đèn … (*)
                    * * *

                    Thế rồi một ngày đẹp trời kia... các con và "cụ nhà ta" đã chọn được một "công nương ỏn ẻn" tuổi ngoài “năm mưi mí” xuân... thu (chưa nhị tì). Ông Năm Phùng khi ấy suýt soát “song thất 77” cập kê... Qua “bà mai non” môi giới là con bé Hà, thì đám cưới ở làng quê trên kinh Tư kinh Tám đã linh đình nổ ra ba đêm bốn ngày... Náo nhiệt vui vẻ ồn ào tưng bừng hết biết...

                    Sau đó "phái đoàn cha con chồng vợ" từ giã làng trên thôn dưới; nơi kinh Tám lặn lội qua kinh Tư, hai họ lưu luyến ôm chầm lấy nhau hôn hôn hít hít. Họ nhà gái ngồi trên mạn thuyền bùi ngùi trào lệ, giọt ngắn giọt dài rơi tủm tủm xuống dưới sông đào kinh lạch... để tiễn đưa “bà dâu” lỡ thời tới nơi đất khách tha phương cầu thực!

                    Bà vợ trẻ tên Lùn của ông Năm Phùng đã ở một nơi "sông nước triền miên" sóng vỗ bập bùng bên mạn thuyền; Ngày nay một bước bà leo tọt lên xe hoa, bàn chân nứt nẻ còn ướt nhẹp chưa ráo hơi mùi bùn, bà Lùn cảm thấy “hãi” và e dè chấp chới đôi tay như mọc cánh, bàn chân run run khi tụt xuống máy bay ở Los, bà đã tới nơi chốn văn minh và giàu sang tột đỉnh của xứ "cờ Hoa" ngợp trời! Bà ta lõ mắt nhìn xứ Mỹ mà ngẩn ngơ! Thật sung sướng và mở toác hoác cả tất lòng!

                    Trong lòng bà cũng cảm thấy áy náy hoang mang lo lắng, buồn phiền. Bà chỉ biết dựa vào vai vế chồng và bầy con ghẻ. Ngày ngày bà ta ríu rít chăm chỉ phụng sự đức ông chồng già chu đáo như con lo cho cha… Bà "hầu hạ nâng khăn sửa túi" cho đức ông chồng lý tưởng... tuyệt vời của mình. Dĩ nhiên ông Năm Phùng hãnh diện vui mừng đem bà vợ trẻ đi đây đi đó (bà nhỏ hơn ông những mười chín tuổi chớ bộ! Bà ta chỉ lớn hơn con đầu lòng của ông ba bốn tuổi). Ông cho bà đi để biết xứ Mỹ bao la giàu sang văn minh tự do và rộng lớn thế nào... Đi đâu ông Năm Phùng cũng sung sướng hớn hở khoe khoang với bà con bạn bè về bà vợ quý! Cả hai vợ chồng một già một trẻ sướng rơn người vì những lời hoan hỉ chúc tụng... của bạn hữu và thân nhân đã sống trên đất Mỹ tự do. Thiệt là đúng:

                    Vợ là biển rộng bao la
                    Vợ là hương lúa đậm đà tình quê
                    Vợ là gió mát trưa hè
                    Vợ là hơi ấm thổi về đêm đông.

                    Vợ là chỗ dựa cho chồng
                    Nhiều ông dám bảo vợ không là gì!?
                    Khoan khoan hãy nghĩ lại đi
                    Vợ quan trọng lắm không gì hơn đâu.

                    Việc nhà vợ có công đầu
                    Nấu cơm, nấu nước, rửa rau, pha trà.
                    Vợ là máy giặt trong nhà
                    Vợ là Cát-sét Vợ là Tivi. … (1)


                    Ở Mỹ hai vợ chồng trẻ già hạnh phúc đầm ấm gần sáu tháng, thì bà Năm (người ta vẫn gọi bà qua tên thứ của chồng, thay vì gọi tên cúng cơm của bà )... bà Năm sớm mở trí tuệ ra để học đòi “văn minh tiến bộ của loài người” rằng thì là… bà nằn nặc đòi ông cho bà đi ra ngoài xã hội làm việc, để phụ thêm các khoảng bills (khi tái hôn thì vợ chồng ông ra riêng, không ở chung với con cái). Vì tiền chính phủ Mỹ cung cấp cho người hưởng SSI của ông chỉ khít khao, vừa vặn. Nói trắng ra phần tiền già của ông bây giờ bị Liêng Bang, rồi bị Tiểu Bang thâm thủng ngân sách trầm trọng, đã cắt xén của ông khá nhiều.

                    Đã vậy nay ông phải “bao” thêm cái ở, cái ăn, cái mặc cho bà, thì ông Năm Phùng càng cần kiệm, sẻn so lắm là cái chắc, mới đủ chi dùng cho hai người. Ông nghiến răng cái còn cái mất mà không dám hở môi, e thiên hạ chê cười. Giấy rách phải giữ lấy lề mà! Và... và nếu bà có đi làm việc, thì bà sẽ có tí đỉnh tiền còm gửi về Việt Nam cho con riêng chứ! Dù gì bà cũng là vợ của ông Năm Phùng có quốc tịch Mỹ mà!

                    Thế là... ngày ngày đêm đêm ông Năm Phùng nghe bà vợ “ra rả tụng” bên mang tai suốt, dẫu có nặng tai lễnh lãng cách mấy, ổng nghe hoài cũng muốn điếc con ráy; thiệt là chịu hổng nỗi. Thật tình mà nói thì ông không muốn vợ đi làm thêm... Nhưng không muốn cũng không xong với bà! Ngày ngày bà ta cứ lẽo đẽo bu ở sau lưng ông ì xèo nói dai, nói dẽo, nói khéo ơi là khéo... khiến ông Năm xiêu lòng (vã lại ông Năm Phùng đã xiêu lòng mát dạ, mát ruột mát gan lên chín từng mây từ khuya, khi ổng hăng hái rước bà dìa dinh rùi mà).

                    Ông Năm Phùng và bà vợ xồn xồn đủng đỉnh leo lên mấy trạm xe bus, đích thân ông Năm Phùng đi xin cho bà ta một chân phụ việc trong bếp của một nhà hàng ăn Việt Nam. Kể từ ngày bà Năm hớn hở đi làm việc, bà rất xông xáo, vui vẻ, hoạt bát và "cởi mở" hẳn lên. Ban đầu, khi đi ra ngoài xã hội hầu gánh vác bớt phần trách nhiệm gia đình, thì bà Năm còn "vén khéo" chu tất cái “bổn-phận-sự” và cái “trách-nhiệm-vụ” trong việc về nhà bà vẫn nâng khăn sữa túi, cơm nước giặt giũ, săn sóc đấm bóp cho ông chồng lão đâu ra đó hẳn hoi. Và, và... chưa tới tám tháng sau, kể từ ngày bà Năm "rứt áo ra đi” lăn lóc ngoài xã hội với bạn với bè, thì quỷ thiệt chớ! tất cả suy nghĩ, trí óc bà “phát triển theo kiễu bình đẳng tự do Mỹ”, … thì thì… mọi chuyện trong gia đình nầy đã “chuyển hệ; chuyển tông” quay ngược lại 100%.

                    Bây giờ… Đêm đêm ông Năm Phùng trằn trọc trăn trở trên giường ấm nệm êm, êm mà như gai đang đâm vô lưng, trùm kín thân thể nhưng sao từ đầu đến chân ông vẫn cảm thấy lạnh lẽo lạ thường; vì bà vợ “nhọc nhằn” tần tảo kia nằm ngủ đã gác hai cái giò co lên gần chạm ngực ông, mà bà ta vô tư lự ngáy o o… to hết biết. Ông không thính tai lắm, nhưng “cái loa kèn” nó chĩa ngay vào bên mang tai thế nầy, thì làm sao ngủ ngáy gì cho vô được. Hỉ?

                    Đêm không mấy khi yên giấc, sáng sáng ông dậy rất sớm tập thể dục (ông ráng đi bộ tập tí thể thao, cho tráng kiện và giữ gìn sức khỏe chớ). Thú vui duy nhất của ông Năm Phùng là coi ti vi, coi bóng đá và nghe tin tức đó đây, là thú vui tao nhã duy nhất. Vậy mà ông đành khất lần khất hồi... vì ba cái chuyện nhà lu bu bận bịu không tên, nó đang từ từ lấn chiếm mất thì giờ ít ỏi quý báu còn lại rồi! Ông Năm Phùng trầm ngâm lủi thủi cô quạnh đi ra đi vô trong nhà lo hút bụi, giặt giũ, làm vườn.

                    Sau đó ông Năm Phùng lúi húi vô bếp nấu nấu, chiên chiên, xào xào, chu tất việc “nội tướng”. Phần ăn nào ông để lại nhà cho chính mình dùng bữa trưa và tối. Phần ăn nào ông để dành cho "vợ trẻ yêu gấu", thì ông lo cơm lồng nước xách, đem ra tận xe. Bà Năm đi nhờ xe hơi cũ của ông bà hàng xóm, ông kia chở bà Năm đi làm từ tửng bưng sáng, đến tối mịt tối mù ông Năm Phùng lại khập khễnh, lò mò ra đầu ngỏ, rước bà Năm lững thững uể oải về.

                    Về đến nhà, bà Năm vội tắm rữa và leo lên giường, trước khi ngủ, bà luôn nhờ ông dùng dầu nóng của Tàu, hay icy Hot Cream để thoa thân, đấm lưng bà. Ông Năm bóp hai chân vợ, hai tay vợ đều chi, dù bàn tay ông gân guốc đã mỏi rã rời… như muốn rụng từng lóng. Vì, bà Năm làm việc khá vất vả, nên khi trở về trong gia đình bà luôn mồm than:
                    - Tui quá đau nhức xương sống, mỏi chân mỏi tay, mệt vô cùng!

                    Chuyện rước nàng dìa dinh để BÀ "hầu hạ, nâng khăn sữa túi" cho ông ấy, ngày nay thì xưa rồi Dĩm... Diễm ui …á à ông bà Năm Phùng ui. Hồi trước khi bà vợ vừa chết, khi ông Năm Phùng còn “độc thân già nơi đất khách quê người”, ông Năm Phùng sống ở Mỹ phơi phới, khỏe mạnh, vui tươi, ông cảm thấy mình trẻ trung với con cháu biết ngần nào. Nay thì ông Năm Phùng ôm cái đầu hói lơ thơ vài cụm tóc bạc mà đọc thơ:

                    Khổ thân cho kiếp “con trai”.
                    Một lần lấy vợ bằng hai lần... mù.
                    Lưng thì mỗi ngày mỗi gù.
                    Cày ba bốn jobs để... bù nàng tiêu.

                    Ngày trước nàng dạ nàng thưa...
                    Nói năng dịu ngọt cho vừa lòng anh.
                    Anh tưởng hoa ở trên cành.
                    Bao giờ cũng đẹp, tươi xanh bốn mùa.

                    Lời nói không mất tiền mua.
                    Nên anh... ngọt lại cho vừa lòng nhau.
                    Bây giờ chẳng hiểu vì đâu.
                    Nàng mang chứng bệnh cứng đầu lặng câm.

                    Còn mặt thì cứ hầm hầm.
                    Nàng trợn một cái, ta... bầm mấy hôm.
                    Việc nhà chẳng chịu trông nom.
                    Shopping một bận, ba hôm mới về.

                    Nhà thì đang ở nhà thuê.
                    Phòng ốc chật hẹp, bốn bề ngổn ngang.
                    Muốn tìm đôi vớ mà mang.
                    Phải mất cả tiếng bươi ngang đồ nàng … (*)
                    ***

                    Một ngày kia, bà Lùn đã cương quyết theo mấy bạn đi New York, vì có người phụ bếp đi mở nhà hàng. Ông không thể ngăn cản, đã trầm ngâm ngồi trước bàn viết:

                    Em quý mến
                    Hôm nay anh sẽ giải bày tâm tư tình cảm và nguyên nhân vì sao anh muốn chúng mình sống bên nhau, cũng như phương hướng tương lai về cuộc sống sau này của đôi ta. Em đọc kỹ, có thắc mắc gì cứ thẳng thắn cho anh biết. Anh sẽ giải đáp rõ ràng.

                    Thứ nhất: Cuộc sống của anh trước khi gặp em. Sau khi anh mất người vợ cũ, qua đây anh sống cô đơn một mình. Lúc ấy, có người bạn định giới thiệu cho anh một bà 63 tuổi có nhà tại Virginia, bà ta còn đi làm Part time, có lương hưu khoảng $1,400.00 một tháng. Lý do ở xứ lạnh xa xôi & anh không hợp, và bà ấy có tài sản. Anh không liên lạc, vì anh biết có trở ngại trong việc chung sống. Nếu lấy nhau thì anh sẽ bị cắt tiền già, và Housing, (vì bà ấy có căn nhà). Do đó anh vẫn sống một mình cho tới nay.

                    Thứ hai: Tài chánh: Mọi chi tiêu anh đều dựa vào số tiền già ít ỏi ($845.00 một tháng) và những món quà chi viện lai rai của hai bà chị, các cháu, (đặc biệt là cháu Khôi gọi anh là bác ruột; là bác sĩ đang tập sự năm thứ tư). Cháu Khôi thường cho anh tiền đóng bảo hiểm xe mỗi năm hai đợt, cộng chung khoảng bảy tám trăm. Anh không có số nhờ con, chỉ có cậu con lâu lâu cho anh vài trăm vào ngày Father Day, Giáng Sinh, Tết Nguyên Đán...

                    Thứ ba: Trước khi gặp em, những năm tháng gần đây anh trải qua một vài trận cảm cúm, có khi phải nằm bẹp trong nhà vài ngày, không có người nấu cho chén cháo để ăn. Anh bắt đầu suy nghĩ rằng: anh cần có một người vợ sống chung cùng săn sóc lẫn nhau, khi trái gió trở trời trong cái tuổi hoàng hôn này. Người này phải có tiền già căn bản, nếu già quá thì thiếu sức khỏe, trẻ hơn thì chưa đủ tuổi hưởng tiền già. Lúc đó anh nghĩ: Người anh chọn phải biết làm thơ, có học vấn ít nhất đã bước chân qua ngưỡng cửa đại học, có sức khỏe, sắc đẹp trên trung bình (good looking) tánh tình thành thật, biết cư xử, yêu thương và quý trọng lẫn nhau, có tiền già làm căn bản. Ngoài ra cần hạp nhau về sinh lý.

                    Thứ tư : Tình cờ anh gặp một bà tại buổi họp bạn, qua trao đổi một số câu chuyện về chiến tranh VN, về cuộc sống của lính thời chinh chiến, anh cảm thấy mình rất cảm thông với TV và dễ nói chuyện. Anh cảm nhận rằng hai người càng tâm đồng ý hợp, càng gần gũi nhau hơn, rất hợp nhau mặt này. Anh suy nghĩ rất nhiều và thấy rằng người ấy chính là người vợ anh cần có, để chung sống hết phần đời còn lại. Về mặt kinh tế gia đình nếu chúng tôi sống chung với hai đầu lương tiền già, cộng thêm với sự chi viện lai rai của họ hàng, anh nghĩ tần tiện cũng đủ sống. Đó là chưa kể về mặt chi viện tài chánh phía bên người ấy, nếu có thêm càng tốt. Qua những thảo luận gần đây, chúng tôi phải đương đầu với một thực tế khó khăn, đó là vấn đề của nàng.

                    Muốn đi đến chỗ sống chung, việc trước hết là cả hai bên phải tự do, hoàn toàn không bị ràng buộc bởi hôn thú với người phối ngẫu cũ trong khi tuổi đời ngày thêm chồng chất. Lòng anh luôn duy nhất có một phương hướng tương lai là chúng tôi cần có nhau suốt cuộc đời này. Chúng tôi cần gặp nhau thảo luận và tìm giải pháp giải quyết mọi nan đề đang gặp. Lòng anh vẫn tràn đầy, dường như chưa nói lên được hết những gì anh muốn nói với nhau. Thế nhưng em đã ra đi khỏi cuộc đời.

                    Em thương, anh xin lỗi em vì những dòng thư vừa qua, đã làm em buồn và gây tổn thương. Trong khi chúng ta tranh cãi, cả hai bên cũng có lúc quá lời. I am so sorry about that ! Mong em đừng buồn anh. Anh không bao giờ có ý định muốn xa em. Anh rất vui thấy em "chưa bao giờ có ý vĩnh biệt anh". Còn chuyện đến với nhau, bình tâm mà nói là do cả hai chúng ta, không thể nói là hoàn toàn do em chủ động. Anh sai rồi, không phải đó là một nhu cầu thường xuyên. Đến tuổi này thì không ai có thể đạt tới... Anh nghĩ chúng ta cứ dành thêm thời gian để suy ngẫm, sắp xếp công việc rất khó khăn, tế nhị đang phải đương đầu với thực tại. Tạm thời cứ giữ như vậy. Sau này sẽ tùy theo sự diễn biến công việc, rồi chúng ta sẽ thay đổi đường lối sau nhen.

                    Cám ơn em đã lo lắng cho anh về cái bệnh quái ác này. Thật không ngờ cuối đời lại gặp phải tai ương hiểm nghèo như thế. Cách chích thuốc cho vi trùng cancer ngủ yên, anh thấy có người đã làm và sống cho đến giờ được 5 năm, mà cũng đi lại được, dù là sức đề kháng yếu đi, nên dễ bị cảm cúm, đau nhức không tránh khỏi. Cách này vẫn tốt hơn là "mổ". Nhiều người cao niên mổ xong người yếu hẳn đi, có khi phải nằm một chỗ nhờ gia đình săn sóc. Và sau vài năm thì qua đời. Anh cũng bị nhức khớp xương đầu gối bên trái. Nhiều khi đi đứng rất trở ngại. Bác sĩ nói bệnh già phải chịu thôi. Sau này nếu đau quá, thì phải thay khớp đầu gối bằng thứ kim loại. Thứ này có người hạp, có người chỉ dùng được một thời gian mấy năm thôi. Nghe bác sĩ nói nhiều mà chán ngán cuộc đời. Tới đâu hay đó, biết đâu mà tính trước em à. Trời kêu ai ngưới ấy dạ. Già rồi, đành vậy thôi.

                    Medicare, MediCal dạo nào cắt nhiều thứ, nên các hãng bảo hiểm gây khó khăn cho người thụ hưởng. Tiền già đã cắt giảm hai lần, thuốc men chữa bệnh thì không cho Brand Name, thay bằng thuốc Generic kém công hiệu hơn. Không cover chữa răng, và không cho làm kính như trước đây nữa. Đủ thứ nhức đầu. Việc anh giải phẫu mắt nay tạm ổn. Chờ ngày 12 tháng 1 anh tái khám. Phải tháng Ba anh mới làm kính đọc sách. Bây giờ chỉ mang tạm kính lái xe thôi. Phần anh bệnh tật nay tạm thời nằm yên vì thuốc men điều trị còn hiệu lực. Chưa biết ngày nào nó lại tái phát.

                    Có một điều mình không níu kéo lại được, đó là tuổi già sức yếu mỗi ngày xuống rất nhanh. Và cứ sau mỗi trận đau ốm, thì sức phục hồi chẳng được bao nhiêu. Vấn đề Prostate vần còn là nan y đang tiếp tục Xạ Trị (Radiation), có lẽ cuối tháng 2 sang năm, bác sĩ mới cho biết kết quả. Nếu xạ trị không hết, thì phải chích thứ thuốc mới làm cho chỗ cancer "ngủ yên", không hoạt động một thời gian. Sau đó tiếp tục theo dõi, khi nào thấy nó sắp "thức dậy", thì chích tiếp cho nó ngủ lại. Đây là phương pháp điều trị cancer mới nhất, các bệnh viện đang áp dụng cách điều trị này.

                    Cám ơn em đã chia sẻ tâm tình với anh. Anh chỉ mong sức khỏe phục hồi được 70% của hôm trước, cũng mừng lắm rồi. Anh nay đã vào tuổi yếu thật sự. Được bình an mỗi ngày thấy ánh mặt trời và trò chuyện với em cũng đủ vui thôi. Ở đời chuyện hợp tan, tan hợp, gặp rồi lại xa không tránh khỏi. Vì cuộc sống của các con cháu của em, em đành phải xa anh, đó là ý của Thượng Đế an bài. Chúng ta nên dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa ban phước lành cho các con cháu có cuộc sống tốt đẹp hơn trong tình thương của Ngài. Sống tạm hay về cõi vĩnh hằng cũng là theo ý Thiên Chúa.

                    Những ngày còn lại chúng ta nên sống tốt, an bình theo lời Chúa dạy thương yêu và vị tha, cuộc đời sẽ có ý nghĩa hơn. Anh nghĩ mấy năm nữa tình hình kinh tế tại Hoa Kỳ sẽ thoát khỏi tình trạng suy thoái và đi lên, lúc đó thì em, con và các cháu sẽ có điều kiện về Cali sống bên đại gia đình mình, như mong ước. Như vậy tuổi già của chúng ta sẽ vui vẻ và hạnh phúc.

                    Chuyện tuổi già là quy luật của tạo hóa có sinh thì có lão, có lão thì có bịnh, có bịnh thì có tử. Chúng ta không sợ chết. Chỉ mong sao được trút hơi thở cuối cùng một cách nhẹ nhàng, không đau đớn, không làm vướng bận đến người thân. An bình về nước Chúa. Cám ơn em đã thăm hỏi và chia sẻ về việc mất xe. Xe anh đậu ở Parking của Building các bác sĩ bên cạnh nhà thương Garden Grove. Xe có khóa alarm, nhưng chỉ sau một tiếng rưỡi đồng hồ khám bệnh là mất xe. Nay thì cảnh sát đã tìm được nó vất ở Orange County. Bảo hiểm đã tow xe về Shop sửa chữa và sẽ trả hết mọi chi phí về chuyện sửa xe và mướn xe mỗi ngày cho anh đi lại.

                    Em nói đi xem lễ cùng anh chị Lộc thì xe bể bánh, là xe nhỏ hay xe trailer? Thay bánh xe mà sao lâu thế nhỉ. Hôm qua anh bận chạy đi tow xe về Repair Shop, và nói chuyện với Police ký giấy nhận xe. Deal với bảo hiểm về chuyện sửa xe. Trước khi ra khỏi nhà, anh quên không tắt máy computer, cứ online hoài. Công việc nhà hàng bận rộn thật tội em quá. Mai này anh sẽ không để em vất vả nữa đâu. Chuyên đời thật khó mà tính trước, luôn có những biến cố xảy ra bất ngờ làm cản trở con đường tính sẵn. Tuy nhiên nếu ta vạch một con đường cho hướng đi, thì có vòng vèo rồi cũng sẽ đi tới La Mã. Phải không nào!

                    Chiều nay anh đi gặp Housing Specialist tại văn phòng, bà này gốc Mexico già, không đẹp nhưng khá tử tế. Bà ấy ngạc nhiên thấy anh copy sẵn các thứ giấy tờ, và kèm theo bản chính để đối chiếu, xếp mỗi thứ một folder riêng. Bà ta chỉ việc lấy bản copy là xong. Vừa làm bà vừa nói chuyện vui vẻ. Chuẩn bị thì lâu, nhưng khi làm việc thì chừng 20 phút là hoàn tất mọi việc. Như thế kể như xong Step 1. Ngày 22 tháng 9 là Step 2 inspection nhà nữa là xong, thường công việc này do một cán sự khác làm.

                    Anh thích chỗ anh Đồng có tiện nghi với những ưu điểm: mát mẻ, khang trang, an toàn, gần sát chợ và khu trung tâm Litle Saigon mua đồ và đón xe bus. Rất thuận tiện cho các vị nội trợ giỏi về gia chánh thích nấu nướng như em. Tuy nhiên, anh sẽ dọn nhà đi để đón em về chứ, như là món quà mừng em trở về muộn. Vấn đề Deposit thì ở đâu chẳng có, anh đang deposit $1,400.00. Anh phải coi lại nhà nầy vài lần, xem mấy cái Bills về tiền Gas, Điện, nước, phone xem sao, chưa kể có nơi đòi tiền Rác và Landscape nữa. Đây là khu Apartment chứ không phải MobileHome. Anh tính ngoài Tết Tây sẽ move. Anh chỉ tiếc bộ máy giặt và sấy ở nhà cũ còn quá tốt.

                    Chuyện trộm cướp tại xứ này xảy ra hoài. Cho anh gửi lời chia xẻ cùng anh chị Lộc nhé. Những tên trộm rất kinh nghiệm và chuyên nghiệp tránh được camera và alarm rất tài tình. Đó cũng là chuyện buồn xảy đến với gia đình họ. Anh rất buồn thấy em sức khỏe không được tốt như ngày em ở Cali. Có lẽ đổi về nơi nắng ấm may ra giúp em bớt phần đau nhức, hơn là nơi xứ lạnh em đang ở. Nếu em về VN cưới vợ cho con, em nên lợi dụng dịp này tìm thầy Lang Đông Y danh tiếng, nhờ trị bệnh đau nhức, phước chủ lộc thầy; may ra khỏi bệnh.

                    Anh nghe nói có mấy người bệnh đau nhức khá nặng bên Mỹ chữa không khỏi, thế mà về VN uống thuốc Bắc mà lành bệnh. Gặp cơ hội, em cứ thử xem nha. Vấn đề đau nhức xương của em có lẽ em bị "rỗng xương". Em cần uống Calcium hàng ngày, ăn những thứ có calcium như sò biển, tôm cua, ốc v. v... Nhớ em đừng bao giờ để bị té. Vì té dễ bị gẫy xương lắm. Anh luôn cầu chúc em luôn được bằng an trong sự che chở của Thượng đế. Mong em có sức khỏe để trở về bên anh, sớm hưởng phước cùng con cháu, bình an trong tâm hồn cũng như trong cuộc sống. Một lần nữa anh cám ơn em đã quan tâm tới sức khỏe của anh, chia sẻ tâm tình cùng anh.

                    Anh rất nhớ em, có biết không cưng? từ ngày chúng mình có nhau, anh như kẻ mất hồn, lúc nào cũng nhớ tới em và tơ tưởng đến em đáng yêu của anh. Nhiều lúc thấy cũng buồn! Tại sao cuối đời mình lại cô đơn thế này! Không lẽ ông trời bắt chúng ta cứ sống cái cảnh xa nhau như vầy mãi sao? Em thương, bây giờ là 9 giờ kém 15’ anh viết thư này cho em. Tối nay em về trễ, lúc đó có lẽ anh tắt máy đi ngủ rồi, vì khác múi giờ. Ngày mai… em tính hộ anh xem có giải pháp nào tìm lối thoát không em nhé? Bây giờ để em đi nghỉ sớm, cả ngày em vất vả rồi. Phần anh gõ mail nầy từ lúc 8:AM mãi tới 6PM mới có thể gởi thư đi.

                    Em đừng cười nhạo anh vẫn có tính đa tình và giàu tình cảm (dù anh đã già nhen, anh tuy già nhưng tâm hồn trẻ trung như thuở còn xanh mái tóc, em ạ). Vì, em phải tự tin rằng em có nhiều ưu điểm làm anh yêu em say đắm, và em có bản lĩnh cột chân anh lại. Hạnh phúc nằm trong tầm tay em, do những thứ em có mà người phụ nữ khác không có. Em là người tuyệt đối trong ngôi vị nữ hoàng tình yêu trong lòng anh. Em thật sự rất xứng đáng là người anh chọn. Đừng ủy mị và chán nản, đừng bao giờ bỏ cuộc nha em. Hãy tin chính mình, tin người mình yêu. Hôm nay anh ngồi ăn cơm một mình nghe gió chớm đưa cành lá rì rào mà lòng bỗng bâng khuâng nhớ em thật nhiều... Ước gì có em bên anh lúc đó... Cuối mùa xuân buồn nhưng thật đẹp em ạ... vậy sao lòng anh cứ nhớ thương ray rứt, như những kẻ yêu nhau mà chưa được gần nhau...

                    Hôm nay mưa lại về
                    Nắng nhuộm vàng trên đê
                    Làn mây bay nhè nhẹ
                    Chiếc lá rơi bên hè.

                    Anh ngồi đợi tin sương
                    Tà áo ai trên đường
                    Bỗng dâng lên nỗi nhớ
                    Gọi tên nàng hoài thương...

                    Chúc em ngủ ngon.
                    Anh của em.
                    Trọng Phùng
                    *

                    Tình Hoài Hương

                    (*) Thơ lượm lặt
                    Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-25-2017, 09:14 PM.
                    Bút trần nào tả được lưu luyến!
                    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                    Tình Hoài Hương

                    Comment


                    • Tháng Tư Gãy Gánh Gươm Đàn



                      Tháng Tư Gãy Gánh Gươm Đàn


                      Bầu trời xanh lơ điểm những hoa mây trắng qùy gối trên mặt hồ Xuân Hương sáng loáng như tráng men, rồi mây kéo lê thê bay vắt qua sườn đồi buồn thiu, mây lang thang trên con đường mòn đất đỏ vắng tanh, mây bò lên sườn dốc đầy cỏ vàng úa. Trong vùng sương mù và mây trắng xóa đó, tôi an phận đi và về giữa tiếng tíu tít và giọng cười nắc nẻ của các cô gái lí lí lắc lắc đang vui tươi ôm cặp đến trường. Những tà áo dài trắng hòa với sương mai mờ mờ, lung linh quyện lẫn vào nhau trong màn sương mênh mông. Mây và sương ru tôi vào mộng tưởng hoài mong luyến nhớ vô vàn. Cái lạnh cuối xuân mơn man lành lạnh ơn ớn len lén bay về, làm tê tê bờ môi vụng dại, khiến hai gò má phụ nữ và trẻ em luôn ửng hồng, màu hồng tự nhiên do trời ban không hề tô son trét phấn, thế mà họ vẫn xinh.

                      Ngày ngày vẫn bình an, ung dung vui vẻ từ nhà đi trên đường quen thuộc đến nơi dạy học, tôi cảm thấy lòng mình ấm lại những niềm vui. Chồng tôi (Luật) phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hạnh phúc đơn sơ ấy chẳng được bao lâu, thì lịch sử Việt Nam đang còng lưng vác trên vai những tang thương đau đớn, dày vò, bi thảm tàn khốc nhất trong cuộc chiến tranh hung tàn. Ngoài xa, xa mãi tận hướng Du Sinh, hay Suối Vàng thì phải, từng hồi pháo-kích đì đùng nổ rền trời. Khói đen nghịt kéo theo mùi cháy khét tởm lợm, cùng sức nóng rợn người. Sương muối mù mù nặng hạt còn thấm ướt mái tóc, khi tôi đứng lớp giảng bài, thì Luật hớt hải chạy đến giữa những khung cửa kính kêu rè rè, bể loảng-xoảng, nâng nỗi khiếp sợ lên giếng mắt nhau. Có điều gì lo nghĩ đắn đo phiền muộn hay sao, mà khi anh nhìn vào mắt tôi, Luật đã vội vàng cụp mắt xuống, chơm chớp hai giọt mọng nước và lãng tránh quay đi, anh lí nhí báo tin động trời chẳng lành:

                      - Mười ơi! Có lệnh từ thượng cấp cho ông già bà lão, phụ nữ, trẻ con di-tản gấp. Còn toàn thể quân nhân, cảnh sát, nam công chức, thì tuyệt đối phải tử-thủ tại Đà Lạt.
                      Tôi nghe Luật báo tin ấy, cảm thấy rụng rời, bàng hoàng như sét đánh ngang tai. Tôi sực nhớ đến chuyện động trời: ngày 9 tháng 3 năm 1974, tại trường Tiểu-học Cai Lậy có loạt đạn 82 ly nổ rền. Ôi! Coi trên truyền hình có đoạn thời sự đã chiếu đi chiếu lại: thấy hằng trăm trẻ em vô tội chết đau đớn thảm thiết, thương tâm xiết bao! Bỗng dưng tôi lại nhớ vào khoảng năm 1973 có một thời người ta ùn ùn leo lên núi Lâm Viên để: xin nước của Phật Bà ban phước cho bá tánh, hầu trị tà ma, bình an, hay bệnh tật. Bà chị ruột của tôi đã đi. Và nữa… một số thị dân Đà Lạt nhiều người truyền tin cho nhau rằng: “Từ những cánh rừng xa hun hút, suốt ngày đêm đã xuất hiện nhiều đàn sâu róm nối đuôi nhau lũ lượt kéo xuống biển. Sâu róm chết la liệt trên đường (lúc băng qua đường). Những xe khách, xe đò, xe nhà đi từ Đà Lạt xuống Phan Rang… đều thấy”.

                      Tôi không biết chuyện tiên tri về đoàn sâu róm, và đoàn người sống trên đời lố nhố bỏ núi rừng băng đường vượt sông ùn ùn ra biển, thực hư ra sao. Tuy nhiên tôi tin rằng nếu ai đã từng sinh sống ở vùng Cao Nguyên thời ấy, đều biết, hoặc nghe rõ về chuyện Phật Bà hiện lên chỗ nọ chỗ kia, có cả chuyện mặt trời xoay quanh phụ nữ tiên mặc áo lụa trắng, thắt lưng xanh, tay bế hài nhi đứng trong vầng mây ...và đoàn sâu róm nườm nượp đi xuống biển.

                      Bây giờ tôi chưa biết tình hình náo động nầy sẽ ra sao, khi ôm nhau chạy về nơi vô định, nên càng run sợ tột cùng! Phải cho các em học sinh dọt lẹ mà thôi. Tôi thều thào dặn-dò học sinh thu dọn sách vỡ, lo chạy nhanh về với gia đình. Trong trường tôi có cô Phùng dạy sát bên vách lớp của mình. Phùng xin tôi cho vợ chồng và đứa con nhỏ đi theo. Vợ chồng tôi đồng ý cho họ đi nhờ xe nhà của tôi về Nha Trang. Vì Phùng không có phương tiện di chuyển, mọi ngả đường bộ về hướng Định Quán đi Sài Gòn đã bị bế tắt. Chính phủ đang trưng dụng hàng không dân sự, để làm những việc hữu ích cấp bách rất cần khác. Duy chỉ còn quốc lộ chính từ Đà Lạt xuôi về miệt Phan Rang, Nha Trang, Phan Thiết: là có thể chưa bị mất. Không có xe đò còn chỗ chở khách, vì họ bận chở thân nhân; nếu ai may mắn lắm, hoạ may chủ xe cho lên ngồi trên mui, nhưng giá tiền một người đắt gấp mười lần giá tiền thường ngày. An toàn nhất là ngoại trừ ai có xe nhà.

                      Vợ chồng tôi vội leo lên chiếc Peugeot 404 của mình chạy về nhà. Đồ đạc trong nhà đầy dẫy! Tôi lính quýnh quờ quạng run rẩy không biết nên lấy thứ gì? Làm sao có thể gom đi cả gia tài đã dành dụm suốt đời người trong chiếc xe bé tí xíu? Luật la:
                      - Nhanh lên em. Bỏ của chạy lấy người. Còn người còn của mà. Mẹ, em và các con, cứ lo đi trước đi. Anh ở đây sẽ tìm cách gửi từ từ những thứ cần thiết theo xe đò xuống Nha Trang, gửi ở nhà anh Trí tại Cam Ranh, hoặc gửi ở cô Oanh, cho mẹ con em dùng sau.

                      Trong khi chờ đợi tôi thu xếp hành trang, Luật kiểm soát xe cộ, đi châm xăng, dầu nhớt vào xe hơi đầy đủ. Tôi dặn dò các con thu xếp gọn gàng sách vở bút viết cần thiết, bỏ vào mỗi cái cặp riêng của con cần mang theo. Tôi không còn tâm trí để nhớ một cái gì, lấy cái nầy, thì tiếc cái kia. Vì ngôi nhà đồ sộ sẽ buồn tênh và trống trải, mất mác hết khi vắng chủ nhân. Có thể ngôi nhà sẽ không bao giờ đón chúng tôi trở về. Mặc dù tôi đã để lại hết tất cả gia tài cồng kềnh quý giá, nặng nề, do công khó lao nhọc bao năm vợ chồng tôi tằng tiện dựng xây mua sắm. Tôi không giàu có lắm, nhưng giờ đây thì thứ gì cũng có thể không còn, tuy sự cần cù nhẫn nại chịu đựng, lòng tin yêu, độ lượng và tự trọng thì tôi không thiếu. Cái gì đời cũng ưu ái cho tôi sao!? Nhưng chưa chắc bây giờ tôi cần những thứ đó. Giống như chiếc xe thổ mộ đã chở quá đầy hàng, nếu chất thêm vài giỏ dưa lên nóc, chẳng biết xe và dưa sẽ đỗ lăn mất lúc nào. Vậy thì, ta nên giữ lại những thứ gì thật sự cần thiết trong lúc khẩn cấp mà thôi.

                      Tôi lo nấu hai nồi cơm hơi nhão thật to, dùng khăn ẩm vắt ra từng nắm nhỏ, chu đáo, tươm tất gói chà bông, ký lạp xưỡng, khô cá, khô bò, kí giò lụa, dưa leo, cà chua, cà rốt, rau sống, thùng mì gói, mươi bọc cơm sấy, mấy ổ bánh mì ba tê gan trét bơ, hộp sữa, tiêu, xì dầu... Có sẵn ít cá thu kho măng với thịt ba rọi còn dư, cả nồi trứng thịt heo kho Tàu đầy, do mẹ Luật đã nấu hồi sáng. Vừa làm các công việc trên, tôi bồn chồn lo lắng, bồi hồi, luyến tiếc về sự ra đi. Bởi vì tôi không thể biết cuộc ra đi sẽ lành dữ ra sao. Các con trẻ bé dại cùng đi với bạn bè trên dưới ba bốn mươi người (chung chuyến đi ở ba chiếc xe khác nữa của bạn). Nếu bị lỡ đường, tôi sẽ có thức ăn chia sẻ cho bạn lót dạ. Tôi khiêng một thùng nhựa 10 lít nước lọc ra sân. Hai cái bô có nắp đậy. Ít áo len, quần áo mỏng, giày, dép, linh tinh... cho bà mẹ chồng, tôi, các con.

                      Đã gần đến giờ hẹn, nhưng không thấy Luật đâu cả, tôi quá sốt ruột lo lắng vô cùng. Thì ra, Luật đã chạy vào trong Hà Đông báo tin cho gia đình cậu Cương của anh, và gia đình bà Tề lo liệu di tản. Thật là tội, ở trong ấp mù tịt chuyện thời sự náo loạn, họ ung dung đi tưới rau, không hề biết chuyện nhốn nháo lộn xộn rần rần ở ngoài phố ra sao. Thế là Luật phải đưa cậu Cương ra phố bán hai cây vàng. Cầm đồng tiền giấy nhẹ, có thể mua gì cũng được, hơn cầm cả thỏi vàng, chả lẽ mua ly trà, ly nước dừa, mà đưa cả chỉ vàng, hay cả lượng vàng. Mất toi mạng như chơi. Có mà điên! Hầu hết các tiệm vàng trả giá rẻ mạc hai cây vàng, họ ép giá mua chỉ năm mươi ngàn! Năn nỉ kỳ kèo hoài mà chả ai thèm mua giúp. May sao có bạn của Luật (anh chị Kim là chủ tiệm vàng ở Tùng Nghĩa, đến nhà chờ đi chung) mua giúp cho cậu.

                      Kim chạy giặc có những bọc vải ruột tượng, túi áo, túi quần cả gia đình đâu đâu cũng đựng vàng là vàng nặng trĩu. Họ rất sợ mất toi mạng, vì thời buổi loạn ly mà có hằng tá vàng chình ình cả đống thế kia, chẳng khác nào “lạy ông tui ở bụi nầy” làm thể nào thu dú đâu được. Gia đình anh Kim cần đi chung với bạn bè có đông người thân thuộc, là điều rất mừng. Kim tin bạn không tham lam lừa đảo, nên gửi nhờ bạn mỗi người mang mấy bọc vàng, Kim an tâm không sợ bị cướp giật giữa đường. Anh Kim móc túi lấy bốn trăm ngàn đưa cậu Cương, đó là anh trả cho cậu giá rất cao, coi như Kim cho cậu Cương tiền, chứ không phải anh mua vàng. Cậu của Luật vui mừng khôn xiết, cậu lo chạy nhanh về nhà thu xếp.

                      Các bạn thân hẹn nhau tập họp t nhà tôi ở đường Đoàn thị Điểm, đúng hai giờ chiều là lên đường. Nhìn căn nhà riêng của mình lợp ngói ba tầng bề rộng phủ bì 5mét, chiều sâu 45m, đúc bê tông cốt sắt, tôi tiếc ngẩn ngơ, bùi ngùi vô vàn, thật sự không muốn lìa xa; nhất là xa Đà Lạt nơi chôn nhau cắt rốn. Nơi đó, còn cha mẹ, anh, chị, các cháu, chồng tôi (anh phải nghe theo lệnh cấp trên ở lại Đà Lạt tử thủ), người thân xóm làng hiền hòa. Không hiểu họ sẽ xoay-xở ra sao, khi tiếng đạn pháo ngày càng đinh tai nhức óc, dồn dập rót về trên đầu? Thỉnh thoảng súng đạn vun vút rền vang nơi xa xa, tạo thành những đường dài sáng loáng tóe lửa, vút qua vút lại trên bầu trời.

                      Bà cháu ôm nhau ngồi lặng-lẽ trên xe, cúi mặt thút-thít khóc, lòng tôi rối bời, ngổn-ngang trăm mối, lo-sợ tột cùng. Tôi cho con nhỏ mẹ già di tản, thì ăn ở đâu, ngủ ở đâu? Nhưng ba bên bốn bề ai ai cũng ùn ùn lũ lượt kéo nhau đi, đông kinh khủng thế nầy. Nếu gia đình tôi ở lại, có lẽ càng cô độc và sợ hãi hơn khi bóng đêm bao trùm xuống vạn vật, súng đạn ùa về nổ chát chúa, đinh tai nhức óc mỗi đêm thế nầy, làm sao đây!? Lương quân-nhân, công-chức, như “tiền lính tính liền”, rồi sẽ ra sao khi bồng bế nhau chạy về nơi vô-định?

                      Mấy lúc trước tôi đã bòn nhặt cất dấu được một số tiền kha khá, (đề phòng khi hữu sự bất chợt như bây giờ, thì có mà chi dùng). Nào ngờ, Luật thấy trong nhà có tiền, anh nghe bạn than thở, là thể nào anh cũng “réo rắt, xeo nạy” cho bằng được, để anh mang tiền đi đưa cho bạn bè mượn. Cả chục lần thấy chồng ỉ ôi thở vắn than dài, “dằn vặt đay nghiến” tôi. Dù tôi đã quyết dú đút tiền cất đi, nhưng rồi tôi vẫn “lạt lòng nhẹ dạ” không nỡ từ chối lời anh yêu cầu. Vả lại, tôi không phải là loại đàn bà mê tiền hám lợi, bo bo ôm rịt giữ kỹ tiền, thấy vàng bạc là mắt sáng như đèn pha. Tôi “dại lòng” nên trút hết hầu bao, đưa tiền để anh đem cho bạn mượn trước mặt tôi. Thật ra tôi cũng biết hoàn cảnh tùy gia đình mỗi người bạn, đều khó khăn rất tội nghiệp. Họ có tự trọng nhưng quá khốn đốn mới muối mặt nhờ giúp đỡ. Bây giờ bất ngờ ra đi nên tôi chẳng còn dư bao nhiêu tiền, thì nếu mẹ con tôi không lo chắt bóp ăn rau ăn cháo, chắc là chết đói nơi xứ lạ quê người thôi. Nghĩ tới đó là tôi cảm thấy quá sợ hãi!

                      Dưới chân đèo Krong Pha nhìn lên Đà Lạt tít mù cao, những bè mây trắng xoá kéo thành một dong dài, mong manh lả lơi như hơi sương quấn ngang đồi thông tiếp nối đồi thông rủ tóc, trải thành dải sô tang quấn trên triền quê hương. Đồi thông từ từ khép bức màn sô tang mỏng dính trong gió rì rào lao xao lay động cây cành nghiêng ngả. Rừng lá thấp xưa kia xanh thẩm mịt mùng ngút ngàn bao cây gỗ quý, hôm nay hầu hết cây cối xơ xác héo úa. Con đường cái quan ngày xưa rộng thênh thang, nay chật như nêm. Đoàn xe (nhà tôi và bạn) gồm bốn chiếc nối đít nhau chạy qua khỏi Krông Pha, tôi chẳng hề thấy ai đi ngược lên lại hướng núi, nơi chúng tôi đang đi xuống. Giòng người đen nghịt nối đuôi nhau đi chỉ một chiều xuôi về miền biển…

                      Tôi định tâm nhìn quanh, quá kinh ngạc khi thấy hàng hàng lớp lớp xe hơi lớn, xe hơi nhỏ, xe lam, xe gắn máy, xe đạp, xe ba gác, xích lô, mà biết hầu hết mọi người có phương tiện di chuyển như: xe hơi nhà, xe jeep, xe GMC, xe honda, xe lam, xe ngựa, xe bò... cùng bầy trâu, bò, heo, chó, ngựa, gà vịt, dê... chen chúc với người và người… tất tả xô đẩy nhau chạy bộ trên con đường chật như nêm, hổn-độn nối đuôi nhau chạy đi, chạy đi... ứ nghẽn. Họ lũ lượt kéo nhau tấp nập vội vã đi đông hơn kiến, kể cả những người gánh gồnh, vai mang lưng cõng, đều nối đuôi nhau lũ lượt tất tả lê lết đi bộ, bàn chân họ cột những tấm khăn hoặc quần áo chen lấn trên đường nhựa nóng muốn rộp da. Những tiếng còi xe bóp liên tục, những tiếng vỗ vô thùng xe và la hét của lơ xe kêu bộ hành giạt ra hai bên lề đường, nghe càng hổn độn và nhức óc.

                      Trên đầu súng đạn luôn ì oành nổ ầm ầm đùng đùng, oằng oằng oằng… pằng pằng pằng… chẳng lúc nào ngớt. Nhiều tràng súng từ phía sau ria tới tấp, xẹt tới xe hơi chở những bao bố tiền to khổng lồ, đó là tiền của các ngân hàng ở Đà Lạt mang đi. Tiền ơi là tiền rơi kín một góc đường phố, bay tá lã theo gió lồng lộng, mà các thứ xe kia cứ vùn vụt chạy đi, chẳng biết có ai dám cả gan đứng lại khum xuống nhặt tiền dưới cơn mưa chì bão lửa đó không? Cảnh thương tật, khóc than, thét mắng, đói khát, chết chóc, gầm rú. Hò hét. Chửi rủa. Đánh đập lẫn trong tiếng súng đạn gầm rú xa gần, khiến mọi người bị hút vào điệu quay chóng mặt, bàng hoàng đến rợn người. Dọc theo quốc lộ những pha cướp giật bóc lột đánh chém nhau dã man, trắng trợn nhiều vô số kể. Nhìn bộ hành kiên nhẫn đi vội vàng, dáo dác nhìn ngược ngó xuôi, lo lắng bước thấp bước cao như thế, lòng tôi bâng khuâng nỗi đau xót lạ thường, tim chùng xuống ngàn đắng cay ngậm ngùi không thể tả.

                      Mãi đến buổi hoàng hôn khi qua khỏi Phan Rang đầy gió cát, tới Ba Ngòi trời vẫn nóng bức xé da. Đoàn xe di tản chậm hẳn lại, dường như không còn sức sống, cạn kiệt nguồn sống rồi chăng, những xe khác không còn yêu xăng, nên xe ù lì nằm ụ từng đám rải rác trên đường từ Phan Rang tới Ba Ngòi, xe chẳng thèm nổ máy chạy nữa rồi! Gió lồng lộng thổi những hàng cây lao xao cúi rạp mình gần sát đất, khi những trái hỏa châu mắt thần bùng nở, đỏ bầu trời nghiệt ngã đang đè lên đầu nhân thế, hòa cùng khói thuốc súng và từng đám mây trắng bay vội vã, như đàn cừu hốt hoảng té chạy tứ táng trên đồi cỏ khô. Tiếng súng đạn bay vút lên không trung, tạo thành những màn nhện đỏ au, đan chéo qua chéo lại, có đường cát tuyến tiếp tuyến trên không gian mịt mù, tiếng đạn nổ dòn, hòa cùng tiếng lao xao của rừng xoài, tiếng dê, chó, gà vịt, côn trùng đồng loạt tấu khúc dạ trường bất tận… Đêm cuốn đi bởi giòng cuồng lưu cuồn cuộn, xô đẩy nhau chảy theo làn sóng người đang tìm cách thoát thân ra khỏi tai trời ách nước.

                      Trời sập tối, thì chúng tôi đến gần Vịnh Cam Ranh, nơi có chỗ neo tàu sâu, có sân bay chắc chắn và an toàn, có câu lạc bộ, có nhà máy làm nước đá, có hệ thống ra đa tối tân nhất bây giờ. Vịnh Cam Ranh là một lợi thế chiến lược tốt nhất của vùng Đông Nam Á. Từng là nơi tiếp liệu xăng dầu cho hạm đội trong chiến tranh Nhật-Nga từ 1904 > 1905. Ngày xưa là thế, mà nay im lìm câm nín bất động.

                      Đoàn chúng tôi cùng đi gồm: gia đình Trần Văn Ngọc: (mười chín người). Gia đình tôi (sáu người). Gia đình Phùng (ba người). Gia đình Bàn (mười người). Gia đình Kim mười người, (bây giờ Kim từ giã chúng tôi đi về hướng Phan Thiết, họ có thân nhân ở đó). Nhà anh chị Trí ở Cam Ranh, mười tám người, (không kể họ hàng di tản). Nay ở tại nhà anh Trí có thêm đoàn chúng tôi, vị chi tại nhà nầy có cả thảy là 78 người! Kinh khủng quá. Anh chị Trí, mẹ anh, em gái, các con anh chạy ra mừng rỡ tíu tít rôm rã chào đón. Chúng tôi đến bất ngờ, tôi, Phùng, gia đình Ngọc, Bàn, cùng hùn tiền đưa chị Trí, nhờ chị đi chợ nấu ăn giúp (có lẽ vài bữa). Ban đầu chị Trí nói qua loa, không nhận. Nhưng sau thấy chị Bàn nhét tiền vô túi, chị Trí mừng rỡ xách giỏ đi chợ. Phút chốc ba nồi cơm trắng to tướng, nồi canh chua cá chim, cá thu kho và rau sống, rau muống luộc, đã đọn lên đầy nhóc. Những người mới tới dùng bữa no nê ngon lành.

                      Nhưng tôi và Phùng có con dại, mệt quá nên chỉ ăn qua loa nửa chén cơm, rồi đi tắm rửa, giặt giũ áo quần. Phùng và tôi leo lên giường rù rì nói chuyện tới khuya. Phùng bảo đảm với tôi là chỉ cần chúng ta an toàn tới Nha Trang, thì mẹ con tôi sẽ ở nhờ tại nhà bà cô của Phùng. Nghĩa là gia đình tôi và Phùng sẽ tách riêng mấy gia đình kia: Ngọc. Quý. Bàn.

                      Ở Đà Lạt là quê hương tôi, dù gì tôi cũng dễ dàng xoay trở. Nếu về Nha Trang thì coi như tôi bơ vơ, lạc lõng. Tôi chỉ quen thân duy nhất cô Oanh (trước kia dạy học ở Đà Lạt, hai năm nay Oanh đã đổi về Nha Trang). Chẳng biết Oanh có còn ở chỗ cũ không? Còn Phùng về Nha Trang, thì bà con hai họ nội ngoại có nhiều. Phùng hy vọng có thể lưu lại nhà thân nhân một thời gian, sau sẽ tìm cách trở về Sài Gòn. Thế nên tôi thật mừng khi có Phùng cùng đi.

                      Bốn giờ sáng hôm sau, chị Trí lo dậy nấu mấy nồi cơm, canh cá tươi thật to như tối hôm qua. Tôm, cá, mực ở miền nầy rất tươi và quá rẻ, so với Đà lạt. Chúng tôi ăn uống no nê xong, ba đoàn xe chúng tôi từ giã anh chị Trí, lên đường đi Nha Trang. Khi tôi tới chỗ trạm đổ xăng, vì xe hơi của tôi cạn xăng, tôi đi tìm hầu hết mấy trạm xăng, không nơi nào mở cửa. Các chủ trạm xăng đều nói: “từ đây về Nha Trang các trạm xăng đều hết, khan hiếm, đóng cửa không có xăng từ một tuần nay”. Trời ơi! Lẽ ra tôi còn bình xăng phụ mười lít dự trữ mà Luật đã bỏ sau cốp, nhưng tôi ỷ y là dọc đường có thiếu khối gì trạm bán xăng, mà lo. Thế nên tôi đã chia sạch xăng cho hai chiếc bạn đi cùng đoàn. Tôi không hề dự đoán có chuyện bất trắc nầy. Chết rồi. Không ai chịu bỏ xe của mình lại nửa đường, (dù xe của họ cũ, coi thổ tả). Thế là tôi đành bỏ chiếc xe hơi Peugeot 404 mới của mình nằm ụ tại Cam Ranh, đúng như Luật nói: “bỏ tất cả của cải qúy giá, bỏ hết, lo túm chạy lấy sáu mạng người. Còn người còn của”!

                      Mẹ con tôi, gia đình Phùng leo lên xe lam của Quy chật cứng những đàn bà, trẻ con, cả thảy là mười sáu người. Mẹ của Luật và đàn ông, phụ nữ mạnh khỏe khác, thì leo lên chiếc xe be không mui. Dạo trước xe be nầy dùng chở cây gỗ, nay chở người. Khoảng bốn chục người lố nhố chen chúc ngồi trên xe be trần trụi, không có bờ vách, họ dùng những sợi dây dừa cột chặt thân người nầy vào người kia, rồi cột vô một cây gỗ cẩm lai và đống đồ đạc cao chất ngất.

                      Xe be và xe lam chạy chậm rì, cà rị cà mò ì ạch, nhưng tôi vẫn lo sợ người ngồi trên xe be chen chúc chật cứng, có thể bị lọt xuống đất! Xe không thể chạy nhanh trên đường dài ngoẵng có đủ mọi thành phần và tầng lớp… đông hàng vạn người gánh gồnh đi bộ, có đủ thứ loại xe lớn nhỏ. Thỉnh thoảng những chiếc xe bò lọc cọc chở đầy người phủ tấm bạt bay phần phật. Xe không có mui che, mặt trời càng nóng rát. Nhóm người lết bộ tay bồng tay bế, các em nhỏ khóc la thảm thiết, mặt mày ai nấy lem luốc, đỏ ửng như con tôm luộc, mũi dãi lòng thòng. Đến gần ngả ba, thì có một chiếc xe hàng mui bẹp dúm, bốn bánh xe chổng ngược lên trời, người trong xe ấy hò hét, máu me lênh láng. Mẹ con tôi sợ hãi bưng mặt nhìn đi chỗ khác, tôi tột cùng run rẩy hoảng loạn, tim nghẽn nghẹt ứ cơn đau, mà thân thể muốn bay bổng lên chín tầng mây.

                      Xe lam của Quy bị hư, cũng do chất đầy người và quá nóng máy, xe lam nầy nhích chạy đường trường không có đèn. Chiếc xe be do Ngọc lái phải đi sát phía sau dọi đường cho xe lam chạy, thật quá sức nguy hiểm. Đèn pha của xe GMC nào đó dọi sáng trưng, suýt tí nữa thì xe lambretta của Quy chồm tới rất sát xe khách trước mặt, (hoặc là chúng tôi nằm gọn dưới lòng xe be)! Anh tài xế xe GMC nghiến răng gò lưng đạp thắng, trên xe mọi người đông nghẹt đều dồn đống, chúi nhũi tới phía trước xe GMC. Bốn bánh xe GMC rít ken két dưới mặt nhựa, bánh xe tỏa khói bay khét lẹt. Tôi khó có thể đoán tuổi đời anh lính dãi dầu sương chiều nắng gió ấy đã trải qua bao xuân xanh, khiến da mặt anh càng sạm đi lúc hiểm nguy nầy? Cả bộ quân phục mặc trên người hình như bạc phếch phong trần, hay do bụi cát rít dưới những bánh xe?

                      Chúng tôi chỉ biết kêu Trời cứu mạng. Khi đèn xe rọi tới trước, tôi thấy những đứa trẻ con trạc bằng tuổi con tôi, nghe tiếng bánh xe lết trên đường nhựa, chúng hốt hoảng quýnh quáng bám theo chân người lớn vọt lên lề, mệt mỏi nằm vật ra trên đất khô. Thật hú hồn hú vía, nếu anh tài xế xe GMC không tháo vát, nhanh nhẹn, không có kinh nghiệm, ắt hẳn là tai nạn rùng rợn sẽ xảy ra không thể lường! Trong lúc nầy lòng tôi bỗng điên cuồng nổi lên sự ấm ức đầy tức giận, vì chuyện tôi đã vứt bỏ lại chiếc xe 404, để leo lên chiếc xe lam thổ tả nầy! Biết làm sao được, khi mình có lòng nhân không hề tính toán thiệt hơn, đã hậu hỉ trút hết xăng cho xe bạn!
                      * * *

                      Từ Cam Ranh khởi hành lúc chín giờ sáng, mãi đến mười giờ tối đoàn xe ì ạch nầy mới đến ngã tư Thành. Các ngã ba ngã tư giòng người đang cố chen lấn, giành cướp tí đất sống, xe và người vội vàng sát nhập chung nhau trườn lết tới vùng đất hứa hẹn an toàn. Họ cố chen từng bước, từng bước, ùn ùn tìm về vùng tạm cư có lẽ bình an hơn: Nha Trang… Chúng tôi ghi cho nhau địa chỉ bà con ở nhiều nơi, ngộ lỡ có biến loạn, hay cần liên lạc, thì biết mà tìm nhau. Chúng tôi chia ra nhiều hướng: Gia đình Phan Bàn ở nhờ với bà con của họ tại đường Nguyễn Tri Phương. Đại gia đình Trần Ngọc ở nhà bà con. Vợ chồng Phùng, gia đình tôi về nhà bà cô của Phùng.

                      Có thêm chúng tôi, nhà bà cô hơi chật càng nghẹt thở hơn, cổng sắt cao lút đầu, màn che trướng rủ kín mít. Họ nói chuyện với nhau thì thầm to nhỏ, mắt la mày lém, dáo dác nhìn trước ngó sau len lén rù rì. Họ tỏ lộ vẻ khó chịu ra mặt bất an sợ sệt điều gì lạ lắm. Hay là họ sợ mẹ con tôi biết họ quá giàu, họ “nuôi ong tay áo, nuôi khỉ đốt nhà”, tôi sẽ nảy sinh ra trộm cướp của họ chăng? Sống tại nhà bà con của Phùng ba ngày ba đêm, tôi sợ các con ồn ào làm vướng bận, phiền gia đình bà cô, nên mỗi ngày chúng tôi phải đi qua bên trường Tiểu-học, ngồi ngoài gốc cây phượng mua quà bánh ăn qua loa. Chiều chiều chúng tôi mò ra biển ngồi dưới hàng dừa hứng gió mát, để cho các con nô đùa ở biển. Chờ sau giờ cơm tối mịt, chúng tôi mới dám mò về xin phép chủ nhà cho tắm rửa, đi nằm ngủ nhờ dưới nền gạch bóng loáng trải mền bông xuống nền nhà. Mẹ con bà cháu tôi đều chui vào nằm chen chúc trong một cái mùng rộng. Tóm lại, chúng tôi chỉ xin ngả lưng ngủ nhờ. Năm giờ sáng, tôi lo đánh thức cả nhà dậy, lại đi ra ngoài lộ sớm. Hai hàng nước mắt tôi thầm lặng vẫn tuôn trào.

                      Mặc dù từ Đà Lạt về Cam Ranh, biết tôi không có thân nhân ở đây, Phùng đã cam đoan chắc chắn là: mẹ con chúng tôi khỏi lo vấn đề ăn ở Nha Trang trong thời gian vài tháng. Tôi ngây thơ đã tin bạn. Nay Phùng cảm thấy khó xử, tôi cảm thông vì nhà nầy không phải là nhà của Phùng. Dẫu sao Phùng cũng áy náy và hổ thẹn với tôi. Qua ngày thứ năm, tôi thấy mặt mày ai nấy đều nặng như chì, khi Phùng bồng đứa con lên máy bay về Sài Gòn. Thái độ ngược đãi ấy đã được khẳng định mọi điều dứt khoát rằng: Sau khi gia đình Phùng an toàn tại Nha Trang, có đủ điều kiện để họ tìm đường trở về Sài Gòn, thì họ muốn bỏ rơi chúng tôi. Như thế thì đã rõ rồi, dễ hiểu quá. Phùng nên đi trước, mai mốt ông chồng Phùng sẽ về sau, là lưỡng tiện đôi đàng, ông sẽ ú ớ ù lì ngơ ngơ ngáo ngáo, là huề cả làng. Họ “siêu tổ chức” khỏi mất công “hứa lèo” với tôi. Mặc tôi xử trí ra sao thì ra. Tôi thật ngây thơ, việc vợ chồng Phùng hứa suông chẳng khác nào đem con đi bỏ chợ.

                      Thà rằng tôi cứ ở lại Cam Ranh, dù sao gia đình anh chị Trí cũng là chỗ thân tình. Vả lại họ còn nợ tôi một món tiền hai trăm ngàn đồng, (do Luật “hứng nợ” đã đưa cho Trí). Rồi sau nầy cộng thêm nợ mới: Trí nợ một số tiền khổng lồ: Công ty chúng tôi bán năm trăm căn nhà tiền chế Mỹ đã tháo gỡ, cho dân ấp Vĩnh Linh, Cam Ranh. Tiền bán các nhà nầy, chúng tôi tin Trí, vì Trí ở tại địa phương, nên để Trí đứng ra làm thủ qủy thu tiền. Tiền anh ta đã thâu tóm hết, vung vít tiêu xài, Trí lem nhem không chuyển trả cho tôi, và ai ai trong nhóm. Ý của tôi muốn nấn ná ở lại Cam Ranh mười ngày nửa tháng tại nhà Trí, là có ý muốn Trí trả bớt tiền cho tôi, sau nữa là để tôi giữ liên lạc dễ dàng với Luật. Dù sao đường đi từ Đà Lạt về Cam Ranh, cũng gần hơn đi Nha Trang, và nơi nầy chưa bị phong toả. Ôi! người tính không bằng Trời tính!

                      _ * _

                      Tình Hoài Hương

                      Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-26-2017, 10:20 PM.
                      Bút trần nào tả được lưu luyến!
                      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                      Tình Hoài Hương

                      Comment


                      • Lòng Mềm Nhũn Nỗi Tiếc Xót Ngậm Ngùi



                        Lòng Mềm Nhũn Nỗi Tiếc Xót Ngậm Ngùi


                        Thứ Hai, ngày 24-3-1975.-
                        Có căn nhà đang cháy trong xóm đìu hiu, (do một người đàn bà bày bàn cúng ra giữa sân nghi ngút khói hương, đã bị gió tạt vô nhà). Bà ta hì hụp khấn vái kêu xin Trời Phật ban ơn lành... cho sống lâu trăm tuổi. Cứ thật thà mà nói, sau vụ bàn thờ ông cha cố tổ bị rầm rộ xuống đường năm xưa, thì tôi có ít thiện cảm để vãng lai tới chùa thăm viếng ai. Điều mà xưa kia tôi rất trang trọng, mến thích tới lui nơi "quý tăng bào lão trượng”, hầu ân cần chia sẻ chum cà, lọ tương, hủ đậu, chùm cây trái ngọt ngon, sâu nặng tình nghĩa đậm đà. Vã lại chồng tôi vẫn nói:
                        - Mình già rùi, “gần đất xa Trời”, can chi mà phải sợ chết, lo nọ lo kia cũng rứa hử?
                        Tôi gân cổ lên cãi lại anh:
                        - Anh nói thật tức cười. Có ai đang sống ở trên đời nầy, mà “gần Trời xa đất” mô nà! Vậy thì “đất” phải gần hơn “Trời” là cái chắc. Ta đang đạp hai bàn chân trên đất, để đi hà rằm đây nè. Khi nào chết mới gọi là “gần Trời xa đất”. Và ai ai cũng muốn lên Thiên Đàng cả. Chẳng ai muốn xuống đất hỏa ngục ở với Diêm Vương.

                        Chúng tôi vơ quần áo ra đi lang thang ngoài đường như thế, ban ngày đi ra biển ngồi dưới những gốc dừa, tối về thì xin vào ngủ nhờ ngoài mái hiên của trường Tiểu-học. Qua ngày thứ tám thì gia đình bà Niềm (ở đối diện với nhà bà cô của Phùng), thấy thương mẹ con chúng tôi bơ vơ nheo nhóc, họ động lòng trắc ẩn, bà kêu chúng tôi cho đến ở nhờ. Tại đây có một phòng riêng rộng rãi đầy đủ giường nệm mền gối. Muốn nấu ăn thì có sẵn bếp, cứ tự túc. Tôi ứa nước mắt mà mừng vui khôn tả xiết. Thế là cả nhà tôi tíu tít vui vẻ dọn qua bên đường. Vẫn biết là ông bà Niềm quá tốt, nhưng sợ các con thơ dại quậy phá, nên tôi không dám làm phiền họ. Ông bà Niềm có hai người con. Một anh con trai đi lính Nhảy Dù. Một cô con gái tên Thúy Lan làm ở Hàng-không Quân-sự Nha Trang.

                        Dưới những gót chân bé tí lún xuống bờ cát mịn, từng vệt chân trần nhòe đi trong sóng khẽ khàng vỗ tan bọt nước. Tôi rón rén bước trên nền cát ẩm, với ước mong có tí chút hạnh phúc lướt thướt lan theo từng ngấn sương khuya rơi rụng nhạt nhòa trên phố biển Nha Trang. Lòng vẫn dạt dào nỗi hoài mong tiếc rẻ bao nhớ nhung hao gầy. Nỗi nhớ làm cảm quan và lòng mình mềm nhũn, choáng váng, thẫn thờ tiếc nuối, nghẹn ngào tức tưởi bao mộng mơ bạt ngàn lắng đọng. Ngày ngày mẹ con tôi vẫn đi tản bộ ra bãi biển, tắm, ăn cơm hàng cháo chợ. Nhưng chỉ non tuần sau, tôi phải tính đến chuyện tự nấu ăn. Tôi tiếc hùi hịu vì đã để trên chiếc xe nhà của mình ở Cam Ranh hết mọi thứ, chỉ mang đi những túm quần áo cần thiết.

                        Bây giờ tôi mua một cái lò than, các con tôi ra đường nhặt cây khô mục, lá khô, bã mía, để nấu cho đỡ tốn tiền mua củi. Tôi phải tính toán cân nhắc kỹ từng đồng nơi xứ lạ phương xa: mua một nồi nhôm to ấu cơm, một nồi nhôm nấu canh, một nồi nhỏ dùng kho cá, một bình nhôm nấu nước, mua muỗng, đũa, sáu cái tô nhựa, (dùng khỏi bị bể). Tôi mua củi, gạo, rau, cá. Có ngày trời nắng oi ả, có ngày mưa ào ào, bầu trời miền biển khác hẳn với khí hậu thoáng mát ở miền núi, khiến các con khó chịu, mặt mũi lúc nào cũng đỏ bừng, mồ hôi nhễ nhại, rôm sảy nổi lên từng đám dày, ngứa ngáy. Chúng ngồi đâu là hai tay gãi sồn sột, móc chỗ nầy cào chỗ nọ như mấy con khỉ. Tôi lo sợ các con lạ nước lạ cái, sinh ra ốm đau, thì nguy.

                        Sáng sớm, khi các con còn ngủ, tôi lò mò đi chợ, về nhà vội nấu một bữa ăn (mà chia làm hai lần: một phần ăn vào lúc mười giờ sáng, một phần khác tôi múc ra trước, để dành ăn vào lúc năm giờ chiều). Khi ăn uống dọn dẹp rửa ráy xong, mẹ con bà cháu đều tản bộ ra đường nầy qua đường nọ. Chúng tôi thường đứng lại hằng giờ trước cổng một ngôi nhà xinh xinh phủ đầy hoa giấy, thèm thuồng cuộc sống ấm áp gia đình mà mình đã bị mất, rồi ngậm ngùi buồn xo. Chân ngập ngừng e ngại bỗng dưng tôi chùng bước, len lén nhìn vào:

                        Dẫu rằng ngôi nhà bên trong hàng dậu thưa ấy, tuy lạ mà rất quen thuộc, vì hình ảnh ông bà cụ đứng nơi bồn hoa thắm đỏ với vòi sen phun nước, họ giống ba mẹ tôi, bước chân họ di động chậm chạp, khẽ khàng dẫm trên nền gạch, khiến lòng tôi chùng xuống nỗi tiếc xót ngậm ngùi. Tôi nhớ những bọt nước đã rơi xuống vệ cỏ ven đường. Tim tôi rung lên từng chặp, như nhắc nhở tôi nhớ về thuở nhỏ bên hàng hoa anh đào, trong ngôi biệt thự của ba má ở tại đường Quang Trung (dưới ga Đà Lạt) mà nấc lên từng cơn.

                        Tôi muốn quay đi chỗ khác, nhưng đôi mắt cứ dán chặt vào mỗi gốc cây trong ngôi nhà ấy. Tưởng như mới ngày nao tôi đứng tỉa cành già, hái lá vàng trên những cây cảnh ấy trong khu vườn nhà riêng của mình nhỉ!? Nay cảnh vật và con người từ tha nhân cho tới chính mình, đã biến dạng ngoài sức tưởng tượng! Không ai có thể cứu lấy mình, chứ nói chi đến chuyện cứu người. Thời buổi loạn ly nầy “làm người” thật khó khăn: Nếu tôi có chút của cải, có máu mặt xí, thì bị hàng xóm, bạn bè dòm ngó và chính tôi nghi ngờ coi chừng… họ! Nay tôi lang thang xốc xếnh giống tên hành khất, thì bị coi là bôi bẩn chính thân, bị miệt thị, bị xô ra khỏi xã hội, và tụt xuống đáy bần cùng. Thật khó sống làm sao khi người dân thị thành vẫn lạnh lùng thờ ơ, tấp nập, dáo dác ùn ùn kéo nhau đi đâu mà đông đúc quá?

                        Bình minh dâng cao trên đầu nóng rát da người, hay hoàng hôn tàn dần, bóng râm từ các vách đá lan ra, buông xuống đường chân trời xa tít tắp một màu đen. Mẹ con bà cháu tôi coi "ung dung nhàn hạ" thơ thẩn vì không biết làm gì, để giết bớt thời gian quá tẻ nhạt, là ra biển ngồi hóng gió. Chúng tôi ngồi nhìn từng con tàu lớn đậu ngoài xa xa, các con tưởng tượng nhiều điều thú vị, theo dõi và biết ngày nào con tàu nầy đến bến, ngày nào con tàu kia đã ra đi. Tàu thuyền trên sóng nhấp nhô, có chiếc lênh đênh trên đại dương, chiếc ra khơi, chiếc vào bến đậu. Tuy mục đích có khác nhau, nhưng con tàu cùng lênh đênh bồng bềnh chơi vơi cỡi trên ngọn sóng lớn. Tôi nhìn những con tàu khổng lồ mà buồn bã vô cùng, không dám ước mơ hay hy vọng , dù niềm hy vọng bé tí xíu. Tôi cảm thấy mình đang chới với lữ hành trên sa mạc cháy nắng, càng hơn nữa tôi giống ông lính già cô độc, run rẩy trong một pháo đài bị vây hãm.

                        Trời xanh lồng lộng, biển Nha Trang thơ mộng dịu êm có gió hây hây thổi, mặt biển vẫn là thảm hoa cương óng ả gờn gợn lấp lánh, rì rào, lung linh và mênh mông. Trẻ nhỏ vô tư lự nô đùa trên biển, các con ưa thích vỗ tay và ngẩn ra nhìn những con tàu. Dù tôi bảo thế nào các con vẫn e dè, sợ sệt; vì các con không quen, chưa bao giờ cởi áo quần ra giữa chỗ đông người. Tuy các con đến với biển mỗi ngày, nhưng chúng chưa dạn dĩ. Nhìn sóng biển trắng xoá xô bờ, đẩy tới đưa lui, thì các con cảm thấy sợ, nhút nhát co chân, chúng chỉ dám xăn quần lên tới đầu gối, hay mặc áo quần dài mà reo vui, lội bì bõm vọc nước sát ven bờ, khi sóng vừa bén gót chân, các con cảm thấy chóng mặt, lo sợ hét to, chúng vội vã nắm tay nhau chạy lên bãi cát khô, làm y như là các con sợ nhúng chân vào nước nóng.

                        Cái thú duy nhất của các con là cùng nhau chạy đi rượt đuổi những con còng. Kể ra các con cũng khôn, biết mò ra chỗ để bắt ốc, bắt còng về luộc ăn. Con còng, con ốc cũng khôn không kém. Còng chạy rất nhanh, thoáng một cái chúng tìm mọi cách thoát thân đằng nào thật lẹ. Bao nhiêu lần các con không bắt nỗi. Nhưng có một hôm các con làm thành một hình tròn to, rồi từ từ khép chặt vòng tròn, vây quanh mấy chú còng lêu khêu. Ba đứa con chầm chậm bò dần dần tới bên con còng, các con đồng loạt ụp cả người, phủ lên con còng què chân ngố ngáo. Tôi cười thầm:
                        - “Con còng bị què làm chi tội rứa, nên mới bị trẻ bắt sống hỉ!”.

                        Thế là chú còng bẹp dí. Bé Bi giơ chú còng lên trời, cười ha hả. Có một hôm, mấy con đang tắm, thì bé Bi do sợ sóng nước đã ị ra quần, thối um khiến cả nhà cười vang. Tôi thương các con bị đói khát, nhưng biết thân phận mình, các con không dám đòi quà bánh. Bé Dzũng gần mười tuổi, bé Tuấn bảy tuổi thường cõng bé Hoàng một tuổi trên lưng, Tuấn dụ em Huy (bé Bi) năm tuổi đi ra ngoài gốc phượng nhặt hoa rơi. Mấy anh em xếp hoa thành từng đống, cho em chơi để em nhỏ quên đói, không đòi bú mẹ. Khi ta có đủ thứ trong tay, thì mình xem thường các thức ăn. Nhưng, bây giờ sống trong cảnh đói khát, nằm gai nếm mật, ăn ngủ ở đầu đường xó chợ, bơ vơ bất vất, dù có những thức ăn tầm thường nhất chúng tôi cũng quý, mới thấm thía buồn và cảm thấy đau nhừ, như ai dần từng khúc ruột, tôi tiếc ngẩn ngơ những thứ đã mất. Thật ra, chúng tôi đang sống trong cảnh phập phồng lo sợ. Chẳng ai cấm tôi gào thét, thi gan cùng biển cả mênh mông. Nhưng tôi không còn tâm trí nào mà tắm táp thoải mái ngoài biển, chứ nói gì gào thét cho đã nư. Tình cảnh mẹ con tôi bây giờ là thế!

                        Chín giờ tối về ngả lưng trên cái giường rộng. Có một điều là trời rất nóng và muỗi, vô số muỗi; nên dù ngày nào ở nhà, không đi biển, thì bà cháu mẹ con ở ngoài sân trường học, hay ở trong nhà có quạt máy vù vù trên trần nóng hầm hập, chúng tôi vẫn dùng quạt giấy, quạt phành phạch suốt. Cuộc sống di tản của chúng tôi có lẽ từ nay là những ngày tháng mòn mỏi đợi chờ thật dài, trống vắng & hụt hẫng trên đại dương, khiến tôi mất hẳn ý niệm về cuộc sống. Tôi như con ốc sên nhút nhát thu mình trong vỏ, mất hết bản năng sinh tồn, nhụt chí và chán nãn dường bao! Thời gian nhàn hạ ở đây thật vô vị và mù tịt, tôi không hề biết ất giáp gì về chuyện trong nước đang hỗn loạn tột cùng. Ngày nào cũng như ngày đó: do nỗi lo lắng, sợ hãi đói khát cứ trỗi dậy trong lòng tôi. Sự khốn cùng càng tăng mãi, niềm hy vọng bình yên thanh thản đôi chút mỗi lúc một vơi cạn.

                        Từ thành đến tỉnh, đâu đâu cũng bàn tán xì xào chuyện chính trị và chiến tranh mà tôi chúa ghét. Tôi nghe chán tai lúc người ta bàn tán: Khi thì đã mất nước tới đèo Hải Vân. Mất tới Đà Nẵng... Có lẽ đất nước nầy chia ra làm ba thành phần. Lại nghe đồn từ vĩ tuyến 13 trở vào Cà Mau: là do chính phủ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tin “bỏ” vùng nầy, bỏ vùng kia. Khi thì nghe người ta bàn tán Việt Nam sẽ trung-lập. Sẽ có chiến tranh huynh đệ tương tàn khốc liệt. Sẽ hoà bình: Đó là tiếng pháo bông nổ lớn trong đêm tối đen; mừng ngày đất nước thanh bình, hay báo nguy lầm than, cơ cực, nghèo đói, chia ly, và sẽ thanh trừng "người thua cuộc" tràn ngập trên đất Việt vào một ngày không thể ngờ tới?!

                        Mẹ con chúng tôi đến thăm Oanh ở trong một biệt thự nho nhỏ xinh xinh tại Xóm Mới, nhà có vườn cây rợp bóng im mát, gia đình ba má Oanh gốc người Huế, hiền lành, vui vẻ thật thà. Hai bạn gặp nhau mừng rỡ, trào nước mắt chảy ròng ròng, chúng tôi thì thầm chuyện trò. Mặc dù ba má Oanh có dành cho gia đình tôi một phòng nhỏ, nhưng tôi sợ các con dại sẽ làm phiền họ, lại mất lòng và mất cả tình bạn cao qúy, nên tôi từ chối. Trong khoảng thời gian qua, Luật theo lệnh thượng cấp phải “tử thủ” ở Đà Lạt, anh gửi nhờ những chuyến xe quen về địa chỉ nhà Oanh, người chủ xe nhà hoặc xe đò đã đến giao cho Oanh, rồi Oanh chuyển cho tôi: quần áo, mền, mùng, nồi niêu son chảo, vân vân… cùng tám chục ngàn đồng, tiền lương vài tháng qua của vợ chồng chưa kịp lãnh.

                        Mấy lá thư Luật báo tin đã mất Bamêthuột và Huế. Luật dặn dò mẹ con tôi “phải cố gắng, bằng mọi cách tìm đường di tản về Sài Gòn” gấp. Tôi chỉ nhận tiền Luật gửi về Oanh, còn tất cả đồ dùng kềnh càng, tôi gửi lại trong nhà kho của Oanh. Chúng tôi kiểm chứng tin Luật đã báo, thì đúng y bon, vì bà con của Oanh từ Huế, nườm nượp di tản bằng thuyền đánh cá của họ chạy ra Nha Trang, họ kể lại Huế đã đi vào cửa ngỏ cuộc chiến. Nghe đâu Đà Nẵng rất lộn xộn, gần như thất thủ nơi ấy. Gia đình Oanh không tính đi đâu cả, có chết thì chết ở xứ nầy, vì họ còn một bà cố già lụm cụm ngoài chín mươi tuổi, nếu họ đem cụ theo chạy loạn, thì không được, mà để cụ ở lại một mình với mấy căn biệt thự, càng không thể.

                        Tôi hốt hoảng chạy tới nhà của chị Bàn đã thuê, hầu báo tin chẳng lành, cùng những lời Luật nhắn nhủ. Tôi vui mừng thấy gia đình Ngọc, (gồm các em của Ngọc là: gia đình Quý, gia đình Cúc vẫn sống chung, giống như khi họ ở Đà Lạt) đã về tá túc ở đây vài hôm trước rồi. Các bạn khuyên tôi nên về ở chung nhà, nếu có bề gì, thì hú nhau một tiếng, cùng giúp nhau chạy loạn. Tôi nghe phải, nên về nhà bà Niềm thu dọn ít bọc quần áo trẻ nhỏ, cám ơn ông bà chủ nhà, rồi đến ở chung với các bạn cho bớt tẽ nhạt và sợ hãi.

                        Chủ Nhật, ngày 8-4-1975.- Đến ở trong ngôi nhà tôn vách đất thấp lè tè, nóng như thiu đốt. Chúng tôi góp chung tiền, ngày ngày mấy người đàn bà cùng đi chợ nấu ăn hai bữa, một bữa ăn lúc mười giờ rưỡi, (thay cho buổi sáng và trưa nhập thành một bữa). Một bữa ăn lúc sáu giờ chiều. Ngày nào cũng từng ấy thứ: Nồi cơm thật to, nồi canh rau muống trộn mì gói hiệu ba con tôm to tướng, cá kho rim mặn, (thay đổi loại cá mỗi ngày, ở đây cá tươi rất rẻ, tươi và rẻ hơn Đà Lạt rất nhiều, là cái chắc). Họ giống tôi, ai cũng muốn thủ thân, chắt bóp nhín nhút ăn uống qua loa, để sống, chứ chẳng phải sống để ăn. Nấu nướng bằng bả mía phơi dôm dốp vài nắng, thì khói bay mù mịt, cay xè mắt, nước mắt nước mũi chảy tùm lum. Ba thằng con trai lớn, (hai đứa con của Ngọc, một đứa con của tôi) thay nhau nằm dài xuống nền đất, phồng má thổi lửa phù phù. Bụi tro, khói, đất, bay lên đầu cổ, mặt mày chúng đỏ rần và ho sù sụ. Dù ở đây có phần tù túng khổ sở hơn ở nhà bà Niềm, nhưng có bạn chia sẻ chịu đựng, tôi cảm thấy đỡ sợ, bớt lo lắng nên yên tâm hơn.

                        Sau những bữa ăn sum họp vội vã, nhà nào nhà nấy ai ai cũng ra ngoài đường, tới ngoài chỗ đông người, để nghe ngóng thu lượm tin tức. Chúng tôi lo lắng sợ hãi, cùng đường quẫn trí, rối bời đầu óc, bồn chồn cùng nhau bàn lui tính tới hết cách. Kết luận cuối cùng là: giả thiết từ bây giờ cho đến khi nào Nha Trang bị lung lay, nếu trong nhóm nầy ai có phương tiện thuận lợi nào, thì cứ lo cho gia đình đó vượt thoát. Nếu lúng túng với một đám trẻ con trên dưới mười bảy đứa, (không kể người lớn), đông người như thế nầy, thì chẳng biết làm sao có thể di chuyển chung chuyến xe, chuyến tàu, như khi chúng tôi ở Đà Lạt đã cùng nhau chạy đi. Tôi thật buồn và vô cùng tuyệt vọng nghe chị Bàn đã đi thu lượm tin tức ở ngoài bến xe về, chị nói:
                        - Ngày 11-3-1975 mất Ba Mê Thuột.

                        - Ngày 26-3-1975. Huế đã thất thủ. Kế đến là Đà Nẵng. Ở các bến xe khách, hải cảng, cũng như ở phi trường dân sự, người ta đông hơn kiến, chen chân không lọt, đông vô số kể. Ai muốn đi về Sài Gòn, thì phải ghi tên trước cả tuần, sau khi được gọi, phải mua một chỗ ngồi cả bạc triệu, hay đóng mỗi đầu người hai lượng vàng. Ai muốn sống cứ thế mà tính, không cò kè bớt một thêm hai. Nếu chần chờ không kịp nộp tiền, thì có người khác “xí phần” đưa tiền hoặc vàng ra ngay. Chiều nào cũng thế, mẹ con bà cháu nhà tôi không biết làm gì cho hết thì giờ nhàm chán nôn nao lo lắng, nên chúng tôi thơ thẩn ra biển. Những con sóng lớn ập tới, tôi bị lún sâu xuống nước, tưởng chừng như muốn khuỵu đôi chân. Tôi bị sóng nước dồn hất lên hụp xuống, chao đảo khi hai tay đập loạn xạ trên mặt nước. Càng vùng vẫy, tôi tưởng như đang nhận chìm mình tụt tong tong xuống vực sâu. Tôi sợ hãi kinh khủng!
                        ***

                        Tình HOÀI HƯƠNG
                        Bút trần nào tả được lưu luyến!
                        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                        Tình Hoài Hương

                        Comment


                        • 30/4: Quệt Nước Mắt Lưng Tròng


                          Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-08-2017, 01:37 AM.
                          Bút trần nào tả được lưu luyến!
                          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                          Tình Hoài Hương

                          Comment


                          • 30 Tháng Tư: Bách Niên Thương Hải Biến Vi Tang Điền




                            30 Tháng Tư: Bách Niên Thương Hải Biến Vi Tang Điền
                            (Kỷ niệm 41 năm đau buồn: từ ngày 19-03- gia đình di tản)
                            *
                            Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-19-2017, 05:08 AM.
                            Bút trần nào tả được lưu luyến!
                            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                            Tình Hoài Hương

                            Comment


                            • Thiếu Tá Không Quân Anh Kiệt: TRƯƠNG PHÙNG (41 năm… tưởng niệm)




                              Thiếu Tá Không Quân Anh Kiệt: TRƯƠNG PHÙNG.
                              (41 năm… tưởng niệm: 29/4/1975 -> 29/4/2016)
                              ***

                              Chiều ngày 28/4/1975 - khoảng 5:45’ trong phi vụ hộ tống Trung-tá Nguyễn Văn Mạnh SĐ3 KQ và toán chuyên viên Vũ-khí & Đạn-dược đặt chất nổ, để phá hủy các cơ sở của Bộ Chỉ Huy Kỹ-Thuật & Tiếp-vận KQ (Biên–Hoà). Tôi, (Trần Văn Phúc) và Trung-úy Nguyễn Thành Bá, bay từ Dốc Sỏi ngang qua Cầu Mới Biên Hòa. Tôi vừa quẹo trái từ hướng Tây sang hướng Đông, đột nhiên tôi thấy bốn chiếc A37 với đầy đủ bom đạn trong một đội hình dị thường; nghĩa là không giống ai, phi diễn không ra phi diễn, chiến đấu không ra chiến đấu, phi cơ đang từ hướng Đông Bắc lao tới cùng một cao độ với chúng tôi. Tôi cứ lầm tưởng là phi cơ của các phi đoàn bạn đang bay hành quân (từ miền Trung di tản về Tân Sơn Nhứt tháng trước), nên tôi vội vã kéo cần lái, cho phi cơ mình bốc vọt lên cao, để tránh hai bên đụng nhau trong gang tấc. Đồng thời tôi hét trong vô tuyến để lưu ý anh Bá, (bay chiếc số 2 theo tôi trong đội hình chiến đấu):
                              - Hai theo một! Coi chừng bốn A37 hướng 10 giờ!

                              Rồi tôi bay đảo lại và nhìn theo bốn chiếc A37 bay xa dần, tôi ngạc nhiên, thông thường một phi tuần khu trục đi bay hành quân chỉ có hai chiếc, hôm nay là ngoại lệ, đặc biệt vì có tới bốn chiếc. Tôi nói tiếp với Bá:
                              - Giờ nầy mà mấy thằng "ma gà" A37 còn mang bom đạn đi lang thang kìa!
                              Chúng tôi đã suýt đụng nhau với chúng nó trên sông Đồng Nai, mà không thể nào ngờ đó là bọn phản tặc! Trời lúc đó vẫn còn sáng tỏ, tôi chúi mũi cho phi cơ xuống thấp, bay dọc theo quốc lộ 1 đến Thủ Đức, tôi quẹo trái theo xa lộ Biên Hòa đến Long Bình rồi về Biên Hòa đọc theo Quốc Lộ 1. Nhìn xuống dưới, tôi thấy dọc suốt lề đường có rất nhiều xe thiết giáp đậu cách nhau từng trăm thước một. Muốn khích lệ tinh thần cho các chiến hữu Bộ Binh, nên tôi bay rất thấp, vì vậy khi bọn phản tặc dội bom ở Tân Sơn Nhứt, tôi đã không trông thấy. Nếu tôi bay ở cao độ 5.000 bộ, chắc chắn tôi sẽ thấy những cột khói đen bốc lên từ Tân Sơn Nhứt (TSN). Chừng 20 phút sau, Chuẩn-tướng Huỳnh Bá Tính Sư–Đoàn-Trưởng SĐ3KQ báo cho chúng tôi biết:
                              - Có một phi tuần ba chiếc A37 vừa dội bom Tân Sơn Nhứt!
                              Tôi điếng hồn nghĩ ngay đến phi tuần A37 mà mình vừa gặp, nên tôi “chỉnh“ lại ông trên tần số:

                              - Như vậy phải là bốn chiếc A37, vì chúng tôi đã gặp bọn chúng cách đây không lâu! (mãi về sau nầy, khi tôi kiểm chứng với nhà nghiên cứu sử Nguyễn Hùng Kiệt, anh đã xác nhận: phi tuần của đám phản tặc nầy có tất cả bốn chiếc A-37, nhưng không biết vì lý do gì chỉ có ba chiếc dội bom Tân Sơn Nhứt mà thôi !?). Vào thời điểm Tân Sơn Nhứt bị dội bom, chiếc trực thăng của Tướng Tính chuẩn bị đáp xuống TSN, nên ông đã chứng kiến toàn bộ sự việc. Đối chiếu với thông tin của sử gia Nguyễn Hùng Kiệt, cả hai người (Tướng Tính & tôi) đều nói đúng sự thật! Chúng tôi vội vã bay trở về Tân Sơn Nhứt, thì bọn phản tặc đã chuồn đi mất tăm biệt tích. Khi bay trên không phận TSN, Đài Kiểm-soát Không-lưu (Sài Gòn Control Tower) báo cho chúng tôi biết: “phi trường chỉ bị thiệt hại nhẹ. Vài chiếc C-47 bị trúng bom (một chiếc gần phi đạo đang cháy như chúng tôi thấy), vài cơ sở bị hư hại như hậu trạm cũ, nơi trước đây chứa các phi cơ A-1, mới vừa dời về khu Tây lúc 1 giờ trưa, cạnh bãi đậu của A-37. Nhưng thật may mắn hai phi đạo không hề bị trúng bom”.

                              Sau mấy vòng bay quanh Tân Sơn Nhứt, chúng tôi biết chắc chắn phi trường và nhất là hai phi đạo vẫn an toàn, không cần thiết phải bay đi Cần Thơ. Nên tôi yên tâm bay trở lại Biên Hòa, để tiếp tục thi hành phi vụ hộ tống Trung-Tá Mạnh và toán chuyên viên vũ khí. Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ hộ tống Trung-tá Mạnh qua khỏi cầu Bình Triệu an toàn, chúng tôi mang đầy đủ bom đạn về hạ cánh lúc 8 giờ tối. Tôi gặp các anh bay F5 ; họ cho biết là:
                              - Đang chờ lệnh đi ném bom trả đũa ở phi trường Phan Rang.
                              …Nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra -không biết vì lý do gì- !? Tôi thấy nhiều anh em trong Tân Sơn Nhứt có phần giao động tinh thần, vì cuộc dội bom vừa qua. Do Radar không thể phát hiện nếu bọn phản tặc bay thấp như lần vừa rồi, nên nhiều người lo sợ chẳng biết có thêm lần dội bom kế tiếp nào nữa hay không? …Khi trở vào biệt đội khu trục lúc nửa đêm, tôi thấy các anh em thuộc PĐ 514 và 518 đang nằm sắp lớp như cá mòi ngay trên nền nhà. Tôi lặng lẽ nằm xuống một chỗ trống còn lại bên cạnh cái điện thoại dã chiến mới vừa móc dây.

                              Tôi nằm đó, nghiêng qua trở lại rất lâu, không thể nào ngủ được, vì trong lòng ngổn ngang những tiếc nuối & hối hận, cắn rứt tim tôi: khi nhớ lại cơ hội ngàn năm có một. Tôi vô tình để nó trượt thoát khỏi tay, tiếc thay! lúc ban chiều tôi đã không bấm cò đại bác bắn thẳng vào lũ phản tặc A37. (Sau nầy, khi biết tên Nguyễn Thành Trung chính là kẻ đã “rước giặc vào nhà“, bay dẫn đường cho đám phản tặc A37 đó, tôi lại càng hối hận & tiếc nuối nhiều hơn nữa!).

                              Quá mệt mỏi tinh thần và rã rời thân thể, tôi vừa chợp mắt tí xíu, đã phải choàng tỉnh ngay lập tức, vì những tiếng nổ vang trời. Phi trường bị pháo kích! Hàng loạt hỏa tiễn 122ly điên loạn lao xuống rít xé bầu trời, nổ tung lên cùng khắp trong căn cứ & phi trường TSN, nơi đang tập trung dày đặc những quân nhân KQ, và gia đình của họ mới vừa đổ dồn từ ngoài vùng I, vùng II di tản về. Điện bị cúp. Nhưng cho dù điện không cúp, thì tất cả vẫn chìm trong bóng tối như địa ngục, vì sức ép nổ của những quả hỏa tiễn rơi quá gần, làm vỡ tung những bóng đèn trong biệt đội khu trục chúng tôi... Thật là may mắn đến kỳ lạ khi mọi người đang nằm sát nhau dưới nền nhà đều bình an vô sự!

                              Điện thoại reo! Do nằm sát gần điện thoại, tôi bốc máy lên nghe, và chuyển lệnh điều động cất cánh khẩn cấp đến Thiếu-tá Lê Văn Sang, Trưởng Phòng Hành Quân PĐ Phi Long 518. Trong bóng tối dày đặc, không nhìn thấy mặt bất cứ ai, mà chỉ nghe tiếng nói của tôi vừa chuyển lệnh. Thiếu-Tá Sang hỏi luôn:
                              - Phúc đó hả, Phúc đi bay được không?

                              Theo đúng Huấn Thị Khu Trục, tôi vừa mới bay xong phi vụ yểm trợ rút quân hồi đầu hôm, nên tôi có quyền từ chối đề nghị này của Thiếu-Tá Sang. Nhưng hình như cái “mặc cảm tội lỗi “của tôi, (vì thiếu cảnh giác, đã để bọn phản tặc A37 vượt thoát) đang chờ có một cơ hội “chuộc lại lỗi lầm“, tôi đã bật lên tiếng nói:
                              - Đương nhiên là được, nhưng wingman (phi tuần viên) là ai?
                              Chưa có ai kịp lên tiếng, thì từ trong bóng tối cuối phòng, tiếng Thiếu Tá Trương Phùng vang lên:
                              - Trâu đạp cũng chết, chó đạp cũng chết. Tao đi với mi, xem coi có chết thằng Tây nào không!?

                              Phi trường đang bị pháo kích dữ dội, nên lúc đó không có xe đưa đón Phi Hành Đoàn. Không thể chậm trễ, anh Phùng gọi tôi leo lên chiếc xe Jeep dân sự. Anh Phùng lái xe như bay phóng ra khỏi bãi đậu, nhìn anh lái xe vun vút như bay, tôi thầm cảm phục người đàn anh gan lỳ, quả cảm, người hùng của mặt trận Quảng Trị 1972 với chiến tích lẫy lừng đã “nướng sống" 15 chiếc xe Tăng T-54 của bọn Cộng Phỉ!:
                              -… Mẹ nó! Tao chưa hề thấy tụi nó pháo dữ dằn như hôm nay! Tụi nó định “dứt điểm” mình bữa nay sao cà?
                              Rồi anh nói tiếp:
                              - Bất cứ giá nào, mình cũng phải lên (cất cánh), hy vọng có thể bảo vệ bao nhiêu người vô tội ở đây. Nếu như mình bị hy sinh, âu cũng là dịp để mình đền ơn Tổ Quốc.

                              Đến bãi đậu A-1, các anh em phi đạo đã ứng trực sẵn sàng, anh Phùng hét lớn trong tiếng nổ vang rền của đạn pháo:
                              - Nổ máy là “chock out” ngay (rút những khúc gỗ chận bánh xe phi cơ ra) rồi các bạn tìm chỗ núp! Mặc kệ chúng tôi, đừng để chết chùm hết cả đám đấy!

                              Máy vừa quay tròn vòng, thì có nhiều tiếng nổ long trời ở bãi đậu A-37 kề bên, nhiều quần lửa như cây nấm khổng lồ cuồn cuộn bốc phụt lên cao. Không chần chờ, tôi cho phi cơ di chuyển ra khỏi ụ. Anh Phùng vẫn còn đứng cạnh máy bay, anh ra dấu cho tôi biết là bình điện của phi cơ anh bị hư. Vì vậy, tôi quyết định cất cánh một mình, như đã Briefing trước đó. Tôi ra hiệu cho anh Phùng biết, và gọi Đài Saigon Ground Control (Đài Kiểm Soát Diện Địa Sài Gòn) để xin di chuyển ra phi đạo, đài trả lời ngay:
                              - Phi Long 51 (PL51)! Phi đạo sử dụng 25, gió hướng Nam 4 knotts, áp suất 29.92…

                              Nhận thấy gió ngang gần như thẳng góc với phi đạo và rất nhẹ (4 knotts), tôi có thể cất cánh bất cứ hướng nào. Nhưng tôi không thể dùng PĐ25 sẽ vô cùng nguy hiểm; vì khi bay lên, sẽ chui ngay vào đạn đạo của địch đang pháo kích. Nếu cất cánh PĐ 07, tôi quẹo trái để đến đầu PĐ 07, thì phải di chuyển ngang qua bãi đậu A37 đang cháy rực lửa, cũng rất nguy hiểm. Vì vậy, tôi có ý định quẹo phải theo Taxi way #3, để cất cánh PĐ 07, nghĩa là ngược chiều PĐ sử dụng. Tôi chỉ có thể dùng ½ chiều dài phi đạo còn lại. Cứu binh như cứu lửa, không còn phương cách nào khác, tôi quyết định gọi:
                              - Saigon Ground Control! PL51 request taxi ra Whisky number three và cất cánh PĐ 07.

                              Ngay khi được phép, tôi di chuyển nhanh ra phi đạo 07 R, miệng lẩm bẩm: "Người đẹp của tôi ơi! Em ráng giúp anh thêm một lần nữa! Đừng ho hen nha cưng"! (Pilot chúng tôi xem chiếc máy bay mình lái như là người vợ, người tình muôn thuở, đặc biệt là em Skyraider tuổi già sức yếu, nên đôi khi em ưa “nũng nịu, nhỏng nhẽo" ). Sau khi thử máy (dù biết chưa nóng máy), tôi xin đài Saigon Tower cho phép cất cánh khẩn cấp. Vì chỉ còn lại ½ phi đạo, nên tôi phải dùng phương cách “Maximun Peformance Take Off" , và cất cánh lúc 04 giờ 25 phút sáng ngày 29/4/1975. Vừa rời khỏi phi đạo, lòng tôi rộn rã một niềm vui mừng khó tả, và cảm tạ ơn Trên cho tôi cơ hội cứu nguy cho mọi người trong Tân Sơn Nhứt. Sang tần số Paris (đài Kiểm Báo Sài Gòn) tôi báo:
                              - Paris! PL 51 vừa cất cánh một chiếc A1 với 10 trái MK 81. Xin nhận chỉ thị.
                              Đài Paris chưa kịp trả lời, tôi đã nghe:
                              - PL 51! Đây Tinh Long 06 (TL06), bạn đến Phú Lâm ngay! Chỗ có nhiều trái sáng. Bao lâu bạn tới?
                              - TL06! PL 51 mang 10 trái MK 81, sẽ có mặt trong 5 phút và request Random Attact! OK!

                              Khi lên tới Phú Lâm, tôi được Trung-úy Trần Văn Bảo, Trưởng Phi Cơ của chiếc AC-119K hướng dẫn oanh kích: mục tiêu là hai làn khói của hai giàn pháo 122 ly. Tôi rất ngạc nhiên, mục tiêu chỉ cách đài Radar Phú Lâm hơn 500 mét về hướng Tây. Nhờ lặng gió, nên hai làn khói này vẫn còn la đà trên mặt đất. Lập tức, tôi vừa lao xuống vừa gọi:
                              - PL51 in hot và thả từng trái một!
                              Sau khi thả trái bom xuống mục tiêu thứ nhì, tôi ngưng lại và chờ đợi. Trong thời gian nầy, tôi nghe giọng Tướng Kỳ trong vô tuyến:
                              - Phi Long 51 trút hết bom đạn xuống target! Tối nay ghé nhà tôi nhậu!
                              Tôi hỏi lại:
                              - Giới chức vừa ra lệnh cho Phi Long 51, xin cho biết danh hiệu.
                              - Tôi Thần Phong 01, Thiếu Tướng Kỳ đây!
                              - Thần Phong 01! PL51 lên một mình với 10 trái bom 250 cân Anh, tôi có kinh nghiệm chống pháo kích. Thần Phong 01 an tâm. Tôi có thể ở đây thêm ba giờ nữa.
                              Khoảng 15 ; 20 phút sau, có lẽ bọn cộng-phỉ nghĩ tôi đã hết bom, nên chúng bắt đầu pháo trở lại. Tôi nhìn thấy rõ nhiều giàn pháo, mỗi giàn 4 khẩu 122 ly liên tục phóng lên. Liếc nhìn về hướng Tân Sơn Nhứt, và Sài Gòn có nhiều quầng sáng nháng lên, tôi liền lao xuống thả bom và thầm gọi: "Anh Phùng ơi! anh ở đâu, sao không lên tiếp tay với tôi? Một mình tôi làm không xuể đâu! Anh Phùng ơi"! Năm phút sau, khi định nhào xuống thả bom, tôi thấy có vài đám nổ dưới mục tiêu, tôi tưởng lầm là rocket của trực thăng võ trang bắn xuống, tôi liền cự nự Trung-úy Bảo:
                              - TL06! Bạn cho tôi đánh random attack, sao bạn lại cho gunship (trực thăng võ trang) vào “ăn có”? Nó bay cao độ thấp, lỡ tôi không thấy, nện ngay trên đầu nó, thì phiền lắm!
                              Anh Bảo liền cãi chánh:
                              - Không phải đâu PL51, tôi đã đuổi tụi nó qua bên Quốc Lộ 4 rồi. Để tôi quan sát kỹ lại.

                              Lúc đó có khoảng ba bốn chiếc trực thăng quây quần phía Đông Bắc Phú Lâm. Sắp nhào xuống thả bom lần kế tiếp, tôi lại thấy có ánh lửa nổ tung và tiếng anh Bảo la lên:
                              - Ê ...PL 51! Tôi thấy có một chiếc dường như là A-1 vào đánh phụ với bạn đó! Chắc chắn không phải là gunship đâu!
                              Tôi liền nghĩ ngay tới anh Phùng, nên trả lời anh Bảo:
                              - TL06! chắc là Thiếu Tá Phùng! Có thể anh Phùng bị trục trặc về vô tuyến! Bạn an tâm, monkey see monkey do (thấy tôi thả bom ở đâu, anh ấy sẽ thả bom ở đó).
                              Nhờ sự yểm trợ hỏa châu của TL-06, chúng tôi dễ dàng “lượm” những giàn pháo như lấy kẹo trong túi. Thanh toán xong các giàn pháo nầy, thì tôi cũng vừa hết bom.
                              - TL06, tất cả giàn pháo đã “clear“ (bị hủy diệt sạch) tôi giao ở đây cho bạn, PL 51 để dành 800 viên 20ly phòng thủ phi trường. Vì muốn biết người phụ tôi diệt pháo vừa rồi, có đúng là anh Phùng không? nên tôi sang tần số của Đài Sài Gòn:
                              - Saigon Tower! Đây PL51. Bạn cho tôi biết: sau tôi còn có chiếc A1 nào cất cánh không?
                              Tôi được trả lời:
                              - Tụi nó pháo quá, chúng tôi núp dưới hầm trú ẩn, vừa lên nên không biết gì hết bạn à!

                              Khoảng 5:25’ sáng tôi về tới Tân Sơn Nhứt, trời vẫn còn tối đen như mực, ngoại trừ những ánh đèn phi đạo và taxi way, còn có hai đám cháy: một đám ở bãi đậu A37 (như đã nói ở trên), còn đám cháy thứ hai... dù tôi đã đảo nhiều vòng, nhưng vẫn không nhận ra chính xác là nơi nào. Nhưng sau ít phút nhờ ánh sáng lờ mờ bập bùng còn lại của đám cháy, tôi vừa nhận ra là ở phía Nam của dinh Tướng Kỳ độ chừng trăm mét. Tự nhiên trán tôi rịn mồ hôi, tay run lẫy bẫy, tim đập dồn dập, và ứ nghẽn lồng ngực muốn nghẹt thở, vì hình như đám cháy là ở khu cư xá C-7, là nơi vợ con tôi tạm trú. Miệng tôi không ngớt cầu nguyện: "Cầu xin ơn Trên che chở cho vợ con của con, và những người khác được bình yên".
                              Ngay lúc đó, trong lòng lòng tôi bùng lên một cơn giận dữ & căm thù đám cộng-phỉ trong trại Davis, nếu vợ con tôi có mệnh hệ nào, tôi thề sẽ thí mạng với bọn chúng!

                              Mươi phút sau, tôi thấy chiếc TL07 cất cánh lên, để thay thế chiếc TL06 về đáp. Tôi tiếp tục bao vùng trên không phận Tân Sơn Nhứt, cho đến khi bình minh có ánh sáng lờ mờ, tôi nhận ra đám cháy chính là cư xá Nữ Quân Nhân. Tôi nóng lòng muốn đáp xuống, nhưng chưa có phi tuần nào lên thay thế. Vài phút sau, tôi nhìn sang cánh phải: thấy có một chiếc AD-5 còn treo hai trái bom, cứ bám sát theo phi cơ tôi. Tôi sang tần số và gọi đài Saigon Tower một lần nữa, để xác định chiếc AD-5: “có phải là của anh Phùng không”. Câu trả lời vẫn là “Không biết”. Vừa lúc đó, “anh bạn dễ ghét” như muốn chơi trò trốn tìm “ú tim” với tôi, nên anh ấy cho phi cơ hết lòn sang trái, lại chui qua phải. Tôi bất ngờ cắt bán kính, quẹo vòng thật gắt, định ra sau chiếc phi cơ nầy. Nhưng anh bạn “dễ ghét” là một cao thủ tuyệt đỉnh, lúc nào anh cũng bám riết theo sau, khi sang trái khi sang phải, cố ý trêu đùa tôi. Nếu là dog fight (không chiến) thì tôi bị tay lão luyện nầy “dớt rụng càng” rồi!

                              Trên tần số Paris, tôi nghe giọng của Thiếu-tá Hồ Ngọc Ấn, Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 liên lạc với TL07, cho biết: “phi tuần hai chiếc A1 của anh đang ở Long An, trên đường tiến về Sài Gòn. Đại-uý Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2. Khoảng mười phút sau, Trung-uý Trang Văn Thành, Trưởng Phi Cơ của TL07 gọi trên tần số:
                              - Phượng Hoàng 11, tôi nghi ngờ có một toán đặc công độ năm bảy tên, định cắt hàng rào kẽm gai phía Bắc phi trường, chỗ miếng đất trống hình tam giác ở An Nhơn. Bạn cho một trái ngoài hàng rào, đánh trục Đông sang Tây. Tôi giữ cao độ 5.000.

                              Vì biết phi tuần anh Ấn chưa đến nơi, nếu cần thiết tôi có thể dùng bốn cây đại bác 20 ly bắn dọc theo vòng rào. Tôi bay tới đó, mặt trời vừa ló dạng, trời tỏ hơn nhưng ở độ cao 4.000 bộ, nên tôi không thấy gì cả. Thình lình anh Phùng lao xuống thả một trái bom. Thì có tiếng anh Thành hốt hoảng la lên:
                              - Số 1 thả bom “như để“ . Số 2 đánh dài hơn vài mươi thước.
                              Trái thứ nhì rơi dài hơn năm chục thước. Anh Thành hoảng hốt:
                              - Phượng Hoàng 11 Hold High and dry (ngưng thả bom). Số 2 của bạn đánh gần nhà dân quá!
                              Thiếu tá Ấn liền lên tiếng:
                              - TL07! Ai khác đánh đó, chớ không phải Phượng Hoàng 11! Tôi chỉ mới tới Bến Lức, làm sao thả bom ở đó được!
                              Thì ra anh Thành lầm lẫn phi tuần của tôi- là phi tuần anh Ấn. Tôi vội lên tiếng:
                              - TL07! Đây PL 51. Đó là Phi Long 52 (chiếc số 2 của PL51) nó hư vô tuyến, chỉ còn hai trái, vừa thả hết rồi. Còn tôi đã “Empty” (hết bom).
                              Nhận ra tiếng của tôi, Đại-uý Thụy (người bạn cố tri cùng PĐ Thái Dương 530 với tôi ở Pleiku) gọi tôi:
                              - Ê Phúc! Mày về Cần Thơ đi, đáp ở đó (TSN) nguy hiểm lắm!
                              Nhìn đồng hồ xăng có 800 lbs, vừa đủ để bay đi Cần Thơ, nhưng tôi đã có quyết định đáp Tân Sơn Nhứt từ trước, nên trả lời:
                              - Vợ con tao còn kẹt lại đây, giá nào cũng phải đáp Tân Sơn Nhứt. Tình hình ở đây chưa đến nỗi nào đâu.
                              Đột nhiên anh Phùng gọi tôi:
                              - Ê ...PL51, đi Cần Thơ nha! Bay với mi gần 3 tiếng, chừ mới liên lạc được một xí. Tao nghe được, nhưng bị câm. Bực mình quá!
                              Tôi vội bấm máy trả lời:
                              - Không! Tôi chỉ còn 600 pounds xăng, vả lại vợ con tôi kẹt ở đây. Anh đi Cần Thơ một mình trước nghen!

                              Lúc bấy giờ TL07 đang bay 5.000 bộ, nên anh Thành muốn xuống thấp để dễ quan sát, và nhìn thấy rõ hơn, nên anh báo cho chúng tôi biết:
                              - PL51! TL07 xuống cao độ để nhìn rõ hơn. Tôi không muốn đánh lầm vào nhà dân, tội họ lắm!
                              Không ngờ mấy phút sau, khi chúng tôi bay trên Lăng Cha Cả, ở cao độ 1.500 bộ, anh Phùng gọi tôi:
                              - Ê một! Mình đáp xuống Tân Sơn Nhứt đi!
                              Lo ngại vô tuyến bất thường của anh hư, nên tôi nhường cho anh Phùng đáp trước. Nhưng trước khi Touch Down (chạm bánh), anh Phùng lại gọi tôi:
                              - Một! Mi đáp trước đi, tao Go Around (bay lên lại). Mi chờ ít phút, tao về chở mi vô!
                              Nóng lòng vì vợ con ở kế bên đám cháy (cư xá Nữ Quân Nhân), nên tôi không bay theo anh Phùng như thông lệ. Tôi tiếp tục vào Final (cận tiến), thì Sài Gòn Tower báo cho chúng tôi:
                              - PL51, có SA7 bắn lên. Tôi thấy mấy cục lửa bằng cườm tay bay lên!
                              Vì tôi đã chứng kiến SA-7 bắn ở Kiến Đức vào cuối năm 1973, nên tôi có ý nghi ngờ:
                              - Saigon Tower, SA-7 bắn lên lúc đầu: là một vùng lửa to màu cam, sau đó đổi sang màu trắng xanh, và bay lên rất nhanh. Bạn quan sát kỹ chưa?
                              Anh bạn nầy có vẻ bất bình trả lời:
                              - PL51, tôi báo cho bạn biết, mà bạn không tin, nếu bị bắn, bạn ráng chịu nha!
                              Tự nhiên tôi nhớ đến Trung-tá Phạm Văn Thặng Fulro khi ông "xỉn", ông thường ngâm nga... nên tôi nghêu ngao trên tần số: "Làm sao giết được người trong mộng …1 …2 …3…touch down"!

                              Di chuyển về bãi đậu lúc 6 giờ 55 phút, các anh em phi đạo reo mừng, công kênh tôi như đón một một vị cứu tinh! Rồi chúng tôi cùng nhau theo dõi chiếc TL07 đang nghiêng cánh trái ở cao độ chừng vài ngàn bộ, và xạ kích xuống mục tiêu. Từng tràng đại bác 20 ly (Minigun 6 nòng) nã xuống như mưa, tiếng kêu như bò rống. Tôi trấn an các anh em:
                              - Target đó ở ngoài vòng rào, chỉ là tình nghi thôi! Ông Trung-uý Thành muốn biểu diễn cho mọi người coi chơi cho vui vậy mà!
                              Tôi vừa dứt lời, thì đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống(*), động cơ bên phải phát hoả và nổ tung, cánh phải gãy xuống, đồng thời phòng lái bốc cháy. Phi cơ ngoặc đầu qua trái, lao xuống và rơi vào spin (xoay tròn như bông vụ). Tất cả mọi người xung quanh tôi hoảng hốt hét lớn:
                              - Nhảy dù đi…
                              - Nhảy dù…
                              - Nhảy dù nhanh lên…

                              Nhưng quá trễ, tôi không thấy cánh dù nào kịp bung ra, chiếc phi cơ đã cắm phụp đầu xoáy xuống đất rất nhanh. Những cột khói đen lửa đỏ cuồn cuộn bốc phụt lên cao hàng trăm mét. Toàn bộ phi hành đoàn đều hy sinh. Tất cả anh em chúng tôi bàng hoàng sửng sốt, đứng chết lặng mà nước mắt tự dưng tuôn trào. Một lúc sau, mọi người cúi đầu lặng lẽ trở về làm nhiệm vụ của mình. Từ giờ phút nầy phi trường TSN thật sự không còn an toàn nữa, vì sự xuất hiện của SA-7 khắc tinh của tất cả các loại máy bay.

                              Riêng tôi, ngồi bệt xuống bãi cỏ bên lề phi đạo, mắt vẫn hướng về những cột khói đen bốc lên cao, như anh linh của Phi Hành Đoàn TL07 đang siêu thoát. Tôi hy vọng Thiếu-tá Trương Phùng bay đi Cần Thơ, tuy nhiên tôi vẫn có ý trông đợi anh Phùng trở về. Tôi chờ mãi… tới khi anh tài xế xe bồn tiếp xăng giục tôi lên xe, để trở vô biệt đội khu trục. Trong lòng tôi thầm nghĩ:
                              - Đúng rồi, anh Phùng nên bay đi Cần Thơ là hợp lý nhất!
                              Sau 9:30’ giờ sáng ngày 29/4/75 bọn chúng bắt đầu nã đì đùng bằng đại pháo 130 ly, đặt ở Nhơn Trạch gần Thành Tuy Hạ - Cát Lái. Nhưng lúc bấy giờ không ai thèm màng tới việc diệt pháo nhỏ giọt vào Tân Sơn Nhứt nữa. Trong phi trường thỉnh thoảng đạn 130 rơi rớt đâu đó, may mắn sao không trúng tôi. (ha ha ha...) Cả căn cứ Tân Sơn Nhứt không một bóng người, bầu trời vô cùng u ám, một phần vì thời tiết chuyển mưa, một phần vì những làn khói đen lan toả la đà từ chiếc TL-07 đang bốc cháy. Tôi có cảm tưởng như mình lạc vào trong bãi tha ma lúc hoàng hôn.

                              Sau khi quân cảnh không cho tôi ra cổng (Phi Long), không được nói một lời gì với vợ con (họ theo gia đình Vân về nhà), tôi trở vào trung tâm hành quân Không Quân chờ lịnh. Nữa giờ sau, tôi định đi ra ngoài bằng cổng trại Hoàng Hoa Thám; nhưng khi đến cuối sân banh, tôi gặp ba Thiếu-tá: Sơn, Bản, Liêu PĐ 530, họ đang chạy ngược chiều và kêu tôi:
                              - Ê Phúc! được lệnh đi Cần Thơ. Nhanh lên.
                              Tôi chạy theo họ ra bãi đậu, chiếc AD-5 của Thiếu-tá Hồ Văn Hiển PĐ 514 đang chờ. Tôi là hành khách bất ngờ bất đắt dĩ và cuối cùng thứ 20. Chúng tôi rời Tân Sơn Nhứt lúc 11 giờ trưa. Lúc bấy giờ trong Tân Sơn Nhứt có lẽ không còn phi cơ nữa (sau khi yểm trợ quân bạn ở Bến Cát xong, trên đường về Cần Thơ, Thiếu-tá Hiển đáp xuống, để rước chúng tôi). Khi đến Cần Thơ, tôi vội vã đi tìm anh Trương Phùng khắp nơi, nhưng tìm hoài không thấy anh Phùng đâu cả!

                              Ôi! Thì ra… thật vô cùng đau đớn, xót xa, nghẹn ngào không sao tả xiết, vì một cánh chim oai dũng phi thường oanh liệt đã một mình một bóng sớm xa tổ lìa đàn, ông thênh thang bay về cõi vĩnh hằng miên viễn... để lại trong lòng anh em bao tiếc thương vô tận. Đó là: cố Thiếu Tá Không Quân TRƯƠNG PHÙNG... sinh năm 1943 tại Thừa Thiên. Ông oanh liệt hy sinh ngày 29 tháng 4 năm 1975 tại Bình Điền, Long An. (Sài Gòn).
                              * * *

                              Ghi chú thêm: trước 30/4/1975 và sau... 2010:

                              *.-
                              Thiếu-tá Không-quân Hồ Ngọc Ấn Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 (hiện ở Dallas). *- Đại-uý Không–quân Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2, hiện ở Houston.

                              1.- *Đại-úy Không-quân Trần Văn Phúc - Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51, hiện ở Cali :
                              - Mãi đến tận ngày hôm nay, tôi vẫn cảm thấy hối tiếc: vì Trời đã cho tôi một cơ hội ngàn vàng, để tôi có thể bắn hạ bọn phản tặc ác ôn A37 Nguyễn Thành Trung (tôi đã học kỷ thuật không chiến Dogfight trong khoá Phi Tuần Trưởng với Trung-tá Nguyễn Văn Huynh PĐP PĐ 518), mà tôi lại vô tình để vuột mất cơ hội ngàn năm một thuở! Trong trường hợp “tao ngộ chiến" hy hữu đó, bọn chúng không trông thấy chúng tôi, vì bị chói ánh mặt trời chiều, nên không có phản ứng né tránh nào, mà chúng vẫn ung dung bay thẳng tới.
                              Hoặc chúng tôi chỉ cần lách sang một bên, bật nút ARM - ON và bóp cò súng, bắn ngang hông ở phía sau bọn chúng, thì 800 viên đại bác 20 ly trên mỗi chiếc A1 của chúng tôi sẽ không tha bọn chúng. Hoặc lúc đó tôi gọi Paris (đài Kiểm Báo Không Lưu TSN) để báo động khẩn cấp. Các phi cơ F5-E đang ứng trực ở đầu phi đạo TSN, sẽ tức tốc cất cánh lên xơi tái bọn chúng, thì bọn chúng chẳng còn mạng, để sau nầy vung vít mà “bốc phét”! Đây có phải là vận mệnh thảm khốc đau buồn của đất nước Việt Nam đã an bài phải là ngày 30/4/1975 !?

                              *2.- Trên không phận Sài Gòn lúc bấy giờ (29/04/75) chỉ có ba chiếc phi cơ là: TL-07, phi cơ anh Phùng và phi cơ của Phúc. (TL 07 chỉ xuất hiện sau 6 giờ sáng. Phi tuần hai chiếc A-1: của Thiếu-tá Ấn & Đại–úy Thụy trên đường về Sài Gòn).

                              *3.- Có lẽ vì sợ SA-7 nên ông Đại Sứ Martin phải nói dối trước Quốc Hội Mỹ là: “Hai phi đạo bị trúng pháo kích, hư hại nặng nề, và ông ra lịnh di tản người Mỹ bằng trực thăng”?

                              *4.- ... đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống(*)... Mãi đến năm 2010, khi vừa mới cải táng cho PHĐ TL07 xong, chúng tôi mới liên lạc được với Th/Sĩ I Nguyễn Văn Chín tự “Chín Dơi“, Gunner của TL07, là người duy nhất nhảy dù ra sống sót, anh chính là “vật” (hi hi)… màu đen rơi xuống từ chiếc TL 07, mà anh em ở trong phi trường TSN đều thấy.

                              *5.- Vì Phi Hành Đoàn TL07 có nhiều người tình nguyện đi bay trong lúc khẩn cấp, nên hầu hết nhân viên trong PHĐ không ghi đúng tên trong phi lệnh. Tôi chỉ biết có:
                              - Trung-uý Trang Văn Thành (Trưởng phi cơ), xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, nhập ngũ ngày 12/9/1967, khoá 68A TTHLKQ Nha Trang. Anh Thành là cháu rể của cố Thiếu-Tướng Võ Xuân Lành, TLPKQ. Anh Thành có hai biệt danh: ở quân trường Nha Trang anh có tên “Thành Thụt”, vì đôi mắt sâu thẳm, tánh tình anh rất cương trực, hăng say, năng nổ trong mọi công việc. Khi về PĐ C119 anh Thành có thêm một biệt danh: “Thành Kampuchia” (vì màu da ngâm ngâm của anh). Đêm 28/4/75 anh Trung uý Trang Văn Thành tình nguyện bay thêm phi vụ Extra TL 07, mặc dù trước đó anh đã bay phi vụ TL01 hồi đầu hôm rồi. - Trung uý Tào Thuận, hoa tiêu phụ. - Thiếu uý Phạm Tấn Đức. Họ vĩnh viễn ra đi... nhưng để lại sự thương tiếc kính phục vô cùng của hàng vạn người trong và ngoài Tân Sơn Nhứt.

                              *6.- Sau ba năm ba tháng phục vụ trong PĐ Thái Dương 530 – Pleiku trấn thủ Cao Nguyên, tháng 4 năm 1974 tôi trở lại Biên Hoà, được đưa về PĐ Phượng Hoàng 518, KĐ 23 Chiến Thuật, SĐ3KQ. Sau đó tôi thường đi biệt phái ở Biệt Đội Khu Trục tại Tân Sơn Nhứt, cho đến tháng 9 năm 1974, tất cả phi cơ A1 bị “đình động” (vì uống xăng!?). Vì vậy thời gian tôi quen biết, chuyện trò cùng Thiếu-tá Trương Phùng không nhiều. Tôi chỉ nhớ:

                              *7.- Th/tá Trương Phùng sanh năm 1943 tại Thừa Thiên, anh gia nhập Không Quân vào đầu năm 1964, khóa 64B SVSQKQ Nha Trang, tốt nghiệp khóa L- 5 Quan Sát. Sau đó anh được tuyển chọn xuyên huấn T28 và A-1 Skyraider tại Hoa Kỳ. Trở về nước, anh phục vụ tại Phi Đoàn 110 Quan Sát. Sau cùng là Phi Đoàn 518 Phi Long - Khu Trục A-1, KĐ 23CT, SĐ3 KQ Biên Hòa. Anh là mẫu người hùng KQ từng tham dự hầu hết các chiến trường khắp bốn vùng chiến thuật, là người hùng diệt 15 xe tăng cộng-quân trong hai tuần lễ vào đầu tháng 4 năm 72 ở Quảng Trị. Anh là một người đầy nhiệt huyết, không bao giờ từ chối bất cứ một phi vụ nào, dù nguy hiểm. Anh là một phi tuần trưởng sĩ quan gương mẫu, lấy phương châm: Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm lên hàng đầu.

                              Tôi được hân hạnh cùng bay chung với NT Th/tá Trương Phùngvào tháng 8/1974, khi CSBV vi phạm Hiệp Định Ba Lê, chúng pháo kích vào phi trường Biên Hòa. Để trả đũa hành động nầy, Đại Tá Hoàng Thanh Nhã, KĐT KĐ23CT, SĐ 3 KQ chỉ thị hai phi tuần, mỗi phi tuần hai chiếc Khu Trục A-1 Skyraider, mỗi chiếc mang 6 trái bom CBU-25, dùng bom CBU - 25 là loại bom dùng để chống chiến thuật biển người, phá giao thông hào, mỗi trái cân nặng 500 cân Anh (lbs), gồm 7 ống thẳng, dài độ 4 mét, buộc lại thành một khối tam giác, mỗi ống chứa 25 quả bom nhỏ như trái lựu đạn, có loại nổ trên mặt đất, có loại nổ chậm. Muốn đạt hiệu quả tối đa, nên thả bom nầy theo cách Skip bom, nghĩa là bay thật thấp, các trái bom nhỏ nầy được phóng xuống đất. Nếu thả bom từ trên cao thì không thể chính xác, càng cao các quả bom nhỏ nầy càng rải rộng ra, nếu thêm sức gió có thể thổi bay đi xa cách mục tiêu hàng ngàn mét).

                              Phi tuần số 1 do Thiếu-tá Phùng và Trung-uý Đinh văn Đức. Phi tuần thứ hai do tôi (Đại úy Trần Văn Phúc) và Trung-uý Nguyễn Tứ Đức thi hành một nhiệm vụ đặc biệt: oanh tạc Tổng Hành Dinh của MTGPMN ở đồn điền cao su Lộc Ninh. Để bảo vệ vùng trời Lộc Ninh, nơi bọn CSBV trá hình MTGPMN đặt Bộ Tổng Hành Dinh. Ngoài hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, bọn CSBV đặt rất nhiều khẩu đại bác phòng không 37 ly, hay 57 ly, điều khiển bằng radar. Nếu bay dưới 11 ngàn bộ, chúng tôi sẽ trở thành những “target sống”, để bọn cộng-phỉ tha hồ thực tập tác xạ. Vì tầm quan trọng của phi vụ nầy, là cảnh cáo cho bọn cộng-phỉ biết: Không có bất cứ nơi nào trên lãnh thổ VNCH, là bất khả xâm phạm đối với Không Lực Việt Nam Cộng Hoà. Quân Đội VNCH sẵn sàng trả đũa những vi phạm Hiệp Định Ba lê của chúng. Vì vậy sau khi thảo luận, đồng ý chọn lối đánh mạo hiểm nhất (nhưng an toàn nhất), chúng tôi xin Đại-tá Nhã:

                              - Đại-tá ra lịnh chúng tôi đi dội bom ở đó, thì xin Đại-tá cho phép chúng tôi được chọn cao độ bay. Nếu như bay cao 12 hay 13 ngàn bộ, để tránh phòng không, thì thả bom không thể nào chính xác được, coi như không. Vì vậy chúng tôi xin chọn lối đánh "truy kích".
                              Ông đồng ý và nhấn mạnh thêm về tầm nguy hiểm:
                              - Nếu có ai gặp phải bất trắc, các bạn chịu khó trốn tránh qua đêm cho đến sáng mai, mới có phi vụ rescue. Các bạn khác lập tức bay về đáp, không được ở lại cover.

                              Sau cơm trưa sớm hơn thường lệ (11 giờ), chúng tôi bắt đầu nghiên cứu những tấm không ảnh (chụp những cơ sở nguỵ trang dưới hàng cây cao su) thảo kế hoạch, tính toán giờ giấc, hướng bay một cách rất cẩn thận từng chặn đường. Để giảm thiểu sự nguy hiểm cho phi tuần thứ nhì (bay sau) của tôi. Thiếu-tá Phùng đề nghị nhập hai phi tuần thành một hợp đoàn bốn chiếc; dùng chiến thuật truy kích với yếu tố bất ngờ, chớp nhoáng, bay lướt trên ngọn cây. Khi bọn chúng thấy, thì chúng tôi đã bay mất rồi, không kịp bắn. Với lối bay nầy, đòi hỏi người Leader phải có một khả năng, kinh nghiệm, bình tĩnh, sáng suốt, cũng như gan dạ. Vì thỉnh thoảng một mình anh Phùng (Leader) phải “trồi lên lặn xuống” năm ba trăm bộ, để nhận dạng những "check point" (điểm chuẩn) để tránh bay lạc. Anh Phùng phân chia nhiệm vụ cho từng người, lập lại nhiều lần: “mỗi chiếc phi cơ chỉ thả một lần, và chiếc kế nối tiếp với nhau”.

                              Theo phi lịnh, chúng tôi cất cánh đúng 2 giờ trưa, nhưng bắt đầu 1 giờ, bỗng dưng trời mưa như trút nước (có thể ông trời giúp chúng tôi?) tưởng chừng như phi vụ bị huỷ bỏ, cho đến sau 5 giờ chiều, cơn mưa tạnh hẳn. Chúng tôi được lịnh cất cánh khẩn cấp, anh Phùng nhắc lại:
                              - Phi vụ của chúng ta rất quan trọng, rất nguy hiểm, nhưng tôi (anh Phùng) tin tưởng vào chiến thuật mình đã thảo ra. Như các bạn đã biết: Tụi mình không bay thẳng tới đó, mà mình bay vòng về hướng Bắc. Các bạn bớt căng thẳng đi! Có thể ông trời đã giúp mình hôm nay, nên đổ mưa mấy tiếng đồng hồ, vì vậy khi mình tới target mặt trời cũng sắp lặn, bảo đảm tụi nó không ngờ mình tới đâu! Chắc chắn mình phải bay đêm, các bạn cẩn thận coi lại tất cả các đèn phi cụ.

                              Như trong phi trình đã hoạch định, chúng tôi “joint up” ở 2.000 bộ, với hợp đoàn chiến đấu (Tactical Formation), tất cả phi cơ bay bên cánh phải của anh Phùng, lấy Lai Khê làm điểm xuất phát, bay thật thấp về hướng Bắc, bên phải Quốc Lộ 13, qua khỏi Tống Lê Chân 5 dặm, thì đổi sang hướng Tây. Như dự đoán, tôi bắt đầu lướt trên nhiều ổ phòng không, nhìn xuống tôi thấy từng cụm năm ba tên cộng-phỉ cố quay vòng những họng súng, để bắn vói theo phi cơ chúng tôi. Tôi gặp ít nhất năm khẩu phòng không trên đoạn đường dài chừng 20 dặm nầy. Khi thấy Lộc Ninh bên phải, và nhận định mục tiêu, anh Phùng ra lịnh:
                              - Tất cả Phi Long coi lại Mills (độ của máy ngắm) lên cao độ 1.500 bộ, target 1 dặm, hướng 10 giờ (quẹo trái về hướng Nam, để thả bom vào bên hông địch).

                              Lần lượt: "số 1 Rolling Hot”, rồi số 2, số 3 và số 4 Rolling Hot khi ánh sáng vàng nhạt cuối cùng trong ngày. Chúng tôi đã vượt qua rất nhiều hàng rào phòng không dày đặc, trên đường đi ngay cả đường về, rất nhiều lần chúng tôi lướt trên những ổ cao xạ, nhìn thấy bọn chúng quay vòng những họng súng, để bắn vói theo (quá trể rồi! lúc đó chúng tôi đã khuất dạng). Khi chúng tôi bay về gần tới Tây Ninh, thì trời đã tối hẳn. Nhờ vào sự can đảm phi thường, nhờ sự thông thạo địa hình, đầy kinh nghiệm của Thiếu-tá Phùng, chúng tôi đã hoàn thành sứ mạng, an toàn về đáp lúc 8 giờ tối. Cám ơn ông trời ban cho chúng tôi một cơn mưa, giúp chúng tôi hoàn thành phi vụ một cách tốt đẹp. Khi đáp xong, tôi ghi nhận thêm: Thiếu-tá Phùng thà ngậm đèn bấm soi sáng những phi cụ để bay, nhưng nhứt định không chịu hủy bỏ phi vụ, dù rằng trong phiên họp buổi trưa Đại-tá Nhã đã lưu ý hai lần:
                              - Nếu có gì bất trắc, các bạn rán chịu đựng qua đêm, sáng mai mới có trực thăng rescue.
                              Anh Phùng cười, rằng:
                              - Mấy chuyện lẻ tẻ làm sao làm khó dễ tao được. Ngày mai tụi mình đi gặp Đại-tá Nhã, xin ông cho tụi mình bay lên đó diệt phòng không, ít nhất mình cũng “lượm” hàng tá cao xạ 37, hay 57 ly. Đứa nào bay với tao, thì theo tao tới câu lạc bộ Trần Thế Vinh.

                              *8.- Để nhớ ơn người anh hùng vị quốc vong thân: cố Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng, có nhiều thân hữu quân dân góp sức truy tìm tung tích anh Phùng. Sau gần bao năm lặn lội tìm kiếm... Trong cơ duyên nhờ anh linh của cố Thiếu-tá Trương Phùng dẫn dắt, ngày 2 tháng 12 năm 2008, cựu KQ Nguyễn Toại Chí đã mang hài cốt Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng (vùi sâu dưới năm thước đất, gần cầu Bình Điền, Long An; trở về với gia đình). Hài cốt của cố Thiếu-tá Trương Phùng được hoả táng, đem về thờ phượng tại chùa Bữu Quang. Theo nhân chứng là cụ H. (cụ còn ở Việt Nam, 90 tuổi, xin tạm dấu tên) kể rõ rằng: “Động cơ của chiếc máy bay bị ra khói, buộc lòng anh Phùng phải đáp khẩn cấp xuống ruộng, gần cầu Bình Điền. Anh Phùng bị bắt khoảng 7 giờ sáng ngày 29/4/74. Ngay tối hôm đó bọn Cộng-phỉ khát máu đã hành quyết anh Phùng cạnh giao thông hào”.

                              *9.- Cũng sau nhiều năm tháng vất vã ngược xuôi tìm kiếm, ngày 21-7- 2010 có một nhóm thân hữu Dân Quân Chánh, gia đình Thiếu-uý Phạm Tấn Đức, cùng cựu Không-quân Nguyễn Toại Chí đã tìm được nhiều hài cốt của PHĐ 07 trong vòng đai của căn cứ Tân Sơn Nhứt. Họ đã mang hài cốt qúy vị ấy về an vị tại nghĩa trang An Khánh - Thủ Thiêm. (KQ NTC phụ trang).

                              *10.- Cư xá Nữ Quân Nhân ở kế bên chưa đầy mươi mét, đã biến thành tro. Tôi (Phúc) vội vã lái xe Honda phóng nhanh trở về cư xá C-7 thăm vợ con. Vào phòng cư xá C-7 thì không thấy ai, hoảng hốt tôi đi vòng theo sidewalk để tới hầm trú pháo. Vô cùng may mắn khi tôi thấy một trái 122 ly không nổ, đã cắm sâu xuống nền ciment, cách phòng của vợ con tôi chừng ba thước, (nơi đó vợ con tôi & gia đình Trung-uý Phạm Trung Vân PĐ C7- 431; là em rễ vợ tôi). Trước kia tôi thấy cái hầm nầy, đã bỏ hoang lâu năm, bên trên chỉ có vài lớp bao cát mục nát, tôi nghĩ chúng tôi không nên ở lâu, vả lại tôi không quen “đường sá” trong khu Tân Sơn Nhứt. Vì vậy bất đắt dĩ tôi phải dời gia đình qua dinh Tướng Kỳ lánh tạm, dù sao ở đó cũng kiên cố hơn...

                              11.- Tôi chứng kiến chiếc trực thăng đáp xuống (khoảng sau 9 giờ sáng) Trưởng phi cơ là Thiếu-tá Quí, anh em Trung-tá Nguyễn Quốc Hưng & Trung-tá Nguyễn Quốc Thành, mỗi người cầm một cây M16. Tướng Kỳ vào nhà, ông cứ đi ra đi vô phòng làm việc nhiều lần. Khi ông bước ngang chỗ tôi đứng, tôi mạo muội hỏi:

                              - Thưa Thiếu Tướng, Thiếu-Tướng định làm gì bây giờ?
                              Ý của tôi hỏi Tướng Kỳ, là tôi muốn biết có di tản về Cần Thơ, (như lời ông kêu gọi tại đây đêm 25/4/75 là: “cần đánh một trận oai hùng cuối cùng”)? Chẳng biết ông có nhận ra tôi hay không, ông lắc đầu than:
                              - Anh em đã bỏ đi hết rồi, lấy ai mà đánh, hở?!

                              Tôi đồng ý với Tướng Kỳ về việc nầy, vì sau khi tôi đáp xuống Tân Sơn Nhứt chừng 20 phút, tôi nghe rất nhiều tiếng phi cơ đủ loại ào ào cất cánh bay lên... Khoảng 9 giờ 30 phút Tướng Kỳ từ phòng làm việc bước ra, khi đi ngang tôi, Tướng Kỳ nói:
                              - Mỹ đã từ chối cho tôi (Tướng Kỳ) một chiếc C-141. Nhờ cậu thông báo các thân hữu của tôi tự tìm đường thoát thân sang DAO, hay xuống bến Bạch Đằng.

                              - Bây giờ tôi đi rước Tướng Trưởng bên Tổng Tham Mưu.
                              Tướng Kỳ lên máy bay, tôi liền đi chuyển lời của ông cho một số người ở trong nhà nầy, lúc bấy giờ tôi mới biết: có hàng trăm người khác đang “tá túc” trên lầu, trong số đó có cựu Dân Biểu Nguyễn Văn Cử. Điều may mắn là mọi người đã thoát khỏi nguy hiểm, dù có rất nhiều trái pháo rơi xung quanh dinh, nhưng không quả nào lọt vô dinh Tướng Kỳ.
                              * * *

                              Tình Hoài Hương
                              ***

                              THH chân thành cám ơn Đại úy Không Quân Trần Văn Phúc {(Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51) và quý vị Không-quân có tên trong bài viết} đã cho tôi mạn phép chuyển tải sự thật về ngày 28 & 29 tháng Tư năm 1975: trung thực, chính xác, nóng bỏng, & vô cùng đen tối hắc ám của lịch sử Việt Nam.
                              * Đồng thời THH xin phép cám ơn quý vị nhiếp ảnh gia đã post những tấm hình đầy nhân bản lên internet, cho tôi có thể copy vô bài viết, ngỏ hầu phong phú hoá hình ảnh sống động và tài đức & nghệ thuật của quý vị.
                              *

                              Tình Hoài Hương
                              Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-30-2016, 06:48 AM.
                              Bút trần nào tả được lưu luyến!
                              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                              Tình Hoài Hương

                              Comment


                              • Nguyên văn bởi Ai Uu Du View Post



                                Cố Thiếu Tá Không Quân TRƯƠNG PHÙNG Khả Kính

                                Chiều ngày 28/4/1975 - khoảng 5:45’- trong phi vụ hộ tống Trung-tá Nguyễn Văn Mạnh SĐ3 KQ và toán chuyên viên Vũ-khí & Đạn-dược đặt chất nổ, để phá hủy các cơ sở của Bộ Chỉ Huy Kỹ-Thuật & Tiếp-vận KQ (Biên–Hoà). Tôi, (Trần Văn Phúc) và Trung-úy Nguyễn Thành Bá bay từ Dốc Sỏi ngang qua Cầu Mới Biên Hòa. Tôi vừa quẹo trái từ hướng Tây sang hướng Đông, đột nhiên tôi thấy bốn chiếc A37 với đầy đủ bom đạn trong một đội hình dị thường, nghĩa là không giống ai, phi diễn không ra phi diễn, chiến đấu không ra chiến đấu, đang từ hướng Đông Bắc lao tới cùng một cao độ với chúng tôi. Tôi cứ lầm tưởng là phi cơ của các phi đoàn bạn (từ miền Trung di tản về Tân Sơn Nhứt tháng trước) đang bay hành quân, nên tôi vội vã kéo cần lái, cho phi cơ mình bốc vọt lên cao, để tránh hai bên đụng nhau trong gang tấc. Đồng thời tôi hét trong vô tuyến để lưu ý anh Bá, (bay chiếc số 2 theo tôi trong đội hình chiến đấu):
                                - Hai theo một! Coi chừng bốn A37 hướng 10 giờ!
                                Rồi tôi bay đảo lại và nhìn theo 4 chiếc A37 bay xa dần, tôi ngạc nhiên, thông thường một phi tuần khu trục đi bay hành quân chỉ có hai chiếc, hôm nay là ngoại lệ, đặc biệt, vì có tới 4 chiếc. Tôi nói tiếp với Bá:
                                - Giờ nầy mà mấy thằng "ma gà" A37 còn mang bom đạn đi lang thang kìa!
                                Chúng tôi đã suýt đụng nhau với chúng nó trên sông Đồng Nai, mà không thể nào ngờ đó là bọn phản tặc! Trời lúc đó vẫn còn sáng tỏ, tôi chúi mũi cho phi cơ xuống thấp, bay dọc theo quốc lộ 1 đến Thủ Đức, tôi quẹo trái theo xa lộ Biên Hòa đến Long Bình rồi về Biên Hòa đọc theo Quốc Lộ 1. Nhìn xuống dưới, tôi thấy dọc suốt lề đường có rất nhiều xe thiết giáp đậu cách nhau từng trăm thước một. Muốn khích lệ tinh thần cho các chiến hữu Bộ Binh, nên tôi bay rất thấp, vì vậy khi bọn phản tặc dội bom ở Tân Sơn Nhứt, tôi đã không trông thấy. Nếu tôi bay ở cao độ 5.000 bộ, chắc chắn tôi sẽ thấy những cột khói đen bốc lên từ Tân Sơn Nhứt (TSN). Chừng 20 phút sau, Chuẩn-tướng Huỳnh Bá Tính Sư–Đoàn-Trưởng SĐ3KQ báo cho chúng tôi biết:
                                - Có một phi tuần ba chiếc A37 vừa dội bom Tân Sơn Nhứt!
                                Tôi điếng hồn, nghĩ ngay đến phi tuần A37 mà mình vừa gặp, nên tôi “chỉnh“ lại ông trên tần số:
                                - Như vậy phải là bốn chiếc A37, vì chúng tôi đã gặp bọn chúng cách đây không lâu! (mãi về sau nầy, khi tôi kiểm chứng với nhà nghiên cứu sử Nguyễn Hùng Kiệt, anh đã xác nhận: phi tuần của đám phản tặc nầy có tất cả 4 chiếc A-37, nhưng không biết vì lý do gì chỉ có 3 chiếc dội bom Tân Sơn Nhứt mà thôi !?). Vào thời điểm Tân Sơn Nhứt bị dội bom, chiếc trực thăng của Tướng Tính chuẩn bị đáp xuống TSN, nên ông đã chứng kiến toàn bộ sự việc. Đối chiếu với thông tin của sử gia Nguyễn Hùng Kiệt, cả hai người (Tướng Tính & tôi) đều nói đúng sự thật! Chúng tôi vội vã bay trở về Tân Sơn Nhứt, thì bọn phản tặc đã chuồn đi mất tăm biệt tích. Khi bay trên không phận TSN, Đài Kiểm-soát Không-lưu (Sài Gòn Control Tower) báo cho chúng tôi biết: “phi trường chỉ bị thiệt hại nhẹ. Vài chiếc C-47 bị trúng bom (1 chiếc gần phi đạo đang cháy như chúng tôi thấy), vài cơ sở bị hư hại như hậu trạm cũ, nơi trước đây chứa các phi cơ A-1, mới vừa dời về khu Tây, lúc 1 giờ trưa, cạnh bãi đậu của A-37. Nhưng thật may mắn (?) hai phi đạo không hề bị trúng bom”.

                                Sau mấy vòng bay quanh Tân Sơn Nhứt, chúng tôi biết chắc chắn phi trường và nhất là hai phi đạo vẫn an toàn, không cần thiết phải bay đi Cần Thơ, nên tôi yên tâm mà bay trở lại Biên Hòa, để tiếp tục thi hành phi vụ hộ tống Trung-Tá Mạnh và toán chuyên viên vũ khí. Mãi đến tận bây giờ, tôi vẫn cảm thấy hối tiếc: vì Trời đã cho tôi một cơ hội ngàn vàng, để tôi có thể bắn hạ bọn phản tặc ác ôn (tôi đã học kỷ thuật không chiến Dogfight trong khoá Phi Tuần Trưởng với Trung-tá Nguyễn Văn Huynh PĐP PĐ 518), mà tôi lại vô tình để vuột mất cơ hội ngàn năm một thuở! Trong trường hợp “tao ngộ chiến" hy hữu đó, bọn chúng không trông thấy chúng tôi, (vì bị chói ánh mặt trời chiều) nên không có phản ứng né tránh nào, mà chúng vẫn ung dung bay thẳng tới. Hoặc chúng tôi chỉ cần lách sang một bên, bật nút ARM - ON và bóp cò súng, bắn ngang hông ở phía sau bọn chúng, thì 800 viên đại bác 20 ly trên mỗi chiếc A1 của chúng tôi sẽ không tha bọn chúng. Hoặc lúc đó tôi gọi Paris (đài Kiểm Báo Không Lưu TSN) để báo động khẩn cấp. Các phi cơ F5-E đang ứng trực ở đầu phi đạo TSN, sẽ tức tốc cất cánh lên, xơi tái bọn chúng, thì bọn chúng chẳng còn mạng, để sau nầy vung vít mà “bốc phét” ! Đây có phải là vận mệnh thảm khốc đau buồn của đất nước Việt Nam đã an bài phải là ngày 30/4/1975 !?
                                Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ hộ tống Trung-tá Mạnh qua khỏi cầu Bình Triệu an toàn, chúng tôi mang đầy đủ bom đạn về hạ cánh lúc 8 giờ tối. Tôi gặp các anh bay F5 và họ cho biết là:
                                - Đang chờ lệnh đi ném bom trả đũa ở phi trường Phan Rang.
                                …Nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra -không biết vì lý do gì- !? Tôi thấy nhiều anh em trong Tân Sơn Nhứt có phần giao động tinh thần vì cuộc dội bom vừa qua. Do Radar không thể phát hiện nếu bọn phản tặc bay thấp như lần vừa rồi, nên nhiều người lo sợ chẳng biết có thêm lần dội bom kế tiếp nào nữa hay không? …Khi trở vào biệt đội khu trục lúc nửa đêm, tôi thấy các anh em thuộc PĐ 514 và 518 đang nằm sắp lớp như cá mòi ngay trên nền nhà. Tôi lặng lẽ nằm xuống một chỗ trống còn lại bên cạnh cái điện thoại dã chiến mới vừa móc dây. Tôi nằm đó, nghiêng qua trở lại rất lâu mà không thể nào ngủ được, vì trong lòng ngổn ngang những tiếc nuối & hối hận, cắn rứt tim tôi: khi mãi nhớ lại cơ hội ngàn năm có một, mà tôi đã vô tình để nó trượt thoát khỏi tay, tiếc thay, tôi đã không bấm cò đại bác bắn thẳng vào lũ phản tặc A37 lúc ban chiều (sau nầy, khi biết tên Nguyễn Thành Trung chính là kẻ đã “rước giặc vào nhà", bay dẫn đường cho đám phản tặc A37 đó, tôi lại càng hối hận & tiếc nuối nhiều hơn nữa!).

                                Quá mệt mỏi tinh thần và rã rời thân thể, tôi vừa chợp mắt tí xíu, là đã phải choàng tỉnh ngay lập tức, vì những tiếng nổ vang trời. Phi trường bị pháo kích! Hàng loạt hỏa tiễn 122ly rít xé bầu trời điên loạn lao xuống, nổ tung lên cùng khắp trong căn cứ & phi trường TSN, nơi đang tập trung dày đặc những quân nhân KQ và gia đình của họ mới vừa đổ dồn từ ngoài vùng I, vùng II di tản về. Điện bị cúp. Nhưng cho dù điện không cúp, thì tất cả vẫn chìm trong bóng tối như địa ngục, vì sức ép nổ của những quả hỏa tiễn rơi quá gần, làm vỡ tung những bóng đèn trong biệt đội khu trục chúng tôi... Thật là may mắn đến kỳ lạ khi mọi người đang nằm sát nhau dưới nền nhà đều bình an vô sự!

                                Điện thoại reo! Do nằm sát gần điện thoại, tôi bốc máy lên nghe và chuyển lệnh điều động cất cánh khẩn cấp đến Thiếu-tá Lê Văn Sang, Trưởng Phòng Hành Quân PĐ Phi Long 518. Trong bóng tối dày đặc, không nhìn thấy mặt bất cứ ai, mà chỉ nghe tiếng nói của tôi vừa chuyển lệnh. Thiếu-Tá Sang hỏi luôn:
                                - Phúc đó hả, Phúc đi bay được không?
                                Theo đúng Huấn Thị Khu Trục, tôi vừa mới bay xong phi vụ yểm trợ rút quân hồi đầu hôm, nên tôi có quyền từ chối đề nghị này của Thiếu-Tá Sang, nhưng hình như cái mặc cảm “tội lỗi“ (vì thiếu cảnh giác đã để bọn phản tặc A37 vượt thoát) của tôi đang chờ có một cơ hội “chuộc lại lổi lầm" , đã bật lên tiếng nói:
                                - Đương nhiên là được, nhưng wingman (phi tuần viên) là ai?
                                Chưa có ai kịp lên tiếng, thì từ trong bóng tối cuối phòng, tiếng Thiếu Tá Trương Phùng vang lên:
                                - Trâu đạp cũng chết, chó đạp cũng chết. Tao đi với mi, xem coi có chết thằng Tây nào không!?
                                Phi trường đang bị pháo kích dữ dội, nên lúc đó không có xe đưa đón Phi Hành Đoàn. Không thể chậm trễ, anh Phùng gọi tôi leo lên chiếc xe Jeep dân sự của anh phóng ra bãi đậu phi cơ. Anh Phùng lái xe như bay:
                                - … Mẹ nó! Tao chưa hề thấy tụi nó pháo dữ dằn như hôm nay! Tụi nó định “dứt điểm” mình bữa nay sao cà?
                                Rồi anh nói tiếp:
                                - Bất cứ giá nào mình cũng phải lên (cất cánh), hy vọng có thể bảo vệ bao nhiêu người vô tội ở đây. Nếu như mình bị hy sinh, âu cũng là dịp để mình đền ơn Tổ Quốc.
                                Nhìn anh lái xe vun vút như bay, tôi thầm cảm phục người đàn anh gan lỳ, quả cảm, người hùng của mặt trận Quảng Trị 1972 với chiến tích lẫy lừng đã “nướng sống" 15 chiếc xe Tăng T-54 của bọn Cộng-phỉ! Đến bãi đậu A-1, anh em phi đạo đã ứng trực sẵn sàng, anh Phùng hét lớn trong tiếng nổ vang rền của đạn pháo:
                                - Nổ máy là “chock out” ngay (rút những khúc gỗ chận bánh xe phi cơ ra) rồi các bạn tìm chỗ núp! Mặc kệ chúng tôi, đừng để chết chùm hết cả đám đấy!



                                Máy vừa quay tròn vòng, thì có nhiều tiếng nổ long trời ở bãi đậu A-37 kề bên, nhiều quần lửa như cây nấm khổng lồ cuồn cuộn bốc phụt lên cao. Không chần chờ, tôi cho phi cơ di chuyển ra khỏi ụ. Anh Phùng vẫn còn đứng cạnh máy bay. Anh ra dấu cho tôi biết là bình điện của phi cơ anh bị hư. Vì vậy, tôi quyết định cất cánh một mình, như đã Briefing trước đó. Tôi ra hiệu cho anh Phùng biết, và gọi Đài Saigon Ground Control (Đài Kiểm Soát Diện Địa Sài Gòn) để xin di chuyển ra phi đạo, đài trả lời ngay:
                                - Phi Long 51 (PL51)! Phi đạo sử dụng 25, gió hướng Nam 4 knotts, áp suất 29.92…
                                Nhận thấy gió ngang gần như thẳng góc với phi đạo và rất nhẹ (4 knotts), tôi có thể cất cánh bất cứ hướng nào. Nhưng tôi không thể dùng PĐ25 sẽ vô cùng nguy hiểm; vì khi bay lên, sẽ chui ngay vào đạn đạo của địch đang pháo kích. Nếu cất cánh PĐ 07, tôi quẹo trái để đến đầu PĐ 07, thì phải di chuyển ngang qua bãi đậu A37 đang cháy rực lửa, cũng rất nguy hiểm. Vì vậy tôi có ý định quẹo phải theo Taxi way #3, để cất cánh PĐ 07, nghĩa là ngược chiều PĐ sử dụng, và tôi chỉ có thể dùng ½ chiều dài phi đạo còn lại. Cứu binh như cứu lửa, không còn phương cách nào khác, tôi quyết định gọi:
                                - Saigon Ground Control! PL51 request taxi ra Whisky number three và cất cánh PĐ 07.
                                Ngay khi được phép, tôi di chuyển nhanh ra phi đạo 07 R, miệng lẩm bẩm: "Người đẹp của tôi ơi! Em ráng giúp anh thêm một lần nữa! Đừng ho hen nha cưng"! (Pilot chúng tôi xem chiếc máy bay mình lái như là người vợ, người tình muôn thuở, đặc biệt là em Skyraider tuổi già sức yếu, nên đôi khi em ưa “nũng nịu, nhỏng nhẽo" ). Sau khi thử máy (dù biết chưa nóng máy), tôi xin đài Saigon Tower cho phép cất cánh khẩn cấp. Vì chỉ còn lại ½ phi đạo, nên tôi phải dùng phương cách “Maximun Peformance Take Off" , và cất cánh lúc 04 giờ 25 phút sáng ngày 29/4/1975. Vừa rời khỏi phi đạo, lòng tôi rộn rã một niềm vui mừng khó tả, và cảm tạ ơn Trên cho tôi cơ hội cứu nguy cho mọi người trong Tân Sơn Nhứt. Sang tần số Paris (đài Kiểm Báo Sài Gòn) tôi báo:
                                - Paris! PL 51 vừa cất cánh một chiếc A1 với 10 trái MK 81. Xin nhận chỉ thị.
                                Đài Paris chưa kịp trả lời, tôi đã nghe:
                                - PL 51! Đây Tinh Long 06 (TL06), bạn đến Phú Lâm ngay! Chỗ có nhiều trái sáng. Bao lâu bạn tới?
                                - TL06! PL 51 mang 10 trái MK 81, sẽ có mặt trong 5 phút và request Random Attact! OK!
                                Khi lên tới Phú Lâm, tôi được Trung-úy Trần Văn Bảo, Trưởng Phi Cơ của chiếc AC-119K hướng dẫn oanh kích, mục tiêu là hai làn khói của hai giàn pháo 122 ly. Tôi rất ngạc nhiên, mục tiêu chỉ cách đài Radar Phú Lâm hơn 500 mét về hướng Tây. Nhờ lặng gió, nên hai làn khói này vẫn còn la đà trên mặt đất.
                                Lập tức, tôi vừa lao xuống vừa gọi:
                                - PL51 in hot và thả từng trái một!
                                Sau khi thả trái bom xuống mục tiêu thứ nhì, tôi ngưng lại và chờ đợi. Trong thời gian nầy, tôi nghe giọng Tướng Kỳ trong vô tuyến:
                                - Phi Long 51 trút hết bom đạn xuống target! Tối nay ghé nhà tôi nhậu!
                                Tôi hỏi lại:
                                - Giới chức vừa ra lệnh cho Phi Long 51, xin cho biết danh hiệu.
                                - Tôi Thần Phong 01, Thiếu Tướng Kỳ đây!
                                - Thần Phong 01! PL51 lên một mình với 10 trái bom 250 cân Anh, tôi có kinh nghiệm chống pháo kích. Thần Phong 01 an tâm. Tôi có thể ở đây thêm ba giờ nữa.



                                Khoảng 15 ; 20 phút sau, có lẽ bọn Cộng-phỉ nghĩ tôi đã hết bom, nên chúng bắt đầu pháo trở lại. Tôi nhìn thấy rõ nhiều giàn pháo, mỗi giàn 4 khẩu 122 ly, liên tục phóng lên. Liếc nhìn về hướng Tân Sơn Nhứt và Sài Gòn có nhiều quầng sáng nháng lên, tôi liền lao xuống thả bom và thầm gọi:
                                - Anh Phùng ơi! anh ở đâu, sao không lên tiếp tay với tôi? Một mình tôi làm không xuể đâu! Anh Phùng ơi!
                                Năm phút sau, khi định nhào xuống thả bom, tôi thấy có vài đám nổ dưới mục tiêu, tôi tưởng lầm là rocket của trực thăng võ trang bắn xuống, tôi liền cự nự Trung-úy Bảo:
                                - TL06! Bạn cho tôi đánh random attack, sao bạn lại cho gunship (trực thăng võ trang) vào “ăn có”? Nó bay cao độ thấp, lỡ tôi không thấy, nện ngay trên đầu nó, thì phiền lắm!
                                Anh Bảo liền cãi chánh:
                                - Không phải đâu PL51, tôi đã đuổi tụi nó qua bên Quốc Lộ 4 rồi. Để tôi quan sát kỹ lại.
                                Lúc đó có khoảng ba bốn chiếc trực thăng quây quần phía Đông Bắc Phú Lâm. Sắp nhào xuống thả bom lần kế tiếp, tôi lại thấy có ánh lửa nổ tung. Tiếng anh Bảo la lên:
                                - Ê ...PL 51! Tôi thấy có một chiếc dường như là A-1 vào đánh phụ với bạn đó! Chắc chắn không phải là gunship đâu!
                                Tôi liền nghĩ ngay tới anh Phùng, nên trả lời anh Bảo:
                                - TL06! chắc là Thiếu Tá Phùng! Có thể anh Phùng bị trục trặc về vô tuyến! Bạn an tâm, monkey see monkey do (thấy tôi thả bom ở đâu, anh ấy sẽ thả bom ở đó).
                                Nhờ sự yểm trợ hỏa châu của TL-06, chúng tôi dễ dàng “lượm” những giàn pháo, như lấy kẹo trong túi. Thanh toán xong các giàn pháo nầy, thì tôi cũng vừa hết bom.
                                - TL06, tất cả giàn pháo đã “clear" (bị hủy diệt sạch) tôi giao ở đây cho bạn, PL 51 để dành 800 viên 20ly, phòng thủ phi trường. Vì muốn biết người phụ tôi diệt pháo vừa rồi, có đúng là anh Phùng không? nên tôi sang tần số của Đài Sài Gòn:
                                - Saigon Tower! Đây PL51. Bạn cho biết: sau tôi còn có chiếc A1 nào cất cánh không?
                                Tôi được nghe trả lời:
                                - Tụi nó pháo quá, chúng tôi núp dưới hầm trú ẩn, vừa lên nên không biết gì hết bạn à!



                                Khoảng 5:25’ sáng tôi về tới Tân Sơn Nhứt, trời vẫn còn tối đen như mực, ngoại trừ những ánh đèn phi đạo và taxi way, còn có hai đám cháy: một đám ở bãi đậu A37 như đã nói ở trên, còn đám cháy thứ hai dù tôi đã đảo nhiều vòng, nhưng vẫn không nhận ra chính xác là nơi nào. Nhưng sau ít phút nhờ ánh sáng lờ mờ bập bùng còn lại của đám cháy, tôi vừa nhận ra là ở phía Nam của dinh Tướng Kỳ độ chừng trăm mét. Tự nhiên trán tôi rịn mồ hôi, tay run lẫy bẫy, tim đập dồn dập và ứ nghẽn lồng ngực muốn nghẹt thở, vì hình như đám cháy là ở khu cư xá C-7, nơi vợ con tôi tạm trú, miệng tôi không ngớt cầu nguyện: "Cầu xin ơn Trên che chở cho vợ con của con, và những người khác được bình yên". Ngay lúc đó, trong lòng lòng tôi bùng lên một cơn giận dữ & căm thù đám Cộng-phỉ trong trại Davis, nếu vợ con tôi có mệnh hệ nào, tôi thề sẽ thí mạng với bọn chúng! Mươi phút sau, tôi thấy chiếc TL07 cất cánh lên, để thay thế chiếc TL06 về đáp. Tôi tiếp tục bao vùng trên không phận Tân Sơn Nhứt, cho đến khi bình minh có ánh sáng lờ mờ, tôi nhận ra đám cháy chính là cư xá Nữ Quân Nhân. Tôi nóng lòng muốn đáp xuống, nhưng chưa có phi tuần nào lên thay thế. Vài phút sau, tôi nhìn sang cánh phải: thấy có một chiếc AD-5 còn treo hai trái bom cứ bám sát theo phi cơ của mình. Tôi sang tần số, gọi đài Saigon Tower một lần nữa, để xác định chiếc AD-5: “có phải là của anh Phùng không”. Câu trả lời vẫn là “Không biết”. Vừa lúc đó, “anh bạn dễ ghét” như muốn chơi trò trốn tìm “ú tim” với tôi, nên anh ấy cho phi cơ hết lòn sang trái lại chui qua phải. Tôi bất ngờ cắt bán kính, quẹo vòng thật gắt định ra sau chiếc phi cơ nầy. Nhưng anh bạn “dễ ghét” là một cao thủ tuyệt đỉnh, lúc nào anh cũng bám riết theo sau, khi sang trái, khi sang phải, cố ý trêu đùa tôi. Nếu là dog fight (không chiến) thì tôi bị tay lão luyện nầy “dớt rụng càng” rồi!

                                Trên tần số Paris, tôi nghe giọng của Thiếu-tá Hồ Ngọc Ấn Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 liên lạc với TL07, cho biết: “phi tuần hai chiếc A1 của anh đang ở Long An, trên đường tiến về Sài Gòn. Đại-uý Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2. Khoảng mười phút sau, Trung-uý Trang Văn Thành, Trưởng Phi-cơ của TL07 gọi trên tần số:
                                - Phượng Hoàng 11, tôi nghi ngờ có một toán đặc công độ năm bảy tên, định cắt hàng rào kẽm gai phía Bắc phi trường, chỗ miếng đất trống hình tam giác ở An Nhơn. Bạn cho một trái ngoài hàng rào, đánh trục Đông sang Tây. Tôi giữ cao độ 5.000.
                                Vì biết phi tuần anh Ấn chưa đến nơi, nếu cần thiết tôi có thể dùng bốn cây đại bác 20 ly bắn dọc theo vòng rào. Tôi bay tới đó, mặt trời vừa ló dạng, trời tỏ hơn nhưng ở độ cao 4.000 bộ, nên tôi không thấy gì cả. Thình lình anh Phùng lao xuống thả một trái bom. Thì có tiếng anh Thành hốt hoảng la lên:
                                - Số 1 thả bom “như để “. Số 2 đánh dài hơn vài mươi thước.
                                Trái thứ nhì rơi dài hơn năm chục thước. Anh Thành hoảng hốt:
                                - Phượng Hoàng 11... Hold Highride (ngưng thả bom). Số 2 của bạn đánh gần nhà dân quá!
                                Thiếu tá Ấn liền lên tiếng:
                                - TL07! Ai khác đánh đó, chớ không phải Phượng Hoàng 11! Tôi chỉ mới tới Bến Lức, làm sao thả bom ở đó được!
                                Thì ra anh Thành lầm lẫn phi tuần của tôi- là phi tuần anh Ấn. Tôi vội lên tiếng:
                                - TL07! Đây PL 51. Đó là Phi Long 52 (chiếc số 2 của PL51) nó hư vô tuyến, chỉ còn hai trái, vừa thả hết rồi. Còn tôi đã “Empty” (hết bom).
                                Nhận ra tiếng của tôi, Đại-uý Thụy (người bạn cố tri cùng PĐ Thái Dương 530 với tôi ở Pleiku) gọi tôi:
                                - Ê Phúc! Mày về Cần Thơ đi, đáp ở đó (TSN) nguy hiểm lắm!
                                Nhìn đồng hồ xăng có 800 lbs, vừa đủ để bay đi Cần Thơ, nhưng tôi đã có quyết định đáp Tân Sơn Nhứt từ trước, nên trả lời:
                                - Vợ con tao còn kẹt lại đây, giá nào cũng phải đáp TSN. Tình hình ở đây chưa đến nỗi nào đâu.
                                Đột nhiên anh Phùng gọi tôi:
                                - Ê ...PL51, đi Cần Thơ nha! Bay với mi gần ba tiếng, chừ mới liên lạc được một xí. Tao nghe được, nhưng bị câm. Bực mình quá!
                                Tôi vội bấm máy trả lời:
                                - Không! Tôi chỉ còn 600 pounds xăng, vả lại vợ con tôi kẹt ở đây. Anh đi Cần Thơ một mình trước nghen!
                                Lúc bấy giờ TL07 đang bay 5.000 bộ, nên anh Thành muốn xuống thấp, để dễ quan sát, và nhìn thấy rõ hơn, nên anh báo cho chúng tôi biết:
                                - PL51! TL07 xuống cao độ, để nhìn rõ hơn. Tôi không muốn đánh lầm vào nhà dân, tội họ lắm!
                                Không ngờ mấy phút sau, khi chúng tôi bay trên Lăng Cha Cả, ở cao độ 1.500 bộ, anh Phùng gọi tôi:
                                - Ê một! Mình đáp xuống Tân Sơn Nhứt đi!
                                Lo ngại vô tuyến bất thường của anh còn hư, nên tôi nhường cho anh Phùng đáp trước. Nhưng trước khi Touch Down (chạm bánh), anh Phùng lại gọi tôi:
                                - Một! Mi đáp trước đi, tao Go Around (bay lên lại). Mi chờ ít phút, tao về chở mi vô!
                                Nóng lòng vì vợ con ở kế bên đám cháy (cư xá Nữ Quân Nhân) nên tôi không bay theo anh Phùng như thông lệ. Tôi tiếp tục vào Final (cận tiến), thì Sài Gòn Tower báo cho chúng tôi:
                                - PL51, có SA7 bắn lên. Tôi thấy mấy cục lửa bằng cườm tay bay lên!
                                Vì tôi đã chứng kiến SA-7 bắn ở Kiến Đức vào cuối năm 1973, nên tôi có ý nghi ngờ:
                                - Saigon Tower, SA-7 bắn lên lúc đầu, là một vùng lửa to màu cam, sau đó đổi sang màu trắng xanh, và bay lên rất nhanh. Bạn quan sát kỹ chưa"?
                                Anh bạn nầy có vẻ bất bình trả lời:
                                - PL51, tôi báo cho bạn biết, mà bạn không tin, nếu bị bắn, bạn ráng chịu nha!
                                Tự nhiên tôi nhớ đến Trung-tá Phạm Văn Thặng Fulro khi ông "xỉn", ông thường ngâm nga... Nên tôi nghêu ngao trên tần số:
                                - Làm sao giết được người trong mộng …1 …2 …3…touch down!
                                Di chuyển về bãi đậu lúc 6 giờ 55 phút, các anh em phi đạo reo mừng, công kênh tôi như đón một một vị cứu tinh! Rồi chúng tôi cùng nhau theo dõi chiếc TL07 đang nghiêng cánh trái ở cao độ chừng vài ngàn bộ, và xạ kích xuống mục tiêu. Từng tràng đại bác 20 ly (Minigun 6 nòng) nã xuống như mưa, tiếng kêu như bò rống. Tôi trấn an các anh em:
                                - Target đó ở ngoài vòng rào, chỉ là tình nghi thôi! Ông Trung-uý Thành muốn biểu diễn cho mọi người coi chơi, cho vui vậy mà!



                                Tôi vừa dứt lời, thì đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống(*), động cơ bên phải phát hoả, nổ tung, cánh phải gãy xuống, đồng thời phòng lái bốc cháy. Phi cơ ngoặc đầu qua trái, lao xuống rơi vào spin (xoay tròn như bông vụ). Tất cả mọi người xung quanh tôi đều hoảng hốt hét lớn:
                                - Nhảy dù đi…
                                - Nhảy dù…
                                - Nhảy dù nhanh lên…
                                Nhưng quá trễ, tôi không thấy cánh dù nào kịp bung ra, chiếc phi cơ đã cắm phụp đầu xoáy xuống đất rất nhanh. Những cột khói đen lửa đỏ cuồn cuộn bốc phụt lên cao hàng trăm mét. Ối Trời ơi! Toàn bộ phi hành đoàn đều hy sinh. Tất cả anh em chúng tôi bàng hoàng sửng sốt, đứng chết lặng, mà nước mắt tự dưng tuôn trào. Một lúc sau, mọi người cúi gục đầu lặng lẽ trở về làm nhiệm vụ của mình. Từ giờ phút nầy phi trường TSN thật sự không còn an toàn nữa, vì sự xuất hiện của SA-7 ; khắc tinh của tất cả các loại máy bay. Riêng tôi, ngồi bệt xuống bãi cỏ bên lề phi đạo, mắt vẫn hướng về những cột khói đen bốc lên cao, như anh linh của Phi Hành Đoàn TL07 đang siêu thoát. Tôi hy vọng Thiếu-Tá Trương Phùng bay đi Cần Thơ, tuy nhiên tôi vẫn có ý trông đợi anh Phùng trở về. Tôi chờ mãi, chờ mãi... tới khi anh tài xế xe bồn tiếp xăng giục tôi lên xe, để trở vô biệt đội khu trục. Trong lòng tôi thầm nghĩ:
                                - Đúng rồi, anh Phùng nên bay đi Cần Thơ là hợp lý nhất!

                                Sau 9:30’ giờ sáng ngày 29/4/75 bọn chúng bắt đầu nã đì đùng bằng đại pháo 130 ly, đặt ở Nhơn Trạch gần Thành Tuy Hạ - Cát Lái. Nhưng lúc bấy giờ không ai thèm màng tới việc diệt pháo nhỏ giọt vào Tân Sơn Nhứt nữa. Trong phi trường thỉnh thoảng đạn 130 rơi rớt đâu đó, may mắn sao không trúng tôi (ha ha ha...). Cả căn cứ Tân Sơn Nhứt không một bóng người, bầu trời vô cùng u ám, một phần vì thời tiết chuyển mưa, một phần vì những làn khói đen lan toả la đà từ chiếc TL-07 đang bốc cháy. Tôi có cảm tưởng như mình lạc vào trong bãi tha ma lúc hoàng hôn. Sau khi Quân Cảnh không cho tôi ra cổng (Phi Long), không được nói một lời gì với vợ con (họ theo gia đình Vân về nhà). Tôi trở vào Trung Tâm Hành Quân Không Quân chờ lịnh. Nữa giờ sau, tôi định đi ra ngoài bằng cổng trại Hoàng Hoa Thám; nhưng khi đến cuối sân banh, tôi gặp ba anh Thiếu-tá: Sơn, Bản, Liêu , PĐ 530, họ đang chạy ngược chiều và kêu tôi:
                                - Ê Phúc! được lệnh đi Cần Thơ. Nhanh lên.
                                Tôi chạy theo họ ra bãi đậu, chiếc AD-5 của Thiếu-tá Hồ Văn Hiển PĐ 514 đang chờ. Tôi là hành khách bất ngờ bất đắt dĩ và cuối cùng thứ 20. Chúng tôi rời Tân Sơn Nhứt lúc 11 giờ trưa. Lúc bấy giờ trong Tân Sơn Nhứt có lẽ không còn phi cơ nữa (sau khi yểm trợ quân bạn ở Bến Cát xong, trên đường về Cần Thơ Thiếu-tá Hiển đáp xuống, để rước chúng tôi).
                                Khi đến Cần Thơ, tôi vội vã đi tìm anh Trương Phùng khắp nơi. Nhưng tôi tìm hoài không thấy anh Phùng đâu cả!

                                * * *



                                Ghi chú thêm: trước 30/4/1975 và sau... 2010:
                                *.-Thiếu-tá Không-quân Hồ Ngọc Ấn Phi-đoàn Phượng Hoàng 514 (hiện ở Dallas). *- Đại-uý Không–quân Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2, hiện ở Houston. *- Đại-úy Không-quân Trần Văn Phúc (Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51) hiện ở Cali.
                                *1.- Trên không phận Sài Gòn lúc bấy giờ (29/04/75) chỉ có 3 chiếc phi cơ là: TL-07, phi cơ anh Phùng và phi cơ của Phúc. Phần TL 07 chỉ xuất hiện sau 6 giờ sáng. Phi tuần hai chiếc A-1: của Thiếu-tá Ấn & Đại–úy Thụy thì trên đường đang về Sài Gòn.
                                *2.- Có lẽ vì sợ SA-7 nên ông Đại Sứ Martin phải nói dối trước Quốc Hội Mỹ là: “Hai phi đạo bị trúng pháo kích, hư hại nặng nề, và ông ta ra lịnh di tản người Mỹ bằng trực thăng” ?
                                *3.- ... đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống(*)... Mãi đến năm 2010, khi vừa mới cải táng cho PHĐ TL07 xong, chúng tôi mới liên lạc được với Th/Sĩ I Nguyễn Văn Chín, tự “Chín Dơi“, Gunner của TL07, là người duy nhất nhảy dù ra sống sót, anh chính là “vật” (hi hi hi) màu đen rơi xuống từ chiếc TL 07, mà anh em còn ở trong phi trường TSN đều thấy.
                                *4.- Vì Phi Hành Đoàn TL07 có rất nhiều người tình nguyện đi bay trong lúc khẩn cấp, nên hầu hết nhân viên trong PHĐ không ghi đúng tên trong phi lệnh. Tôi chỉ biết có: Trung-uý Trang Văn Thành (Trưởng phi cơ), xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, nhập ngũ ngày 12/9/1967 khoá 68A TTHLKQ Nha Trang. Anh Thành là cháu rể của Cố Thiếu-Tướng Võ Xuân Lành, TLP KQ. Anh Thành có hai biệt danh: ở quân trường Nha Trang anh có tên “Thành Thụt”, vì đôi mắt sâu thẳm, tánh tình anh rất cương trực, hăng say, năng nổ trong mọi công việc. Khi về PĐ C119 anh Thành có thêm một biệt danh là: “Thành Kampuchia” (vì màu da ngâm ngâm của anh). Đêm 28/4/75 anh Trung uý Trang Văn Thành tình nguyện bay thêm phi vụ Extra TL 07, mặc dù trước đó anh đã bay phi vụ TL01 hồi đầu hôm rồi. - Trung uý Tào Thuận, hoa tiêu phụ. - Thiếu uý Phạm Tấn Đức. Họ vĩnh viễn ra đi... nhưng để lại sự thương tiếc kính phục vô cùng của hàng vạn người trong và ngoài Tân Sơn Nhứt.
                                *5.-Sau ba năm ba tháng phục vụ trong PĐ Thái Dương 530 – Pleiku trấn thủ Cao Nguyên, tháng 4 năm 1974 tôi trở lại Biên Hoà, được đưa về PĐ Phượng Hoàng 518, KĐ 23 Chiến Thuật, SĐ3KQ. Sau đó tôi thường đi biệt phái ở Biệt Đội Khu Trục tại Tân Sơn Nhứt, cho đến tháng 9 năm 1974, tất cả phi cơ A1 bị “đình động” (vì uống xăng?). Vì vậy thời gian quen biết, chuyện trò cùng Thiếu-tá Trương Phùng không nhiều. Tôi chỉ nhớ: Thiếu-tá Trương Phùng sanh năm 1943 tại Thừa Thiên, anh gia nhập Không Quân vào đầu năm 1964, khóa 64B SVSQKQ Nha Trang, tốt nghiệp khóa L- 5 Quan-sát. Sau đó anh được tuyển chọn xuyên huấn T28 và A-1 Skyraider tại Hoa Kỳ. Trở về nước, anh phục vụ tại Phi Đoàn 110 Quan Sát. Sau cùng là Phi Đoàn 518 Phi Long - Khu Trục A-1, KĐ 23CT, SĐ3 KQ Biên Hòa. Anh Phùng là mẫu người hùng KQ từng tham dự hầu hết các chiến trường khắp bốn vùng chiến thuật, là người hùng diệt 15 xe tăng cộng quân trong hai tuần lễ, vào đầu tháng 4 năm 72 ở Quảng Trị. Anh là một người đầy nhiệt huyết, không bao giờ từ chối bất cứ một phi vụ nào, dù nguy hiểm. Anh là một Phi -tuần-trưởng Sĩ-quan gương mẫu, lấy phương châm: Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm lên hàng đầu. Tuy nhiên tôi được hân hạnh cùng bay chung với anh hai lần:
                                - Lần đầu tiên: (Phi vụ Trời giúp!?) Vào tháng 8/1974, khi CSBV vi phạm Hiệp Định Ba Lê, chúng pháo kích vào phi trường Biên Hòa, để trả đũa hành động nầy, Đại Tá Hoàng Thanh Nhã, KĐT KĐ23CT, SĐ III KQ chỉ thị hai phi tuần, mỗi phi tuần hai chiếc Khu Trục A-1 Skyraider, mỗi chiếc mang 6 trái bom CBU-25, thi hành một nhiệm vụ đặc biệt là oanh tạc Tổng Hành Dinh của MTGPMN ở đồn điền cao su, gần Lộc Ninh. Phi tuần số 1 do Thiếu-tá Phùng và Trung-uý Đinh văn Đức. Phi tuần thứ hai do tôi (Đại úy Trần Văn Phúc) và Trung-uý Nguyễn Tứ Đức.
                                (Bom CBU - 25 là loại bom dùng để chống chiến thuật biển người, phá giao thông hào, mỗi trái cân nặng 500 cân Anh (lbs), gồm bảy ống thẳng, dài độ 4 mét, buộc lại thành một khối tam giác, mỗi ống chứa 25 quả bom nhỏ, như trái lựu đạn, có loại nổ trên mặt đất, có loại nổ chậm. Muốn đạt hiệu quả tối đa, nên thả bom nầy theo cách Skip bom, nghĩa là bay thật thấp, các trái bom nhỏ nầy được phóng xuống đất. Nếu thả bom từ trên cao thì không thể nào chính xác, càng cao các quả bom nhỏ nầy càng rải rộng ra, nếu thêm sức gió, có thể thổi bay đi xa cách mục tiêu hàng ngàn mét. Để bảo vệ vùng trời Lộc Ninh, nơi bọn CSBV trá hình MTGPMN, đặt Bộ Tổng Hành Dinh, ngoài hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, bọn CSBV còn bố trí rất nhiều khẩu đại bác phòng không 37 ly, hay 57 ly, điều khiển bằng radar. Nếu bay dưới 11 ngàn bộ, chúng tôi sẽ trở thành những “target sống” để bọn Cộng-phỉ tha hồ thực tập tác xạ. Vì vậy sau khi thảo luận, và đồng ý chọn lối đánh mạo hiểm nhất (nhưng an toàn nhất), chúng tôi xin Đại-Tá Nhã:
                                - Đại-Tá ra lịnh chúng tôi đi dội bom ở đó, thì xin Đại-tá cho phép chúng tôi được chọn cao độ bay. Nếu như bay cao 12 hay 13 ngàn bộ, để tránh phòng không, thì thả bom không thể nào chính xác được, coi như không. Vì vậy chúng tôi xin chọn lối đánh "Truy-kích".
                                Ông đồng ý và nhấn mạnh thêm về tầm nguy hiểm:
                                - Nếu có ai gặp phải bất trắc, các bạn chịu khó trốn tránh qua đêm, cho đến sáng mai, mới có phi vụ rescue, còn các bạn khác lập tức bay về đáp, không được ở lại cover.
                                Vì tầm quan trọng của phi vụ nầy, là cảnh cáo cho bọn Cộng-phỉ biết: Không có bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà là bất khả xâm phạm đối với Không Lực Việt Nam Cộng Hoà. Quân Đội VNCH sẵn sàng trả đũa những vi phạm hiệp định Ba lê của chúng. Sau cơm trưa sớm hơn thường lệ (11 giờ), chúng tôi bắt đầu nghiên cứu những tấm không ảnh (chụp những cơ sở nguỵ trang dưới hàng cây cao su) và thảo kế hoạch, tính toán giờ giấc, hướng bay một cách rất cẩn thận từng chặn đường. Để giảm thiểu sự nguy hiểm cho phi tuần thứ nhì (bay sau) của tôi, Thiếu-tá Phùng đề nghị nhập hai phi tuần lại thành một hợp đoàn bốn chiếc; dùng chiến thuật truy kích, với yếu tố bất ngờ, chớp nhoáng, bay lướt trên ngọn cây. Khi bọn chúng thấy, thì chúng tôi đã bay mất rồi, không kịp bắn chúng tôi. Với lối bay nầy, đòi hỏi người Leader phải có một khả năng, kinh nghiệm, bình tĩnh, sáng suốt, cũng như gan dạ, vì thỉnh thoảng một mình anh Phùng (Leader) phải “trồi lên lặn xuống” năm, ba trăm bộ, để nhận dạng những "check point" (điểm chuẩn) để tránh bay lạc. Anh Phùng phân chia nhiệm vụ cho từng người, lập lại nhiều lần là: "mỗi chiếc phi cơ chỉ thả một lần, và chiếc kế nối tiếp với nhau".
                                Theo phi lịnh, chúng tôi cất cánh đúng 2 giờ trưa, nhưng bắt đầu 1 giờ. Bỗng dưng trời mưa như trút nước (có thể ông trời giúp chúng tôi?) tưởng chừng như phi vụ bị huỷ bỏ, cho đến sau 5 giờ chiều cơn mưa tạnh hẳn. Chúng tôi được lịnh cất cánh khẩn cấp, anh Phùng nhắc lại:
                                - Phi vụ của chúng ta rất quan trọng, rất nguy hiểm, nhưng tôi (anh Phùng) tin tưởng vào chiến thuật mình đã thảo ra. Như các bạn đã biết tụi mình không bay thẳng tới đó, mà mình bay vòng về hướng Bắc. Các bạn bớt căng thẳng đi! Có thể ông trời đã giúp mình hôm nay, nên đổ mưa mấy tiếng đồng hồ, vì vậy khi mình tới target mặt trời cũng sắp lặn, bảo đảm tụi nó không ngờ mình tới đâu! Chắc chắn mình phải bay đêm, các bạn cẩn thận coi lại tất cả các đèn phi cụ.
                                Như trong phi trình đã hoạch định, chúng tôi “joint up” ở 2.000 bộ với hợp đoàn chiến đấu (Tactical Formation), tất cả phi cơ bay bên cánh phải của anh Phùng, lấy Lai Khê làm điểm xuất phát, bay thật thấp về hướng Bắc, bên phải Quốc Lộ 13, qua khỏi Tống Lê Chân 5 dặm, thì đổi sang hướng Tây. Như dự đoán, chúng tôi bắt đầu lướt trên nhiều ổ phòng không. Nhìn xuống, chúng tôi thấy từng cụm năm ba tên Cộng-phỉ cố quay vòng những họng súng, để bắn vói theo phi cơ chúng tôi. Tôi gặp ít nhất năm khẩu phòng không trên đoạn đường dài chừng 20 dặm nầy. Khi thấy Lộc Ninh bên phải và nhận định mục tiêu, anh Phùng ra lịnh:
                                - Tất cả Phi Long coi lại Mills (độ của máy ngắm) lên cao độ 1.500 bộ, target 1 dặm, hướng 10 giờ (quẹo trái về hướng Nam, để thả bom vào bên hông địch).
                                Lần lượt: "số 1 Rolling Hot”, rồi số 2. Số 3 và số 4 Rolling Hot trong ánh sáng vàng nhạt cuối cùng trong ngày. Chúng tôi đã vượt qua rất nhiều hàng rào phòng không dày đặc, trên đường đi ngay cả đường về, rất nhiều lần chúng tôi lướt trên những ổ cao xạ, nhìn thấy bọn chúng quay vòng những họng súng để bắn vói theo (quá trể rồi! lúc đó chúng tôi đã khuất dạng). Khi chúng tôi bay về gần tới Tây Ninh, thì trời đã tối hẳn. Nhờ vào sự can đảm phi thường, nhờ sự thông thạo địa hình và đầy kinh nghiệm của Thiếu-tá Phùng, chúng tôi đã hoàn thành sứ mạng và an toàn về đáp lúc 8 giờ tối. Cám ơn ông trời đã ban cho chúng tôi một cơn mưa, giúp chúng tôi hoàn thành phi vụ một cách tốt đẹp. Khi đáp xong, tôi ghi nhận thêm: Thiếu-tá Phùng thà ngậm đèn bấm soi sáng những phi cụ để bay, nhưng nhứt định không chịu hủy bỏ phi vụ; dù rằng trong phiên họp buổi trưa Đại-Tá Nhã đã lưu ý hai lần:
                                - Nếu có gì bất trắc các bạn rán chịu đựng qua đêm, sáng mai mới có trực thăng rescue.
                                Anh Phùng cười rằng:
                                - Mấy chuyện lẻ tẻ làm sao làm khó dễ tao được. Ngày mai tụi mình đi gặp Đại-tá Nhã, xin ông cho tụi mình bay lên đó, diệt phòng không, ít nhất mình cũng “lượm” hàng tá cao xạ 37, hay 57 ly. Đứa nào bay với tao, thì theo tao tới câu lạc bộ Trần Thế Vinh???
                                - Lần thứ hai *6.- Để nhớ ơn người anh hùng vị quốc vong thân: cố Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng, có nhiều thân hữu, quân dân, góp sức truy tìm tung tích anh Phùng. Sau bao năm lặn lội tìm kiếm... Trong cơ duyên nhờ anh linh của cố Thiếu-tá Trương Phùng dẫn dắt, ngày 2 tháng 12 năm 2008, cựu KQ Nguyễn Toại Chí đã mang hài cốt Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng (vùi sâu dưới 5 thước đất, gần cầu Bình Điền, Long An; trở về với gia đình). Hài cốt của cố Thiếu-tá Trương Phùng được hoả táng, và đem về thờ phượng tại chùa Bữu Quang. Theo nhân chứng là cụ H. (cụ còn ở Việt Nam, 90 tuổi, xin tạm dấu tên) kể rõ rằng: “Động cơ của chiếc máy bay bị ra khói, buộc lòng anh Phùng phải đáp khẩn cấp xuống ruộng, gần cầu Bình Điền. Anh Phùng bị bắt khoảng 7 giờ sáng ngày 29/4/74. Ngay tối hôm đó bọn Cộng-phỉ khát máu đã hành quyết anh Phùng cạnh giao thông hào”.
                                *7.- Cũng sau nhiều năm tháng vất vã ngược xuôi tìm kiếm, ngày 21-7- 2010 có một nhóm thân hữu Dân Quân Chánh, gia đình Thiếu-uý Phạm Tấn Đức, cùng cựu Không-quân Nguyễn Toại Chí đã tìm được nhiều hài cốt của PHĐ 07 , trong vòng đai của căn cứ Tân Sơn Nhứt. Họ đã mang hài cốt qúy vị ấy về an vị tại nghĩa trang An Khánh - Thủ Thiêm. (KQ NTC phụ trang).
                                . . . *8.- Cư xá Nữ Quân Nhân ở kế bên chưa đầy mươi mét, đã biến thành tro. Tôi (Phúc) vội vã lái xe Honda phóng nhanh trở về cư xá C-7 thăm vợ con. Vào phòng cư xá C-7 thì không thấy ai, hoảng hốt tôi đi vòng theo sidewalk để tới hầm trú pháo. Vô cùng may mắn khi tôi thấy một trái 122 ly không nổ đã cắm sâu xuống nền ciment, cách phòng của vợ con tôi chừng ba thước, (nơi đó vợ con tôi & gia đình Trung-uý Phạm Trung Vân PĐ C7- 431; là em rễ vợ tôi). Trước kia tôi thấy cái hầm nầy đã bỏ hoang lâu năm, bên trên chỉ có vài lớp bao cát mục nát, tôi nghĩ chúng tôi không nên ở lâu, vả lại tôi không quen “đường sá” trong khu Tân Sơn Nhứt. Vì vậy bất đắt dĩ tôi phải dời gia đình qua dinh Tướng Kỳ lánh tạm, dù sao ở đó cũng kiên cố hơn... Tôi chứng kiến chiếc trực thăng đáp xuống (khoảng sau 9 giờ sáng) Trưởng phi cơ là Thiếu-tá Quí, anh em Trung-tá Nguyễn Quốc Hưng & Trung-tá Nguyễn Quốc Thành, mỗi người cầm một cây M16. Tướng Kỳ vào nhà, ông cứ đi ra đi vô phòng làm việc nhiều lần. Khi ông bước ngang chỗ tôi đứng, tôi mạo muội hỏi:
                                - Thưa Thiếu Tướng, Thiếu-Tướng định làm gì bây giờ?
                                Ý của tôi hỏi Tướng Kỳ là tôi muốn biết có di tản về Cần Thơ, (như lời ông kêu gọi tại đây đêm 25/4/75) là: “cần đánh một trận oai hùng cuối cùng”? Chẳng biết ông có nhận ra tôi hay không, ông lắc đầu than:
                                - Anh em đã bỏ đi hết rồi, lấy ai mà đánh hở?!
                                Tôi đồng ý với Tướng Kỳ về việc nầy, vì sau khi tôi đáp xuống Tân Sơn Nhứt chừng 20 phút, tôi nghe rất nhiều tiếng phi cơ đủ loại ào ào cất cánh bay lên... Khoảng 9 giờ 30 phút Tướng Kỳ từ phòng làm việc bước ra, khi đi ngang tôi, Tướng Kỳ nói:
                                - Mỹ đã từ chối cho tôi (Tướng Kỳ) một chiếc C-141. Nhờ cậu thông báo các thân hữu của tôi tự tìm đường thoát thân sang DAO, hay xuống bến Bạch Đằng. Bây giờ tôi đi rước Tướng Trưởng bên Tổng Tham Mưu.
                                Tướng Kỳ lên máy bay, tôi liền đi chuyển lời của ông cho một số người ở trong nhà nầy, lúc bấy giờ tôi mới biết: có hàng trăm người khác đang “tá túc” trên lầu, trong số đó có cựu Dân Biểu Nguyễn Văn Cử. Điều may mắn là mọi người đã thoát khỏi nguy hiểm, dù có rất nhiều trái pháo rơi xung quanh
                                dinh, nhưng không quả nào lọt vô dinh Tướng Kỳ.

                                * * *

                                Tình Hoài Hương chân thành cám ơn Đại úy Không Quân Trần Văn Phúc {(Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51) - và quý vị Không-quân có ghi tên trong bài viết)} đã cho tôi mạn phép chuyển tải sự thật về ngày 28 & 29 tháng Tư năm 1975 : trung thực, chính xác, nóng bỏng, & vô cùng đen tối hắc ám của lịch sử Việt Nam.
                                * Đồng thời THH xin phép cám ơn quý vị nhiếp ảnh gia: đã post những tấm hình đầy nhân bản lên internet, cho tôi có thể copy vô bài viết, ngỏ hầu phong phú hoá hình ảnh sống động, và tài đức & nghệ thuật của quý vị.
                                Tôi chỉ xin quý vị sửa lại chữ HOLD HIGHRIDE (ngưng thả bom )_thành HOLD HIGH AND DRY cho đúng với với nguyên bản và đúng nghĩa. Thuỵ530

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X