Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Truyện của Mây Cao Nguyên

Collapse
X

Truyện của Mây Cao Nguyên

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Thảm Trạng Việt Nam



    THẢM TRẠNG VIỆT NAM
    (Biên Khảo Mây Cao Nguyên)

    I.-Năm mươi lăm ngày oan nghiệt:
    Khi bạn đọc những dòng chữ này, ngày 30 tháng 4 sắp cận kề, đánh dấu một vết đen ô nhục của dân tộc Việt Nam. Tôi muốn gợi lại cho bạn những cảnh hãi hùng của “năm mươi lăm ngày oan nghiệt” bắt đầu từ ngày 9 đến ngày 10 tháng 3 năm 1975: Lực lượng cộng quân tấn công Buôn-mê-Thuột. 11 tháng 3: Quân lực VNCH phản công. 12 tháng 3: Quân Bắc Việt chiến thắng tại Buôn-Mê-Thuột; nhưng cuộc phản công của quân lực VNCH bị thất bại. 13 đến 14 tháng 3: Từ khi mất Buôn-mê-Thuột, làn sóng người lẫn binh lính từ những vùng này vào khoảng nửa triệu người dùng tĩnh lộ số 7 để chạy xuống vùng Duyên Hải. Việt Cộng đã pháo theo- Và số nửa triệu người này đã xô đẩy nhau để tìm sự sống. Ông già, bà lão, trẻ nít…bị quân xa nghiền nát nằm chết đầy nghẹt hai bên đường. Pháo binh gầm thét, súng cá nhân nổ vang trời, tiếng la hét của người bị thương, tiếng kêu gào của người mẹ lạc con….tạo thành một âm thanh hỗn loạn của địa ngục dương thế, cực kỳ man rợ. Những người sống sót đói lã và chết gục không làm sao kể xiết. Ngày 15 tháng 3: Tổng Thống Thiệu ra lệnh bỏ các vùng cao nguyên Trung phần.

    Tin Buôn-mê-Thuột bị mất và cuộc triệt thoái khỏi Cao Nguyên đã làm cho tình hình quân sự càng ngày càng thêm tồi tệ. Tướng Việt cộng Võ nguyên Giáp ra lệnh thêm hai lực lượng Cộng quân di chuyển từ Bắc và Trung Tây Việt Nam. 17 tháng 3: Lực lượng Cộng quân “giải phóng” thành phố Pleiku. 18 tháng 3: Cộng quân tấn công đoàn người di tản trên tĩnh lộ 7 (từ Pleiku xuống Tuy Hòa). Vào lúc đó, Tổng Thống Thiệu ra lệnh Sư Đoàn Dù từ Vùng I phải rút về bảo vệ thủ đô đã gây xúc động tâm ly’ cho toàn thể quân-cán-chính vùng I không ít. Ngày 19 tháng 3: Cộng quân có xe tăng yểm trợ tràn ngập Quảng Trị. Huế bị pháo kích. Hà Nội ra lệnh cho tướng Văn-tiến-Dũng chuyển quân tiến chiếm hai thành phố lớn Huế và Đà Nẵng. Từ 20 tháng 3 đến 22 tháng 3: Tổng Thống Thiệu trong một bài diễn văn đọc toàn quốc, nói rằng quân lực VNCH đang chiến thắng và thề sẽ bảo vệ miền Nam Việt Nam. Huế tràn ngập người tỵ nạn.Đô trưởng Sài gòn ra lệnh phòng vệ dân sự. Tỉnh trưởng Huế khuyên dân sự nên rời Huế. Hai trăm năm chục ngàn người trốn khỏi Huế. Bộ Chỉ Huy tại Sài gòn từ chối không bỏ thành phố Huế. Các kế hoạch gia Hoa Kỳ chuẩn bị cung cấp vũ khí mới và tốt hơn cho quân đội VNCH. Tại Hà Nội, Lê Duẩn nói bóng gió Sài gòn sẽ sụp đổ.

    Ngày Chúa Nhật 23 tháng 3, đạn pháo kích của Việt cộng bắn xối xả vào thành phố Huế. Hôm sau, các ngã đường bị tắt nghẽn hoàn toàn. Cộng quân cô lập Huế, bắn vào đoàn người di tản trên đường chạy về đèo Hải Vân. Với ba gọng kềm tiến quân, Tướng Dũng đã bao vây Sư Đoàn I Bộ Binh và chận đứng Quốc Lộ I, đường rút quân từ Huế vào ĐàNẵng, khoảng cách 100 cây số. Cũng vào ngày này, phòng tuyến Mỹ Chánh chưa đánh mà đã tan rã, vì các đơn vị thiện chiến đã rút về Sài gòn, chỉ còn lại là lính Địa-phương-Quân, vì sự an nguy của gia đình, vợ con…nên đã bỏ chạy tán loạn. Tại Sài gòn, Tổng Thống Thiệu chấp nhận nội các từ chức và sau đó đặt tên là “Nội Các Chiến Tranh”. Vào ngày 25 tháng 3, lúc 10 giờ 30, cờ Mặt Trận đã được kéo lên tại cửa Ngọ Môn Huế, thành phố cổ kính này.

    Tướng Việt Cộng Văn-tiến-Dũng gửi 35 ngàn quân vào đánh ĐàNẵng, ở đây, chúng phải đương đầu với hơn một trăm ngàn quân VNCH. Các Sư Đoàn 324B, 325C, 304 và 711 nhanh chóng tràn ngập các quận Đức Dục, Đại Lộc thuộc tỉnh Quảng Nam và bao vây ĐàNẵng. Lúc này, ĐàNẵng đang nằm trong tầm pháo kích của Cộng quân. Dân số của thành phố đã gia tăng xấp đôi so với lượng sóng người tỵ nạn vào khoảng 3 triệu người. Hàng trăm ngàn người đã trốn thoát bằng thuyền để vào Nam. Vào ngày 26 tháng 3, quân đội chính quy Bắc Việt tiến vào. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ bắt đầu ra lệnh một cuộc không vận một trăm ngàn quân-cán-chính chủ yếu. Cộng quân pháo kích vào Bộ-Tư-Lệnh làm gián đoạn điện đàm với Trung Ương. Hỗn loạn xảy ra, mạnh ai nấy lo di tản, thoát thân , bất chấp kỷ luật. Quân nhân và dân sự đã xô xát, chém giết, cướp bóc, hãm hiếp trên khắp các đường phố. Trên bãi biển Mỹ Khê, Tiên Sa, tất cả những ghe thuyền còn xử dụng được đều được điều động ra điểm hẹn trước ngoài biển để lên Hạm Đội Pioneer Contender đang được đậu ngoài khơi.

    Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cũng thoát đi trên chiến hạm đó. Cảnh hãi hùng chém giết nhau để được leo lên tàu lớn không bút mực nào kể xiết. Nhiều ghe chở quá nặng, bị lật úp, hàng mấy trăm ngàn người bị chết chìm. Xác trôi ngập dạt vào bờ. Trong khi đó tại phi trường ĐàNẵng, đủ các sắc lính từ Hắc Báo, Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù, lính Bộ Binh…v.v.. và dân chúng đã phá vòng đai phi trường để chờ Không Vận về Sài gòn. Chiếc phản lực cơ 727 của hãng Hàng Không World Airways vừa đáp xuống phi trường ĐàNẵng, nơi đây đã có trên một trăm ngàn người đang chờ đợi. Viên phi công hoảng hồn, vẫn để trớn cho máy bay chạy tránh đám đông. Một người lính Hắc Báo cầm M-16 chạy đến chỉa súng về hướng phòng lái bắt viên phi công dừng lại. Rừng người chạy như ong vở tổ để dành chỗ trên phi cơ. Xe Honda, xe gắn máy đủ loại, xe Jeep, Pick Up…chạy cán bừa trên dân chúng.

    Đám lính Vùng I bắn lẫn nhau. Viên phi công cho máy bay di chuyển để tránh tràn ngập. Những người bám vào cánh, vào chân máy bay, rớt ngỗn ngang. Đàn bà con nít máu me đầm đìa. Có người chết cháy nám vì ống thoát hơi của chiếc phản lực cơ phun ra. Một số quân nhân không bám theo được, xả súng bắn theo phi cơ, một quả lựu đạn tung ra gây một lỗ hổng lớn ở cánh phi cơ. Vừa lúc phi cơ cất cánh, Cộng quân pháo tới tấp vào phi trường gây cảnh chết chóc khủng khiếp chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Viên phi công được báo cho biết có một số người bám dưới chân phi cơ, đừng xếp càng. Người ta thấy có một người bám không kỹ rớt từ phi cơ xuống biển. Có vào khoảng 268 người riêng trong chiếc Boeing 727. Chỉ có hai người là đàn bà và một đứa bé nhỏ. Số còn lại là lính thuộc Vùng I. Họ không chuyện trò với ai cả. Đầu cúi xuống sàn phi cơ. Người tiếp viên đi thâu tất cả súng ống, lựu đạn, và các loại chất nổ khác. Chiếc phi cơ quần thảo trên bầu trời Phan Rang và xin liên lạc với Đài-Kiểm-Soát để được đáp khẩn cấp. Nhưng nhân viên ở đó trả lời không có đồ trang bị chửa lửa. Và viên phi công chuyển hướng về Tân-Sơn-Nhứt. Sau khi đáp an toàn, cả phi-hành-đoàn làm dấu Thánh giá để cảm tạ Thượng Đế đã ban phép lạ cho chuyến bay có một không hai trong lịch sử loài người. Tất cả quân nhân trên chiếc máy bay định mệnh đó đã bị bắt giữ. Số người chui vào phòng chứa hành ly’ trên phi cơ, lạnh nhưng vẫn còn sống. Bốn người bám trên càng phi cơ vẫn còn sống, chỉ có một người chết..

    Vào ngày 30 tháng 3, chỉ trong vòng 32 tiếng đồng hồ sau khi bị bao vây, ĐàNẵng bỏ ngõ. Hai chiếc vận tải chở đầy bọn du kích địa phương, hơn một nửa là đàn bà để chiếm giữ thành phố, chúng tiến vào từ hướng Nam. Chúng lại vào những con đường chính để tiến đến trung tâm thành phố. Từng nhóm hai đến ba người, chận các ngã đường. Chúng ra lệnh đám lính rã ngũ buông súng đầu hàng. Hai tên nữ du kích tay cầm M-16 leo lên chiếc xe Lam đậu bên lề đường, dùng máy phóng thanh nói oang oang tuyên bố ĐàNẵng đã được giải phóng “yêu cầu đồng bào đừng sợ hãi. Bộ đội và các cấp đại diện chính quyền Cách Mạng sẽ có mặt tại đây. Yêu cầu đồng bào treo cờ Cách Mạng để nghênh đón đoàn quân Cách Mạng khi họ đến” . Trong vòng nửa tiếng sau đó, cờ Phật Giáo và cờ nền đỏ xanh và ngôi sao vàng (cờ Mặt Trận) tung bay trên khắp các ngã đường thành phố, ĐàNẵng hoàn toàn rơi vào tay quân Bắc Việt. Tại Sài gòn, Tổng Thống Thiệu nói: “Dân chúng chạy bởi vì họ biết điều gì sẽ xảy đến cho họ khi cộng sản đến”. Nhưng Phó Tổng Thống Nguyễn-cao-Kỳ nói: “Dân chúng phản ứng theo binh lính” và trách cứ ông Thiệu: “Sự tan rã cuối cùng đó là trách nhiệm của chính chúng tôi- hay nói đúng hơn, đó là trách nhiệm của ông Thiệu.

    Tại Buôn-Mê-Thuột, khi mới bắt đầu, sĩ quan chỉ huy đã bỏ chạy; mọi nơi khác những Sĩ Quan Chỉ Huy đã bỏ chạy, và tất cả những vị sĩ quan đó do ông Thiệu bổ nhiệm”. Nhưng Tổng Thống Thiệu nói rằng, “truyền thống của quân đội đã bị vữa nát. Bởi vì, mọi người hiểu rằng, viện trợ quân sự đã bị cắt bỏ. Có nhiều dấu hiệu Hoa Kỳ đã phản bội chúng tôi”. Tổng Thống Thiệu đã nói công khai rằng quân đội của ông có thể chiến đấu hăng hái và miền Nam sẽ được cứu vãn với sự viện trợ của Hoa Kỳ.Vào khoảng đầu tháng 4, một nửa miền Nam bị quân đội Bắc Việt chiếm cứ, một trăm năm chục ngàn quân đội VNCH được tập trung tại những địa điểm chiến đấu. Ngoài ra, quân Bắc Việt đã chiếm giữ một số dụng cụ quân sự của Hoa Kỳ trị giá ước lượng hàng tỉ đô-la chưa đụng tới. Tổng Thống Gerald Ford ra lệnh cho Chỉ-huy-Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ thay thế khẩn cấp các nhu cầu cho quân lực VNCH và đề nghị một ngân sách bổ khuyết bảy trăm triệu đô-la các dụng cụ tiếp liệu được không vận khẩn cấp. Nhưng không được Quốc Hội chấp thuận. Đại Sứ Martin tuyên bố: “Nếu quân đội còn y’ chí chiến đấu, thì không cần phải cho thêm súng đạn hay tiếp liệu”. Đại Sứ Bùi Diễm tuyên bố là đã không có hy vọng trông đợi vào sự giúp đỡ của Hoa Kỳ vì quân đội VNCH đang trên đà sụp đổ. Hoa Kỳ khuyến khích Nội Các của Tổng Thống Thiệu với sự đồng tình của các tướng lãnh miền Nam nên hòa đàm với cộng sản để tiến đến một chính phủ Liên Hiệp dựa trên căn bản Hiệp Định Paris để tiến đến một giải pháp chính trị.

    Vào ngày 31 tháng 3, Hà Nội tuyên bố, họ sẵn sàng thảo luận với chính phủ Sài gòn. Nhưng không phải với TT Thiệu. Các Bộ Trưởng của TT Thiệu bắt đầu làm áp lực để ông từ chức. Nhưng ông đã từ chối. TT Thiệu đã nói: “Tôi rất bình thản vào lúc đó, chúng tôi đã bị tràn ngập, nhưng không phải tất cả. Một nửa xứ sở đã bị tràn ngập, nhưng không phải tất cả. Chúng tôi vẫn còn đủ sức mạnh”.

    Vào ngày 1 tháng 4, quân đội VNCH lại bỏ ngõ thành phố lớn hàng thứ ba của miền Nam là Qui Nhơn. Bộ Chính Trị Bắc Việt lại đưa ra quyết định mới, phải tiến đến một cuộc đại thắng vào năm 1975. Theo như dự trù phải mất hai năm, bây giờ chúng đang nắm phần thắng bất ngờ. Tin tức tình báo cho biết, quân đội Bắc Việt sẽ có mặt tại Sài gòn vào ngày sinh nhựt Hồ-chí-Minh (19 tháng 5). Và để mừng sinh nhựt của họ Hồ, chúng phải chiếm Sài gòn cho bằng được vào ngày 1 tháng 5. Và cũng để tránh mùa mưa bắt đầu từ tháng 4. Trong thượng tuần tháng 4, những tỉnh dọc theo miền Duyên Hải như: Qui Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang và rồi các phi trường và hải cảng do Hoa Kỳ thiết lập có tính cách chiến lược lâu dài cũng đều lọt vào tay cộng sản. Người Mỹ di tản khỏi Nha Trang; thành phố xinh đẹp dọc miền Duyên Hải nay lại rơi vào tay bọn du kích địa phương. Người Mỹ tại Sài gòn bắt đầu chuyển những đồ giá trị ra khỏi Việt Nam. Người Mỹ bỏ lại những nhân viên đã từng làm việc cho họ tại NhaTrang. Tổng Thống Lon Nol rời khỏi Cao Miên.Trên đường tiến quân, quân đội Bắc Việt đã xử dụng những vũ khí lấy được và đi đến đâu đều có những kho vũ khí, đạn dược, tiếp liệu….tại mỗi địa phương cung cấp. Những đơn vị bộ đội có nhiệm vụ bao vây và tấn công Sài gòn chỉ mang theo những thứ cần thiết.

    Ngày 2 tháng 4, Thủ Tướng Trần-thiện-Khiêm từ chức, ông kêu gọi binh sĩ hãy tiếp tục chiến đấu. Chiếc máy bay chở trẻ mồ côi của hãng Hàng Không World Airways tuyên bố không được an toàn. Dân tỵ nạn đầu tiên đã đến Sài gòn; chính phủ ra lệnh cản không cho họ vào thành phố. Ngày 3 tháng 4, thành phố du lịch Đà Lạt bỏ ngõ trước khi cộng quân tấn công. Tại Sàigòn, đức Tổng-giám-Mục Nguyễn văn Bình kêu gọi TT Thiệu từ chức. Ngày 4 tháng 4 chiếc phi cơ chở trên ba trăm trẻ mồ côi bị lâm nạn. TT Thiệu thành lập tân Nội Các, Nguyễn bá Cẩn nắm chức Thủ Tướng. Ngày 5 tháng 4 trẻ mồ côi và các viên chức Hoa Kỳ được không vận rời khỏi Việt Nam, bắt đầu một cuộc triệt thoái để chấm dứt sự tham dự của quân đội Mỹ tại Việt Nam. Ngày 6 tháng 4, Trung Tướng Ngô quang Trưởng đang tuyệt thực tại Tổng-y-Viện Cộng Hòa. Ngày 7 tháng 4: Các thành phần Trung Lập (thành phần thứ ba) kêu gọi TT Thiệu từ chức; Cộng quân pháo vào các vùng ngoại ô chung quanh Sài gòn. Ngày 8 tháng 4: Trung Úy phản quốc Nguyễn thành Trung, phi công f-5, dội bom dinh Độc Lập của TT Thiệu và trốn về phía Việt cộng. Đoàn người nối đuôi nhau trước tòa Đại Sứ Mỹ để được di tản. Ngày 9 tháng 4, Cộng quân tiến đến Xuân Lộc, tỉnh lỵ Long Khánh, nằm trên Quốc Lộ I, cách Sài gòn 60 dặm về phía Đông. Rạng ngày 9 tháng 4, Cộng quân mưa pháo vào thành phố Xuân Lộc, trên một trăm ngàn dân ùn ùn di tản về Sài gòn. Ngày 10 tháng 4, để bảo vệ Sài gòn, quân đội VNCH không còn quá 6 Sư Đoàn, quân đội Bắc Việt có 18 Sư Đoàn đang chiếm thế thượng phong.

    Quân đội VNCH thiết lập vòng đai phòng thủ chạy dài từ Cao Nguyên đến vùng Duyên Hải Trung Phần xuyên qua thị trấn Xuân Lộc. Nếu cộng quân lấy được chốt Xuân Lộc, chúng có thể chuyển quân về Sài gòn một cách dễ dàng. Cuộc chiến xảy ra một cách ác liệt tại Xuân Lộc chỉ một vài ngày đầu. Bộ đội Bắc Việt mở một cuộc tấn công đầu tiên vào ngày 9 tháng 4 và năm ngàn binh sĩ thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh trấn giữ thị trấn đã đẩy lui được bốn vạn quân của tướng Văn tiến Dũng, dưới sự chỉ huy gan dạ của chuẩn tướng Lê-minh-Đảo, đặt bản doanh trong vườn cao su gần đó. Cuộc chiến tại Xuân Lộc là một chiến tích oai hùng của Quân Đội VNCH, Tướng Đảo dùng cây chỉ vào sơ đồ và cười lớn thề rằng: “Tôi thề giữ vững Xuân Lộc. Tôi không cần biết cộng quân có bao nhiêu Sư Đoàn tấn công chúng tôi. Chúng tôi sẽ đánh gục chúng”. Tướng VC Văn-tiến-Dũng cũng phải thú nhận: “Các Sư đoàn của chúng tôi đã mở nhiều cuộc tấn công để tiêu diệt từng mục tiêu của địch, nhưng vẫn bị đẩy lui. Các đơn vị pháo của chúng tôi đã xử dụng tối đa hỏa lực, nhưng Xuân Lộc vẫn đứng vững”.

    Cũng vào ngày 10 tháng 4, tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford, người kế vị tổng thống Nixon, lại một lần nữa kêu gọi Quốc Hội Hoa Kỳ chuẩn chi khẩn cấp ngân sách một tỷ Mỹ kim để cứu vãn Nam Việt Nam. Ông đã tường trình với Quốc Hội Mỹ, Hoa Kỳ hãy mua thời gian để sắp xếp cho một cuộc dàn xếp chính trị giữa Sài gòn và Hà Nội. Và hẳn nhiên, đến giờ phút này TT Ford và tiến sĩ Kissinger vẫn còn tin điều này có thể được. Xuân Lộc vẫn còn đứng vững cho đến ngày 19 tháng 4.

    Thay vì viện trợ, Quốc Hội Hoa Kỳ chuẩn chi hai trăm triệu Mỹ kim cho Tòa Lãnh Sự Mỹ tại Sài gòn để thực hiện chương trình di tản người Mỹ trong vòng hai tuần lễ. Cùng ngày, Căn Cứ Không Quân Biên Hòa gần Sài gòn bỏ ngõ, sau bốn ngày chịu đựng những cơn mưa pháo của Cộng quân.

    Tình hình chính trị tại Sài gòn gần như bấn loạn. Ai nấy cũng tin tưởng sẽ có một cuộc dàn xếp chính trị.

    Ngày 11 tháng 4 Lính nhảy dù được trực thăng vận đến chiến trường Xuân Lộc. Con đường dẫn đến Đồng bằng Cửu Long bị gián đoạn vì những cuộc tấn công của cộng quân; lực lượng ủng hộ TT Thiệu lấy làm lạc quan về sự ủng hộ của TT Hoa Kỳ Gerald Ford.
    12 tháng 4: lực lượng nhảy dù bị lọt vào ổ phục kích của Việt cộng; các lực lượng phòng thủ tại Xuân Lộc đẩy lui được cuộc tấn công lần thứ ba của cộng quân vào tỉnh lỵ.

    Ngày 13 tháng 4: Cộng quân làm nổ tung kho đạn dược và súng ống dành để tái trang bị cho quân đội VNCH. Quân đội VNCH chiến thắng, các ky’ giả bay vào Xuân Lộc.
    14 tháng 4: Cộng quân tái tấn công Xuân Lộc, và bị đánh bật trở lại một lần nữa. Tân Nội Các của TT Thiệu tuyên thệ nhậm chức. TT Thiệu thề sẽ không đầu hàng. Ngày 15 tháng 4: Sài gòn rúng động vì Cộng quân phá nổ kho đạn dược tại Biên Hòa. Đài phát thanh Hà Nội bảo đảm với Hoa Kỳ về sự an toàn để di tản kiều dân của họ. Trọng pháo của Cộng quân pháo vào phi trường Biên Hòa. 16 tháng 4: Quốc Hội Hoa Kỳ làm áp lực buộc TT Ford phải gia tăng việc di tản. Phan Rang thất thủ. Tướng Nguyễn vĩnh Nghi bị bắt. Ngày 17 tháng 4: Cuộc di tản của Hoa Kỳ gia tăng. Cảm tử quân của Việt cộng tấn công Trung Tâm Truyền

    Tin tại vùng ven biên Sài gòn. Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ bắt đầu đốt các giấy tờ, văn kiện bí mật. Cộng quân chiến thắng tại Cao Miên. 18 tháng 4: đại sứ Hoa Kỳ Martin khuyến khích TT Thiệu nên tiếp tục nắm quyền, trong lúc đó đại sứ Pháp khuyên nên từ chức. Lực lượng tiền phong Bắc Việt đánh thăm dò về phía Bắc của Sài gòn. Bộ Chỉ Huy Quân Sự tại Sài gòn ra lệnh quân đội tại vùng đồng bằng sông Cửu Long mở ngõ để cho cộng quân tấn công.

    Ngày 19 tháng 4: Lực lượng chính yếu của Bắc Việt chỉ cách Sài gòn một trăm dặm trong khi đó thành phố Phan Thiết thất thủ. Việt Cộng kêu gọi TT Thiệu ra đi và tiến đến hòa đàm. Công giáo và các Dân Biểu cũng kêu gọi TT Thiệu ra đi. Bắc Việt ra lệnh tấn công Sài gòn, nếu thấy cần thiết. Căn cứ Không Quân Biên Hòa đóng cửa. Ngày 20 tháng 4: Việt cộng pháo kích vào phi trường Biên Hòa. Lực lượng chính quy Bắc Việt tấn công Hàm Tân, cách Sài gòn 75 dặm về hướng Đông Bắc. Ngày 21 tháng 4: TT Thiệu từ chức sau khi đọc một bài diễn văn chống Mỹ một cách cay đắng. Hàm Tân thất thủ. Xuân Lộc cũng thất thủ.

    Chiến tuyến của quân đội VNCH chỉ cách thành phố Sài gòn 26 dặm. Phó Tổng Thống Trần văn Hương tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống. Việt cộng và các thành phần trung lập tấn công ông ta là người của “Nội Các Nguyễn văn Thiệu”. Ngày 22 tháng 4: Cuộc di tản của Hoa Kỳ bị chậm lại vì thiếu phi cơ. TT Trần văn Hương đón nhận những lời khuyên tương phản về phía Hoa Kỳ và Pháp để ở lại hoặc từ chức. Ông tuyên bố sẽ thành lập tân chính phủ. Đài phát thanh Hà Nội nói rằng sẽ không hòa đàm với Nội Các của tổng thống Hương. Ngày 23 tháng 4: Hai mươi sáu chuyến bay di tản đã rời Sài gòn. Chính phủ Trần văn Hương tuyên hứa áp dụng đúng các điều khoản trong Hiệp Ước Ba Lê, kể cả chia quyền với Việt cộng. Ngày 24 tháng 4: TT Hương hứa chắc Nội Các của ông sẽ tìm kiếm những cuộc hòa đàm với Việt cộng. Hai mươi tám chuyến bay chở người di tản rời Việt Nam. Tòa Đại Sứ Anh đóng cửa. Hoa Kỳ bỏ tòa Lãnh Sự tại Biên Hòa, trong lúc lá cờ Mỹ vẫn còn bay phất phới trên nóc. Ngày 25 tháng 4: Các chính trị gia tại Sài gòn đồng y’ chọn đại tướng Dương Văn Minh để thay thế TT Hương, yêu cầu Thượng Viện hợp pháp hóa. Tuy rằng có sự hậu thuẫn của đại sứ Mỹ Martin, TT Hương vẫn thất bại. Tướng Nguyễn cao Kỳ gọi những kẻ trốn ra đi là những bọn hèn nhát (sic) và ông kêu gọi tiếp tục chiến đấu. Ngày 26 tháng 4: TT Hương đồng y’ giao quyền lại cho Đại tướng Dương văn Minh. Gần như hỗn loạn tại phi trường Tân-sơn-Nhứt. Sàigòn căng thẳng và vật giá gia tăng. Hoa Kỳ chở Tổng Thống Thiệu bay qua Đài Loan để sống kiếp lưu vong. Quốc Hội chấp thuận tướng Minh lên nắm quyền Tổng Thống. Ngày 27 tháng 4: Lần đầu tiên trong vòng ba năm rưỡi, cộng quân pháo ba trái hỏa tiễn vào Sài gòn. TT Minh gặp đại sứ Martin ra lệnh cho quân đội Mỹ phải rút ra khỏi Việt Nam trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Cuộc tấn công của cộng quân bắt đầu chậm lại. Quốc Hội Việt Nam trong một phiên họp chính thức, đã bầu 130-0 để trao quyền cho Tướng Minh. Ngày 28 tháng 4: Vào lúc nửa đêm, bốn trái hỏa tiễn khác của cộng quân bắn vào Sài gòn. Việt cộng tấn công Tân Cảng nằm về phía Bắc Sài gòn. Tướng Dương văn Minh tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống. Việt cộng dội bom phi trường Tân Sơn Nhứt, dấu hiệu tấn công lần cuối vào Sài gòn; hai lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ tử thương.

    Ngày 29 tháng 4: Sau khi thân hành quan sát phi trường Tân-sơn-Nhứt, đại sứ Martin ra lệnh cuộc di tản cuối cùng của người Mỹ ra khỏi Việt Nam. Các phi cơ trực thăng chở cả Mỹ lẫn người Việt Nam ra các chiến hạm đậu ngoài khơi để ra đi; cuộc di tản chấm dứt vào lúc nửa đêm. Ngày 30 tháng 4: Ngay sau nửa đêm. Đại Sứ Martin lên chiếc trực thăng cuối cùng, bỏ sáu trăm người ở lại trên sân Tòa Đại Sứ Mỹ. Lực lượng Cộng quân tiến vào Sàigòn. TT Dương-văn-Minh đầu hàng, cờ Việt cộng tung bay trên nóc dinh Độc Lập. Ngày 1 tháng 5: Lực lượng cộng quân làm chủ tình hình tại Sài gòn. Ngày 2 tháng 5: Thủ đô Sài gòn lần đầu tiên nằm trong tay Việt cộng. Ngày 3 tháng 5: Cờ Việt cộng tung bay trên khắp thành phố. Tại Đồng bằng Cửu Long, vài cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục trong khi VC di chuyển để kiểm soát hoàn toàn lãnh thổ. Những sự liên lạc, truyền tin với thế giới bên ngoài bị cắt bỏ. Cuộc tấn công chấm dứt trong năm mươi lăm ngày; Việt cộng kiểm soát toàn cõi Việt Nam từ Bắc vào Nam. Ngày 4 tháng 5: Các cấp thẩm quyền mới của Việt cộng tại Sài gòn tuyên bố ngày 7 tháng 5 tập trung để làm lễ ăn mừng chiến thắng.

    Nhân đây tôi muốn gợi lại cho bạn những giây phút sau cùng của các danh tướng miền Nam, đó là tinh thần bất khuất của các anh hùng: Lê văn Hưng, Nguyễn khoa Nam, Hồ ngọc Cẩn, Phạm văn Phú…..Khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ và biết là không còn tiếp tục chiến đấu được nữa. Tướng Lê văn Hưng (nguyên là Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV) tự sát tại Bộ Tư Lệnh, sáng ngày 30 tháng 4. Tướng Nguyễn khoa Nam (nguyên Tư Lệnh Quân Đoàn IV) cũng tự sát tại Bộ Tư Lệnh, sáng ngày 1 tháng 5. Còn anh hùng Hồ ngọc Cẩn (nguyên là Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương Thiện) bất chấp lệnh đầu hàng và cùng với đồng đội chiến đấu chống quân Việt cộng đến cùng. Sau ông bị giặc bắt và đem hành quyết tại Cần Thơ. Ông chấp nhận cái chết rất thản nhiên và yêu cầu giặc không bịt mắt để được nhìn thấy đồng bào lần cuối.

    Cộng sản Việt Nam tàn bạo với đồng bào: 1945-1957: tầng lớp trí thức: 50000 người. Cải cách ruộng đất trên đất Bắc (1953-1955) 10,303,004 người. Tết Mậu Thân (1968) 5800 người. Xâm lăng VNCH từ năm 1954 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975: 10,000,000 người. Sở Công An Sài gòn đến cuối tháng 7 năm 1975: Đã đẩy 154,772 quân nhân viên chức VNCH cũ vào các trại tập trung. Đến cuối tháng 10, cùng năm (1975), Công An bắt thêm 68, 037 người nữa. Cộng chung đến ngày 30 tháng 10 năm 1975, tổng số cựu quân nhân viên chức VNCH cũ, bị chúng giam giữ trong khoảng 200 trại tập trung trên toàn cõi Việt Nam là 222,809 người. Đến tháng 4 năm 1992 người cuối cùng mới ra khỏi trại tập trung. Trong 17 năm đó, ước lượng từ 8000 đến 10000 tù chính trị bị chết do chính sách thù hận thâm độc của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam.

    Thống kê Việt Nam hiện nay cho thấy, 70% dân số được sanh ra và lớn lên sau thời điểm 30 tháng 4 năm 1975. Những nhân chứng lịch sử của cuộc chiến tranh Quốc-Cộng đang mất dần. Đảng Cộng Sản Việt Nam hy vọng với một lớp trẻ được đào tạo dưới một chế độ hà khắc, và một nền giáo dục sắt máu- chỉ nhằm tuyên truyền, lừa gạt để mị dân, chứ không nhằm nâng cao kiến thức và phẩm chất người dân- họ sẽ đạt được mục đích họ muốn là củng cố chế độ và kéo dài sự tham quyền cố vị. Yếu kém về kiến thức, giáo dục và lịch sử, dân tộc Việt Nam đang bị thế giới bỏ rơi, và đang phải đối đầu với sự bất lực trước nguy cơ mất nước vào tay Trung Cộng. Tin tức từ khắp nơi cho thấy: dân tộc Việt Nam đã và đang chịu đựng nỗi nhục nhã, nhân phẩm bị chà đạp và bị coi thường, vì những chính sách “đổi chác” ngu muội, gần như “bán dân, buôn nô lệ” một cách vô-trách-nhiệm. Lớp viên chức do Việt cộng đào tạo, ngày càng cho thấy sự tham lam đến độ bẩn thỉu. Chúng tham lam vơ vét, bất kể cả sĩ diện dân tộc và luật pháp quốc tế.

    Đã đến lúc chúng ta nên tự hỏi: đất nước, dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu, dưới sự lãnh đạo mù quáng này?.
    Có bao giờ chúng ta suy tư khi đọc nhãn hiệu của vô số thức ăn làm sẵn, đến từ bọn thổ phỉ Tàu Cộng, một quốc gia thù nghịch bao đời với đất nước ta, mà những thức ăn ấy đã làm tử vong, gây bệnh hoạn cho bao nhiêu người dân của chính họ? Chúng sẽ còn dùng thủ đoạn độc ác nào nữa với dân tộc ta?. Có bao giờ chúng ta lặng người nhìn giòng sông dơ bẩn, đầy ô nhiễm chảy vào quê hương ta, mà thượng nguồn đổ xuống là từ những con sông, những cái đập khổng lồ hoàn toàn do bọn Rợ Hán kiểm soát? Hoặc nhìn những cơn lũ lụt hàng năm, những cánh rừng bao la bị tàn phá bừa bãi, những mỏ quặng, tài nguyên thiên nhiên bị bọn Trung Quốc khai thác, với dã tâm cài đặt và phá hủy đất nước ta, đưa dân tộc ta đến sự kiệt quệ một ngày không xa, hầu dễ dàng thôn tính khi thời cơ cho phép?. Hoàng Sa, Trường Sa, Tây Nguyên, Vịnh Bắc Bộ, Ải Nam Quan, thác Bản Giốc…đã lọt về tay giặc Hán. Và chúng ta sẽ phải mất nhiều nữa nếu việc đối phó với bọn Hán cộng vẫn còn nằm trong tay Đảng Cộng Sản Việt Nam, những kẻ mà từ xưa đến nay chỉ biết cướp chính quyền bằng bạo lực, quen thói bưng bít, dối gạt và tàn ác với đồng loại của mình, nhưng lại quá hèn yếu và kém cỏi khi đối đầu với bọn ngoại bang nguy hiểm như Trung Cộng.
    Vào thế kỷ thứ 13, Vua Trần Nhân Tôn để lại di chúc rằng: “Các ngươi chớ quên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải, họ không tôn trọng biên giới qui ước, cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy, các ngươi phải nhớ lời ta dặn. Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác”.

    Cũng vì dân chúng miền Nam không hiểu cộng sản là gì cho nên đất nước mới ra nông nỗi này; và chế độ cộng sản còn tồn tại đến ngày hôm nay cũng do trình độ kém hiểu biết của khối người Việt tại hải ngoại trước âm mưu tuyên truyền xảo trá, bịp bợm của Việt cộng và bè lũ tay sai. Ngay cả những tên “tai to, mặt lớn” cũng đang rục rịch đánh hơi để kêu gọi “hòa hợp, hòa giải” với bọn Việt cộng. Nhiều lúc, cá nhân tôi, chỉ biết than trời cho bọn người háo danh, ích kỷ cá nhân loại này. Văn hào Nga lưu vong, ông Vladimir Boukovsky, nhắc nhở trách nhiệm tự nguyện của mọi người bị cộng sản đày đọa phải hành động để tự cứu: “Làm thế nào chống lại được sức mạnh ghê gớm của các chế độ tàn bạo? Mọi sự sẽ vô vọng nếu ai cũng tự nhủ rằng một mình ta sẽ không làm được gì. Vậy thì khi bị dồn vào chân tường, mỗi người nên đặt câu hỏi: Nếu ta không làm thì ai sẽ làm? Đặt được câu hỏi ấy rồi thì mọi người sẽ được cứu thoát”.

    II.-QUÊ HƯƠNG ĐAU KHỔ:
    Dân chúng Sài gòn nhìn những chiếc T-54 và đoàn xe Molotova chở bọn cán binh cộng sản thuộc Sư Đoàn 324 tiến vào thủ đô vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Lúc 12 giờ 15 phút cờ Mặt Trận được kéo lên nóc Dinh Độc Lập; và niềm hy vọng của họ đã tan thành tro bụi, họ nhìn nhau sợ hãi, bàng hoàng, sửng sốt…như đang trải qua một cơn ác mộng.

    Tôi đã trở về lại Nha Trang (quê vợ) chờ ngày trình diện với Ủy Ban Quân Quản để đi ở tù. Tôi xin ghi lại hình ảnh tang thương của thành phố duyên hải xinh đẹp này trong những ngày đầu lọt vào tay của loài quỷ đỏ.

    Đêm ở đây thật buồn, không còn sự náo nhiệt của những ngày xưa cũ. Bóng dáng của những cặp tình nhân đã biến mất trên những con đường thành phố. Hàng cây Bách Diệp cũng gục đầu tủi hận cho kiếp sống của con người. Những ngọn đèn dầu thay thế những bóng đèn điện. Văn minh đã bị bóp chết, sinh hoạt của dân chúng đang lùi dần về thời kỳ đồ đá. Chính sách của Đảng và Nhà Nước đang kêu gọi dân chúng phải thắt lưng, buộc bụng trong hoàn cảnh khó khăn do Mỹ, Ngụy để lại “Đói phải nói rằng no, buồn phiền phải tạo ra khuôn mặt tươi tỉnh, vui vẻ…mới xứng đáng là công dân tốt của nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa.Cách Mạng luôn luôn khoan hồng và sẽ cứng rắn đối với những thành phần phản động”. Không được nhăn nhó, nhăn nhó tức là đang có âm mưu, chưa ăn miệng giả vờ ngậm tăm làm như đã ăn rồi đang xỉa răng. Hạnh phúc nhất của người dân sống ở những nước cộng sản là nửa đêm công an đến gõ cửa bắt người mà kẻ đó không phải là mình. Xã hội của tôi là những người này sao? Chúng tôi đang học ăn, học nói và học gian dối. Càng đóng kịch tài giỏi càng được biểu dương và yên ổn. Như một con chiên ngoan đạo, mở miệng ra phải nói cảm tạ Thượng Đế, còn chúng tôi: Cám ơn Đảng và Bác như một câu nhật tụng, một câu đầu môi chót lưỡi phải thuộc nằm lòng. Phải tiết kiệm không được hoang phí, xương cá, xương gà, xương bò, xương heo phơi khô và nghiền nát để làm đồ gia vị, nêm canh cho ngọt. Một cuộc đấu tranh giai cấp quá bẩn thỉu, phát xuất từ những kẻ cầm quyền suốt đời chưa có cơ hội cắp sách đến trường. Nay, cờ đã vào tay chúng vung cao phất theo “tiếng vọng của quá khứ”, bắt tất cả nhân dân ở miền Nam phải sống như chúng đã từng sống, tịch thâu và đốt tất cả những sách vở thuộc loại “văn hóa đồi trụy”. Trong lúc đó, chúng kêu gọi đồng bào phải tham gia các lớp “bổ túc văn hóa” mỗi đêm để diệt “giặc dốt”, để hấp thụ “một nền văn hóa mới lành mạnh”, để có dịp làm quen với những vần thơ của nhà “đại văn hào” Tố Hữu: “Ới ông Sít-ta-Lin ơi! Hởi ơi! Ông chết đất trời biết không? Thương cha, thương mẹ, thương chồng, Thương mình thương một, thương ông thương mười”. Hoặc: “Hoan hô Sít-ta-Lin, Đời đời công đại thọ…Sít-ta-Lin, Sít-ta-Lin, Yêu biết mấy nghe con tập nói, Tiếng đầu lòng con gọi Sít-ta-Lin”.

    Nguyễn Du nếu đem so sánh với ông Bộ Trưởng Văn Hóa Hà Nội thì thua xa. Thuyết định mệnh trong Đoạn Trường Tân Thanh của ông “dỡ ẹt”. Thúy Kiều đã coi chữ trinh quá nhẹ, bán mình để chuộc cha. Vì vậy suốt đời Thúy phải chịu cảnh “hồng nhan bạc mệnh” không bằng một góc của ông chủ tịch Quốc Hội Nhà Nước Việt Nam: Trường Chinh Đặng xuân Khu đã đem ông già ruột của mình ra trước Tòa Án Nhân Dân đấu tố cho đến chết để làm gương trong cuộc “cải cách ruộng đất”. Cha mẹ sinh con đẻ cái đó là lẽ đương nhiên của tạo hóa, “tề gia, trị quốc” sau đó mới “bình thiên hạ”. Chắc linh hồn của các tổ Mác-Lê và Stalin sẽ ngậm cười dưới chín suối, vì đã để lại những tên đồ đệ trung thành đang thực hiện đúng đắn thuyết “duy vật biện chứng” của mình.

    Chiếm được miền Nam như “chó ngáp phải ruồi”. Chúng huênh hoang, xấc láo, coi thế giới nhỏ không bằng hạt cát. Mới năm đầu “giải phóng”, bọn chúng đã vội vã họp Quốc Hội tu chỉnh Hiến Pháp để thống nhất hai miền Nam Bắc: “Phải tạo cho nhân dân miền Nam có một đời sống như dân miền Bắc, phải tạo cho bằng được Chủ Nghĩa Xã Hội tại miền Nam để người dân được ăn no, mặc ấm, không còn cảnh người bóc lột người”. Trên hai mươi năm nội chiến, ung nhọt của xã hội miền Nam đã bực mủ từ khi quân đội Mỹ đặt chân vào hải cảng ĐàNẵng, những xa hoa phù phiếm đã “kéo mây” trên đôi mắt của người dân, làm mờ đi “con chó đói cộng sản” đang ngày đêm rình mò bên cạnh. Nay “chó” đã ngoặm được miếng thịt, có đánh trụi lông, nó cũng không bao giờ nhả. Đúng, xã hội chủ nghĩa “ưu việt” thật, làm gì có nạn thất nghiệp: “Còn đôi tay ta làm nên tất cả, Với sức người sỏi đá cũng thành cơm”. Cánh cửa vùng kinh-tế-mới luôn luôn rộng mở. Những kẻ ăn không ngồi rồi hãy tự nguyện lên đó mà canh tác. Sản phẩm làm ra đóng 90% nghĩa vụ cho Nhà Nước, còn 10% để lại cải thiện cho gia đình. Xã Hội Chủ Nghĩa làm gì có đình công? Những kẻ chủ mưu được mời vào bàn hội thảo, nước trà, bánh ngọt…đãi đằng vui vẻ. “Cán bộ là đày tớ của nhân dân, phải luôn luôn lắng tai nghe tiếng nói của nhân dân chứ?. Các anh hãy để lại địa chỉ để chúng tôi tiện việc liên hệ”. Nửa đêm chúng cho xe bít bùng đến gõ cửa những kẻ chủ mưu đình công dẫn đi biệt tích.

    Như vậy không “ưu việt” là gì? Đâu như tên Pôn-Pốt, ngày chiếm được PhnomPen, hắn đã ra lệnh tàn sát hết gần một nửa dân số Cao Miên, ra lệnh dân chúng phải ra khỏi thành phố trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ, để suốt đời mang tiếng là một tên đồ tể. “Chế độ ta” không làm như vậy, muốn bảo vệ thành quả của Cách Mạng phải có súng đạn, muốn có súng đạn phải đổi bằng lúa gạo, lâm và hải sản, chứ không thể dùng tín phiếu của họ Hồ để mua được, vì không có trữ kim bằng vàng.

    Tội gì phải giết kẻ thù của mình bằng súng đạn? Phí phạm ngân qủy quốc gia. Hãy để chúng sống thay trâu bò tạo ra của cải vật chất, như vậy có phải lợi hơn không? Mà lại được tiếng là nhân đạo. Cá đã nằm trên thớt, muốn chặt, muốn bằm, muốn xé lúc nào chẳng được? Gần hai triệu “Ngụy quân, Ngụy quyền” khối nhân lực hùng hậu gồm đủ các tinh hoa miền Nam, có thể “phá núi, lấp sông” một cách dễ dàng, đừng nói gì đến “khai hoang, vỡ hóa”.

    Ngày xưa nền nông nghiệp ở Việt Nam quá lạc hậu mà cũng mang tiếng là vựa lúa ở miền Đông-Nam-Á, trong lúc văn minh của nhân loại mỗi ngày mỗi tiến triển vượt bực, tất cả đều được cơ-giới-hóa, thế mà ông cha ta vẫn bảo thủ “con trâu đi trước cái cày theo sau”. Nay đổi đời, bọn lãnh đạo HàNội đã tiên tri một cách thần thánh về khủng hoảng năng lượng trên thế giới, nghiên cứu rất kỹ thuyết tiến hóa của Darwin về nguồn gốc của con người thoát thai từ loài khỉ, nhưng lại có một bộ óc siêu việt có thể chế ngự được thiên nhiên và làm chủ muôn loài trên cái quả đất ô trọc này. Vì vậy, các “đỉnh cao trí tuệ” của Trung Ương Đảng, mới nghĩ ra một cách: Dùng Trại Cải Tạo vùng Cao Bằng, Lạng Sơn để làm thí điểm “kéo cày thay trâu”. Các học viên cao cấp của miền Nam, một số tốt nghiệp tại các quốc gia tiến triển trên thế giới, hấp thụ một nền văn minh vượt bực của nhân loại, đặc biệt về lãnh vực khoa học, kỹ thuật và với những thân hình béo tốt, có thể làm được việc này. Mỗi ngày trên các đồng lúa của vùng Cao-Bắc-Lạng bóng dáng trâu bò đã biến mất, hình ảnh các người còng lưng bì bỏm kéo cày tạo nên một sắc thái đặc biệt cho nền nông nghiệp xã hội chủ nghĩa..

    Súc vật trong các Hợp Tác Xã chăn nuôi đang ngửa mặt cười trời, hồ hỡi phấn khởi xuống tàu đi làm nghĩa vụ quốc tế. “Kế hoạch kinh tế ngủ niên 75-80 được chính quyền các cấp thực hiện một cách triệt để. Mỗi một người dân trong một tháng phải đi làm nghĩa vụ lao động mười lăm ngày. Các công nhân, viên chức nhà nước, tận dụng mọi đất đai tại các công sở để sản xuất hoa màu phụ và các khu đất hoang tại Suối Dầu, Đồng Bò, Đồng Đế, các triền núi dọc theo đèo Rù Rì và Rọ Tượng để tiến đến tự túc thực phẩm tại mỗi địa phương.

    Các nghĩa trang nằm trong thành phố phải bốc đi nơi khác để đặt làm nông trường tập thể. Tôi còn nhớ “ngày ra quân sản xuất” đầu tiên, cờ xí rợp trời, các tấm biểu ngữ được trưng lên khắp các ngã đường, các loa phóng thanh oang oang cổ động chạy khắp hang cùng, ngõ hẻm. Các em học sinh cấp I, cấp II và cấp III cũng tay cuốc , tay xẻng đào xới trên những sân trường học. Chiến dịch “Ao Cá Bác Hồ” và “Cầu Tiêu Hai Ngăn” (chắc cũng mang tên bác Hồ) được áp dụng cho các xã thôn ngoại ô thành phố như Xuân Lạc, Xuân Phong, Đại Điền….cũng rầm rộ không kém. Các ruộng vườn, rẫy bái của tư nhân cũng được xung công vào Hợp-Tác-Xã. Các đội, các tổ sản xuất được bầu bán, phân công rõ rệt, chỉ tiêu thi đua được đề ra cho mỗi Phường. Phường chia cho Khóm, Khóm chia cho Tổ.

    Chương trình “năm mét rau cải thiện” dành cho mỗi gia đình cũng được áp dụng, kể cả việc chăn nuôi gia súc tại gia cũng phải báo cáo để “lập thành tích biểu dương” trước nhân dân trong các buổi học tập chính trị. Đó là về mặt nhân dân. Đối với những thành phần có “nợ máu” như chúng tôi, được kêu gọi để “lập công chuộc tội”. Tôi đã phải cười ra nước mắt khi nhìn đàn con dại sáng dậy đi học không có gì ăn lót dạ. Vợ đi làm mỗi tháng bốn mươi đồng tiền Ma-vương và mười hai ky’ thực phẩm, chỉ đủ cho một người ăn.

    Tuần này đi đắp đập, tuần khác được cử đi làm ruộng muối, hoặc đi cất nhà cho nhân dân tại các Vùng Kinh-Tế-Mới, với lương thực tự túc. Tôi đã phải tháo từng tấm “tôle” đi bán cho những lần đi làm “nghĩa vụ lao động”. Lúc này các nút chặn vào thành phố được chiếu cố rất kỹ do các lực lượng thuế vụ phối hợp với công an Tỉnh để chận bắt các con buôn đem gạo vào thành phố và từ Tỉnh này qua Tỉnh khác, nên giá gạo từ 7 đồng đến 8 đồng một ky’ lô.

    Lương công nhân Nhà Nước một đồng rưỡi một ngày, chỉ bằng một ly cà-phê đen. Đời sống của tất cả mọi người dân (ngoại trừ bọn cán bộ cộng sản) đã xuống dốc một cách thê thảm. Những báo cáo về sản xuất và chăn nuôi trên các loa phóng thanh nghe rất phấn khởi, tuy nhiên trên thực tế, nói lên sợ đi “cải tạo” lại: Nhà tôi nuôi hai con gà, riêng tôi báo cáo lên Khóm, vợ tôi báo cáo lên Tổ Phụ Nữ, hai con tôi đi học báo cáo lên nhà trường, tổng cộng 8 con. Nhưng thực tế chỉ có 2 con.

    Về sản xuất, cảnh “cha chung ai khóc” nên mỗi lỗ hom mì, thay vì chỉ một hoặc hai hom, nhân dân “thương” Đảng và Bác đã bỏ xuống mỗi lỗ hai ba chục hom hoặc gần nửa lon bắp. Lúc lên mầm thì trở thành bụi hom mì hoặc bụi bắp, chắc đến khi bác đầu thai kiếp khác mới sinh hoa kết trái. Những rẫy hoa màu tại các khu rừng hoang bị khỉ và heo rừng đêm đêm xuống đào phá hư nát. Tôi đã làm thử một bài tính sau khi thu hoạch, trừ tiền phí tổn, bới xách, xe cộ….thì mỗi ky’ khoai hoặc mì, giá từ hai đến ba chục đồng (giá chợ đen mỗi ky’ một đồng).

    Xin các nhà đại kinh tế hãy đốt tất cả sách vở và máy điện toán, khăn gói về Việt Nam để thọ giáo tài “kinh bang tế thế” của các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Các ruộng vườn dọc hai bên quốc lộ Một từ Nha Trang lên Thành rất xanh tốt, nhưng đến khi gặt thì toàn là lúa lép vì có lần các cán bộ nông nghiệp phát nhầm thuốc khai quang (tưởng là phân bón) cho nông gia.

    Chưa kể những thiên tai như lụt lội, hạn hán mà Thượng Đế đã giáng xuống đầu những kẻ vô thần trong suốt những năm chúng cai trị. Nhiều lần chúng huy động dân chúng đào mương, đắp đập, xẻ núi, phá rừng để chống lại “giặc trời”. Lịch sử oai hùng của dân tộc Việt Nam đến hồi đen tối như vậy sao?. Nhìn chung quanh đồng loại của tôi, áo quần tả tơi, rách nát, đôi mắt thất thần, nhiều người tuổi còn trẻ mà trên đầu tóc đã lốm đốm bạc, vì: “Chúng tôi sống trong một quốc gia, Bên này bờ Đại Dương. Ở đây sự im lặng là vàng, Phát ngôn là đại họa. Đất nước lọt vào tay, Bọn gian manh xảo trá. Kẻ ngu dốt làm chủ, Kẻ bệnh hoạn làm thầy. Gieo toàn tai vạ” .

    Tôi mơ ước được trở lại trại “cải tạo”, thà mất tự do, nhưng khỏi phải chứng kiến những cảnh mũi lòng. Mỗi ngày còn lãnh được hai chén cơm độn, giao phó số phận cho định mệnh đưa đẩy còn hơn về với địa phương để nhìn con cái của mình xách bao bị đi đến các tiệm ăn trong thành phố để lượm xương bò, xương heo và bươi các đống rác để lượm giấy má, bao ny-lông về nộp cho nhà trường, để lãnh giấy khen, để được làm “Cháu Ngoan Bác Hồ”.

    Những lãnh khoai được vun xới kỹ lưỡng dọc trên các đường phố, trong công viên, những giàn bầu, giàn bí, giàn mướp bò trên các lan-can biệt thự thay cho các giàn hoa Dạ Ly’. Bộ mặt của Nha Thành mến yêu được những bàn tay vô sản tô điểm trông như gái đĩ về chiều.
    Đừng tiếp tục nghe lời nói láo: Nhà văn Nga Alexandre Soljenitsyn nói: “Khi thằng cộng sản nói láo, ta phải đứng lên nói nó nói láo. Nếu ta không có can đảm nói nó nói láo, ta phải đứng lên ra đi, không ở lại nghe nó nói láo. Nếu ta không can đảm bỏ đi, mà phải ngồi lại nghe, ta sẽ không nói lại, những lời nó đã nói láo với người khác”.

    Đức Đạt Lai Lạt Ma lãnh tụ Phật giáo Tây Tạng nói: “Cộng sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là loài trùng độc, sinh sôi, nẩy nở, trên rác rưởi của cuộc đời”.
    Bà Thủ Tướng Đức Angela Merkel nói: “Cộng sản đã làm cho người dân trở thành gian dối”.
    Bí thư đảng cộng sản Nam Tư Milovan Djilas nói: “20 tuổi mà không theo cộng sản, là không có trái tim, 40 tuổi mà không từ bỏ cộng sản là không có cái đầu”.
    Cố Tổng Thống Nga Boris Yeltsin nói: “Cộng sản không thể nào sửa chửa, mà cần phải đào thải nó”.

    Cựu tổng bí thư đảng cộng sản Liên-Xô Mr Gorbachev nói: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho ly’ tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”.

    Cựu Tổng Thống Nga Putin nói: “Kẻ nào tin những gì cộng sản nói là không có cái đầu. Kẻ nào làm theo lời của cộng sản, là không có trái tim”.

    Cố TT Mỹ Ronald Reagan nói: “Chấm dứt chiến tranh Việt Nam, không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ cái giá phải trả, cho loại Hòa Bình đó, là ngàn năm tăm tối, cho thế hệ sinh ra tại Việt Nam về sau”.

    Cố Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu nói: “Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”.

    (Mùa Quốc Hận,30 tháng 4 năm 2011 MCN)

    Comment


    • #17
      Thập Chưởng Trận Đồ



      THẬP CHƯỞNG TRẬN ĐỒ
      Biên khảo: Mây-cao-Nguyên
      (White Rock, B.C. Canada)

      Theo truyền thuyết cổ xưa của người Hy Lạp quả đất ngập tràn những người bán nam, bán nữ. Họ gắn bó và kết hợp với nhau một cách hoàn hảo. Trong niềm tự hào đó, họ đã chống lại tất cả các vị thần, mạnh nhất có thần Dĩ Úc (Zeus), ngứa mắt trước bọn người kiêu hãnh này, ngài đã chẻ đôi và vứt rải rác mỗi nửa khắp nơi trên quả đất. Kể từ đó, mỗi nửa còn lại xính vính, chạy tán loạn để đi tìm cho bằng được nửa mình kia. Tâm trạng xa nhau giống như bốn câu thơ sau đây của Hàn-mặc-Tử:
      “Người đã xa rồi, không níu lại,
      Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa.
      Người đi một nửa hồn tôi mất,
      Một nửa còn đây hóa dại khờ”.
      Hoặc:
      “Em ơi! Lửa tắt bình khô rượu,
      Đời vắng em rồi vui với ai!” (Vũ-hoàng-Chương)

      Và khi đã tìm được, họ trở nên mãn nguyện, đó là điều mà chúng ta gọi nó là tình yêu.
      Đối với bạn tôi không biết sao; riêng tôi, khi mới ló chân vào ngạch cửa của tình yêu, bị ông thần Dĩ-Úc chém một dao đứt đôi. Trên dãy đất hình cong như chữ S, ông đã vứt “một nửa đời tôi” ở cái xó xỉnh nào mà suốt bao năm trường tôi đã cố công đi tìm; kể từ Vĩ Tuyến thứ 17 trở vô Nam, từ những miền Duyên Hải thơ mộng đến những vùng Cao Nguyên núi non hiểm trở, nhãn lực của tôi càng ngày càng yếu dần, nên đôi lúc bị loạn thị vớ phải bà Hà Bá trên dòng sông Hương vào một đêm ngủ đò, một con Gấu trên vùng Thượng Du, một con Kình Ngư trên bến Ninh Kiều, một con Sư Tử từ Hà Đông, một con Cọp tại Khánh Hòa, một con Ma Vú Dài tại Bình Thuận…Tôi mệt mỏi và chán nản.

      Vào một chiều Hè nóng bức, tôi đang đo nhịp bước trên bãi cát trắng phau của Nha Trang để đi tìm kỷ niệm. Nhìn làn nước trong xanh với những đợt sóng lăn tăn vỗ nhẹ vào bờ, tôi chợt khẻ ngâm những câu thơ lãng mạn của Huy Cận:
      “Người ở bên trời, ta ở đây,
      Chờ mong phương nọ, ngóng phương này.
      Tương tư đôi chốn, tình ngàn dặm,
      Vạn ly’ sầu lên núi tiếp mây”.

      Tôi bỗng đứng khựng lại vì súy‎t va vào người nữ sinh đang ngồi mân mê cặp sách. Tôi nghe nhịp tim đập rộn ràng, nhãn lực của hai chúng tôi xoáy vào nhau một cách đắm đuối không chớp mắt, tiếng sét ái tình từ đâu giáng xuống làm hồn tôi chới với, tôi hỏi như người đang trong cơn mộng du:
      -Cô làm ơn chỉ hộ con đường để vào tình yêu đi hướng nào?
      Nàng cười bẽn lẽn:
      -Chắc anh từ xa mới đến? Như vậy, anh cứ tiếp tục phiêu bạt giang hồ cho thỏa chí, khi nào cảm thấy mỏi gối, chồn chân, gục đầu khóc trên đống gạch vụn của một thuở đi hoang, anh sẽ thấy những dấu môi hôn của anh trên mặt đất mà em vừa mới bước chân qua. Đó là con đường dẫn vào tình yêu. Nhưng phải mở mắt thật lớn, nếu không sẽ va vào cột đèn u đầu, sứt trán ráng chịu.

      Tôi mừng gần chảy nước mắt: một nửa đời tôi đây rồi!. Nhìn bộ ngực căng đầy, đôi môi đỏ mọng, cái eo thon nhỏ và cặp mông nẩy nở, tròn trịa của người nữ sinh áo trắng, lứa tuổi mười tám đang trổ mả, xinh tươi như một đóa hoa hồng vừa chớm nở vào buổi sáng tinh sương, tôi cầm lòng không đậu, ôm ghì lấy nàng hôn lấy, hôn để. Mặc cho nàng giãy giụa chống đối. Nhưng, với sở trường của một đời tình ái lang thang, bên tai tôi không còn nghe tiếng sóng biển rì-rào, tiếng thông reo vi-vút, tiếng chim ca hót líu lo trên cành…chỉ còn lại giọng nói nũng nịu, ngọt mềm:
      -Anh thật là quỷ quái. Ghét anh ghê. Nhàu hết áo của em rồi.
      Tôi ném tia nhìn một cách trìu mến, nửa như van lơn, nửa như cầu khẩn :
      -Nói đi em. Chỉ cần một lời, một chữ của em sẽ làm cho anh trở nên một người hạnh phúc nhất trên cõi đời này. Em có chịu làm vợ anh không?.
      -Không.
      -Chính chữ đó.
      Chúng tôi đã cười, đùa bên nhau quên cả thời gian và quên cả lối về.

      Bạn quí mến,
      Tôi nhớ lúc còn là học sinh Tiểu Học, trên bức tường trong lớp có treo một bức tranh vẻ một con thuyền nằm trơ vơ trên cát, nước thủy triều rút hẳn ra xa, trông thật quạnh hiu. Dưới bức tranh được người họa sĩ chua một câu : ‘‘Hãy nhớ, nước thủy triều sẽ trở lại’’. Cuộc đời của con người có lúc thăng, lúc trầm, lúc vinh, lúc nhục....Khi có những gì đi ngược lại với y’ muốn làm cho bạn chán nản, sầu khổ, xin bạn hãy cố gắng tự giải quyết và tìm cách vượt qua, đừng bao giờ đầu hàng : Nước thủy triều sẽ trở lại.

      Triết gia Theodor Reik nói rằng : ‘‘Trong nền văn minh của ta đàn ông rất sợ họ sẽ không đủ bản lãnh là người đàn ông, và đàn bà rất sợ họ chỉ được coi như đàn bà’’.
      Thập Chưởng Trận Đồ là kết quả của những năm dài khổ hạnh, tu tĩnh trong hang Bạch Thạch, nay tôi xin truyền lại cho bạn để phòng thân và sau khi đọc hết bài biên khảo này, tôi cầu mong ông Tơ, bà Nguyệt sẽ giáng ơn phước nhấc đi cái đống hành trang đau khổ đang đè nặng trên vai của bạn để bạn ung dung, thơ thới an hưởng hạnh phúc bên ‘‘một nửa đời bạn’’ cho đến khi răng long, đầu bạc.

      Một khi bạn đem hết sức mình để cố hoàn thành một cái gì đó và một chuyện khác bực mình xãy đến. Thay vì chán nản, bạn hãy suy nghiệm. Một nhà tạc tượng nổi tiếng của Đan Mạch, ông Thorvaldsen, nhìn một cách mãn nguyện bức tượng Chúa Giê-Xu làm bằng đất sét, với khuôn mặt của Ngài nhìn ngước lên trời và đôi cánh tay dang rộng, đưa lên cao.

      Đêm hôm ấy, sương muối biển tạt vào phòng, đất sét mềm đi, đầu và hai cánh tay rủ xuống. Ông Thorvaldsen bất mãn một cách cay đắng. Nhưng, khi ông đứng ngắm nghía, nghiên cứu bức tượng, một điều xãy ra làm ông rất thích thú và cảm kích. Hình tượng bây giờ mang một y’ nghĩa vĩ đại hơn. Chúa đang nhìn xuống thế gian để ban phát tình thương và lòng trắc ẩn đối với loài người trần tục, tội lỗi. Bức tượng đó mang tựa đề : Hãy Đến Cùng Ta trở nên bất tử.

      Đa số chúng ta quen đánh giá cuộc đời thật ngắn ngủi, phù du, sớm muộn gì cũng trở về với cát bụi. Cuộc sống không phải luôn luôn êm đềm-xa hơn thế : Thỉnh thoảng bạn cảm thấy bực mình, đau xót, mất mát, hoặc khốn khổ, khó khăn....Nhưng đừng bao giờ quên : Bạn có thể vượt qua những sự tệ hại nhất mà bạn gặp phải, hãy tiếp tục đi, và thẳng tiến.

      Bạn sẽ thấy con người của bạn bản lãnh hơn, phong phú hơn vì bạn đã gặp phải những kinh
      nghiệm khó khăn trong đời. Những sự kỳ diệu, thích thú của cuộc đời thường thường ít xãy ra cho chúng ta. Bạn có bao giờ thức dậy vào buổi sáng và nhìn ra cửa sổ, hay mở cánh cửa ra vào để hít thở chút không khí trong lành và chạy vào nói với người yêu : ‘‘Mình sống cho đến ngày hôm nay thật vĩ đại quá phải không em!?’’ rồi ôm hôn nàng một cái cho thật đậm đà. Cuộc đời là một đặc quyền lớn lao, thích thú đến độ chúng ta phải liên tục cảm tạ Trời, Phật đã che chở và đưa ta được đến bến bờ tự do của những thập niên về trước.

      Bạn hãy tưởng tượng coi tất cả những sự khó khăn đang sắp hàng như một đội quân trước mặt. Trong khi bạn đương đầu với đội quân này bạn cảm thấy chán nản, phẫn nộ, giận dữ, bất mãn...Bạn than trời, trách đất. Nếu bạn tin tưởng vào quyền lực vô hình thiêng liêng này, chính sức mạnh tâm linh của bạn sẽ đánh bại những kẻ thù hung hiểm đang tàn phá hạnh phúc và sự an bình trong cuộc đời bạn.

      Cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, ông Dwight D. Eisenhower, được hỏi ai là người vĩ đại nhất trong những người đàn ông vĩ đại mà ông được biết. Ông trả lời ngay lập tức không một giây đắn-đo : ‘‘Không phải đàn ông. Đó là một phụ nữ-Mẹ tôi. Bà ta ít học, nhưng kiến thức và sự khôn ngoan của bà được giáo dục trong suốt những năm dài đăng đẳng qua cuốn Thánh Kinh. Thường thường tôi ước được tham khảo y’ kiến của bà. Vào một đêm cả gia đình gồm có mẹ, các anh em và tôi chơi đánh bài. Tôi phàn nàn, cau có vì rút phải con bài xấu. Mẹ tôi nói : ‘‘Tất cả các con để hết bài xuống. Dwight con, đây chỉ là trò chơi có tính cách gia đình nơi mà con đang được mọi người yêu thương, chìu chuộng. Nhưng, khi con ra đời con sẽ bị vùi dập trong sự đối xử tồi tệ, bạc bẽo của thế nhân, con sẽ gặp không biết bao nhiêu những kẻ xấu xa, hiểm ác chung quanh con. Cứ việc chơi xả láng đi con’’.

      Trong buổi cơm chiều, con gái tôi lần đầu tiên xem cuốn phim cô bé Lọ Lem (Cinderella) kể lại một cách rất thích thú, và hỏi : ‘‘Ba có biết sau đó chuyện gì đã xảy ra hay không?’’. Tôi nói : ‘‘Họ đã sống hạnh phúc bên nhau’’ Nó trả lời : ‘‘Không phải vậy. Họ đã cưới nhau’’. Cưới nhau và sống hạnh phúc bên nhau hình như đối với những cô con gái mới lớn ở đây không cần thiết phải đồng nghĩa với nhau. Có vô số những chướng ngại cần phải vượt qua để đa số những cặp vợ chồng có thể thực hiện được một cuộc hôn nhân đúng như y’ nguyện.
      Đàn bà họ sẵn sàng tha thứ những sự tổn hại nhưng không bao giờ quên những sự khinh thị.
      Chưởng lực thứ nhất trong Thập Chưởng Trận Đồ : Đả hổ diệt quần hồng bằng cách : Biểu dương sức mạnh và sự dịu dàng.

      1.-Dầu cho người vợ của bạn thông minh, tháo vác, tự tin, tài năng, lanh lợi, buôn đầu này, bán đầu nọ, vùng vẫy dọc ngang, ngang dọc, coi như trên đầu không có ai. Nhiều khi nhỡ đánh chén với thằng bạn lâu ngày không gặp, lúc về nhà bạn sợ quá phải đi thụt lùi đưa cái mông vô trước (như tôi), bạn đừng tin, đàn bà họ rất dễ thương vô cùng, trong tận cùng đáy tâm hồn của mỗi một người đàn bà trên quả đất này họ khao khát được « nương tựa » vào người đàn ông, họ thích vuốt ve, ôm ấp, hôn hít, nâng niu, chìu chuộng, họ thích ăn ngon, mặc đẹp, mến trọng, họ muốn ‘‘trong đôi mắt anh, em là tất cả’’, họ thích trong những đêm đông lạnh lùng được nằm gọn trong vòng tay ấm áp của chồng (họ rất ghen với chiếc gối dài và chiếc sofa ngoài phòng khách)...họ muốn thỉnh thoảng chồng cũng nên giương oai để cho họ biết cái nhà cũng có nhà trên, nhà bếp chứ không phải thuông luông. Con người bán nam, bán nữ, một nửa thì họ muốn quản ly’ và kiểm soát, một nửa họ muốn người chồng phải đầy đủ cương nghị, bản lãnh hơn họ để làm cho họ biết cách cư xử - ngay cả những lúc họ tìm cách gây sự ôm sòm.

      Sau những cuộc cãi lẫy, giận hờn, bạn bỏ cơm ra nằm ở phòng khách tức tối, hậm hực, muốn chằng ‘‘cái miệng con cá Đổng’’ hỗn hào cho bỏ ghét và nguyền rủa mụ vợ của bạn thật vô ly’, tự nhiên khi không lại sanh sự, nhiều chuyện. Trăm sự cũng tại chúng mình cả, bạn thử nghĩ lại coi, nếu người vợ lấy phải một người chồng ‘‘hiền như cục bột’’, hai mươi năm lấy nhau ảnh chỉ nói tổng cộng hai mươi mốt tiếng rưỡi, đi làm về không chào hỏi vợ con, lúc ăn cơm chúi đầu vào tờ báo, hoặc ăn cho lẹ để vào xem TV, bao nhiêu tiền bạc, nợ nần, chi tiêu trong gia đình, dạy dỗ, đưa đón con cái, giặt giụa áo quần, hút bụi, chợ búa...thậm chí đến đi dự tiệc tùng, nghỉ Hè..v.v.. mọi sự đều do tay người vợ quán xuyến, thì làm sao họ không bất mãn?. Trong cuộc sống giữa vợ chồng nếu không có những cuộc chuyện trò thân mật tình yêu sẽ tự chết dần, nhiều bà vợ rất đau khổ, cố van xin : ‘‘Mong cho Trời gầm để cóc mở miệng’’như đoạn thơ sau đây :‘‘Nói đi anh, nói những lời tha thiết, Những chân tình phát xuất tận trong tim. Những đam mê theo sóng mắt anh nhìn, Những cuồng nhiệt mỗi khi mình ân ái. Nói đi anh, đừng thẹn thùng e ngại, Đừng đợi chờ giây phút phải biệt ly. Lời nhớ thương trên mộ đá vô tri, Sao anh chẳng thầm thì khi em sống? Anh không biết đó là nguồn hy vọng, Là niềm vui, em mong ngóng đợi chờ. Lời tự tình anh hãy dệt nên thơ, Nhả châu ngọc qua những giờ tình tự...’’

      Dù bạn có ngán vợ tới tột đỉnh như tôi, thỉnh thoảng bạn cũng phải đóng góp một vài y’ kiến trong những quyết định lợi ích trong gia đình. Dầu cho bà ta có cãi lại, thì trong tận cùng đáy tâm hồn, vợ bạn cũng nghĩ rằng ít ra chồng mình còn ngon ra phết đâu có thua ai!?.

      Đàn ông luôn luôn phải là trụ cột, giữ lấy một phần trách nhiệm trong gia đình, không có nghĩa là bạn trở nên ‘‘chủ nhân ông’’ hoặc biến thành ‘‘chồng Chúa, vợ tôi’’. Chỉ có những người đàn ông thô lỗ, cộc cằn, bất ổn trong nội tâm mới cảm thấy cần phải áp đặt y’ chí của mình vào người khác bắt họ phải tuân phục. Sức mạnh của người chồng không phải lúc nào bạn cũng muốn hà hiếp, đè con người ta ra thượng cẳng chân, hạ cẳng tay một cách vũ phu, mặt mũi lúc nào cũng muốn ăn tươi, nuốt sống...thì coi không được một chút nào cả. Vì vậy, chỉ cần quan sát nét mặt của người vợ thì biết ngay tư cách của người chồng.

      Sự tổng hợp của sức mạnh và sự dịu dàng này không dễ gì thực hiện nếu bạn không có sẵn nhưng bạn có thể thực tập nó. Ai lại không lầm lỗi, nhưng với sự kiên nhẫn và lòng quyết tâm để bảo vệ hạnh phúc bạn có thể thỏa mãn được nhu cầu nội tại của hiền thê để cho nàng vững tâm.

      Chưởng pháp thứ hai : Ngọt mật chết ruồi. Mát lòng, mát dạ : Triết gia Paplo Casals nói : « Chừng nào con người có thể thán phục và yêu thương, như vậy họ sẽ trẻ mãi’’. Từ cái thời ông A-Dong và bà Ê-Và, người đàn bà chỉ giữ vai trò phụ thuộc bên cạnh người đàn ông.. Vào thế kỷ 20, một số ít đàn bà mới thực hiện được một chút nam nữ bình quyền về bầu cử, ứng cử, quyền làm chủ các bất-động-sản và một phần bình đẳng trong công ăn, việc làm. Ngay bây giờ chúng ta đang ở thế kỷ thứ 21, mặc dầu đàn bà họ đã chiến đạt được những quyền lợi đáng kể bên cạnh nam giới, nhưng những bất ổn cố hữu vẫn còn ngự trị trong cấu trúc tình cảm của họ.

      Ngoài ra, vai trò làm mẹ đã tạo cho họ nhiều vấn đề nhiêu khê, bất ổn. Bản năng của người phụ nữ cảm thấy nhu cầu cần thiết phải có một cục cưng nam giới đẹp trai, khỏe mạnh, to con (như tôi) để bảo vệ nàng, con cái và chăm sóc, lo lắng cho gia đình. Nhiều người đàn bà phòng không chiếc bóng, họ rất khao khát được có một tấm chồng để nương tựa (như hai câu ca dao :Mẹ ơi! Con muốn lấy chồng, Con ơi! Mẹ cũng một lòng như con), nhưng lại rất miễn cưỡng và hổ thẹn để nói lên cái nỗi lòng thầm kín đó.

      Bạn cũng như tôi, chúng ta đã quần quật tám tiếng một ngày tại sở làm. Mỗi hai tuần đưa cho vợ tấm phiếu lãnh lương để trang trãi nợ nần, chi tiêu trong gia đình. Nhiều lúc nhà tôi muốn được ăn ngon, ngủ yên nũng nịu hỏi : ‘‘Anh có yêu em không?’’. Nàng đâu phải muốn biết tin tức. Nàng muốn yên chí là tôi lúc nào cũng yêu thương nàng. Đàn bà họ được sinh ra đơn giản là như vậy và bạn nên chấp nhận nó như một sự thật. Bởi vì sự biểu lộ tình cảm bằng lời nói là một nhu cầu cần thiết đối với họ, bạn phải chìu, cho dù bạn thích hay không thích.

      Lúc đầu, chắc bạn cũng như tôi thấy rất vụng về và có vẻ đạo-đức-giả quá phải không? Nhưng nói nhiều lần tự nhiên lời nói đi đôi với hành động. Bạn thử cố gắng choàng hai tay ôm siết cái eo Đài Loan, nhìn vào đôi mắt của nàng một cách đắm đuối và nói : ‘‘Em yên tâm, lúc nào anh cũng yêu thương và quí mến em’’. Thử đi một vài lần bạn sẽ thấy kết quả.

      Chưởng pháp thứ ba :
      Định nghĩa rõ rệt lãnh vực trách nhiệm : Bạn nên nhớ một lỗ nhỏ có thể làm đắm cả một chiếc tàu. Trên phương diện cộng tác làm ăn buôn bán hay mở cơ xưởng, bắt buộc phải có sự phân bổ công tác và định nghĩa trách nhiệm một cách phân minh. Sự liên hệ giữa vợ chồng cũng có cùng một vai trò và một lực tương đương như vậy. Nhiều khi nhìn nhà tôi cũng thức khuya, dậy sớm, cũng chôn nỗi buồn cuộc đời tại sở làm tám tiếng một ngày, về nhà còn phải lo hút bụi nhà cửa, giặt giụa áo quần, nấu nướng, chăm sóc con cái. Khi tôi từ văn phòng trở về, đã thấy cơm nước, rượu thịt đầy đủ trên bàn. Có người phụ nữ nào trên thế giới cơ cực và chịu đựng vì chồng con như người phụ nữ Việt Nam hay không?. Còn tôi, những năm về trước, thú thật với bạn, tội lỗi của tôi nước biển Đông Hải rửa cũng không sạch. Nhưng từ một thập niên nay, tôi bỗng thay đổi hoàn toàn : ăn xong tôi phụ đem tất cả chén, bát, ly, tách, muỗng, nĩa....bỏ vào máy rửa chén, lau bàn ăn, vỗ vào mông để thưởng nàng một cái. Sau đó mới đi xem TV hoặc đọc sách. Cuối tuần, tôi lo thu dọn rác rưới cho vào bao cột lại, làm vườn, cắt cỏ, hút bụi, rửa xe và lãnh những công việc mà tôi thấy không thích hợp với phái nữ. Ngay cả vấn đề mua sắm bàn ghế, các vật dụng làm bếp, đi chợ búa, hoặc quyết định mua một chiếc xe mới tôi đều ưu tiên giao phó cho nhà tôi quyết định.

      Vì tôi quan niệm mái ấm gia đình là nơi chốn mà người vợ biểu lộ được cái cá tính của họ, cho dù họ có đi làm việc như mình chỉ là một phương tiện để đạt đến cứu cánh, không phải là trách nhiệm chính yếu trong cuộc đời của họ.

      Tôi mới xuất ra ba thần công lực trong Thập Chưởng Trận Đồ mà bạn đã thấy tối tăm cả mặt mày.

      Tôi có quen biết một gia đình người Gia-nả-Đại, mỗi năm cha mẹ, anh, chị, em đều họp mặt vào Tết Dương Lịch để ‘‘đốt đi những tư tưởng khốn khổ’’. Mỗi người viết vào miếng giấy những y’ tưởng mình muốn quên nó đi. Họ nhìn những y’ tưởng thù hận, phẫn nộ, ganh ghét đang cháy rực và biến thành tro tàn trong lò sưởi. Hành động này giúp họ quên lãng và trở nên yêu đời.

      Bạn nên nhớ cho : Mỗi lời nói, mỗi hành động tử tế đối với nhau lúc còn sống, có giá trị hơn triệu triệu hạt nước mắt mà bạn nhỏ trên nấm mồ hoang lạnh.
      Trước khi tôi ra chiêu tiếp bảy thần công lực trong Thập Chưởng Trận Đồ : bàn tay sắt bọc nhung, tôi xin gửi đến bạn một câu chuyện vui mà tôi đã nghe được trong chuyến du hành qua Portland (Oregon) để tham dự buổi lễ : kỷ niệm ngày hai vợ chồng giận nhau (nguyên văn lời mời qua cuộc điện đàm).

      Người vợ tắm xong vừa bước ra, thì đến lượt người chồng bước vào phòng tắm. Bà chỉ khoát chiếc khăn lông quanh người. Bỗng có người bấm chuông, bà ta vội ra mở cửa. Ông hàng xóm thấy bà quá hấp dẫn, trên tay ông ta đang cầm năm tờ giấy trăm ve vẫy :
      -Bà làm ơn làm phước bỏ chiếc khăn tắm ra cho tôi chiêm ngưỡng một chút xíu dung nhan của bà, tôi sẽ tặng bà năm trăm ngay.

      Bà ta lưỡng lự một vài giây và tự nghĩ : Cho hắn ta nhìn một chút xíu đâu có mất mát gì đâu mà sợ? Mình lại có được năm trăm ngon ơ, dại gì mà không làm?. Bà ta cỡi bỏ chiếc khăn tắm để cho hắn nhìn. Nhận tiền xong bà đóng cửa lại. Có tiếng nói của người chồng từ trong phòng tắm vọng ra :
      -Ai bấm chuông đó em?
      -Thằng John ở kế bên nhà, chứ ai?.
      -Nó có đem năm trăm trả cho anh không?
      Bà vợ: ????

      Trong thế giới phiền muộn này, đa số chúng ta đã quên hẳn nụ cười. Con người càng già càng trở nên nghiêm nghị và khó tính. Một phần của tuổi thơ ấu tuyệt vời, chúng ta không còn nhớ đến nó nữa. Bạn thử tưởng tượng xem một đứa bé đang bò trên sàn nhà, nhặt món đồ chơi bỏ vào miệng, đánh rớt và cười khúc khích một cách khoái chí. Khi nó cười, cái miệng chưa mọc răng đang mở lớn, đôi mắt híp lại nhìn người mẹ, biểu lộ một niềm vui tràn trề, bất tận. Nếu người mẹ đáp ứng, cổ võ, nó hét lên sung sướng, vỗ tay reo mừng và lại bò thật nhanh chung quanh phòng đến khi nó tìm thấy một món đồ chơi khác đập vào mắt.
      Khi trưởng thành, nhu cầu của chúng ta trở nên phức tạp hơn khi còn bé thơ. Đứa bé đói, khát, người mẹ mang lại cho nó chai sữa. Nhu cầu đòi hỏi của người lớn không đơn giản như vậy.

      Càng tham vọng chừng nào, chúng ta càng trở nên bất mãn, sầu khổ vì những sự việc đã không xảy ra đúng như ước nguyện của mình. Vì vậy, bạn cứ lầm lủi đi tìm. Bạn đã từng nghe câu: “Tiền bạc không mua được hạnh phúc” hoặc “những kẻ giàu có không phải luôn luôn được sung sướng”. Có tiền nhiều thì quá tốt, không ai chối cãi được điều đó. Sống trên đời không có bệnh gì đau khổ bằng bệnh nghèo. Nhưng đừng có dã tâm như tôi (khi bạn đã trở nên giàu có) trong một buổi tiệc ăn nhậu vào cuối tuần, tôi đã đề nghị cùng một số bạn hữu (gồm sáu cặp vợ chồng), nếu trúng số, tôi sẽ đãi tất cả đi về Việt Nam du lịch trong vòng một tháng. Khi đã về đến nơi, tôi sẽ chi ra hai trăm đô-la nhờ công an đến làm khó dễ các bà bằng cách cầm giữ họ lại (vì nghi giấy tờ giả) trong vòng hai ngày để cho đàn ông chúng tôi đi du hí. Chỉ là lời bông đùa cho vui, nhưng hậu quả lúc về đến nhà thì không thể nào lường được, ngủ chỗ nào cũng bị đuổi. Cuối cùng tôi đã ôm chăn gối ra nhà kho để ngủ mới yên thân. Bạn có thấy tội nghiệp cho tôi hay không?.

      Con người thường thường giết hại hạnh phúc và sự thành công của họ trong cuộc đời bằng cái lưỡi. Họ nổ, nói những điều ti tiện, viết thư nặc danh hằn học và hành động quỷ quái. Và, buồn thay, nạn nhân thật không phải là người khác nhưng chính họ.

      Bạn có thể làm những điều kỳ diệu nếu bạn có được niềm tin vững chắc, một sự khao khát sâu đậm, và cứ vậy theo đuổi nó, bạn sẽ thành công.

      Đàn bà coi vậy chứ rất dễ dụ ngon, dụ ngọt. Sáng ngày hôm sau thức dậy, nửa tỉnh, nửa mơ, tôi quơ tay không thấy nhà tôi đâu cả, chỉ thấy chung quanh toàn là mạng nhện giăng đầy vì tôi đang nằm trên sàn nhà kho. Để chuộc tội, tôi đã tự tay làm một bữa ăn sáng gồm có trứng, xúc-xích, một ly nước cam vắt, một ly nước súc miệng có pha bạc hà, một đóa hoa hồng đỏ tươi vừa mới cắt ngoài vườn, tôi để tất cả bưng vào tận phòng ngủ và đánh thức nàng dậy. Người đàn bà dù có dữ dằn như chằng tinh, gấu ngựa cũng phải mềm nhũn trước phép tiên. Đòn phép này thật là công hiệu, bạn thử áp dụng xem? Những lúc lầm lỗi, xin bạn hãy thành thật tạ lỗi, đừng nên sừng sộ chỉ ngón tay vào mặt vợ để mắng lại. Khi bạn chỉ ngón tay vào mặt ai, bạn nhìn xem, ba ngón tay còn lại đang chỉ vào người bạn phải không?. Người bị bạn đưa ngón tay trỏ chỉ vào mặt họ, họ đương nhiên thắng bạn ba, một. Nếu bạn ngon, xin bạn vén tay áo lên để cùng tôi đấu thêm bảy hiệp còn lại trong Thập-Chưởng-Trận-Đồ.

      Chưởng pháp thứ tư : Cẩn thận về vấn đề chỉ trích : Một điều tôi quên thưa với bạn, lúc mở tủ lạnh lấy trứng ra chiên, tôi đã nhìn thấy một tờ giấy nhỏ ghi mấy hàng chữ :‘‘Anh cưng, chưa bao giờ em thù ghét những lời bội bạc của anh trong đêm hôm đó. Yêu anh, T.T.’’. Trong tất cả những sự liên hệ mật thiết, không những giữa vợ chồng mà còn giữa bạn bè, phần lớn chúng ta đều có một sự hỗn hợp nào đó về yêu và ghét. Đàn bà họ nóng tính, nhạy cảm và tự ái hơn đàn ông, nhưng nhờ sự nhẫn nại, chịu đựng, thông cảm....và tha thứ, nếu không chúng ta cũng mệt mỏi với các bà ghê gớm lắm. Nếu bạn là người luôn luôn chỉ trích và đày đọa vợ, con, chính bạn là người biến gia đình thành một nơi tù ngục, người vợ sẽ nẩy sinh những triệu chứng tinh thần như sau :
      -Vợ bạn, mặt mày ủ dột giống như cây liễu rũ vì sầu khổ, thù hận bị dồn nén lâu ngày.
      -Thân thể gày gò, ốm yếu, xanh xao, chính tâm trí dồn hết tất cả những sự đau khổ hàng ngày vào các thớ thịt.
      -Nhãn lực đờ đẫn, lạnh lùng, mất hết sinh khí, hoặc trở nên thờ ơ, bất cần, lạnh cảm trong vấn đề chăn gối.
      -Tánh tình bất bình thường, cau có, nhiều khi trút hết cơn thịnh nộ vào con cái một cách vô ly’, gây xáo trộn tinh thần cho chúng.
      -Đầu óc lúc nào cũng muốn ly dị hoặc dễ đi đến ngoại tình (nếu có cơ hội).

      Sự thù hận, giận dữ bị đè nén lâu ngày, chày tháng thỉnh thoảng cũng bộc phá một cách dữ dội như cái ấm đun nước sẽ sôi bùng lên khi đến một nhiệt độ nào đó. Nên bạn thấy, một số các cặp vợ chồng đôi lúc ẩu đả, chửi bới nhau bằng những ngôn ngữ thậm tệ. Và chính lúc này, bạn mới thấy được người chồng hoặc vợ đã nghĩ gì về những khiếm khuyết, những thói hư, tật xấu, những gì mà họ đã đè nén lâu ngày đến nay mới có dịp tuôn ra.
      Sự chỉ trích ở bất cứ lãnh vực nào không thể tránh được trong hầu hết những sự liên hệ của con người, nhưng trong hôn nhân càng ít chỉ trích chừng nào, thì hạnh phúc giữa vợ chồng, con cái sẽ được hài hòa, êm thấm. Có nhiều hình thức để biểu lộ cảm nghĩ với nhau, như câu ca dao : ‘‘Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau’’. Đến đây tôi xin nói nhỏ với quí vị nữ độc giả, đặc biệt với nhà tôi, khi chúng tôi yêu mến, gần như để trên đầu trên cổ, bằng cách phụ giúp : rửa chén, hút bụi, dọn dẹp nhà cửa, giặt giụa áo quần..v.v..đừng ngồi không đọc sách, coi phim chưởng hoặc hát karaoke cố tình phe lờ để tạo cho chúng tôi cái thói quen làm thế mãn đời thì cho vàng tôi cũng không chịu đâu đấy nhé!. Hai người phải ghi tâm, khắc cốt, chung lưng, đấu cật giúp đỡ lẫn nhau một cách vị tha, không nạnh hẹ, so bì, chiếm hữu, kiểm soát, sai nhau như người ăn, người làm, lợi dụng sức lao động của nhau, chỉ trích từng lỗi lầm nhỏ nhặt không đâu....Tấm giấy hôn thú hai người đã đặt bút ky’ trước sự chứng giám của tất cả mọi người không phải cái bằng để cho hai người suốt ngày sỉ nhục lẫn nhau.

      Chưởng pháp thứ năm : Con ong chích trái bầu : Bạn thử tưởng tượng con ong nhỏ xíu bằng đầu ngón tay út, thế mà nó chích trái bầu nào, trái bầu đó thối ngay. Trong đời sống hôn nhân, những chuyện nhỏ nhặt, lặt vặt lại có một sự quan trọng rất lớn có thể làm rung động và làm tan chảy trái tim đã nguội lạnh của người đàn bà đang theo bạn trên suốt đoạn đường đời, đó là những buổi tiệc sinh nhựt, kỷ niệm ngày cưới, quà cáp cho vợ vào những dịp Giáng Sinh, ngày lễ Tình Nhân, Tết Tây, Tết Ta..v.v...Nói nhỏ xin bạn đừng che miệng cười, tôi sợ nhất là ngày :Kỷ Niệm Ngày Cưới. Cuộc đời của người đàn ông :vốn liếng từ thuở dậy thì đến khi nhắm mắt, vỏn vẹn trên dưới ‘‘bốn ngàn viên đạn’’, tôi đã bắn hết ba nghìn chín, còn vỏn vẹn cho giỏi lắm thì cỡ một trăm viên để hộ thân. Nên khi mỗi năm, đến ngày 2 tháng 11, tôi thường giả vờ cụp lưng hoặc nhức đầu, đau bụng để tránh bị thưởng.

      Chính những cử chỉ ‘‘nhỏ’’ đó rất có y’ nghĩa lớn lao đối với đàn bà. Một món quà bất ngờ,một lời khen tặng về chiếc áo, đôi giày, mái tóc mới uốn của vợ, món ăn ngon...sẽ gây cho nàng một sự thích thú, sung sướng êm đềm, ngây ngất. Nếu bạn và tôi thật sự còn thương yêu, còn tình nghĩa với vợ của mình đừng quên những cử chỉ nhỏ nhặt đó.

      Chưởng pháp thứ sáu :
      Con đĩa. Tầm nhìn của con người nói chung bao quát một chu vi 180 độ, nhưng tầm nhìn của người đàn bà hình như 360 độ, đặc biệt các bà có chồng. Một chiều tôi lái xe đưa nhà tôi đi mua sắm. Bỗng thấy một cô gái thật đẹp, nẩy nở toàn diện đi trên đường, tôi nhìn cô ta không chớp mắt. Tiếng kêu gọi hồn của vợ tôi ngồi bên cạnh làm cho tôi tỉnh cơn mộng mị.

      Như lúc nhỏ ăn vụng bị mẹ bắt gặp, tôi tái xanh cả mặt mày. Đa số những người đàn bà khôn ngoan họ đều có giác quan thứ sáu, họ có thể đọc rõ được sự bất chính trong tư tưởng của người chồng qua cử chỉ, cách đối xử và lời ăn, tiếng nói. Một khi đã yêu, nhất định những kẻ yêu nhau thường lo sợ tình yêu tan vỡ, sợ kẻ khác cướp mất người yêu, văn chương Việt Nam, thi sĩ Nguyễn Bính, là người lột trần được cái tâm trạng thầm kín của những kẻ đã yêu một cách rất tài tình qua những dòng thơ sau đây : ‘‘Cô nhân tình bé của tôi ơi! Tôi muốn môi cô chỉ mĩm cười. Những lúc có tôi và mắt chỉ, Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi. Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai, Đừng hôn, dù thấy đóa hoa tươi. Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ, Đừng tắm chiều nay bể lắm người. Tôi muốn mùi thơm của nước hoa, Mà cô thường xức chẳng bay xa. Chẳng làm ngây ngất người qua lại, Dẫu chỉ qua đường khách lại qua. Tôi muốn những đêm Đông giá lạnh, Chiêm bao đừng lẩn khuất bên cô. Bằng không tôi muốn cô đừng gặp, Một trẻ trai nào trong giấc mơ.

      Không có hai người đàn bà nào giống nhau về nhu cầu, nhưng nói một cách tổng quát tất cả đàn bà họ rất thích cái món được chồng ôm ấp, hôn hít...Tôi đã thí nghiệm thử, nhiều lúc đang ngồi uống cà-phê một mình ở phòng khách và đang trầm tư mặc tưởng, thì nhà tôi từ trong phòng ngủ bước ra, nhìn cái dáng đi vẫn còn nét xuân thì, ngúng nguẩy, tôi cầm lòng không đậu, kéo nàng vào lòng hôn lấy, hôn để. Kết quả không thua gì những dòng thơ lãng mạn sau đây : ‘‘Anh cuồng nhiệt uống từng làn hơi ngọt, Từ đôi môi thơm ngát chất rượu thơm. Toàn thân run nóng ran như lửa đốt, Mắt lờ đờ, ham muốn dậy từng cơn. Suối tóc dài em buông lơi lãng mạn, Anh thều thào chết đuối dưới mưa hôn. Đôi vòng tay tròn đam mê phóng đãng, Siết thịt da, lịm chết cả linh hồn..’’.

      Bám nhau như đĩa đói không có nghĩa hai người tay nắm tay đi với nhau đến hết cuộc đời, luôn luôn vui hưởng những điều giống nhau cùng một cấp độ. Tôi xin thưa với bạn, con người không ai giống ai cả, đặc biệt đàn ông, đàn bà là hai giống phái khác nhau có những nhu cầu và sở thích riêng biệt. Chúng ta phải kính trọng những nhu cầu, sở thích, chia ngọt, xẻ bùi khi cần thiết như vậy đủ rồi.

      Chưởng pháp thứ bảy :
      Niềm tin tưởng. Bất cứ người vợ nào cũng đều mong muốn có một người chồng tháo vát, thông minh, lanh lợi, công danh, sự nghiệp vững vàng, giỏi chuyện phòng the cũng như công việc lặt vặt trong nhà như : biết sửa cái vòi nước chảy, biết sơn phết, làm hàng rào, làm vườn, cắt cỏ....để tiết kiệm ngân quỷ gia đình khỏi hao hụt, quan tâm, giúp đỡ những hoạt động hàng ngày của vợ, dễ dãi, vui vẻ, chìu chuộng vợ con...Đối với người đàn bà, nếu có được một người chồng như vậy thì tuyệt cú mèo. Nếu người vợ muốn gửi chút đỉnh tiền bạc để giúp đỡ cha mẹ, anh,em hoặc bà con ruột thịt...còn ở lại VN thì bạn cũng nên tỏ lòng rộng lượng đừng nên bắt bẻ, ganh tỵ, hạch xách. Bất cứ gì đem lại cho vợ bạn cảm giác yên tâm cần phải nên khuyến khích miễn sao đừng phí phạm và làm mất đi cái nam tính kiêu hùng của những chàng trai nước Việt là được.

      Chưởng pháp thứ tám :
      Tánh tình sớm nắng, chiều mưa : Tâm tính của con người biến chuyển theo từng giai đoạn, từng hoàn cảnh. Đàn bà là giống phái tánh tình bất thường hơn đàn ông vì máu huyết trong người thay đổi tùy theo chu kỳ kinh nguyệt mỗi tháng. Ở cương vị người chồng, bạn phải kiên nhẫn và quan tâm. Đặc biệt những bà từ bốn mươi tuổi trở lên, một số ít bị tắt kinh rất sớm. Họ trở nên nóng nảy hay gây sự, ăn ngủ không yên, mặt mày lúc nào cũng cau có, nhăn nhó...Trong trường hợp này bạn phải thông cảm, phải ngọt ngào, ăn nói nhỏ nhẹ, chìu chuộng....Nếu không vợ bạn sẽ lâm vào tình trạng tâm thần trầm trọng. Qua hết thời kỳ biến chuyển máu huyết trước khi tắt kinh, tâm tính của người đàn bà mới trở lại trạng thái bình thường. Nhiều gia đình xào xáo hoặc tan vỡ đi đến ly dị cũng tại người chồng không hiểu được vợ mình trong giai đoạn này.

      Chưởng pháp thứ chín :
      Lâu đài tình ái : Bạn đã từng nghe câu : ‘‘Đồng vợ, đồng chồng tát bể Đông cũng cạn’’. Người đàn bà, như bạn thấy, họ là giống phái đam mê đủ thứ, có tư cách, ăn nói đâu vào đó, biết giữ thể diện hơn đàn ông của chúng ta rất nhiều. Đàn ông thì u mê ám chướng dễ bị đàn bà dụ khị, sống buông thả, ăn nói thiếu suy nghĩ, bạ đâu mặc đó không quan tâm đến thời trang kiểu cách, dễ nhàm chán, độc tài, thô lỗ..v.v..

      Bạn thì sao tôi không biết, nhưng cá nhân tôi, tôi quan niệm : ‘‘Cá không ăn muối cá ươn,Chồng hay cãi vợ trăm đường chồng hư’’. Những gì tôi đã hành động sai trái hoặc làm phật y’ người khác, nhà tôi đều nhỏ nhẹ phân tích và khuyên bảo để lần sau tôi sẽ không tái phạm. Một cuốn sách hay, một bài báo hữu ích, nhà tôi đều để dành cho tôi đọc để học hỏi và mở mang kiến thức. Bất cứ một người đàn bà nào khi đã quyết định thành lập gia đình, họ cũng đều mong muốn chồng của họ được sự nễ trọng của người khác, một lâu đài tình ái ly’ tưởng đúng như ước nguyện của họ. Chìu và lắng nghe lời vợ một chút xíu có mất mát gì đâu? Bạn thấy nó còn rẻ hơn đưa nhau ra tòa ly dị, tốn tiền luật sư, tiền trợ cấp cho các con nhỏ còn dưới tuổi vị thành niên và bạn sẽ tránh được những dòng lệ đau buồn của những đêm Đông lạnh lùng nằm chèo queo dưới vòm trời băng giá.

      Chưởng pháp thứ mười :
      Cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa : Lâu lắm rồi, có một cặp vợ chồng sau khi ly dị. Cả hai đều đăng báo để tìm bạn bốn phương. Mỗi người đều nêu rõ sở thích, nhu cầu, cá tính, ưu và khuyết điểm trong cuộc sống..v..v..Gần bốn chục ngàn tâm hồn cô đơn, cơ sở tìm bạn bốn phương đã chọn cho mỗi người một người bạn tâm đầu, y’ hợp và xếp đặt cho họ gặp gỡ nhau tại một nhà hàng sang trọng (dĩ nhiên tiền chi phí do hai người bỏ ra). Trời đất, Phật Thánh, quỉ thần, thiên địa ơi! Té ra tưởng ai xa lạ, không ngờ ông chồng cũ, bà vợ cũ của mình. Bạn thấy không, bạn phải luôn luôn nêu y’ tưởng vợ (hoặc chồng) mình lúc nào cũng tuyệt vời. Cá nhân tôi, nếu mà bị vợ bỏ, chắc là không có con ma nào chịu rước cái của nợ này về làm chồng. Nhiều lúc, nhà tôi quá sức chịu đựng, hăm he : ‘‘Kiếp này tôi lỡ dại theo ông, kiếp sau ông mà lẽo đẽo theo tôi tán tỉnh, tôi sẽ phôn 911 hoặc xịt chó bẹc-rê cắn ráng chịu’’. Người vợ mà bạn đang sống rất khác với bất cứ một người đàn bà nào. Nàng có những sở thích, không thích, trạng thái tinh thần, nhu cầu cảm xúc tình cảm đặc biệt không giống người vợ tương lai mà bạn đang ngoại tình trong tư tưởng. Nhu cầu của nàng lúc đầu có vẻ như vô giới hạn, hoặc vô ly’. Có thể bạn không cách gì thỏa mãn tất cả những nhu cầu của nàng tức thời, hoặc không bao giờ. Nhưng, bạn có thể cố gắng khám phá nàng cần gì, muốn gì, thích gì để đáp ứng trong phạm vi khả năng của bạn để mang lại nụ cười thoải mái cho vợ bạn được không?

      Thuyết nhà Phật có nói : ‘‘Tu là cõi phúc, tình là dây oan’’. Chúng ta còn sống trên quả đất này ngày nào, càng gặp những vấn đề phiền toái, cố gắng chịu đựng. Chỉ có những người không bị ai khuấy nhiễu, làm phiền hà là những cái xác vô hồn đang an giấc ngàn thu tại những nghĩa trang. TiênĐiền Nguyễn-công-Trứ có hai câu thơ rất dễ thương, chính xác ám chỉ cuộc đời : ‘‘Mới sinh ra thì đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười khì!?’’
      Vấn đề là dấu hiệu của cuộc đời. Sung sướng, hồ hởi phấn khởi chấp nhận. Đó có nghĩa là bạn đang sống một cách phi thường. Bạn càng thăng, trầm, vinh, nhục chừng nào thì cuộc sống mới có y’ nghĩa, con người của bạn mới đầy đủ thi vị. Nếu bạn sống mà không có vấn đề gì, tôi khuyên bạn nên quì xuống chấp hai tay lại và van xin một cách thành khẩn như thế này : ‘‘Trời, Phật ơi! Bộ các Ngài không còn tin tưởng và thương xót con nữa hay sao? Thử thách con nữa đi’’.


      MCN

      Comment


      • #18
        Sức Mạnh Của Tình Yêu


        Sức Mạnh của TÌNH YÊU
        Biên Khảo Mây Cao Nguyên

        Khi bạn đọc những dòng chữ này, ngày 30 tháng 4 vừa mới trôi qua, đã nhắc nhở cho tất cả chúng ta nhớ lại cái khoảng thời gian đen tối và hãi hùng nhất trong cuộc đời làm người. Đã trên 35 năm, riêng tôi, nhiều đêm vẫn còn giựt mình tỉnh giấc vì những cơn ác mộng, để rồi chỉ biết khóc thầm thương nhớ mảnh đất thân thương đã từng nuôi tôi khôn lớn, cả một trời thơ mộng của tuổi thơ đã in sâu trong buồng tim, khối óc. Những đêm trăng thanh, gió mát văng vẳng tiếng sáo buồn não nuột, những ngày trốn học cùng bè bạn dùng mủ mít đi vấn chân ve sầu, be đìa tát cá, đánh bi, đánh đáo trên những con đường rợp bóng tre xanh….Khi tôi khôn lớn, tôi đã có rất nhiều cơ may đi khắp nơi từ Bến Hải đến mũi Cà Mau, nơi nào cũng để lại cho tôi rất nhiều kỷ niệm. Tình cờ đọc được bài thơ: “Chiều ni ngoài nớ” của nữ sĩ Nguyễn thị Hoàng, làm tôi nhớ vô vàn đến Huế đô cổ kính:
        “Có biết chi không chiều ni ngoài nớ,
        Anh đi rồi trời Huế có buồn không?
        Hàng Phượng Ngự Viên sắc nắng bềnh bồng,
        Chiều tháng bảy hoa rắc đầy lối nhớ.
        Có biết chi không chiều ni ngoài nớ,
        Ai đưa em về “xóm Học-Hàng-Me”.
        Anh nhớ mây bay trời Huế đêm Hè,
        Thuyền ai đó chở trăng về Gia Hội.
        Rứa em có nghe thu từ Thành Nội,
        Đem buồn gieo ngơ ngác bến sông Hương”.

        Du khách đến thăm Huế ngơ ngẩn với muôn câu hò, điệu hát vào những đêm trăng sáng của các cô lái đò trên dòng sông Hương. Khách đa tình si dại trước những cô gái Huế xinh đẹp e ấp sau vành nón lá. Huế còn nổi tiếng về các món ngon vật lạ như: nhãn lồng, bún bò Huế, kẹo mè xửng, nem, tré, bánh khoái, bánh ít ram, bánh bèo, bấm nậm, cơm nuốc, cơm âm phủ, cơm hến, bún sứa, cơm nhộng…là những món đặc thù của thành phố này. Ngôi chợ nổi tiếng của Đế Đô:
        “Chợ Đông Ba đem ra ngoài dại,
        Cầu Trường Tiền đúc lại xi-mon.
        Ôi người lỡ hội chồng con,
        Về đây gá nghĩa vuông tròn với ta”.
        Và những lời thơ kêu gọi các sĩ phu tham gia cứu nước một cách thống thiết:
        “Tiếng hát ngư ông giữa sông Nhật Lệ,
        Tiếng kêu đàn nhạn trên ánh Hoành Sơn.
        Một mình em ngồi giữa sông Hương,
        Tiếng ca theo khúc đoạn trường ai nghe!”.

        Nhớ Huế, viết về Huế mà quên thi phẩm: “Đây thôn Vĩ Giạ” của nhà thơ Hàn-Mặc-Tử thì thật là một điều thiếu sót: “Sao anh không về chơi thôn Vỹ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc, Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Gió theo lối gió, mây đường mây, Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay. Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay? Mơ khách đường xa, khách đường xa, Áo em trắng quá nhìn không ra, Ở đây sương khói mờ nhân ảnh, Ai biết tình ai có đậm đà?”
        Sở dĩ tôi phải dài dòng tâm sự cùng bạn về những kỷ niệm của riêng tôi, vì tôi đã lỡ “bỏ quên con tim” ngay trên bãi biển Thuận An lúc tôi tròn mười tám tuổi với một cô nữ sinh Đồng Khánh sắc nước, hương trời. Ai nói yêu là sướng? “Yêu một khắc để mang sầu trọn kiếp”.

        Kể từ khi “lên xe hoa về nhà vợ” tôi đã nguôi ngoai một phần nào về mối tình đầu dang dở. Nhưng, thỉnh thoảng tôi cũng bị nhà tôi làm tình, làm tội vể những phút giây ngồi tư lự một mình trong thư phòng.

        Xin bạn hãy nghe đây: “Không ai giàu có hơn kẻ biết tận dụng dấn thân vào việc thể hiện tình yêu; vì mãnh lực là hình thức biểu hiện cao độ niềm khát vọng của con người. Sức mạnh là mối liên lạc giữa sự đòi hỏi và sự đáp ứng những nhu cầu nhân sinh, là kẻ đi tiên phong đề xướng mọi tiến bộ của nhân loại, là phương tiện giúp trí tưởng tượng chấp cánh hành động. Và mọi động lực của tình yêu đều được thánh hóa vì nó mang lại niềm vui tự mãn cho ai thực hiện được nó”.

        Tình yêu đẹp lắm bạn ạ, như cái ông đại-thi-hào của Pháp quốc: Victor Hugo đã từng van lơn người tình: “Chúng ta mãi mãi yêu nhau nghe em! Tình yêu…như ngọn lửa không thể dập tắt, như bông hoa không bao giờ tàn”. Nhưng, cũng một thi hào người Pháp bị tình yêu đá giò lái mấy cú cũng khá đau nên đã để lại hai câu thơ thời danh:
        “Bể tình là cánh đồng hoa,
        Đố ai mắc phải không sa lệ sầu”.

        Như vậy, TÌNH YÊU CÓ PHẢI LÀ MỘT NGHỆ THUẬT hay không?. Nó đòi hỏi sự hiểu biết và sự cố gắng hay tình yêu chỉ là một cảm giác lâng lâng được kinh qua nhờ cơ hội may mắn gặp phải một đối tượng chỉ mới thoáng nhìn đã bị ngay “tiếng sét ái tình” giáng xuống: “Môi mấp máy nhưng lòng không dám ngỏ, Ngại ngùng thay xa cách biết bao nhiêu! Nhìn ngay ta này đôi mắt yêu kiều, Đừng e ấp, hỡi làn môi thắm đỏ”.

        Không phải người ta nghĩ tình yêu là không quan trọng. Họ khao khát nó; họ đã đi xem vô số những phim ảnh nói về những cuộc tình đẹp đẽ hoặc bi đát, họ nghe hàng trăm những nhạc phẩm nói lên sự dang dở của tình yêu, họ đọc hàng chục cuốn sách của Vô-danh-Thị, Quỳnh Dao….Đa số con người trên cái hành tinh này chỉ nhìn tình yêu một cách rất là phiến diện, muốn mình được người khác yêu thương chứ không tìm cách học hỏi để yêu thương người khác. Đàn ông, con trai thì cố học hành cho thành tài để có một địa vị cao sang trong xã hội, để được giàu có, danh vọng, quyền hành bao la, ai thấy cũng phải đem lòng ao ước….Về phía nữ giới, trang điểm, chải chuốt, phấn son, áo quần đúng “mode”…Để có một vóc dáng khêu gợi, hấp dẫn, ngực nở, eo thon. Cách khác được cả hai phái nam và nữ thường áp dụng để tạo nên sự duyên dáng: ăn nói có duyên, cử chỉ đàng hoàng, đúng đắn, lịch sự, nhã nhặn, khiêm nhường, chăm sóc, giúp đỡ người khác….

        Thực sự mà nói, đa số để gây được cảm tình và lòng quí mến của người khác phải có sự tổng hợp: thành công, nổi tiếng và hấp dẫn.
        Người ta nghĩ rằng yêu đương là một vấn đề đơn giản thôi chỉ cần tìm thấy một đối tượng hợp nhãn “tâm đầu, y’ hợp” để trao trọn vẹn tình cảm của mình và đối tượng cũng phải rung động và yêu lại mình là đủ rồi. Tình yêu cũng chuyển biến qua nhiều giai đoạn. Thời cựu hoàng Bảo Đại còn ở truồng, thì vấn đề hôn nhân cha mẹ “đặt đâu con ngồi đó”, phải “môn đăng, hộ đối”….dần dà, có những cuộc tình lãng mạn ảnh hưởng qua sách vỡ, phim ảnh từ phương Tây du nhập, trai gái tự đi tìm cho mình “người yêu ly’ tưởng”. Nhưng không phải bản chất cổ hủ “môn đăng, hộ đối” biến mất trong đầu óc của những bậc làm cha mẹ.

        Nhưng đối với trai và gái đang ở lứa tuổi yêu đương, khi đi mua sắm, chúng say mê ao ước được mua hết tất cả những hàng hóa đang trưng bày trong tủ kính dù trả tiền mặt hay chà thẻ nợ. Cách nhìn con người cũng tương tự như vậy. Đối với chàng thanh niên một cô gái hấp dẫn- và đối với cô thiếu nữ một chàng trai đáng yêu là những phần thưởng mà chúng quyết đạt cho bằng được. “Hấp dẫn” thường thường có nghĩa là đối tượng đạt đúng tiêu chuẩn và phẩm chất mà mình đang theo đuổi và tìm kiếm. Mẫu “người yêu ly’ tưởng” tùy theo thời điểm, thể xác cũng như tình thần. Thời của các cụ Tú Xương, Tản Đà….mẫu người yêu ly’ tưởng của các cụ bà là: các ông Nghè, ông Thám….Còn các cụ ông chọn các cụ bà do hai gia đình hứa hẹn hoặc qua trung gian mai mối nhưng phải là “môn đăng, hộ đối”. Bản chất của các nhà thơ này thì lè phè, đàn ca xướng họa, cầm kỳ thi tửu và chai lười lao động: “Lúc nhỏ sống nhờ mẹ cha, Lớn lên nhờ vợ, lúc già nhờ con”.

        Nếu bản vàng bia đá đề tên, đường hương lộ khởi sắc được ra làm quan thì “cả họ được nhờ”. Còn lận đận như ông Tú làng Vị Xuyên của chúng ta thì bà Tú phải nai lưng: “Quanh năm buôn bán ở ven sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi khoảng vắng, Eo sèo mặt nước chuyến đò đông, Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng, mười mưa dám quản công?”

        Dần dần, với chủ trương Tây học “bẻ bút lông đi, nắm bút chì”. Sự tự do đi tìm đối tượng hơi hé mở một chút nhưng cũng phải nằm trong giới hạn đạo đức lúc bấy giờ. Quá quắc lắm mới có một ít nam, nữ vượt ra khỏi khuôn khổ để nói bóng, nói gió, liếc mắt đưa tình như một bài hát đã tả: “Nhớ khi xưa là nhau, chung nhịp cầu kẻ trước người sau. Chàng lặng yên vô tình hát vu vơ mấy câu nhạc lòng…” Hoặc phải lòng qua những câu hò đối đáp:
        “Thân em như trái mãng cầu,
        Ở trên bàn án, hạc chầu, lọng che”
        -“Thân anh như thể con dơi,
        Bay lên bàn án mà xơi trái mãng cầu”.
        -“Thân em như cái giường ngà,
        Thân anh như manh chiếu rách người mà ngồi trên”
        -“Lạy trời cho gió thổi lên,
        Cho manh chiếu rách nằm trên giường ngà”.

        Thường thường khi mua một bất-động-sản, đa số người Á Đông của chúng ta muốn chọn căn nhà rộng rãi, khang trang, nhà phải xây mặt về hướng Nam: “Mua nhà xây mặt hướng Nam, Quanh năm suốt tháng không làm vẫn có ăn”.
        Khu đất đó trong tương lai có thể trở thành khu thương mại sầm uất, lúc đó bạn bán lại có lời..v.v..Chính những khả năng tiềm ẩn đóng một vai trò đáng kể. Một điều đáng ngạc nhiên, sự liên hệ tình yêu của con người cũng rập khuôn theo mẫu mực đó. Khi hai người phải tình nhau là họ đã tìm thấy ở nhau có những điểm tương đồng mà họ đang cố công mà cả.

        Một nhầm lẫn nữa, có người cho rằng tình yêu đâu cần phải học hỏi, miễn sao hợp nhãn với nhau là đủ rồi. Nhiều cô, nhiều cậu lần đầu tiên bị tiếng sét ái tình giáng một cú xây xẩm cả mặt mày. Hai người trước đây là hai kẻ xa lạ, như tất cả chúng ta, bỗng nhiên bức tường ngăn cách giữa họ sụp đổ, họ xáp lại gần gủi nhau và cảm thấy: “Mình với ta tuy hai mà một, Ta với mình tuy một mà hai”.

        Cái giây phút nhập thể là kinh nghiệm thích thú nhất trong cuộc sống. Đối với những cô, cậu từ hồi nào đến giờ sống đời “kín cổng, cao tường”, chưa biết tình yêu là gì sẽ cảm thấy thật thần diệu cho tình yêu đầu đời. Tuy nhiên loại tình yêu đầu này xét theo bản chất sẽ không tồn tại lâu. Như cái ông thi sĩ thời tiền chiến đã viết: “Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở, Đời mất vui khi đã vẹn câu thề”.

        Tình yêu nếu đứng xa mà nhìn nó lóng lánh như một hạt kim cương, nhưng lại gần chỉ là hạt nước mắt. Vì, sau khi hai người đã quen biết nhau, sự thân mật giữa hai người đã mất đi dần dần cái đặc tính kỳ diệu, cho đến khi sự đối nghịch, bất mãn, nhàm chán giết đi sự thích thú còn lại giữa hai người. Lúc ban đầu họ say đắm bao nhiêu thì bây giờ họ mới thấy cô đơn chồng chất.

        Trên bất cứ lãnh vực nào nếu thất bại người ta phải tìm hiểu nguyên nhân đưa đến thất bại để vượt qua hoặc đầu hàng để chuyển hướng. Trong trường hợp tình yêu, chỉ có một cách thích đáng để vượt qua sự thất bại đưa đến đổ vỡ giữa tình yêu đôi lứa là phải khám phá ra ly’ do đưa đến sự đổ vỡ và tiến hành nghiên cứu học hỏi ‎y’ nghĩa của tình yêu.
        Bước tiên khởi để học hỏi là phải y’ thức TÌNH YÊU LÀ MỘT NGHỆ THUẬT, cũng như sống ở trên đời là một nghệ thuật; nếu muốn học hỏi yêu thương như thế nào chúng ta phải tiến hành cùng một cách thức như khi chúng ta muốn học một môn nghệ thuật khác như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, y khoa hoặc kỹ sư chẳng hạn.

        Những bước cần thiết để học một môn nghệ thuật là gì?
        Tiến trình để học một môn nghệ thuật được chia ra làm hai phần rõ rệt: Thứ nhứt, quán triệt về phần ly’ thuyết, thứ hai, quán triệt về thực hành. Nếu bạn muốn học y khoa, trước hết bạn phải biết những sự kiện về thân thể con người và những bệnh trạng khác nhau. Khi bạn thâu thập tất cả những kiến thức về ly’ thuyết, bạn không còn khó khăn về vấn đề học ngành này. Bạn sẽ trở nên một người am hiểu tường tận sau khi thực hành liên tục, cho đến khi ly’ thuyết và thực hành chỉ là MỘT. Nhưng bên cạnh ly’ thuyết và thực hành, còn có một yếu tố quan trọng thứ ba để trở nên nhuần nhuyễn bất cứ một môn nghệ thuật nào –Sự quán triệt một môn nghệ thuật phải là một vấn đề quan hệ tối hậu; có nghĩa là không có cái gì khác trên thế giới này quan trọng hơn là môn nghệ thuật mà bạn đang theo đuổi. Điều này cũng đúng cho các ngành nghề và cũng đúng cho vấn đề học hỏi yêu thương.

        Đa số chúng ta rất ít có người để hết tâm trí để học hỏi về nghệ thuật yêu thương mặc dầu đã thất bại rất nhiều lần trên tình trường. Ai ai cũng khao khát có một đời sống hạnh phúc, có một tình yêu nồng cháy để sưởi ấm những giây phút cô đơn. Nhưng tất cả chúng ta đều xem tình yêu chỉ là một thứ phụ so với những thứ khác như: sự thành công, danh tiếng, tiền bạc và quyền hành. Hầu như chúng ta đã dồn hết năng lực của mình để học hỏi thực hiện những mục tiêu này, và không ai để tâm học hỏi nghệ thuật yêu thương.
        Hầu hết đều cho rằng “mạnh vì gạo, bạo vì tiền” hoặc “đa kim ngân, phá luật lệ” hoặc “Có tiền mua tiên cũng được”, và tình yêu chỉ có lợi cho tâm hồn. Quan niệm “một mái nhà tranh, hai quả tim vàng” chỉ là giấc mơ rẻ tiền không thích hợp với thời đại văn minh vật chất của nhân loại và không đáng tiêu phí quá nhiều năng lực và thì giờ để học hỏi môn nghệ thuật này.

        Nhân ngày lễ Phục Sinh, tôi được nghĩ xả hơi bốn ngày, đủ để tôi viết những gì tôi muốn viết.
        Tôi quan niệm tất cả chúng ta là những khách bộ hành hèn mọn trên quả đất này, nếu không có được tình yêu và tình bạn chân thật, thì cuộc đời thật khô cằn không thua gì sỏi đá.

        Cách đây trên ba mươi lăm năm về trước, tôi có quen với một vị Giáo Sư nguyên Khoa Trưởng Phân Khoa Triết Học tại Đà Lạt. Bỗng nhiên ông ta chán nản tất cả, trở về Đơn Dương mua đất làm nhà máy xay gạo và chăn nuôi gia súc. Ông tự tay làm hết mọi việc, từ vỡ đất, sàn gạo, trồng rau, cho heo, lừa ngựa ăn…ông sống một cuộc đời ung dung tự tại, ẩn dật như Đào Tiềm (Đào-uyên-Minh người đất Tầm Dương tự là Nguyên Lượng, được người đời gọi là Ngũ Liễu Tiên Sinh vì nhà có trồng năm cây liễu. Ông từ quan về quê sống đời thung dung tự tại, bảo rằng không muốn vì “năm đấu gạo” mà phải ràng buộc cái thân). Ông đã nói với tôi một câu bất hủ: “Tôi không còn tha thiết gì cái xã hội loài người vì bộ mặt của con người biến hóa nhiều quá, chỉ có mặt lừa ngựa trước sau như vậy”. Cách so sánh của giáo sư thật dễ thương, Hàng ngày, khi bóng đêm phủ xuống dày dặc, ông bắt đầu đi xay gạo và cũng để nhìn đám gia súc. Tuy nhiên cái ly’ luận của ông đã bị rạn nứt. Vào một đêm ông đốt đèn để cho lừa ngựa ăn, ông đã vô y’ bị con vật cắn ngay cái “của qúy”. Hiện nay, ông vẫn còn sống độc thân. Như vậy, bạn thấy đó, lừa ngựa cũng chả có tình nghĩa gì hết.

        Những biến cố đau thương, tàn khốc, kinh hoàng đã giáng xuống thân phận của một dân tộc lầm than kể từ ngày lập quốc cho đến nay, thì bạn cũng đã biết qua hình ảnh, sách vỡ, báo chí…Nhưng có một điều bạn chưa bao giờ biết đến, đó là cuốn nhật ky’ ghi lại những tình tiết éo le tràn đầy nước mắt tôi đã tìm thấy trong thư phòng của tôi, dưới tựa đề: “Em đang khóc dưới trời Bắc Mỹ”, trên ba trăm trang giấy nhạt nhòa nước mắt, người góa phụ đã nhờ tôi đọc và được toàn quyền xử dụng trước khi nàng đưa hai con trở về VN để tìm tông tích người tình, cha của một trong hai đứa con của nàng.

        Tôi nhận thấy có một vài tình tiết liên quan đến chủ đề mà tôi đang gửi đến bạn. Tôi xin tóm tắc câu chuyện có thật và sẽ trích ra một vài đoạn để thấy tình yêu có phải là một hạt kim cương hay những dòng nước mắt!?. Xin mời bạn đọc:
        “Xuân là một chàng trai sinh ra trong thời ly loạn, chàng đành xếp bút nghiên để theo việc đao cung. Bích là một người con gái có một vẻ đẹp đài các, cao sang. Hai người cùng lớn lên và cùng học chung một trường. Họ đã yêu nhau thắm thiết. Bích là một người con gái lãng mạn, khi yêu, nàng muốn dâng hiến cả thể xác và tinh thần cho người tình mà không chút e dè, tính toán. Nhưng định mệnh đất nước thật cay nghiệt, cộng quân từ phương Bắc tràn vô đã cướp đi một miền Nam trù phú, đã gây đau thương tang tóc cho mọi gia đình và chúng đã cướp đi nụ cười ngay trên đôi mắt của trẻ thơ. Bích tưởng Xuân đã theo đoàn người di tản ra nước ngoài, nhưng ngược lại, Xuân đã trốn vào rừng lập chiến khu phục quốc. Xuân cho liên lạc viên về báo cho Bích để ra điểm hẹn gặp chàng. Và Bích đã tự nguyện trao thân cho Xuân ngay tại bìa rừng không một chút hối tiếc. Bởi vì Bích quan niệm: “Trinh tiết của người con gái chỉ xứng đáng cho người mình yêu”: Nàng viết:“ Xuân của em đang đứng đó, nước da rám nắng, thân người cao lớn như một bức tượng đồng uy nghi lẫm liệt. Em đang sững sờ nhìn anh không chớp mắt, ngơ ngác như một kẻ mất hồn. Em đã để nỗi say đắm phủ ngập lòng em đến độ không chịu đựng nổi nữa. Em đã phóng người chạy bay lại bên anh như con thú vồ mồi. Cả trời đất, vũ trụ đang quay cuồng trước những vòng tay siết chặt, những nụ hôn tham lam nóng bỏng, cuồng nhiệt tới tấp trên mắt, trên môi của hai kẻ yêu nhau. Em vừa hôn anh, vừa thì thầm như điên dại. Em nghe nhịp tim anh cũng đập rộn ràng. Em chưa bao giờ thấy đôi tay anh ôm em rắn chắc như thế này, đôi tay em cũng quấn lấy anh như sợi dây leo để ép nốt trong anh chút tình yêu còn lại, vì sợ ngày mai đời sẽ ra sao? Sự rung động thật sự chạy khắp châu thân, sự thèm khát tột độ làm em nóng ran cả người. Trên đường để đi đến điểm hẹn, em đã tâm nguyện sẽ dâng hiến cuộc đời của em cho anh không một chút hối tiếc, ăn năn…như anh đang hy sinh tuổi trẻ của anh cho quê hương và dân tộc. Chỉ cần có anh bên em dù chỉ một ngày để em được đắm chìm trong cơn mơ êm đềm, còn được nghe tiếng nói của anh văng vẳng, cũng đủ đem lại hạnh phúc cho em rồi. Cánh hoa đầu đời của người con gái xin anh hãy đưa tay hái, cho em tan chảy trong nắng lửa hừng hực ân tình. Sự đau đớn của phút giây trước khi làm một người đàn bà khiến cho tâm trí của em như lạc lỏng vào một tinh cầu xa lạ, em cảm thấy máu huyết dồn ứ lên mặt. Nhưng tình yêu anh như sóng nước vỡ bờ đã đưa em vào thế giới thần tiên, đê mê, khoái cảm. Toàn thân em run rẫy, co rúm lại như tan chảy trong vòng tay của anh, từng phân vuông trên da thịt của em không chỗ nào không lâng lâng, khoan khoái. Cám ơn đời, cám ơn anh yêu quí.”

        Do đó ngoài việc tận hưởng cuộc sống, việc trước mắt của chúng ta là hãy lập tức đón nhận và hiến dâng cho nhau những tình cảm nồng hậu của mình. Đôi ta chẳng khác gì một ngọn suối phun nước, đã phun ra tất cả sức sống của mình rồi thì còn có cách gì để bắt giữ lại tình cảm nữa đây?

        “Chỉ cần anh một ngày còn ở bên em, anh có biến thành ma quỷ, hổ báo, trùng độc hay cá mập, tình cảm của em đối với anh vẫn chẳng thay đổi.
        Ánh trăng đang chiếu lung linh xuyên qua kẻ lá, chúng tôi đang ngồi bên nhau. Dưới ánh trăng mơ, anh đã cười thật tươi, thanh âm òa vỡ như muôn mảnh trăng tan, hòa điệu với tiếng cười của chị Hằng lững lơ trên khung trời bạc.

        Rồi bốn mắt của chúng tôi quấn quít lấy nhau, cuốn hút luôn cả trăng vàng, phản phất như chị Hằng từ đáy mắt của chúng tôi chiếu ra”.
        Sau đêm hôm đó, Bích mang thai và sinh hạ được một cháu trai bụ bẩm, dễ thương. Bích vẫn tìm cách lén lút tiếp tế thuốc men cho Xuân, nhưng, không ngờ bị công an Việt cộng theo dõi và bắt nhốt tại Tổng Trại 6 Tù Tàn Binh do Liên Khu 5 quản ly’. Trước những đòn thù tra tấn dã man trong trại cải tạo và lòng thương con vô bờ, Bích đành phải chấp nhận để làm người tình hờ với một tên cán bộ cao cấp lớn hơn nàng ba mươi tuổi thuộc ngành công an tình báo của Việt cộng. Trước nhan sắc của người thiếu phụ một con đã làm cho hắn điêu đứng, say mê. Hắn đã quên hết tất cả, ngày đêm chỉ biết đắm chìm trong thú vui nhục dục. Còn Bích thì sống như người đã chết, chết cả thể xác lẫn tinh thần. Xin bạn theo dõi một đoạn nói lên tâm trạng của Bích ngày đầu nằm trong vòng tay ân ái của kẻ thù: “…Chiếc xe dừng lại trước căn biệt thự lộng lẫy trên đường Duy Tân. Hắn leo xuống tự tay mở cổng và lái thẳng vào nhà chứa xe. Em ngạc nhiên hỏi hắn:
        -Sao ông lại vào đây?
        -Em không muốn thăm con sao?
        -Con tôi ở đây à?
        -Vâng! Anh đã đem bé Ngọc Diêm về đây chăm sóc, vì người bạn của em đã đi xây dựng vùng quê hương mới rồi.

        Nghe hắn nói, em như từ cung trăng rớt xuống. Con của chúng ta cũng đang nằm trong tay của kẻ thù do một mụ vú già quản ly’ để làm áp lực tình cảm đối với em. Trên sáu mươi tuổi đời, ba chục tuổi đảng, hắn quỷ quyệt y hệt như một con cáo già. Em nuốt nước bọt để dìm cơn uất hận, và nhủ thầm : ‘‘Không có tội lỗi nào mà người đàn bà không dám làm, rồi đây mày sẽ biết tay tao’’. Rồi sau đó em theo hắn vào nhà.
        -Chào thủ trưởng, chào cô.
        Người vú già cung tay, rụt rè chào đón.
        -Bé Diêm đâu? Cháu có khóc không? Hắn hỏi.
        -Thưa, bé đã ngủ.

        Em theo bà vú vào phòng để nhìn lại mặt con. Ôi! Giấc ngủ của trẻ thơ thật tuyệt diệu, trong chiếc nôi nhỏ xinh xắn, bé Ngọc Diêm như một thiên thần. Cả thân thể em ớn lạnh vì cảm xúc. Em cúi xuống hôn trên đôi má bụ bẫm của bé mà nước mắt tự nhiên tuôn trào.
        -Cô khẻ chút, cháu vừa mới ngủ. Mời cô ra dùng cơm kểu nguội mất ngon.
        -Cơm đâu sẵn vậy?
        -Tôi đã chuẩn bị trước rồi.

        Hắn đang ngồi chờ em tại phòng ăn. Nhìn trên mặt bàn hai tô canh chua cá mú còn đang bốc khói, một đĩa cá chiên và hai đĩa thịt quay. Suốt nửa tháng bị giam cầm, mỗi ngày một vắt cơm ăn với muối hột. Nay đứng trước những món ‘‘cao lương mỹ vị’’ em bỗng nhiên thèm thuồng. Hắn gắp từng miếng thịt, miếng cá bỏ vào chén cho em.
        -Bích ăn đi, em còn trẻ lắm đừng dại dột ương ngạnh. Anh vẫn biết con tim có ly’ lẽ của nó, nhưng phải biết nhìn vào thực tế. Em rất may mắn là gặp được anh, nếu như người khác thì em sẽ ra sao? Với một người lão luyện trong ngành tình báo, anh có thể nhìn thấy nội tâm của em qua cử chỉ và hành động. Vì vậy, anh khuyên em nên chấp nhận hiện tại, hạnh phúc mà anh đang dành cho em là thứ hạnh phúc tuyệt đối, thứ tình yêu không biên giới mà hơn nửa cuộc đời anh mới có cơ hội để yêu. Anh cứ tưởng con tim của anh đã trở nên chai đá, nhưng không ngờ, ngày nay lại biết rung động thật sự.
        Xuân ơi! Nếu là em anh sẽ phải đối phó ra sao trong hoàn cảnh này? Âu đó cũng là định mệnh! Em không muốn biện luận cho việc làm tồi tệ của em sắp tới để chiếm lại tình cảm mà anh đã dành cho em. Em muốn tìm ở anh một sự tha thứ, em không phải là một người đàn bà lăng loàn trắc nết. Em chỉ là một kịch sĩ tài ba trên sân khấu đời đầy thô bỉ này thôi. Em đã ăn một cách tự nhiên. Hắn nhìn em hài lòng.

        Cơm nước xong, hắn trao cho em chiếc áo ngủ màu hồng và chỉ chỗ cho em tắm rửa. Đứng trước gương soi, khuôn mặt em nhợt nhạt tái xanh vì thiếu ăn mất ngủ. Son phấn, nước hoa...hình như đã được hắn chuẩn bị sẵn, em đang trang điểm như một người đi dự dạ hội. Hắn ngây ngất đứng nhìn em từ đầu đến chân :
        -Bích đẹp quá, không ngờ anh lại được diễm phúc như vậy.

        Ngoài kia, màn đêm đang bao trùm lấy cảnh vật, tiếng quạt máy đang vang lên những âm thanh êm dịu. Hắn đưa tay tắt vội cây đèn trên đầu giường. Bóng tối phủ ngập cả căn phòng. Em như người đang sống trong cơn mộng du, đang hành động theo sự xui khiến của tiềm thức. Em nhớ lại có một lần, em đã lên ĐàLạt thăm anh, lúc anh còn là một Sinh Viên Sĩ Quan đang thụ huấn tại quân trường. Anh chị T. Thật tế nhị, anh chị đã dành cho em một căn phòng rất khang trang. Biết anh và em cần những giây phút để trò chuyện thân mật, anh chị T. Đã xuống Phan Rang chơi, để cho em và anh được tự do trọn hai ngày thứ Bảy và Chủ Nhật. Đó là một buổi sáng thứ Bảy êm ả, em đang nằm gọn trong vòng tay ấm áp của anh và đưa mắt nhìn ra mặt Hồ Than Thở. ĐàLạt đẹp quá, với những rừng thông trùng điệp, những con đường ngoằn ngoèo, uốn khúc trông thật hùng vỹ. Với một giọng nồng nàn, tha thiết anh đã kể cho em nghe sự tích của Hồ Than Thở : ‘‘Lúc quân Thanh sang đánh chiếm nước ta. Hoàng Tùng là một người thanh niên lớn lên trong thời ly loạn, đã đáp lại lời kêu gọi của Đức Quang Trung Nguyễn Huệ để gia nhập vào nghĩa quân. Trước giờ đưa tiễn, Mai Nương sợ người yêu bịn rịn, nàng đã hy sinh trước giờ hẹn để đưa người yêu lên đường cứu nước. Nàng đến bên bờ suối ngồi trầm ngâm, than thở, rồi gieo mình xuống suối. Khi Hoàng Tùng đến nơi thì không thấy người yêu đâu cả, chỉ thấy con suối đã biến thành hồ rộng mênh mông im vắng bên rừng Kỳ Ngộ’’. Sau khi nghe anh kể, em đã nhìn anh một cách đắm đuối, tình tứ, đôi tay của em quấn chặt lấy anh : ‘‘Nếu em là Mai Nương, em sẽ không bao giờ tự tử. Em sẽ dâng hiến trọn vẹn cho người yêu trước ngày chàng lên đường. Và sau đó em sẽ sống vậy để đợi chờ. Nếu rủi người yêu có mệnh hệ nào, thì em sẽ trọn đời ở vậy thủ tiết thờ chồng’’. Em đã gửi hết tâm sự và mở đường cho anh. Em đã hôn anh một cách nồng nàn, tình cảm của em đã lên đến cao độ. Em như một con rắn đang quấn lấy con thú nhỏ. Một sự rung động kỳ lạ chạy khắp châu thân. Em đang sôi sục một sự thèm muốn. Em đưa tay rờ rẫm đôi bờ vai rắn chắc của anh. Một sự im lặng tuyệt vời giữa hai đứa vì đã có những động tác để thay lời nói. Những ngón tay của anh như đang dạo một bản đàn muôn thuở trên khắp tấm thân mềm mại nóng bỏng của em. Em rùng mình, run rẫy, máu huyết như muốn đốt cháy đôi má của em, em đờ đẫn, cuồng nhiệt, say đắm, đã ôm lấy anh và đặt những nụ hôn nồng cháy. Sinh ly’ bị dồn nén đang giao thoa với ảo tưởng, em đang giao hợp với anh qua thân xác của kẻ thù. Sự đáp ứng nồng nhiệt của em đã đưa hắn lên tuyệt đỉnh của hứng khởi. Hắn rên rỉ trong khoái cảm, em ê chề trở lại với thực tế phủ phàng. Em xấu hổ quá, em ôm mặt khóc. Nước mắt không gọt rửa hết nhơ bẫn. Em nghe vang vọng đâu đây những lời đay nghiến, trách móc của anh, hay là tiếng lương tâm của em đang cắn rứt? Anh có tha thứ cho em không? Sao anh nhìn em một cách khinh bỉ như vậy?. Em xin tạ tội cùng anh, em là kẻ đang sống trong điên loạn mất cả ly’ trí. Em đang sống trong đau khổ và trống vắng vô cùng’’...

        Đọc xong đoạn văn trên bạn có thấy đỏ mặt hay không? Riêng tôi, hình như máu huyết trong người của tôi muốn đảo lộn. Nhưng chưa hết, cuộc đời của Bích sau đó trở thành một món đồ chơi cho tên cán bộ già và Bích đâu dễ gì đầu hàng số mệnh một cách đơn giản như vậy. Bao nhiêu của cải, vàng bạc trong những lần bán bãi cho những người vượt biển, Bích đã thâu tóm hết và nàng đã lén mua tàu để chờ cơ hội trốn thoát khỏi cái địa ngục trên dương thế do bọn quỷ đỏ cai trị. Trước khi ra đi, Bích đã bảo hắn đưa thăm những thắng cảnh xinh đẹp của quê hương một lần chót để nàng hồi tưởng lại những lần hò hẹn cùng Xuân, để ôm trọn cái kỷ niệm vô vàn đáng yêu. Nàng đã dùng mỹ nhân kế để hắn lạc vào mê-hồn-trận trước giờ rời bỏ quê hương như sau : ‘‘Về lại nhà đã tám giờ tối, bà Vú đang ẵm bé Ngọc Diêm đứng tựa cửa. Em ôm con vào lòng hôn lấy, hôn để làm thằng bé giẫy đạp khó chịu. Bà Vú cũng lấy làm lạ, tại sao đêm nay em vui quá độ như vậy? Hắn cũng vui lây và sai bà Vú chuẩn bị cơm nước. Em mở tủ lạnh lấy một chai ‘‘Champagne’’ do một cặp vợ chồng người Tàu vừa mới hối lộ, rót đầy hai ly. Em đã uống một hơi không nghỉ. Hắn trố mắt một cách ngạc nhiên. Em lại rót thêm. Hơi men bắt đầu bốc lên mặt. Hắn như bị thái độ hào sảng và chịu chơi của em cũng đành đưa ly lên nốc cạn. Chẳng bao lâu chai rượu đã hết sạch. Em bắt đầu thấy hoa mắt, em đang thấy anh ngồi trước mặt nhìn em tủm tỉm cười. Sao đêm nay em thấy anh đẹp một cách mê hồn. Anh cũng lả lơi, tình tứ và lãng mạn đâu có thua gì em? Lại đây hỡi người tình yêu quí nhất đời của em. Hắn cũng đang say chuếch choáng, kéo ghế đứng dậy, chạy ập vào đôi vòng tay em đang mở rộng. Ôi! Nguồn hạnh phúc trào dâng như sóng nước vỡ bờ, em vừa hôn, vừa réo gọi tên anh, em cuồng nhiệt như chưa bao giờ cuồng nhiệt, em như một con thú bị đói khát lâu ngày. Đừng bỏ em nữa nghe anh? Hãy cho em sống trọn một đêm thác loạn để đền bù những ngày tháng anh đã phải chịu khổ đau, thương nhớ, đợi chờ. Hãy đốt cháy cho em tan lỏng ra đi anh, em thề một ngàn lần không bao giờ hối tiếc. Trong vũng ánh sáng lờ mờ, em đã ân ái cùng anh qua vùng ảo giác điên loạn, men rượu đã mang lại hạnh phúc ngắn ngủi phù du, đã cho em nụ cười để đi vào giấc ngủ’’.

        Ngôn ngữ của loài người không đủ chữ để diễn tả hết nỗi kinh hoàng, ghê tởm của người dân hai miền Nam Bắc trước sự cai trị tàn độc của bè lũ cộng nô, một bọn quỷ đội lốt người đang ăn thịt chính người đống lọai. Các bạn cứ thử đi hỏi sông ngòi, cỏ cây, hoa lá chúng cũng phải gục đầu tủi hận, thì làm sao Bích có thể vui hưởng hạnh phúc bên kẻ thù của toàn dân Việt Nam cho được? Bích đã mang thai với hắn và bị sẩy thai. Xuân đã âm thầm, đau đớn theo dõi từng bước chân của Bích và chàng đã thương xót cho cuộc đời hoạn nạn, một kiếp hồng nhan đa truân trước nanh vuốt của kẻ thù. Xuân đã ra lệnh cho các kháng chiến quân cướp tàu và bắt cóc mẹ con của Bích đem xuống tàu để vượt biển tìm tự do.

        Trớ trêu thay, người kháng-chiến-quân đi hộ tống Bích và con trai lại là người cựu sinh viên khoa học đã từng tỏ tình với Bích và say mê Bích khi hai người còn ở trường Đại Học.
        Khoa là một chàng thanh niên trí thức, một cựu trung úy Hải Quân, đẹp trai, to con, và tinh thần rất tháo vát, hào hoa, phong nhã. Một mẫu người đàn ông ly’ tưởng. Kể từ giây phút đầu bị Bích cự tuyệt, chàng đã thề sẽ không bao giờ yêu ai ngoài Bích cả. Nay, hoàn cảnh xui khiến, hai người lại gặp gỡ nhau trong một hoàn cảnh thật trớ trêu. Tàu đã đến được Hồng Kông, Khoa đã năn nỉ Bích để được đứng chung một hộ và giả làm người chồng hờ để có cơ hội gần gũi, chăm sóc mẹ con của Bích. Bích đồng y’ và yêu cầu Khoa không được vượt qua ranh giới tình bạn. Nhưng con tim nó có ly’ lẽ của nó, xin bạn hãy nghe tâm sự của Bích : ‘‘ Đêm đã khuya, em vẫn nằm trằn trọc không ngủ được. Tương lai là những chuỗi ngày vô định, bấp bênh, không biết sẽ đưa đẩy cuộc đời của mẹ con em đi về đâu? Giọt nước mắt đầu tiên trên vùng đất tự do em đang khóc cho thân phận làm người, khóc cho nỗi thương nhớ ngút ngàn về một quê hương khốn khổ đã bỏ lại sau lưng, khóc cho từng phân vuông đất đỏ in dấu chân em và anh, đang khóc cho sự dằn vặt giữa tình và nghĩa đang sùng sục, nung nấu trong tim em. Sự cao thượng của Khoa rồi đây có làm tan chảy khối thép trong lòng em hay không? Chúc anh ngủ ngon, cho em tìm anh trong giấc ngủ lưu đày’’.

        Sau khi được một nhà thờ bảo lãnh cho qua định cư tại Gia-nã-Đại, vùng Crescent Beach nắng ấm. Khoa đã tận tụy làm việc, tạo dựng một sự nghiệp vững chắc qua ngành xây cất. Bích cũng đã có công ăn, việc làm. Hai người đã mua một căn nhà xinh xắn trông xuống Vịnh Semiahmoo thơ mộng. Trong năm năm trời, hai người đã đóng vai ‘‘vợ chồng hờ’’ và đã giữ đúng lời giao ước không vượt qua ranh giới tình bạn. Bạn có thể nào tưởng tượng một đôi nam nữ ở vào lứa tuổi tràn đầy sinh lực nhất, sống chung một nhà, ăn chung một mâm, đã bao năm dài vẫn chưa một lần sa ngã, chưa một lời nói bóng gió yêu đương lẫn nhau. Các bạn thấy có vĩ đại không? Tôi thì không thấy có gì vĩ đại cả, thật sự trong lòng tôi, tôi muốn chửi thề một tiếng cho hả giận, nhưng sợ bạn quở trách cho rằng tôi hỗn.
        Xin mời bạn đọc tiếp: ‘‘Đến mùa Hè năm 1985, tình trạng tinh thần của em quá suy nhược, Khoa rủ mẹ con em đi Hawaii đổi gió. Em đã từ chối, Khoa đã đi một mình và anh hứa sẽ trở về trước ngày sinh nhựt của em. Trong suốt thời gian vắng Khoa, em đã sống trong nỗi cô đơn buồn chán, hết đứng lại ngồi, hết ra lại vào, ngẩn ngẩn, ngơ ngơ như người bị ma quỷ hớp hồn. Em cứ hình dung tưởng Khoa là anh, sự ghen tức lẫn giận hờn đã bỏ em một mình, làm em muốn điên loạn. Và tình cờ trong lúc dọn dẹp nhà cửa, em đã khám phá ra cuốn nhật ky’ của Khoa để trong thư phòng. Cuốn nhật ky’ dày gần ba trăm trang giấy với những dòng chữ chi chít, nhiều trang nhàu nát, chứng tỏ tâm thần Khoa cũng bị bấn loạn không ít và nhiều trang đẫm ướt những giọt nước mắt si tình. Em đã đọc từ đầu đến cuối không sót một chữ, càng đọc nước mắt của em càng ràn rụa. Em không ngờ trong năm năm trời sống chung với nhau, tuy ngoài mặt anh đã tỏ ra yêu đời, vui vẻ, nhưng lòng Khoa là một nghĩa trang hoang lạnh đang chôn chặt một khối tuyệt tình. Em ôm mặt gục đầu xuống bàn khóc nức nở: ‘‘Khoa ơi! Anh hãy tha thứ cho em. Em không thể phụ bạc Xuân để làm vợ anh được. Một vạn lần, em xin tạ tội cùng anh”.

        Nội dung của cuốn nhật ky’ đã cho em hiểu được lòng Khoa đối với em. Anh đã tận tụy làm việc ngày đêm để tạo dựng sự nghiệp đồ sộ, ngõ hầu, đánh ngã thần tượng trong tim em và để chôn chặt nỗi buồn thầm kín’’.

        Đến đây thì bạn cũng như tôi đều thở phào nhẹ nhỏm, vì cuối cùng, ít nhất Bích và Khoa đều hiểu được lòng nhau. Khoa đã tỏ tình cùng Bích một cách gián tiếp qua một cuộc đi nghỉ Hè giả vờ để tìm hiểu lòng nhớ thương của Bích đối với Khoa đến mức độ nào?. Cuốn nhật ky’ để hớ hênh có chủ đích. Sáng ngày hôm sau, bé Ngọc Diêm đi cắm trại do nhà trường tổ chức, Khoa đi ‘‘nghỉ Hè’’, Bích thức dậy, nàng thả bộ dọc theo ven biển gần trọn buổi chiều. Lúc về đến nhà thì trời gần nhá nhem tối, vừa bật đèn, bong bóng, dây kim tuyến treo khắp nhà. Trên phòng khách có gắn hai chữ ‘‘Happy Birthday’’ thật lớn. Bàn ăn với những thức ăn còn bốc khói, một bình hoa hồng đỏ rực kế bên cái bánh sinh nhựt, hai chai ‘‘champagne’’ ướp trong bình đá. Và Khoa đang mặc một bộ đồ ‘vét’ trịnh trọng ngồi trên chiếc ‘sa-lông’ tại phòng khách. Bích đứng trố mắt nhìn Khoa mà không thốt được nên lời, nỗi vui sướng lẫn giận hờn đã chôn chân Bích tại chỗ. Khoa tiến lại và ôm Bích vào lòng hôn như điên, như dại, Bích cứ để mặc cho châu lệ tuôn rơi trên vai Khoa: ‘‘Cứ khóc đi, khóc nhiều lên đi em cho vơi đau khổ. Những giọt nước mắt của em cũng chứa đựng hàng vạn lời yêu thương của anh đối với em. Trong bảy ngày qua, thật sự, anh chẳng đi đâu hết. Một cuộc trắc nghiệm tình yêu của em đối với anh. Ba ngày đầu, anh như một kẻ điên dại. Mỗi khi hoàng hôn xuống, anh thường đến bên cửa sổ nhìn vào để nhìn cái dáng vẻ thiểu não, trống vắng, cô đơn của em. Anh muốn chạy xổ vào để quỳ dưới chân em, để chứng tỏ cho em thấy tình anh đối với em như biển cả mênh mông, như trời cao đất rộng. Những ngày kế tiếp anh như người đang đứng trên đống lửa bỏng, ngày nào anh cũng lái xe dừng lại bên kia đường để được nhìn thấy bờ vai, suối tóc và dáng đi thon nhỏ của em, cũng đủ làm anh mãn nguyện’’.

        Vừa thủ thỉ, Khoa vừa uống khô những hạt lệ sầu khổ của em. Tấm thân em mềm nhũn trong vòng tay siết chặt của Khoa, em chỉ biết khóc mà không thốt được nên lời. Khoa dìu em vào phòng, những rạo rực trong năm năm trời sống bên nhau, nay mới có cơ hội bùng vỡ. Em đã đáp lại một cách nồng nhiệt trước những trận mưa hôn tới tấp, những ve vuốt đê mê, khoái cảm tuyệt vời…Em đã chết lịm trước mật ngọt của một mối tình ngang trái. Nhìn nét mặt thỏa mãn của Khoa và tấm thân lõa lồ của em, em cảm thấy có lỗi với anh nhiều quá. Nhưng dầu sao đi nữa, chuyện cũng đã lỡ rồi, có hối hận thì cũng quá muộn. Em phải đóng trọn vai trò của một người tình, để rồi mai đây em sẽ ra đi biền biệt cho Khoa tìm lại cuộc đời và cho em giữ trọn vẹn lòng chung thủy với anh. Em đánh thức Khoa dậy. Nhìn đồng hồ mới chỉ mười hai giờ đêm, em đi hâm nóng lại các thức ăn, còn Khoa thì mở rượu.

        Tội nghiệp, Khoa cứ tưởng đã đánh đổ được hoàn toàn thầ tượng trong tim em, anh kéo em ngồi trên lòng và gắp từng món ăn bắt em ăn. Cuộc vui kéo dài trong hơn một tiếng, chai rượu ‘‘champagne’’ đã cạn. Khoa đứng dậy dìu em theo tiếng nhạc, tiếng hát của người ca sĩ nức nở, nghẹn ngào qua nhạc phẩm ‘‘Giọt Nước Mắt Ngà’’ của nhạc sĩ Ngô thụy Miên: ‘‘Em đứng bên song buồn, nhìn cuộc tình trôi qua và lòng người phôi pha. Trên hai đóa môi hồng, nụ cười đã đi xa. Ôi! Giọt nước mắt nào trong cuộc tình đầu. Em ngỡ như cơn mộng, người tình về bên em và gọi thầm tên em. Nhưng trên cánh mi sầu, ngày dài vẫn qua mau. Em tựa lá úa màu cho cuộc tình trăm năm. Em về đan tóc lụa là, kết từng chuỗi ngày buồn riêng mang....’’ Tiếng hát của Khánh Ly diễn tả đôi lúc êm mơ, đôi lúc tức tưởi, nghẹn ngào, nức nở. Em thấy tâm hồn em bay bổng vượt muôn trùng đại dương, em thấy em đang bay dáo dác tìm anh trên khắp đường phố quê hương. Bay, bay mãi, đến khi gặp anh đang ngồi gục đầu bên một bìa rừng hoang lạnh, em ôm anh vào lòng và khóc nức nở.

        Khoa đang là nạn nhân trước tấm chân tình điên loạn. Em đang nhảy với Khoa mà cứ tưởng đang nhảy với anh. Hạnh phúc trào dâng như sóng nước vỡ bờ. Bản nhạc đã dứt từ lâu, em vẫn còn nghe văng vẳng bên tai, em nói như điên khùng: ‘‘Đừng bỏ em nữa nghe anh! Em sẽ sống trọn vẹn cho anh đêm nay. Xin mời anh bước vào vùng tình ái’’. Hạnh phúc tuyệt đối của con người, theo em nghĩ, chắc cũng tương đương với thời gian còn lại của nửa đêm về sáng. Chúng em siết chặt lấy nhau qua hơi men và ảo giác, chúng em cuồng nhiệt hôn nhau như vũ bão. Ngôn ngữ không đủ để diễn tả cái cảm giác đê mê, ngọt mềm...em thấy hồn vía đang bay bổng trong cơn lốc quay cuồng’’.

        Qua một đêm rã rời, Bích dắt con bỏ nhà ra đi để tránh bị lương tâm cắn rứt. Khoa điên cuồng, thất vọng uống rượu lái xe và gặp tai nạn chết một cách tức tưởi. Bích sanh thêm một bé gái đặt tên là Thùy Dương, kết quả của một cuộc tình tỵ nạn ngang trái và thương tâm.

        Cứ mỗi cuối tuần, nàng dẫn hai con đi thăm mộ Khoa để ăn năn, sám hối: ‘‘Mỗi người đều có một số mệnh, anh thì đang gối đất nằm sương ngày đêm trực diện với quân thù. Khoa đã nằm yên trong lòng đất, còn mẹ con em đang sống tủi buồn nơi đất khách quê người. Xuân ơi! ở bên kia nửa vòng trái đất, mỗi lần anh đứng nhìn mưa rơi, hãy nhớ rằng, đó là những hạt nước mắt: em đang khóc dưới trời Bắc Mỹ’’.

        Các triết gia, văn, thi sĩ và những đầu óc vĩ đại đều nhìn nhận: ‘‘Tình yêu như một liều thuốc trường sinh hàn gắn những vết thương lòng của nhân loại’’. Một văn hào Mỹ đã phát biểu quan điểm của ông như sau: ‘‘Tình yêu chính là chiếc cầu vòng giữa cuộc đời đầy mây đen u ám. Nó là buổi mai và là ánh sao hôm. Chiếu giải trên muôn người, và trải những tia sáng trên mộ huyệt thâm u. Nó là mẹ của nghệ thuật, là nguồn cảm hứng của thi ca, của nhà ái quốc và của triết gia. Nó là không khí và ánh sáng của mọi trái tim, là kẻ xây dựng nên những mái ấm, là kẻ thắp lên ngọn lửa trong mỗi trái tim. Nó đã là kẻ đầu tiên mơ tưởng đến cõi bất diệt. Nó rót nhạc du dương đầy tràn thế giới, vì âm nhạc là tiếng nói của tình yêu. Tình yêu là một nhà ảo thuật, một kẻ quyến rũ, biến đổi những vật vô giá trị thành nguồn vui, và lấy đất sét tầm thường tạo nên những vị đế vương, những nữ hoàng. Nó là mùi hương của đóa hoa tim kỳ lạ, và không có đam mê thánh thiện đó, không có phút ngất ngây kỳ diệu ấy, chúng ta không còn bằng cầm thú, nhưng với tình yêu, trái đất là thiên đường và chúng ta là những vị thần linh. Tình yêu là sự hóa thân. Nó cao thượng, thánh hóa và đáng được tôn vinh....tình yêu là một mặc khải, một sáng tạo. Thế giới phải mượn vẻ đẹp của tình yêu và thiên đường cũng phải mượn vinh quang của tình yêu . Công ly’, sự hiến thân, bác ái và tình thương là con đẻ của tình yêu....Không có tình yêu, mọi vinh quang đều phai mờ, những tráng lệ nguy nga đều sụp đổ khỏi gian trần, nghệ thuật chết rũ, âm nhạc mất hết y’ nghĩa và chỉ còn là những chuyển động của không gian, và nhân đức cũng chẳng còn tồn tại’’.

        MCN

        Comment


        • #19
          Chuyện thế gian

          Biên khảo: Mây-cao-Nguyên

          (Đa tạ những văn nhân, thi sĩ, dịch giả…có những đoạn văn được tôi trích dẫn trong loạt trường kỳ biên khảo này. Với hảo y’ đem lại món ăn tinh thần cho độc giả bốn phương. Xin thông cảm. MCN)

          CHUYỆN THỨ NHẤT:

          Tháng Bảy thường thường có những trận mưa ngâu rất dễ thương và ngày Rằm tháng Bảy “kẻ quảy, người đơm” để cúng “xá tội vong nhân” hay là cúng cô hồn. Tôi xin kể hầu bạn vài chuyện vớ vẩn về ngày này để bạn đọc chơi và suy ngẫm.

          Ngưu Lang Chức Nữ:
          Thuở xưa, vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng tên là Ngưu Lang, vì say mê nhan sắc của một tiên nữ tên là Chức Nữ nên bỏ phế việc chăn trâu, để trâu đi nghênh ngang vào điện Ngọc Hư. Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải, Ngọc Hoàng giận dữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông.
          Nhưng về sau, Ngọc Hoàng nghĩ lại, thương tình nên ra ơn cho Ngưu Lang, Chức Nữ mỗi năm được gặp nhau một lần vào tháng Bảy. Và khi tiễn nhau, Ngưu Lang, Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hóa thành cơn mưa và được dương thế đặt tên là mưa ngâu.
          Thời bấy giờ, sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào cả, Ngọc Hoàng mới ra lệnh cho làm cầu để Ngưu Lang Chức Nữ được gặp nhau. Các phường thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu.
          Các phường thợ mộc mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai. Kẻ muốn làm kiểu này, người muốn làm kiểu kia, cãi nhau chí chóe. Đến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong.
          Ngọc Hoàng bực tức, bắt tội mấy phường thợ mộc hóa kiếp làm quạ lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau.
          Bị hóa làm quạ, các phường thợ mộc lại càng giận nhau hơn. Vì thế cứ tháng Bảy là loại quạ họp lại sửa soạn lên trời bắc cầu Ô Thước. Và gặp nhau, nhớ lại chuyện cũ nên chúng cắn mổ nhau đến xác xơ lông cánh.
          Ngưu Lang Chức Nữ lên cầu, nhìn xuống thấy một đám đen ngòi lúc nhúc ở dưới chân thì lấy làm gớm ghiếc, mới ra lệnh cho đàn chim Ô Thước mỗi khi lên trời làm cầu thì phải nhổ sạch lông đầu. Từ đó, cứ tới tháng Bảy thì loài quạ lông thì xơ xác, đầu thì rụng lông xói xọi.

          Trong tình yêu thì khó mà biết được tại sao phải yêu mê, chết mệt một đối tượng chẳng ra gì: như chuyện công chúa Mỵ Nương yêu chàng dân chài Trương Chi xấu rơi, xấu rụng chỉ được cái tài thổi sáo. Một tiên nữ lại đi yêu một anh chăn trâu. Một cô gái, 23 tuổi, đẹp như tiên giáng trần đi yêu một ông tỷ phú 83 tuổi (người sáng lập ra tờ tạp chí Playboy), chắc cô này muốn lấy ông ta để được thọc lét…v.v..Các cô ơi! Đừng có thấy cái vỏ bên ngoài mà ham, lấy nhau sau này sẽ vỡ mộng đấy!
          Một văn hào Pháp, ông Balzac đã nói một câu bất hủ: “Người đàn bà phải là một thiên tài mới tạo nên một người chồng tốt”.
          Và bác sĩ của Áo quốc, ông Freud, đã có lần nói rằng: “Sau ba mươi năm nghiên cứu, tìm hiểu về họ, tôi tự hỏi: đàn bà họ muốn gì?”. Hôn nhân giống như một thành lũy kiên cố, kẻ ngoại cuộc thì muốn nhảy vào, kẻ trong cuộc thì muốn nhảy ra.
          Nhiều khi tôi tự đặt câu hỏi: “Tại sao những danh nhân lẫy lừng lại hay gặp phải những bất hạnh trên con đường tình ái?”. Những người có tài thường hay sinh tật chắc? Ví dụ như văn hào George Sand, Victor Hugo, Abraham Lincoln, Lev Tolstoi, Socrate..v.v..

          Những vĩ nhân bị vợ “đày ải”
          Đại văn hào Nga Lev Tolstoi bỏ nhà đi giữa trời tuyết giá, rồi chết ở một nhà ga xe lửa. Nguyện vọng cuối cùng của ông là không muốn thấy mặt vợ.
          Không ít người là vĩ nhân được cả thế giới xưng tụng, hoặc nắm trong tay quyền lực vô đối, nhưng lại sống khổ sống sở dưới sự đay nghiến của vợ mình.

          Yêu nhau vẫn hành hạ nhau:
          cuộc hôn nhân của nhà văn, bá tước Tolstoi với bà vợ Sofya bắt nguồn từ một tình yêu tuyệt đẹp. Họ sống bên nhau 48 năm trời và sinh hạ nhiều con. Sofya không chỉ là vợ mà còn là người trợ ly’, thư ky’ cho chồng, tận tụy hổ trợ ông trong công việc. Ấy thế mà về sau, bà lại thành một tội nợ của ông, góp phần làm ông thấy cuộc sống thêm bế tắt.
          Thật ra, lỗi không hoàn toàn thuộc về bà Tolstoi, có chăng là họ đã trao nhau trái tim nhưng rốt cuộc lại không đồng hành về tư tưởng. Tolstoi ngày càng đau đớn về những bất công trong xã hội và sự bất lực của mình trong việc cải tạo nó. Cảm thấy sự giàu có của mình là tội lỗi, ông chỉ muốn từ chối của cải, các tác phẩm của mình được in ra ông từ chối tiền tác quyền. Nhưng bà lại muốn thu vén tài sản để đảm bảo cho gia đình con cái, muốn có danh vọng, tiếng tăm...Sự “trái tính trái nết” của chồng làm Sofya giận dữ và không chịu nổi.
          Trong nhiều năm, Sofya hết cằn nhằn, trách móc lại đay nghiến chồng với những lời nẳn gắt, mạt sát độc địa, chua cay. Những cuộc xung khắc dường như bất tận, chất thêm gánh nặng vào tâm hồn vốn đã nặng trĩu nỗi đau cuộc đời của đại-văn-hào.
          Có những lúc bá tước phu nhân như phát điên, nằm ra đất lăn lộn, vật vã. Nhiều lần bà dọa tự tử, dọa đâm đầu xuống giếng....Thế là mối tình đẹp như mơ của họ dần biến thành địa ngục. Và một ngày đông trời đầy tuyết, đại văn hào bỏ nhà đi rồi 11 ngày sau trút hơi tàn ở một nhà ga, ước nguyện cuối cùng là không nhìn thấy vợ nữa.
          Sau cái chết đó, nhiều người hâm mộ Tolstoi coi Sofya như một tội đồ. Thế nhưng những người công bằng hơn thì hiểu rằng, Sofya rất có công trong cuộc đời sáng tác của Tolstoi và đã phải khổ vì chồng không kém. Bà đã suốt đời tận tụy với ông, một mình lo thu vén gia đình, và hy sinh cả văn tài của mình để chăm sóc cho người chồng đầy nỗi đau tư tưởng và chỉ lo “chuyện thiên hạ”.

          *Nhà triết học và “sư tử Hà Đông”:
          Triết gia Hy Lạp cổ đại Socrate được bao nhiêu người quỳ gối ngưỡng vọng, nhưng với bà vợ Xanthippe thì ông chỉ là “con tép”. Socrate lấy vợ khi đã 50 tuổi, bà trẻ hơn ông rất nhiều, nhưng mức độ ghê gớm của người vợ này thì vang lừng cả thành Athen. Ai cũng biết nhà triết học nổi tiếng suốt ngày bị vợ chửi bới, hành hung. Đến nỗi sau mấy nghìn năm, tên bà đã trờ thành danh từ chung để chỉ những ác phụ, những người đàn bà đanh đá, lăng loàn. Được cái với vợ thì Socrate là ông chồng “ngoan”, chẳng bao giờ cãi nửa lời.
          Chuyện kể rằng có lần, bậc thầy triết học đang đàm đạo với các môn sinh thì bà Xanthippe lại mắng nhiếc, rủa sả ôm sồm đến nỗi tất cả mọi người đều tối tăm mặt mũi, trừ ông chồng vẫn điềm nhiên. Cơn tam bành lên đến đỉnh điểm, bà bưng cả vò nước rót lên đầu chồng, ông vẫn im lặng chịu trận, lại còn đùa với các học trò: “Sau cơn sấm sét bao giờ cũng phải có mưa giông”.
          Lần khác, Socrate đang ăn cơm với bạn thì bà vợ trời đánh lên cơn điên giận, chẳng kể gì khách khứa, ném cả mâm cơm ra sân. Trong khi ai nấy tức nổ đom đóm thì Socrate vẫn nói chữa: “Chắc bà ấy muốn chúng ta ra sân ăn cho mát”. Đáp lại ông chồng AQ, bà Xanthippe lấy chổi quét hết thức ăn để chồng hết đường nhặt lại.. Đến nước này thì các ông khách đều muốn giúp khổ chủ cho bà vợ lăng loàn một bài học, nhưng ông ngăn lại: “Giả sử như các anh đang ăn mà có con gà nhảy vào đổ hết mâm bát, các anh có đi đuổi nó trừng phạt không?”.
          Bị vợ hành như vậy nhưng hễ có ai dèm pha bà, ông lại bảo: “Chính nhờ bà ấy mà tôi trở thành triết gia”. Người ta cho rằng Socrate nhẫn nhục, “biết điều” với vợ một phần vì nhà hiền triết biết rằng với gia đình, ông là một ông chồng vô tích sự, là gánh nặng cho vợ con.
          Đến đây, tôi hồi tưởng lại chuyện: Sư Tử Hà Đông, xin kể hầu bạn: Trần Tạo tự Quy’ Thường, người đời nhà Tống, quê ở Vĩnh Gia. Vợ của Trần họ Liễu vốn có tính ghen dữ ghê gớm. Quy’ Thường rất sợ vợ nhưng rất tôn sùng đạo Phật. Hằng ngày ngồi đọc kinh, vợ lấy làm bực, la hét ôm sòm, nhưng Trần vẫn điềm nhiên, không dám cự một tiếng.
          Tính của Trần cũng hào hoa, bằng hữu nhiều, nên ở nhà thường có yến tiệc. Trần chiều khách, mời kỹ nữ xuống ca, Liễu thị trong phòng mượn điều này, điều nọ, quát tháo om sòm. Trần có lúc hốt hoảng, cầm gậy nơi tay bỏ rơi mất gậy. Bạn thân của Trần là Tô-Đông-Pha, nhân đó làm một bài thơ đùa cợt: “Thủy tự Long Khâu (pháp danh của Quy’ Thường) cư sĩ hiền, Đàm không thuyết pháp dạ bất niên. Hốt văn Hà Đông sư tử hống, Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên” (Ai hiền bằng thầy đồ Long Khâu, Đọc kinh thuyết pháp suốt đêm thâu. Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống, Kinh hoàng bỏ gậy rớt nơi đâu)
          “Sư tử Hà Đông” chỉ người đàn bà ghen dữ tợn.
          Tô Đông Pha dùng hai tiếng “Hà Đông” là mượn câu thơ của Đỗ Phủ: “Hà Đông nữ nhi thân tính Liễu” (cô gái Hà Đông người họ Liễu) vì vợ của Quy’ Thường cũng họ Liễu. Và tiếng “Sư Tử” do lời trong kinh Phật: Sư tử là chúa loài thú, mỗi khi rống lên thì các thú vật đều khiếp đảm để vừa chỉ tính ghen dữ của Liễu thị, vừa chỉ Quy’ Thường là một tín đồ đạo Phật.
          Tú Xương trong bài thơ vịnh cảnh lấy lẽ, có câu: “Hầu hạ đã cam phần cát lũy, Nhặt khoan còn ỏi tiếng Hà Đông”.
          Các nữ độc giả quí mến (kể cả nhà tôi): Từ thời có con người hiện diện trên cái hành tinh này. Sức mạnh kích thích lớn lao nhất trong từng tinh vân, mạch máu của bất cứ một tên đàn ông nào là luôn luôn muốn “lấy le” với đàn bà, muốn mình vĩ đại trước đôi mắt của mỹ nhân. Những tên “thợ săn” ngày nay không mang về nhà những bộ lông thú nhưng hắn ta biểu lộ khát vọng của hắn bằng cách sắm cho vợ những bộ áo quần đẹp, những kim cương hột xoàn bóng lộn, xe hơi kiểu mới, dàn máy karaoke tối tân và vật chất đầy đủ. Trước và sau họ đều có một khát vọng giống nhau. Chỉ có một điều duy nhất thay đổi là: phương cách để làm hài lòng đàn bà. Bạn thử để y’ từ những tên trọc phú tích lũy một số tài sản khổng lồ, quyền lực, danh tiếng lẫy lừng cũng đều có một mục đích chính là để chinh phục mỹ nhân. Nếu tách rời đàn bà ra khỏi cuộc đời của họ thì khối tài sản của họ không còn có y’ nghĩa, sẽ trở nên vô dụng. Chính từ ly’ do này vai trò của đàn bà trong thế giới của đàn ông có một giá trị rất lớn lao. Xây dựng hay phá vỡ sự nghiệp của chồng bằng cách bạ đâu ghen đó, thì chỉ đem lại đổ vỡ, tan nát gia đình mà thôi. Người vợ khôn ngoan phải biết tìm hiểu bản chất, sở thích của chồng muốn gì, thì không bao giờ còn sợ những người đàn bà khác giựt chồng của mình.
          Vì vậy, trong cuộc sống lứa đôi, nếu bạn trải qua những cay đắng, tủi hờn, uất hận vì gặp phải một người chồng không ra gì (như tôi), hoặc một người vợ hung dữ, trả treo..lúc nào cũng muốn ăn thua đủ với chồng, thì xin bạn hãy suy nghĩ, tìm hiểu nguyên nhân do đâu. Xin bạn đọc câu chuyện sau đây để suy ngẫm:
          Hạnh phúc không khó tìm: Có đối diện với những thử thách khó khăn, bạn mới thấy cuộc đời mình là một công trình lớn lao, một sự trưởng thành, và bản thân bạn hoàn toàn có khả năng đương đầu với số phận nghiệt ngã.
          Lúc Đông và tôi mới cưới nhau, mọi cuộc thật êm đềm nhưng tôi vẫn cảm thấy không yên tâm. Tôi đã từng chứng kiến nhiều cuộc hôn nhân chỉ toàn là những bất đồng, những thảm kịch. Thế là tôi dồn hết khả năng, sức lực để tìm cách vun đắp cho cuộc hôn nhân của mình.
          Nhưng tận đáy lòng mình, tôi vẫn cứ cảm thấy lo, biết đâu một ngày nào đó, cuộc hôn nhân của chúng tôi không còn được êm đẹp? Tôi đem mối lo ấy đến hỏi bạn tôi, Mai. Cô ấy vui vẻ đáp: “Cậu cứ tận hưởng những gì đang tốt đẹp đi. Còn nếu cậu muốn có một thứ gì đó để giết thời gian, thì cứ việc lo lắng!”. Tôi chưa bao giờ học về sự lo lắng cả! Từ nhỏ đến lớn, tôi luôn học được cách sống thế nào cho hạnh phúc. Ấy vậy mà tôi cũng như các bạn, đối với bất cứ chuyện gì, thái độ trước tiên của chúng ta cũng là lo lắng.
          Thế thì tại sao chúng ta không biến những nỗi lo lắng ấy trở thành động cơ thúc đẩy chính mình?
          Thực tế là cuộc sống có những vấn đề khiến chúng ta phải cố gắng, cứ thế, chúng ta luôn sống trong trạng thái không hài lòng về mọi chuyện. Chúng ta thường hướng sự chú y’ của mình vào cái sai nhiều hơn là cái đúng, quan tâm đến những gì chưa hoàn hảo hơn là những điều vẹn toàn và không tự tin. Thay vì biết ơn về những may mắn, thành công hay những thế mạnh của mình, chúng ta lại chỉ toàn để y’ đến những nhược điểm, những sai lầm của bản thân.
          Vậy từ nay trở đi, chúng ta hãy làm một cuộc cách mạng về bản thân, bằng cách biến cảm giác không hài lòng đó thành động lực vươn lên trong cuộc sống. Từ nay, đừng mất quá nhiều thời gian để nghĩ về những điều không vui nữa.
          Ở đây, tôi muốn nói rằng, hãy biết nhìn cuộc đời ở những khía cạnh tốt đẹp mà chúng ta có thể trải nghiệm để sống thật hạnh phúc, chứ không nên lúc nào cũng chỉ thấy toàn một màu xám xịt của khó khăn, phiền muộn. Đây là nội dung lá thư một người bạn đã gửi cho tôi: “Chị biết không, tôi yêu cuộc sống hiện tại của mình đến mức tôi chỉ lo mình không có đủ thời gian để dành cho công việc, chăm sóc cho chồng và hai đứa con bé bỏng của tôi. Sự thật là thế đó! Tôi luôn luôn cố gắng tận hưởng những niềm vui mà một người làm mẹ có thể có được”.
          Khi chúng ta tìm cho mình động lực để sống hạnh phúc, không có nghĩa là chúng ta cố tình xem nhẹ những khó khăn của chính mình. Cuộc sống là tổng hòa của những mặt tốt-xấu, tích cực-tiêu cực...Chúng ta phải biết trân trọng và cảm nhận nó. Sẽ không ích gì khi chúng ta làm cho cuộc sống của mình tệ hơn bằng cách chối từ sự hiện diện của những mặt tốt hoặc xem cuộc sống của mình là một thảm kịch. Mối quan hệ giữa tôi và chồng tôi là một mối quan hệ hoàn hảo ư?. Dĩ nhiên là không. Tôi có thể kể ra một danh sách dài những lỗi lầm mà mỗi chúng tôi đã làm tổn thương lẫn nhau. Thật là khó khăn, nhưng sau cùng tôi đã hiểu được rằng: một mối quan hệ tốt đẹp không cứ phải là cố gắng làm cho mọi thứ được ổn thỏa, vừa vặn đâu vào đấy mà phải biết chấp nhận và sống với cả những điều chưa được trọn vẹn như y’ muốn của mình. Sống hết lòng với những gì mình đang có bao giờ cũng khiến bạn cảm thấy mãn nguyện hơn so với việc cứ mãi ray rứt vì những gì mình chưa có.
          Khi chúng ta tự tìm cách thúc đẩy mình hướng đến một cuộc đời hạnh phúc, cuộc sống sẽ trở nên giản dị hơn. Mọi thứ trở nên dễ dàng và trôi chảy hơn. Chúng ta không còn phải tối mày tối mặt lo giải quyết trăm ngàn thứ trong đời thường. Thay vào đó, chúng ta dành thời gian để cảm nhận, thưởng thức những gì mà cuộc sống mang lại cho chúng ta. Gần đây, tôi có nói chuyện với một cô gái trẻ vừa mới kết hôn. Cô ấy đang gặp một số vấn đề trong cuộc sống gia đình. Gia đình bên chồng dường như không mấy quan tâm đến cô, và đôi lúc, cô cảm thấy buồn về những lời nói vô tâm của họ. Tôi nghĩ có lẽ cô ấy đang cố gắng tìm cách lấy lòng tất cả mọi người bên nhà chồng; và nếu như thế, cô ấy sẽ mất rất nhiều thời gian và công sức mà chưa chắc đã cảm thấy hạnh phúc.
          Nhưng trái với suy đoán của tôi, cô ấy đáp: “Nếu cháu muốn sống hạnh phúc, điều tốt nhất là cháu tự nguyện trở thành một thành viên tích cực trong gia đình chồng, thay vì cứ cố tìm cách làm thay đổi cái nhìn của mọi người về mình”.
          Cô gái trẻ ấy đã có cách ứng xử rất đúng trong trường hợp này. Khi hòa nhập tích cực vào cuộc sống của gia đình chồng, chắc chắn cô sẽ nhận được sự quan tâm nhiều hơn từ phía họ..
          Như vậy, ngay từ bây giờ, bạn hãy tự hỏi mình xem điều gì làm bạn không hài lòng trong cuộc sống? Sau đó, bạn hãy biến nó thành động lực thúc đẩy bạn sống hạnh phúc hơn.
          Bên cạnh, bạn cũng cần tìm cách cảm nhận những khía cạnh phong phú của cuộc đời hơn là lúc nào cũng cố sắp đặt mọi thứ theo y’ riêng của mình. Thực hiện được cả hai điều ấy cùng một lúc là rất khó. Tuy nhiên, khi đã rèn luyện cho mình một cuộc sống như vậy, bạn sẽ không còn lo sợ bị rơi vào trạng thái nản lòng nhụt chí trước khó khăn.
          Những điều sau đây đáng để cho chúng ta suy ngẫm:

          *Ấm áp không phải là khi ngồi bên bếp lửa, mà là khi được ở bên cạnh người mà bạn thương yêu.
          *Ấm áp không phải là khi mặc một lúc hai ba áo, mà là khi bạn đứng trước gió lạnh, từ phía sau đến có ai đó khoác lên bạn một tấm áo.
          *Ấm áp không biểu lộ qua lời nói “ấm quá”,
          *Ấm áp không phải là khi bạn xoa hai tay vào nhau, mà là khi tay ai kia khẽ nắm lấy bàn tay bạn.
          *Ấm áp không phải là khi bạn được đội chiếc mũ len, mà là khi đầu bạn được dựa vào một bờ vai tin cậy.


          Tự đáy lòng mình, tôi thành tâm cầu chúc tất cả luôn được ấm áp trong tình yêu.
          Trong đời sống vợ chồng, nếu người vợ hoặc chồng đối xử với bạn một cách tệ bạc- như vãi vã, cằn nhằn, phàn nàn, chỉ trích, rượu chè be bét, hút xách, hoang phí, đi sớm về trễ....thì thường thường những đối tượng này bất mãn về đời sống gia đình. Giữa vợ chồng cũng như trên phương diện giao tế với người khác, họ sẽ đối xử tùy theo thái độ của bạn đối với họ. Đó là qui luật của con người. Có những đấng phu quân coi vợ con không ra cái thống chế gì hết, nhưng đối với bạn bè thì rất niềm nỡ, nhã nhặn, lịch sự, ân cần...thì phải ngồi xuống và suy nghĩ ly’ do tại sao. Đừng nên giữ hận thù trong lòng. Con người có thể chịu đựng được sự sỉ nhục và tổn thương hơn là sự thờ ơ, lãnh đạm. Chính sự thờ ơ, lãnh đạm sẽ đưa con thuyền hạnh phúc va vào đá ngầm hơn bất cứ nguyên do nào khác. Vì vậy, chúng ta cần phải học hỏi về:

          Nghệ thuật tha thứ:
          Cuộc sống thường nhật có bao điều làm bạn bực mình: tiếng ồn, thất bại, lo sợ, bệnh tật, cơm áo gạo tiền, thời tiết, nỗi buồn, công việc, tình yêu gia đình, giao tiếp, xóm giềng, học hành, giao thông, thị trường, dịch bệnh...Bạn phải chịu đựng nhiều thứ. Để không cằn nhằn người khác và có thể chịu đựng sự khó tính của người khác, quả thật không dễ chút nào. Vậy làm sao có thể tự giải thoát mình? Các bậc cha mẹ thường hay chỉ trích con cái. Các chủ nhân luôn trách mắng và nhìn công nhân của mình bằng con mắt xoi mói. Vợ chồng cũng thiếu tôn trọng nhau, ưa áp đặt và nghi ngờ nhau. Các mối quan hệ khác cũng gặp nhiều phức tạp. Họ làm mất lòng nhau bằng nhiều cách. Thậm chí có những vết thương lòng vẫn nhức nhối sau nhiều năm. Giữa chúng ta có nhiều dạng ác cảm, làm những điều ác cho nhau, nói xấu nhau đủ điều, thậm chí là trả thù nhau. Có người còn biết nghĩ lại, hối hận, nhưng có người không hề tỏ ra hối tiếc vì lương tâm đã chai lì.
          Cách tốt nhất để thanh thản tâm hồn là luôn chống lại y’ nghĩ trả thù, luôn tâm niệm ba chữ “tôi tha thứ”.
          Đó là biện pháp tuyệt vời có thể giúp bạn chịu đựng những gì làm bạn phiền lòng. Tha thứ có giá trị tuyệt đối trong cuộc sống.
          Tha thứ không có nghĩa là đầu hàng, chịu thua, chịu lép vế, mà là “bỏ qua”. Khi tha thứ, bạn không còn lệ thuộc vào người đã làm bạn đau lòng. Tha thứ kéo bạn ra khỏi sự giận dữ của người khác và cho phép bạn sống thanh thản.
          Nếu sự tha thứ là điều tốt như vậy mà tại sao vẫn có nhiều người tích lũy cơn giận trong lòng? Đó là muốn trả thù để chứng tỏ mình không yếu thế. Chẳng qua là thua kém người khác nên mới hùng hổ lên cơn tức giận. Thế nhưng, chính sự tha thứ mới tạo nên sức mạnh thực sự, kiểu “mưa dầm thấm sâu”. Khi tha thứ, người ta cân nhắc kỹ lưỡng. Dù cho người kia có xứng đáng được tha thứ hay không thì vẫn không thành vấn đề, mà chỉ vì mình xứng đáng tự do. Đây còn là động thái cao thượng của một công tử. Chịu đựng để có thể tha thứ. Một ly’ do khác mà chúng ta có thể từ chối tha thứ là cảm thấy bạc nhược hoặc qui phục. Có người cho rằng tha thứ là nhận mình sai và người kia đúng. Nhưng tha thứ không là miễn trừ cơn giận đổ lên người khác mà là “rút dao ra khỏi vết thương”. Tha thứ là “bỏ qua” các lỗi lầm mà người khác đã làm cho mình, nhưng phải “bỏ qua” với cả lòng tự trọng và tôn trọng- kèm theo lòng yêu thương chân thành. Nhưng cũng có khi người khác không hề biết nỗi đau lòng của bạn, mặc cho bạn phải âm thầm chịu đựng. Nếu biết tha thứ, bạn sẽ không phải khổ sở nữa. Tha thứ vẫn hữu ích cho các trường hợp như thất tình, bị hiểu lầm, bị ghen ghét...Tha thứ tốt cho cả thể ly’ lẫn tinh thần. Tiến sĩ Reddford williams đã viết: “Cứ nhớ mãi về nỗi đau quá khứ thì sức khỏe sẽ suy yếu. Đơn giản như nhớ mãi một chuyện bực mình thì bạn sẽ căng thẳng và tim bị ảnh hưởng”. Về tình yêu tan vỡ, đại-văn-hào R. Tagore nói: “Khôn ngoan gì mà đau khổ mãi vì một người đã mang trái tim họ đi xa!”. Các y’ nghĩa tiêu cực cũng có liên quan tới cao-huyết-áp, động mạch vành và dễ bị các chứng bệnh khác. Sống cởi mở và thanh thản có thể làm tăng hệ miễn nhiễm. Chỉ cần một giây để xúc phạm người khác, có khi gây tổn thương trầm trọng, nhưng sự tha thứ lại cần nhiều thời gian. Mới đầu, bạn cảm thấy các tình cảm tiêu cực như tức giận, buồn bã, và xấu hổ. Sau đó bạn biến chúng thành tích cực hoặc làm giảm dần “mức căng”. Đặc biệt là học cách nhìn người khác bằng ánh mắt khác trong sáng hơn. Người hại mình sẽ trở thành yếu thế, bị động, như ngồi trên đống lửa. Người Việt Nam ta có câu: “Chưa đánh người thì mặt đỏ như vang, đánh được người rồi thì mặt vàng như nghệ”, cổ nhân cũng đã minh định: “Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khấu” (ngậm máu phun người, trước tiên bẩn miệng mình). Chí ly’ lắm thay!.
          Có người lại không thể đạt tới chặng cuối của sự tha thứ. Đó là những người bị tổn thương từ thuở ấu thơ, bị sỉ nhục bởi chính những người mà họ yêu thương và tin tưởng- như bị lạm dụng tình dục, bị bạo hành thể ly’ hoặc tâm ly’, bị cưỡng dâm, bị khinh miệt....Dù không có sự tha thứ trọn vẹn, họ vẫn có lợi nhờ biết tha thứ một phần. Nếu cảm thấy khó tha thứ, hoặc muốn tha thứ mà không biết bắt đầu từ đâu, xin bạn hãy thử áp dụng 7 cách này: vi mô: Luyện tập tha thứ những lỗi nhỏ của người xa lạ-chẳng hạn bị tính gian mất vài đồng, bị “chơi gác” một chút...dần dần, bạn sẽ có thể tha thứ những lỗi lớn hơn một cách dễ dàng hơn. Giải thoát: Tự vượt qua mỗi thất vọng và kềm chế cơn giận đối với người thân và bạn bè, hoặc những người mà mình tin cẩn. Nhờ vậy, bạn thấy “mạnh mẽ” hơn và rồi bạn cũng sẽ được nhận biết. Bạn vẫn có thể để tình cảm của mình tự do mà không hề giận dữ, không dùng ngôn ngữ hoặc “ngữ điệu” khó nghe, và bạn sẽ không phải hối tiếc về sau. Phương pháp “hả giận” cũng có hiệu quả-như đấm vào gối bông, bỏ đi chỗ khác, nhưng tuyệt đối không đập phá đồ đạc hoặc “đá mèo, khoèo rế”. Nếu không tức giận tột độ, bạn hãy đọc sách báo. Đừng “giận cá chém thớt” như phóng xe bạt mạng, chửi “đổng” (chửi cho hàng xóm nghe, cho trời đất nghe)...Đó là cách biểu lộ tiêu cực và “hạ cấp”, nên tránh. Chứng minh: Nếu thực sự cần thiết, bạn hãy viết thư hoặc gửi e-mail (nếu ở xa), hoặc gặp trực tiếp để tìm hiểu sự thật bằng cách nói ôn hòa và tích cực xây dựng, chứ không nguyền rủa hoặc chỉ trích “đối phương”. Chẳng hạn “tôi cảm thấy”..hoặc “tôi không hiểu...”. Hãy diễn ta sự ảnh hưởng đối với bạn vì cách xử sự của người kia, đồng thời bày tỏ thiện chí “đàm phán” để có thể giải quyết vấn đề ổn thỏa, gọi là “dĩ hòa vi quy’”. Mặc nhiên: Đối với tội loạn luân, cưỡng dâm và các tội phạm khác, nạn nhân có thể tránh né tha thứ trực tiếp, vì việc gặp nhau để “đối chất” sẽ...không an toàn!. Thật vậy, không cần “đối diện”. Đó là sự tha thứ mặc nhiên. Người được tha thứ có thể không nhận ra lỗi và không bao giờ biết mình được tha thứ. Ví như người say rượu không biết mình nói gì hoặc nghe gì. Điều quan trọng là bạn đừng để cho cơn giận dữ lộng hành, vì không ai ngu dại đến nỗi căng buồm ra khơi khi trờ đang giông tố!. Lắng nghe: Nếu đối diện với người làm tổn thương mình, bạn hãy lắng nghe và chỉ nói về những gì bạn đã nghe. Làm như vậy, bạn sẽ bắt đầu có cách nhìn khác và dễ dàng tha thứ hơn. Im lặng và lắng nghe, đó là cửa mở rộng đưa bạn thanh thản bước vào vùng bình yên của sự tha thứ tuyệt vời. Suy tư: “Nhân vô thập toàn”. Con người luôn bất túc và bất trác. Hãy đợi đến lúc lòng mình lắng xuống, chọn khung cảnh yên tĩnh và suy tư. Chắc chắn bạn sẽ đủ sáng suốt để có thể quyết định đúng đắn, không gì tốt hơn là yêu thương và tha thứ. Suy tư là cách hữu hiệu để nhận biết chính mình và thông cảm với những người xung quanh. Đừng bao giờ quên “tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính”. Hướng thiện: Nhờ hướng tới Chân-Thiện-Mỹ và tương lai, bạn có thể sớm đạt tới “đích” tha thứ. Hai chị em tị nạnh nhau về việc chăm sóc người mẹ bệnh tật. Cô ở gần than phiền về gánh ngặng vất vả và hàng ngày phải lo cơm nước và thuốc thang cho mẹ, đích thân làm đủ thứ. Cô ở xa chỉ gửi tiền về, lâu lâu mới đến thăm được. Cô ở gần thì bực tức và luôn gắt gỏng. Cô ở xa thì chỉ biết im lặng và bỏ qua tất cả để giữ tình chị em. Một câu nhịn chín câu lành. Thời gian là bằng chứng hùng hồn nhất.
          Sự hướng thiện sẽ dẫn tới sự tha thứ, và sự tha thứ dẫn tới sự bình an tâm hồn. Sidney Simon nói: “Sự tha thứ làm cho bạn cười nhiều, có thể cảm nhận sâu xa, và trở nên liên kết với người khác nhiều hơn”.
          Chính sự tha thứ là thần dược mau chữa lành vết thương lòng. Vả lại, chính lúc mình tha thứ là lúc mình được thứ tha.
          Tuy nhiên, tưởng cũng nên xác định rằng “tha thứ không có nghĩa là quên”. Có lẽ hơi...”khó nghe chăng?” Không đâu, chúng ta không thể quên nỗi đau hoặc điều thiệt hại, và cũng không nên quên, vì bị lừa lần một thì không do lỗi mình, nhưng bị lừa lần hai thì do lỗi mình. Chính những “kinh nghiệm đau lòng” đó dạy chúng ta đừng bị lừa thêm lần nữa- còn được gọi là “kinh nghiệm xương máu”. Ở một góc độ nào đó, giống như “một sự bất tín, vạn sự chẳng tin” là vậy. Con chim bị bắn hụt một lần thì nó sẽ khôn hơn. Không để bị lừa lần nữ và không lừa ai, đó là những người khôn ngoan. Tha thứ là việc khó nhưng vẫn khả thi, càng khó thực hiện thì việc đó càng có giá trị cao. Bị khiêu khích mà không giận thì hoặc là kẻ tiểu nhân, hoặc là người quân tử và cao thượng. Sự tha thứ luôn luôn cần thiết, vì có tha thứ thì mới có thể tái lập hòa bình và bình thường hóa quan hệ ở mọi cấp độ khác nhau. Đôi khi rất cần một lời xin lỗi! Xin mượn lời Kinh Thánh để kết: “Không chỉ tha thứ bảy lần mà tha bảy mươi lần bảy”, nghĩa là tha thứ mãi mãi. Không tha thứ, đó là người ích kỷ! Xin chúc mừng nếu bạn là người vị tha. Nếu chưa, cố gắng thêm thì rồi bạn sẽ thành công- và chắc hẳn được mọi người nể trọng.
          Cuộc đời ngắn ngủi lắm bạn. Cái xã hội loài người mà chúng ta chung đụng hàng ngày đã gây cho ta không biết bao nhiều điều bực mình. Vì ở đâu có con người ở đó đều có sự phiền muộn. Hòa thượng Thích thanh Từ có một bài giảng rất tuyệt vời, xin gửi đến hầu bạn để tất cả chúng ta đọc và suy ngẫm:

          Một chữ xả:
          Nếu cục than bỏ trong tay, trong da, trong thịt thì sao? Nóng, khó chịu. Vậy mà lòng mình chứa một trăm cục than thì người này khổ nhiều ít?. Khổ thứ nhất là khô héo vì ngủ không yên, ăn không ngon. Giận quá làm sao ăn ngon, ngủ yên được. Khổ thứ hai là giận làm cho mình dễ xấu. Quí vị thấy mỗi lần nổi giận lên gương mặt mình thế nào? Nổi giận lên thì con mắt đỏ ngầu, mặt đổi màu sắc, không còn tốt đẹp nữa. Cả trăm cái giận ở trong lòng thì nó đốt riết mình khô héo, xấu xa. Như vậy ôm ấp cái giận mấy chục năm là khôn ngoan hay thiếu khôn ngoan?
          Bởi vậy nên người biết tu ai nói gì trái y’, mình giận chút rồi bỏ đi, xả đi. Giận làm chi, ngu! Ôm cái giận là ngu chớ không phải khôn, tội gì ôm cho khổ. Trong nhà Phật có câu: “Tăng hận bất cách túc” (nghĩa là: Tăng (người tu) giận không quá một đêm). Chúng ta là phàm tăng nên tham sân si cũng còn, vì vậy gặp việc trái y’ cũng giận. Nhưng giận chút thôi rồi bỏ, chứ không nên chấp chứa. Người thế gian thường thích chứa, chứa năm này qua năm nọ. Họ tưởng như vậy là hay, là khôn mà không ngờ đó là tự chuốc họa vào mình, tự đeo khổ cho mình chớ không có lợi gì hết. Vì vậy nên Phật dạy phải XẢ hết những giận hờn. Chứa chấp vừa bị khổ trong hiện tại, và còn khổ cả vị lai nữa.
          Trong kinh Phật dạy, người khi sắp bỏ thân này qua đời khác thì nghiệp thương và nghiệp ghét sẽ đi theo. Bởi vì thương ai thì ta nhớ người đó, ghét ai cũng nhớ kẻ đó. Như chúng ta ngồi ôn lại trong lòng, thì nhớ những người mình thương và những người mình ghét nhiều nhất phải không? Ghét không mất, thương cũng không mất. Vì vậy càng chứa sâu thì khi nhắm mắt cái nghiệp đó dẫn mình đi đến chỗ thương hoặc chỗ ghét.
          Do đó khi chúng ta thọ thân sau, nếu ôm ấp nghiệp ghét nhiều quá thì đế những gia đình gặp toàn chuyện buồn phiền, hờn giận, không vui. Có bao giờ chúng ta muốn gặp những người mình ghét không? Không muốn. Ai cũng muốn gặp người mình thương. Nhưng trong lòng thù oán nhiều quá thì nó sẽ dẫn mình gặp lại những người thù oán. Nên hiện tại khổ mà vị lai cũng khổ luôn. Điều này rất thiết yếu.
          Chúng ta phải khéo đừng nuôi dưỡng oán thù trong lòng, nên buông bỏ hết. Cái gì qua rồi không chứa chấp nữa. Hơn thua, phải quấy, chuyện đó không có gì quan trọng. Quan trọng ở chỗ làm sao cuộc sống mình bình an, thanh thản, tươi vui. Đó mới là điều đáng lưu tâm. Chúng ta sống muốn hạnh phúc, muốn được an lạc thì nên giữ hay nên xả? NÊN XẢ. ..Vì vậy tôi nói tu muốn cho hết khổ thì phải xả, đừng chứa chấp.Đó là điều thứ hai.
          Điều thứ ba, chúng ta đừng cố chấp y’ kiến mình là đúng, y’ kiến người khác là sai. Bởi vì ở thế gian này không có gì là đúng cố định mà không có gì là sai cố định. Chúng ta mở miệng nói với ai cũng “tôi nghĩ thế này là đúng”. Nếu nói tôi nghĩ như vậy là đúng, người thứ hai nói tôi nghĩ thế khác mới đúng, thì hai cái đúng nó đụng nhau. Mình đúng theo cái nghĩ của mình, người khác đúng theo cái nghĩ của họ. Ai cũng đúng hết thì cãi lộn hay huề?. Thế gian không ai chịu thua ai, mình đúng thì người khác sai, mà người khác đúng thì mình sai. Cho nên khi người ta nghĩ khác với mình mà họ cho rằng họ đúng thì mình bực lên liền, và người kia cũng nổi tức vậy. Hai cái nổi tức sẽ đi đến khẩu chiến. Khẩu chiến không xong thì tới thân chiến.
          Như vậy chỉ một chữ XẢ mà chúng ta được an ổn vui tươi, cần gì phải nhiều. Một chữ mà biết tu là cả cuộc đời sống thoải mái, an vui. Ngược lại quí vị sẽ thấy mặt mày nhăn nhó hoài, bất mãn cái này, bất mãn cái nọ, bất mãn con cái, bất mãn vợ chồng, bất mãn xã hội....Mấy chục năm cứ nhăn nhó hoài, uổng một cuộc đời. Cho nên mình phải vui tươi xả bỏ, có mấy mươi năm ngắn ngủi, sống làm sao cho thảnh thơi, tạo phước lành để khi nhắm mắt được đến cõi lành, ở đó mà buồn giận làm chi cho khổ.
          Vậy mong quí vị nghe hiểu, ứng dụng tu để tất cả chúng ta sống trên thế gian này lúc nào cũng tươi cười, không còn buồn bực. Đến lúc nhắm mắt ra đi chúng ta cũng vui luôn. Đó là kết quả tốt đẹp của người Phật tử khéo tu.
          Trước khi mời bạn đọc tiếp, tôi có bài thuốc này rất hay, xin gửi đến cho bạn để tùy nghi xử dụng:

          Thức uống phép lạ:
          cà-rốt, củ cải đường và táo (carrot, beet root and apple). Thức uống phép lạ này đã được lưu truyền từ lâu rồi. Chính ông Seto, một nhân vật nổi tiếng đã thề như vậy. Ông muốn phổ biến để lưu y’ những người mắc bệnh ung thư. Đây là thức uống có thể ngăn cản các tế bào xấu thành hình trong cơ thể bạn hoặc sẽ giảm độ tăng trưởng của chúng. Ông Seto đã bị bệnh ung thư phổi. Ông đã được một người nổi tiếng về cây thuốc khuyên uống thức uống này. Uống chuyên cần trong ba tháng và bây giờ sức khỏe của ông đã bình phục, và ông lại sẵn sàng làm một chuyến du lịc. Nhờ thức uống này đấy!. Bạn có thử cũng chẳng hại gì.
          Đây giống như một thức uống phép lạ! Thật đơn giản. Bạn chỉ cần một củ cải đường (one beet root), một củ cà-rốt, và một quả táo làm chung với nhau để thành nước cốt!.
          Rửa sạch các thứ trên, để nguyên vỏ mà cắt ra từng miếng, đưa vào dụng cụ ép và uống nước cốt ngay. Có thể cho thêm chút nước chanh cho có hương vị hấp dẫn hơn.
          Thức uống phép lạ này sẽ có tác dụng đối với những chứng sau:
          *Ngăn chặn các tế bào ung thư phát triển hoặc tăng trưởng.
          *Ngăn ngừa các chứng bệnh về gan, thận, tuyến tụy và có thể chữa ung nhọt nữa.
          *Tăng sức mạnh cho phổi, ngăn ngừa cơn đau tim và cao huyết áp.
          *Tăng cường hệ miễn dịch.
          *Tốt cho mắt, loại trừ chứng mắt đỏ và mỏi mắt hoặc khô mắt.
          *Giúp loại trừ đau nhức do tập luyện thân thể, đau cơ bắp.
          *Giải độc, trợ giúp chuyển động của ruột, loại trừ chứng táo bón. Do đó, sẽ làm cho da được khỏe hơn và có nước sáng bóng hơn và giải quyết vấn đề mụn trứng cá.
          *Cải thiện hơi thở không tốt do khó tiêu, nhiễm trùng cổ họng.
          *Làm bớt đau nhức vào thời kỳ kinh nguyệt.
          *Giúp người dị ứng mũi và cổ họng khỏi bị dị ứng tấn công.
          Tuyệt đối không có tác dụng phụ (no side effect). Có sức bổ dưỡng cao và hấp thụ dễ dàng! Rất hiệu quả nếu bạn cần giảm cân. Bạn sẽ thấy là hệ miễn dịch của bạn sẽ được cải thiện sau hai tuần uống đều. Xin lưu y’ là uống trực tiếp từ dụng cụ ép nước cốt để đạt hiệu quả tốt nhất.
          Khi nào uống: Hãy uống vào buổi sáng, lúc bao tử còn trống! Sau một giờ, bạn có thể ăn điểm tâm. Để có kết quả nhanh, hãy uống một ngày hai lần, vào buổi sáng và trước 5 giờ chiều.
          Bạn sẽ không bao giờ phải hối tiếc! Không tốn tiền nhiều đâu!. Xin chỉ lại cho gia đình và bạn bè. Nếu làm được như vậy, bạn sẽ để đức lại cho vợ rất nhiều. Chúc bạn thành công để bảo toàn sức khỏe và sống cho đến khi nào nhìn thấy bọn Rợ Hán gặp quả báo để cho hai dân tộc hiền hòa: Trung Hoa và Việt Nam thoát khỏi sự cai trị tàn độc của thứ chủ nghĩa cuồng ngông do một nhóm lãnh đạo khốn kiếp nhất trong xã hội loài người cai trị.
          Tháng qua, tôi có đọc một bài tường trình kể lại buổi họp báo của hai tác giả Peter Navarro, Greg Autry và những diễn giả có thẩm quyền cũng như kiến thức về Trung Quốc thay phiên nhau vẻ nên một bức tranh, cận cảnh, rõ ràng, về hiểm họa mà chính sách của quốc gia này đang mang đến cho thế giới.
          Trong phần trình bày linh động và cặn kẽ, kéo dài suốt gần một tiếng đồng hồ, tiến sĩ Peter Navarro khiến cử tọa lặng người đi, và bị thuyết phục, rằng nếu tình trạng hiện tại cứ tiếp diễn, thì nhân loại, hay trong một phạm vi hẹp hơn, người dân và đất nước Hoa Kỳ, sẽ “chết dưới tay Trung Quốc”.
          Tại sao? Câu trả lời đầy đủ nhất dĩ nhiên nằm trong tác phẩm “Death by China” hơn 250 trang, kết quả của hơn hai năm nghiên cứu, phỏng vấn và những chuyến viếng thăm nhiều miền khác nhau trên đất nước Trung Quốc của cả hai tác giả, và phụ tá của họ.
          Với 16 chương, tác phẩm “Chết Dưới Tay Trung Quốc” được chia làm hai phần chính, gồm lập luận cũng như dẫn chứng về hiểm họa Trung Quốc, và lời kêu gọi một số hành động mà cả chính quyền, giới đầu tư lẫn người tiêu thụ Hoa Kỳ cần phải làm, và cần làm ngay, để có thể tránh được hiểm họa này, nếu không nhân loại sẽ dần dà bị chết hết dưới tay Trung Quốc, vì:
          *Thứ nhất, người tiêu thụ sẽ bị hàng hóa độc hại của Trung Quốc giết dần giết mòn.
          *Thứ hai, chính sách cạnh tranh bất chính của nhà cầm quyền Trung Quốc tạo nên một loạt những “vũ khí” được sử dụng một cách có hệ thống để tiêu diệt nền kinh tế của các quốc gia khác, nhất là nền kinh tế Hoa Kỳ.
          *Thứ ba, biện pháp cho gián điệp vào nước Mỹ, ăn cắp bí mật quốc phòng, cộng với việc ngày càng tăng ngân quỹ quốc phòng, sẽ khiến Trung Quốc chỉ trong vài năm nữa có thể đuổi kịp rồi vượt qua Hoa Kỳ về sức mạnh quân sự.
          *Thứ tư, Chính sách tìm đủ mọi cách để chế tạo ra những hàng hóa với giá thành rẻ nhất, Trung quốc sẽ hủy hoại môi sinh tàn tệ và nhanh chóng đến mức khó có thể nào cứu gỡ được.
          Dẫn chứng sự độc hại và nguy hiểm của hàng hóa Trung quốc, như melamine trong sữa, trong thức ăn cho chó và mèo (pet food), quần áo cho trẻ em dễ bốc cháy, thuốc asperine chứa độc tố, thuốc Lipitor và Viagra giả, chất arsenic trong nước ngọt, chất chì trong các loại trà, than giả, gạo giả, trứng giả, miến bằng ny-lon, vi cá giả..., nôi em bé chỉ dùng vài lần là gãy thành khiến nhiều em bị ngã gãy cổ, trẹo sườn, điện thoại di động bị phát nổ, “dry wall” chứa độc tố, Sofar bị xịt đầy chất “dimethylfumarate” gây bịnh ngứa ngoài da kinh niên, áo quần, giày, vớ..., những món ăn chứa đầy chì, vòng đeo cổ và đồ chơi gây khó thở, và còn rất nhiều ví dụ khác. Những dẫn chứng về sự cạnh tranh bất chính cũng nhiều không kém.
          Trước tiên, Trung Quốc đập tan những qui ước về cả tự do mậu dịch lẫn thương mại bằng chính sách: “Vừa con buôn thủ lợi, vừa bảo vệ nền công nghệ nội địa” bằng cách đổ tiền của nhà nước vào từng ngành công nghệ mà họ muốn cạnh tranh với Hoa Kỳ, và cướp đi công việc của người dân Mỹ. Những võ khí được sử dụng có hệ thống để giết hại nền kinh tế của Hoa Kỳ.
          *Hổ trợ cho các hàng xuất cảng vi phạm luật lệ của WTO (Tổ Chức Thương Mại Thế Giới) mà Trung Quốc đã ky’ kết: Sản xuất hàng giả, đánh cắp kỹ thuật, hoàn toàn không quan tâm đến những cách sản xuất có hại cho môi sinh, và ngược đãi công nhân, biến họ thành lao nô.
          Điểm chánh là thao túng hối suất, khiến hàng nhập vào Trung quốc giá thành rất cao, tạo cho Hoa Kỳ một nguy cơ như trái bom nổ chậm: thâm thủng mậu dịch hàng năm lên đến gần một tỉ. Các hàng hóa du nhập vào Trung Quốc đều bị đánh cắp về kỹ thuật và phát minh. Trường hợp Google và Google China là một ví dụ điển hình. Ly’ do là luật của Trung quốc đòi hỏi các công ty vào nước họ phải chuyển bộ phận nghiên cứu và phát triển đến đó. Kể từ khi Trung quốc gia nhập WTO năm 2001, chủ trương “con buôn trục lợi” và bảo vệ công nghệ nội địa của họ đã khiến nhiều của Hoa Kỳ: như may mặc, bàn ghế, hóa chất, giấy, sắt, bánh xe, bị thu nhỏ lại còn một nửa. Riêng kỹ nghệ dệt bị triệt tiêu hơn 70%. Trong ngành Vi tính và điện tử, Trung Quốc đã lấy đi của Hoa Kỳ hơn 40% công ăn việc làm. Cũng theo họ, trong con số13.9 triệu người đang bị thất nghiệp tại Mỹ, 10 triệu việc làm được chuyển sang Trung quốc.
          Vũ khí cuối cùng rất thâm độc của Trung Quốc gọi là “xâm lăng” hay “chiếm lãnh thuộc địa” khắp nơi bằng cách lạm dụng tự do mậu dịch để giành lấy tài nguyên của các quốc gia đang phát triển. Một kịch bản quen thuộc: Một ông Trung quốc bụng phệ, mang ngân phiếu đến một quốc gia nghèo khó nào đó, và hứa sẽ cho quốc gia đó mượn một số tiền khổng lồ với tiền lời rẻ mạt để “giúp” xây cất đường sá, canh tân quân đội. Đối lại, quốc gia này chỉ cần làm hai điều rất nhỏ cho Bắc Kinh: Trao hết quyền khai thác tài nguyên, đồng thời cho phép Trung quốc được quyền bán những sản phẩm được chế tạo bởi chính những tài nguyên vừa khai thác được từ nước này cho người tiêu thụ quanh vùng. Tại sao đây lại là mánh lới quỷ quyệt? Vì những hợp đồng loại này biến quốc gia vừa ky’ kết cho Trung Quốc khai thác tài nguyên trở thành thuộc địa của họ. Cả thị trường cũng của Trung Quốc nốt.
          Xin bạn đọc đi đọc lại bài viết của hai nhà trí thức nêu trên, để hiểu hoàn cảnh của một nước Việt Nam nhỏ bé nằm cạnh một anh láng giềng hung bạo, nham hiểm, độc ác, lương lẹo, tham lam, thủ đoạn, gian manh, xảo quyệt...và một tập đoàn lãnh đạo hèn nhát, tham nhũng, ngu muội đã để cho đất nước và dân tộc Việt Nam kiêu hùng rơi vào vòng kiềm tỏa của bọn Rợ Hán mà không tốn một viên đạn. Những cảnh biểu tình chống đối và những căng thẳng trên vùng tranh chấp ở Biển Đông được chúng dàn dựng để bắt đi những thành phần yêu nước. Nhiều người võ đoán:
          Liệu có xung đột võ trang giữa Trung Quốc và Việt Nam hay không? : Liên tiếp trong vòng 10 ngày, Trung quốc đã không chỉ xâm phạm lãnh hải của Việt Nam ở miền Trung mà còn có hành động gây hấn khiêu khích. Đó là cắt cáp tàu Bình Minh 2 vào ngày 26 tháng 5 và cắt cáp tàu Viking 2 vào ngày 9 tháng 6 năm 2011 bên trong thềm lục địa 200 hải ly’ của Việt Nam. Chúng từng bước “hợp thức hóa” vùng lưỡi bò 80% diện tích Biển Đông. Chúng đã tức tốc đưa 11 tàu chiến kết hợp với lực lượng hải quân vùng đảo Hải Nam để chuẩn bị....tập trận. Trung tướng Việt cộng Nguyễn chí Vịnh lần đầu tiên đã lên tiếng một cách mạnh mẽ: “Sẵn sàng chiến đấu nếu Bắc Kinh tiếp tục vi phạm”. Thủ tướng Việt cộng Nguyễn tấn Dũng vừa ky’ sắc lệnh nghĩa vụ quân sự có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 8 năm 2011.
          Hoa Kỳ và các quốc gia Đông Nam Á cũng tỏ ra quan ngại và Hoa Kỳ đã chính thức đưa chiến hạm USS Chung Hoon về phía Tây Thái Bình Dương. Trung Cộng sẽ tránh đụng đầu với lực lượng của Hoa Kỳ và Phi-Luật-Tân, nhưng sẵn sàng đối đầu với hải quân Cộng Sản Việt Nam vì 4 ly’ do sau đây:
          *Trung Cộng đã tạo một không khí “thù nghịch” đối với Việt Nam trong lòng xã hội Trung quốc. Chúng đã tuyên truyền rằng VN và các nước Đông-Nam-Á đã cướp biển của dân Trung quốc chứ không phải là nạn nhân của bá quyền Trung quốc.
          Đây là đòn: “vừa ăn cướp vừa la làng” của chúng.
          *Thứ hai, đặc biệt là 15 ủy viên Bộ Chính Trị và thành phần lãnh đạo cốt cán của Hà Nội đã bị Trung quốc tung tiền mua chuộc và hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi của TQ khó có thể buông thả. Những phản hồi của phía VN thường thì sau 2, 3 ngày sự kiện đã xảy ra. Sau khi đã bàn thảo và nhiều khi “xin phép” trong sự chừng mực nào đó để không làm cho Bắc Kinh giận dữ.
          *Thứ ba, các sĩ quan và quân đội bị Đảng kềm chế đã không dám làm gì. Ngoài ra Hải Quân Cộng Sản Việt Nam không đủ khả năng và quá chênh lệch đối với lực lượng của TQ. Mặc dầu từ năm 2010, Cộng Sản Việt Nam đã bỏ ra 4 tỷ Mỹ kim để mua 6 tàu ngầm Kilo từ Nga, mua trực thăng, xe tăng và súng đạn. Nhưng phải đợi đến năm 2014 mới có đầy đủ những thiết bị nói trên.
          *Thứ tư, Biển Đông rất quan trọng với Trung quốc về mặt an ninh chiến lược và phát triển công nghiệp.
          Bắc Kinh sẽ ra tay và đặt Cộng Sản Việt Nam vào chỗ đã rồi khi thời cơ chín muồi. Đây là một chiến lược rất thâm độc của Bắc Kinh để làm cho CSVN mất hậu thuẫn trong quần chúng vì chính sách “hèn với giặc-ác với dân” trong nhiều năm qua. Bọn lãnh đạo Bộ Chính Trị tại Hà Nội dựa theo kinh nghiệm đã để mất Trường Sa năm 1988, Thác Bản Dốc, Ải Nam Quan, Bãi Tục Lãm và hơn 700 cây số vuông vùng biên giới năm 2000, cho thấy bọn CSVN đã coi quyền lợi của Đảng Cộng Sản cao hơn quyền lợi của đất nước.
          Trong hai tháng qua, người dân Việt Nam trong nước và hải ngoại đã xuống đường biểu tình để lên án bọn bành trướng Bắc Kinh. Đây là những hành động đơn giản nhưng cần thiết nhất hiện nay để chứng tỏ cho bọn Rợ Hán này biết rằng dân tộc Việt Nam sẵn sàng chết để bảo vệ tổ quốc.
          Trước khi trở lại với tiểu đề mà tôi muốn gửi đến hầu bạn, xin bạn hãy cùng tôi suy ngẫm những điều sau đây:
          Hãy làm khi có thể: Bạn có từng nghĩ rằng một ngày nào đó những người thương của bạn sẽ không còn sống bên bạn nữa không. Chúng ta không một ai có thể biết chắc được điều gì sẽ xảy ra vào ngày mai. Thậm chí chúng ta cũng không thể biết chắc được điều gì sẽ xảy ra vào một giờ sắp tới đối với những người thân của chúng ta, hay thậm chí đối với bản thân mình.
          Có thể bạn ta mới đến thăm ta ngày hôm qua, mà hôm nay ta được báo tin là người đó đã không còn sống trên cõi đời này nữa. Nhận được tin ấy mà lòng ta bồi hồi xúc động, và ta dường như không thể tin vào những gì mà tai mình vừa mới nghe thấy. Ta nói với người đến báo tin với ta rằng: “Tôi mới nói chuyện với anh ấy ngày hôm qua mà”, hay “chị ấy mới đến thăm tôi và còn tặng quà cho tôi nữa mà”. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Người bạn ấy của ta đã không còn sống trên cõi đời này nữa. Và có rất nhiều, rất nhiều trường hợp tương tự như thế. Người ta mới thấy đó nhưng giờ đây đã không còn nữa.
          Khi chúng ta giao tiếp, cư xử với người xung quanh với y’ thức rằng có thể ngày mai ta sẽ không có cơ hội nghe được giọng nói của người đó nữa. Có thể ngày mai ta sẽ không còn thấy được nụ cười tươi trên khuôn mặt người đó nữa. Thì tự nhiên ta sẽ trân quí sự có mặt của người đó, và ta sẽ không nỡ nói hay làm những gì có thể gây tổn thương cho người đó.
          Người đó có thể là ba mẹ chúng ta. Người đó có thể là chồng hay là vợ của chúng ta. Và người đó cũng có thể là con cái của chúng ta....Chúng ta sống với y’ thức về sự vô thường, ngắn ngủi của một kiếp người càng sâu sắc, thì cách sống của chúng ta, cách hành xử của chúng ta cũng sâu sắc và yêu thương hơn.
          Mỗi người trong chúng ta hay có khuynh hướng nghĩ rằng những người thương của chúng ta sẽ sống với chúng ta hoài, sẽ sống với chúng ta mãi. Chúng ta ít có khi nào nhớ rằng có thể chỉ sau một đêm thôi thì ta sẽ mãi mãi không còn gặp người ấy nữa.
          Ta muốn nói những lời xin lỗi của ta với người ấy, ta muốn nói lòng biết ơn của ta với người ấy hay ta muốn thể hiện tình thương của mình cho người ấy-nhưng đã trễ rồi. Người đó đã không thể nghe, và mãi mãi sẽ không thể nghe những gì ta muốn nói dù chỉ một lời.
          Vì vậy, bạn hãy vui lên đi, bạn hãy cười tươi lên đi khi bạn vẫn có ba, có mẹ còn sống bên bạn. Bạn hãy hạnh phúc lên đi khi những người thương của bạn vẫn còn đó cho bạn. Và bạn hãy can đảm để nói cho người thương của bạn những gì sâu kín nhất trong lòng của mình. Vì có thể bạn sẽ chẳng còn cơ hội nào nữa nếu bạn không nói ra điều ấy. Và bạn hãy tha thứ cho tất cả những ai đã từng làm hại bạn, làm tổn thương bạn vì có thể ngày mai bạn cũng sẽ không còn có mặt trên cõi đời này nữa.
          Điều mà tôi khám phá ra trong cuộc đời của mình cho đến tận bây giờ, điều mà làm cho tôi hạnh phúc đó là tình thương, sự tha thứ, bao dung.
          Có thể tôi thực tập yêu thương còn kém nhưng đó là con đường mà tôi sẽ nguyện đi trên ấy mỗi ngày. Tôi tự nói với chính mình: “Hãy thương yêu khi có thể, hãy tha thứ, bao dung khi có thể, bởi vì chỉ một giây phút thôi thì những điều này sẽ trở thành không thể”.
          Và điều mà làm cho tôi hạnh phúc nhất không có gì khác hơn sau khi bạn đọc những dòng chữ này, thì sự thương yêu, tha thứ, bao dung trong bạn được biểu hiện. Và bạn đến nói với ba bạn, mẹ bạn, và với những người thương của bạn rằng bạn yêu họ lắm. Rằng ba mẹ vẫn còn sống bên bạn là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời bạn. Rằng bạn sẽ không cần gì hơn những điều như vậy. Rồi nụ cười hạnh phúc sẽ nở trên môi của bạn và khi đó bạn cũng biết rằng nụ cười hạnh phúc ấy cũng đang nở trên môi của tôi.
          Bạn cho phép tôi dừng lại một chút để nói về ngày “xá tội vong nhân”. Rằm tháng Bảy là tết Trung Nguyên. Ta tin theo sách Phật cho hôm ấy là ngày vong nhân xá tội, nghĩa là người dưới âm phủ được tha tội một ngày hôm ấy.
          Các nhà làm lễ cúng gia tiên, mua vàng mã đốt.
          Nhiều người bày lễ cúng chúng sinh ngoài sân, trước thềm nhà, rìa đường phố, cúng cô hồn, ma đói, dùng lễ vật sơ sài như bánh đa, bánh bỏng, ngô bắp, khoai lang, trứng luộc...hậu hĩ thì có xôi chè, và thế nào cũng có một nồi cháo hoa; vàng mã cúng chúng sinh thường là những xấp giấy tiền, những xấp giấy cắt hình cái áo....ít khi cúng vàng hồ, vàng thoi.
          Những nhà có người mới chết trong vòng một hai năm thường đốt mã, làm chay ngày trung nguyên.
          Ta đốt vàng mã là theo tục người Tàu. Đời xưa dùng đồ ngọc bạch để cúng tế; sau dùng tiền thế cho ngọc bạch. Đời Đường thấy dùng tiền là phí mới cho làm tiền giấy thay vào để cúng rồi đốt đi. Đời Ngũ Đại lại chế áo mũ giấy cúng quỷ thần.
          Để răn đe con người, ăn ở lúc còn sống nên tích đức, làm việc thiện, để khi chết xuống âm phủ linh hồn khỏi bị đày xuống chín tầng địa ngục như câu chuyện sau đây:
          Mục Kiền Liên: Trong hàng Thánh chúng. Mục-kiền-Liên không những là vị thần thông số một, bản tánh rất năng động mà còn là một vị có hiếu đạo hơn hết.
          Một hôm, nhớ Mẹ, Mục-kiền-Liên vận dụng thần thông đi khắp mọi nơi để tìm mẹ. Khi vào địa ngục, Mục-kiền-Liên thấy mẹ không chỉ ở chốn địa ngục, mà còn đói khủng khiếp, cơ thể vô cùng gầy yếu. Để phục hồi sức lực cho mẹ là bà Thanh Đề, Mục Kiền Liên đem cơm dâng cho mẹ. Mừng quá, bà Thanh Đề dùng tay trái che bát cơm để cho tù nhân khác không thấy thức ăn, tay phải bốc cơm cho vào miệng. Nhưng than ôi! Cơm thành than đỏ, bà không thể nào ăn được. Mục-kiền-Liên rơi nước mắt, lòng buồn vô tận! Mục-kiền-Liên vận đủ mọi phương tiện để cứu mẹ, nhưng vẫn không có kết quả.
          Trở về bạch Phật sự tình và hỏi ly’ do. Với tinh thần từ ái, Phật nói: “Mục-kiền-Liên, lúc sanh tiền mẹ ông đã hủy báng Phật, mắng tăng, bà không tin nhân quả luân hồi. Đặc biệt bà rất bỏn xẻn, chẳng bao giờ bố thí cho ai, kể cả bố thí cho con kiến hạt gạo. Vì thế, sau khi chết bà phải chịu quả báo như thế. Ông tuy là người con hiếu đạo, thương cha nhớ mẹ, muốn đền đáp thâm ân, nhưng sức của cá nhân giới hạn, dù đã có thần thông, một mình ông cũng không thể giải cứu nghiệp lực của bà Thanh Đề. Ông hãy đợi đến Rằm tháng Bảy, ngày chư Tăng mãn hạn, thiết lễ Vu Lan, nhờ chư Tăng chú nguyện, mẹ ông mới thoát khỏi cảnh địa ngục”. Theo như lời Phật dạy, ngày Rằm tháng Bảy, Mục-kiền-Liên sắm sửa trai diên, dâng cúng mười phương Tăng, và nhờ thần lực của chư Tăng chú nguyện.
          Quả như vậy, với đạo nghiệp tấn tu ba tháng, chư Tăng không những giúp cho bà Thanh Đề, mà nhiều người khác trong ngày đó cũng thoát khỏi cảnh địa ngục tối tăm.
          Kinh Vu Lan, Lễ Vu Lan, và gọi là ngày Rằm Xá Tội Vong Nhân có từ đó. Vu Lan Bồn có nghĩa là mở sợi dây treo ngược cho người có tội.
          Cộng sản tôn thờ chủ thuyết tam vô: vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo. Xã hội Việt Nam bây giờ, con người chỉ biết có tiền, tiền và tiền. Không còn đạo đức, lễ nghĩa, liêm sĩ gì cả.
          Vấn đề cần ngẫm nghĩ chín chắn: Trong một xã hội luôn chú y’ đến vỏ bọc bên ngoài, chúng ta thường có khuynh hướng ngưỡng mộ vẻ ngoài tươi đẹp của người khác và luôn trăn trở về khiếm khuyết của mình.
          Nhưng từ quan sát của tôi trong nhiều năm qua, tôi phát hiện ra rằng: chưa ai có cuộc sống toàn mỹ không khiếm khuyết gì cả, mỗi người đều có thiếu sót. Có người tuy có một gia đình hạnh phúc nhưng lại bị vô sinh. Có người tài sắc vẹn toàn nhưng lại thường xuyên gặp trắc trở trong tình yêu. Có người giàu có nhưng con cháu không hiếu thuận. Có người có vẻ rất tốt số, gặp toàn may mắn nhưng cuộc đời nhạt nhẽo, vô vị.
          Trong cuộc đời này, mỗi người, đều bị Thượng Đế tạo ra khiếm khuyết. Bạn không muốn mang nó, nó vẫn bám theo bạn, như hình với bóng. Trước kia tôi cũng đã từng nhận ra những thiếu sót trong cuộc đời tôi và rất băn-khoăn về chúng. Nhưng bây giờ, tôi mở rộng lòng để đón nhận nó.
          Bởi tôi hiểu rằng, những khiếm khuyết giống như cái gai trên người tôi. Luôn nhắc tôi nhớ để sống khiêm tốn và thông cảm, thương yêu mọi người hơn.
          Nếu không có những buồn khổ, chúng ta sẽ kiêu ngạo.
          Không đối diện với những biến động, chúng ta chẳng thể an ủi những người bất hạnh vì thiếu sự đồng cảm.
          Tôi cũng tin rằng, cuộc sống không nên quá toàn bích, người này có khiếm khuyết, để may mắn đến với người khác là một điều kỳ diệu của tạo hóa.
          Bạn đừng mong có mọi thứ, nếu bạn có mọi thứ, người khác sẽ thế nào?
          Khi nhận ra rằng mỗi cuộc đời đều có khiếm khuyết, bạn sẽ không so đo với người khác, ngược lại, bạn càng quí những gì mình đã có hơn.
          Đừng ngưỡng mộ những gì người khác có, hãy kiểm lại những gì Thượng Đế đã dành cho bạn, bạn sẽ nhận ra rằng: những cái bạn có, sẽ nhiều hơn những gì bạn không có.
          Những khiếm khuyết, tuy chẳng đẹp nhưng cũng là một phần của cuộc đời bạn. Chấp nhận nó và đối xử tốt với nó, cuộc sống của bạn sẽ vui hơn, nhẹ nhàng hơn.
          *Nếu bạn là một con chuột, chợt phát hiện ra mình đang bị nhốt trong cái bẫy chuột, trước mặt là miếng bánh ga-tô thơm phức, bạn sẽ ăn miếng bánh hay là bỏ đó?.
          Trước kia, dụng cụ để dành tiền đều làm bằng sứ, khi đã đầy tiền, phải đập vỡ mới lấy được tiền ra. Nếu có một vật dụng để dành dụm như vậy, không thả đồng nào vào đó, nó sẽ lành lặn đến tận ngày nay. Nó sẽ là một món đồ cổ quy’ giá. Bạn muốn làm một vật như thế không?
          Hãy ghi lại từng câu trả lời của bạn mỗi khi bạn băn khoăn về điều nào đó. Đến ngày nào đó, câu trả lời của bạn không thay đổi nữa có nghĩa là bạn đã đủ chín chắn. Hãy tìm một người hiểu bạn. Và hãy mong bạn là người hiểu người ấy.
          Người thông minh thích đoán tâm sự của người khác. Tuy lần nào cũng đoán đúng nhưng lại đánh mất cái tâm của mình.
          Người ngốc nghếch thích mở trái tim mình. Tuy lần nào cũng bị thiên hạ nhạo báng nhưng lại có được tấm lòng của mọi người.
          Cá nói: Anh không nhìn thấy nước mắt của tôi, vì tôi sống trong nước.
          Nước nói: Tôi có thể cảm nhận được nước mắt của bạn vì bạn ở trong trái tim tôi.
          Cầu chúc cho bạn có được một cuộc sống hạnh phúc!.
          Những câu danh ngôn mà thỉnh thoảng tôi đưa vào bài viết, để tất cả chúng ta dựa vào đó để đối xử, để suy ngẫm,.. mong rằng bạn chớ nên thờ ơ đọc cho qua, mà phải đọc đi đọc lại nhiều lần để làm hành trang cho cuộc đời ngắn hạn này.

          *Hạnh phúc không phải do tìm kiếm là có được, mà phải do ta tạo ra.
          *Không ai sinh ra là hạnh phúc ngay, nhưng chúng ta đều được sinh ra với khả năng tạo hạnh phúc.
          *Bốn y’ tưởng hay cho cuộc sống: Nhìn lại đàng sau và có kinh nghiệm! – Nhìn đàng trước và thấy hy vọng! –Nhìn xung quanh và tìm ra thực tại! –Nhìn bên trong và tìm thấy chính mình!.
          *Tại sao lại cằn nhằn ai đó trong đời mình. Người tốt mang hạnh phúc cho ta. Người xấu cho ta kinh nghiệm- Người tệ nhất cho ta một bài học.
          *Cách hay nhất trong cuộc sống là hãy lắng nghe mọi người và học với mọi người, vì không ai là biết tất cả và mỗi người biết một điều gì đó.
          *Người bạn là người biết ta rất tường tận, am hiểu gốc gác ta, chấp nhận chỗ đứng của ta và vẫn dịu dàng để cho ta tiến tới.
          *Khi ta tìm một người bạn đừng đặt tiêu chuẩn hoàn hảo mà chỉ nên tìm một tình bạn.
          *Friend: Few=vài- Relations= mối quan hệ- In= trong- E= earth= trái đất –N=Never= không bao giờ- D=die= chết.
          *Những lời nhân từ tử tế có thể ngắn và dễ nói song âm vang của chúng thật còn mãi.
          *Chạy trốn một nan đề chỉ làm cho việc giải quyết lùi xa thêm mà thôi! Cách dễ nhất để thoát khỏi nan đề là giải quyết nó.
          *Sự thật ly’ thú về cái lưỡi của con người: Dùng ba năm để học cho biết sử dụng nó nhưng phải dùng cả đời người để học sử dụng nó ở đâu và khi nào.
          *Không ai có thể làm tổn thương ta được nếu ta không cho phép.
          *Tâm trí được an bình không cần hao tốn chi nếu ta đừng: chỉ trích (criticizing), so sánh (comparing), phàn nàn (complaining).

          Comment


          • #20
            Cộng Sản và Phát Xít

            Mây-cao-Nguyên (Sưu tầm)
            Tháng qua, tôi có đọc một bài tường trình kể lại buổi họp báo của hai tác giả Peter Navarro, Greg Autry và những diễn giả có thẩm quyền cũng như kiến thức về Trung Quốc thay phiên nhau vẻ nên một bức tranh, cận cảnh, rõ ràng, về hiểm họa mà chính sách của quốc gia này đang mang đến cho thế giới.

            Trong phần trình bày linh động và cặn kẽ, kéo dài suốt gần một tiếng đồng hồ, tiến sĩ Peter Navarro khiến cử tọa lặng người đi, và bị thuyết phục, rằng nếu tình trạng hiện tại cứ tiếp diễn, thì nhân loại, hay trong một phạm vi hẹp hơn, người dân và đất nước Hoa Kỳ, sẽ “chết dưới tay Trung Quốc”.

            Tại sao? Câu trả lời đầy đủ nhất dĩ nhiên nằm trong tác phẩm “Death by China” hơn 250 trang, kết quả của hơn hai năm nghiên cứu, phỏng vấn và những chuyến viếng thăm nhiều miền khác nhau trên đất nước Trung Quốc của cả hai tác giả, và phụ tá của họ.
            Với 16 chương, tác phẩm “Chết Dưới Tay Trung Quốc” được chia làm hai phần chính, gồm lập luận cũng như dẫn chứng về hiểm họa Trung Quốc, và lời kêu gọi một số hành động mà cả chính quyền, giới đầu tư lẫn người tiêu thụ Hoa Kỳ cần phải làm, và cần làm ngay, để có thể tránh được hiểm họa này, nếu không nhân loại sẽ dần dà bị chết hết dưới tay Trung Quốc, vì:

            *Thứ nhất, người tiêu thụ sẽ bị hàng hóa độc hại của Trung Quốc giết dần giết mòn.
            *Thứ hai, chính sách cạnh tranh bất chính của nhà cầm quyền Trung Quốc tạo nên một loạt những “vũ khí” được sử dụng một cách có hệ thống để tiêu diệt nền kinh tế của các quốc gia khác, nhất là nền kinh tế Hoa Kỳ.
            *Thứ ba, biện pháp cho gián điệp vào nước Mỹ, ăn cắp bí mật quốc phòng, cộng với việc ngày càng tăng ngân quỹ quốc phòng, sẽ khiến Trung Quốc chỉ trong vài năm nữa có thể đuổi kịp rồi vượt qua Hoa Kỳ về sức mạnh quân sự.
            *Thứ tư, Chính sách tìm đủ mọi cách để chế tạo ra những hàng hóa với giá thành rẻ nhất, Trung quốc sẽ hủy hoại môi sinh tàn tệ và nhanh chóng đến mức khó có thể nào cứu gỡ được.
            Dẫn chứng sự độc hại và nguy hiểm của hàng hóa Trung quốc, như melamine trong sữa, trong thức ăn cho chó và mèo (pet food), quần áo cho trẻ em dễ bốc cháy, thuốc asperine chứa độc tố, thuốc Lipitor và Viagra giả, chất arsenic trong nước ngọt, chất chì trong các loại trà, than giả, gạo giả, trứng giả, miến bằng ny-lon, vi cá giả..., nôi em bé chỉ dùng vài lần là gãy thành khiến nhiều em bị ngã gãy cổ, trẹo sườn, điện thoại di động bị phát nổ, “dry wall” chứa độc tố, Sofar bị xịt đầy chất “dimethylfumarate” gây bịnh ngứa ngoài da kinh niên, áo quần, giày, vớ..., những món ăn chứa đầy chì, vòng đeo cổ và đồ chơi gây khó thở, và còn rất nhiều ví dụ khác. Những dẫn chứng về sự cạnh tranh bất chính cũng nhiều không kém.

            Trước tiên, Trung Quốc đập tan những qui ước về cả tự do mậu dịch lẫn thương mại bằng chính sách: “Vừa con buôn thủ lợi, vừa bảo vệ nền công nghệ nội địa” bằng cách đổ tiền của nhà nước vào từng ngành công nghệ mà họ muốn cạnh tranh với Hoa Kỳ, và cướp đi công việc của người dân Mỹ. Những võ khí được sử dụng có hệ thống để giết hại nền kinh tế của Hoa Kỳ.
            *Hổ trợ cho các hàng xuất cảng vi phạm luật lệ của WTO (Tổ Chức Thương Mại Thế Giới) mà Trung Quốc đã ky’ kết: Sản xuất hàng giả, đánh cắp kỹ thuật, hoàn toàn không quan tâm đến những cách sản xuất có hại cho môi sinh, và ngược đãi công nhân, biến họ thành lao nô.
            Điểm chánh là thao túng hối suất, khiến hàng nhập vào Trung quốc giá thành rất cao, tạo cho Hoa Kỳ một nguy cơ như trái bom nổ chậm: thâm thủng mậu dịch hàng năm lên đến gần một tỉ. Các hàng hóa du nhập vào Trung Quốc đều bị đánh cắp về kỹ thuật và phát minh. Trường hợp Google và Google China là một ví dụ điển hình. Ly’ do là luật của Trung quốc đòi hỏi các công ty vào nước họ phải chuyển bộ phận nghiên cứu và phát triển đến đó. Kể từ khi Trung quốc gia nhập WTO năm 2001, chủ trương “con buôn trục lợi” và bảo vệ công nghệ nội địa của họ đã khiến nhiều của Hoa Kỳ: như may mặc, bàn ghế, hóa chất, giấy, sắt, bánh xe, bị thu nhỏ lại còn một nửa. Riêng kỹ nghệ dệt bị triệt tiêu hơn 70%. Trong ngành Vi tính và điện tử, Trung Quốc đã lấy đi của Hoa Kỳ hơn 40% công ăn việc làm. Cũng theo họ, trong con số13.9 triệu người đang bị thất nghiệp tại Mỹ, 10 triệu việc làm được chuyển sang Trung quốc.

            Vũ khí cuối cùng rất thâm độc của Trung Quốc gọi là “xâm lăng” hay “chiếm lãnh thuộc địa” khắp nơi bằng cách lạm dụng tự do mậu dịch để giành lấy tài nguyên của các quốc gia đang phát triển. Một kịch bản quen thuộc: Một ông Trung quốc bụng phệ, mang ngân phiếu đến một quốc gia nghèo khó nào đó, và hứa sẽ cho quốc gia đó mượn một số tiền khổng lồ với tiền lời rẻ mạt để “giúp” xây cất đường sá, canh tân quân đội. Đối lại, quốc gia này chỉ cần làm hai điều rất nhỏ cho Bắc Kinh: Trao hết quyền khai thác tài nguyên, đồng thời cho phép Trung quốc được quyền bán những sản phẩm được chế tạo bởi chính những tài nguyên vừa khai thác được từ nước này cho người tiêu thụ quanh vùng. Tại sao đây lại là mánh lới quỷ quyệt? Vì những hợp đồng loại này biến quốc gia vừa ky’ kết cho Trung Quốc khai thác tài nguyên trở thành thuộc địa của họ. Cả thị trường cũng của Trung Quốc nốt.

            Xin bạn đọc đi đọc lại bài viết của hai nhà trí thức nêu trên, để hiểu hoàn cảnh của một nước Việt Nam nhỏ bé nằm cạnh một anh láng giềng hung bạo, nham hiểm, độc ác, lương lẹo, tham lam, thủ đoạn, gian manh, xảo quyệt...và một tập đoàn lãnh đạo hèn nhát, tham nhũng, ngu muội đã để cho đất nước và dân tộc Việt Nam kiêu hùng rơi vào vòng kiềm tỏa của bọn Rợ Hán mà không tốn một viên đạn. Những cảnh biểu tình chống đối và những căng thẳng trên vùng tranh chấp ở Biển Đông được chúng dàn dựng để bắt đi những thành phần yêu nước. Nhiều người võ đoán:
            Liệu có xung đột võ trang giữa Trung Quốc và Việt Nam hay không? : Liên tiếp trong vòng 10 ngày, Trung quốc đã không chỉ xâm phạm lãnh hải của Việt Nam ở miền Trung mà còn có hành động gây hấn khiêu khích. Đó là cắt cáp tàu Bình Minh 2 vào ngày 26 tháng 5 và cắt cáp tàu Viking 2 vào ngày 9 tháng 6 năm 2011 bên trong thềm lục địa 200 hải ly’ của Việt Nam. Chúng từng bước “hợp thức hóa” vùng lưỡi bò 80% diện tích Biển Đông. Chúng đã tức tốc đưa 11 tàu chiến kết hợp với lực lượng hải quân vùng đảo Hải Nam để chuẩn bị....tập trận. Trung tướng Việt cộng Nguyễn chí Vịnh lần đầu tiên đã lên tiếng một cách mạnh mẽ: “Sẵn sàng chiến đấu nếu Bắc Kinh tiếp tục vi phạm”. Thủ tướng Việt cộng Nguyễn tấn Dũng vừa ky’ sắc lệnh nghĩa vụ quân sự có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 8 năm 2011.

            Hoa Kỳ và các quốc gia Đông Nam Á cũng tỏ ra quan ngại và Hoa Kỳ đã chính thức đưa chiến hạm USS Chung Hoon về phía Tây Thái Bình Dương. Trung Cộng sẽ tránh đụng đầu với lực lượng của Hoa Kỳ và Phi-Luật-Tân, nhưng sẵn sàng đối đầu với hải quân Cộng Sản Việt Nam vì 4 ly’ do sau đây:
            *Trung Cộng đã tạo một không khí “thù nghịch” đối với Việt Nam trong lòng xã hội Trung quốc. Chúng đã tuyên truyền rằng VN và các nước Đông-Nam-Á đã cướp biển của dân Trung quốc chứ không phải là nạn nhân của bá quyền Trung quốc.
            Đây là đòn: “vừa ăn cướp vừa la làng” của chúng.
            *Thứ hai, đặc biệt là 15 ủy viên Bộ Chính Trị và thành phần lãnh đạo cốt cán của Hà Nội đã bị Trung quốc tung tiền mua chuộc và hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi của TQ khó có thể buông thả. Những phản hồi của phía VN thường thì sau 2, 3 ngày sự kiện đã xảy ra. Sau khi đã bàn thảo và nhiều khi “xin phép” trong sự chừng mực nào đó để không làm cho Bắc Kinh giận dữ.
            *Thứ ba, các sĩ quan và quân đội bị Đảng kềm chế đã không dám làm gì. Ngoài ra Hải Quân Cộng Sản Việt Nam không đủ khả năng và quá chênh lệch đối với lực lượng của TQ. Mặc dầu từ năm 2010, Cộng Sản Việt Nam đã bỏ ra 4 tỷ Mỹ kim để mua 6 tàu ngầm Kilo từ Nga, mua trực thăng, xe tăng và súng đạn. Nhưng phải đợi đến năm 2014 mới có đầy đủ những thiết bị nói trên.

            *Thứ tư, Biển Đông rất quan trọng với Trung quốc về mặt an ninh chiến lược và phát triển công nghiệp.
            Bắc Kinh sẽ ra tay và đặt Cộng Sản Việt Nam vào chỗ đã rồi khi thời cơ chín muồi. Đây là một chiến lược rất thâm độc của Bắc Kinh để làm cho CSVN mất hậu thuẫn trong quần chúng vì chính sách “hèn với giặc-ác với dân” trong nhiều năm qua. Bọn lãnh đạo Bộ Chính Trị tại Hà Nội dựa theo kinh nghiệm đã để mất Trường Sa năm 1988, Thác Bản Dốc, Ải Nam Quan, Bãi Tục Lãm và hơn 700 cây số vuông vùng biên giới năm 2000, cho thấy bọn CSVN đã coi quyền lợi của Đảng Cộng Sản cao hơn quyền lợi của đất nước.
            Trong hai tháng qua, người dân Việt Nam trong nước và hải ngoại đã xuống đường biểu tình để lên án bọn bành trướng Bắc Kinh. Đây là những hành động đơn giản nhưng cần thiết nhất hiện nay để chứng tỏ cho bọn Rợ Hán này biết rằng dân tộc Việt Nam sẵn sàng chết để bảo vệ tổ quốc.

            Trước khi mời bạn tìm hiểu sự tàn bạo của con người đối với con người, tôi xin kể hầu bạn một câu chuyện xưa: “Người chặt cây quế trong cung trăng” như sau:
            “Trong mặt trăng có cây quế cao 500 trượng. Dưới gốc có một người cầm búa chặt mãi, nhưng chặt xong thì dấu chặt dính liền lại như cũ. Người ấy tên Ngô Cương quê ở Tây Hà, tu tiên có lỗi bị chặt cây. Ngô Cương và Phùng Mông là học trò của Hậu Nghệ. Nghệ sinh ở bờ biển Đông tức nước Hữu Cùng, võ nghệ phi thường, sức có thể nhổ núi lấp sông, lại giỏi về kỵ xạ. Hai người học trò cũng đều tài ba xuất chúng.
            Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tánh khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giựt của cải nhân dân. Ngô Cương lại tòng theo thầy làm nhiều điều gian ác, giết chóc sinh linh vô số. Phùng Mông là người hiền, can thầy can bạn không được, bỏ đi theo đám dân nghèo chống lại thầy.

            Hậu Nghệ bắt Hằng Nga làm hoàng hậu. Sợ nàng trốn, Nghệ giam một nơi và bắt Ngô Cương canh giữ. Một hôm, Nghệ đi săn, Hằng Nga lấy cỏ Linh Chi (cỏ trường sinh) của Nghệ uống vào, mình nhẹ bổng nên nàng cùng con Ngọc Thổ bay lên cung trăng. Nghệ đi săn về thấy mất Hằng Nga nên tức giận, bóp cổ Ngô Cương cho đến chết. Vong hồn Ngô Cương bay lên cung trăng gặp Hằng Nga, định giết nàng báo thù. Hằng Nga hoảng hốt thì vừa lúc ấy Nguyệt lão đến, quát to:
            -Ngày trước nhà ngươi giết hàng triệu sinh linh, ngày nay phải chịu quả báo, thế chưa biết ăn năn hối cải sao?.
            Ngô Cương đáp: “Tôi chết rồi..vì Hằng Nga trốn đi nên đại vương giết tôi. Tôi chết oan uổng nên hồn không tiêu tan, tôi muốn trả thù.
            Cụ già mỉm cười:-“Nhà ngươi chết như thế phải lắm, còn muốn chết làm sao nữa?”.
            -Tôi hết lòng trung vì chúa, đánh đông dẹp bắc, ngày đêm lo việc trị dân.
            Cụ già gật gù hỏi: “Nhà ngươi trị có được không? Hay càng trị càng rối?”.
            -Tại đại vương quá hận giết tôi. Nếu không, tôi có cách trị an thiên hạ.
            -Cách gì?.
            Ngô Cương tỏ vẻ cương quyết: “Giết”.
            Cụ già cười ha hả: “Nhà ngươi giết mấy chục năm rồi mà càng giết càng đông, càng loạn. Đồ khùng! Thân xác đã chết rồi mà hồn chưa tỉnh ngộ, Ngô Cương, có thấy cây quế không?”.
            Cụ già vừa nói vừa đưa tay trỏ cây quế. Ngô Cương đáp: “Thấy, mà có quan hệ gì tới tôi?”.
            -Nhà ngươi chặt cây kia ngã được thì mới có thể giết người để bình thiên hạ được.
            Cụ già vừa nói xong, đưa tay móc túi lấy ra một cây búa trao cho Ngô Cương. Hắn tiếp lấy búa, đưa thẳng tay lên chặt vào cây quế. Lửa trong cây quế văng ra. Cương buông búa, xu‎y’t xoa kêu: -“Cây cứng quá!”.
            Cụ già cười xòa: “Thôi, chặt không được đâu”.
            Ngô Cương càu nhàu: -“Thây kệ tôi”.
            -Đồ ngu, đến chết mà vẫn không tỉnh. Nhà ngươi không thấy cây quế ấy, mày càng chặt thì cây càng lớn, càng cao, càng đẹp sao? Được, mặc kệ cho mày chặt. Ta đi đây. Cụ già nói xong biến mất. Ngô Cương vẫn cầm búa chặt mãi…chặt mãi mà cây quế kia không bao giờ đứt, vẫn tươi sống kiếp kiếp đời đời”.
            Hiện nay trên thế giới chỉ còn có bốn nước: Trung cộng, Việt nam, Bắc Hàn và Cu Ba áp dụng tuyệt đối chủ nghĩa cộng sản của Marx và Engels.

            Chỉ riêng cuộc chiến tranh tại Việt Nam đã chấm dứt vào ngày 30 tháng Tư năm 1975 sau 20 năm đánh nhau đã gây ra nhiều sự hy sinh bẽ bàng:
            -Hơn 3 triệu binh sĩ và dân sự Hoa Kỳ đã phục vụ tại chiến tuyến VN từ 1954 tới 1975, với tổng số 53,193 tử vong, 120000 bị thương (trong đó hơn 20000 người vĩnh viễn tàn tật).
            -Khoảng 239,587 tử vong phía Việt Nam Cộng Hòa.
            -Khoảng 680,000 quân chính quy Bắc Việt và 251,000 binh sĩ Mặt Trận Giải Phóng miền Nam, tổng cộng lên tới 931,000 tử vong.
            -Tổng số tử vong “bên lề chiến tranh” cả Nam lẫn Bắc Việt được ước lượng từ 1 triệu 500 ngàn tới 2 triệu người dân vô tội.
            Ngay cả Quân Đội và Nhân Dân Bắc Việt cũng lâm vào cảnh ngộ không sáng sủa gì hơn, nếu không nói là khốn đốn, nguy ngập. Quân đội và nhân dân Bắc Việt đã thắng nhờ vào kỹ thuật chiến tranh có viện trợ của Nga Sô và nhất là của Trung cộng. Họ đã chiếm được Sàigòn, nhưng ngay sau 1975 và ngày hôm nay họ đang thua trên toàn quốc VN, vì một mặt thì thiếu khả năng quản trị đất nước trong “hòa bình”, khi mất cớ lùa bịp dân chúng với chiến tranh, và nhất là về mặt đối ngoại khi họ phải trả nợ hơn 50 năm viện trợ Trung Cộng bằng cách xóa bỏ biên giới, cầm cố đất đai, rừng già, bán biển, bán các hải đảo.

            Bạn thấy đó, hiện nay trên thế giới, những người trẻ thích đùa cợt bằng cách sử dụng những biểu tượng phổ biến trong quá khứ. Trong khi chữ thập ngoặc của Đức-quốc-Xã bị xem là một trò đùa ác y’, thì biểu tượng của Xô-Viết không được xem như vậy. Nói cho cùng Cộng sản không phải là Phát xít. Nó đề cao sự bình đẳng và hài hòa. Tự y’ tưởng đó không có gì là sai trái. Nhưng…thực sự là có. Có một điều làm nó không như những xã hội không tưởng khác. Lenin tin vào “cuộc đấu tranh giai cấp”. Có nghĩa rằng sự hài hòa tuyệt đối chỉ có thể đạt được sau một nhóm người khác bị tiêu diệt. Ban đầu, khi những người cộng sản lên nắm quyền thì xã hội không có vấn đề gì, ngay cả ở Nga, Ba Lan, Cuba, Nicaragua hoặc ở Trung quốc. Ban đầu, họ giết khoảng 10% dân số và họ chọn lựa rất kỹ lưỡng. Họ làm việc này không chỉ để tiêu diệt kẻ thù. Họ giết người để thiết lập lại cơ cấu xã hội. Một phương pháp xây dựng xã hội. Tất cả trí thức, những công nhân tốt nhất, các kỹ sư tốt nhất đều bị họ giết hết. Và sau đó họ cố gắng xây dựng một xã hội mới. “Treo cổ ít nhất 100 tên Cu-lắc. Bắn bỏ hết bọn con tin. Hãy để cho những người đứng cách xa hàng trăm dặm đều thấy và run sợ” Lenin đã dõng dạc tuyên bố. Những người cộng sản nắm chính quyền ở Nga vào năm 1917. Lenin lúc này đã có cơ hội để áp dụng chủ nghĩa Marx vào cuộc sống thực tiễn! Những người chống đối lại đã bị bắn. Có những vụ tàn sát khủng khiếp những nông dân phản kháng lại. Và không biết chính xác bao nhiêu người đã chết. Chúng ta có thể đoán rằng có khoảng 10 triệu người hoặc hơn nữa đã bị giết. Nhưng ngay cả sự khủng bố tàn nhẫn nhất cũng không thể phá vỡ được sự kháng cự của nhân dân.

            Đặc biệt là ở các nước cộng hòa thiểu số, nơi mà sự khủng bố của cộng sản được cấu kết với áp bức dân tộc. Ví dụ như tại Ukraina. Ngày 11 tháng 9 năm 1932, Stalin đã viết cho người đồng sự của mình là Kaganovich “Tình hình ở Ukraina hiện rất nghiêm trọng. Nếu chúng ta hành động ngay, chúng ta có thể mất Ukraina”. Một kế hoạch được ra đời sau những cuộc họp kín của những kẻ thân cận với Stalin. Đó là một kế hoạch khủng khiếp. Vào mùa đông năm 1932 và 1933, tất cả lương thực được chuyển khỏi Ukraina. Một hàng rào cách ly khổng lồ được lập ra để cô lập toàn bộ người dân Ukraina. Ban đầu thì những người dân không chết ngay. Một ít lúa mì và rau quả còn sót lại giúp cho họ sống sót. Nhưng điều này không nằm trong kế hoạch của Stalin. Thế là Stalin bèn ra lệnh cho Bộ Dân Ủy Bội Vụ tịch thu tất cả lúa mì và thực phẩm còn sót lại. Bằng cách này, Stalin biết rằng ông đã tuyên án tử hình đối với họ. Tất cả khoai tây, củ cải, cải bắp…toàn bộ những thùng cải bắp muối cũng bị tịch thu hết. Họ lấy đi tất cả những gì có thể ăn được. Họ đã lấy đi mọi thực phẩm. Sau khi toàn bộ thực phẩm bị tịch thu, nông dân bị cấm tìm kiếm thức ăn ở nơi khác cho dù là mua, trao đổi, hay kiếm được. Và lúc ấy, nạn đói bắt đầu. Những người đang đói không được phép vào các thành phố. Có những đội quân đặc biệt chuyên ngăn chặn những người sắp chết và những người đói ăn lên tàu hỏa. Rất nhiều người chết trên đường rày xe lửa đi tới Kharkov hay Kiev. Người dân Ukraina đã chết dần chết mòn một cách khủng khiếp. Trẻ em khóc và quằn quại đau đớn để xin bố mẹ bánh mì. Có nhiều người đã quên đi nỗi sợ và họ tìm đến các cánh đồng mà Bộ Dân Ủy Nội Vụ trông coi để mót lúa mì.

            Họ bị bắn chết ngay tại chỗ. Những ngày đó thực sự kinh khủng! Tất cả những người chết được quẳng xuống hố chôn nhiều đến nỗi rung chuyển cả mặt đất. Những người cộng sản đã làm gì với lúa mì tịch thu từ người dân Ukraina?. Họ đã xuất khẩu hàng triệu tấn lúa mì này sang phương Tây. Mặc dù nạn đói đang xảy ra, nhưng sản lượng xuất khẩu lúa mì của Ukraina đã tăng đến mức tối đa. Báo chí Tây phương đã tường thuật chi tiết về mức độ cũng như bản chất của nạn đói ở Ukraina. Người Ukraina đang bị diệt chủng trước sự chứng kiến của thế giới. Nhưng thế giới đã không làm gì để giúp họ. Bảy triệu người đã chết đói chỉ trong vòng một năm.
            Xã hội Xô-Viết là xã hội cộng sản đầu tiên trên thế giới. Đó là một cuộc thí nghiệm xã hội khổng lồ. Cái chết đau đớn của 7 triệu người Ukraina có một y’ nghĩa sâu sắc trong quan điểm méo mó của các kiến-trúc-sư của chủ nghĩa cộng sản. “Chúng ta phải thực hiện một cuộc cách mạng rồi thiết lập chế độ độc tài của giai cấp vô sản và sau đó mới có thể tạo ra “con người mới”. Sự ra đời của “con người mới” là mục đích cuối cùng của chủ nghĩa Marx. Tạo ra một loại người cách mạng mới có cách suy nghĩ và hành động khác hẳn. Cộng sản không phải là những người duy nhất tiến hành quá trình này. “Chúng ta phải tạo ra những con người mới! Và một xã hội mới sẽ xuất hiện!”. Chủ Nghĩa Xã Hội Quốc Gia của Hitler cũng chú trọng vào việc tạo ra con người mới. Cả hai hệ thống đều dựa trên một hệ tư tưởng với tham vọng tạo ra con người “mới”. Có nghĩa là cả hai chế độ đều không hài lòng với bản chất hiện tại của con người. Họ đấu tranh chống lại bản chất tự nhiên của con người. Đấy là cội rễ của chế độ toàn trị và là điều hiển nhiên trong cả hai hệ tư tưởng. Chủ nghĩa Phát-xít là một hệ tư tưởng dựa trên quan điểm sinh học sai lầm và chủ nghĩa cộng sản được dựa trên quan điểm xã hội học sai lầm. Nhưng cả hai hệ tư tưởng đều muốn chứng minh là mình có cơ sở khoa học.

            Tại sao nhất thiết phải giết người? Điều này được nói đến lần đầu tiên vào tháng Giêng năm 1849 trong một bài báo đăng trên tờ tạp chí theo chủ nghĩa Marx “Neue Rheinis Zeitung”, Engels đã giải thích về y’ nghĩa của cuộc đấu tranh giai cấp theo quan điểm Marxist. Theo ông, khi cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra sẻ xảy ra đấu tranh giai cấp. Một số xã hội nguyên thủy ở Châu Âu thì đã bị trễ đến hai thời kỳ, bởi vì những xã hội đó chưa đạt tới giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Engels gọi người Basques, Britons, Scots và người Serbia là những “dân tộc cặn bã”. Họ sẽ phải bị tiêu diệt vì họ đang tụt hậu lại quá xa nên không thể đưa họ đến cùng thời với cuộc cách mạng được. Engels nói về sự thô tục và đáng khinh bỉ của các dân tộc Slav. Ví dụ ông cho rằng Ba Lan không có ly’ do để tồn tại “các chủng tộc và các giai cấp quá yếu để thích ứng với điều kiện sống mới, nên họ phải nhường bước. Họ phải bị tiêu diệt trong cuộc thảm sát của cách mạng” (Karl Marx). Marx là cha đẻ của nạn diệt chủng chính trị hiện đại. Những lời dạy của Marx và Engels đã được nghiên cứu kỹ lưỡng bởi Lenin, người đã khai sinh ra nhà nước Marxist đầu tiên trên thế giới. Một năm sau cái chết của Lenin vào năm 1924. Báo The New York Times công bố một bài viết ngắn, nhưng không nhận được sự chú y’ của độc giả lúc bấy giờ. Bài báo nói về một đảng chính trị mới được thành lập ở Đức “Đảng Công Nhân Quốc Gia Xã Hội Chủ Nghĩa”, do Adolf Hitler là người sáng lập và bảo trở, luôn tin rằng Lenin và Hitler giống nhau. Ai là người nói ra điều này? Chính là tiến sĩ Goebbels. Tiến sĩ Goebbels khẳng định rằng: Lenin là người vĩ đại nhất chỉ sau Hitler và có rất ít khác biệt giữa chủ nghĩa cộng sản và tư tưởng của Hitler. Hitler thường nói rằng ông đã học được rất nhiều khi nghiên cứu chủ nghĩa Marx, ông cho rằng chủ nghĩa xã hội Quốc Gia hoàn toàn dựa trên ly’ thuyết chủ nghĩa Marx. Bernard Shaw-nhà soạn kịch nổi tiếng người Anh-đã ủng hộ Hitler trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Mỗi người trong chúng ta đều biết có một nửa tá người vô dụng trên thế giới. Họ có vấn đề cả trong thế giới của riêng mình. Hãy hỏi họ: “Bạn có vui lòng biện minh cho sự tồn tại của mình?. Nếu bạn không thể biện minh cho sự tồn tại của chính bạn, nếu bạn không sản xuất ra nhiều của cải hơn mức tiêu thụ của bản thân thì rõ ràng là xã hội không nên để một thành viên như bạn sống. Bạn không nên sống vì cuộc sống của bạn không có lợi cho chúng tôi và cho cả chính bạn nữa”. Bernard Shaw ủng hộ việc diệt chủng theo giai cấp chứ không theo chủng tộc. Ví dụ như những người tàn tật, thất nghiệp hoặc lập dị. Tiêu diệt các tầng lớp ăn bám trong xã hội là luận điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội trong chủ nghĩa Marx. Trong một tờ báo ở Luân Đôn, Bernard Shaw đã kêu gọi các nhà khoa học nên chế tạo ra một loại hơi ngạt nhân đạo có thể giết người ngay lập tức và không gây đau đớn. Chết hoàn toàn, nhưng nhân đạo mà không tàn nhẫn.

            Mười năm sau đó, loại hơi ngạt đã được phát minh. Nó được gọi là Cyclone-B. Adolf Eichmann là người đã chỉ đạo việc áp dụng Cyclone-B tại Auschwitz, tù nhân đã chết mà không đau đớn. Cyclone-B là một loại hơi ngạt nhân đạo. Vâng, Eichmann đã dùng chính xác những từ đó. Phải nhìn nhận rằng Bernard Shaw và những người cánh tả nói chung cơ bản phản đối chủ nghĩa Phá-xít. Bởi vì Hitler đã hoàn toàn bóp méo chủ nghĩa Marx đến nỗi không nhận ra được nữa. Giết người bằng khí độc dựa vào sắc tộc của họ là không thể tha thứ. Việc lựa chọn phải dựa trên giai cấp. Hitler đã hoàn toàn sai lầm. Chính những loại người khác mới thực sự cần bị tiêu diệt!.

            Quốc gia duy nhất áp dụng chính xác chủ nghĩa Marx chính là Liên-Xô. Nó giết người dựa trên các nguyên tắc của chủ nghĩa Marx một cách sát sao-Kẻ thù giai cấp- Nói chung, quá trình này cũng tương tự như việc tiêu diệt người Do Thái. Đầu tiên là nạn nhân bị nhạo báng và làm nhục trước công chúng rồi sau đó bị giết. Hàng triệu người! Hãy vạch mặt bọn chúng! Rồi chúng ta có thể lôi ra hết những kẻ giấu mặt còn sót lại! Đừng sợ bọn chúng! Nếu kẻ thù không nhận tội, chúng sẽ bị tiêu diệt. (Bạn có thấy giống như cuộc Cách Mạng Văn Hóa của Trung cộng vào thời Mao-trạch-Đông và cuộc đấu tố trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất ở Hà Nội dưới thời Hồ-chí-Minh hay không).
            Trong thập niên 1930, kỹ thuật xử tử đã được hình thành. Mỗi khu vực hành chánh đều có một khu riêng để chôn các xác chết. Việc xử bắn được thực hiện trong nhà tù. Trong tầng hầm có một phòng bắn đặc biệt có các bức tường bê-tông và cống để thoát máu. Tù nhân được đưa xuống một hành lang dẫn tới “phòng Đỏ”. Đó là lúc xác định danh tính lần cuối. Các nạn nhân phải tự khai bản tên của mình và sau đó họ sẽ được đưa tới phòng này. Khi nạn nhân bước vào, họ sẽ bị bắn một viên đạn vào sau gáy. Đúng vậy, nạn nhân bị giết bởi một phát đạn vào đầu. Họ bị giết theo nhóm khoảng một hoặc vài trăm người mỗi đêm. Ngay sau đó, các xác chết được chuyển lên xe tải chở đi khỏi thành phố và được chôn trong các khu rừng hoặc công viên gần đó.

            Bikivina, Butov, Leningrad, Vinica, Harkov…những ngôi mộ tập thể khổng lồ nằm rải rác khắp mọi nơi trong cả nước.
            Cả một thế hệ trẻ em bị mất cha mẹ và trở thành những kẻ vô-gia-cư. Chúng được gọi là trẻ em đường phố. Hàng triệu trẻ em đường phố đi lang thang xin ăn ở các thành phố của Liên-Xô. Đó là một cảnh tượng xấu hổ đặc biệt là với những người ngoại quốc đến thăm thành phố Moscow. Nhưng Stalin đã giải quyết vấn đề này. Giữa thập niên 1930, khi vấn đề vô-gia-cư trở nên nghiêm trọng, Stalin đã cho phép bắn những trẻ em trên 12 tuổi. Người dân bị bắn chết vào ban đêm tại một quốc gia lớn nhất trên thế giới. Stalin thậm chí đã đi xa tới mức giết người ngẫu nhiên và theo chỉ tiêu. Ví dụ: có 100000 người dân trong huyện Tambov. Mỗi một người bị bắt và bắn chết sẽ được tính vào sổ chỉ tiêu. Họ không quan tâm người đó là ai. Khi hoàn thành xong chỉ tiêu, chính quyền địa phương sẽ báo cáo cho Stalin và Trung Ương Đảng, để yêu cầu tăng mức chỉ tiêu cho họ!. Khrushchev từng yêu cầu tăng thêm chỉ tiêu của mình! Ông ta được phép giết 7 đến 8 nghìn “kẻ thù”. Ông ấy yêu cầu: “Hãy tăng mức chỉ tiêu của tôi lên thành 17 nghìn”. Và việc gia tăng chỉ tiêu giết chóc đã được chấp thuận. Và sau khi hoàn thành mức đề ra, họ lại tiếp tục yêu cầu tăng thêm nữa. Vì thế, đây là một vòng tròn luẩn quẩn. Một cổ máy xay thịt người chỉ biết giết, giết và giết. Stalin đã tắm trong máu. Stalin, Molotov, Voroshilov, Kaganovich và Zhdanov là năm kẻ giết người hăng máu nhất. Kết quả là giữa những năm 1937 và 1941 đã có 11 triệu người bị xử tử. Mười một triệu người. Bạn có thể tưởng tượng nổi mức độ đàn áp của họ lên chính dân chúng của mình? Giết hàng triệu người trong một thời gian ngắn quả là một thành tích đáng nể. Tôi không nghĩ rằng, cụ thể là Châu Âu chưa bao giờ thấy kiểu giết người như thế này về quy mô cững như tính chất. Có một người ở Châu Âu luôn theo sát tình hình tại Nga: Hitler. Holocaust lúc này chỉ mới là y’ tưởng trong đầu Hitler.

            Chuẩn bị cho một trật tự thế giới mới: Thế giới méo mó của Hitler đã bắt đầu hình thành từ đây. Sát nhập Áo, chiếm đóng Tiệp Khắc. Mọi người đều vỡ lẽ ra muốn tránh một thảm họa toàn cầu thì cần phải chặn đứng Hitler. Nhưng Stalin đã từ chối tham gia liên minh chống Hitler. Ý tưởng phá hủy trật tự quyền lực cũ ở Châu Âu cũng là y’ định của Stalin. Nhưng Hitler lại bị cho là kẻ ác. Ông ta sẽ phá hủy các trật tự cũ ở Châu Âu. Sẽ không còn quốc hội, công đoàn, quân đội và chính phủ. Và sau đó Stalin sẽ xuất hiện như một người giải phóng. Hàng triệu người mắc kẹt trong các trại tập trung đang chờ được tự do. Stalin và Hồng quân của ông ta sẽ đến như những giải phóng quân. Đây là kế hoạch của ông.

            Nhưng Hitler thiếu cả nguồn lực và sân sau an toàn để bắt đầu một cuộc chiến quy mô lớn. Vì thế, vào ngày 23 tháng 8 năm 1939, Hitler và Stalin đã ky’ kết một hiệp ước bảo đảm an toàn cho biên giới phía đông nước Đức và đảm bảo nguồn cung cấp nguyên vật liệu chiến lược khổng lồ nằm trong một hiệp định thương mại được ky’ sau đó. Ngày 24 tháng 8, bộ trưởng Ngoại giao Đức Quốc Xã Ribbentrop báo cáo Hitler về chuyến thăm Moscow. Hitler hoan hỉ!. Bây giờ ông ta có đủ mọi thứ cần thiết để bắt đầu một cuộc chiến tranh thế giới.
            Vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, Hitler tấn công Ba Lan từ phía tây. Ba Lan tuyệt vọng chiến đấu chống lại Đức Quốc Xã, nhưng sau đó, vào ngày 17 tháng 9, Ba Lan bị tấn công bất ngờ từ phía đông bởi Liên Xô. Theo tất cả các qui tắc của luật pháp quốc tế quyết định của chính phủ Liên Xô chiếm đóng Ba Lan rõ ràng là hành động xâm lược. Máy bay của Không Quân Đức ném bom các thành phố Ba Lan và trạm vô tuyến của Liên Xô đặt tại Minsk đã hướng dẫn chúng đến các mục tiêu.

            Hồng Quân năm 1939: Lúc ấy Hồng quân trông khác hẳn. Họ đã tham gia chiến tranh Thế Giới Thứ II bên cạnh lực lượng SS. Người dân địa phương không thể phân biệt được ai là ai. Vì vậy, để bảo đảm, họ thường chào đón cả hai. Quân đội Đức gặp Hồng quân ở miền Trung Ba Lan. Và hai con quái vật độc tài: Đức và Liên Xô chia đôi quốc gia này. Báo chí Xô Viết mô tả đây là cuộc chiến chống lại “Phát-Xít” Ba Lan. Những người yêu hòa bình ở Đức Quốc Xã và Liên Xô đang chiến đấu chống lại chủ nghĩa Phát-xít Ba Lan hiếu chiến. Nhưng thế giới đã không biết rằng cả hai kẻ độc tài đã đi đến thỏa thuận bí mật được ky’ kết tại điện Kremlin một tuần trước khi chiến tranh nổ ra, Hitler và Stalin đã đồng y’ việc phân chia cả Châu Âu. Ban đầu, đề xuất của Ribbentrop không đề cập đến việc này. Mặc dầu điều này nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng Stalin là người đề xuất thỏa thuận bí mật ấy. Theo nghị định mật thì Hitler đã bật đèn xanh cho Stalin chiếm đóng một số quốc gia Châu Âu. Quốc gia đầu tiên trong danh sách là Phần Lan. Khi máy bay đầu tiên ném bom Helsinki trong tháng 11 năm 1939, người dân Phần Lan cho đấy là máy bay Nga lạc đường và bắn phá nhầm Helsinky. Nhưng máy bay ném bom Liên Xô lại tiếp tục nhắm vào Helsinki. Thành phố tiếp tục bị phá hủy. Bạn cảm thấy nhịp tim của bạn đập nhanh hơn, chứng kiến những tòa nhà sụp đổ khi bom nổ. Moscow cáo buộc Phần Lan là một chế độ Phát-xít và phát động một cuộc chiến tranh bằng đường bộ. Đây là một thất bại thảm hại. Người Nga thiệt hại khoảng 300,000 người, chết vì lạnh và bị thương. Phần Lan bé nhỏ đã chống lại quân đội lớn nhất thế giới một cách phi thường, nhưng với một cái giá quá lớn. Cờ Phần Lan tiếp tục bay! Dù phải đi qua thung lũng tử thần, dù có thể mất tự do và lãnh thổ, họ vẫn tiếp tục chiến đấu!. Vì xâm lược tàn bạo vào Phần Lan, Liên Xô đã bị trục xuất khỏi Hội Quốc Liên. Chỉ có ba quốc gia bị lên án bởi Hội Quốc Liên là gây hấn và xâm lược: Nhật Bản quân phiệt, Phát xít Ý và Đức Quốc Xã. Bây giờ Liên Xô đã gia nhập với nhóm trên. Ở Châu Âu, Liên Xô chỉ còn lại một đồng minh: Hitler.

            Hitler phát động một cuộc chiến tranh chớp nhoáng về phía tây. Đức quốc Xã chiếm đóng Đan Mạch, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg. Na Uy đã bị chiếm đóng dưới sự hỗ trợ trực tiếp của Liên Xô. Stalin đã cho phép Đức quốc Xã xử dụng một căn cứ Hải Quân gần Murmansk, để Hitler đưa quân tấn công Na-Uy. Khi Berlin quyết định kết thúc việc xử dụng căn cứ này, Đô Đốc người Đức Raeder đã viết một bức thư gửi Tư Lệnh Hải Quân Liên-Xô Kuznetsov, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về việc đã hổ trợ Hải Quân Đức. Stalin đã viết cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Đức Quốc Xã Ribbentrop: “Tình hữu nghị giữa Đức và Liên-xô được bảo đảm bằng máu”. Hiển nhiên là bằng máu các nạn nhân của Liên-xô và Đức-quốc-Xã. Và đó thực sự là tình hữu nghị. Các sĩ quan Liên-xô và Đức-quốc-Xã gặp nhau và thảo luận về tiến trình của cuộc chiến. Lúc này là tháng 12 năm 1939. Tiến trình vẫn tốt và triển vọng còn tốt hơn. Đó là ly’ do tốt để ăn mừng. Liên-xô đã trở thành nhà cung cấp nguyên vật liệu chính cho cổ máy chiến tranh Đức-quốc-Xã. Hàng ngàn tấn dầu, quặng sắt và vật liệu xây dựng, thậm chí cả những đoàn xe lửa chở đầy lúa mì Liên-Xô cũng được gửi đến cho quân đội Đức. Trong khi những người dân Sô-Viết đang đói thì chính phủ của họ cung cấp lương thực cho Hitler. Liên-Xô còn đi xa hơn nữa. Họ còn thuyết phục các đảng cộng sản ở châu Âu phá hoại phong trào kháng chiến và hỗ trợ Đức-quốc-Xã. Công nhân thành phố Paris vui vẻ trò chuyện với các binh sĩ Đức như bạn bè trên đường phố hay trong các quán cà-phê. “Làm tốt lắm các đồng chí! Cứ tiếp tục như vậy nhé!”. “Dưới sự bóc lột của giai cấp tư sản, tình huynh đệ giữa con người luôn là một hy vọng hão huyền, nhưng nay đã thành sự thực”. Đảng cộng sản Pháp đã nói những điều này vào tháng 7 năm 1940. Giờ đây đảng cộng sản nói rằng họ đã chống lại Đức-quốc-Xã từ trước năm 1941-thời điểm Liên-xô bị Hitler tấn công. Trên thực tế, họ chống lại chính phủ của Thống Chế Pe1tain hơn là chống lại người Đức.

            Tháng 6 năm 1940, Hitler nghiền nát nước Pháp. Trong khi đó Stalin chiếm Lithuania, Latvia, và Estonia. Quốc gia duy nhất còn lại ở châu Âu chống lại Hitler là nước Anh. Nếu nước Anh đầu hàng, phe Trục sẽ giành quyền kiểm soát. Châu Âu lục địa, Châu Á, Châu Phi, Châu Úc và các vùng biển. Và họ sẽ dành được các vị trí chiến lược để sử dụng nguồn tài nguyên quân sự và hàng hải khổng lồ cho các hoạt động kiểm soát toàn bộ bán cầu này. Tổng Thống Mỹ Roosevelt xem Liên-xô như một nước thuộc phe Trục. Ai cũng thấy quá rõ ràng là Stalin đã từng thuộc phe Phát-xít. Thủ Tướng Liên-xô Molotov đã đến Berlin để thương lượng về việc phân chia quyền lực thời hậu chiến. Ông ta viết một bản danh sách các vùng lãnh thổ mà Liên-xô quan tâm đến. Có lẽ ông đang nói về các lợi thế của chủ nghĩa Phát-xít vì chính thủ tướng Liên-xô Molotov, chứ không phải Goebbels, từng cảnh báo phương Tây không nên chiến đấu chống lại hệ tư tưởng Đức-quốc-Xã. Còn hơn nữa. Trong bài phát biểu với lãnh đạo Xô-Viết tối cao tại điện Kremlin, Molotov tuyên bố rằng: “Đấu tranh chống lại hệ tư tưởng Đức-quốc-Xã là một tội ác!”. Bài phát biểu này đã được đăng trên tất cả các tờ báo lớn của Liên-Xô. Sau này, trang báo đó đã biến mất trong các thư viện công cộng của Liên-Xô, cùng với những tuyên bố ủng hộ Đức-quốc-Xã của chính quyền Xô-Viết. Vậy tại sao chống lại Đức-quốc-Xã lại được xem là tội ác dưới quan điểm của Liên-Xô? Bởi vì giết người hàng loạt và trại tập trung là cơ sở của hệ tư tưởng này. “Lao động sẽ giải phóng bạn”-khẩu hiệu tại trại tập trung của Đức-quốc-Xã. “Lao động là vinh quang”-khẩu hiệu tại trại tập trung của Sô-Viết. Nếu ai đó chống lại hệ tư tưởng của chủ nghĩa Phát-Xít-cũng có nghĩa là họ cũng chống lại chế độ Xô-Viết. Molotov biết rõ điều này. Bởi vì Molotov chính là người đích thân giám sát việc tiêu diệt 7 triệu người Ukraina. Còn Himmler chịu trách nhiệm tiêu diệt người Do Thái. Cả hai đều đồng y’ rằng vì lợi ích chung, những nhóm người nào đấy cần phải bị tiêu diệt. Winston Churchill không chỉ coi tư tưởng của Đức-quốc-Xã và cộng sản là rất giống nhau. Theo quan điểm của ông, chủ nghĩa Phát-xít là một hình thức của chế độ chuyên quyền cộng sản. “Chế độ chuyên quyền cộng sản ghê tớm” như cách Churchill gọi vào năm 1940, cuối cùng đã chiến thắng với sự trợ giúp của Đồng Minh. Đây là lễ kỷ niệm 60 năm chiến thắng vĩ đại. Một cuộc diễn binh lịch sử không kém so với cuộc diễn binh chiến thắng đầu tiên của quân đội Xô-Viết trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai cùng với Đức-quốc-Xã.
            Liên-Xô không bao giờ nói rằng đã từng diễn binh dưới cờ Đức-quốc-Xã. Moscow cũng công khai miêu tả mình là một cựu chiến binh chống Phát-xít. Nhiều người đã tin vào điều này. Có nhiều người Do Thái chạy trốn sang Liên-Xô để trốn thoát Hitler. Và rồi Stalin đã làm những điều không thể tưởng tượng được. Họ bị giam lại và được chuển ngay cho Gestapo để thể hiện lòng hữu nghị.

            Sự hợp tác giữa Liên-Xô và SS: SS của Đức-quốc-Xã và NKVD của Liên-Xô (Lực lượng An Ninh của Stalin) cộng tác với nhau rất chặt chẽ. Các tài liệu lưu trữ cho thấy có sự cộng tác ở quy mô rất lớn giữa hai cơ quan này. Danh sách dài những người cộng sản Đức và Do Thái mà Liên-Xô đã giao cho Đức-quốc-Xã.

            Tháng 12 năm 1937-tháng 4 năm 1938-tháng 5 năm 1938-tháng 11 năm 1938: Hầu hết những người này chết trong các trại tập trung của Đức-Quốc-Xã. Tuy nhiên, sự cộng tác của SS và NKVD không chỉ giới hạn ở việc dẫn độ những kẻ thù chung. NKVD huấn luyện cho Gestapo!. Bộ máy khủng bố của Liên Xô đã hoạt động được hai mươi năm trước khi Đức-quốc-Xã hình thành. Một phái đoàn của Gestapo và SS đến Liên-Xô để học cách xây dựng trại tập trung.. Các sĩ quan Liên-xô đã lần lượt đi đến Krakow lúc còn Đức-quốc-Xã chiếm đóng để gặp các đồng nghiệp SS. Các vấn đề Do Thái được đặt lên hàng đầu trong chương trình nghị sự. Các sĩ quan Liên-Xô sẽ phối hợp trục xuất người Do Thái với chuẩn tướng SS Otto Wachter, một trong những kiến trúc sư của Holocaust. Ông ta chuyển những người Do Thái tới các khu tập trung người Do Thái ở Krakow và sau đó tiêu diệt họ trong các phòng hơi ngạt.

            Sự thực là Nga không còn phủ nhận việc Liên-Xô đã hợp tác với SS. Những cái mà họ vẫn phủ nhận là sự hợp tác dựa trên một văn bản thỏa thuận. . Nó được viết bằng tiếng Đức có chữ ky’ của Beria. Dịch từ tiếng Đức: “Reichsfuhrer SS, chánh văn phòng An Ninh Trung Ương: Berlin, 3 tháng 11, 1938 “Với giấy phép này, tôi ủy quyền cho Đại Tá SS Muller ky’ thỏa thuận hợp tác giữa NKVD và văn phòng An Ninh Trung Ương Đức tại Moscow. Chúng tôi mong đợi nhiều rằng thỏa thuận này sẽ củng cố nền hòa bình và an ninh giữa hai quốc gia của chúng ta”. Trung Tướng SS Heydrich. Đính kèm theo tài liệu Lavrenti Beria. Tài liệu này được một nhân viên lén lấy từ kho lưu trữ bí mật của tổng thống tại Moscow. Và nó đã xuất hiện trên truyền hình Nga. Sau đó, đoạn phim này đã biến mất khỏi kho lưu trữ truyền hình. Không giống những quan chức hiện tại của điện Kremlin, các cựu viên chức Liên-Xô cũ, những người có thể truy cập vào kho lưu trữ của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng (nay là khu lưu trữ Tổng Thống), công nhận sự tồn tại của bản thỏa thuận này.

            Vladimir Karpov, cựu đại tá tình báo quân đội, hai lần danh hiệu Anh Hùng Liên-Xô, ủy viên Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên-Xô-cơ quan tối cao của Liên-xô. Chúng tôi đã phỏng vấn ông Karpov tại căn hộ của mình ở chung cư Kutuzov. Đại lộ số 26, Moscow. Tòa nhà này cũng la nơi ở của cựu giám đốc KGB-Andropov và nhà lãnh đạo Liên-Xô Leonid Brezhnev. Một thỏa thuận hợp tác bí mật đã được ky’ giữa KGB (NKVD lúc bấy giờ) và Gestapo. Tuy nhiên, Moscow không chấp nhận nó. Họ không thừa nhận bản chất tội ác của chế độ Xô-Viết. Bất kỳ tài liệu nào vạch trần bản chất đó thường được tuyên bố là giả mạo. Ví dụ như hiệp ước bí mật phân chia châu Âu. Điều thú vị là trong trường hợp này, một sử gia phương Tây đã ủng hộ sự phủ nhận của điện Kremlin. David Irving, người nổi tiếng với việc phủ nhận Holocaust. Nhưng tại sao ông ta lại phản đối tính xác thực của tài liệu này?. Chúng ta chỉ có thể đoán dựa vào đoạn trích dẫn sau trong văn bản thỏa thuận: “NKVD sẽ đề xuất với chính quyền Sô-Viết một chương trình giới hạn những người Do Thái làm việc trong các tổ chức chính phủ và cấm người Do Thái tham gia vào các hoạt động văn hóa và giáo dục. Ky’ bởi cục trưởng Cục An Ninh Quốc Gia thuộc Bộ Dân Ủy Nội Vụ Beria-đại diện chánh văn phòng An Ninh Trung Ương Đức Muller. Nghe có vẻ sốc. Nhưng thậm chí tệ hơn là ngày nay tại Nga, những việc làm của Stalin còn được hợp ly’ hóa nhiều hơn trước kia. Igor Radionov-cựu bộ trưởng quốc phòng Nga. Đây là một cuộc chiến thực sự. Một cuộc chiến chống chủ nghĩa Phát-xít Do Thái trong quốc gia của chúng ta.

            Radionov chỉ là một trong nhiều người Nga ngày nay tin rằng việc ủng hộ và hỗ trợ Hitler trong cuộc chiến chống lại người Do Thái trong thập niên 30 thực sự là một cuộc chiến cao quy’ chống chủ nghĩa Phát-xít. Họ gọi đó là chủ nghĩa Phát-xít Do Thái ở Nga ngày nay.
            Năm 1939, Stalin sa thải ngoại trưởng kỳ cựu Litvinov. Bởi vì Litvinov là một người Do Thái, điều này không hợp với việc ky’ kết bất kỳ một hiệp ước nào với Đức. Litvinov bị cách chức, lính và xe tăng của NKVD đã bao vây Bộ Ngoại Giao Liên-Xô và Stalin ra lệnh: “Dọn sạch cái giáo đường Do Thái này”. Không phải là một lời lẽ tốt đẹp lắm. Tưởng rằng chỉ Hitler mới nói như vậy. Nhưng Stalin cũng có thành kiến tương tự với người Do Thái.

            Nhà lãnh đạo cộng sản lưu vong Trotsky đã cảnh báo về chủ nghĩa bài Do Thái của Stalin cũng như về sự thông đồng giữa Stalin và Hitler. Cảnh sát mật của Stalin (GPU) giờ đây tương đương với Gestapo của Đức-quốc-Xã. Những bài phát biểu thẳng thắn của ông đã trở nên nguy hiểm đối với điện Kremlin.
            Trotsky biết rằng mỗi bài phát biểu của ông đều có thể là bài cuối cùng và hiểu rằng Stalin đang theo sát ông. Nhưng ngay cả trong cơn ác mộng tồi tệ nhất của mình, công cũng không thể tưởng tượng rằng ông sẽ chết một cách cực kỳ đau đớn.
            Stalin đã gửi một điệp viên tới Mexico. Hắn ta lẻn vào nhà của Trotsky và đập đầu ông bằng một chiếc búa leo núi. Trotsky đã chiến đấu với tử thần trong hai ngày cho đến khi ông qua đời trong cơn đau khủng khiếp.

            Trong thời gian Stalin lãnh đạo, những người chỉ trích điện Krmlin không hề được đối thoại, mà họ sẽ bị giết. Liên Bang Sô-Viết cũng như Đức-quốc-Xã không chỉ phạm tội mà còn có bản chất của một tập đoàn tội phạm. Để trở thành một thành viên trong Bộ Chính Trị của Stalin thì người đó phải có trách nhiệm giết người để được tin tưởng. Tương tự như một băng đảng tội phạm. Stalin hiếm khi ky’ các lệnh xử tử một mình. Các thành viên khác của Bộ Chình Trị cũng phải ky’ vào danh sách tử hình. Ngay cả những người sau đó lên án Stalin cũng chịu chung trách nhiệm về những vụ giết người hàng loạt. Những đồng chí đoàn kết với nhau vì một tội ác chung. Họ không có con đường nào khác ngoại trừ việc tiếp tục phạm tội ác.

            Vào tháng 3 năm 1940, trong một khu rừng gần làng Katyn, 8 hố chôn người đã được đào. Xe tải chở nhiều người đến đây. Họ là sĩ quan dự bị của quân đội, bác sĩ, kỹ sư, giáo viên người Ba Lan. Họ được ra lệnh bước xuống xe. Không ai được biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng tiếng ồn của xe tải làm người kiểm lâm thấy bất thường. Ông ta đã bị bắt giam trong 25 năm dưới một cái tên giả và không được liên lạc với thế giới bên ngoài. Họ có thể giết ông ta, nhưng không biết vì ly’ do gì họ chỉ giam ông ta. Có rất nhiều tài liệu về việc này. Vậy ông ta thấy những gì? Ông ta thấy các nhân viên NKVD giết người Ba Lan. Các nạn nhân bị đưa tới miệng hố. Và mỗi người bị bắn một phát vào gáy. Tay của họ bị trói chặt sau lưng. Họ bị bắt quì gần miệng hố để ngã luôn xuống hố sau khi chết. Bộ Chính Trị đã quyết định xử tử tất cả các tù nhân tại ba trại giam. Vụ thảm sát Katyn là vụ diệt chủng hàng loạt mang tầm vóc lớn đầu tiên trong Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Sau đó Đức-quốc-Xã tiếp tục việc này. Vụ thảm sát Katyn khởi đầu cho hàng loạt các vụ thảm sát “công nghiệp” và sớm đưa Thế Chiến thứ II thành cuộc tàn sát đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại.

            Sau Katyn, Liên-Xô tiếp tục các cuộc thảm sát khác một cách thường xuyên. Riga, Tartu, Lviv, Minsk. Thân nhân thường không thể nhận diện được xác chết. Họ đã bị tra tấn dã man đến mức bị biến dạng hoàn toàn.
            Trong khi đó, Liên-Xô đã trở thành một sức mạnh của phe Đồng Minh.

            Các sĩ quan Liên-Xô từng nhổ móng tay, cắt lưỡi và đóng đinh vào sọ của nạn nhân...giờ lại được nhận lương từ tiền viện trợ của phương Tây. Luật tội phạm chiến tranh của Anh bảo đảm cho họ quyền miễn bị truy tố ở Anh. Bởi vì theo luật tội phạm chiến tranh chỉ có người Đức mới phạm tội ác này. Bạn muốn biết mục tiêu của chúng tôi là gì? Tôi có thể trả lời đơn giản: Chiến thắng! Chiến thắng bằng mọi giá!.
            Suốt 60 năm qua, toàn bộ thế giới phương Tây chỉ tin rằng mọi tội ác chiến tranh đều do Đức-quốc-Xã gây ra. Rất khó để thay đổi quan điểm đó. Liệu châu Âu sẽ bao giờ có thể nhận ra những trang sử đầy tội ác này? Rất khó để trả lời câu hỏi này. Thảm sát là thảm sát. Không nên có sự phân biệt tùy thuộc ai là kẻ thủ phạm. Tuy nhiên sự phân biệt đó vẫn tồn tại. Các sĩ quan Sô-Viết đã được trao huân chương cho việc tiêu diệt 20,000 người tay không tấc sắt. Thiếu tá Soprunenko là người tiến hành việc xử tử tại Katyn được nhận Huân Chương Danh Dự. Và Serov, người sau này là thủ trưởng Cơ Quan KGB đã được nhận Huân Chương LeNin, huân chương nhà nước cao quy’ nhất cho việc bắn chết các sĩ quan Ba Lan. Hơn 27 triệu công dân Sô-Viết đã chết trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ II. Nhưng đảng cộng sản, luôn cố gắng giảm bớt con số này. Tại sao? Bởi vì chỉ có một phần nhỏ trong số họ bị giết bởi người Đức. Chúng ta phải nhớ rằng khi Hồng Quân ra trận, đi sau Hồng Quân là một đội quân thứ hai-NKVD với xe tăng riêng và súng máy nhắm bắn về phía trước để không ai có thể thối lui.

            Viktor Baturin, Chủ Tịch Hội Quân Sử Nga, đã kể những câu chuyện ghê tởm trong quân đội Sô-Viết- Sau những trận đánh lớn, các đơn vị đặc biệt của NKVD lùng sục khắp chiến trường để thu hồi các thẻ bài của các binh lính Liên-Sô tử trận, để biến họ thành những kẻ vô danh. Không có quốc gia nào trên thế giới đối xử như thế với binh lính của mình. Vì chính sách ghê tởm của chính quyền Sô-Viết, hơn một triệu công dân Sô-Viết đã gia nhập phe Đức quốc Xã. Tôi thề sẽ tuân theo lệnh của Tổng Tư Lệnh Tối Cao Adolf Hitler. Họ phải quay lại chống đồng bào của mình. Những ai từ chối sẽ bị thẳng tay trừng trị bởi những kẻ thân Đức. Nếu như xung quanh chúng ta xuất hiện kẻ phiến loạn, chúng ta sẽ xử ly’ chúng không thương xót!.

            Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại sắp kết thúc. Stalin đang ngự trị trên đỉnh cao của danh vọng, ông biết rằng không ai dám phán xét những người đã chiến thắng Hitler.

            Vì vậy, khi kết thúc chiến tranh, ông ta tiếp tục phạm những tội ác khủng khiếp nhất. Stalin đã đày ải hoàn toàn hơn chục dân tộc! Kể cả trẻ em và người già, nam, nũ, thậm chí có cả đảng viên cộng sản. Họ bị đày tới Trung Á, Kazakhstan, Chechnya, Ingush, Kalmyk, Karachaevs và Crimeantatar. Cả chục nước Cộng Hòa trên đã bị xóa sổ hoàn toàn. Liên-Xô lưu đày các dân tộc với quy mô lớn tương tự như SS đã làm. Việc lưu đày này cực kỳ khủng khiếp, 60 đến 70 người bị nhồi vào những toa chở súc vật. Không có chỗ để đi vệ sinh, chỉ có một cái lỗ duy nhất trên sàn tàu. Họ bị nhồi chặt đến nỗi chỉ có thể đứng chứ không ngồi được.

            Tại nhà ga, họ phải dọn dẹp hàng trăm xác chết ở trên tàu. Emmakorpa-người sống sót trong trại Cu-lắc-đã kể lại: “Sau đó chúng tôi kéo các xác chết trên xe trượt tuyết đến nghĩa trang. Lúc con trai tôi được kéo tới nơi, không có lính gác trực-trẻ em không bị cho là tù nhân nên chúng được chôn ở nghĩa trang dân sự. Còn tất cả chúng tôi chỉ được phép chôn trong đầm lầy. Khi một đứa trẻ khác chết, tôi cũng phải kéo nó đến đó. Và tôi mới có cơ hội thăm viếng mộ của con trai tôi lần cuối cùng”.

            Tháng 5 năm 1945, lực lượng đồng minh đã đánh bại Hitler. Liên-Xô không hề phá hủy các trại tập trung của Đức-quốc-Xã vì họ tiếp tục sử dụng chúng sau chiến tranh. Các thỏa thuận mà Stalin đã ky’ kết với các nước phương Tây ảnh hưởng tới toàn bộ châu Âu trong 50 năm tiếp theo. Mặc dầu tội ác của hai chế độ độc tài tương tự như nhau, nhưng hậu quả chính trị của chúng sau chiến tranh hoàn toàn khác nhau. Số phận người dân Đông Âu và Tây Âu cũng rất khác nhau.

            Liên-Xô đã chuyển một lượng lớn người Nga đến sống tại các nước vùng Baltic mà họ vừa chiếm đóng được. Đây rõ ràng là một vụ vi phạm Công Ước Geneva đã nghiêm cấm chuyển dân thường tới sống tại các nước hiếm đóng. Kremlin có chiến lược thanh tẩy sắc tộc trong vùng Baltic nhằm biến người Nga trở thành đa số trong những thành phố lớn vùng Baltic.

            Trong khi đó người Estonia, Latvia và Litra bị đưa lên các toa tàu chở súc vật và bị đày tới Siberia. Các quốc gia Baltic nhỏ bé bị đưa tới bờ vực của sự tuyệt chủng. Lưu đày, xử tử và tra tấn đã trở thành thực tế hàng ngày cho hàng triệu người thời hậu chiến. Các trại tập trung nằm rải rác khắp Đông Âu đến tận Siberia. Tại đó, những thí nghiệm y tế khủng khiếp được tiến hành trên con người.
            Trong trại Buturichaga ở Magaden, KGB đã sử dụng hàng ngàn tù nhân như chuột thí nghiệm trong các thí nghiệm với bộ não. Những tù nhân vẫn còn sống khi thí nghiệm được thực hiện.

            Tất cả những việc này xảy ra sau khi Đức-quốc-Xã bại trận và các nạn nhân đều được tưởng niệm. Còn nạn nhân của các trại tử thần của Liên-Xô được chôn trong các ngôi mộ tập thể. Và chẳng có các đài tưởng niệm nào ở đây cả. Chỉ có đống giày của các nạn nhân bị giết, có cả giày của trẻ em.

            Biết rằng không bị truy tố, KGB tiếp tục khủng bố dân chúng và tự do bộc lộ bản năng thú vật của họ. Rita Papina- người sống sót trong nạn khủng bố Sô-Viết: “Chúng tôi ra khỏi đó. Có một vũng máu lớn chúng tôi lấy máu cho vào một lọ thủy tinh. Bởi vì đó là máu của cha tôi. Tôi cảm thấy rất khó nói về chuyện này. Như thế là vết thương lòng của tôi đang rỉ máu lần nữa.”. Các sĩ quan KGB đã đánh đập và tra tấn phụ nữ liên tục trong 20 tiếng đồng hồ. Không phải ai cũng chịu đựng được. Veronika, vợ của Valtmans Ernests đã bị đánh đập và tra tấn bởi Dzintars và những đồng sự say mềm trong bốn ngày liền. Cuối cùng, bà ta đã treo cổ tự tử trong phòng giam của mình. Khi Liên-Xô sụp đổ, Dzintars đã chạy trốn về Nga. Điện Kremlin từ chối dẫn độ hắn và gọi hắn là cựu chiến binh danh dự. Dưới bàn tay của các cựu chiến binh KGB, Liên-Xô đã khủng bố và tra tấn những người dân vô tội. Họ là những người lính gác các trại tử thần, nơi hàng triệu người đã bị giết và hàng ngàn người được sử dụng trong các thí nghiệm y học khủng khiếp.

            Nhiều cựu cai tù của các trại tử thần này vẫn còn sống. Không như các đồng nghiệp SS, họ tự hào về những gì mình đã làm. Họ tự hào về Liên-Xô, nhà nước cho phép họ làm những việc này. Cựu tổng thống (nay đương kim Thủ Tướng) Nga, ông Putin, đã nói: “Ta phải thừa nhận rằng sự sụp đổ của Liên Bang Sô-Viết là thảm họa chính trị lớn nhất của thế kỷ này”. Không ai muốn thừa nhận rằng cha ông của họ là tội phạm. Đó chính là vấn đề. Tôi nghĩ rằng nước Nga trong vai trò thừa kế của Liên-Xô có nghĩa vụ tiến hành điều tra toàn diện các tội ác và bản chất thật sự của chế độ Sô-Viết. Tôi nghĩ rằng cho đến nay họ không sẵn sàng hoặc không thể làm việc đó. Trong thời kỳ Gorbachev và Yeltsin ít nhất các tội ác của Liên-Xô đã không được công khai. Trong thời đại của Putin chúng ta lại thấy một ứng xử hoàn toàn khác. Với quan điểm rằng nước Nga hiện tại đang nối bước của Liên-Xô cũ và bắt kỳ công kích nào vào Liên-xô được xem là công kích vào nước Nga hiện tại.
            Hình ảnh của nước Nga đã được tạo dựng rằng họ thuộc về một đế chế lớn. Khi đế chế ấy mất đi, họ cảm thấy như họ bị mất bản sắc của chính mình. Đây là cảm giác tự ti của nỗi nhục quốc gia đã tồn tại ở Đức sau khi Chiến Tranh Thế Giới thứ Nhất kết thúc và chúng tôi cũng có những cảm giác như vậy sau khi Liên-Xô sụp đổ. Đó là mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa Tân Phát-Xít.
            Đừng quên, nước Nga bây giờ, không phải chỉ khoanh tay ngồi hối tiếc cho một thời đế quốc Liên Xô vùng vẫy dọc ngang, ngang dọc, mà như con hổ đang bị thương chờ hồi phục.

            Tên bồi bút hạng nặng tại Hà Nội: nhà “đại thi hào” Tố Hữu, đã có những lời thơ não nùng, ai oán: “Ới ông Sít-ta-lin ơi!. Hỡi ơi! Ông chết đất trời biết không?. Thương cha, thương mẹ, thương chồng, Thương mình, thương một, thương ông thương mười” Hoặc: “Hoan hô Sít-ta-Lin, Đời đời công đại thọ. Sít-ta-Lin, Sít-ta-Lin, Yêu biết mấy nghe con tập nói, Tiếng đầu lòng con gọi Sít-ta-Lin”.
            Những tên đồ đệ trung thành một cách tuyệt đối chủ nghĩa ngông cuồng của Marx, Engels và Stalin tại Hà Nội, đã thi hành giết chóc không gớm tay đồng bào ruột thịt của mình: Từ năm 1945-1957, chúng đã giết tầng lớp trí thức: 50000 người.

            Cải cách ruộng đất trên đất Bắc: 10,303,004 người. Tết Mậu Thân (1968): 5800 người. Xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975: 10,000,000 người. Sở Công An Sài gòn đến cuối tháng 7 năm 1975 đã đẩy 154,772 quân nhân viên chức VNCH cũ vào các trại tập trung. Đến cuối tháng 10, cùng năm (1975), công an bắt thêm 68,037 người nữa. Cộng chung đến ngày 30 tháng 10 năm 1975, tổng số cựu quân nhân viên chức VNCH cũ, bị chúng giam giữ trong khoảng 200 trại tập trung trên toàn cõi Việt Nam là 222,809 người. Đến tháng 4 năm 1992 người cuối cùng mới ra khỏi trại tập trung. Trong 17 năm đó, ước lượng từ 8000 đến 10,000 tù chính trị bị chết do chính sách thù hận thâm độc của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Và hiện nay, chúng đang đối đầu với chánh sách bành trướng, một đồng chí thân thiết nhất, “môi hở, răng lạnh”: bọn thổ phỉ Trung Cộng. Bọn Rợ Hán này đang nắm trong tay sinh mạng của đám lãnh đạo hèn nhát và đã có kế hoạch để đồng hóa và tiêu diệt gần 90 triệu dân Việt trong những năm sắp tới đây.

            Những quốc gia văn minh cần phải phát triển một chính sách thống nhất để chấm dứt những hành động thù nghịch của những nước gây hấn, bất kể họ là ai. Về vấn đề này, lịch sử có thể cống hiến những bài học giá trị. Chúng ta cần phải học những lỗi lầm của những người khác như Thượng Đế biết chúng ta không có thời giờ để lập lại tất cả những lỗi lầm như vậy. Trong khoảng thời gian giữa thập niên 1930, Adolph Hitler với sự trợ giúp của Heinrich Himmler, đã tiến hành một chiến dịch chống lại những người cấp tiến, Do Thái, những người theo chủ nghĩa xã hội, Cộng Sản, những người Gypsy, và những nhóm không được ưa chuộng khác. Một Âu châu thụ động đã theo đuổi một chính sách nhân nhượng vô nguyên tắc đối với Hitler với ý nghĩ rằng làm như vậy sẽ tránh được xung đột và chiến tranh. Không ai có một phản ứng nào cả khi Đức xâm chiếm vùng Saar [nằm ở khu vực biên giới giữa Đức và Pháp] vào năm 1935; hay vùng Rhineland [nằm ở khu vực biên giới giữa Đức, Bỉ, Luxembourg, và Hòa Lan] vào năm 1936, hoặc Áo và Tiệp Khắc vào năm 1938. Sau khi Đức xâm chiếm Ba Lan vào tháng 9, 1939, Thế Chiến Thứ Hai bắt đầu, hàng triệu người chết một cách vô ích bởi vì không ai có can đảm để ngăn chặn chế độ Nazi sau khi họ đồng hóa vùng Saar vào năm 1935.

            Khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, những cường quốc quân sự ưu thế trên thế giới đã để cho Liên Bang Xô Viết xâm chiếm hoàn toàn một số quốc gia và tước đoạt quyền tự quyết của một số đông dân chúng tại Ba Lan, Bảo Gia Lợi, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Lỗ Ma Ni, An Ba Ni, và tạo ra cả Đông Đức. Chính hoàn cảnh này đã gây ra chiến tranh lạnh. Hàng ngàn tỉ đô la đã được đổ vào những công nghệ quân sự thay vì dùng để khám phá ra những cách chữa trị những căn bệnh giết người, chấm dứt nạn đói trên thế giới, và những thứ tương tự.
            Ngày nay, đang có một mối đe dọa giống như vậy có thể làm thế giới bất ổn. Nó không được biết đến nhiều như mưu đồ của Hitler hay Stalin, tuy nhiên cũng xảo quyệt, tính toán, và khôn vặt. Nguồn gốc của mối đe dọa này bắt nguồn từ phía đông của Vịnh Bắc Việt trong một vùng mà người Việt Nam và chính tôi gọi là Biển Đông. Dĩ nhiên, những người Trung Quốc gọi là Biển Nam Trung Quốc, suy cho cùng, họ là một kẻ mạnh ở trong vùng và trong cố gắng muốn viết lại lịch sử đã hăm dọa và tiêu diệt những ai chống lại sự thâu tóm quyền lực của họ.
            Điều quan trọng không phải là Biển Đông có vào khoảng 30,000 hòn đảo và đá ngầm. Thâu tóm lại, Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Phi Luật Tân, Mã Lai, và Brunei đòi hỏi chủ quyền trên một số những mảnh đất nhỏ bé này. Vì những hòn đảo này nằm trong “Biển Nam Trung Quốc”, chúng đều phải thuộc Trung Quốc, bất kể đến lịch sử thật sự.

            Những văn bản cổ của hai sử gia Trung Quốc Lĩnh Ngoại Đại Đáp (Ling Wai Da) và Chu Phan Chi (Zhu Fan Zhi) cho thấy rằng Hoàng Sa (Paracel Islands) và Trường Sa (Spratly Islands) nối kết với và là một phần của một vùng nay là Bắc Việt Nam. Sự kiện này đã được nhắc lại trong tài liệu của Thế Kỷ 17; bản đồ của vùng trong năm 1838; và bởi đế quốc tây phương Pháp qua triều đại nhà Nguyễn vào năm 1887 và 1933. Nhiều tài liệu tham khảo liên kết những đảo Hoàng Sa và Trường Sa với Việt Nam từ thời cổ. Khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, Trung Quốc toan tính chiếm đất ở Biển Đông, nhưng Tuyên Ngôn Cairo (Cairo Declaration) ủng hộ đòi hỏi chủ quyền của Việt Nam đối với những đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quan điểm này được xác nhận tại Hội Nghị San Francisco về Thỏa Hiệp Hòa Bình (San Francisco Conference on the Peace Treaty) với Nhật Bản vào năm 1951. Cho đến ngày hôm nay, Trung Quốc là một nước đã thành công nhiều nhất trong việc lùng kiếm để lấy thêm đất đai. Trung Quốc thôn tính Tây Tạng vào năm 1950; Trung Quốc hiện nay kiểm soát kinh đào Panama, Hồng Kông kể từ 1997 và Ma Cao 1999.

            Vào năm 1988 không bị gây hấn Trung Quốc tự dưng tấn công vào đảo Trường Sa mang cờ Việt Nam. Đây là một hành động giết người có tính toán đáng lẽ làm sỉ nhục cả thế giới. Trên 64 người Việt bị giết chết một cách vô ích và một số khác bị mất tích vì cuộc xâm lăng trắng trợn. Cho đến nay, quân đội Trung Quốc tiếp tục thi hành chính sách quấy rối những thuyền đánh cá và nghiên cứu khoa học không phải của Trung Quốc tại Biển Đông. Gần đây, Trung Quốc đâm vào và đánh đắm những thuyền đánh cá của Việt Nam và bắt giữ toàn thể thủy thủ đoàn.
            TNS John McCain đã tuyên bố công khai rằng ông không ủng hộ Trung Quốc trong việc đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông. Vào ngày 23 tháng 7, 2010, Bộ Trưởng Ngoại Giao Hillary Clinton đã đề nghị một giải pháp cho toàn vùng Biển Đông. Ngay sau đó, báo Manila Times đã tường thuật rằng Ngoại Trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì (Yang Jiechi) đã tuyên bố rằng “Việc mời Việt Nam tới Hoa Kỳ để dàn xếp (vấn đề Biển Đông) là một hành động tấn công vào Trung Quốc.” Đây là những lời nói bừa bãi của một kẻ xâm lăng du côn cốt để dọa dẫm kẻ yếu. Đây là Hitler của 1935. Đây là Stalin của 1945. Biển Đông không chỉ thuộc Trung Quốc và thế giới phải bảo đảm rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ kiểm soát tất cả các đường tiếp cận và tài nguyên của vùng này. Một sự nhân nhượng đối với kẻ xâm lăng côn đồ ngày hôm nay chắc chắn sẽ tạo ra một cuộc xung đột võ lực trong tương lai gần. Tất cả những quốc gia Đông Nam Á đang tích cực tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho vấn đề nan giải này không thể bị bức chế bởi một nước đang tìm cách bóp méo sự thật của lịch sử và sau đó sát hại để bảo vệ sự dối trá của họ.
            Vì lợi ích của hòa bình thế giới, lương thiện, và công ly’ mà ngày nay thế giới cần làm điều phải và hổ trợ chủ quyền của Việt Nam đã được chứng minh bằng tài liệu đối với các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chúng ta bắt buộc không thể trở thành nạn nhân của những kẻ lạm dụng sức mạnh và đe dọa dùng bạo lực để đạt được mục tiêu chính trị đảng phái, trong khi đó những người yếu đuối là những kẻ phải chịu thiệt thòi như Hitler đã làm vào thập niên 1930 và Stalin trong thập niên 1940.

            Đã hơn 36 năm qua, dân tộc Việt Nam đã trải qua những phân ly, chết chóc. Trên ba triệu người đã may mắn trốn thoát khỏi địa ngục trên dương thế và đang ở rải rác khắp nơi trên thế giới. Riêng tại Hoa Kỳ, đã có vào khoảng 1.6 triệu người Việt tỵ nạn. Trước khi tôi gửi đến bạn những thành quả vượt bực của con, cháu chúng ta trên những quốc gia tạm dung, tôi xin kể hầu bạn câu chuyện:
            Ngựa tái ông: Điển tích Ngựa Tái Ông trong cổ văn có ghi: “Đắc mã thất mã nan tri họa phúc” (tức là: được ngựa mất ngựa chưa biết họa phúc ra sao).

            Tái Ông là tên gọi tắt của Tái Thượng Ông, một ông lão ở cửa ải Nhạn Môn Quan, nơi giáp với phiên bang (Trung Quốc).
            Tái Ông có một con ngựa lang bỗng nhiên đi mất. Người trong xóm được tin Tái Ông mất ngựa liền rủ nhau đến chia buồn.
            Tái Ông tươi cười, vui vẻ đáp: “Mất ngựa chưa chắc là điều họa, biết đâu đó là chuyện may!?”.
            Hàng xóm nghe nói rủ nhau ra về.
            Vài ngày sau, con ngựa lang của Tái Ông lại trở về, dắt theo con ngựa cái khác.
            Hàng xóm nghe Tái Ông được ngựa lại rủ nhau đến chúc mừng.
            Tái Ông nói: “Được ngựa chưa chắc là may! Biết đâu đó là họa.
            Hàng xóm nghe nói lại rủ nhau về.
            Tái Ông có người con trai, tuổi vừa thành niên, tánh ham chơi, bỗng nhiên có con ngựa mới, con ngựa này rất hay, nên người con trai Tái Ông thích lắm, ngày nào cũng cưỡi vào rừng săn nai, đuổi thỏ.
            Chẳng may, một hôm rủi ro, con trai Tái Ông bị té ngựa gãy tay. Tin đồn khắp nơi, hàng xóm lại chia buồn và nói: “Chà! Kỳ này lão ông rủi ro quá! Con trai gãy tay thật đau xót”.
            Tái Ông nói: “Con trai tôi gãy tay chưa chắc đó là họa. Biết đâu lại là chuyện may”.
            Chẳng bao lâu trong nước có giặc, nhà vua ra hịch truyền thanh niên đến tuổi thành niên phải đi lính. Con trai Tái Ông vì bị gãy tay nên được miễn. Kỳ tuyển binh đó nhiều thanh niên bị tử vong, trong lúc con trai của Tái Ông được ở nhà, phụng dưỡng cha già rất hiếu thảo.
            Câu chuyện ngựa Tái Ông là điển tích người đời sau thường dùng để nói lên việc họa phúc trong đời người không biết đâu mà lường trước được.
            Trong một bài thơ của cụ Huỳnh-thúc-Kháng có nói đến tích Ngựa Tái Ông: “Kìa tụ tán chẳng qua là tiễn biệt, Ngựa Tái Ông họa phúc biết về đâu”.

            Đã hơn 36 năm, dân tộc Việt Nam đã chịu thống khổ đọa đày dưới sự thống trị của một tập đoàn bán nước. Chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước chỉ có thể được bảo toàn bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, chứ không một ai, một cá nhân nào có thể lo nổi. Đảng và Nhà Nước có trách nhiệm nhưng không thể chỉ có Đảng và Nhà Nước lo. Nói như vậy là xóa bỏ trách nhiệm công dân, tạo nên khoảng cách xa vời giữa nhân dân với Đảng và Nhà Nước; vô hình chung phá vỡ sức mạnh dân tộc, xói mòn lòng yêu nước.
            Hãy để cho nguồn sức mạnh ấy được phát huy, được lan tỏa từ mỗi con người, mỗi góc phố, mỗi xóm làng trên khắp đất nước Việt Nam thân yêu. Có như thế, chúng ta mới bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ đất nước và chủ quyền dân tộc.
            Cũng nhờ cuộc đổi đời cay nghiệt 30 tháng 4 năm 1975, dân tộc Việt Nam cả ba miền, mới thấy rõ bộ mặt thật của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
            Một hình ảnh nổi bậc trong đoàn biểu tình chống Trung Cộng vào ngày 24 tháng Bảy năm 2011 vừa qua tại Hà Nội: Anh thư Trịnh Kim Tiến- tiêu biểu cho giới trẻ Việt Nam ở quốc nội- đã tạm gác thù cha, xuống đường cùng đồng bào Hà Nội biểu tình phản đối Trung Quốc. Đây là lần thứ năm cô tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội.

            Tại hải ngoại, con em của chúng ta đã thành công vượt bực trên mọi lãnh vực.
            Ước vọng của tôi là: một ngày nào đó bọn thổ phỉ Trung Cộng và bè lũ bán nước Việt cộng sẽ bị xé ra từng mảnh. Tôi nghĩ đây cũng là ước vọng chung của tất cả mọi người yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
            (Đa tạ những văn nhân, dịch giả…có những đoạn trích đăng trong bài sưu tầm này. MCN)
            Mây-cao-Nguyên
            ( Canada-Tháng 7 năm 2011)

            Comment


            • #21
              Râu cọp

              Mây-cao-Nguyên

              Tuần vừa qua, nhà tôi và tôi được hai vợ chồng người em kết nghĩa (lúc chúng tôi còn ở tại Hồng Kông) mời dùng cơm gia đình. Món ăn độc đáo và khoái khẩu nhất đó là món: Ngỗng hầm sâm chưng cách thủy. Cách làm tôi chỉ nhớ thoang thoáng như sau: Một con ngỗng tơ, 300gr hạt dẻ, 100gr củ hành, 100gr hạt sen, 100gr nấm Đông cô, 200gr táo, một ly rượu rum nhỏ hoặc một ly Cognac, hành tiêu, nước mắm, ớt tỏi, lá thơm, một hộp nước cốt gà nhỏ với sâm (mua ở các tiệm tạp hóa Á Đông), một gói sâm tươi.
              Cách làm: Ngỗng rả cánh theo cánh, đùi theo đùi, thân thì chặt ra từng miếng to bằng nửa bàn tay. Dùng dao khứa từng đường ngang để dễ chín và gia vị dễ thấm vào thịt. Sau đó đổ tất cả những thứ kể trên cùng với gia vị vào thịt ngỗng trộn đều, sâm tươi cắt ra làm tư theo hình dọc. Đậy nắp lại để qua đêm càng tốt, sau đó cho vào “microwave” vào khoảng 10 phút trước khi cho vào nồi để chưng cách thủy độ một tiếng hoặc hơn. Sau khi chín, múc mỗi người một tô cho hành Tây và ít cọng ngò lên mặt, món này bắt buộc phải đi kèm với rượu chát đỏ do Pháp chế tạo.
              Tại sao phải chọn rượu vang do người Pháp sản xuất?. Lúc tôi đi Pháp nghỉ Hè, một vị bô lão tại quận lỵ Sevran, đã kể cho tôi nghe một câu chuyện rất l‎y’ thú về sự tích này như sau, xin kể lại hầu bạn.
              Thuở xa xưa, có một tên bần nông chuyên môn làm nghề trồng nho để làm rượu đem bán lại cho bạn bè trong xóm và những vùng phụ cận. Nhưng rượu của anh ta kém cả phẩm lẫn lượng so với rượu của các nước láng giềng như: Đức, Y’, Anh…v..v..nên không được khách hàng chiếu cố cho lắm. Lúc vừa tròn hai mươi lăm tuổi, anh có quen với một cô thôn nữ ở lứa tuổi mười tám, cô này có một làn da như ngọc, chưa một lần phải hơi trai và đặc biệt da thịt của cô tỏa ra một mùi vị tinh khiết và thơm tho, kể cả chất mồ hôi của cô tiết ra. Sẵn có đầu óc tưởng tượng phong phú và tràn đầy tham vọng quyết tâm làm giàu, anh đã quì xuống hôn đôi bàn chân ngọc của người yêu để van xin cưới nàng làm vợ. Và nàng đã ưng thuận.
              Sau khi cưới nhau, họ đã bán cả tư trang vàng, bạc để quyết tâm thực hiện y’ định. Họ thuê mười cô trinh nữ tuổi từ 16 đến 18 tuổi và phải qua một cuộc khám nghiệm của một vị nữ bác sĩ. Phòng đạp nho được xây kín, nhiệt độ ở vào khoảng 35 độ bách phân và có thể tăng, giảm do vợ chồng anh đứng trông coi và quản ly’. Trước khi vào phòng đạp nho, các cô được tắm rửa cẩn thận. Đạp hai tiếng, nghỉ xả hơi mười lăm phút, giải khát bằng sữa hoặc nước cam tươi nguyên chất, bữa cơm trưa được phục vụ bằng thịt bò bíp-tết, khoai Tây hầm và uống cam tươi. Lương tiền trả cao hơn một công nhân bình thường ở bên ngoài. Bạn thử tưởng tượng đứng đạp nho trong một phòng kín với một nhiệt độ 35 độ bách phân, thỉnh thoảng bà chủ vặn cho nó lên trên bốn mươi độ, bao nhiêu tinh chất từ trong người đều theo các tuyến hạch đổ ra xối xả hòa lẫn với nước nho. Không nói thì bạn cũng biết được kết quả rượu chát đỏ hay trắng do đôi vợ chồng trẻ này sản xuất không đủ để cung cấp, thì lấy đâu mà xuất cảng? Chỉ một thời gian ngắn, họ đã trở thành triệu phú.
              Có thể đây là một câu chuyện đùa chơi của các tay nhậu thuộc hàng Vương-tửu. Nhưng nói tóm lại, nếu bạn là tay nhậu sành điệu, cũng nên giả vờ gật đầu đồng y’ với tôi một chút xíu cho vui, là rượu vang đỏ của Pháp có thể ăn đứt tất cả các loại rượu vang nào của các nước trên thế giới sản xuất.
              Món Ngỗng hầm Sâm chưng cách thủy của vợ chồng người em kết nghĩa tại Port Moody khoản đãi, thật đáng để đời. Vừa ăn xong, tình xuân của tôi dâng lên phơi phới ngay. Nên sau khi về lại White Rock, vừa đậu xe xong, tôi phải đuổi nhà tôi chung quanh nhà gần sáu vòng, muốn hụt cả hơi mới bắt được. Nói xin bạn đừng che miệng cười, sau khi bắt được nhà tôi, vì chạy sáu vòng mệt gần bở hơi tai nên chẳng “xơ múi” gì được. Chúng tôi nằm dài trên bãi cỏ thở hổn-hển. Bạn có thấy tội nghiệp cho tôi không?.
              Đa số chúng ta đều có y’ tưởng cho rằng đàn bà là một giống phái yếu. Theo các cuộc thăm dò, tuổi thọ của người đàn ông trung bình từ bảy chục đến bảy mươi lăm tuổi. Đàn bà họ sống dai hơn đến mười năm. Nếu có dịp bạn đi thăm một người nào đó tại Viện Dưỡng Lão, bạn sẽ thấy đa số các lão bà, còn các lão ông thì rất ít.
              Một điều ngạc nhiên, đàn ông lại bị bệnh tâm thần như lo lắng, sầu khổ…hơn đàn bà. Đừng nên đánh giá thấp đàn bà. Đó là một điều nhầm lẫn rất lớn.
              Nhưng bạn sẽ hỏi, nếu đàn ông và đàn bà gần giống nhau và có sở thích trùng hợp khi họ kết hôn với nhau, tại sao vẫn còn có những sự xung đột giữa hai giống phái?.
              Chúng ta hãy xét trường hợp của Ánh và Khoa, một cặp vợ chồng trẻ yêu đời. Họ có cùng một sở thích như nhau: khiêu vũ, bơi lội và tiệc tùng. Họ phát xuất từ những gia đình danh giá, trình độ học vấn cao, cả hai đã tốt nghiệp Đại Học, thể xác cường tráng…Về phương diện tâm ly’, đây là một cặp vợ chồng xứng đôi, vừa lứa, hôn nhân của họ dễ đi đến thành công.
              Họ đã sống sung sướng, hạnh phúc trong vài năm đầu. Rồi thì, họ tậu được một căn nhà xinh xinh, Khoa bắt đầu bận bịu với công ăn, việc làm, để kiếm tiền trả nợ cho ngân hàng.
              Đó là kinh nghiệm đầu tiên của người thanh niên tự lập. Sự thúc đẩy mạnh mẽ, và cũng là bản chất tự nhiên của người đàn ông phải lo cho tương lai và sự sinh tồn của gia đình trong một xã hội vật chất, xô bồ.
              Khoa đã quên khuấy đi kỷ niệm ngày cưới, sinh nhựt của vợ. Chàng đã quên hẳn những buổi tiệc tùng, bạn bè…để tranh thủ làm việc ngày đêm. Những lúc làm tình với vợ như để trả nợ cho xong, còn tâm trí của anh vẫn nghĩ đến công ăn, việc làm.
              Một ngày kia, Ánh đi mua một đôi giày giá 60 đô-la. Khoa than phiền: “Tại sao em lãng phí một số tiền quá lớn, trong khi chúng mình cố gắng dành dụm để trang trãi nợ nần?”.
              Ánh nổi giận đáp lại: “Anh đừng có bủn xỉn như vậy”. Và họ bắt đầu gây gỗ với nhau.
              Bạn có biết tại sao Ánh đi sắm một đôi giày mới hay không? Thưa bạn, Ánh đã cố gắng đền bù những thiếu vắng tình cảm, sự thừa nhận và chăm sóc của chồng nàng.
              Về phía Khoa, chàng đã có cảm tưởng mình đã làm hết trách nhiệm của người chồng. Anh đã làm việc cặm cụi ngày đêm và Ánh đã biết vì nàng và vì tương lai của hai người.
              Nhưng trong tận cùng đáy tâm hồn của Ánh là sự khao khát một tá hoa hồng đỏ với những lời yêu thương nồng ấm, chú y’ đến chiếc áo mới, mái tóc đẹp, và sự thăm hỏi tận tình về những hoạt động hàng ngày của vợ từ người chồng yêu quí, đầu ấp, tay gối. Cả hai cứ tưởng rằng đây là một cuộc cãi nhau về tiền bạc, nhưng những nguyên nhân còn nằm sâu xa hơn thế nữa.
              Hạnh phúc của họ bây giờ không còn nhìn chung về một hướng, mà mỗi người bắt đầu nhìn hai hướng khác nhau.
              Xin thưa với bạn, khi hai người đã kết hợp thành vợ chồng, họ muốn tạo dựng một thế giới riêng biệt thần tiên cho chính họ. Trong hôn nhân họ hành động như tất cả mọi người. Họ cố gắng kiếm tìm để đền bù những thiếu vắng để thỏa mãn những nhu cầu và ham muốn căn bản của con người.
              Sự truyền đạt y’ tưởng và chuyện trò thân mật giữa vợ chồng rất quan trọng. Mỗi buổi sáng, ai thức dậy trước thì làm cà-phê, vợ chồng tôi ngồi đối mặt trò chuyện đủ thứ, nhiều lúc suy’t trễ giờ đi làm. Đôi khi tôi tự nhủ, nếu tôi hiểu hết một cách trọn vẹn nhà tôi thì cuộc đời không còn gì là hứng thú nữa. Trên lãnh vực nào, nàng cũng đều tỏ ra thông suốt. Vì vậy, tôi cứ mong đêm lại về để được nghe nàng kể chuyện thế gian.
              Nhiều cặp vợ chồng sống với nhau như thể mặt trời, mặt trăng. Mỗi lần mở miệng thì y như thể muốn ăn thua đủ. Tôi xin có y’ kiến để đóng góp cùng bạn: Hãy nhớ rằng nguyên tắc căn bản để giữ những sự liên hệ được tốt đẹp, không những trong đời sống lứa đôi mà còn trên phương diện tình bạn: suy nghĩ, nói và hành động tùy theo sở thích và niềm khao khát của họ. Đừng cãi vã, than phiền hay chỉ trích. Đừng tranh luận-mặc dầu bạn có những ly’ lẽ hợp ly’, chính xác và nắm chắc phần thắng về mình. Đặc biệt đối với những phụ nữ gần đến tuổi tắt kinh bị xáo trộn về tâm ly’: nóng nảy, luôn luôn muốn gây sự, rất nhạy cảm vì bị mất ngủ, tự ái rất dễ bị tổn thương..v.v..Nói năn với những người này trong tinh thần vui vẻ, nhẹ nhàng và khen ngợi họ một cách nhiệt tình.
              Ông bạn Khoa trong câu chuyện kể trên, nếu như tôi, tôi sẽ khen và đưa Ánh đi ăn tiệm, dù cho tốn bao nhiêu cũng bóp bụng mà chịu. Nếu sợ tốn tiền, kéo nàng ngồi trên đùi, hôn lấy hôn để như lúc mới bắt đầu hò hẹn để đền bù những khao khát không được trọn vẹn của nàng. Vì thấu triệt được triết ly’ cao siêu này, nên thỉnh thoảng bạn bè từ những vùng lân cận, và ngay cả bằng hữu ở xa tít tận Cali, cũng đều nghe vùng White Rock “động đất” dữ dội là ở chỗ đó. Xin bạn đừng ngạc nhiên.
              Điểm chính, nếu người vợ hoặc chồng đối xử với bạn một cách tệ bạc-như cãi vã, cằn nhằn, phàn nàn, chỉ trích, rượu chè be bét, hút xách, đi Casino, hoang phí, đi sớm về trễ, thỉnh thoảng nói dối để vắng nhà- thì thường thường những đối tượng này bất mãn về đời sống gia đình. Giữa vợ chồng cũng như trên phương diện giao tế với người khác, họ sẽ đối xử tùy theo thái độ của bạn đối với họ. Đó là quy luật của con người. Có những đấng phu quân coi vợ con không ra cái thống chế gì hết, nhưng đối với bạn bè thì rất niềm nỡ, nhã nhặn, lịch sự, ân cần….thì phải ngồi xuống và suy nghĩ ly’ do tại sao. Đừng nên giữ hận thù trong lòng. Con người có thể chịu đựng được sự sỉ nhục và tổn thương hơn là sự thờ ơ, lãnh đạm. Chính sự thờ ơ, lãnh đạm sẽ đưa con thuyền hạnh phúc va vào đá ngầm hơn bất cứ nguyên do nào khác. Xin bạn nhớ cho.
              Tôi không biết bạn còn nhớ câu: “Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận” hay không?. Để kết thúc bài biên khảo này, tôi xin kể hầu bạn: RÂU CỌP của dân Đại Hàn.
              Ngày xửa, ngày xưa có một người vợ trẻ tên là Kim Úc, một ngày kia đến hang núi của một nhà sư tu khổ hạnh để cầu cứu. Nhà sư là một nhà thông thái và lại có pháp thuật.
              Khi Kim Úc bước vào hang động, nhà sư đang ngồi gần lò sưởi hỏi vọng ra mà không cần nhìn: “Tại sao đệ tử lại đến nơi này?”.
              Kim Úc thưa: “Bạch thầy, con sầu khổ quá! Xin Thầy giáng phước cứu con!”.
              -“Ta có thể chữa trị cái cõi trần bệnh hoạn này bằng ơn phước hay sao?”.
              -“Bạch thầy, nếu ngài không cứu giúp con, con sẽ chết mất”, Kim Úc trả lời.
              -“Thôi được, sự thể của con như thế nào, kể cho ta nghe”. Vị sư khổ hạnh đó cuối cùng đành phải lắng nghe.
              -“Chuyện chồng của con. Con yêu chàng da diết. Ba năm qua chàng đã xa nhà đi chiến đấu ngoài mặt trận. Bây giờ, chàng trở về, chàng không thèm nói năng gì với con cả, hoặc bất cứ người nào khác. Nếu con mở miệng ra nói, chàng không tỏ vẻ gì muốn nghe con. Khi chàng nói thì nói một cách rất hằn học. Khi con nấu ăn không vừa y’ thích của chàng, chàng hất qua một bên và giận dữ bỏ đi. Thỉnh thoảng khi chàng phải làm việc ngoài ruộng lúa, con thấy chàng ngồi thẩn thờ trên gò cao, nhìn ra biển”.
              -“Ờ, thì mấy ông lính trẻ từ mặt trận trở về thỉnh thoảng đều như vậy. Kể tiếp đi”.
              -“Bạch thầy, không còn gì để kể nữa. Con chỉ xin một chén thuốc tiên của thầy để cho chồng con uống để chàng yêu hương và dịu dàng với con như trước đây”.
              -“Đơn giản vậy thôi sao?. Một chén thuốc! Thôi được, ba ngày sau con trở lại đây và ta sẽ cho con biết phải làm gì để có chén thuốc tiên này”.
              Ba ngày sau đó, Kim Úc trở lại thạch động. Vị Thiền sư khổ hạnh nói: “Ta đã nghiên cứu kỹ rồi. Liều thuốc này có thể chế được. Nhưng dược liệu cần thiết nhất để điều chế là râu của một con cọp sống. Mang cho ta râu cọp này ta sẽ chế thuốc cho con”.
              -“Râu cọp sống!. Làm thế nào con nhổ được?”. Kim Úc hoảng hốt hỏi.
              -“Nếu liều thuốc có tầm quan trọng mà con cần đến, ta tin, con sẽ thành công”. Nói xong, nhà sư quay đầu chỗ khác không muốn nói chuyện nữa.
              Kim Úc trở về nhà. Nàng đã nghĩ nát óc để làm cách nào nhổ cho được râu cọp. Rồi một đêm khi người chồng đang ngon giấc, nàng lẻn ra khỏi nhà tay cầm một tô cơm chan nước thịt. Nàng đi vào vùng núi nơi có cọp ở. Đứng cách xa hang cọp, bưng tô cơm, gọi cọp đến ăn. Nhưng cọp vẫn không đến.
              Đêm hôm sau Kim Úc trở lại, lần này thì nàng đi sát gần hang chút xíu. Lại dâng tô cơm. Mỗi đêm khi Kim Úc đi lên núi, mỗi lần như vậy nàng càng tiến gần hang thêm vài bước. Dần dần, cọp quen thấy bóng dáng của nàng.
              Vào một đêm Kim Úc tiến đến hang cọp không xa lắm. Lần này cọp tiến lại phía nàng và dừng lại. Cọp và người nhìn nhau dưới ánh trăng. Đêm hôm sau nữa, cảnh cũ lại tái diễn, và lần này cả hai tiến sát lại gần nhau Kim Úc có thể nói chuyện với cọp bằng những giọng điệu mềm mại, dịu dàng. Đêm kế tiếp, sau khi nhìn cẩn thận vào đôi mắt của Kim Úc, cọp bắt đầu ăn tô cơm chan nước thịt thơm phức do Kim Úc đưa lại. Sau đó khi Kim Úc mỗi đêm đi đến, nàng đã thấy cọp đứng chờ nàng trên con đường mòn dẫn vào hang. Khi cọp đang ăn, Kim Úc dùng tay mơn trớn xoa đầu cọp. Gần sáu tháng trôi qua, vào lần lên hang cọp sau cùng, sau khi vuốt ve, mơn trớn xoa đầu cọp, Kim Úc nói: “Ôi, Thần Hổ, một linh vật rộng lượng, ta chỉ xin người một cái râu thôi.Đừng giận ta nhé!?”.
              Nói vừa xong, nàng nhổ một sợi râu.
              Cọp không tỏ vẻ giận dữ gì cả như nỗi lo sợ của nàng. Kim Úc nắm chặt trên tay cái râu cọp và chạy bay về nhà.
              Sáng ngày hôm sau, nàng đi vào thạch động để trình diện vị Sư khi mặt trời vừa ló dạng. “Ôi! Danh Sư. Bạch thầy, con đã nhổ được râu cọp rồi. Lạy Thầy chế cho con thuốc bùa yêu để cho chồng của con thương yêu và dịu dàng với con như thuở nào”.
              Vị sư nhìn kỹ râu cọp. Thỏa mãn, đúng là râu cọp, ngài khom người và vứt cái râu cọp vào lò sưởi đang cháy đỏ.
              Kim Úc kinh ngạc hỏi: “Bạch thầy, sao ngài lại đốt mất râu cọp của con?”.
              Nhà sư từ tốn hỏi: “Hãy kể cho ta nghe làm cách nào con đã nhổ được râu cọp?”.
              -“Con đi lên núi mỗi đêm tay bưng một ít cơm chan nước thịt. Đầu tiên thì con đứng xa xa, và con tiến lại gần mỗi lần như vậy để gây niềm tin cho cọp. Con đã nói chuyện ngọt ngào, êm dịu với nó, để làm cho nó hiểu con chỉ muốn ao ước nó được tốt đẹp. Con đã kiên nhẫn. Mỗi đêm, con mang đến cho nó thức ăn, biết rằng nó sẽ không dám ăn. Con cứ đến với nó hoài hoài. Con không bao giờ ăn nói cộc cằn. Con không bao giờ sỉ nhục nó. Và cuối cùng vào một đêm nó đã tiến lại gần con. Vào lúc khi nó đón con trên đường mòn và chịu ăn tô cơm của con mang lại. Con vò đầu, vuốt ve, mơn trớn, và nó phát ra những âm thanh sung sướng từ trong cuống họng. Nhờ vậy con mới nhổ được râu của nó”
              -“Ừa, ừa. Con đã làm thuần thục được cọp và chiên thắng được niềm tin yêu của cọp”.
              -“Nhưng sao thầy lại vứt râu cọp của con vào lửa?. Tất cả coi như hoài công”. Kim Úc than khóc.
              -“Không, ta không nghĩ tất cả đều công toi đâu”. Vị Sư phán tiếp: “Râu cọp bây giờ không còn cần thiết nữa. Kim Úc, để ta hỏi con, con người có hung dữ hơn cọp không? Con người ít biết đáp ứng đối với sự tử tế và thông cảm thua cọp không? Nếu con đã chinh phục được niềm tin và tình yêu thương của một dã thú và khát máu như cọp bằng sự dịu dàng và kiên nhẫn, chắc chắn con có thể làm đúng y như vậy với chồng con được không?”.
              Nghe xong, Kim Úc đứng chết lặng không nói được một lời. Nàng lầm lủi đi theo con đường mòn trở về nhà, đầu óc quay cuồng một chân ly’ độc đáo mà nàng đã học được với nhà Thiền sư khổ hạnh trong thạch động.
              Mây-cao-Nguyên
              (White Rock,B.C. 9/2010)

              Comment


              • #22
                Con gái ông bá hộ

                Nguyên tác: The Pasha’s daughter
                Của: Nagib Mahfouz
                Bản dịch: Mây-cao-Nguyên

                Vào lúc nửa đêm; đôi cánh của sự im lặng đáp một cách nặng nề trên những con đường vắng vẻ và trên những căn biệt thự sang trọng tại vùng ngoại ô của thành phố Cairo. Bóng tối chỉ bị ngắt khoản đó đây bởi những ngọn đèn đường hắt ánh sáng mờ nhạt trên những cành cây bất động dọc theo những lề đường rộng rãi và đìu hiu.
                Sự yên lặng bỗng nhiên bị phá tan do tiếng còi của chiếc xe li-mô-din bóng lộn đang chạy vù qua đường và đến dừng trước cổng của một căn biệt thự lộng lẫy.
                Tại cổng, người tài xế nhấn còi một vài lần để đánh thức người gác cổng đang ngủ trong chòi canh làm bằng gỗ. Cuối cùng, cổng được mở rộng, chiếc xe chạy lướt tới, chạy hết một vòng hình bán nguyệt và dừng lại trước cửa biệt thự.
                Tắt máy xong, người tài xế bấm một cái nút nhỏ sau vai hắn và bên trong chiếc li-mô-din tỏa ngập một thứ ánh sáng màu xanh nhợt nhạt. Rồi thì, hắn bước xuống xe, mở cánh cửa sau và đứng bất động như một tượng đá tay vẫn giữ nắm cửa.
                Hắn chờ ở tư thế này trong một vài giây, nhưng lâu quá không thấy ai xuống xe, cuối cùng hắn nhìn vào và hốt hoảng khám phá ra rằng ông bà Bá Hộ đang đắm chìm trong giấc ngủ say mê.
                Bà Hạnh Nhi, vợ ông bá hộ, nằm ngã trên ghế, đầu tựa vào góc xe phía sau. Trong khi tấm thân hình phì nộn của bà được trang sức một chiếc áo rực rỡ bó sát người giống như một con trâu nước đang nằm bất động trên mặt ghế nệm láng mướt và đắt tiền.
                Ông Bá tựa vào bả vai to lớn của bà vợ, ông là một người đàn ông nhỏ thó, vóc dáng mảnh khảnh, dễ bị nhầm lẫn như một cậu thanh niên, lại để một bộ râu mép một cách dị hợm, một đám râu dày rậm rạp to gần bằng cái thân hình nhỏ bé của ông.
                Thấy không còn cách gì khác ngoại trừ đánh thức ông bà chủ, người tài xế gọi nhỏ nhẹ:
                -“Bẩm ngài, bẩm ngài….”
                Khi thấy ông bà vẫn không cục cựa, nhúc nhích, hắn lên giọng và gọi lại:
                -“Bẩm ngài….”.
                Lần này hắn thành công, ông bá hộ bắt đầu nhúc nhích một cách khó khăn, bộ râu rậm rạp của ông động đậy như đôi cánh của con phụng hoàng.
                -“Ai đó?” Ông ta càm ràm với một giọng còn ngáy ngủ.
                -“Bẩm ông chủ đã đến nhà rồi”.
                -“Và mày muốn gì?”.
                -“Xin lỗi ông chủ, mời ông bà chủ vào nhà để ngủ”.
                Ông bá hộ mở đôi mắt đỏ kè vì buồn ngủ, nhưng phải nhắm ngay lại vì những tia sáng xanh dịu của ánh đèn trong xe chiếu rọi vào mắt. Ông ta đưa tay và lắc cánh tay trần của bà vợ, nhìn trong tối cánh tay của bà như cái túi da bọng nước khổng lồ.
                -“Hạnh Nhi….Phan thị Hạnh Nhi”.
                Bà bá hộ nghe tiếng gọi giật nẩy mình, nhìn dáo dác:
                -“Ai đó?” bà hỏi với một giọng gắt gỏng và khó chịu.
                -“Mình về tới nhà rồi, Hạnh Nhi”.
                -“Và ông muốn gì đây?”.
                -“Mình vào nhà ngủ chứ?”.
                -“Vào nhà? Tôi không nhúc nhích, cụ cựa gì được, làm thế nào vào nhà?”.
                -“Như vậy biết làm sao đây? Ngủ đêm trong xe sao?”.
                -“Tại sao không? Nệm xe cũng êm ái như cái giường vậy”.
                -“Ba Khía, mày đi ngủ đi. Chúng tao ngủ ở đây”, Ông bá hộ nói với người tài xế, đôi mắt của ông vẫn còn nhắm cứng.
                -“Bẩm ông chủ”, người tài xế rất luống cuống, “Nhưng ngủ như vậy bất tiện quá. Sáng ra người gác cổng và tôi tớ trong nhà sẽ trông thấy....”Ông bá quay qua hướng vợ:
                -“Hạnh Nhi à, ngủ như vậy bất tiện quá. Sáng ra tên gác cổng và tôi tớ trong nhà sẽ trông thấy”.
                -“Ai đang nói chuyện với ông vậy?”.
                -“Tài xế”.
                -“Ôi, đừng làm rộn tôi. Quan tâm gì đến thằng gác cổng, bọn tôi tớ hoặc thằng tài xế?”. Ông bá hộ nhái y giọng của bà vợ.
                Người tài xế không trả lời. Hắn ta không có gì để nói nữa, cùng lúc hắn không thể để ông bà chủ của hắn nằm đó một mình, vì thế hắn vẫn đứng yên ở vị trí cũ cạnh chiếc xe.
                -“Trời nóng nực quá”, ông bá hộ phàn nàn và bắt đầu nới lỏng chiếc cà-vạt và lau những hạt mồ hôi trên mặt. Bà Hạnh Nhi cũng ngồi thẳng dậy, và rên nho nhỏ:
                -“Chúa ơi!....”
                -“Gì vậy, Hạnh Nhi?” ông Bá thắc mắc hỏi.
                -“Cái ghế ngồi sao mà nó quay mòng mòng như cái đèn kéo quân như thế này?”.
                -“Hay chưa, bà có thả bộ râu của tôi ra không? Râu của tôi chứ phải sợi dây thừng đâu mà bà nắm vậy?”.
                Lúc gượng ngồi dậy, vợ ông chới với cố giữ thăng bằng và đã quơ nhằm bộ râu dài và dị hợm của ông Bá.
                -“Hạnh Nhi, đêm nay bà uống quá nhiều, nhiều quá không tốt cho bà đâu”, ông Bá vừa nói, vừa đưa tay gỡ cái nắm tay của mụ vợ trên bộ râu mép của ông.
                -“Tôi có thể làm gì khác được? Mọi người đều uống như hủ chìm, đàn ông cũng như đàn bà. Chính ông cũng uống quá trời”.
                -“Tôi quen rồi bà ơi!. Tôi có thể uống hết quày rượu trong quán chỉ trong một đêm”.
                -“Tuy nhiên đêm nay sao ông hứng quá xá cỡ. Ông cười nói quá lớn, ông lại còn chế diễu tôi nữa chứ, cha mắc dịch”.
                -“Không thể nào có chuyện đó. Chế diễu bà hồi nào?”.
                -“Không thể nào à? Ông đâu có nhớ con mụ Ánh trơ trẽn nói gì khi mình rời bữa tiệc sao?” Mụ ta nhìn tụi mình và nói:
                -“Tội nghiệp thằng cha Bá Hộ, hắn vừa làm chồng vừa làm tên chăn thú”. Mọi người đều cười và ông cũng cười theo với họ nữa chứ.
                -“Tôi không nhớ”.
                -“Dĩ nhiên, ông còn trí ở đâu nữa mà nhớ, như vậy mà còn dám tuyên bố uống hết quày rượu chỉ trong một đêm. Nhưng dẫu sao thì tôi cũng trả đũa lại ông bằng cách phụ họa với bọn họ để chế nhạo lại ông”.
                -“Lúc nào mà tôi không biết?”.
                -“Một vài người khách lấy làm lạ về cái vóc dáng nhỏ bé của ông và tướng Vỹ nói thêm tại cái bộ râu rậm rạp đè nặng trên cái thân hình nhỏ thó cho nên nó không phát triển được”.
                -“Thằng cha xấc xược”.
                -“Ối! Cũng tại bộ râu của ông mà đi đâu mình cũng bị người ta chế nhạo. Tại sao ông không cạo phứt nó đi cho rồi?”.
                -“Cạo? Bà có điên không, Hạnh Nhi?”.
                -“Thật vậy, tại sao ông không cạo phứt nó đi cho rồi? Trông có vẻ nặng nề trên cái thân thể gầy gò của ông quá đi thôi”.
                -“Nam tu, nữ nhũ, bà không nhớ điều đó sao? Nam tính đâu phải đo lường qua cái thể xác của hắn?”.
                -“Như vậy chứ đo lường qua cái bộ râu của hắn ta ư?”.
                -“Chắc chắn như vậy rồi. Giả dụ như nhìn thử bà coi. Bà là một người đàn bà, tuy nhiên thân thể to như con voi. Nhưng nói một cách khác, bà có bao giờ thấy đàn bà để râu không?”.
                -“Sự thật mà nói, có lần tôi muốn cạo phứt bộ râu của ông khi ông đang ngủ, nhưng tôi sợ..”.
                -“Bà sợ gì?”.
                -“Tôi sợ hôn nhân của mình sẽ bị đổ vỡ”.
                -“Tại sao lại bị đổ vỡ?”.
                -“Ông biết không, không để râu ông trông giống như đứa trẻ vị-thành-niên chưa đến tuổi lập gia đình”.
                -“Bà say rồi nói tầm bậy, tầm bạ Hạnh Nhi à. Bà nên làm cách nào cho bớt mỡ trên cái thân thể phì nộn của bà đi. Mập quá cỡ là nguyên do mình làm trò cười cho thiên hạ. Ai cũng trông mảnh khảnh và xinh đẹp; ngay chính mụ Ánh Nguyệt cũng chỉ mập bằng nửa bà”.
                -“Ông phải chịu trách nhiệm về sự lên cân của tôi”.
                -“Tôi?”.
                -“Ừ, chính ông. Ông luôn luôn nói rằng ông thích những người đàn bà mát da, mát thịt, ông rất ghét những người đàn bà gày gò, xương xẩu. Nhưng sao bây giờ ông lại nói ngang, nói ngược trốn tránh trách nhiệm như khi ông còn làm ở trong nội các chính phủ”.
                -“Chúa ơi! Bà đang ăn nói như đối thủ chính trị của tôi không bằng. Tôi rất tiếc chứng kiến cái cảnh vong ơn bạc nghĩa ngay trong chính căn nhà này cũng như trên chính trường. Tôi đã mất hết cả rồi”.
                -“Không, ông đâu có mất hết. Chắc chắn ông đã hoàn tất được một vài thứ”.
                -“Vài thứ gì?”.
                -“Ông đã trở nên một người đàn ông “có vóc dáng cao ráo, đẹp trai” trên quả đất này”.
                -“Hạnh Nhi, bà say quá rồi, bà ăn nói vô duyên không giữ gìn y’ tứ gì hết. Thật vậy, với thân hình và lời ăn, tiếng nói của bà đêm nay, tôi phải chọn cho bà một biệt danh mới được. Để tôi xem....Biệt danh nầy?”.
                Vào lúc đó, cuộc nói chuyện của hai người bị gián đoạn bởi tiếng kêu la inh ỏi:
                -“Mở cổng gấp, mở cổng’.
                Hốt hoảng, ông bà Bá Hộ ngồi thẳng dậy trên ghế và lắng nghe, trong khi đó tên tài xế chạy ra hướng cổng để xem có chuyện gì đã xảy ra.
                Viên cảnh sát tuần tiễu ban đêm vừa đi ngang qua dãy tường căn biệt thự của ông bà Bá Hộ, ông ta chợt trông thấy một thanh niên từ bên trong nhảy phóc qua tường và rớt ngay trước mặt ông. Người thanh niên giật mình vì sự xuất hiện đột ngột của viên cảnh sát, anh ta đứng tiu ngỉu.
                -“Tên trộm kia, mày nghĩ ở xứ này không có luật lệ hay sao?” Viên cảnh sát hét lên và phóng tới ghì chặt đôi cánh tay của người thanh niên.
                Người thanh niên vừa mới bị bắt còn rất trẻ ăn diện rất bảnh bao, hình dáng nhờ ngọn đèn soi rõ trông có vẻ hiền hậu và rụt rè chứ không có vẻ gì hung tợn cả. Phóng một cái nhìn dữ dằn , viên cảnh sát bắt đầu lục soát cái túi áo của người thanh niên.
                -“Tao nghĩ là mày chưa kịp ăn trộm những thứ gì khác ngoại trừ bộ áo vét tông mày đang mặc.
                -“Làm ơn thả tôi đi, thầy cảnh sát, tôi không phải ăn trộm đâu, người thanh niên van xin một cách sợ hãi.
                –“Ngài không phải là ăn trộm, như vậy ngài là ai vậy, bẩm hoàng thượng?”.
                -“Tôi thề với trời tôi không phải là tên ăn trộm, suốt cuộc đời tôi chưa hề biết ăn trộm là gì. Túi của tôi đây, xin thầy lục soát đi”.
                -“Như vậy là mày đang đi viếng thăm căn biệt thự này thì phải?”.
                -“Tôi...tôi ở trong biệt thự đó mà”.
                -“Ồ, tôi biết, bẩm công tử. Chắc công tử là con cái của ông Bá Hộ nửa đêm nghịch ngợm leo tường giỡn chơi chắc?”.
                -“Không phải vậy đâu. Tôi muốn đi tắt cho nhanh đấy thôi”.
                -“Tại sao mày lại bỏ nhà đi vào lúc nửa đêm?”.
                -“Tôi không có đủ thì giờ”.
                -“Biệt thự này không có cổng hay sao?”.
                -“Tôi không muốn mất thì giờ để đánh thức người gác cổng”.
                -“Chúa ơi! Thực sự đây là thời đại của tốc độ. Chắc rồi đây tao sẽ nghe thấy người ta nhảy từ lầu ba hoặc lầu tư vì họ không có đủ thời gian để dùng cầu thang.”
                _”Thầy không tin tôi, tôi đã nói với thầy tôi ở trong biệt thự đó. Và thầy nhìn xem, những dãy tường đó đâu có cao gì mấy, nhảy một cái là qua ngay”.
                -“Dĩ nhiên, thưa công tử, dĩ nhiên thật sự không phải là lỗi tại công tử. Đó là lỗi của mấy tên lực sĩ nhảy cao đã nêu gương xấu cho người khác. Nhưng, tôi sợ tôi sẽ xúc phạm đến công tử bằng cách cho công tử nếm mùi đồn bót vài ngày hoặc có thể vài tháng không biết chừng”.
                Nói xong, viên cảnh sát đẩy người thanh niên đi trước, nhưng hắn bỗng đứng khựng lại và tiếp tục phân trần.
                -“Tôi không phải là ăn trộm. Tôi thề với Trời tôi không phải mà. Tôi sống trong căn biệt thự đó.”
                -“Như vậy thôi được, nếu những điều mày đang nói là sự thật mày thử trở vào lại căn biệt thự đó, tao sẽ tin mày”.
                -“Tốt, thầy hãy thả tôi ra đi và thầy sẽ thấy”.
                -“Nhưng lần này mày phải vào bằng cổng chính”.
                Viên cảnh sát dẫn hắn đến cổng và gọi người gác cổng.
                -“Tôi bắt được một tên nhảy tường. Nó nói nó ở trong căn biệt thự này. Ông có biết nó hay không?”.
                Viên cảnh sát nhìn người gác cổng và người tài xế vừa mới xuất hiện qua tiếng kêu mở cổng của người cảnh sát. Người gác cổng bật đèn và nhìn đăm đăm vào mặt của chàng thanh niên.
                -“Đây là lần đầu tiên tôi mới thấy người này. Thầy có tìm thấy vật gì trên người của hắn không?”.
                -“Nó sẽ được lục soát tại bót cảnh sát”.
                Vào lúc đó giọng say rượu của ông Bá Hộ vang lên:
                -“Ba Khía, chuyện gì đó vậy?”.
                Gã tài xế chạy nhanh lại báo cáo với chủ, viên cảnh sát theo sau hy vọng được ông Bá Hộ khen tặng về thành tích bắt được ăn trộm trong đêm hôm nay.
                -“Một tên ăn trộm nhảy tường vừa mới bị cảnh sát bắt, thưa ông chủ”, Ba khía báo cáo với chủ của hắn.
                -“Tên ăn trộm! Chúa ơi! Con Lượm ở nhà một mình”.
                Nói xong, ông bà Bá Hộ nhảy vội xuống xe và đi nhanh đến bậc thềm gọi đứa con gái cưng, bà Bá Hộ lệt bệt theo sau súy‎t té mấy lần. Cửa mở, một người con gái xinh đẹp mặc một chiếc áo ngủ trắng mỏng hiện ra, tỏa một vẻ thanh thoát chung quanh nàng.
                -“Cảm tạ trời đất, con gái của tôi không hề gì”. Bà vợ thở ra nhẹ nhõm.
                -“Cái gì xảy ra vậy má?”. Nàng hỏi với một giọng thánh thót, êm dịu.
                -“Họ vừa mới bắt được một tên ăn trộm vừa mới nhảy tường nhà mình”.
                Vẻ mặt xinh đẹp của nàng tái hẳn và tim bắt đầu đập nhanh hơn trong khi nàng hỏi với một giọng căng thẳng, lo sợ:
                -“Tên ăn trộm!”.
                -“Con không nghe thấy gì sao?”
                -“Không”.
                Ông bà Bá Hộ cùng người con gái trở lại chỗ người cảnh sát, gã tài xế và tên thanh niên đang đứng. Khi nàng Lượm trông thấy mặt người thanh niên bị bắt, đôi môi của nàng rung rung và nàng cúi gầm mặt nhìn xuống đất để tránh bối rối.
                -“Tên đạo tặc này khai là hắn ở trong biệt thự, bẩm ngài”, viên cảnh sát lên tiếng.
                Bà Bá Hộ nhíu mày lim dim vì hơi men nhìn đăm đăm vào mặt người thanh niên.
                -“Tên ăn trộm này là một tên nói láo có căn”.
                Không chắc lắm về nhãn quan của mình, tuy nhiên, bà xoay qua phía chồng và thì thầm vào tai ông:
                -“Tôi nói có đúng không mình?”
                Ông Bá chỉ nhìn thoáng qua và cuối cùng quả quyết nói:
                -“Hắn chính là tên ăn trộm, không sai chút nào hết. Đúng vậy không, con gái cưng của ba?” Ông hỏi con gái của ông một cách nhỏ nhẹ. Thấy con gái không trả lời, ông hỏi thẳng người tài xế cùng một câu như vậy.
                -“Ba Khía, mày có biết tên thanh niên này không?Nó có ở trong biệt thự này không?”.
                Gã tài xế đang mãi mê nhìn Lượm với đầy vẻ nghi ngờ, hắn đáp lại câu hỏi của ông Bá với một giọng đầy cảm xúc:
                -“Bẩm ông chủ, hắn chính là một tên trộm trọng tội”
                -“Sao mày dám cả gan khai mày là người nhà của tao?” Ông Bá xoay qua hỏi người thanh niên.
                -“Thưa ông, tôi không phải tên ăn trộm”.
                -“Như vậy chứ mày làm gì ở đây?”
                -“Thưa ông, tôi không biết”.
                -“Phi cơ thả mày xuống khu vườn của tao chắc?”.
                -“Không phải, thưa ông. Tôi không biết “ma đưa lối, quỷ đưa đường” hay sao mà tôi lại lạc bước vào chốn này. Bỗng nhiên tôi y’ thức ra thì tôi đã ở trong khuôn viên nhà ông”.
                -“Tốt, rồi mày sẽ bỗng nhiên tự thấy mày nằm trong nhà tù, tao hy vọng như vậy”, viên cảnh sát nói chen vào.
                -“Đừng làm gián đoạn cuộc điều tra, ông cảnh sát”.
                -“Thưa, vâng”.
                -“Mày nói tiếp đi”.
                -“Thưa ông, tôi rất lấy làm tiếc. Tôi bị say và đã lạc bước vào đây mà không có ai thấy hết. Tôi đã ngủ trên bãi cỏ, và khi tôi thức dậy tôi hơi tỉnh táo và nhận thức mình có lỗi. Tôi cố chuộc lỗi bằng cách chạy trốn, nhưng thầy cảnh sát này đã bắt giữ tôi lại. Tôi không phải là ăn trộm. Lục soát, ông sẽ không tìm thấy gì hết”.
                -“Mày uống thứ gì mà say?”.
                Nhưng trước khi người thanh niên trả lời, gã tài xế nổi giận đùng đùng:
                -“Tên ăn trộm này nói láo, bẩm ông chủ. Ngài hãy ra lệnh tống cổ hắn về bót cảnh sát ngay lập tức”.
                -“Tao đã bảo đừng làm gián đoạn cuộc điều tra”, ông Bá nhìn gã tài xế một cách nẩy lửa, rồi ông gật đầu hỏi người thanh niên:
                -“Và mày đã uống gì?”.
                -“Thưa ông, Whisky”.
                -“Có pha không? Ông Bá muốn biết.
                Bà Bá trao đổi một vài lời nho nhỏ cùng với ông Bá, rồi ông tiến lại người thanh niên, tuyên bố:
                -“Bây giờ, tao phải lục soát mày”.
                Chàng thanh niên miễn cưỡng chấp nhận để bị lục soát, ông Bá đã lần mò lục soát các túi áo, quần của hắn một cách cẩn thận. Nhưng khi ông Bá tìm thấy cái ví muốn mở ra xem, hắn phản đối và không chịu. Hành động này đã gây một sự nghi ngờ, viên cảnh sát chạy lại khóa chặt đôi cánh tay ra sau lưng để cho ông Bá dễ dàng tiếp tục lục soát.
                Khám trong ví, ông Bá tìm thấy một ít bạc cắc, một vài tấm bưu thiếp và một tấm hình. Nhìn một cách chăm chú vào tấm hình, ông tròn xoe đôi mắt kinh ngạc và nhìn thật kỹ hơn. Hình của con Lượm. Chính hình của con Lượm. Ông có tin cặp mắt của ông không, ông nghĩ, hay là mình bị say rượu? Ông xoay qua cầu cứu bà Bá và thấy bà đang nhướng người qua vai của ông để nhìn tấm hình với cặp mắt hoài nghi. Ông xoay mặt qua hướng con gái cưng của ông và thấy nàng đang lặng lẽ rút lui một cách nhanh chóng vào nhà.
                -“Thưa ngài có tìm thấy gì bị mất cắp trong ví của hắn không ạ? Viên cảnh sát trờ đến hỏi.
                Trả lại cái ví cho người thanh niên, ông Bá trả lời với một giọng khàn khàn.
                -“Không có gì ngoài những vật dụng của nó”.
                Nhưng, đứng cách ông chủ một vài bước, gã tài xế đã thấy hết mọi sự với cặp mắt cú vọ của hắn, và sự tức giận đang như cơn bão lửa sùng sục trong lòng gã.
                -“Không tìm thấy gì trên người của hắn không có nghĩa là hắn vô tội. Có thể hắn dự định ăn trộm mà chưa thực hiện được”. Gã tài xế nói với một giọng tức nghẹn vì phẫn nộ.
                -“Tao muốn biết chắc là hắn có say không cái đã”, ông Bá chồm người tới để ngửi hơi miệng của người thanh niên.
                -“Nó đúng là tên say rượu, không còn nghi ngờ gì nữa”.
                -“Bẩm ông chủ, nhưng thường thường, một người không thể đánh hơi để biết người khác uống rượu trong lúc chính mình đã uống rượu và đang say.
                Ông Bá phùng mang, trợn mắt một cách giận dữ khi nghe gã tài xế nói như vậy và ông đưa tay lên vuốt hàng râu mép, rồi hét lớn:
                -“Tao nói hắn bị say rượu, đồ ngu như lợn”.
                -“Xin lỗi, bẩm ông chủ, tôi định nói….”
                -“Thằng vô lại kia, tao không muốn nghe một lời nào của mày nữa. Từ đây mày không được đặt chân vào nhà này nữa. Cảnh sát, tống cổ thằng hỗn xược này đi và để cậu thanh niên đó lại cho tôi”.
                Người cảnh sát tuân hành đến dắt người tài xế vừa bị cho nghỉ việc ra khỏi biệt thự, để ông bà Bá Hộ và người thanh niên ở lại.
                -“Cậu có biết tôi là ai không?” Ông Bá hỏi một cách đe dọa.
                -“Vâng, dĩ nhiên, tôi biết”
                -“Biết, sao cậu dám cả gan xâm phạm vào nhà riêng của chúng tôi?”.
                -“Thưa ông, hành động của tôi không có gì bất chánh cả”.
                -“Quá nửa đêm mà cậu cho rằng hành động của cậu là liêm chính đấy hả?”.
                -“Cậu làm nghề gì?” bà Bá hỏi.
                -“Dạ, tôi là công chức”.
                -‘‘Có nghĩa là cậu cũng chỉ là một tên khố rách, áo ôm’’.
                -‘‘Khố rách, áo ôm?’’
                -‘‘Chứ còn gì nữa, một tên không nghề ngỗng như cậu có thể rất hãnh diện được in vài ba chữ : ‘‘công chức chính phủ’’ trên tấm danh thiếp, lương tiền của cậu chỉ là ba cọc, ba đồng chứ mấy’’.
                -‘‘Cậu có bằng cấp, kinh nghiệm gì không?’’
                -‘‘....’’
                -‘‘Cậu học hành tới đâu rồi? Trả lời cho tôi biết’’.
                -‘‘Tôi tốt nghiệp lớp văn phạm’’
                -‘‘Lớp văn phạm! Lạy Chúa tôi. Và lương tiền của cậu?’’
                -‘‘.....’’
                -‘‘Tiền lương tháng của cậu? Cậu nên cho tôi biết’’.
                -‘‘Mười đồng một tháng’’.
                -‘‘Mười đồng!’’
                -‘‘Thôi được! Và tôi muốn biết tại sao cậu lại si tình con gái của gia đình Bá hộ?’’
                -‘‘Thưa bà.....’’
                -‘‘Tại sao cậu không đi si tình với một đứa con gái của một tên công chức quèn cùng giai cấp với cậu?’’
                -‘‘....’’
                -‘‘Bây giờ cậu hãy đi đi’’, cuối cùng ông Bá hộ nói trong tiếng thở dài ngao ngán.
                Quá mệt mỏi, ông bà Bá Hộ rút lên lầu đi vào phòng ngủ, ông Bá vật người trên chiếc ghế bành và vợ ông thì nằm ngửa người trên giường. Cả hai ông bà chìm đắm trong yên lặng.
                -‘‘Bà đã thấy hài lòng chưa?’’ ông Bá hỏi xong và thở dài một cách ngao ngán.
                -‘‘Ông cứ ‘‘trăm dâu đổ đầu tằm’’, hở một chút ông cứ nói : ‘‘con hư tại mẹ’’.
                -‘‘Bởi vì bà cũng biết quá rõ rằng tôi là một người đàn ông trên vai mang không biết bao nhiêu trách nhiệm quá nặng nề và nghĩa vụ trong nội các chính phủ, trong thượng viện, hoặc trong ban giám đốc công ty mà tôi có chân ở trong đó. Chính bà phải chịu trách nhiệm về những hành vi bất chánh của mấy đứa con gái của bà’’.
                -‘‘Này, đừng có nói đến mấy đứa con gái của tôi bằng cái luận điệu đó. Tụi nó là những đứa con có phẩm hạnh, đoan chính nhất đó, tôi nói cho ông biết’’.
                -‘‘Như vậy là bà cũng chấp nhận những hành vi làm điếm nhục gia phong của tụi nó. Con Thanh con gái đầu của bà không thấy nó diễn lại cái trò khỉ đó hay sao?. Tôi đã sắp xếp nhờ người mai mối cho nó một ông bác sĩ với một tương lai rực rỡ, đứa con gái cứng đầu cứng cổ, ngu dốt đó lại đi yêu một thằng lang thang, rách rưới tự vỗ ngực xưng tên là nhạc sỹ’’.
                -‘‘Đừng có giở giọng đó khi ông đề cập đến người con rể của ông. Nó đâu phải là thằng khố rách, áo ôm, nó dầu gì đi nữa cũng là một ông Giám thị của Viện Âm Nhạc tại Bộ Giáo Dục cơ mà ’’.
                -‘‘Tôi đã bổ nhiệm nó vào đó, Chúa ơi! Hoàn toàn nó không xứng đáng một chút nào cả. Chính tôi đã tạo điều kiện cho hắn.’’
                -‘‘Thôi cũng được, như vậy, vì tình thương của con Lượm, ông giúp cho thằng này cơ hội đi’’.
                -‘‘Nhưng thằng này thì không thể được. Thằng đầu là một ca sĩ và tôi dựa vào đó mới bổ nhiệm hắn làm Giám Thị Viện Âm Nhạc mặc dầu nó không biết khỉ mốc gì về nhạc ly’ cả. Còn tôi làm gì được với thằng sau này? Hắn chỉ tốt nghiệp lớp sư phạm. Tôi nghĩ cách hay nhất là cho nó làm nghề gói hàng’’.
                -‘‘Ông cũng biết là con Lượm nó cứng đầu, cứng cổ lắm. Nó không chịu đâu. Thôi kệ, mình cũng ráng cho nó một công việc gì danh giá một chút’’.
                -‘‘Tôi có ráng cách mấy, hắn cũng chỉ đạt được đến chân thư ky’ là tối đa’’.
                -‘‘Trời đất, quỉ thần ơi! Ông Bá, sao ông lại nói vậy? Con gái của một vị danh gia, vọng tộc như ông-một cựu Bộ trưởng và một tân Bộ trưởng trong tương lai lại đi lấy một thằng thư ky’ quèn hay sao?’’.
                -‘‘Vậy thì lỗi của ai, thuở đời con gái của nhà Bá hộ lại đi phải tình một thằng chó chết khùng điên như vậy làm chi?’’.
                -‘‘Bây giờ ông hãy nguôi giận đi và cho tôi biết; ông không thể nào cho nó làm việc một trong những sứ quán tại ngoại quốc được hay sao?’’.
                -‘‘Sứ quán! Bà muốn tôi bổ nhiệm một thằng chỉ tốt nghiệp lớp sư phạm vào trong lãnh vực ngoại giao!?’’.
                -‘‘Hứ, tôi mệt ông quá rồi. Bất cứ giá nào, tiển lương của nó không được thấp hơn ba mươi đồng một tháng. Ông có rất nhiều bạn bè trong nội các hiện nay. Xin họ nhận cho nó làm thư ky’ riêng’’.
                -‘‘Chuyện này không đơn giản như bà tưởng đâu, Hạnh Nhi à. Báo chí tụi nó đánh hơi rất nhanh, không khéo thì chính mình là đề tài ăn khách của tụi nó’’.
                -‘‘Báo chí chắc gì tụi nó sẽ để yên nếu chúng biết được con gái Bá hộ lấy một thằng thư ky’ quèn lương tháng mười đồng?’’.
                -‘‘Báo chí tụi nó cũng có nhiều vấn đề khác hơn là đi tốn giấy mực đi phanh phui chuyện hôn nhân của con Lượm’’.
                -‘‘Không nói gì hết, ông phải lo cho tương lai của con Lượm. Nếu ông biết thương con thì phải lo cho rể’’.
                -‘‘Tôi phải có nghĩa vụ để làm điều đó hay sao?’’.
                -‘‘Ông nên nhớ rằng ông cũng là một thư ky’ khốn khổ khi tôi lấy ông, và nếu không nhờ cha tôi – Thôi để ổng được an bình nơi chín suối....’’
                -‘‘Ông già của bà không tạo ra tôi. Ông chỉ cho tôi dịp may để chứng tỏ cái tài năng lỗi lạc của tôi mà thôi’’.
                -‘‘Hứ. Nếu không nhờ ông già của tôi, thì ngày nay ông vẫn còn là một tên thư ky’ ba cọc, ba đồng. Đừng nói phét’’.
                -‘‘Đây là cái cách chống chế để bà bao bọc cho những hành vi gớm ghiếc, đốn mạt của đám con gái của bà đấy à?’’.
                -‘‘Trời đất, quỉ thần, thiên địa ơi! Ông Bá Hộ, tôi nói cho ông nghe, chúng nó đã thừa hưởng hành vi đốn mạt của tôi đó và chính cái hành vi đốn mạt đó cho nên tôi mới lấy ông’’.
                Ngoài đường, gã tài xế la hét và chửi rủa một cách phẫn nộ liên hồi, trong khi đó viên cảnh sát cố gắng trấn tỉnh và an ủi gã tài xế vừa mới bị mất việc làm.
                -‘‘Lỗi tại anh’’, viên cảnh sát nói, ‘‘Tại sao anh lại đi xía vào công việc của người khác?’’.
                -‘‘Hắn có phải là con người, thầy cho tôi biết, đó có phải là con người hay không?’’ Gã tài xế cáu kỉnh hỏi.
                ‘‘Nhưng tại sao anh lại đi nổi giận chứ? Cô ta là con gái của ông Bá Hộ, đâu phải con gái của anh’’. Rồi thì, viên cảnh sát nháy mắt với gã tài xế một cách lém lỉnh :
                -‘‘Hay có ly’ do nào khác làm cho anh nổi giận? Có phải anh ghen không? Nói thiệt đi cha nội’’.
                Viên cảnh sát thấy gã tài xế không trả lời, ông ta vỗ vai chào tạm biệt và nói :
                -‘‘Anh Ba Khía à. Thành thật mà nói, ông Bá hộ chỉ thật sự thành công trong vấn đề nuôi dưỡng và chăm sóc bộ râu của ông ta mà thôi....’’.
                MÂY-CAO-NGUYÊN

                Comment


                • #23
                  TÂM TÌNH (Tình yêu, tình bạn, tình dục)

                  Biên khảo: Mây-cao-Nguyên

                  Tôi không biết vị danh nhân nào đã phán câu này: “Nếu tôi là Thượng Đế, tôi sẽ không cho phép loài người quỳ lạy dưới chân tôi. Tôi sẽ yêu cầu họ đứng thẳng lên, đối diện và nhìn thẳng vào mắt tôi, xem tôi là ngang hàng, nói chuyện với tôi như với một người anh em. Không có ly’‎ nào để họ có thể tự hạ mình như thế trước mặt tôi, là vì chính tôi đã tạo họ như thế”.

                  Triết gia A. Dumas khuyên chúng ta: “Đừng biện bác bao giờ với ai cả, anh không bao giờ thuyết phục được ai đâu. Y’ kiến của người ta giống như cây đinh, càng đập vào, càng làm cho nó lún sâu”.
                  Học giả Dale Carnegie: “Khi ta căm ghét kẻ thù hay người khác, có nghĩa là ta đang dành cho họ quyền có thể gây cho ta mất ăn mất ngủ, ảnh hưởng đến sức khỏe và hạnh phúc của chúng ta. Kẻ thù thì khoái trá và vẫn bình thường trong khi ta lại vất vả, chết dần chết mòn. Sự bực tức, lòng căm thù của ta làm hại chính ta cả ngày lẫn đêm, chẳng khác gì phải sống trong hỏa ngục”.
                  Trước khi mời bạn chia sẻ cùng tôi những dòng tâm sự này, tôi xin kể hầu bạn một câu chuyện cổ: “Đáng sợ gì hơn cả” có nội dung như sau:
                  Tại lầu sách nhà kia, có con hồ tinh không hiện hình ra bao giờ, nhưng thường vẫn hay trò chuyện. Chuyện nói rất ly’ thú, ai nghe cũng phải phục. Một hôm tân khách họp đông, có con hát mời rượu ước với nhau rằng: “Ai sợ gì phải nói, mà nói vô ly’ thì phải bị phạt rượu”.
                  Bấy giờ, cử tọa lần lượt nói, nào sợ người học rộng, nào sợ người nhà giàu, nào sợ người quan to, sợ người nịnh giỏi, nào sợ người khiêm tốn quá, sợ người lễ phép câu nệ quá, nào sợ người thận trọng ít nói, sợ người hay nói nửa chừng…
                  Sau cùng hỏi đến hồ tinh, thì hồ tinh đáp: Ta chỉ sợ hồ tinh.
                  Ai nấy đều cười, bảo rằng: người ta sợ hồ tinh mới phải, anh là đồng loại can gì mà sợ? Phạt anh một chén rượu.
                  Hồ tinh cười nói: Thiên hạ duy có đồng loại là sợ nhau. Con cùng cha mới tranh gia sản; gái cùng chồng mới hay ghen tuông; kẻ tranh quyền nhau, tất là quan lại cùng triều, kẻ tranh lợi nhau tất là lái buôn một chỗ. Bức nhau thì trở ngại nhau, trở ngại nhau thì khuynh loát nhau. Nay lại còn người bắn con trĩ thì dùng con trĩ làm mồi, không dùng con gà, con ngỗng; người săn hươu thì dùng con hươu làm mồi, không dùng con dê, con lợn. Phàm những việc phản gián đều là phải dùng đồng loại cả. Cứ thế mà suy thì tài nào hồ mà chẳng sợ hồ?
                  Cử tọa đều cho câu nói của hồ tinh là xác đáng.
                  Tất cả cái mê ảo thống thiết của kiếp sống con người có lẽ đều vì có cái chết chắc chắn đang đợi chờ nó.
                  Nếu mọi vật trên đời đều trường cửu mãi thì đâu có gì đáng cho ta quyến luyến.
                  Người nào có khả năng phong phú để hiểu thấu con người, sẽ luôn luôn y’ thức được rằng tất cả con người căn bản mà nói đều có chung một nguồn gốc giống nhau; tất cả mọi hoạt động của con người đều nẩy sinh và bắt nguồn do một trong chín động lực căn bản của đời sống như sau:
                  1.-Tình yêu.
                  2.-Tình dục.
                  3.-Gặt hái về vật chất.
                  4.-Thoải mái về thể xác lẫn tinh thần.
                  5.-Lòng khao khát tích lũy ích kỷ.
                  6.-Muốn khoa trương.
                  7.-Khao khát đời sống trường cửu sau khi chết.
                  8.-Giận dữ.
                  9.-Sợ hãi.

                  Và người muốn hiểu về người khác phải hiểu mình trước đã.
                  Khả năng để thấu hiểu người khác sẽ loại bỏ được rất nhiều nguyên nhân thông thường gây nên những va chạm và xung đột giữa con người với nhau. Đó là nền tảng của tình bằng hữu. Đó là căn bản của tất cả những sự hòa đồng và sự hợp tác giữa người với người. Và đó cũng là căn bản rất quan trọng tạo nên quyền lãnh đạo thường được gọi là sự cộng tác thân hữu. Và có người tin rằng đó còn là nhịp cầu dẫn tới sự quan trọng chính yếu để thấu hiểu tạo hóa và vạn vật.
                  Trong cuộc sống vật chất, xô bồ này con người đang giành giựt nhau từng miến cơm, manh áo. Một cuộc tìm hiểu của công ty điện thoại ở Nữu Ước trong 500 lần nói chuyện bằng điện thoại họ đã dùng đại-danh-từ: TÔI lên đến 3990 lần. Con người họ không quan tâm đến bạn. Họ không quan tâm đến tôi. Họ chỉ quan tâm đến họ: sáng, trưa, chiều và tối. Nếu chúng ta chỉ cố gắng cảm kích người khác-và để làm cho họ quan tâm đến chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ có những người bạn chân thật. Bằng hữu, những người bạn chân thật không hành xử kiểu đó.
                  Xin bạn nấu một ấm trà thật ngon, ngồi uống chậm rãi, đừng để ai quấy rày, đọc đi đọc lại những câu danh ngôn của các triết gia, học giả, thi-văn-hào…sau đây để suy gẫm:
                  *Người là con quái gì?
                  Mới mẻ làm sao, yêu nghiệt làm sao, hỗn tạp làm sao…mâu thuẫn thế nào….mà cũng kỳ diệu làm sao!
                  Bình phẩm chê khen tất cả mọi sự mọi vật, thế mà cũng vừa là thứ trùn đất rất ngu xuẩn; tàng chứa chân ly’, mà cũng là một cái ổ bẩn thỉu đầy mờ ám và sai lầm; Vinh quang cao cả lắm, mà cũng là cái cặn bả vứt đi của vũ trụ.
                  *Người đâu phải là vị thánh, cũng đâu phải là con thú. Và bất hạnh thay, kẻ muốn làm thánh lại làm con thú.
                  *Đứa ngu tìm cách cắn bậc thiên tài. Người thiên tài có thể bị chảy máu, nhưng vết thương sẽ lành.
                  Trái lại, cái mồm của đứa ngu không còn cái răng nào nữa cả, và răng cũng không mọc lại được.
                  *Những người bạn thật tâm giao là những người cô đơn sống chung nhau.
                  *Đừng phân bua, đừng bày giải: Bạn thân, họ đã hiểu anh dư, Còn kẻ thù, họ không tin anh đâu.
                  *Anh có muốn hại kẻ nào không? Đừng nói xấu họ, Hãy nói tốt họ cho thật nhiều.
                  *Sở dĩ sự kiêu xấc của kẻ khác làm cho ta khó chịu, Là vì nó làm thương tổn cái kiêu xấc của ta.
                  *Nếu anh đóng cửa lại, không cho một sự sai lầm nào vào được cả, thì Chân ly’ cũng sẽ ở ngoài luôn.
                  *Tất cả những gì anh nói đều để nói về anh: đặc biệt là khi anh nói về kẻ khác.
                  *Anh hãy nói anh thích lân la với ai, tôi sẽ nói cho anh biết, anh ghét ai.
                  *Tôi hằng cư xử như một thằng ngu, còn lỗi lầm của tôi thì vô số kể.
                  *Nhờ miệng lằn lưỡi mối mà mình mới biết rõ những tật xấu của mình.
                  *Vợ người đẹp hơn vợ mình. Văn mình hay hơn văn người.
                  *Người ta yêu cầu được nghe lời phê bình của anh, nhưng họ chỉ muốn nghe những lời khen tặng mà thôi.
                  *Không nên thường thăm viếng những người bạn thân, nếu muốn gìn giữ mãi họ với ta.
                  *Chính những sa mạc mới khát khao dòng nước chảy; Những tâm hồn ích kỷ rất khao- khát được ấp yêu.


                  Bạn để y’ xem, trong đời sống hàng ngày chúng ta đã để mất rất nhiều cơ hội để bày tỏ cảm tình của mình đối với người thân, bằng hữu…Nhà ai cũng có điện thoại, đa số một năm chưa “phone” nhau được một lần. Như vậy mà mỗi lần gặp nhau giữa những buổi tiệc tùng tay bắt mặt mừng một cách rất ư là giả dối, làm như thể nhớ nhau quay quắt. “Sự sợ hãi hạ cấp nhất là sự sợ hãi bày tỏ cảm tình” tôi còn nhớ một nhà tâm ly’ học đã nói câu đó. Triết ly’ của Phật giáo cũng như của Công giáo đã cho chúng ta thấy Đức Phật cũng như Chúa Jesus đã bày tỏ lòng từ bi bác ái và tình yêu thương của các Ngài qua hàng trăm cách khác nhau đối với các tông đồ.
                  Tại sao chúng ta là những thường nhân lại lưỡng lự không dám bày tỏ sự quan tâm, thương mến lẫn nhau? Phong tục và tập quán tại Hoa Kỳ cũng như tại Gia-Nả-Đại, đặc biệt giữa hai người bạn trai mà có những cử chỉ hoặc lời nói quá thân mật, bá vai, bá cổ thì họ cho rằng hai người đó bị bệnh đồng tình luyến ái.
                  Nhưng, người được bạn bè quí mến là người không ngại ngùng bày tỏ tình yêu thương của mình một cách công khai.
                  Đọc lịch sử Hoa Kỳ chúng ta cũng thấy được sự bày tỏ cảm tình giữa Tướng LaFayette và Tổng Thống Jefferson. Hai người đã thư từ với nhau một cách đều đặn, họ không gặp nhau trong 35 năm. Khi Tổng Thống Monroe mời vị Tướng lãnh vĩ đại của Pháp quốc đến thăm viếng Hoa Kỳ vào năm 1824, Lafayette đã 67 tuổi và Jefferson 81. Chỉ ở có một ngày tại thành phố Quincy, tiểu bang Massachusettes, sau đó Lafayette vội vã xuôi Nam để gặp ông Jefferson.
                  Vào buổi sáng tháng 11, chiếc xe tứ mã của Lafayette đến tại thành phố Monticello. Một đám đông tụ tập để chứng kiến buổi gặp gỡ. Ông John Randolf Trưởng Ban Nghi Lễ miêu tả như sau: “Ông Jefferson từ sân thượng vội vã đi xuống đến tận xe để đó ông Lafayette và cả hai ôm nhau khóc nghẹn ngào.
                  Tôi đã từng chuyện trò với nhiều người bạn đã ly dị. Tôi thường ao ước họ sẽ thấm nhuần lòng thương nhân loại của Chúa, đức từ bi hỉ xả của Phật và tình bạn thắm thiết giữa Lafayette và Jefferson, những Thánh và Danh Nhân đã dám bày tỏ tình yêu thương một cách chân thành.
                  Có rất nhiều người tâm sự với tôi là họ mặc dầu săn đón bạn bè rất niềm nở, chiều chuộng đủ thứ nhưng cuối cùng rồi bạn bè cũng ngoảnh mặt quay lưng. Tại sao vậy? Trong cách giao tế bạn đã xoi mói đến đời tư, đến cách ăn mặc, đến cái lợi về tinh thần lẫn vật chất, đến lời ăn, tiếng nói của người khác trong lúc vui chơi, tiệc tùng. Bạn đã quên một yếu tố rất quan trọng đó là: tình thương giữa bạn bè. Bạn không đến với họ bằng tình yêu thương. Hai ngàn năm về trước, triết gia Seneca đã nói một câu rất đơn giản nhưng hàm chứa trọn vẹn triết ly’ sống: “Bạn muốn được người khác yêu thương, hãy yêu thương họ”. Bạn hãy để cõi lòng mình rộng mở, đến với nhau bằng sự mến phục, không nên ganh tỵ, bắt lỗi, bắt phải, nói những câu xúc phạm đến họ. Ai cũng thích được khen cả. Kinh nghiệm cho tôi biết có một hiện tượng lạ lùng trong ngành chữa trị bệnh tâm thần là khi bệnh nhân lột tả hết tâm sự thầm kín của họ từ sự xúc động, giận dữ, điên cuồng hoặc thù ghét….Khi lắng nghe, tâm hồn tôi đều có cùng một cảm xúc như họ. Trong nghệ thuật đánh bạn cũng vậy, khi họ được mời đến chơi, họ sẽ vui vẻ, ưa thích những gia chủ yêu thương và quí mến họ và ngược lại sự đam mê và lòng yêu thương bao giờ cũng được đáp ứng.
                  Bạn biết không? Hoàng Đế Napoleon đã thử, và trong lần gặp gỡ cuối cùng với Hoàng Hậu Joséphine, ông nói: “Joéphine, Trẫm thật sự may mắn như bất cứ một người đàn ông nào khác trên quả đất; và tuy nhiên, đến giờ phút này, khanh là người duy nất trên thế giới mà trẩm tin tưởng”. Bạn thì sao tôi không biết, nhưng cá nhân tôi đúng như câu: “Khôn nhà, dại chợ”. Đối với vợ con, thú thật với bạn, thỉnh thoảng tôi cũng cộc cằn, thô lỗ…Nhưng đối với bạn bè, dù bất cứ thuộc giai cấp, trình độ nào tôi cũng đều tử tế và lịch sự hết mình. Ước gì tôi áp dụng cái cung cách xử thế đó đối với vợ con phải tuyệt cú mèo hay không? Cửa nhà thêm êm ấm, hạnh phúc hay không?. Xin thưa với bạn: “Mỗi một lời nói, một hành động tử tế với nhau lúc còn sống, có giá trị hơn hàng triệu hạt nước mắt mà bạn nhỏ trên nấm mồ hoang lạnh”. Có nhiều lúc bạn cũng như tôi sẽ cảm thấy hối tiếc về một vài điều mà bạn đã nói; hối tiếc vì đã ở lại quá trễ, hoặc hối tiếc bạn đã đi quá sớm; hối tiếc rằng bạn đã thắng hay mất một vật gì đó; nhưng trong suốt cuộc đời, bạn sẽ không bao giờ hối tiếc bạn đã đối xử tử tế với ai.
                  Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Nếu bạn kiên nhẫn trong một lúc giận dữ, bạn sẽ thoát được cả trăm ngày sầu khổ”. Tình bạn giống như trương mục ở ngân hàng. Bạn không thể tiếp tục rút tiền ra xài mà không chịu ky’ thác tiền vào đó. Có tư cách đáng khen thưởng hơn tài năng ngoại hạng. Đa số tài năng là một món quà. Có tư cách không ai cho chúng ta cả. Chúng ta phải xây dựng từng chút một-bằng tư tưởng, sự chọn lựa, sự can đảm và lòng quyết tâm. Cố bác sĩ Alfred Adler, một nhà tâm-ly’-học nổi tiếng của Áo quốc đã nói: “Cá nhân sống mà không quan tâm đến đồng loại của mình, là những người có những sự khó khăn nhất trong cuộc sống và gây ra tổn thương lớn nhất cho những người khác. Những sự thất bại của nhân loại nẩy sinh do những thành phần đó”.
                  Ngày xưa tôi cũng có học một ít chữ Nôm, thỉnh thoảng tôi cũng đọc sơ qua một ít sách thánh hiền để lại để học hỏi cách xử thế của người xưa như thế nào, có thích hợp với con người ở cái thời đại văn minh này không, xin bạn nghiệm thử. Mùa xuân khí trời có đầm ấm ôn hòa thì muôn loại mới sinh tươi nẩy nở và phồn thịnh được. Người đối với người cũng vậy, trong gia đình, ngoài thì xã hội, có “hòa khí” mới có thể sống chung với nhau mà an cư lạc nghiệp được. Ta dù có được là người tốt chăng nữa mà cứ một mực góc gách, nghiêm ngặt với người, thì người lấy làm khó chịu mà không thể nào thân với ta được. Không chịu được nhau, thành thử đôi bên không được yên vui sung sướng. Bao giờ cũng nên giữ được cái thái độ ôn hòa, không a dua, xu phụ ai, cũng không ghét ai để cho người đau đớn mà sinh biến.
                  Cư xử với người mà góc gách, nghiêm ngặt quá là cái đại bệnh ở đời. Bực thánh hiền cư xử với người đời không có giây phút nào là rời bỏ được cách ôn hòa trung hậu:
                  Thầy Nhan Yên, hỏi Đức Khổng Tử: “Hồi nầy muốn nghèo mà cũng được như giàu, hèn mà cũng được như sang, không phải khỏe mà có oai, chơi bời với người ta suốt đời không lo sợ gì, muốn như vậy, có nên không?.
                  Đức Khổng Tử nói: “Người hỏi thế phải lắm. Nghèo, mà muốn cũng như giàu, thế là biết bằng lòng số phận không ham mê gì. Hèn, mà muốn cũng như sang, thế là biết nhún nhường và có lễ độ. Không khỏe, mà muốn có oai, thế là biết thận trọng, cung kính không lầm lỗi gì. Chơi bời với mọi người mà muốn suốt đời không lo sợ, thế là biết chọn lời rồi mới nói”.
                  Và cũng chính cái cung cách cư xử ôn hòa, trung hậu đó, các bậc thánh hiền đã khuyên ta:
                  -Phiếm ái chúng: nghĩa là rộng yêu tất cả loài người.
                  -Hòa nhi bất đồng: nghĩa là xử với người hòa hợp mà không a dua phe đảng.
                  -Hòa nhi bất lưu: Nghĩa là xử với người hòa nhã mà không đua theo quá trớn.
                  -Quần nhi bất đảng: nghĩa là liên hợp với mọi người cho có nhân quần mà không vào bè kết đảng với ai cả.
                  -Chu nhi bất tị: nghĩa là công bình mà chẳng thiên tư.
                  -Từ tường khải dễ: nghĩa là nhân đức, êm ái, vui vẻ, dễ dàng.
                  -Ái nhân: nghĩa là yêu loài người.
                  -Thân nhân: nghĩa là gần gụi dân và đi sát với dân, coi dân như anh em con cái.
                  -Vạn vật nhất thể: nghĩa là coi muôn loài với mình như một thể.
                  -Thiên hạ nhất gia, trung quốc nhất nhân: nghĩa là coi cả thiên hạ như một nhà, coi cả nước như một người.
                  Nếu làm người cứ vò võ một mình, tính nết khe khắt, lạnh nhạt, chẳng thân với ai thì thật là một hạng chướng ngại cho xã hội.
                  Trong cộng đồng của chúng ta không phải là không có những người chủ trương không thèm giao tiếp với người Việt, họ sợ phải chịu mang tiếng xấu. Bạn hãy chỉ cho tôi một quốc gia nào trên quả đất mà không có đĩ điếm, trộm cướp, giết người, cướp của…Họa chăng chỉ có ở trên thiên đường mà ảo tưởng của con người dựng nên. Bạn là nhà trí thức, học rộng biết nhiều, cao sang đạo đức, lễ nghĩa, liêm sĩ…v.v.. sao không biết áp dụng triết ly’ của Lão Tử: “Người hay là thầy người dở, người dở là kẻ giúp chí cho người hay”. Để hướng dẫn cho người đồng hương ruột thịt của mình?. Người ta ở đời không phải chỉ quay mắt nhìn về trước là xong, cốt phải liên cang với những người hiện thời nữa. Mà trong cách liên can ăn ở ấy, thì không gì bằng khiêm nhã mềm dẻo. Xưa nay thường dạy như thế: “Dịu hơn là xẳng”, “Lạt mềm buột chặt”:
                  Thường Tung yếu. Lão Tử đến thăm, hỏi rằng:
                  -Tôi xem tiên sinh mệt nặng. Dám hỏi tiên sinh còn có câu gì để dạy đệ tử chúng con nữa không?
                  Thường Tung nói:
                  -Qua chỗ cố hương mà xuống xe, ngươi đã biết điều ấy chưa?
                  Lão Tử thưa:
                  -Qua chỗ cố hương mà xuống xe, có phải nghĩa là không quên nơi quê cha đất tổ không?
                  -Ừ phải đấy, -Thế qua chỗ có cây cao mà bước rảo chân, ngươi đã biết điều ấy chưa?.
                  -Qua chỗ cây cao mà bước rảo chân, có phải là kính những bậc già cả không?
                  -Ừ phải đấy.
                  Thường Tung lại há miệng ra cho Lão Tử coi nữa và hỏi rằng: -Răng ta còn không?
                  Lão Tử thưa: -Rụng hết cả rồi.
                  -Thế ngươi có rõ cái ly’ do ấy không?
                  -Ôi! Lưỡi mà còn lại, có phải tại lưỡi mềm không? Răng mà rụng hết, có phải tại răng cứng không?
                  -Ừ, phải đấy. Việc đời đại để như thế cả. Ta không còn gì để nói cùng các ngươi nữa.
                  Bạn có biết không? Một lời nói êm dịu, ngọt mềm là một trong những sự giải quyết êm đẹp nhất để tránh va chạm không những đối với mọi người mà còn đối với những người trong gia đình như vợ con….
                  Có một loại tâm bệnh ở trong một số ít người, họ tự cho mình cao cả, học thức, đạo đức, sang trọng hơn những người khác qua sự chỉ trích bạn bè. Nếu bạn cảm thấy rất đau khổ để chỉ trích một người nào đó, bạn cứ an nhiên, tự tại mà làm. Nhưng nếu bạn cảm thấy thích thú chút xíu cho thỏa lòng ganh tức, tôi khuyên bạn nên dừng lại. Lòng khoan dung, độ lượng, một trong những biểu hiện cao hơn của văn hóa, chỉ được nhìn thấy nơi kẻ có đầu óc luôn luôn cởi mở trước mọi vấn đề, và cũng chỉ ai có được đầu óc thoáng đạt cởi mở khi nhìn thực tế mới đích thực là kẻ có học thức và họ mới xứng đáng để được chuẩn bị tự thích ứng với những của cải to tát hơn của đời. Đến đây tôi chợt nhớ đến những lời khuyên dạy của cổ nhân như những khuôn vàng, thước ngọc, xin bạn cùng tôi suy gẫm:
                  *Nói đương sướng hả mà nín ngay được; y’ đương hớn hở mà thu hẳn được, tức, giận, ham mê đương sôi nổi, nồng nàn, mà tiêu trừ biến mất được; không phải là người rất kiên nhẫn, thì không tài nào được như thế.
                  *Chính mình chẳng kiềm chế nổi mình mà cứ muốn cài đạp người thì thật là nhu.
                  *Người ta ai mà không có lỗi. Có lỗi mà sửa đổi được thì còn gì hay hơn.
                  *Câu nói như tên, không nên bắn bậy, đã lọt vào tai ai, không tài nào rút ra được nữa.
                  *An ác, dương thiện là bực thánh: thích thiện, ghét ác là bậc hiền, tách bạch thiện, ác quá đáng là hạng người thường, điên đảo thiện ác để sướng miệng gièm pha là hạng tiểu nhân hiểm ác.
                  Cố Tổng Thống Abraham Lincoln của Hoa Kỳ có thể nói là mẫu người Mỹ ly’ tưởng tốt đẹp nhất. Ông luôn luôn cởi mở trước mọi vấn đề, luôn luôn lắng nghe y’ kiến công luận phê phán, những người đi tìm kiếm chút địa vị trong nội các chính phủ, những cố vấn họ nghĩ mình thông minh, sáng suốt hơn Tổng Thống. Xuyên qua những kinh nghiệm trong cuộc đời làm chính trị, ông đã nói một câu bất hủ: “Đừng phán đoán, bạn sẽ không bị phán đoán”.
                  Suốt cuộc nội chiến giữa hai miền Nam, Bắc, khi bà Lincoln nặng lời đối với người miền Nam, Tổng Thống Lincoln trả lời: “Mary, đừng chỉ trích họ, nếu chúng ta lâm vào hoàn cảnh như họ, chúng ta cũng hành động giống như họ mà thôi”.
                  Nhà soạn nhạc dương cầm Beethoven đã nói: “Tất cả chúng ta đều lỗi lầm, nhưng mỗi người làm những lỗi lầm khác nhau”.
                  Bạn đừng cho rằng tôi khuyên bạn trở nên một người ba phải chỉ biết đồng y’ với tất cả mọi người mà không biểu lộ y’ kiến. Không phải vậy-bạn cứ vui vẻ, chân tình cởi mở, mến trọng tất cả mọi người. Nếu đi đến một buổi tiệc mà sợ người ta phê bình, chỉ trích, chỉ ngồi yên lặng từ đầu đến cuối không dám phát biểu, đùa nô với bạn bè thì làm sao có được tình thân?. Nhưng bạn phải cho người khác cái đặc quyền giống như vậy. Biểu lộ cá tính chân thật của mình thì được, bao lâu nó không mang tính chất chiếm hữu, không can dự, không bắt buộc đòi hỏi người khác phải theo y’ của mình.
                  Trong sách Mạnh Tử có câu chuyện rất hay, xin kể hầu bạn: “Tự xét mình”:
                  Người quân tử sở dĩ khác người là vì lúc nào cũng để tâm đến việc “Nhân”, để tâm đến việc “Lẽ”.
                  Đã là người có nhân, thì yêu người, đã là người có lễ, thì kính người. Mà theo lẽ thường, yêu người thì tất người sẽ yêu lại, kính người thì người tất kính lại. Người quân tử ăn ở như vậy, mà gián hoặc còn có kẻ đem thói ngang ngược đối đãi lại, thì tất nhiên tự xét ngay mình lại, chắc mình còn bất nhân, chắc mình còn vô lễ, thì họ mới xử với mình như thế, chớ tự dưng thì có khi nào họ lại ngang ngược với mình được.
                  Người quân tử xét lại thật mình có nhân, thật mình có lễ, mà người ta đối đãi với mình vẫn ngang ngược như trước, thì tất lại xét lại mình ta nhân, ta lễ thật, nhưng ta chưa được hết lòng chăng?. Nếu người quân tử xét rằng thật đã hết lòng mà thói người ngang ngược vẫn như trước, thì bấy giờ người quân tử nói: “Hạng này thật là hạng càn dở. Người mà đến như vậy thì khác gì loài vật. Đối với loài vật thì ta còn kể làm chi”.
                  Tôi xin mượn lời của một học giả Hoa Kỳ, ông Napoleon Hill, để gửi đến bạn: “Tôi đã tìm thấy hạnh phúc bằng cách giúp đỡ những người khác.
                  Tôi có được một thân thể tráng kiện, lành mạnh vì tôi sống điều độ với tất cả mọi sự vật và chỉ dùng những thức ăn mà Thiên Nhiên đòi hỏi cho việc bảo quản thân thể của tôi.
                  Tôi thoát khỏi sự sợ hãi dưới mọi hình thức.
                  Tôi không ghét bỏ, ganh tỵ, nhưng yêu thương tất cả đồng loại.
                  Tôi gắn bó tận tụy làm việc cho tình yêu hòa lẫn với vui chơi, giải trí một cách hào phóng. Vì vậy tôi không bao giờ biết mỏi mệt.
                  Tôi buông lời cảm tạ mỗi ngày không phải để có nhiều của cải, nhưng cho sự khôn ngoan để nhận thức, giữ lấy và xử dụng những của cải lớn lao mà hiện tôi đang có sẵn.
                  Tôi không đòi hỏi những người khác phải niềm nở với tôi, ngoại trừ đặc quyền san sẻ của cải của tôi cho tất cả những ai muốn đón nhận nó.
                  Tôi hành động đúng theo tiếng gọi của lương tâm. Vì vậy, chính lương tâm hướng dẫn tôi một cách đúng đắn trong tất cả những gì mà tôi làm.
                  Tôi không có kẻ thù bởi vì tôi không làm phương hại bất cứ một ai vì bất cứ ly’ do gì, nhưng tôi giúp ích cho bất cứ ai mà tôi liên hệ để chỉ dẫn phương pháp giữ của cải được lâu bền.
                  Tôi thành thật mà nói rằng tôi có nhiều của cải vật chất hơn số lượng mà tôi cần, bởi vì tôi không tham lam và chỉ ao ước có đủ vật chất lúc tôi còn sống.
                  Tôi đang làm chủ một bất-động-sản lớn lao không bị đóng thuế bởi vì nó được cất giữ trong tâm trí, đó là những của cải không thể sờ mó được, không thể đánh giá hoặc chiếm hữu được, chỉ trừ những ai áp dụng cách sống của tôi. Tôi đã sáng tạo bất-động-sản lớn lao này bằng cách quan sát luật lệ thiên nhiên và ứng biến thành những tập quán để sống đúng theo đó”.
                  Để kết thúc tiểu đề này, tôi xin “khoe” với bạn, tại khu tôi ở có một cửa tiệm bán thức ăn nhẹ và cà-phê, thỉnh thoảng tôi tạt vào ăn vài cái bánh ngọt, uống ly cà-phê và để chuyện trò với ông Joe (chủ quán). Bạn biết ở khu du lịch của miền duyên hải White Rock 80% là những người cao niên từ bảy, tám chục tuổi trở lên. Ông Joe đúng là mẫu người sung sướng, cởi mở, bặt thiệp vô cùng. Vào một đêm tôi đã chứng kiến cái cảnh ông ta tiếp đãi thực khách tại cửa tiệm của ông. Ông ta bưng một tô xúp nóng đặt trước mặt ông cụ đôi tay run rẩy: “Ông Jones, Mamie nấu chén xúp đặc biệt này cho ông đây”. Một cụ bà lưng khòm, đi nghiêng ngã bắt đầu bước ra cửa: “Bà Hudson ơi! Cẩn thận nhé, ngoài kia xe cộ chạy nhanh lắm đấy. Và ô kìa! Bà nhìn xem trăng tròn đang nhô lên ở mé sông. Một đêm thật tuyệt vời”. Tôi ngồi đó suy nghĩ và nhận thấy ông Joe đúng là một người sung sướng hạnh phúc bởi vì ông thật sự yêu thương loài người…

                  MÂY-CAO-NGUYÊN
                  (Xuân – 2010)

                  Comment


                  • #24
                    Ngày phụ nữ quốc tế và quốc tổ hùng vương

                    NGÀY PHỤ NỮ QUỐC TẾ VÀ QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG
                    Biên khảo: Mây-cao-Nguyên





                    Đối với tôi, tháng 3 có hai ngày rất quan trọng: Ngày Phụ Nữ Quốc Tế 8-3 và Ngày Quốc Tổ Hùng Vương 10-3.

                    Ngày 8 tháng 3 là ngày nhắc nhở cho các đấng mày râu biết rằng: Phụ nữ không phải là một sinh vật nhỏ bé được Thượng Đế sinh ra để phục vụ cánh đàn ông như lời trong Thánh Kinh, sau khi bà Ê-Và dụ dỗ ông A-Dong ăn trái cấm, bị Chúa trừng phạt. Mà phụ nữ là một người như mình có những suy nghĩ, những tâm tư tình cảm riêng, có công việc độc lập cần được tôn trọng, cũng như cần được chia sẻ. Triết gia Paplo Casals nói: “Chừng nào con người có thể thán phục và yêu thương, như vậy họ sẽ trẻ mãi”. Và: “Nhìn vào khuôn mặt của người vợ sẽ biết ngay tư cách của người chồng”.
                    Từ cái thời ông A-Dong và bà Ê-Và, người đàn bà chỉ giữ vai trò phụ thuộc bên cạnh người đàn ông. Vào thế kỷ 20, một số ít đàn bà mới thực hiện được một chút nam nữ bình quyền về bầu cử, ứng cử, quyền làm chủ các bất-động-sản và một phần bình đẳng trong công ăn việc làm.
                    The Isle of Man là nơi đầu tiên cho phép phụ nữ bầu cử, vào năm 1880, nhưng đảo quốc này là một phần của Liên Hiệp Anh và không phải là một xứ riêng biệt. Cho mãi đến năm 1920 chỉ có những quốc gia Âu Châu cho phép phụ nữ đi bầu cử là Sweden (1919) và Czechoslovakia (1920). Tại Hoa Kỳ phụ nữ được phép đi bầu vào năm 1920, mặc dầu có một vài tiểu bang cho phép phụ nữ đi bầu sớm hơn. Phụ nữ không được phép đi bầu cử tại Pháp hoặc Ý-Đại-Lợi cho mãi đến năm 1945, tại Switzerland (1971) hoặc tại Liechtenstein (1984). Phụ nữ được cho phép đi bầu tại Kuwait lần đầu tiên vào năm 2005, nhưng họ không được phép đi bầu ở Brunei, Saudi Arabia và The United Arab Emirates. Quốc gia đầu tiên cho phụ nữ được quyền đi bầu là New Zealand vào năm 1893. Úc Châu (1902) mặc dầu phụ nữ đã xử dụng lá phiếu ở Nam Úc vào năm 1894 và miền Tây Úc vào năm 1898 trước khi các tiểu bang riêng rẻ được kết hợp thành Liên Bang vào năm 1901. Phần Lan (Finland) cho phụ nữ đi bầu vào năm 1906, Norway (Na-Uy) chỉ cho một số phụ nữ đi bầu vào năm 1907. Cho mãi đến năm 1913 tất cả phụ nữ trên 25 tuổi được quyền đi bầu. Denmark (Đan Mạch) và Iceland (Băng Đảo) cho phép phụ nữ đi bầu vào năm 1915. Netherlands và Liên Bang Sô Viết (USSR) cả hai xứ này cho phụ nữ đi bầu vào năm 1917. Austria (Áo), Canada, Germany, Poland, Great Britain và Ireland cho phụ nữ đi bầu vào năm 1918 (Ở Ireland, một phần đất của Liên-Hiệp-Anh mãi đến năm 1921, chỉ có những phụ nữ trên 30 tuổi được quyền đi bầu vào năm 1918. Đến năm 1928, số tuổi được hạ xuống còn 21 tuổi).
                    Ngay bây giờ, chúng ta đang sống qua hơn một thập niên của thế kỷ 21, mặc dầu đàn bà họ đã chiến đạt được những quyền lợi đáng kể bên cạnh nam giới, nhưng những bất ổn cố hữu vẫn còn ngự trị trong cấu trúc tình cảm của họ. Ngoài ra, vai trò làm mẹ đã tạo ra cho họ nhiều vấn đề nhiêu khê.Bản năng của người phụ nữ cảm thấy nhu cầu cần thiết phải có một cục cưng nam giới đẹp trai, khỏe mạnh, to con (như tôi), biết lo lắng cho gia đình..v.v…thì họ mới an tâm.

                    Để mở đầu bài biên khảo này, cho phép tôi vinh danh: Hội Phụ Nữ Việt Nam Vùng Greater Vancouver, B.C. (Canada), những con cháu Bà Trưng, Bà Triệu đang đếm nỗi buồn trên những phố phường xa lạ, đang mang trong lòng nỗi sầu vong quốc, tâm hồn đang bị móng vuốt sắt thép của sự phiền muộn, đau đớn và tuyệt vọng nghiền nát…kể từ biến cố đau thương của dân tộc vào mùa xuân Ất Mão 1975 cho đến nay. Một thi hào lãng mạn Pháp: Alfred de Musset đã viết trong một bài thơ: “Phải chăng con người ta được sinh ra, riêng cho một mảnh đất mà cho dù đi đến đâu cũng muốn trở về xây tổ ấm và sống ở đó”.

                    Có một công thức bất di bất dịch để làm chủ mọi buồn phiền và chán nản, là biến cải những thất vọng tình cảm đó thành một kế hoạch làm việc kiên quyết. Nó là một công thức không có gì thay thế hay so sánh được. Những người phụ nữ Việt Nam đã thấu đạt được triết ly’ cao siêu này, cho nên, mỗi năm các chị em đã không quản ngại đường sá xa xôi, thì giờ eo hẹp, nặng gánh gia đình….đã cùng nhau ngồi lại, phân chia công tác, tập dượt, nấu nướng và đặc biệt, mỗi năm các chị em lần giở những trang sử xưa để dàn dựng thành kịch bản một trong những vị anh hùng, anh thư vĩ đại của dân tộc Việt Nam kể từ ngày lập quốc, để nhắc nhở cho tất cả chúng ta đừng quên cội, quên nguồn và đừng nên cúi mặt trước quân thù.

                    Thương quá, tôi chợt nhớ bài thơ của thi sĩ Hồ Dzếnh sau đây:
                    “Cô gái Việt Nam ơi!
                    Từ thuở sơ sinh lận đận rồi,
                    Tôi biết tình cô u uất lắm,
                    Xa nhau đành chỉ nhớ nhau thôi.
                    Cô chẳng bao giờ biết bướm hoa,
                    Má hồng mỗi tiết mỗi phôi pha.
                    Khi cô vui thú, là khi đã,
                    Bồng bế con thơ, đón tuổi già!.
                    Cô gái Việt Nam ơi!
                    Ngọn gió thời gian đổi hướng rồi,
                    Thế hệ huy hoàng không đủ xóa,
                    Nghìn năm vằng vặc ánh trăng soi.
                    Tôi đến đây tìm lại bóng cô,
                    Trở về đường cũ, hái mơ xưa.
                    Rau sam vẫn mọc chân rào trước,
                    Son sắt, lòng cô vẫn đợi chờ.
                    Dãi lúa cô trồng nay đã tươi,
                    Gió xuân y’ nhị vít bông cười…
                    Ai hay lòng kẻ từng chăm lúa,
                    Trong một làng con, đã héo rồi!
                    Cô gái Việt Nam ơi!
                    Nếu chữ hy sinh có ở đời,
                    Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực,
                    Cho lòng cô gái Việt Nam tươi”.


                    Sau khi xem vỡ kịch: “Nữ Tướng Bùi thị Xuân”, nó như một trận gió lớn thổi bùng ngọn lửa nhỏ đang cháy ầm ỉ trong tiềm thức mà tôi những tưởng đã tắt ngấm tự bao giờ qua dòng thời gian trên ba mươi năm lưu lạc nơi xứ người. Tôi xin: “Giở lần trang sách xưa-Nhớ thời áp bức-Giang sơn ơi! Lòng Ngươi nguội đau chưa?- Mộng đợi ngươi đã thức- Cõi trần ai đêm nay ta bơ vơ- Giật mình cảm xúc…Hận muốn toát ra thơ- Tình tan vào uất ức- Hồn đau run mờ tưởng bóng cờ- Ghi dấu những ngày quốc nhục- Bừng sáng mau lên Xuân- Cho vinh quang quét sạch hết phong trần- Cho non nước sáng tươi ngày trẻ mãi – Và Giang sơn…Giang sơn, thiên-vạn-đại- Trước khi tàn ta muốn thấy Ngươi vui- Hỡi vô cùng yêu dấu nước ta ơi!”.

                    Nữ Tướng Bùi Thị Xuân: Tôi xin mời bạn thả hết trí tưởng tượng để theo dõi trận đánh khốc liệt của anh hùng áo vải đất Tây Sơn, tức Quang Trung Hoàng Đế Nguyễn Huệ, trong cuộc đại phá quân Mãn Thanh và những anh hùng, anh thư lẫy lừng của dân tộc Việt Nam. Nói đến cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, phải nói đến làng Tây Sơn trên cao nguyên An Khê, căn cứ địa đầu tiên của ba anh em áo vải: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ, đã chiêu binh mãi mã, và được đồng bào Thượng tham gia và tiếp vận lương thực rất nhiều. Năm 1771, nhà Tây Sơn khởi nghĩa. Năm 1773, Nguyễn Nhạc đắp thêm thành Đồ Bàn, đặt tên là Hoàng Đế Thành. Tỉnh Bình Định, đất Qui Nhơn đã sản sinh một vị đại anh hùng của dân tộc, đó là Vua Quang Trung Nguyễn Huệ, người đã đánh đuổi giặc nhà Thanh ra khỏi bờ cõi vào mùa Xuân Kỹ Dậu (1789), với chiến thắng Đống Đa lịch sử. Vua anh hùng có tướng anh hùng. Quận Bình Khê, làng Xuân Hòa, quê anh thư Bùi thị Xuân, vị nữ tướng can trường đã cùng với các tướng đầu tiên vào giải phóng thành Thăng Long. Đến đời vua Cảnh Thịnh Nguyễn quang Toản yếu thế bị Nguyễn Ánh đem quân đánh lần thứ ba phá được thành, chiếm Qui Nhơn và đổi tên là thành Bình Định năm 1799. Năm 1800, thành này bị tướng Tây Sơn là anh hùng Trần Quang Diệu và anh hùng Võ văn Dũng vây đánh ráo riết, trong lúc đó quân Nguyễn Ánh dồn tiến ra Quãng Nam và Phú Xuân (Huế). Hai tướng giữ thành là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu đều tuẫn tiết. Sau đó Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân trở về chiếm lại Qui Nhơn, mới đặt tên là Bình Định. Sau khi Gia Long lên ngôi, dinh Bình Định trở thành trấn. Năm 1832, đời Minh Mạng, trấn Bình Định trở thành tỉnh.

                    Trên đường kéo quân ra Bắc, Nguyễn Huệ giải phóng Phú Xuân năm 1786, lấy đất này làm bàn đạp tiến quân ra Bắc. Dừng quân ở Nghệ An để mộ thêm quân. Dân chúng Nghệ An ngưỡng mộ anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ như một đấng minh quân vì dân vì nước. Dân như được sống lại. Chỉ trong nửa tháng, mười vạn dân quân Nghệ An cùng với vạn người từ các vùng khác đã theo chân anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ tiến quân như thác lũ ra miền Bắc.
                    Năm 1789, quân Mãn Thanh tràn qua cướp nước, Tôn-Sĩ-Nghị đóng quân tại Thăng Long và bố trí một cánh quân tiếp ứng ở Sơn Tây, ông Ngô Thì Nhậm đã khuyên các tướng Tây Sơn rút về đèo Tam Điệp cố thủ để nuôi chí kiêu căng của giặc và để toàn dân nhìn ra bộ mặt phản quốc của Lê-chiêu-Thống mà đồng tâm chống giặc. Đầu năm 1789, Quang Trung Hoàng Đế kéo quân ra Bắc theo ba mũi tấn công. Dân quân vùng biển Hải Dương theo cánh thủy quân do Đô Đốc Lộc và Đô Đốc Tuyết tiến vào sông Lục Đầu vừa thủ vừa công mặt Đông. Đô Đốc Tuyết chặn giặc ở vùng Hải Dương. Đô Đốc Lộc vượt lên Lạng Sơn chận đường rút lui của quân Thanh. Dưới sự điều binh khiển tướng tuyệt vời của anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ, gần ba chục vạn quân Thanh bị đánh tan tành không còn manh giáp. Lệnh truyền xuống chia quốc năm đạo làm ba hướng tấn công. Riêng mặt Hà Đông, hai vị tướng anh hùng là Đô Đốc Bảo và Đô Đốc Mưu giáp công hai mũi, giải phóng các huyện Chương Mỹ, Thường Tín, Thanh Trì. Đêm trừ tịch Tết Kỹ Dậu quân ta tiến nhanh như vũ bão. Cánh quân của QuangTrung đuổi hết bọn giặc Thanh và đám tay sai của Lê Chiêu Thống tại huyện Phú Xuyên, làm chúng không thể báo tin về Thăng Long được. Ngày 25 tháng 1 năm 1789 (tức 30 tháng Chạp năm Mậu Thân), Quang Trung Hoàng Đế xuất binh từ Nghệ An tiến ra Bắc, cưỡi voi điều khiển quân chủ lực đi đầu đạo tiền phong đánh thẳng vào mặt Nam thành Thăng Long, nơi Tôn Sĩ Nghị phòng vệ kiên cố nhất. Nửa đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu, quân ta vây kín đồn giặc ở làng Hà Hồi (Huyện Thường Tín); giặc đang say men Xuân bị đánh bất ngờ không còn hồn vía phải mở cửa xin hàng. Sáng mồng 5 Tết, đạo quân chủ lực hợp với cánh quân của Đô Đốc Bảo tiến đánh thành giặc ở làng Ngọc Hồi (Phía Nam Văn Điển, huyện Thanh Trì), rồi phá bung thành Đống Đa. Cánh quân Điền Châu chết chật đường đi, tướng giặc Sầm Nghi Đống treo cổ chết. Thành Ngọc Hồi xây khá cao, rất kiên cố, giặc Thanh bắn súng ra như mưa. Nhưng ta vẫn thắng. Vua Quang Trung cho lính ghép ván bện rơm tẩm nước, cứ ba người khiêng một tấm, giắt dao ngắn xông lên đỡ đạn cho hai mươi quân lính mang khí giới theo sau, đến sát mặt thành thì ngả ván tràn vào. Giặc đạp, xô đẩy nhau chết rất nhiều ở đầm Mực. Nữ danh tướng Bùi-thị-Xuân là người đi tiên phong trong đoàn đại quân của Quang Trung Hoàng Đế phá bung thành Đống Đa. Trong tiếng reo hò phá vỡ thành Thăng Long, Bình Nam Đại Tướng Quân Tôn-Sĩ-Nghị chạy trốn về Tàu quên cả ấn tín, mật chỉ…mà chưa tin là còn sống. Trong tiếng quân reo hò phá vỡ thành Thăng Long, người dân Hà Nội luôn luôn nhìn thấy các danh tướng anh hùng Võ văn Dũng, Ngô văn Sở, Phan văn Lâu, Đặng văn Châu, Trần quang Diệu, nữ danh tướng Bùi-thị-Xuân…đi tiên phong một cách oai phong, lẫm liệt.
                    Mùng 5 Tết, Quang Trung vào Thăng Long cho ba quân làm lễ khai hạ. Sau đó cho đắp thành Hà Nội gọi là Bắc Thành.

                    Ngọc Hân Công Chúa:
                    Vua Quang Trung băng hà vào năm Nhâm Ty’ (1792), Ngọc Hân Công Chúa là con út của vua Lê Hiển Tôn. Năm Bính Ngọ (1786) kết duyên cùng Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ và được phong làm Bắc Cung Hoàng Hậu (1788) tục gọi là Chúa Tiên. Bà sống với chồng được 7 năm, sinh hạ một trai và một gái. Nhà Tây Sơn đổ, bà đem con vào ẩn tại Quãng Nam, bị điềm chỉ, bà và hai con bị Chúa Nguyễn bắt đem giết. Bà làm rất nhiều thơ quốc âm nhưng đều bị thất lạc, chỉ còn lại hai bài: Văn tế Vua Quang Trung và khóc Vua Quang Trung.
                    Khóc vua Quang Trung: “Buồn theo nhẽ sương rơi, gió lọt! Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa. Tưởng lời di ngữ thiết tha, Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê. Buồn thay nhẽ xuân về, hoa ở! Mối sầu này, ai gỡ cho xong? Quyết liều mong vẹn chữ tòng, Trên lương nào ngại, giữa dòng nào e? Còn trứng nước, thương vì đôi trẻ, Chữ thâm tình, không nhẽ bỏ đi. Vậy nên nấn ná ngày trì, Hình dường như ở, hồn thì đã theo. Năm canh luống chiêm bao lẩn quất, Mơ tưởng còn phảng phất thiên nhan. Tiếng say trên gối, trước màn, Khi mê dường thấy, khi tàn lại không. Nhà ngọc vũ tiếng đồng văng vẳng, Khúc quân thiều sao vắng âm hao? Mơ màng luống những khát khao, Ngọc kinh chốn ấy, ngày nào tới nơi? Tưởng thôi, lại bồi hồi trong dạ, Nguyện đồng sinh, sao đã kíp phai? Xưa sao sớm hỏi, khuya vời, Nặng lời vàng đá, cạn lời tóc tơ? Bây giờ bỗng thờ ơ lặng lẽ, Tình cô đơn, ai kẻ biết đâu! Xưa sao gang tấc gần chầu, Trước sân phong nguyệt, trên lầu sinh ca? Bây giờ bỗng cách xa đôi cõi, Tin hàng huyên khôn hỏi thăm lênh! Nửa cung gẫy phím cầm lành, Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ! Nghĩ nông nổi ngẩn ngơ đôi lúc, Tiếng tử qui thêm giục lòng thương. Não người thay, cảnh tiêu lương! Dạ thường quằn quại, mắt thường ngóng trông. Trông mé đông, lá buồm xuôi ngược, Thấy mênh mông những nước cùng mây. Đông rồi, thôi lại trông tây, Thấy non chất ngất, thấy cây rườm rà. Trông nam, thấy nhạn sa lác đác, Trông bắc thời ngàn bạc màu sương. Khắp trông trời đất bốn phương, Cõi tiên khơi thẳm, biết đường nào đi.

                    Nữ danh tướng Bùi thị Xuân: Bùi thị Xuân (không rõ-1802) quê ở làng Xuân Hòa, xã Bình Phú, huyện Bình Khê, nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Chưa rõ tên cha mẹ, chỉ biết bà là cháu thái sư Bùi đắc Tuyên. Bà là người phụ nữ xinh đẹp, nhờ sớm học võ với đô thống Ngô Mạnh nên bà rất giỏi võ nghệ, nhất là môn song kiếm. Chuyện kể rằng, trên đường đến Tây Sơn tụ nghĩa. Trần quang Diệu đã đánh nhau với một con hổ lớn, hung dữ. Nhân đi qua đây, bà Xuân đã rút kiếm xông vào cứu trợ. Quang Diệu bị hổ vồ trọng thương nên phải theo bà về nhà chữa trị. Sau hai người thành gia thất rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc. Nhờ vào tài nghệ về chiến thuật, binh bị cộng với lòng dũng cảm, vợ chồng bà nhanh chóng trở thành những tướng lãnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Mãn Thanh vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789) và so tranh quyết liệt với quân Nguyễn Ánh hơn 10 năm.
                    Vua Quang Trung đột ngột băng hà vào ngày 29 tháng 7 năm 1792. Bà Xuân và chồng, con, bị quân Nguyễn Ánh bắt được ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
                    Khi nghe bà bị bắt, Nguyễn Ánh sai người đem đến trước mặt hỏi giọng đắc chí: “Ta và Nguyễn Huệ ai hơn?”. Bà trả lời: “Chúa công ta; tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Trong khi nhà ngươi đi cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Tàu làm tan nát cả sơn hà, cùng đều bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng”. Ánh gằn giọng: “Ngươi có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh?”. Bà đáp: “Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc Hà”.

                    Ngày 6 tháng 11 năm Nhâm Tuất (20-11-1802), vua tôi nhà Tây Sơn trong đó có Bùi thị Xuân cùng chồng con bị đưa ra pháp trường tại Phú Xuân. Chồng bà bị xử tội lột da, còn bà cùng con gái độc nhứt 15 tuổi tên Trần Bích Xuân bị xử voi đày (bãi chém An Hòa, ngoại ô Huế, ở đó khoảng 200 tướng lãnh của nhà Tây Sơn đã hiên ngang ra pháp trường).
                    Theo tư liệu của một giáo sĩ phương Tây De la Bissachère viết năm 1807-người có dịp chứng kiến cuộc hành hình-đã miêu tả tóm lược như sau:

                    “Đứa con gái trẻ của bà Bùi thị Xuân bị lột hết y phục. Một thớt voi từ từ tiến đến. Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệt như tờ giấy. Nàng ngoảnh mặt nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bà Xuân nghiêm mặt trách: “Con phải chết anh dũng để xứng đáng là con của ta”. Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong quấn kín thân thể, nên tránh khỏi sự lõa lồ. Và bà rất bình thản bước lại trước đầu voi hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lui lại. Bọn lính phải vội vàng bắn hỏa pháo, đâm cây nhọn sau đít con vật để nó trở nên hung tợn, chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy bà tung lên trời…Nhưng trái với lệ thường, nó không chà đạp phạm nhân như mọi bận mà bỏ chạy vòng quanh pháp trường, rống lên những tiếng đầy sợ hãi khiến hàng vạn người xem hoảng hốt theo”.

                    Nước Việt Nam hình cong như chữ S, các tỉnh cực Bắc như: Hà Giang, Cao Bằng, Lào Kay, Lai Châu, Lạng Sơn, Thái Nguyên giáp các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây và một phần tỉnh Quảng Đông của Trung Hoa. Nay, một số đã mất vào tay bọn Rợ Hán. Đồng bào ở các vùng này đã chứng kiến không biết bao nhiêu cảnh ngoại xâm khốc liệt trong mấy ngàn năm lịch sử, từ giặc Ân, Hán, Nguyên, Minh, Thanh….đến thực dân Pháp. Thời nào có giặc dân ta đều thể hiện tinh thần yêu nước rất mãnh liệt.
                    Khi đề cập đến các anh thư nước Việt, người ta phải nghĩ ngay đến hai vị anh thư lừng lẫy: Trưng Trắc và Trưng Nhị. Hai Bà sinh trưởng tại làng Hạ Lôi thuộc huyện Yên Lãng chiêu quân mãi mã khởi nghĩa đánh quân Đông Hán và đã được đồng bào khắp nơi hưởng ứng rất đông. Việc cứu nước không của riêng ai và người phụ nữ chân yếu tay mềm đã cầm gươm ra trận: Làng Bích Uyển, huyện Kinh Môn có anh thư Thánh Thiên Công Chúa. Làng An Biên, huyện Đông Triều có anh thư Lê Chân. Hai vị anh thư đều là tướng giỏi, có công rất lớn trong cuộc khởi nghĩa đánh đuổi bọn xâm lược Đông Hán ra khỏi nước. Ngoài ra còn có các anh hùng, anh thư khác như: Thượng Cát, Bạch Hoa Công Chúa, Đào Khang, Hoàng Đạo, Đỗ năng Tế, Giám Sát Đại Vương, Ả Tú, A Huyền, Nhất trung Á, Mai thi Trang, chàng Năm, nàng Năm, Thủy Hải Công Chúa, danh tướng Đô Dương, thị nội tướng quân Phùng thị Chính, Đông Cung Tướng Quân Hoàng Thiếu Hoa, Bát Nàn Công Chúa, Lạc tướng Trương Quản, danh tướng Tam Giang, Trinh Thục Công Chúa, Vĩnh Gia Công Chúa, Vĩnh Hoa Công Chúa, Đinh Bạch Nương….đã làm cho những tên thổ phỉ Tô Định và Mã Viện sợ đến mửa mật chạy về Tàu. Đến thời Pháp thuộc chúng ta cũng đã có những vị anh thư lỗi lạc như: Đặng thị Nhu (vợ nhà cách mạng Hoàng hoa Thám), bà hàng cơm Nguyễn thị Ba, anh thư Đỗ thị Tâm, Nguyễn thị Giang (người phủ Lạng Thương) và người chị là anh thư Nguyễn thị Bắc (trên đường vào làng Thổ Tang –Vĩnh Yên, có một cây đa cổ thụ, anh thư Nguyễn thị Giang đã dùng súng tự vẫn tại gốc cây đa này ngày 18-6-1930. Sau khi chứng kiến cảnh thực dân Pháp hành quyết hôn phu là anh hùng Nguyễn thái Học cùng với 12 chiến hữu khác ở Yên Báy), anh thư Lê thị Đàn, anh thư Thái thị Huyện tức cụ bà Phan Bội Châu, anh thư Võ thị Quyền (vợ anh hùng Trần cao Vân)..v.v..và ..v.v…Tất cả các vị anh thư kể trên đã biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn, chỉ muốn: “Cỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng kình ở Biển Đông, quét sạch bờ cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối”.
                    Hai Bà Trưng đã quyết chiến đấu đến cùng, và hy sinh tánh mạng trên chiến trường vì nền độc lập của dân tộc chúng ta.
                    Hai Bà Trưng là trường hợp người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử thế giới nổi lên sớm nhất chống lại quân ngoại xâm giành lại nền độc lập cho dân tộc. Đó là một sự hy sinh vĩ đại của một bậc nữ lưu mà cổ kim Đông Tây không thấy có, và đời đời dân tộc Việt tưởng nhớ ghi ơn.


                    Khi đọc đoạn sử về Hai Bà Trưng, Vua Tự Đức đã ngự phê: “Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm dư!”.

                    Ngày nay, dưới sự cai trị tàn bạo của tập đoàn bán nước tại Hà Nội, cam tâm làm nô lệ cho bọn thổ phỉ Tàu cộng; Chúng ta cũng đang có rất nhiều anh hùng, anh thư như: Hồ thị Bích Khương, Huỳnh thục Vy, Trịnh kim Tiến, Vũ phương Anh, Trần khải thanh Thủy, Lê thị Công Nhân, Trần huỳnh Duy Thức, Nguyễn tiến Trung, Vi Đức Hồi, Nguyễn hoàng Quốc Hùng, Đoàn huy Chương, Thích quảng Độ, Nguyễn xuân Nghĩa, Nguyễn công Chính, Cù huy Hà Vũ, Đỗ thị Minh Hạnh, Tạ phong Tần, Linh mục Nguyễn văn Ly’, Bùi thị minh Hằng, Mẹ Nấm, Nguyễn văn Hải, Nguyễn việt Chiến, ca nhạc sĩ Việt Khang, kỹ sư Đỗ nam Hải..v.v…và ..v.v…

                    Tại hải ngoại, con em của chúng ta (thuộc thế hệ thứ hai) đã thành công vượt bực trên mọi lãnh vực. Đặc biệt trên lãnh vực quân sự, chúng ta có những vị đại tá (sẽ lên tướng trong một thời gian rất gần) đang giữ những chức vụ quan trọng trong quân lực Hoa Kỳ: Các đại tá: Nguyễn mạnh Hùng, Lương xuân Việt, Huỳnh Trần Mylene, Paul Đoàn, Trần ngọc Nhung, Phan Phan,, Thu Phan Getka, Hà văn Thịnh, Châu hành Hữu, ….Các trung tá: Lê Bá Hùng, Dương hữu Ngân, Đặng văn Chín, Hoàng ngọc Tuấn, Thomas Nguyễn, Thomas Trần, ….Các thiếu tá: Elizabeth Pham, Phan thành Chinh, Christopher Phan…

                    Trước khi bạn đọc tiếp, tôi xin gửi hầu bạn những điều sau đây mong rằng bạn đọc đi, đọc lại để suy ngẫm, và để y’ thức trách nhiệm đối với bản thân:

                    *Một tháng ngồi trách móc sao bằng một giờ hoạt động. Giờ ấy làm cho lòng ta nhẹ và túi ta nặng.
                    *Mười lần thì có chín lần thành công nhờ sự tin và sự tận tâm làm việc.
                    *Nền không chắc mà tường cao, thì sự sụp đổ nằm sẵn nơi đó rồi.
                    *Lòng ham muốn không nên quá tự do, vui thú không nên quá cực độ.
                    *Trong thiên hạ có 3 cái nguy: Đức ít mà được ưng ủng nhiều-Tài kém mà ở địa vị cao- Thân không lập được công to mà bổng lộc nhiều.
                    *Tôi đã tạo hạnh phúc cho tôi bằng cách hạn chế sự ham muốn hơn là làm thỏa mãn nó.
                    *Thiếu phương pháp thì người tài cũng lỗi. Có phương pháp thì người tầm thường cũng làm được việc phi thường.
                    *Sự thành công ở trên đời do tay những người năng dậy sớm.
                    *Quân tử đối với người trên không nịnh. Đối với người dưới thì không khinh.
                    *Ngày nào tôi không làm việc, tôi có cảm tưởng như đã phạm tội ăn cắp.
                    *Đánh thắng một vạn quân, không bằng tự thắng lòng mình.
                    *Hành động là phát triển nghị lực của ta.
                    *Chiến đấu mà không gian nan thì chiến thắng không vinh hiển.
                    *Tướng giỏi sau khi thắng trận không cần ai khen, và cũng không cần ai biết đến công lao.
                    *Đừng đợi cơ hội thuận tiện, phải biết tạo ra nó.
                    *Biết y’ chí của toàn dân, đoàn kết trên dưới một lòng thế là thắng lợi.
                    *Than khóc, van xin đều hèn nhát. Anh hãy anh dũng chu toàn nhiệm vụ khó nhọc lâu dài.
                    *Ta không nên sợ kẻ thù công kích ta mà nên sợ người bạn nịnh ta.


                    Bà Triệu: Ngày nay, ở Thanh Hóa vẫn còn lăng Bà Triệu với hội thờ vào ngày 21-2 (Âm Lịch), tương truyền là ngày mất của người nữ anh hùng Bà Triệu, hay nàng Trinh (Triệu trinh Nương, Triệu thị Trinh) của truyền thuyết dân gian người miền núi Quân Yên, quận Cửu Chân.
                    Quân Yên, trái núi đó vẫn giữ tên gọi ấy cho đến tận ngày nay, đứng sừng sửng bên bờ sông Mã gần ngã ba Bông, thuộc địa phận Hợp Tác Xã Định Công của tỉnh Thanh Hóa.
                    Thôn Cẩm Trướng thuộc xã Định Công có truyền thuyết “đá biết nói” như sau: Vùng núi này có con voi trắng một ngà rất dữ tợn hay về phá hoại mùa màng, mọi người đều sợ. Để trừ hại cho dân, Bà Triệu cùng chúng bạn đi vây bắt voi, lùa voi xuống đầm lầy (vùng sông Cầu Chầy ngày xưa còn lầy lội) rồi dũng cảm nhảy lên cưỡi đầu voi và cuối cùng đã khuất phục được con voi hung dữ. Chú voi trắng này sau trở thành người bạn chiến đấu trung thành của Bà Triệu. Nghĩa quân Bà Triệu, những ngày đầu tụ nghĩa, đã đục núi Quân Yên, bí mật cho người ngồi trong hốc đá, đọc bài đồng dao: “Có Bà Triệu tướng-Vâng lệnh trời ta-Trị voi một ngà- Dựng cờ mở nước- Lệnh truyền sau trước- Theo gót Bà Vương”.
                    Nhờ đó cả vùng đã đồn ầm lên rằng núi Quản Yên biết nói, báo hiệu cho dân chúng biết Bà Triệu là “Thiên tướng giáng trần” giúp dân, cứu nước. Vì vậy hàng ngủ nghĩa quân thêm lớn, thanh thế thêm to. Họ kéo nhau xuống Phú Điền dựng căn cứ.
                    Trung tâm tụ nghĩa là vùng núi Tùng Sơn (Phú Điền). Đây là một thung lũng nhỏ nằm giữa hai dãy núi đá vôi thấp, dãy phía Bắc (Châu Lộc) là đoạn núi chót ngăn cách hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình cũ, dãy núi phía nam (Tam Đa) là đoạn chót của dãy núi chạy dọc sông Mã. Chân phía Bắc núi Châu Lộc là sông Lèn, chân phía nam núi Tam Đa là sông Âu, xưa là một dòng sông lớn. Thung lũng mở rộng cửa về phía đồng bằng ven biển và bị chặn ngang về phía tây bởi dòng sông Lèn. Ở căn cứ này, ngược sông Lèn có thể liên lạc với miền quê Bà Triệu. Là địa điểm gần biển, lại là cửa ngõ từ đồng bằng miền bắc vào Thanh, đó là một vị trí quân sự hiểm yếu, thuận lợi cả công lẫn thủ.
                    Ở đây còn có núi Chung Chinh với 7 đồn lũy tương truyền là quân doanh của Bà Triệu, nơi đã từng diễn ra trên ba chục trận đánh với quân Ngô dưới chân núi Tùng, còn có cánh đồng Lăng Chúa (Lăng Bà Triệu), đồng Vườn Hoa, đồng Xoắn Ốc….tương truyền là tên cũ còn lại khi Bà Triệu đắp lũy xây thành. Ở đây còn lưu hành rộng rãi truyền thuyết về ba anh em nhà họ Ly’ đi tìm Bà Triệu, rước Bà từ quê ra đây dựng doanh trại, sửa soạn khởi nghĩa và tôn Bà làm chủ tướng.

                    Cảm phục chí khí hiên ngang cứu nước của người con gái hai chục tuổi đời, dân chúng Cửu Chân theo phục Bà rất đông. Các thành ấp của giặc Ngô đều bị triệt hạ, quan lại giặc từ thái thú đến huyện lệnh, huyện trưởng, kẻ bị giết, kẻ chạy trốn hết. Từ Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa lan ra Giao Chỉ ở ngoài bắc-Thứ sử Giao Châu mất tích.
                    Một câu nói, tương truyền là lời Bà Triệu phát ra trên núi nghĩa, nghìn thu còn vang vọng mãi: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang san, cởi ách nô lệ chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta!”.

                    Rất nhiều câu chuyện về tình dân với khởi nghĩa Bà Triệu. Đây là một ông già mù miền núi đã đi khắp nơi, dùng tiếng đàn, giọng hát của mình để ngâm ngợi cổ vũ dân chúng đứng dậy cứu nước; kia một cụ bà hàng nước cố xin cho con gái được theo quân giết giặc, còn mình thì giúp cả chõng chuối với chum nước chè xanh cho nghĩa binh đang trẩy quân qua giải khát. Dọc sông Mã, vùng Cẩm Thạch có truyền thuyết và di tích về một bà nữ tướng cưỡi voi đánh giặc Ngô vùng Khang Nghệ có truyền thuyết nói rằng: thời xưa sông Mã có một nhánh chảy từ đầm Hàn về cửa Lạch Trường. Đó là nơi quân Ngô chiếm giữ, chiến thuyền san sát như lá tre. Một chàng trai đã ăn trộm ngựa chiến của quân giặc trốn về với Bà Triệu và trở thành dũng tướng của nghĩa quân. Trong một trận giao tranh trên sông nước, vì anh đi chân vòng kiềng nên đã vấp phải dây chằng mà tử trận. Giặc Ngô đang ăn mừng thắng lợi thì hai bờ sông chuyển động. Đất trời nổi cơn giận dữ, hắt rừng cây núi đá xuống lấp cạn dòng sông, chôn vùi cả mấy vạn xác thù…
                    Lại có câu chuyện đền Cô Thị ở xã Hà Ngọc (Hà Trung). Một cô gái rất thích quả thị, chờ đợi người yêu đi đánh giặc và khi chết biến thành cây thị. Cây thị này chỉ có một quả, không ai hái được, vì hễ ai thò tay bẻ thì cành thị lại tự dưng vút hẳn lên cao. Cành ấy đời đời ngả về phía đông nam theo hướng người yêu của cô đang ở trong quân dinh Bà Triệu. Một ngày thắng trận, chàng trai được phép Bà Triệu về thăm làng xóm thì cành cây ấy mới chịu sà xuống và quả thị rơi vào ống tay áo của chàng.

                    Đứng trước nguy cơ tan rã của chính quyền đô hộ ở Châu Giao, triều Ngô phải cử viên danh tướng Lục Dận (cháu họ viên danh tướng Lục Tốn) làm thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu úy, đem khoảng 8000 quân sang Giao Châu đàn áp nhân dân khởi nghĩa. Kết hợp dùng binh lực uy hiếp, dùng mưu mô dụ dỗ, dùng của cải mua chuộc, Lục Dận đã khiến được ba nghìn hộ ở Cao Lương (Hợp Phố) dưới quyền thủ lĩnh Hoàng Ngô đầu hàng.
                    Sau đó, Lục Dận thận trọng tiến binh vào Giao Chỉ và Cửu Chân, khi phát quân đàn áp, khi dừng quân dùng của cải, tiền bạc mua chuộc các thủ lĩnh địa phương. Rút cục, hàng trăm thủ lĩnh nghĩa quân và hơn 5 vạn dân đã phải chịu thua quân Ngô.
                    Truyền thuyết dân gian kể rằng: Bà Triệu đã chiến đấu chống giặc Ngô, trên ba mươi trận thắng lợi. Giặc gọi tên Bà là Nhụy Kiều Tướng Quân (vị tướng nữ yêu kiều), là Lệ Hải Bà Vương (vua bà vùng biển Mĩ Lệ). Quân Ngô sợ Bà, thường có câu: “Hoành qua đương hổ dị- Đối diện Bà Vương nan (Múa ngang ngọn dáo dễ chống hùm- Đối mặt Vua Bà thì thực khó).
                    Cũng theo truyền thuyết dân gian, về sau có kẻ phản bội, mách với Lục Dận rằng Bà là nữ tướng “ái khiết, úy ô” (Yêu cái trong sạch, ghét cái nhơ bẩn). Quân Ngô liền trần truồng tiến đánh Bà. Bà hổ thẹn, giao binh cho ba tướng họ Ly’, lên núi Tùng tự vẫn.
                    Trên núi Tùng hiện có mộ Bà Triệu, và dưới chân núi Tùng là đền thờ chính của Bà Triệu. Hội đền hàng năm ngày trước vào ngày 21 tháng Hai Âm lịch.

                    Khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, nhưng hình ảnh người con gái kiên trinh bất khuất, người nữ anh hùng dân tộc siêu việt quyết nối chí Bà Trưng “giành lại giang san, cởi ách nô lệ” muôn thuở không mờ trong tâm trí phụ nữ và dân tộc Việt Nam. “Tùng sơn nắng quyện mây trời, Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh”.

                    Bạn quí mến, Tại Canada và Hoa Kỳ nói riêng, những quốc gia tự do như Anh, Úc, Pháp..v.v..nói chung, khi các viên chức cao cấp đi công cán ở nước ngoài, đặc biệt đến những quốc gia cộng sản như Trung quốc và Việt nam, họ đều được thuyết trình một cách rất cẩn thận về: Gái, Tiền và Tình Báo. Tôi nghĩ, bạn cũng đã từng đọc tiểu sử về cuộc đời tình ái của ông Hồ chí Minh khi ở bên Tàu. Không những ông Hồ, mà còn, tất cả các viên chức cao cấp trong Bộ Chính Trị đảng cộng sản Việt Nam đều bị trúng ba độc chiêu này của bọn Tàu. Vì vậy, bọn Rợ Hán bảo đâu thì phải tuân theo. Chúng đã bán nước từ lâu rồi không phải đợi đến sau khi cướp được miền Nam. Trong suốt chiều dài lịch sử, chưa có một thời kỳ nào nhục nhã, đê hèn, đốn mạt, tủi hổ như hiện nay.

                    *Kẻ thù của ta xét cho đúng hơn là ta tự xét ta.
                    *Tôi chỉ có một điểm tạm gọi là được: Không bao giờ thất vọng.
                    *Làm việc nghĩa chớ kể lợi hại. Luận anh hùng chớ kể hơn thua.
                    *Đời sống sẽ thối mục nếu ta chỉ lo thâu trữ. Nó sẽ nẩy nở thêm nếu ta biết gieo rắc.
                    *Không nên mưu việc lớn với kẻ nói nhiều.
                    *Thà chết bây giờ, còn hơn kéo dài một đời sống vô ích.
                    *Đừng lo cho mình không có chức vị, chỉ lo cho mình không đủ tài để nhận lãnh chức vị mà thôi.
                    *Một bên là quần chúng, một bên là bản thân, hai bên đều trọng cả. Nếu gặp trường hợp cần thì phải hy sinh bản thân để cứu vớt lấy quần chúng.
                    *Đừng quên việc nhỏ. Lỗ nhỏ làm đắm thuyền.
                    *Tài trai nên ngang dọc trời đất, không nên quanh quẩn trong xó nhà.
                    *Không phải lập được những kỳ công cuộc đời mới tốt đẹp.


                    Đây là lời tâm huyết của tôi kêu gọi mọi người hãy giữ vững tinh thần dân tộc: Bọn Rợ Hán và bọn Man cộng là kẻ thù không đội trời chung của dân tộc Việt Nam. Hạn chế tối đa không mua, bán những sản phẩm của bọn chúng. Không đi du lịch, không gửi tiền về để cho chúng tiếp tục củng cố chế độ đàn áp của chúng trên đầu dân tộc Việt Nam. Kêu gọi thân nhân rút hết tiền ra khỏi các ngân hàng tại Việt Nam. Nếu làm được như vậy, trong vòng một năm, kết quả sẽ không ngờ được.

                    Vua Trần Nhân Tôn: “Các ngươi chớ quên cái họa lâu đời của ta là HỌA TRUNG HOA. Chớ coi thường chụn vụn vặt xảy ra trên biên ải, họ không tôn trọng biên ải, họ không tôn trọng biên giới qui ước, cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy, các ngươi phải nhớ lời ta dặn: một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác”.

                    Hưng Đạo Vương Trần quốc Tuấn: “Đời Đinh, Lê, nhiều người hiền lương giúp đỡ, bấy giờ nước Nam đang cường, vua tôi đồng lòng, bụng dân phấn chấn; mà bên Tàu đang lúc suy nhược, cho nên ta đắp thành Bình Lỗ (thuộc Thái Nguyên) phá được quân nhà Tống, đó là một thời. Đến đời nhà Ly’, quân Tống sang xâm, Ly’ Đế sai Ly’ Thường Kiệt đánh mặt Khâm, Liêm, dồn đến Mai Linh, quân hùng, tướng dũng, đó là có thể đánh được. Kế đến bản triều, giặc Nguyên kéo đến vây bọc bốn mặt, may được vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước đâu sức lại mà đánh, mới bắt được tướng kia, cũng là lòng trời giúp ta mới được thế”.

                    Lê Thánh Tông: “Ta phải giữ gìn cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của Thái Tổ để lại”.

                    Vua Duy Tân (lúc 8 tuổi) đã nói: “Tay dơ lấy nước mà rửa, nước dơ lấy gì mà rửa?”.


                    Nguyễn đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh muôn kiếp nguyện được trả thù kia”.

                    Nhà cách mạng Phan Bội Châu: “Nay ta hát một câu ái quốc- Yêu gì hơn yêu nước nhà ta- Nghiêm trang bốn mặt sơn hà- Ông cha ta để cho ta lọ vàng- Trải mấy lớp tiền vương dựng mở- Bốn ngàn năm giãi gió dầm mưa- Biết bao công của người xưa- Gang sông tấc núi dạ dưa ruột tằm- Hào Đại Hải ầm ầm trước mắt- Giải Cửu Long quanh quất miền Tây- Non nước ấy biết bao máu mủ!- Nỡ lòng nào đem nuôi lũ sài lang?- Nhục vì nước mà đau người trước, -Nông nỗi này non nước cũng oan- Hồn ơi về với giang san!- Muôn người muôn tiếng hát vang câu này: -Hợp muôn sức ra tay quang phục- Quyết phen này rửa nhục báo thù- Một câu ái quốc reo hò- Xin người trong nước phải cho một lòng”.

                    Quốc Tổ Hùng Vương: Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng, trăm trứng ấy nở thành trăm người con trai. Một ngày, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng: “Ta là giống Rồng, mình là giống Tiên, thủy hỏa khắc nhau, không ở cùng nhau được”. Hai người bèn chia con mà ở riêng. Năm chục người theo mẹ về núi, năm chục người theo cha xuống biển, chia nhau mà thống trị những xứ đó, đó là thủy tổ của các nhóm Bách Việt. Người con cả trong số những người con theo mẹ lên Phong Châu (nay là Phú Thọ) và được tôn làm vua gọi là Hùng Vương lập ra nước Văn Lang.
                    Theo truyền thuyết Việt Nam, Âu Cơ là Tổ Mẫu của người Việt. Tương truyền, Âu Cơ là con gái của vua Đế Lai. Trong khi đi tuần thú Phương Nam, ông đã để Âu Cơ lại trên một cái động. Khi Lạc Long Quân đi đến đây thì thấy nàng xinh đẹp nên đã đem lòng yêu mến và đem về làm vợ. Hai vợ chồng Lạc Long Quân và Âu Cơ đã sống với nhau và sinh ra 100 người con trai. Sau đó vì thủy thổ tương khắc nên hai người phải chia con ra 50 con theo cha về biển, 50 con theo mẹ về núi và chia nhau cai quản các vùng. Đây là tổ tiên của người Bách Việt. Người con cả trong số những người con theo mẹ lên Phong Châu (nay là Phú Thọ) và được tôn làm vua gọi là Hùng Vương lập ra nước Văn Lang.
                    Truyện họ Hồng Bàng: Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, sau nhân đi tuần về phía nam đến núi Ngũ Linh lấy được con gái bà Vu Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Tục dung mạo đoan chính, thông minh, phúc hậu. Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh. Đế Minh liền lập Nghi làm kẻ nối ngôi, lại phong Lộc Tục là Kinh Dương Vương để trị đất Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới Thủy Phủ, lấy con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước. Kinh Dương Vương không biết đi đâu mất, Lạc Long Quân dạy dân việc cày cấy nông tang, đặt ra các đẳng quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng, đôi khi trở về Thủy Phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự, không biết do đâu được thế.

                    Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: “Bố ơi! Sao không lại cứu chúng tôi?”. Lạc Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi. Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai, cai trị Bắc phương. Nhân khi thiên hạ vô sự bèn sai quần thần là bọn Xuy Vưu thay mình trông coi quốc sự rồi đi tuần xuống nước Xích Quỷ ở phía Nam. Khi đó, Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước không có chúa. Đế Lai bèn để ái nữ là Âu Cơ và các thị tì ở lại nơi hành tại rồi đi chu du thiên hạ, ngắm các nơi danh lam thắng cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, ngọc ngà vàng bạc….các thứ đá quy’, các cây trầm, đàn cùng các sơn hào hải vật không thiếu thứ gì, khí hậu bốn mùa không lạnh không nóng. Đế Lai rất ái mộ, vui quên trở về. Dân phương Nam khổ vì bị người Bắc phương quấy nhiễu, không được yên sống như xưa mới cùng gọi Long Quân rằng: “Bố ơi! Ở đâu mà để cho dân Bắc xâm nhiễu phương dân?”.

                    Long Quân đột nhiên trở về, thấy Âu Cơ dung mạo đẹp đẽ kỳ lạ, trong lòng vui mừng, bèn hóa thành một trang thiếu niên phong tư tú lệ, tả hữu kẻ hầu người hạ đông đúc, vừa đi vừa ca hát đánh trống. Cung điện tự nhiên dựng lên, Âu Cơ vui lòng theo Long Quân. Long Quân giấu Âu Cơ ở Long Đài. Nham Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông biến hóa thành trăm hình vạn trạng yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi…làm cho bọn đi tìmđều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về. Truyền ngôi đến đời Du Võng, thì Xuy Vưu làm loạn. Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên đem chư hầu đến đánh nhưng không được. Xuy Vưu mình thú mà nói tiếng người, có sức khỏe dũng mãnh. Có người dạy Hiên Viên dùng trống da thú làm lệnh, Xuy Vưu sợ hãi chạy về đất Trác Lộc. Đế Du Võng xâm lăng chư hầu, cùng Hiên Viên giao binh ở Phản Tuyền đánh 3 trận đều bị thua, bị giáng phong ở đất lạc ấp rồi chết ở đó. Giòng họ Thần Nông tới đây thì hết. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là điềm bất thường, vứt ra cánh đồng; qua sáu bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi. Không phải bú mớm, các con tự lớn lên, trông đẹp đẽ kỳ dị, người nào cũng trí dũng song toàn, người người đều kính trọng cho là triệu phi thường. Long Quân ở lâu dưới Thủy Quốc, vợ con thường muốn về đất Bắc.

                    Về tới biên giới, hoàng đế nghe nói rất sợ hãi cho binh ra giữ cửa ải, mẹ con Âu Cơ không thể về được bèn quay về nước Nam mà gọi Long Quân rằng: “Bố ở nơi nào mà để mẹ con tôi cô độc, ngày đêm buồn khổ thế này?”. Long Quân bỗng trở về gặp nhau ở đất Tương. Âu Cơ nói: “Thiếp vốn là người nước Bắc, ở với vua, sinh hạ được trăm con trai, vua bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi con, làm người vô phu vô phụ, chỉ biết thương mình”. Long Quân nói: “Ta là nòi Rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là Giống Tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia lìa. Ta đem năm mươi con về Thủy Phủ chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên”. Trăm con vâng theo, sau đó từ biệt mà đi. Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình Hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Nam, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm tướng văn tướng võ, văn là lạc hầu, võ là lạc tướng.Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ chính, thần lộc, nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền con nối, gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương, không hề thay đổi. Lúc ấy, dân chúng sống ở ven rừng, xuống nước đánh cá thường bị giống giao long làm hại, bèn nói với vua. Đáp: “Giống sơn man và giống thủy tộc có thù với nhau, thường ghét nhau cho nên hại nhau đó”. Khiến người đời lấy mực xâm vào mình theo hình Long Quân, theo dạng thủy quái. Từ đó, dân không bị tai họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đấy. Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm (có chỗ viết là uống), lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắt gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân. Đó trăm người con trai chính là tổ tiên của người Bách Việt vậy.

                    Đền thờ Quốc Tổ Hùng Vương: Thuộc thôn Cổ Tích, làng Hy Cương, huyện Lâm Thao. Đền thờ Quốc Tổ nằm trên ngọn núi Nghĩa Lĩnh cao nhất tỉnh Phú Thọ (núi này còn có tên là Nghĩa Cương, Hùng Sơn hoặc núi Đền). Từ dưới chân núi, đồng bào sẽ viếng đền Hạ, nơi thờ hai vị công chúa con gái của vua Hùng thứ 18 là Ngọc Hoa và Tiên Dung. Trong đền Hạ có giếng nước rất trong và ngọt, vì vậy đền Hạ còn gọi là đền Giếng. Ở lưng chừng núi là đền Trung, nơi thờ các Lạc Hầu, Lạc Tướng, các danh nhân thời Hồng Bàng có công dựng nước Văn Lang như: Phù Đổng Thiên Vương (Thánh Gióng), Chử Đồng Tử, Tản Viên Sơn Thần….Trước cửa đền Trung có nhiều bia đá ghi công đức 18 vị vua Hùng. Đền Thượng trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh (tính từ đền Hạ đến đền Thượng phải đi lên 296 bậc), nơi thờ linh vị 18 vua Hùng, từ đời vua Hùng thứ nhất là Kinh Dương Vương (tức Lộc Tục) cho đến vua Hùng thứ 18 Hùng Tuyền Vương. Trước khi vào đền Thượng phải qua cổng Tam Quan, trên cổng có hình trạm hai con rồng chầu mặt nguyệt; hai bên cổng có tượng hai vị hộ pháp. Trong sân đền Thượng có một tảng đá đứng hình vuông (mỗi cạnh dài 40 phân, cao hai mét) tục gọi là Thiên Ấn (ấn nhà trời). Bên cạnh đền Thượng là chính lăng Quốc Tổ, nằm trong một khu lòng chảo nhỏ, lưng dựa vào vách núi. Lăng xây rất uy nghi và vững chãi, rộng gần ba thước rưỡi, cao gần năm thước. Phía trên là hai tầng mái lợp ngói ống, bốn góc chạm hình rồng. Bốn mặt đều có cửa, đều đắp tượng mặt rồng. Trong sân của mỗi đền đều có nhiều cây cổ thụ (thân uốn éo kỳ dị, rễ nổi lên mặt đất kéo dài cả chục thước) và hoa hải đường. Đứng trên ngọn Nghĩa Lĩnh nhìn phong cảnh chung quanh thật đẹp, thật hùng vĩ.
                    Núi Nghĩa Lĩnh nằm giữa hai sông Hồng về phía Tây-Nam và sông Lô về phía Đông-Bắc. Phía Đông là dãy núi Tam Đảo thuộc tỉnh Vĩnh Yên, phía Nam là dãy núi Tản Viên thuộc tỉnh Sơn Tây. Trước thời Pháp thuộc, lễ kỷ niệm Quốc Tổ hàng năm được xem là Quốc Lễ, tức là Quốc Khánh, lễ lớn nhất của một dân tộc. Cứ đến ngày 10 tháng 3 Âm Lịch, dân chúng lũ lượt rủ nhau về trẩy hội đền Hùng rất đông.

                    Trước khi chấm dứt, tôi xin chân thành cảm tạ: các văn nhân, học giả, dịch giả, sử gia…có những đoạn trích đăng trong bài biên khảo này. Chỉ với hảo y’ muốn đem lại món ăn tinh thần cho độc giả bốn phương một cách vô vị lợi. Xin thông cảm.

                    *Nói đúng. Nghĩ đúng. Làm như thế cũng chưa phải là đúng mà còn cần phải thi hành đúng.
                    *Đừng nói vấn đề này khó. Nếu không khó đã không thành vấn đề.
                    *Sự học trang hoàng đời sống và làm cho ta yêu đời hơn.
                    *Tranh đấu là điều kiện thành công. Kẻ nghịch ta chính là kẻ giúp ta.
                    *Bất kỳ người nào tôi gặp cũng có chỗ hơn tôi, đáng cho tôi học.
                    *Ngoài ta ra không ai có thể hại ta được.
                    *Thành đạt không phải ở người ngoài giúp đỡ mà chính do lòng tự tin.
                    *Thà chịu mòn, chứ không chịu để sét ăn.
                    *Vật trong thiên hạ chẳng gì mềm bằng nước. Thế mà to vô hạn, sâu vô cùng.
                    *Kẻ nào muốn cầm đầu mọi người, hãy đứng sau mọi người và phụng sự mọi người.
                    *Tôi mong ước trọn đời chỉ làm những công việc nhỏ mọn, nhưng làm với một tâm địa rộng rãi.
                    *Thiên đường ở chính trong lòng ta. Địa ngục cũng do lòng ta mà có.
                    *Lúc nguy cấp chỉ nên trông cậy những điều của mình, không nên trông cậy những điều của người.
                    *Người không có mục đích, không ly’ tưởng như ngựa không cương, như thuyền không lái, lông bông không ra gì cả.


                    Tôi còn rất nhiều tâm sự để chia sẻ cùng bạn, thôi hẹn lại dịp khác. Trước hồn thiêng sông núi, tôi chỉ xin nguyện cầu cho quốc thái, dân an. Những người đang trong ngục tù cộng sản vì dám xả thân tranh đấu cho sự tồn vong của đất nước và dân tộc mà phải chịu tù đày, giết chóc…sớm được thấy tự do, sớm thoát khỏi sự cai trị của bè lũ bán nước đang làm tay sai cho thổ phỉ Tàu cộng. Xin Thượng Đế thương xót chúng con.
                    Đã gần 37 năm trôi qua, trên bước đường lưu lạc, tôi trộm nghĩ tất cả chúng ta đều hướng về quê mẹ và cầu mong: “Bao giờ cho sáng lều tranh nhỏ, Mẹ Việt Nam mừng nước Việt Nam? Hay vẫn đau buồn thiên vạn cổ, Những người không biết ánh vinh quang?”.

                    Mây-Cao-Nguyên

                    Comment


                    • #25
                      Năm quý tỵ, nói chuyện rắn

                      NĂM QUÝ TỴ, NÓI CHUYỆN RẮN
                      Biên khảo: Mây-cao-Nguyên


                      Ở thành phố duyên hải White Rock, thuộc tỉnh bang British Columbia của Canada, bạn bè của tôi đã bầu tôi làm “Hội Trưởng Hội Sợ Vợ”. Đã trên ba mươi ba năm, chưa một ai đứng ra thay thế. Nghĩ cũng thật lạ. Tôi xin “nhỉ” cho bạn một chút xíu kinh nghiệm và bí quyết mà tôi đã học được từ khi khăn gói về làm chồng bên người đàn bà “chân yếu tay mềm” này:

                      Bí quyết giữ hạnh phúc: câu chuyện mang nội dung như sau, xin gửi hầu bạn: “Có một đôi vợ chồng được giải nhất trong cuộc thi “Gia đình hòa thuận sau 60 năm chung sống”. Một phóng viên tờ báo đã phỏng vấn về bí quyết giữ hạnh phúc gia đình.

                      Người chồng: Đó là kinh nghiệm khi hai chúng tôi đi hưởng tuần trăng mật. Nàng cưỡi trên một con ngựa và đi dạo, khi con ngựa của nàng vấp ngã, nàng nhẹ nhàng nói: MỘT LẦN!. Đi một đoạn đường nữa, con ngựa của nàng lại vấp ngã, lần nầy nàng vẫn nhẹ nhàng: HAI LẦN!. Khi con ngựa của nàng vấp ngã lần thứ ba, nàng im lặng…rút súng ra và…BẮN CHẾT CON NGỰA!...Và khi tôi lên tiếng phản đối cách đối xử thô bạo của nàng thì nàng nhìn vào mắt tôi và nhẹ nhàng nói: MỘT LẦN.….Từ đó, chúng tôi luôn luôn sống hòa thuận suốt 60 năm.

                      Ca dao Việt Nam cũng khuyên: “Muốn cho yên cửa, yên nhà, Vợ kêu chồng dạ, bẩm bà con đây”. Ông thánh Jerome thì kết tội: “Đàn bà là cửa ngõ của địa ngục”. Tôi không đồng y’ lắm về câu kết tội này. Tôi chỉ trách: CON RẮN.

                      Lỗi tại con rắn:Thuở khai thiên lập địa, sau khi Thượng Đế tạo ra cây cối, chim chóc, biển cả, núi non, …Ngài lấy hạt bụi thổi một cái biến thành ông A-Dong (Adam) ở trần trụi trụi, đó là thủy tổ của loài người. A-Dong suốt ngày đi câu cá, bắn chim…nhưng đêm về, ông ta rầu rỉ, buồn phiền. Thượng Đế mới an ủi: “Sống cô độc như con không tốt; ta sẽ tạo cho con một người nữ trẻ, đẹp, duyên dáng, khỏe mạnh, thùy mị…để hôm sớm bầu bạn có nhau”. Nói xong, Ngài lấy cái xương sườn của người đàn ông để tạo ra người đàn bà, mang y’ nghĩa: “Hôm sớm hai con kề vai sát cánh bên nhau và phải coi nhau như một phần da thịt của mình”. (các cặp vợ chồng hãy nhớ cho kỹ: Ngài lấy cái xương sườn, chứ không phải lấy cái xương sọ đâu nhé. Vì vậy, đừng bao giờ nhảy lên đầu nhau ngồi thì coi không được chút nào cả).

                      Lúc khởi thủy, Adam và Eva trần truồng như nhộng không biết xấu hổ là gì cả. Nhưng sau khi nghe lời con rắn quỉ quái xúi biểu,Eva đến hái một trái táo trên cành cây hiểu biết (tree of the knowledge) nằm giữa Vườn Địa Đàng mà Thượng Đế đã ngăn cấm, Eva ăn thử và phần còn lại đưa cho Adam ăn. Nếu ăn phải trái cây này sẽ giống như Thượng Đế, biết tất cả mọi sự, tốt xấu trên cõi trần gian này. Ngay từ phút họ ăn hết quả táo, đôi mắt họ mở lớn và cảm thấy thẹn thùng trước sự khỏa thân của hai người. Adam vừa “chống gậy” vừa chạy, bà Eva một tay che ngực, một tay bụm phía dưới; họ chạy đi tìm lá vã (fig leaves) để che đậy. Đến chiều tối, họ nghe thấy tiếng chân của Thượng Đế đi dạo trong vườn Địa Đàng, cả hai chạy trốn sau những thân cây. Thượng Đế gọi Adam: “Adam ơi! Con có ở đây không?”. Adam trả lời: “Dạ có. Con đã nghe thấy Ngài, vì vậy con chạy trốn. Con sợ, bởi vì con đang trần truồng”. Thượng Đế hỏi: “Người đã ăn trái cấm mà ta đã bảo ngươi đừng ăn phải không?”. Adam thừa nhận: “Dạ. Chính người đàn bà đã hái và mang lại cho con ăn”. Thượng Đế hỏi bà Eva: “Tại sao ngươi lại dám làm điều như vậy mà ta đã cấm?”. Eva trả lời: “Chính con rắn đã đánh lừa con nên con đã phạm lỗi”. Thượng Đế từ đó đã trừng phạt con rắn trọn kiếp nó phải dùng bụng để bò. Rồi Ngài quay sang người đàn bà và nói: “Từ đây về sau nhà ngươi phải sinh con đẻ cái, mang nặng đẻ đau.
                      Suốt đời ngươi phải phục vụ cho chồng của ngươi, hắn ta sẽ là chủ nhân của ngươi. Nghe rõ chưa?”. Và Ngài nói với Adam: “Bởi vì ngươi nghe lời vợ đã ăn trái cấm mà ta đã ra lệnh không được đụng tới. Ta đã đặt lời thề trên mặt đất này. Là suốt đời của ngươi phải cào xới lên để mà kiếm sống. Cuộc đời của ngươi sẽ gặp toàn những gai góc, mặc dầu ngươi cũng gặt hái được những thành quả. Ngươi cũng phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt để tạo ra thức ăn cho đến ngày ngươi nhắm mắt xuôi tay. Rồi thì ngươi sẽ trở về với lòng đất đó là chỗ ngươi đã sinh ra. Thân thể của ngươi được tạo nên do cát bụi vì vậy sau khi chết ngươi sẽ trở về với cát bụi”.

                      Tôi không tin về tài bói toán, nhưng tôi tin vào tài nói lái của tôi. Bạn còn nhớ, cách đây hơn bốn năm, ngày mà hai ông Obama và John McCain ra tranh chức tổng thống Hoa Kỳ, tôi đã tiên đoán ông Obama đắc cử như sau: John McCain (nói lái là Rên-Mất-Con) bà đứng phó là bà “xí xọn” Sarah Palin (Xa ra=stay away). Kỳ tái ứng cử cách đây vài tháng giữa Mitt Romney và Obama, tôi chỉ nhắm vào cái tên ông đứng phó trong liên danh: Romney và Paul Ryan (Paul Ryan nói lái thành: Banh “Right on”. Banh có nghĩa là tan nát, banh xác. Ví dụ như nói: Banh xác. “Right on”=đích thị). Và tôi đã đoán đúng: Ông Obama đã tái đắc cử một cách vẻ vang.

                      Năm nay là Năm QÚY TỴ. “Tân Quốc Vương” của Quốc Gia Đại Hán: Ông Tập Cận Bình đang thống trị một xứ có dân số đông nhất trên thế giới (gần1 tỷ 4 người). Ông tuổi con rắn, sinh năm 1953, năm nay là năm tuổi của ông. Vợ là một ca sỹ nổi tiếng, đang mang quân hàm thiếu tướng Giải Phóng Quân: Bành Lệ Viện.

                      Cái tên của ông này nếu nói lái sẽ trở thành: Tập cận Bình= Tịch cận Bần (Tịch= chết, viên tịch…Cận= gần, kế cận. Bần= nghèo hèn, vô gia cư…). Ngày gần đây, trên thông hành của thần dân ông ta đều có đóng dấu con đường lưỡi bò chín đoạn, để mỗi lần chúng đi chu du đến các quốc gia nào trên thế giới sẽ được đóng dấu nhập cảnh với y’ đồ muốn cho thế giới ủng hộ những vùng biển đảo do chúng cướp bóc của những quốc gia nhỏ bé như: Việt Nam, Phi-luật-Tân…. Tháng tới đây (tháng Giêng năm 2013) cảnh sát tỉnh Hải Nam có quyền lên kiểm tra, hay đuổi các tàu nước ngoài có các hoạt động gọi là bất hợp pháp như vào khu vực Biển Đông mà Trung Quốc nói thuộc tỉnh Hải Nam mà không có phép, hay có hành động công khai “gây nguy hại cho an ninh Trung Quốc”. Mặc cho các lân quốc nhỏ bé như: Đài Loan, Việt Nam, Phi-luật-Tân, Brunei, Malaysia..và ngay cả cường quốc Ấn Độ chống đối. Tôi đề nghị “tân quốc vương” họ Tập hãy kiểm soát và phạt rất nặng các chiến hạm của Nhật như: Kurama và khu trục hạm Hyuga, JS Myoko…Các Hàng Không Mẫu Hạm “chế bằng giấy các-tông” của Mỹ như: USS North Carolina, USS Nimitz.. Hàn quốc: các tàu: Roks Yulgok, tàu ChangBogo…Lên kiểm soát gay gắt, bợp tai, đá đít và vứt xuống biển các thuyền trưởng của những Hàng Không Mẫu Hạm chế tạo bằng giấy các-tông của các quốc gia nêu trên vì chúng dám xâm phạm đến 80% đường lưỡi bò của quốc gia Đại Hán. Chúng còn giở trò chơi ngông dám bao vây xứ sở của ông như: ở phương Bắc có: Nga, Hàn, Nhật. Phương Đông: Mỹ, Úc. Phía Nam: Việt Nam, Phi-luật-Tân và phía Tây: có đại cường Ấn Độ. Chúng dự định sẽ mở quán nhậu có các món: Sushi lưỡi bò, Cà Ri Lưỡi bò, Phở lưỡi bò, Mỹ có món: Hamburger Lưỡi Bò…và cả thế giới sẽ có một ngày “đại hội lưỡi bò”. Tôi chắc chắn ngày đó sẽ mang lại niềm vui tuyệt vời cho nhân loại trên toàn thế giới. Còn một vấn đề quan trọng nữa, hiện nay Mỹ đã lên đến Sao Hỏa và đang làm mưa, làm gió trên đó. Xin “tân vương” ra một cảnh báo: Đó là đường “lưỡi trâu 13 đoạn” không thể tranh cãi của Quốc Gia Đại Hán. Nếu chúng vẫn ngoan cố, xuất cảng thật nhiều những thực phẩm, trái cây, thuốc men, áo quần, giày dép..v.v..tẩm cho nhiều hóa chất độc hại để tiêu diệt bọn chúng. Cố gắng lên để nắm cho bằng được Cường Quốc Số Một trên thế giới, nghe “đồng chí”.

                      Và trên thế giới còn lại “bốn con rắn đỏ” rất cực độc chuyên hút máu người đồng chủng: Trung cộng, Việt cộng, Bắc hàn và Cu-Ba. Viết tắt là : Trung-Việt- Bắc-Cu. Nói lái: Trung Việt= Triệt Vung. Bắc Cu= Bu Cắc (Triệt= triệt để, triệt tiêu. Vung=đưa lên cao, vung lên. Bu=Bố, cha. Cắt= thiến). Vung dao lên thiến cho chết cha chúng nó.

                      Như ước nguyện của cố thi sĩ Nguyễn chí Thiện: “…Giữa thời gian muôn người đương chết đuối, Lòng cầu sao nhanh chóng khắp địa cầu. Đứng đều lên ồ tới đánh toang đầu, Con rắn đỏ vô cùng hung hiểm. Nó sinh ra lớn lên nhờ xúc siểm, Nhả nọc hận thù, phờ phỉnh công phu. Khéo léo đầu cơ lòng yêu nước đui mù…”.

                      Xin bạn đừng tin những tin đồn nhảm nhí của bọn người Maya dựa vào lịch của họ và đã tiên đoán ngày tận thế sẽ là ngày 21 tháng 12 năm 2012. Nhưng đã đâu có xảy ra. Đừng tin nhà tướng số Nostradamus, tiên tri vũ trụ Trần Dần nào đó ở bên Mỹ. Hãy tin vào tài nói lái “thần sầu quỷ khóc” của MCN, đúng phóc 100%. Xin bạn hãy chờ xem trong năm Quí Tỵ 2013 này.

                      Nhân dịp Năm Mới Dương Lịch 2013, để thay lời chúc, tôi xin gửi hầu bạn hai món quà tinh thần này, mong rằng bạn đọc thật kỹ và nhớ thi hành:

                      I.- Kéo dài tuổi thọ, giảm nguy cơ bệnh tật bằng 10 thói quen đơn giản:

                      1.- Cười to sảng khoái-tuần hoàn máu tăng 21%: Một nghiên cứu mới đây nhất của trường đại học Texas (Mỹ) chỉ rõ, tuần hoàn máu của những người bật cười hết cỡ khi xem phim tăng 21%, đồng thời hiệu quả có thể duy trì lâu đến 24 giờ. Nhưng nếu xem phim buồn hoặc bi thương, tốc độ tuần hoàn máu giảm 18%. Vì vậy, hãy luôn cố gắng phát hiện những “góc cười” trong cuộc sống.

                      2.- Đánh răng- giảm 80% nguy cơ ung thư đầu cổ: Một nghiên cứu của Trung Tâm Nghiên Cứu Ung Thư ở New York (Mỹ) chỉ rõ, đau răng trong thời gian dài sẽ làm tăng tới 80% nguy cơ ung thư phần đầu và cổ. Cách phòng ngừa rất đơn giản, chỉ cần đánh răng định kỳ 3 lần/ngày, đồng thời dùng chỉ nha khoa để làm sạch các kẽ răng là được.

                      3.- Uống trà-giảm 20% đột quỵ: Nghiên cứu của trường Đại Học California chỉ rõ, những người mỗi ngày uống trên 3 tách trà, nguy cơ đột quỵ ít hơn 20% so với những người uống ít trà hơn hoặc không uống. Bất kể là trà xanh hay trà hồng, chất a-xít amin và poliphenol trong trà đều có thể bảo vệ rất tốt cho huyết quản và động mạch.

                      4.- Viết thư cám ơn-hệ miễn dịch mạnh thêm 20%: Nếu muốn thể hiện sự cảm ơn chân thành đến một người nào đó thì nên lập tức viết ngay một bức thư cảm ơn. Điều này tốt hơn rất nhiều so với cám ơn miệng. Nghiên cứu của trường Đại Học Kent của Mỹ phát hiện, cám ơn bằng “văn bản” làm cho cả hai bên thấy vui vẻ hơn, hệ miễn dịch mạnh lên trong khi huyết áp giảm, giữ cho cơ thể được gọn gàng, săn chắc.

                      5.- Ghi chép - tăng 29% trí nhớ: Những người dùng bút viết những điều mình nghe sẽ ghi nhớ tốt hơn tới 29% so với những người chỉ dùng máy ghi âm. Tâm lý học ứng dụng giải thích rằng đó là vì ghi âm sẽ khiến người ngồi họp ít tập trung hơn những người lấy bút giấy ra ghi chép.

                      6.- Cầm tay người yêu thương-giảm một nửa áp lực: Một nghiên cứu của Hiệp Hội Thần Kinh Học (Mỹ) cho thấy một cái ôm ấp vỗ về, một cái nắm tay của người mình yêu đều là những cách giúp giảm bớt áp lực hiệu quả. Đặc biệt là lúc bạn căng thẳng, hãy nắm chặt tay người bạn yêu thương, như thế có thể giảm bớt huyết áp, nhịp tim đập rộn ràng hơn và làm cho bạn được thư giãn, áp lực được giải tỏa.

                      7.- Tập Yoga-giảm 56% đau lưng: Nghiên cứu của Đại Học West Virginia cho thấy, những người bị đau lưng ở mức độ nhẹ hoặc vừa, mỗi tuần tập 2 lần Yoga, mỗi lần khoảng 90 phút sẽ giúp giảm đau lưng tới 56%, giảm căng thẳng tới 60%.
                      Nếu không có điều kiện tập Yoga, thì nên nằm ngửa, thả lỏng người, để cho mỗi vị trí của cơ thể đều tiếp xúc với mặt giường, như thế cũng có thể giảm bớt được đau lưng.

                      8.- Ăn cá nướng vào bữa tối - giảm 19% nguy cơ mất trí: Một nghiên cứu trên 150.000 người thể hiện rõ, những người ăn cá hơn 1 lần/tuần thì nguy cơ bị mất trí sẽ thấp hơn so với những người bình thường không ăn, đăc biệt là chất axit béo omega 3 ở trong cá biển sâu còn có tác dụng bảo vệ tế bào thần kinh.

                      9.- Uống sữa buổi sáng - giảm cân: Đem nhiệt lượng của bữa sáng và bữa tối phân phối cho bữa sáng, ví dụ như bữa sáng no nê rồi nhưng cũng nên uống một ly sữa, như thế có thể giảm được 2kg trong vòng 1 năm. Bởi sữa làm cho chúng ta có cảm giác no, từ đó bớt thèm các món khác.

                      10.- Uống một ly vang đỏ (red wine) mỗi ngày- thọ thêm 5 năm: Một nghiên cứu kéo dài 40 năm với trên 1,300 nam sinh Hà Lan cho thấy những người uống nửa ly vang đỏ mỗi ngày (đừng uống nguyên chai như tôi) sẽ có tuổi thọ trung bình tăng thêm 5 tuổi so với những người không uống. Trong rượu vang đỏ có rất nhiều loại chất Phenon có chức năng bảo vệ tim rất tốt và một phần nhỏ chất cồn còn có thể giúp tăng lượng cholesterol tốt đồng thời giúp đánh đuổi những “cặn bã” ở trong huyết quản. Mỗi ngày uống nửa cốc đến hai cốc là lượng thích hợp nhất.

                      Năm hết tết đến rồi, tôi khuyên bạn nên dọn dẹp nhà cửa, những thứ gì không dùng đến trong một, hai năm, ví dụ như áo quần, giày dép…về phương diện tinh thần như hút thuốc, bài bạc, rượu chè, trai gái….cũng nên có một sự quyết tâm từ bỏ, bởi vì:

                      Cất giữ thì sẽ không thể cho đi. Cất mãi cái cũ thì không còn dịp để nhận thêm điều mới.
                      Bạn có thói quen cất giữ những đồ vật vô ích khi nghĩ rằng một ngày nào đó, bạn sẽ có thể cần đến chúng?.
                      Bạn có thói quen cất kỹ tiền bạc và không tiêu xài đến nó, bởi vì bạn nghĩ rằng bạn có thể thiếu thốn trong tương lai?.
                      Bạn có thói quen để dành những quần áo, những đôi giày, những bàn ghế, những đồ gia dụng mà bạn đã không sử dụng từ lâu rồi?.
                      Và trong tâm hồn bạn, bạn có thói quen lưu giữ những lời trách mắng, những mối thù hận, những nỗi buồn, những nỗi sợ hãi và cả nhiều thứ khác nữa?.
                      Bạn ơi, đừng làm như thế nhé! Bạn đang đi ngược lại sự giàu sang rồi đấy!.
                      Bạn cần phải dọn chỗ, cần giành một khoảng trống để cho phép những sự việc mới mẻ sẽ đến trong đời bạn nữa chứ.
                      Bạn cần phải vứt bỏ những thứ vô ích đang hiện diện trong bạn và nơi cuộc đời bạn để sự giàu sang còn có thể tìm đến nữa chứ.
                      Sức mạnh của sự trống rỗng đó là một sức mạnh sẽ thu hút và lôi kéo tất cả mọi thứ bạn mong ước.
                      Chừng nào bạn còn níu giữ những món đồ, ấp ủ những tình cảm quá xưa cũ và vô ích, khi đó bạn sẽ chẳng có chỗ cho những cơ may.
                      Của cải tiền bạc cần phải được lưu chuyển.
                      Hãy giốc sạch những ngăn kéo, dọn trống mấy cái tủ đứng, các phân xưởng, nhga2 xe…Hãy cho đi những gì bạn không còn sử dụng nữa.
                      Thái độ cất giữ một đống những thứ vô ích đang trói buộc đời bạn ở trần gian này đấy.
                      Không phải những vật dụng mà bạn cất giữ làm cuộc đời bạn đình trệ…nhưng chính là thái độ bo bo cất giữ.
                      Khi chúng ta cất giữ, chúng ta dự liệu tới lúc mình có thể bị túng thiếu.
                      Chúng ta cứ nghĩ biết đâu mai này mình sẽ cần đến những thứ ấy, và khi đó mình sẽ lôi chúng ra mà dùng.
                      Và như thế, bạn đã nạp vào đầu óc mình, vào cuộc đời mình hai thông điệp: Một là bạn không còn tin tưởng vào tương lai. Hai là bạn cho rằng những điều mới mẻ và hay ho nhất sẽ không dành cho mình đâu.
                      Chính vì lẽ đó, bạn tự an ủi bằng cách cất giữ những thứ cũ kỹ vô ích.
                      Bạn hãy loại bỏ đi những thứ đã phai màu và mất độ bóng.
                      Hãy để những gì là mới mẻ bước vào nhà bạn, ùa vào tâm hồn bạn. Vì thế, sau khi đọc xong bài này, tôi xin bạn đứng dậy dọn dẹp nhà cửa, lau chùi bàn ghế, dọn dẹp nhà chứa xe…các tủ quần áo những thứ hai, ba năm chưa bao giờ mặc đến, cất hết vào bao rác để dành cho các Hội Từ Thiện (như Big Brothers, Salvation Army…) để cho họ làm phước.

                      Chúng ta đang tiến đến ngưỡng cửa của MỘT NĂM ÂM LỊCH 2013. Để cho đời sống của chúng ta được sống một cách thanh thản, tôi khuyên bạn:

                      Có ba thứ trong đời không bao giờ nên tiếc: Một tình yêu đã ra đi, một người bạn không xứng đáng và ngày hôm qua.

                      Bởi vì đó là những điều đã không còn có thực, không còn có y’ nghĩa và không còn tồn tại trong ngày hôm nay và ngày mai của ta. Vì thế, là những điều không nên làm vướng bận lòng ta, không nên làm u sầu trái tim ta và làm rơi nước mắt ta thêm nữa.

                      Một sớm mai kia thức dậy, bạn có thể thấy người mình yêu không còn là người đàn ông/ đàn bà bạn đã yêu nữa. Bạn sẽ buồn vì họ? Sẽ đau vì không thể yêu người đó nữa? Sẽ tiếc nuối tình yêu đã có? Nhưng, hãy nghĩ: Khi bạn yêu họ, họ là người bạn yêu, với những gì bạn yêu. Khi họ không còn như thế nữa, hoặc khi bạn nhận ra họ chưa bao giờ như bạn nghĩ, cũng đừng cảm thấy đau buồn hay nuối tiếc. Bởi vì tình yêu đó, trước giây phút đổi thay đó đã là một người yêu trọn vẹn. Chỉ có điều, đó là một tình yêu đã qua, một người yêu đã ra đi. Và nên để gió cuốn bay đi.

                      Một người bạn không xứng đáng với những gì ta dành cho họ, càng không bao giờ nên hối tiếc, cho dù có thể là một nỗi buồn trong thoáng chốc. Buồn không phải vì ta đã dành cho họ nhiều yêu thương mà họ không xứng đáng được nhận, cho đi là không bao giờ nên hối tiếc. Mà buồn vì cuộc sống không nên như thế, con người không nên như thế, vậy thôi. Dù sao, cũng nên sống hết mình, yêu thương hết mình. Đâu đó trong cuộc đời vẫn là những vòng tay rộng mở, còn những cái quay mặt đã ở sau lưng.
                      Và ngày hôm qua. Ngày hôm qua luôn là một cái bóng rất lớn, đôi khi là quá lớn lên hiện tại. Cho dù là cái bóng của hạnh phúc hay bất hạnh. Có những người không bao giờ thoát nổi ra khỏi cái bóng đó để bước đi về phía ngày mai.Nhưng bạn biết không, chỉ những người không nhìn thấy bóng mình vì bận rộn ngẩng cao đầu bước mới không luẩn quẩn ở cái bóng của mình mãi.

                      Ngày hôm qua chỉ là một cái bóng. Mà chúng ta thì cần điều gì đó rõ rệt, mang dáng dấp, hơi thở, sự sống. Đừng đuổi theo cái bóng đó, bạn nhé. Nó cũng giống như ngồi thở than vọng tưởng những cánh bướm mùa trăng tròn thuở xưa. Hãy cứ thương nhớ nhưng đừng bao giờ tiếc ngày hôm qua. Ngày hôm qua đã qua rồi.

                      Đôi khi, đúng hơn là rất nhiều khi tôi cũng thấy buồn. Nhưng tuyệt nhiên không bao giờ cho phép mình nuối tiếc. Tôi tin, rất tin cuộc sống cần dựa trên những nổ lực không mệt mỏi để vươn lên, để cho đi và để biết trân trọng hiện tại, hướng tới ngày mai. Những gì đã cho đi là những điều quy’ giá. Những hạnh phúc đã mang đến cho người là những món quà tự tặng cho mình. Những yêu thương đã trao là những yêu thương được nhận. Ngay cả những nỗi buồn cũng là một trải nghiệm y’ nghĩa. Những cho nhận ấy ngày hôm nay và ngày mai nhìn lại ta mới có thể thấy hết giá trị của đời mình.

                      Những người luôn bận lòng với những đố kỵ, day dứt với những đau khổ, trầm mình trong nước mắt, giam mình trong những ám ảnh về quá khứ và dằn vặt mình với những đòi hỏi yêu thương là những người không bao giờ có thể hạnh phúc, không bao giờ biết giá trị đích thực của cuộc sống.

                      Một sớm mai kia khi tất cả sẽ thành hư vô trong đời, tôi mong bạn sẽ mỉm cười. Vì mình đã sống những ngày trọn vẹn.

                      Bạn thì sao tôi không biết, nhưng cá nhân tôi, nhiều đêm tôi đau xót không thể ngủ được vì nghĩ đến định mệnh khắc khe oan nghiệt của đất nước và dân tộc đang nằm dưới sự thống trị của bọn Rợ Hán qua bọn tay sai bán nước Việt Cộng. Đừng bao giờ ỷ lại vào Mỹ, Nhật, Nga, Ấn…mà hãy:
                      Tự cứu lấy mình: Một người nọ đứng dưới hiên nhà tránh mưa, chợt trông thấy Quan Âm cầm ô đi ngang qua. Người này bèn nói: “Quan Âm Bồ Tát, xin Người hãy phổ độ chúng sinh, cho tôi đi nhờ một đoạn có được không?”. Quan Âm thấy vậy, trả lời: “Ta đang đi trong mưa, còn người đứng dưới hiên nhà, mưa không hề ướt đầu, vậy thì cần gì ta phổ độ?”. Người nọ liền lập tức bước ra khỏi mái hiên, đứng dưới trời mưa: “Bây giờ tôi cũng đứng dưới mưa rồi, Bồ Tát nên giúp đỡ, có phải không?”. Quan Âm bèn nói: “Ngươi đứng dưới mưa, ta cũng đứng dưới mưa, ta không bị ướt vì ta có ô, còn ngươi bị ướt, vì ngươi không có ô. Vậy là không phải ta giúp được ta, mà chiếc ô giúp được ta. Ngươi muốn được giúp, không nên tìm ta, mà hãy tự tìm một chiếc ô”. Nói xong, Quan Âm đi thẳng.

                      Ngày hôm sau, người nọ gặp chuyện khó khăn, bèn đến miếu Quan Âm cầu khẩn. Vừa bước vào trong miếu, anh ta đã nhìn thấy có một người đang đứng chắp tay ngay trước tượng Quan Âm. Lạ một điều, người đó có ngoại hình giống hệt Quan Âm, không sai một li. Anh ta bèn đến gần hỏi: “Người có phải Quan Âm không?”. Người đó trả lời: “Ta chính là Quan Âm”. “Vậy tại sao người lại chắp tay cầu khẩn chính mình?”.
                      Quan Âm cười đáp: “Ta cũng gặp chuyện khó khăn, nhưng ta biết, cầu cứu người không bằng cầu cứu chính bản thân mình”. , bèn đến miếu Quan Âm cầu khẩn. Vừa bước ợ
                      Tết Âm Lịch Năm QÚY TỴ 2013 sẽ rơi vào ngày Chủ Nhật: 10 tháng 2. Tôi xin kể hầu bạn rất nhiều chuyện về: RẮN để bạn đọc và tìm hiểu loại động vật máu lạnh, bò sát-cùng lớp với các loài có vảy như thằn lằn, tắc kè-nhưng không có chân.

                      RẮN – TRĂN: Rắn có nhiều người thích ăn. Ở miền Nam có nhiều rắn. Sách Thoái thực k‎y’ văn chép: “Tục Nam Kỳ lấy rắn hổ mang làm món ăn quy’, thường dùng đi lễ quan trên, và đãi khách. Lấy máu nó hòa với rượu uống bảo là trị phong thấp. Bỏ đầu và đuôi năm tấc (20 phân) cho là độc ở đấy. Có nhà nuôi rắn ấy dùng ống tre vài lóng một đầu để mắt, đầu kia để trống bỏ rắn vào, bịt lại. Đẳng mắt tre xuyên một lổ nhỏ, giã hành thun tẩm que tre để vào lỗ. Rắn sợ hành co mình lại, một tuần sau thay que cũng tẩm hành mà đẩy vào thêm, rắn càng co mãi, lâu dần ngắn bằng con chạch, vẩy trắng ra, rất béo ngon”.

                      Ở miền Bắc ít ăn rắn có lẽ cũng vì hiếm. Có bao nhiêu “các chú Ba” mua hết, rắn càng độc lại càng quy’. Mấy người làm nghề bắt rắn hễ trông thấy lỗ rắn ở gò đống ngoài đồng hay bờ bụi tre là dùng thuật bắt ngay được bằng tay không, dù rắn độc mấy cũng không hại được.

                      Ở các tỉnh thành lớn, nhất là Hà Nội, Hải Phòng, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào-Kay…, tiệm ăn khách trú có món rắn thường xuyên hàng ngày. Ta cũng nhiều người ưa ăn, mà thường phải nhờ “các chú Ba” nấu. Món long hổ hội, một con rắn hổ mang (rắn cạp nong càng quy’), và một con mèo đen (đen tuyền) nấu với chân giò heo, thêm vài vị thuốc Bắc; món ăn này không dễ gì mà có.

                      Lời nói của kẻ bắt rắn: Ở Vĩnh Châu có giống rắn lạ, thân đen, vằn trắng chạm vào cây cỏ, thì cây cỏ chết, cắn phải người thì không thuốc gì chữa nổi. Song mà bắt được giống rắn ấy dùng làm thuốc để chữa những bệnh như bệnh trúng phong, bệnh co quắp chân tay, lại sát được cả trùng.

                      Cho nên nhà vua có lệ bắt dân gian mỗi năm phải hiến hai con rắn ấy để dành. Ai bắt được rắn thì được trừ thuế ruộng.

                      Người châu Vĩnh tranh nhau mà làm nghề bắt rắn. Có nhà họ Tương cũng làm nghề ấy đã được ba đời. Hỏi ra thì nhà họ Tương nói: “Ông tôi chết về nghề bắt rắn, cha tôi cũng chết về nghề bắt rắn. Tôi nối nghề ông cha tôi mới có mười hai năm, cũng đã mấy lần su‎ýt chết.
                      Người ấy nói, vẻ mặt rất buồn rầu.
                      Ta thương và hỏi rằng: “Nhà ngươi có thật cho nghề bắt rắn là khổ không? Ta sẽ nói với quan trên cho nhà ngươi bỏ nghề ấy mà cứ nộp thuế ruộng như thường. Nhà ngươi tính thế nào?.
                      Người họ Tương vừa khóc, vừa nói: “Ông thương tôi, muốn cho tôi sống, thì ông để cho tôi làm nghề bắt rắn còn hơn. Nếu tôi không làm nghề này thì tôi khốn khổ đã lâu rồi. Nhà tôi ba đời ở làng kể đã hơn sáu mươi năm, cách sinh nhai trong làng mỗi ngày một quẫn bách. Người làng phải rút hết cả lợi hoa mầu, vét hết cả của cải trong nhà để mà nộp thuế hết, thậm chí bỏ làng, bỏ xóm, đói khát, trôi giạt, chết đường, chết chợ kể bao nhiêu người.

                      Những người vào chạc tuổi ông tôi mười nhà không còn một. Những người vào chạc tuổi cha tôi, mười nhà còn độ hai, ba. Những người vào chạc tuổi tôi mười nhà còn độ bốn, năm. Không chết chóc thì lưu lạc cả…Tôi nhờ nghề bắt rắn mà còn đến bây giờ. Những quan lại tàn ác về làm thuế làng tôi, xúc hết đầu làng, cuối xóm vơ vét đến cả con gà, con chó, dân gian phải hãi hùng kinh sợ. Những lúc ấy, về phần tôi, tôi được yên lặng, trông trong giỏ con rắn vẫn còn là tôi được ăn no, ngủ yên. Tôi làm nghề bắt rắn một năm sợ chết chỉ có hai lần, ngoài ra là vui vẻ, không phải lo thuế má, không đến nỗi như người làng xóm tôi hết ngày này, sang tháng khác khốn khổ về quan lại tàn ác. Giá tôi có chết về nghề bắt rắn, ví với người làng xóm tôi cũng đã là chậm, đâu dám cho là rắn độc mà xin thôi.

                      Ta nghe câu chuyện, lại càng thương lắm. Xưa Đức Khổng Tử nói: “Chính sách hà khắc độc hơn hổ dữ” ta vẫn ngờ, bây giờ xem chuyện họ Tương mới cho là thật. Than ôi! Cái độc quan lại tàn ác làm thuế ở dân gian dữ hơn con rắn độc, cho nên nói ra đây để người xem xét phong tục thấu được tình cảnh đau khổ của dân.

                      Rắn dời chỗ ở: Trời nắng, ao cạn, hai con rắn muốn dời đi chỗ khác.

                      Rắn con bảo rắn lớn: “Anh đi trước, tôi theo sau, người ta biết là rắn kéo nhau đi tìm chỗ ở, thì thế nào cũng tìm cách giết chết. Sao bằng anh để tôi ngâm vào mình anh, còn anh thì cõng tôi mà đi, người ta tất nhiên cho là Rắn Thần, không dám đụng đến”.

                      Nói xong, hai con rắn làm y như thế mà đi qua đường cái. Quả nhiên, người ta trông thấy ai cũng tránh sợ, bảo nhau là “Rắn Thần”.

                      Những kẻ nương tựa nhau, thông đồng với nhau để làm điều gian xảo, lừa dối đời; mê hoặc người, thì có khác gì hai con rắn cõng nhau đây mà giả làm Rắn Thần không?.

                      Bạn đã đọc xong hai bài ngụ ngôn trên, bạn có thấy đúng với xã hội và con người Việt Nam đang sống dưới sự cai trị tàn độc, gian xảo, lừa đảo, lưu manh..của bọn người tự xưng là “đỉnh cao của trí tuệ loài người” hay không?.

                      Bài thứ nhất: Thật là ghê tởm cái chính sách hà khắc, người cầm quyền đã ác một phần, thì những kẻ dưới thừa hành ác tăng lên trăm phần. Cái cảnh khổ của dân mất hết cả quyền sống, sống cũng như chết.

                      Bài thứ hai: Những quân gian giảo định đánh lừa thiên hạ, khi chỉ có một mình, thiên hạ cũng mắc lừa chán, huống chi là chúng kết bè, kết đảng, đồng tâm bày mưu mà gạt lừa thiên hạ, thì ai dù khôn ngoan đến đâu dễ đã tránh cho được. Đoàn kết với nhau để làm điều lành, hay cho thiên hạ bao nhiêu, thì bè đảng với nhau để làm điều ác, nguy cho thiên hạ bấy nhiêu. Vậy ta thấy những điều gì lạ tai, lạ mắt, trái hẳn nhân tình thì một là đánh lừa, hai là lợi dụng, ta trước nên suy xét kỹ đã, rồi sau hãy tin theo.
                      Tại Việt Nam và ngay cả ở hải ngoại ngày nay có rất nhiều người bây giờ mới sáng mắt khi được sống chung và làm ăn với bọn Cộng Sản. Họ là ai?.

                      Ở Việt Nam:
                      1.- Họ là những bà mẹ quê chất phác. Trước đây họ nghe lời ngon ngọt của cộng sản, ấp ủ, che đỡ du kích trong nhà họ, những tưởng khi Việt cộng chiếm miền Nam thì họ được ưu đãi lắm! Ai ngờ! họ chỉ được cấp mấy giấy ban khen là mẹ chiến sĩ, mẹ liệt sĩ, mấy tấm huy chương bằng đồng để treo trong nhà cho nó oai, chứ đem ra chợ bán không ai mua. Đất đai của tổ tiên họ bị cán bộ công an lấy đem bán cho ngoại quốc làm sân golf. Kết quả? Họ bị hốt và vất lên xe cây như con heo. Có bà dân oan tức quá còn tụt quần ra trước văn phòng xã ấp cho công an xem nữa.

                      2.- Họ là giới trí thức sống tại miền Nam Việt Nam: mơ tưởng đến một thế giới đại đồng, xuống đường biểu tình, phá rối trị an của VNCH. Bọn trí thức trở cờ ngu dốt nằm trong nhóm thành phần thứ ba tưởng cộng sản miền Bắc cho hưởng ơn mưa móc sau khi chiếm được miền Nam.

                      3.- Họ là thành phần du kích miền Nam, tập kết ra Bắc: Sau khi chiếm được miền Nam, cái Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị bóp cổ chết ngắc ngày 2-7-1976. Bấy giờ họ mới sáng mắt ra thì đã quá trễ, chỉ còn biết than thân trách phận là mình quá ngu.

                      Tại hải ngoại:

                      Họ là những ngườiViệt đã liều chết vượt biên: Một ông vua chả giò. Một ông bác sĩ tim. Một ông giáo sĩ. Một ông chuyên viên thu băng video và CD, DVD lậu. Một ông giáo sư dạy điện toán. Đáng trách nhất một số không ít Sĩ Quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sau khi từ các trại “cải tạo” trở về và được định cư tại hải ngoại, họ đã bị tẩy não quá kỹ nên quên đi “Tổ Quốc” mà họ đã từng bảo vệ; “Danh Dự” mà họ đã từng tuyên thệ; “Trách Nhiệm” chưa tròn mà họ đã cố quên đi; ngồi lại với nhau chè chén và “tự ca” bài “Hồi đó”. Họ sẵn sàng tiếp tay với Việt gian, làm lợi cho Cộng sản để được hưởng những món lợi không đáng…v.v..

                      Còn và còn rất nhiều những đầu óc bã đậu chỉ nghĩ đến mình, chỉ biết sống để thỏa mãn thú tính, viện đủ mọi ly’ do để về Việt Nam hưởng thụ trên những thân xác của những cô con gái bất hạnh đáng tuổi con, cháu của mình và nỗ những điều ti tiện…thật đáng tủi buồn! Thật đáng thương tiếc cho một dân tộc kiêu hùng nay phải chịu cúi đầu, khiếp nhược, hèn và vô cảm trước sự thống trị tàn bạo của bè lũ bán nước và sự xâm chiếm hiểm độc của kẻ thù không đội trời chung: bọn Rợ Hán.

                      12 Lễ Tết Cổ Truyền Việt Nam: Chúng ta có tất cả 12 Lễ Tết Cổ Truyền như: Tết Nguyên đán, Tết khai hạ, Tết Thượng Nguyên, Tết Hàn Thực, Tết Thanh Minh, Tết Trung Nguyên, Tết Trung Thu, Tết Trùng Cửu, Tết Trùng Thập, Tết Hạ Nguyên và Tết Táo Quân.

                      Dân tộc ta có nhiều ngày Tết. Tết là cách nói tắt hai chữ Lễ tiết Nguyên Đán (đúng mùng Một tháng Giêng Âm Lịch). Tiếng Tết do chữ Tiết (chữ Hán) mà ra, nguyên là đầu tiên, đán là buổi sớm, Tết Nguyên Đán bắt đầu năm mới, ta quen gọi vắn tắt là Tết.

                      Vậy năm mới bắt đầu vào khoảng thời gian nào trong chuỗi ngày đêm kế tiếp liên miên vô tận?.
                      Mỗi xứ, mỗi miền tùy từng dân tộc theo một lối tính năm tháng khác nhau, gọi là âm lịch, dương lịch. Tết của ta là theo âm lịch mặc dầu ta cũng đã quen dùng dương lịch từ hơn nửa thế kỷ nay trong mọi giao dịch tiếp xúc với nhau và với người ngoài.

                      Có nhiều âm lịch, như lịch Chaldée, lịch He1breux, lịch Ai Cập, lịch Hy-Lạp. Những lịch này có ít nhiều điểm tương đồng với âm lịch của Tàu; đã từ lâu đời các triều đại vua ta đã thiết lập tòa Khâm-Thiên-Giám xem thiên văn làm lịch tính theo độ số chuyển vận của các hành tinh, không phải là ta chỉ chép theo lịch Tàu mà dùng.

                      Phép làm lịch của ta theo khoa học thiên văn như của Tàu, lấy khởi điểm ở tháng Dần làm tháng Giêng là lúc chuôi sao Bắc Đẩu chỉ về phương Dần, đến tháng Hai chuôi sao Đẩu chỉ về phương Mão…cho đến tháng Chạp thì đuôi sao Đẩu chỉ về phương Sửu.

                      Điều đáng chú y’ là tám tiết của âm lịch ta (lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông, xuân phân, thu phân, hạ chí, đông chí) ăn nhập đúng sát với bốn mùa của dương lịch đang thông dụng; cho nên về cuối năm từ tiết đông chí (ngày 20 hay 21 tháng 12 dương lịch) là nhất dương sinh, sang đầu năm mới là tam dương, vì vậy ngày Tết ta hay viết Tam dương khai thái Ngũ phúc lâm môn vào giấy hồng điều dán cửa để đón xuân, là thế.

                      Nếu muốn biết ta có tục ăn Tết tự bao giờ thì tưởng cũng khó mà nói chắc được. Theo từ điển Từ Hải mục Trung ngoại lịch đại đại sự niên biểu thì năm khởi điểm lịch Tàu là năm 3000 trước Tây Lịch kỷ nguyên, mà họ Hồng Bàng nước Việt ta bắt đầu vào năm Nhâm-tuất (trước Tây-lịch 2879 năm) nghĩa là hơn một trăm năm sau khi có lịch Tàu; nhưng mãi đến đời nhà Hạ (2205-1818 trước Tây lịch) lịch Tàu mới lấy tháng Dần làm tháng giêng. Vậy ta có ăn Tết theo âm lịch hiện giờ, thì chắc chắn là không phải từ đời Hồng Bàng, và nếu phỏng đoán là từ khi chịu ảnh hưởng phong hóa của Tàu do Tích Quang và Nhâm Diên truyền sang thì là từ thế kỷ thứ I Tây lịch trở về sau, chứ không sớm hơn được.

                      Cũng có một giả thuyết nữa, xin gửi hầu bạn đọc chơi: Nguồn gốc Tết Nguyên Đán, hay nói ngắn hơn là Tết, có từ đời Ngũ Đế, Tam Vương.

                      Đời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng màu đen, nên chọn tháng đầu năm, từ tháng Giêng, nhằm tháng Dần (con cọp) và do đó Tết Nguyên Đán vào đầu tháng Dần.

                      Nhà Thương thích màu trắng, lấy tháng Sửu (con trâu, tháng Chạp làm tháng đầu năm.

                      Qua nhà Chu (1050-256 trước Công Nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Ty’ (con chuột), tháng Mười Một làm tháng Tết.

                      Các vua chúa nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa (nghĩa là giờ Ty’ thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người) mà đặt ra ngày Tết khác nhau.

                      Đến đời Đông Chu, Khổng phu Tử ra đời, đổi ngày Tết vào một tháng nhất định: Tháng Dần.

                      Mãi đến đời Tần (thế kỷ III trước Công Nguyên) Tần-Thủy-Hoàng lại đổi qua tháng Hợi (con lợn) tức tháng Mười.

                      Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán-Vũ-Đế (140 trước Công nguyên) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần (tức tháng Giêng) như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa.

                      Đến đời Đông-Phương-Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loài Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc.

                      Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một đến hết ngày mồng Bảy.

                      Nói gì thì nói, ở hải ngoại, chúng ta hưởng được hai cái Tết: Dương Lịch và Âm Lịch. Điều đó không thích hay sao, phải không bạn?.

                      Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay, đáng được gọi là thuần phong như: Tống cựu nghinh tân, hái lộc, xông nhà, chúc tết, mừng tuổi, quà Tết, lễ Tết, lễ mừng thọ, cờ bạc, bầu cua cá cọp, hái lộc, du xuân,…Đây là thời điểm kết thúc mùa màng, mọi người rãnh rỗi nghỉ ngơi, vui chơi, thăm viếng lẫn nhau…và cũng là lúc giao thời của đông tàn xuân tới.

                      Theo phong tục cổ truyền Việt Nam:

                      1.- Tết Nguyên Đán trước hết là Tết của gia đình. Chiều 30 Tết, nhà nhà làm lễ cúng rước gia tiên và gia thần, thể hiện tình cảm uống nước nhớ nguồn. Trong 3 ngày Tết diễn ra 3 cuộc gặp gỡ lớn ngay tại một nhà. Thứ nhất là cuộc “gặp gỡ” của các gia thần. Tiên sư hay Nghệ sư-vị tổ đầu tiên dạy nghề gia mình đang làm. Thổ Công- Thần giữ đất nơi mình ở và Táo quân- Thần coi việc nấu ăn của mọi người trong nhà. Thứ hai là cuộc “gặp gỡ” tổ tiên, ông bà…những người đã khuất. Nhân dân quan niệm hương hồn những người đã khuất cũng về với con cháu vào dịp Tết. Thứ ba, là cuộc gặp gỡ những người trong nhà. Như một thói quen linh thiêng và bền vững nhất, mỗi năm Tết đến, dù đang ở đâu làm gì…hầu như ai cũng mong muốn và cố gắng trở về đoàn tụ với gia đình.

                      2.- Tết khai hạ: Theo cách tính của người xưa, ngày Mồng Một tháng Giêng ứng với gà, mùng hai: chó, mùng 3: lợn, mùng 4: Dê, mùng năm: Trâu, mùng 6: Ngựa, mùng 7: Người, mùng 8: Lúa. Trong 8 ngày đầu năm, cứ ngày nào sáng sủa thì coi như giống thuộc về ngày ấy cả năm được tốt. Vì vậy, đến mùng Bảy, thấy trời tạnh ráo thì người ta tin cả năm mọi người sẽ gặp may mắn, hạnh phúc.

                      Mùng 7 kết thúc Tết Nguyên Đán thì cũng là lúc bắt đầu Tết Khai Hạ-Tết mở đầu ngày vui để chào mùa Xuân mới.

                      3.- Tết Thượng Nguyên: (Tết Nguyên Tiêu) vào đúng rằm tháng Giêng. Ngày trăng tròn đầu tiên của năm. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa chiền vì Rằm Tháng Giêng còn là ngày vía của Phật Tổ. Thành ngữ: Lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng Giêng-xuất phát từ đó. Sau khi đi chùa, mọi người về nhà họp mặt cúng gia tiên và ăn cỗ.

                      4.- Tết Hàn Thực: Nghĩa là ăn đồ nguội- Tết này, vào ngày mùng ba tháng ba âm lịch: Từ thời Ly’ (1010-1225) nhân dân ta tiếp nhận Tết này và thường làm bánh trôi, bánh chay để thay đồ nguội. Nhưng mục đích chủ yếu là để cúng gia tiên.

                      Tết có xuất xứ từ bên Trung Quốc, làm giỗ ông Giới Tử Thôi là một hàn sĩ đời Xuân Thu trải qua 15 năm gian hiểm phò công tử Trùng Nhĩ, lập nhiều công lớn. Đã có lần cạn lương, Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình nấu cho Trùng Nhĩ ăn để cứu đói. Ân tình như vậy mà đến lúc công thành danh toại. Trùng Nhĩ thu phục giang sơn, lên ngôi (Tấn văn Công) lại quên công Giới Tử Thôi khi phong thưởng những người có công trong những năm lưu lạc. Giới Tử Thôi đem mẹ vào núi Điều Sơn ở ẩn. Khi Tấn văn Công nhớ ra, bèn sai một viên tùy tướng mang chiếu chỉ đến triệu Giới tử Thôi về kinh để phong thưởng. Giới tử Thôi ẩn trong rừng không ra. Viên tùy tướng đốt cả khu rừng buộc ông phải ra, hai mẹ con ông không chịu ra mà chịu chết cháy. Tấn Văn Công hối hận, thương xót lập miếu thờ và ban lệnh cả nước làm giỗ ông, cấm đốt lửa ba ngày. Vì thế mới có Tết Hàn Thực.

                      5.- Tết Thanh Minh: Thanh Minh trong tiết tháng Ba. Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh. Thanh minh có nghĩa là trời trong sáng. Tiết thanh minh thường vào tháng Ba Âm lịch-trở thành Lễ Tảo Mộ, nhằm ngày thượng tuần, khoảng mồng 5, mồng 6, có ghi trong âm lịch mỗi năm.

                      Nhiều nơi, ngày thanh minh người cùng họ họp nhau ra đồng tảo mộ, thăm viếng tất cả các mộ phần của ông bà tổ tiên, cỏ rậm thì phát quang, đất khuyết thì đắp bồi, thắp ba nén hương cắm trên mộ. Xong công việc, họ lại kéo nhau về, họ nào cũng làm lễ tế Tổ, mọi nhà làm lễ cúng gia tiên.

                      6.- Tết Đoan Ngọ: Mồng 5 tháng 5 là Tết Đoan Ngọ cũng gọi là Tết Đoan Dương. Ngày trước Tết này được coi trọng, các cụ thường nói: Tết mồng 5, rằm tháng bảy là có y’ nghĩa không bỏ qua được.
                      Tục ăn Tết Đoan Ngọ không biết có từ đời nào; mấy cụ nho học xưa thấy người Tàu có tục ngày Tết mồng 5 tháng 5 làm lễ kỷ niệm Khuất Nguyên đời Xuân Thu tuẩn tiết vì trung nghĩa, cho rằng người nước ta đã bắt chước theo.

                      7.- Tết Trung Nguyên: Rằm tháng Bảy là tết Trung Nguyên. Ta tin theo sách Phật cho hôm ấy là ngày vong nhân xá tội, ngày báo hiếu cha mẹ…nên tại các chùa làm chay chẩn tế và cầu kinh Vu Lan….Vào ngày Rằm tháng Bảy Âm Lịch các nhà làm lễ cúng gia tiên, mua vàng mã đốt.

                      Nhiều người bày lễ cúng chúng sinh ngoài sân, trước thềm nhà, rìa đường phố, cúng cô hồn, ma đói. Những nhà có người mới chết trong vòng một hai năm thường đốt mã, làm chay ngày trung nguyên.
                      Cũng ngày Rằm tháng Bảy còn có Lễ Vu Lan, xuất phát từ tích truyện Đại Mục Kiền Liên. Vu Lan được coi là lễ cầu siêu giải thoát cho ông bà cha mẹ bảy đời, xuất phát từ lòng báo hiếu. Trong những năm gần đây, trong Lễ Vu Lan còn có tục “Bông Hồng Cài Áo” thể hiện lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ.

                      8.- Tết Trung Thu: Rắm tháng Tám là Tết Trung Thu. Nơi phố phường thi nhau bày cỗ trông trăng, họ làm đủ các thứ bánh: bánh dẻo, bánh nướng…Ngoài các thứ bánh, cỗ bày đủ mọi trái cây đương mùa…Bên cạnh cỗ, thế nào cũng có một vài chiếc đèn kéo quân, lắm người tự tay chế đủ kiểu đèn công phu và tài tình.

                      Tối đến trẻ con lũ lượt kéo nhau ra phố, mỗi đứa cầm chơi một cái đèn có thắp nến bên trong, nan bằng tre nứa phất giấy bóng màu, làm đủ hình lân, thỏ, ếch, nái, cá, tôm…Cạnh đó, làm gì cũng có cảnh múa lân rất vui nhộn.

                      9.- Tết Trùng Cửu: Theo phong tục của Trung Quốc, tết Trùng Cửu ăn vào ngày mồng 9 tháng 9.
                      Nguyên đời Hậu Hán (25-250) có Hoàng Cảnh, người huyện Nhữ Nam, theo học đạo tiên với Phí Trường Phòng. Một hôm Trường Phòng bảo Cảnh: -Ngày mồng 9 tháng 9 tới đây, gia đình của nhà ngươi gặp phải tai nạn. Vậy đến ngày đó, ngươi nên đem cả nhà lên núi cao, tay đeo túi đỏ đựng hột thù du (một loại tiêu), uống rượu hoa cúc, tối sẽ trở về, may ra tránh khỏi tai nạn.

                      Hoàng Cảnh vâng theo lời thầy.

                      Quả thực đến tối trở về thì thấy gà vịt heo chó trong nhà bị dịch chết hết.

                      Vì tích trên, nên về sau hàng năm, đến ngày mồng 9 tháng 9, người ta bỏ nhà tạm lên núi, lánh nạn….Lâu đời thành tục gọi là Tết Trùng Cửu. Sau dần thay đổi tính chất, Tết Trùng Cửu lại dành riêng cho tao nhân mặc khách lên núi uống rượu, làm thơ.

                      10.- Tết Trùng Thập: Đây là Tết của các thầy thuốc. Cứ đến ngày mồng 10 tháng 10, cây thưốc mới tụ được khí âm dương, mới kết được sắc tứ thời, trở nên tốt nhất, ở nông thôn Việt Nam, đến ngày đó người ta thường làm bánh dày, nấu chè kho để cúng gia tiên rồi đem biếu những người thân thuộc chứ không quan tâm mấy đến chuyện cây thuốc, thầy thuốc!.

                      11.- Tết Hạ Nguyên (Tết Cơm Mới): Cuối tháng chín sang tháng mười đất đồng mùa gặt hái xong, lại nhân đang mùa cốm, hồng, chuối, trứng cuốc, và chim ngói (đánh bẫy được), là của ngon, nhiều nơi có tục ăn Tết Cơm Mới, không nhất định vào ngày nào.

                      Lại cũng có tục biếu xén; đặc biệt là rể tương lai phải lo biếu xén nhà gái, không thể bỏ qua, lễ tết là cốm, hồng, gạo mới, chim ngói.

                      Tháng 10 gặt hái xong xuôi, là tháng rỗi, có nơi mấy nhà đồng cốt và nhà thày thuốc, bày ra cúng lễ, cũng gọi là Tết Cơm Mới, để khoản đãi các đệ tử, các khách hàng, thêm tình thân mật.

                      12.- Tết Táo Quân: (Chạp Ông Công) Về sự tích Ông Công, học phái Lão Tử nói là một vị thiên thần coi việc thiện ác của từng gia đình để cuối năm lên tâu Ngọc Hoàng.

                      Dựa vào sự tích: Ngày xưa có hai vợ chồng nghèo đến nỗi phải bỏ nhau. Sau người vợ lấy được người chồng khác giàu có. Một hôm cúng, đang đốt vàng mã ngoài sân, vô tình người chồng trước vào xin ăn, vợ nhận ra, động lòng thương cảm, đem cơm gạo tiền bạc ra cho; người chồng sau biết chuyện, người vợ xấu hổ lao đầu vào đống vàng cháy chết thiêu. Người chồng cũ cảm kích nhảy vào lửa chết theo. Chồng sau thương vợ cũng nhảy vào nốt. Cả ba đều chết cháy. Ngọc Hoàng thương vì ba người cùng có nghĩa, phong cho làm vua bếp.

                      Ngày xưa khi còn ở Việt Nam, những ngày trước Tết, nhà nào cũng lau rửa bàn thờ, đồ thờ, đồ đồng thì chùi đánh sáng choang. Các thôn, ấp thì dựng cây nêu. Làm bánh chưn, bánh tét để cúng giao thừa. Đi lễ chùa, đền, miếu hái lộc đầu xuân. Xông nhà, xông đất. Đi lễ Tết. Mừng tuổi, mở hàng. Xuất hành, khai bút đầu xuân….. Lòng người từ trẻ đến già đều rạo rực, hớn hở đón chào Chúa xuân. Kể làm sao cho hết.

                      Nhân dịp Xuân về và cũng để cảm tạ các văn nhân, thi sĩ, dịch giả, triết gia, sử gia…và tấm chân tình của bạn đã đọc và chia sẻ cùng tôi qua bài biên khảo này, tôi xin gửi hầu bạn: 8 món quà không mất tiền mua gọi là chút ơn tri ngộ: Có những món quà mà bạn không cần phải tốn tiền mua. Có những món quà mà bạn luôn muốn được nhận. Có những món quà mà người khác chờ đợi bạn tặng:

                      1.- Món quà từ sự lắng nghe: Khi bạn thực sự lắng nghe, bạn chú y’, không ngắt ngang, không mơ màng, chỉ lắng nghe để cảm nhận và thấu hiểu. Đó là món quà vô giá thứ nhật bạn có thể dành cho người khác đặc biệt là những người thân yêu của mình.

                      2.- Món quà từ sự trìu mến: Hãy thể hiện sự trìu mến với những người thân yêu bằng những lời nói ân cần và cử chỉ trìu mến, bạn sẽ thấy những điều kỳ diệu.

                      3.- Món quà từ sự vui tươi: Hãy cắt những biếm họa, chia sẻ những mẫu chuyện cười và những tin vui nhộn cho các cộng sự và người thân. Họ sẽ hiểu và cảm nhận rằng bạn luôn muốn chia sẻ niềm vui và do đó họ sẽ dành cho bạn những điều to lớn hơn.

                      4.- Món quà từ những mẩu giấy viết tay: Hãy viết ra từ những lời chân thật, dù rất ngắn, nó có sức mạnh phi thường đấy, dù nó là dòng chữ “cám ơn bạn đã giúp đỡ tôi” hay “xin lỗi vì mình đã quá nóng với bạn”. Hay thậm chí một bài thơ hay một lời khuyên đẹp. Chính những điều nho nhỏ đó, có thể đi suốt cuộc đời ta.

                      5.- Món quà từ sự khen ngợi: Sự khen ngợi thật lòng có sức mạnh không ngờ, đó có thể là “chiếc áo đó thật tuyệt vời với bạn!” hay “Một bữa ăn rất ngon!” có thể đem lại niềm vui cho người khác suốt cả ngày.

                      6.- Món quà từ sự giúp đỡ: Mỗi ngày hãy chủ động làm một vài điều tử tế, bạn sẽ thấy cuộc sống thật vui vẻ và nhẹ nhàng.

                      7.- Món quà của sự yên tĩnh: Hãy luôn nhẹ cảm về điều này và để sự yên tĩnh cần thiết cho người khác cũng như có những lúc bạn cần sự yên tĩnh ấy.

                      8.- Món quà từ sự thân thiện: Hãy vui vẻ nói “xin chào”, “khỏe không”, “mọi việc ổn chứ?”…khi bắt tay phải cho nồng ấm, đừng nên bắt hai tay, cúi đầu, khúm núm (đó là bản chất của những kẻ nô lệ (hoặc trên đội, dưới đạp)…Những điều thật dễ dàng để nói nhưng sẽ đọng lại hình ảnh tốt của bạn nơi người thân. Trong đời sống gia đình cũng như trên phương diện giao tế, chỉ có ba điều xin bạn ghi nhớ cho:

                      Điều thứ nhất: TỬ TẾ, điều thứ hai: TỬ TẾ, và điều thứ ba: TỬ TẾ. Xin mến chào và chân thành cầu chúc bạn cùng gia quyến: hạnh phúc và mạnh khỏe từng ngày trong cuộc đời của bạn.

                      Và cũng nhân ngày Lễ Tình Nhân 14 tháng 2 (St. Valentine’s Day) sắp tới, tôi xin kể hầu bạn câu chuyện: Tuần Lễ Khen Vợ như sau để chúng ta thực hành trong đời sống vợ chồng (cũng như lúc còn là tình nhân).

                      Người ta kể rằng, có một gã chiếm được hàng trăm trái tim phụ nữ và sau đó chiếm đoạt luôn cả tài sản của họ nên cuối cùng phải vào tù.Một nhà tâm ly’ tò mò đến tận nơi xem hắn có bí quyết gì. Ông ta bất ngờ vì đó là một gã đã luống tuổi, hình thức bình thường, duy chỉ có cái miệng rất duyên.Ông hỏi: “Làm thế nào anh chinh phục được nhiều phụ nữ như vậy?”. Hắn trả lời cụt ngủn: “Có gì đâu- Cứ khen nhiều vào”. Nhà tâm ly’ nổi tiếng người Mỹ, ông Dale Carnegie, thường đi giảng ở các lớp học làm vợ, làm chồng. Một hôm, sau bài giảng về nghệ thuật làm chồng; ông ra bài tập cho học viên về nhà làm. Ông yêu cầu tất cả đàn ông thực hiện “Một Tuần Lễ Khen Vợ”, ngày nào cũng khen từ sáng đến tối. Ông cam đoan sẽ thấy hiệu quả ngay. Học viên chẳng mấy người tin. Có người còn nghĩ là ông nói đùa, nhưng số đông vẫn thử “làm bài tập” xem sao và kết quả thật bất ngờ. Một anh vừa ngủ dậy, nhớ đến bài tập, nói luôn: “Nằm cạnh em sướng thật, mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát”. Vợ tát yêu một cái. Vợ tập thể dục xong, chồng lại khen: “Hồi này trông thần sắc em rất tốt!”. Vợ càng ngạc nhiên vì chưa bao giờ thấy chồng để y’ đến mình. Lúc dọn món ăn sáng ra, anh ta lại xoa hai bàn tay: “Chà, em làm món gì trông ngon thế?”. Vợ sung sướng ngu‎ýt yêu chồng một cái nữa. Ăn xong lại khen: “Anh thấy đi ăn sáng ở đâu cũng chẳng bằng em làm!”. Trước khi đi làm, ngắm vợ một phút, anh lại thốt lên: “Em mặc bộ này trông quá được!”. Không ngờ chỉ trong vòng một tiếng, mới khen có mấy câu mà chưa bao giờ anh ta thấy trên gương mặt vợ lại có những nét hạnh phúc ngời ngời đến thế. Ra đến cửa anh còn quay lại: “Anh đi nhé. Em rất tuyệt!”. Hết tuần, có học viên báo cáo với thầy chỉ sau một “tuần lễ khen”, anh ta được hưởng hạnh phúc hơn 10 năm chung sống cộng lại. Nhưng có một thứ, người vợ nào cũng khao khát thì họ lại quên. Đó là lời khen. Tuy nhiên, nếu vợ đẹp thì khen đẹp, nếu quần áo đẹp thì khen quần áo, nếu ngoại hình không đẹp thì khen công dung ngôn hạnh…miễn sao phải chân thật. Khen bừa lỡ thành mỉa mai thì sẽ tác dụng ngược lại đấy. Ai cũng biết “đàn ông yêu bằng mắt, đàn bà yêu bằng tai”…có anh..còn “dẻo mỏ”: “Em hút hồn anh từ lần đầu mới gặp. Đôi mắt em sao mà sâu thăm thẳm”…Đàn ông Việt Nam thường “quên” nịnh vợ ???. Cầu chúc bạn trọn một đời hạnh phúc.
                      (HẾT) .
                      Last edited by khongquan2; 01-13-2013, 05:57 PM.

                      Comment


                      • #26
                        NGÀY TÌNH NHÂN (Valentine’s Day)



                        Biên khảo: Mây-cao-Nguyên

                        Tiến sĩ Toyotome (người Nhật Bản) đã nói:
                        “Ở đời không ai lại không muốn được yêu, vì nền tảng của một đời sống hạnh phúc chính là sự an bình và thỏa mãn khi được yêu.

                        Tuy nhiên, chúng ta biết rất ít về tình yêu cũng như đường lối đi đến tình yêu. Chẳng mấy khi có ai giải thích cho chúng ta hiểu tường tận tình yêu là gì. Cũng không có mấy ai ghi tên học những lớp về tình yêu. Đã thế, trong phạm vi giáo dục, vấn đề quan trọng và cần thiết này lại thường bị bỏ quên một cách đáng tiếc”.


                        Không ai định nghĩa nổi tình yêu là gì!?. Cách đây không lâu, tôi có đọc một thiên tiểu luận viết về những sự bí mật của con tim của một học giả người Trung Đông, ông Kahlil Gibran (1883-1931), là một thi sĩ, triết gia, nghệ sĩ, đã ra đời trên một phần đất từng sinh sản bao nhiêu nhà tiên tri và phần đất đó hiện đang bừng bừng lửa đạn của chiến tranh Trung Đông: Li-Băng. Hàng triệu người xử dụng ngôn ngữ Arabic đã biết đến ông và coi ông như một thiên tài.

                        Nhưng hơn thế nữa, tiếng tăm ông lan rộng ra khỏi lãnh vực Cận Đông. Thơ, văn của ông đã được dịch ra hơn 20 ngôn ngữ khác nhau. Những sáng tác về hội họa của ông cũng từng được triển lãm ở những thủ đô nổi tiếng trên thế giới và được so sánh, đánh giá ngang với những danh họa của William Blake.
                        Điều đáng nói là trong 20 năm cuối của đời người, ông đã sống ở Mỹ, là nơi ông đã sáng tác bằng Anh ngữ những tác phẩm giá trị để đời.

                        Sau đây, nhân Ngày Lễ Tình Nhân (Valentine’s Day) 14 tháng 2 năm 2013, tôi xin chuyển ngữ một trong những thiên tiểu luận của ông, có một đoạn nói về tình yêu như sau, xin gửi hầu bạn: Vị sứ giả cùng với môn đồ đi lên một đỉnh đồi cao, đang ngồi thiền dưới gốc cây cổ thụ. Bỗng nhiên, có một người con gái xinh đẹp, rụt rè đến gần và hỏi: “Thưa Ngài, tình yêu là gì? Con nghe nói đã nhiều mà chưa bao giờ hiểu được. Con từng thấy những cặp tình nhân tay trong tay đi ngang qua và những cặp vợ chồng già ngồi kề bên nhau bên khung cửa sổ”. Vị sứ giả nhìn cái vẻ ngây thơ của nàng và từ tốn giảng giải:

                        *Tình yêu là đôi mắt của người tình, rượu hồng của tâm trí và chất nuôi dưỡng của con tim.
                        *Tình yêu là một đóa hoa hồng nở rộ vào lúc bình minh, người con gái trinh nguyên hôn và áp nó vào ngực mình.
                        *Tình yêu là kho chứa toàn báu vật, và là nguyên thủy của lạc thú và khởi điểm của sự an bình và trầm mặc.
                        *Tình yêu là nụ cười hiền dịu trên đôi môi của mỹ nhân. Khi người thanh niên đang yêu say đắm quên hết mọi lao khổ và trọn cuộc đời của hắn trở nên một thực thể của những giấc mơ dịu dàng.
                        *Tình yêu là thánh mộ trong tâm hồn của đứa bé được người từ mẫu sùng bái.
                        *Tình yêu như mọi lứa tuổi-xây dựng hôm nay và hủy diệt ngày mai.
                        *Tình yêu như vị thần linh tạo nên những tàn phế.
                        *Tình yêu nhẹ nhàng như tiếng thở của một bông hoa tím.
                        *Đời sống không có tình yêu như cây cối không đơm hoa kết trái..v.v…


                        Học giả Gibran còn cho rằng: “Tình yêu được gột rửa bằng những hạt nước mắt sẽ vĩnh viễn tinh khiết và xinh đẹp. Và tình yêu là sự tự do độc nhất trên trần gian, bỡi vì nó nâng cao thần trí mà những luật lệ của nhân loại và những hiện tượng của thiên nhiên không làm thay đổi hướng đi của nó”.

                        Và một thiên tiểu luận khác cũng không kém phần quan trọng của học giả người Trung Đông, dưới tựa đề: Niềm vui và nỗi buồn, có nội dung như sau: “Có hai người đàn ông mặt mũi hốc hác, tiều tụy, đôi gò má xương xẩu tiến lại, một người cất tiếng hỏi vị Thiền Sư: “Bạch Thầy, hãy dạy cho chúng con biết làm cách nào để xua đuổi nỗi buồn và hiểu được căn nguyên của niềm vui để cuộc đời chúng con bớt đau khổ”.Vị Thiền Sư từ tốn trả lời:

                        *Ta sẽ không đổi nụ cười cho bất cứ loại tài sản nào. Và cũng không biến cải dòng lệ của ta, do bản ngã đau buồn đem lại, để được an bình.
                        *Đây là niềm hy vọng nóng bỏng mà trọn cuộc đời của ta trên quả đất này sẽ mãi là những giọt nước mắt và nụ cười.
                        *Những giọt nước mắt tinh lọc tâm hồn và tiết lộ cho ta sự bí mật của cuộc đời và sự huyền bí của nó.
                        *Nụ cười mang ta lại gần gủi với đồng loại của ta.
                        *Nhờ những hạt nước mắt ta mới hòa nhập được với những kẻ nản lòng, nụ cười tiêu biểu cho niềm vui trên sự hiện hữu của ta.
                        *Sự đói khát triền miên cho tình yêu và vẻ đẹp là niềm ước vọng của ta;
                        *Bây giờ ta mới biết rằng những người chỉ biết tích lủy của cải cho thật nhiều thì thật là khốn khổ, nhưng theo ta nghĩ những tiếng thở dài của những cặp tình nhân êm ái hơn dòng nhạc của chiếc thất-huyền-cầm.
                        *Khi màn đêm buông xuống, những cánh hoa khép lại an ngủ với tình yêu.
                        Và lúc rạng đông, chúng hé mở làn môi để đón nhận những nụ hôn êm ái của mặt trời, được tô điểm rực rỡ do những áng mây thoảng qua.
                        *Kiếp hoa là sự hy vọng, thỏa lòng và an bình; nước mắt và nụ cười.
                        Nước biến mất và bốc hơi cho đến khi biến thành mây tụ lại trên những đồi cao và thung lũng.
                        *Và khi mây gặp gió, nó lại rơi trên những cánh đồng và nhập với dòng suối róc rách chảy ra đại dương.
                        *Đời sống của mây là một đời sống chia ly và kết hợp nước mắt và nụ cười.
                        *Như vậy tinh thần tự lìa bỏ thể xác và bước vào thế giới vô hình, trôi qua như những làn mây trên thung lũng sầu thảm và dãy trường sơn hạnh phúc cho mãi đến khi gặp hơi thở của tử thần và trở về khởi điểm.
                        *Đại dương vô tận của tình yêu và vẻ đẹp đó là Thượng Đế.
                        *Và nắm giữ những sự bí mật từ đó về sau bằng phương tiện của tư tưởng phàm nhân.
                        *Nhưng hãy cứ việc đi thay vì bước vào cánh đồng để xem con ong vo ve trên những cánh hoa thơm, ngọt và con ó nhào xuống bắt mồi.
                        *Bước vào nhà hàng xóm của ngươi để nhìn đứa bé say mê trước ánh lửa, trong khi người mẹ đang bận rộn công việc bếp núc.
                        *Hãy giống như con ong, và đừng phí những ngày xuân xanh châm bẩm vào công việc của con ó.
                        *Hãy giống như đứa trẻ thơ rạng rỡ trước ánh lửa hồng và quên đi người mẹ.
                        *Tất cả những gì ngươi thấy đã và còn đang là, của chính các ngươi.
                        *Hãy tiếp tục đi. Đừng chần chừ, chậm trễ. Đi thẳng đến là đang tiến về sự hoàn hảo.
                        *Thẳng tiến và đừng sợ gai góc hoặc đá nhọn trên bước đường đời.


                        Trước khi bạn đọc tiếp, xin mời bạn đọc những điều sau đây để suy ngẫm:

                        *Muốn đoạt được hạnh phúc trong gia đình, muốn có một người bạn đời ly’ tưởng, việc đó không quan trọng bằng tự hỏi chính mình đã là người ly’ tưởng chưa đã?.
                        *Khó mà thương yêu được một lần thứ hai người mà mình đã hết thương yêu.
                        *Thường thường người ta thường hay nói mối tình đầu là mối tình đẹp nhất, nhưng chính mối tình cuối cùng mới thật sự là mối tình bất diệt.
                        *Những con tim đã hàn gắn với nhau rồi thì không xa cách nữa mà chỉ có thể….xé nát với nhau thôi.
                        *Không bao giờ người ta yêu như người ta đã được yêu bởi vì thế nên muốn đạt được hạnh phúc trong trường tình ái chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi được gì.
                        *Tình yêu chân thật không phân biệt giai cấp, , tuổi tác, địa vị, danh vọng…Nó san bằng tất cả. Nó là vị thân của tình cảm.
                        *Tạo hóa sinh ra người đàn bà gần như chỉ để cho mình nhận được yêu thương hơn là để thưởng thức, như những đóa hoa thơm làm cho những kẻ chung quanh cảm nhận được trước khi chính mình thụ hưởng, người đàn bà thật đúng là những đóa hoa tình ái.
                        *Thường thường ai ai cũng cho rằng tình yêu là sự đồng y’ cả trai gái. Nhưng khổ một điều khi tình yêu tan vỡ bất cứ vì một ly’ do gì thì người đời thường lên án người đàn ông và tỏ lòng thương hại người đàn bà, nếu ngược lại người đàn bà phụ bạc chồng thì người đời lại cho rằng chính vì người đàn ông không biết bảo tồn hạnh phúc.
                        *Không biết bao nhiêu chiếc thuyền tình chứa chan hy vọng, nhưng sau cùng đành tan rã chỉ vì người vợ hay chồng thường hay chỉ trích nhau.
                        *Sợ tình yêu là sợ cuộc sống, và sợ cuộc sống thì đã chết ba phần.
                        *Ái tình thật ra là một chuyện xưa cũ và quá tầm thường, nhưng chính nó cũng là một vấn đề quan trọng nhất của con người.
                        *Tình yêu như danh dự, đã một lần mất đi thì không bao giờ trở lại.
                        *Hãy tin ở tình yêu, dù nó mang đến sự thống khổ chớ khép kín con tim mình.
                        *Tình yêu cắn rứt bạn, xay nghiến bạn, đánh ngã bạn, nhưng hãy mở hồn đón nhận nó.
                        *Những vết thương do tình yêu gây ra dù không làm cho người ta chết, nhưng cũng không bao giờ chữa khỏi được.
                        *Tình yêu là một tình cảm vĩ đại nhất, nó sáng tạo nên điều kỳ diệu, sáng tạo nên những con người mới, nó làm ra những giá trị vĩ đại nhất của con người.
                        *Khi lửa tình đã thôi thúc tung hoành thì ngay cả sương tuyết cũng bốc cháy, ly’ trí cũng bị dục vọng chế ngự.
                        *Trên thế gian chẳng có vị thần nào đẹp hơn mặt trời, chẳng có ngọn lửa nào kỳ diệu hơn là ngọn lửa tình yêu.
                        *Có một người vợ (hoặc người chồng) ngoại tình mà vẫn còn chung sống được là tự đào huyệt chôn mình.
                        *Nuốt được cái cay đắng trong cái cay đắng mới làm được hạng người trên loài người.
                        *Đàn ông hung dữ với ai cũng được trừ vợ ra.
                        *Tình yêu làm cho trái tim chai đá cũng phải hiền dịu.
                        *Nếu một người lừa tôi lần đầu thì sự xấu hổ thuộc về anh ta. Nếu lần thứ hai thì cái ô nhục thuộc về tôi.
                        *Tranh đấu để chống lại trái tim của người đàn bà khó khăn không thua gì uống hết một biển nước..
                        *Trong tình yêu câu nói mà người đàn ông thích nhất là Em Yêu Anh nhưng cũng chính câu nói ấy người đàn bà giết người đàn ông hữu hiệu nhất.


                        Xin bạn hãy nghe đây: “Không ai giàu có hơn kẻ biết tận dụng dấn thân vào việc thể hiện tình yêu; vì mãnh lực là hình thức biểu hiện cao độ niềm khát vọng của con người. Sức mạnh là mối liên lạc giữa sự đòi hỏi và sự đáp ứng những nhu cầu nhân sinh, là kẻ đi tiên phong đề xướng mọi tiến bộ của nhân loại, là phương tiện giúp trí tưởng tượng chấp cánh hành động. Và mọi động lực của tình yêu đều được thánh hóa vì nó mang lại niềm vui tự mãn cho ai thực hiện được nó”.

                        Tình yêu đẹp lắm bạn ạ, như cái ông đại-thi-hào của Pháp quốc: Victor Hugo đã từng van lơn người tình: “Chúng ta mãi mãi yêu nhau nghe em! Tình yêu…như ngọn lửa không thể dập tắt, như bông hoa không bao giờ tàn”. Nhưng, cũng một thi hào người Pháp bị tình yêu đá giò lái mấy cú cũng khá đau, nên đã để lại hai câu thơ thời danh:

                        “Bể tình là cánh đồng hoa,
                        Đố ai mắc phải không sa lệ sầu”.


                        Bạn quí mến, Những điều hoàn mỹ nhất, tốt đẹp nhất trên thế giới không thể nào thấy hoặc ngay cả sờ mó được. Chúng chỉ được cảm nhận với tâm hồn. Tình yêu là một sức mạnh kinh khủng hơn bất cứ một sức mạnh nào khác. Nó vô hình- người ta không thể nào thấy hoặc đo lường. Tuy nhiên, nó đủ mạnh để biến thể con người của bạn trong một giây phút, và dâng hiến cho bạn nhiều niềm vui hơn bất cứ một sự chiếm hữu vật chất nào mà bạn đạt được. Tình yêu chính là bản Thánh ca êm dịu mà nhân loại sùng kính. Tại sao lại có Ngày Tình Nhân (Valentine’s Day) vào tháng Hai mỗi năm?. Nhiều câu chuyện lịch sử rất mơ hồ truyền tụng từ cả nghìn năm pha trộn giữa nguồn gốc tôn giáo và xã hội. Sau cùng hầu hết các nước Tây phương và Mỹ châu đều mừng lễ hội Valentine. Đặt tên theo Thánh Valentine, một Linh Mục Công giáo từ thế kỷ thứ năm ở La Mã, ngày Valentine bây giờ trở nên một ngày đặc biệt được ăn mừng tổ chức khắp nơi trên thế giới.

                        Lịch sử thật về ngày Lễ Tình Nhân không có chắc chắn lắm, các học giả và các sử gia cung cấp những dữ liệu khác nhau về nguyên thủy của ngày lễ này. Nguyên thủy của Ngày Lễ Valentine được người ta tin phát xuất từ buổi hội của hệ phái Lupercalia của La Mã tổ chức mỗi năm vào ngày 15 tháng 2, khoảng thời gian từ 13 đến 15 tháng Hai. 14 tháng 2 sau đó trở nên Ngày của Thánh Valentine, một ngày lễ dành cho các tín đồ Công giáo để tưởng nhớ đến Thánh Valentine. Tất cả các học giả cũng đều đồng y’ chọn ngày này làm ngày tưởng niệm một vị Linh mục đã bị cầm tù và sau đó bị hành quyết vì đã bất tuân lệnh của Hoàng Đế. Linh Mục Valentine đã giúp đỡ cho những vệ binh thành lập gia đình với những người họ yêu mến trong lúc hôn nhân đã bị Hoàng Đế La Mã Claudius II cấm tuyệt, vì ông tin rằng sự gắn bó tình cảm với gia đình sẽ biến họ trở thành những đội quân tồi tệ.

                        Theo truyền thuyết dương gian, Valentine đã si tình người con gái mù lòa con của tên cai ngục và sau đó nhờ phép lạ cô này đã hồi phục lại nhãn quan. Vào ngày ông bị chúng đưa đi hành quyết, ông để lại một tấm thiệp cho người yêu có ghi hàng chữ: “From your Valentine”. Chính ba chữ này vẫn còn xử dụng như muốn nói với nhau rằng: “Anh yêu em” vào ngày Lễ Tình Nhân.

                        Ngày 14 tháng 2 ngày nay không còn là dành riêng cho thời cổ La Mã và những người có gốc công giáo, là ngày chung cho những cặp tình nhân khắp nơi trên thế giới để tổ chức ăn mừng cuộc tình lãng mạn của họ.

                        Đây là thời điểm để họ hiến tặng cho nhau những bó hoa, những hộp kẹo sô-cô-la, những bữa ăn sang trọng đốt đèn cầy, uống rượu…

                        Các tiệm bán hoa chắc chắn vào ngày này rất đắc khách. Tại khu bán đấu giá hoa Aalsmeer ở Tân-Tây-Lan, tọa lạc trong một dãy nhà rộng cỡ chín khu vận động, các thương buôn đã bán hơn 50 triệu cây hoa hồng và 22 triệu bó hoa cắt sẵn. Phần lớn các thương buôn này mua đấu giá được sau đó họ sẽ xuất cảng đi khắp nơi để kiếm lời. Một mệnh phụ tại Dubai (Trung Đông) đã đặt mua một trăm năm chục ngàn hoa hồng.

                        Hãng đấu giá này có sự tiếp tay của những nhà trồng tỉa gồm có 3500 thành viên ngay trong xứ Tân-Tây-Lan, nhưng cũng có những quốc gia khác như: Israel, Kenya, Zambia và Zimbabwe cũng gửi sản phẩm của họ qua đây để bán đấu giá.

                        Không phải chỉ có ngành kinh doanh về hoa được mua bán phát triển hàng năm; người ta ước lượng rằng trên một tỷ thiệp mừng được những cặp tình nhân gửi cho nhau vào cái ngày lãng mạn này để bày tỏ tình yêu của họ trao cho nhau.

                        Còn một truyền khác, tôi xin kể hầu bạn: Vào thế kỷ thứ ba, từng bày sói đói chạy rong quanh thành La Mã (Rome) bắt trộm cừu. Theo tin tưởng của các người chăn cừu thời bấy giờ, Thần Lupercus là vị Thần bảo vệ các mục tử và bầy cừu. Mỗi tháng Hai người La Mã tổ chức mừng lễ Thần Bảo Vệ họ gọi là Lupercalia để kính Lupercus cầu mong Thần sẽ canh giữ họ và bầy cừu được bình yên trong năm. Cũng trong ngày lễ này để kính nữ thần Juno Februata, vợ của thần Jupiter là vị thần lớn nhất trong các vị thần, tương đương như thần Zeus trong thần thoại Hy Lạp, tên các thiếu nữ được ghi và bỏ vào một hộp để các chàng trai rút thăm. Những thanh niên thiếu nữ trúng thăm sẽ thành đôi bạn trong suốt năm, khởi đầu từ tháng Ba.

                        Khi Ki-Tô Giáo bành trướng, các giáo sĩ tìm cách thay thế các phong tục này, lễ kính thần bảo vệ mục tử và bầy cừu được thay thế bằng Lễ Thánh Valentine. Các thanh niên nam nữ cũng rút thăm, nhưng thay vì tên bạn gái, bạn trai, thì các thanh niên sẽ rút thăm tên các thánh nam, các thiếu nữ rút thăm tên các thánh nữ, để noi gương các ngài trong suốt năm.

                        Đến thế kỷ thứ tư thì tục lệ cũ lại trở lại, các thanh niên lại rút thăm tên các thanh nữ để làm bạn với nhau trong năm cho mãi tới thế kỷ 16 các giáo sĩ lại cố gắng tạo một tục lệ noi theo gương thánh như giáo hội đã làm vào thế kỷ thứ ba, nhưng cũng không thành công.

                        Theo truyền thuyết Thiên Chúa Giáo thì có bảy người mang tên Valentine, có những hành động tốt đáng kính. Một trong những truyền thuyết đó là Thánh Valentine, một linh mục dưới triều đại hoàng đế Claudius. Ngài được kẻ giàu, người nghèo, người trẻ người già, nam nữ nói chung từ tất cả mọi tầng lớp kính mến. Vào thời hoàng đế Claudius đang bắt lính gắt gao để sai đi đánh các nước phương xa. Vì ít ai tình nguyện đi nại cớ vướng bận gia đình, vợ con. Hoàng đế tức giận ra lệnh đình chỉ chuyện lập gia đình và hủy bỏ các cuộc hứa hôn.

                        Linh Mục Valentine cho là sai trái vông bằng, và ngài vẫn tiếp tục cử hành các hôn lễ. Hoàng đế biết được bèn ra lệnh giam tù ngài cho đến chết.

                        Theo truyền thuyết khác, trong thời gian bị tù ngài chữa bệnh mù cho con gái viên coi tù và giúp cô vào đạo. Hoàng đế giận dữ sai quân lính đánh và chém đầu vào ngày 14 tháng 2 năm 269.

                        Cũng có truyền thuyết từ trong tù Valentine thường thư từ liên lạc với cô gái viên cai tù, thường ký tên: “Từ Valentine của bạn”. Có lẽ vì câu này mà sau này người ta thường viết thư chúc tụng, tỏ dấu yêu mến nhau, thường lấy câu này để gián tiếp tỏ tình yêu mến của mình với một người nào đó, từ Valentine của bạn, từ một người ái mộ bí mật…

                        Năm 496, Giáo Hoàng Gelasius tuyên bố mừng Lễ Thánh Valentine, quan thầy các cặp đính hôn, hay những người muốn lập gia đình. Trong dịp lễ này những người thân trao đổi thư từ yêu thương.
                        Nói chung, tập tục này rất hay, tạo cơ hội cho mọi người tỏ lòng quí mến của mình đối với những người thân yêu, không cần đồ sộ, xa hoa, không cần phải loè loẹt, phung phí, chỉ một đôi dòng, một chút quan tâm, một chút thương yêu, quí mến cũng đủ.

                        Tôi xin chân thành cầu chúc bạn một ngày Lễ Tình Thương, một mùa thương yêu, trọn đời yêu đương bên người yêu, người thân, vợ chồng, con cái và bạn hữu các nơi.

                        Nhân ngày Lễ Tình Nhân, chúng ta hãy cùng nhau suy ngẫm những điều sau đây:

                        *Đừng quay lưng lại với tình yêu khi nó đang ở trước mặt bạn. Đừng đẩy tình yêu đi xa bởi nếu làm thế, một ngày nào đó bạn sẽ nghĩ rằng: “Tại sao mình lại để tình yêu bay đi?”.
                        *Khi thật sự quan tâm đến một người, bạn sẽ không lo tìm kiếm khuyết điểm, không chú y’ đến câu trả lời, không săm soi những lỗi lầm của người họ. Thay vào đó, bạn đấu tranh với sai sót, chấp nhận khuyết điểm và không cần đến những lời bào chữa.
                        *Con người không ai là hoàn hảo. Không có gì bảo đảm rằng bạn sẽ tìm được một người theo đúng những gì bạn đã vẽ ra.
                        *Nếu thật sự yêu thương và trân trọng ai đó, hãy làm cho họ hiểu và ở bên bạn.
                        *Dù có thành công hay thất bại, bạn cũng không có gì để hối tiếc vì đã không sống và yêu hết mình.
                        *Hãy cho những người yêu thương mình và chính mình một cơ hội. Đừng bỏ cuộc quá sớm khi mọi thứ vẫn còn có thể!.
                        *Tương lai tươi sáng thường dựa trên quá khứ đã quên lãng.
                        *Bạn không thể sống thanh thản nếu bạn không vứt bỏ mọi nỗi buồn đã qua.
                        *Đừng bao giờ nói không còn yêu nữa nếu nước mắt của người kia vẫn có thể giữ chân bạn.
                        *Đừng khóc vì mọi việc đã qua, hãy cười vì mọi việc đang chờ phía trước.
                        *Đừng chạy theo vẻ bên ngoài hào nhoáng, nó có thể phai nhạt theo thời gian.
                        *Đừng chạy theo tiền bạc, một ngày kia nó cũng sẽ mất đi.
                        *Bạn chưa cần đến 3 giây để nói: “I Love You”, chưa đến 3 phút để giải thích câu nói ấy, chưa đến 3 ngày để cảm nhận được y’ nghĩa của nó, nhưng để chứng minh câu nói đơn giản ấy thì cả cuộc đời vẫn là chưa đủ.
                        *Cũng như vậy: chỉ cần thời gian một phút thì bạn đã có thể cảm thấy thích một người. Một giờ để mà thương một người. Một ngày để mà yêu một người. Nhưng mà bạn sẽ mất cả đời để quên một người.
                        *Hãy làm những gì bạn muốn làm, mơ những gì bạn muốn mơ, tới đâu bạn muốn tới, trở thành những gì bạn muốn, bởi bạn chỉ có một cuộc sống và một cơ hội để làm tất cả những gì bạn muốn.
                        *Sự xa cách, làm phôi phai tình yêu hời hợt và làm thắm nồng thắm thêm tình yêu tha thiết, như cơn gió thổi tắt ngọn nến và làm bùng cháy lên đống lửa.
                        *Ai cũng có khúc nhạc lòng. Nếu biết lắng nghe chúng ta có thể nghe được tiếng hát của lòng nhau.
                        *Có một sự thật l2 bạn sẽ không biết bạn có gì cho đến khi đánh mất nó. Nhưng cũng có một sự thật khác là bạn cũng sẽ không biết mình đang tìm kiếm cái gì cho đến khi có nó.
                        *Tình yêu không phải là cách bạn quên như thế nào mà là việc bạn tha thứ ra sao, không phải là bạn đã thấy những gì mà bạn cảm nhận về điều đó ra sao và hơn hết, không phải là bạn để họ ra đi như thế nào mà là bạn đã cố gắng giữ họ lại chưa.
                        *Tại sao bạn nhắm mắt khi ngủ? Khi tưởng tượng? Khi hôn? Và khi cầu nguyện?. Đó là bởi vì những điều tốt đẹp nhất trên thế gian này không thể nhìn thấy được.


                        Các triết gia, văn, thi sĩ và những đầu óc vĩ đại đều nhìn nhận: ‘‘Tình yêu như một liều thuốc trường sinh hàn gắn những vết thương lòng của nhân loại’’. Một văn hào Mỹ đã phát biểu quan điểm của ông như sau: ‘‘Tình yêu chính là chiếc cầu vòng giữa cuộc đời đầy mây đen u ám. Nó là buổi mai và là ánh sao hôm. Chiếu giải trên muôn người, và trải những tia sáng trên mộ huyệt thâm u. Nó là mẹ của nghệ thuật, là nguồn cảm hứng của thi ca, của nhà ái quốc và của triết gia. Nó là không khí và ánh sáng của mọi trái tim, là kẻ xây dựng nên những mái ấm, là kẻ thắp lên ngọn lửa trong mỗi trái tim. Nó đã là kẻ đầu tiên mơ tưởng đến cõi bất diệt. Nó rót nhạc du dương đầy tràn thế giới, vì âm nhạc là tiếng nói của tình yêu. Tình yêu là một nhà ảo thuật, một kẻ quyến rũ, biến đổi những vật vô giá trị thành nguồn vui, và lấy đất sét tầm thường tạo nên những vị đế vương, những nữ hoàng. Nó là mùi hương của đóa hoa tim kỳ lạ, và không có đam mê thánh thiện đó, không có phút ngất ngây kỳ diệu ấy, chúng ta không còn bằng cầm thú, nhưng với tình yêu, trái đất là thiên đường và chúng ta là những vị thần linh. Tình yêu là sự hóa thân. Nó cao thượng, thánh hóa và đáng được tôn vinh....tình yêu là một mặc khải, một sáng tạo. Thế giới phải mượn vẻ đẹp của tình yêu và thiên đường cũng phải mượn vinh quang của tình yêu. Công ly’, sự hiến thân, bác ái và tình thương là con đẻ của tình yêu....Không có tình yêu, mọi vinh quang đều phai mờ, những tráng lệ nguy nga đều sụp đổ khỏi gian trần, nghệ thuật chết rũ, âm nhạc mất hết y’ nghĩa và chỉ còn là những chuyển động của không gian, và nhân đức cũng chẳng còn tồn tại’’.

                        Để kết thúc tiểu đề viết về Ngày Tình Nhân, xin mời bạn đọc sự nhận định của ông Henry Drummon, ông đã viết một bài luận án nổi tiếng về tình yêu dưới tựa đề: “Một điều vĩ đại nhất trên thế giới: Tôi chưa bao giờ gặp một người nào bất đồng với định đề tình yêu là một điều vĩ đại nhất trên thế giới, nhưng tôi thường nói chuyện với những người thất vọng bỏ công đi tìm nó. Những hệ lụy nhân sinh mà con người đem đến cho nhau trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày không phải là ít, vì cá tính của mỗi người không ai giống ai hết. Tình yêu đến không phải cho những người chỉ có vóc dáng xinh đẹp hoặc tài năng- Xinh đẹp và tài năng không bao giờ làm cho những sự liên hệ gắn bó lâu dài. Tình yêu là một điều mà bạn cần phải làm, phải hành động, và phải khổ công mới có được....”.

                        Một bác sĩ tâm lý khác cũng khá nổi tiếng, ông Viktor Frankl, gốc Do Thái, bị Đức Quốc Xã bắt cầm tù trong hơn ba năm và bị chuyển từ trại tập trung này đến trại tập trung khác, nhiều lần đã kể lại rằng ông đã khám phá một phương pháp để sống sót là cạo râu mỗi buổi sáng, cho dầu bạn có bệnh cách mấy đi nữa cũng mặc, không có dao cạo râu cũng phải dùng một miếng mảnh chai bể để cạo. Bỡi vì, mỗi buổi sáng, tù nhân đứng sắp hàng để điểm danh, những tù nhân bệnh hoạn không thể đi làm lao động đều bị đưa vào lò hơi ngạt. Nếu bạn cạo râu, và mặt mày nhẵn nhụi, bạn sẽ có cơ may thoát được bàn tay của tử thần trong ngày hôm đó.

                        Thân thể của họ càng ngày càng tiều tụy vì chỉ được phát hai lát bánh mì mỏng và một loon cháo lỏng. Chín người tù chen chúc nhau trên một tấm ván trần trụi bề ngang hai thước và chung nhau hai tấm mền. Vào lúc ba giờ sáng ba tiếng còi lạnh người đánh thức tù nhân thức dậy để đi lao động.

                        Một buổi sáng khi đoàn tù tiến ra để làm đường rầy xe lửa cách xa trại tập trung hàng dặm trong cơn giá buốt, bọn cai tù quát tháo, chửu bới và dùng báng súng đánh đập hối thúc. Người nào bị đau chân được người bạn bên cạnh dìu cho đi. Người tù đi cạnh bác sĩ Frankl, che miệng trong cổ áo kéo cao, thì thầm: “Nếu vợ con chúng ta có thể chứng kiến được cảnh này bây giờ! Tôi hy vọng họ sẽ được đối xử khá hơn trong trại của họ và không biết điều gì đang xãy ra cho chúng ta đây”.

                        Bác sĩ Frankl viết: “Ý tưởng này đã mang lại hình bóng thân yêu của vợ tôi trong tâm trí. Và trong khi chúng tôi lầm lủi đi hàng dặm đường, trượt ngã trên những tảng băng, dìu dắt, và lê lết té lên, té xuống, không có gì đáng nói, nhưng cả hai chúng tôi đều biết; mỗi một chúng tôi đang nghĩ đến người vợ yêu quí của mình.

                        Thỉnh thoảng tôi nhìn lên trời, những vị hành tinh đang bắt đầu nhạt nhòa và tia nắng hồng ban mai đang ló dạng đàng sau những cụm mây xám. Nhưng tâm trí của tôi gắn bó với hình ảnh dịu dàng, xinh đẹp của người vợ hiền. Tôi nghe được tiếng hồi đáp, thấy được nụ cười, một ánh mắt nhìn thẳng thắn và an ủi của nàng đang động viên tinh thần của tôi.

                        Một ý tưởng làm cho tôi sững sờ: lần đầu tiên trong đời, tôi đã thấy được chân lý đã được các thi nhân dệt thành những áng thơ tuyệt vời và được các nhạc sĩ phổ thành nhạc, và cũng đã được các triết gia ca tụng qua những mỹ từ bất hủ.

                        Chân lý - rằng tình yêu là mục tiêu tối hậu và cao cả nhất mà con người ước ao, mong mỏi. Rồi từ đó tôi đã nắm được cái ý nghĩa của sự bí mật lớn lao nhất mà thi văn, tư tưởng và niềm tin đều có cùng một điểm tương đồng: “Cứu vớt linh hồn của nhân loại là xuyên qua tình yêu và trong tình yêu”.
                        Nếu tất cả chúng ta coi tình yêu là mục tiêu tối hậu trong cuộc sống và tin tưởng trong những khả năng hầu như vô giới hạn để ban phát và đón nhận nó, thì cuộc đời có thể sống trong niềm vui bất tận.


                        MÂY-CAO-NGUYÊN
                        Last edited by khongquan2; 02-13-2013, 07:55 AM.

                        Comment


                        • #27
                          Nụ cười

                          .
                          NỤ CƯỜI

                          Biên khảo: Mây-Cao-Nguyên


                          Bạn có biết: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ; Và nụ cười có thể biến đổi máu huyết và trí tuệ ?”. Như vậy, tại sao chúng ta không cười cho thật nhiều để cho đời lên hương?.
                          Tôi muốn thấy nụ cười tươi thắm trên môi bạn khi đọc những câu chuyện vui sau đây:

                          *Ăn thịt:
                          Cha con bộ tộc ăn thịt người đi săn, đứa con trai bắt được một người ốm, ông bố nói: -Thả đi, không có thịt.
                          Đứa con lại bắt được một người mập, ông bố nói: -Thả đi, ngán lắm.
                          Lát sau đứa con bắt được một cô gái đẹp, ông bố nói: “Đem về nhà, tối nay làm thịt mẹ mày!


                          *Tình già:
                          Một cặp vợ chồng già đang ngồi xem TV, bà cụ nói nhỏ bên tai chồng: -Này ông à! Tui nhớ ngày xưa, mỗi lần hun tôi, ông hay cắn nhè nhẹ vành tai tui, nhồn nhột, thích lắm!. Lâu rồi, ông không còn làm như vậy với tui nữa.
                          Nghe nói, cụ ông ứ hự một tiếng rồi dùng hai tay chỏi lên đầu gối đứng dậy bỏ đi, khiến bà cụ ngạc nhiên-Ủa, sao ông lại bỏ đi?.Cụ ông nhăn mặt, trả lời: -Thì bà cũng phải để tui đi lấy hàm răng giả đã chứ.

                          *Con khỉ già:
                          Một cặp vợ chồng già, đã gần đất xa trời mà còn dẫn nhau ra tòa xin ly dị.
                          Quan tòa hỏi: -Hai ông bà đã già quá rồi, sao không sống chung với nhau cho có bạn mà đòi ly dị?.
                          Bà vợ già trả lời: -Thưa quy’ tòa. Tôi không thể nào sống chung với ông ấy vì đã có lần ông ấy nói tôi giống như con khỉ già.
                          Quan tòa cố nhịn cố nhịn cười hỏi: -Thế câu chuyện đã xảy ra bao lâu rồi?.
                          -Thưa đã hơn hai mươi năm.
                          Quan tòa ngạc nhiên: -Đã hơn hai mươi năm mà bây giờ mới đưa nhau ra tòa?.
                          Bà vợ già trả lời: -Thưa, khi còn ở Việt Nam, ngày tối tôi phải lo việc bếp núc không được đi đây đó. Qua Mỹ, tôi được đứa cháu nội dẫn đi sở thú, tôi mới biết mặt con khỉ già như thế nào.

                          *Người vợ nói với người chồng:
                          -Anh buồn cười thật, khách khứa sắp đến rồi mà anh vẫn mặc quần đùi thế à?
                          Người chồng trả lời: -Cứ để khách đến để họ thấy em cho anh ăn uống như thế nào.
                          Người vợ liền nói: -Vậy thì anh cởi hết cả ra để họ thấy rằng có cho anh ăn uống tử tế cũng chả để làm gì.

                          Thôi, cười như vậy đủ rồi. Trong thế giới phiền muộn nầy, đa số chúng ta đã quên hẳn nụ cười. Con người càng già càng trở nên nghiêm nghị và khó tính.
                          Một phần của tuổi thơ ấu tuyệt vời, chúng ta không còn nhớ đến nó nữa. Bạn thử tưởng tượng xem một đứa bé đang bò trên sàn nhà, nhặt món đồ chơi bỏ vào miệng, đánh rớt và cười khúc khích một cách khoái chí. Khi nó cười, cái miệng chưa mọc răng đang mở lớn, đôi mắt híp lại nhìn người mẹ, biểu lộ một niềm vui tràn trề, bất tận. Nếu người mẹ đáp ứng, cổ võ, nó hét lên sung sướng, vỗ tay reo mừng và lại bò thật nhanh chung quanh phòng đến khi nó tìm thấy một món đồ chơi khác đập vào mắt.
                          Khi trưởng thành, nhu cầu của chúng ta trở nên phức tạp hơn khi còn bé thơ. Đứa bé đói, khát, người mẹ mang lại cho nó chai sữa. Nhu cầu đòi hỏi của người lớn không đơn giản như vậy. Càng tham vọng chừng nào, chúng ta càng trở nên bất mãn, sầu khổ vì những sự việc đã không xảy ra đúng như ước nguyện của mình. Vì vậy, bạn cứ lầm lủi đi tìm.
                          Trước khi mời bạn tìm hiểu về lợi ích của NỤ CƯỜI. Triết gia La Bruyère đã từng khuyên: “Hãy cười trước khi được hạnh phúc, kẻo chết mà chưa kịp cười”.

                          Tôi xin gửi hầu bạn những điều sau đây để chúng ta cùng suy ngẫm:

                          *Mọi người có thể trở nên vĩ đại…bởi vì bất cứ người nào cũng có thể phục vụ. Bạn không cần phải có bằng cấp cao học để phục vụ. Bạn không cần phải tạo ra chủ đề và động tự ưng y’ để phục vụ. Bạn chỉ cần có tấm lòng ngập tràn từ ái. Một linh hồn tỏa rộng tình thương yêu.
                          *Thế giới cần hàng triệu triệu những hành động của sự tha thứ và lòng ăn năn, hối cải để tẩy sạch những ghét bỏ, giận hờn và cay đắng trong cuộc sống.
                          *Không có sự bí mật nào dẫn đến sự thành công. Đừng lãng phí thì giờ tìm kiếm. Thành công là kết quả của sự hoàn hảo, làm việc cần cù, học hỏi từ sự thất bại, trung thành với những người mà bạn làm việc cho họ, và kiên trì.
                          *Đừng bao giờ, đừng bao giờ, đừng bao giờ, đừng bao giờ lùi bước.
                          *Nếu bạn kiên nhẫn trong một lúc giận dữ, bạn sẽ thoát được cả trăm ngày sầu khổ.
                          *Cá nhân sống mà không quan tâm đến đồng loại của mình, là những người có những sự khó khăn nhất trong cuộc sống và gây ra tổn thương lớn nhất cho những người khác. Những sự thất bại của nhân loại nẩy sinh do những thành phần đó.
                          *Tình bạn giống như trương mục ở ngân hàng. Bạn không thể tiếp tục rút tiền ra xài mà không chịu ky’ thác tiền vào đó.
                          *Cố nữ Thủ Tướng Do Thái, bà Golda Meir, đã nói: “Tôi luôn luôn cảm thấy hối tiếc cho những người sợ hãi cảm giác, cảm tình, những người không thể khóc với tất cả tâm hồn của họ. Bởi vì, những người không biết khóc như thế nào cũng không biết cười như thế nào”.
                          *Một câu chuyện kỳ thú: Có một người đến quỳ trước mặt Thượng Đế với cõi lòng chán nản, u sầu vì đau khổ và bất công trên cõi trần gian nầy.
                          Ông ta khóc lóc và tâu với Ngài: “Chúa từ ái kính yêu, xin Ngài hãy nhìn con cái của Ngài đang kêu la thảm thiết vì buồn đau, chán nản…Sao Ngài không ban phát cho chúng con một sự giúp đỡ nào hết vậy?”.
                          Thượng Đế mới trả lời: “Ta đã ban phát sự giúp đỡ rồi đấy chứ: Ta đã gửi nhà ngươi xuống đó”.
                          *Nữ Thánh Teresa đã từng nói, khi Mẹ còn sinh tiền: “Hãy trải rộng tình thương ở khắp mọi nơi mà bạn đi: trước hết trong gia đình của chính bạn. Ban phát tình thương cho con cái, cho vợ hoặc chồng, cho người hàng xóm bên nhà…Hãy tạo cho những người đã đến với bạn lúc chia tay để họ cảm thấy tốt đẹp, vui vẻ và hạnh phúc hơn. Hãy biểu lộ một cách sống động lòng nhân từ của Thượng Đế; Sự từ ái phải được biểu lộ trên mặt, trên đôi mắt, trên nụ cười và trên sự tiếp đón nồng nhiệt của bạn”.
                          *Điều quan trọng nhất người cha có thể hy sinh và làm cho con cái của ông là: Yêu thương mẹ chúng nó.
                          *Nhà quy’ tộc Nelson, anh hùng Hải Quân nổi tiếng của Hoàng Gia Anh, suốt đời khổ sở vì bị say sóng. Không cần phải nói, người đã từng hủy diệt hạm đội của Hoàng Đế Napoleon đã không để cho căn bệnh này ảnh hưởng đến sự nghiệp của ông. Ông không những học hỏi để sống với sự yếu đuối có tính cách cá nhân này, ông đã chinh phục được nó.
                          Đa số chúng ta cũng đều có “những sự say sóng” nhỏ bé của chính chúng ta. Vài bệnh thuộc về thể xác, vài bệnh thuộc về tâm ly’. Thường thường, đây là một cuộc chiến tranh riêng tư, cưu mang một cách thầm lặng từ nội tâm của chúng ta. Không có ai sẽ gắn huy chương cho chúng ta nếu chúng ta chiến thắng, nhưng không có gì làm mờ đi sự thỏa mãn khi biết rằng chúng ta đã không đầu hàng nó.
                          *Thật sự, có một điều là bạn đừng bao giờ nên làm. Bao lâu bạn còn sống trên quả đất nầy, đừng bao giờ thôi không còn tin tưởng vào chính mình.
                          Đấng Tạo Hóa đã tạo ra con người, và Ngài không tạo ra bất cứ thứ gì xấu xa. Khi Ngài sáng tạo ra loài người, Ngài tạo ra con người tốt, rất tốt. Và, vì vậy, bạn có quyền giữ vững y’ kiến cao cả cho chính mình. Một sự tự trọng tốt và lành mạnh thì bình thường và công chính. Vì vậy, hôm nay và mãi mãi về sau bạn sẽ có mỗi ngày và một cuộc đời tươi đẹp.
                          *Để có một tinh thần lành mạnh và sống một cách thành công, mỗi một người trong chúng ta phải tránh xa những thất bại và những lỗi lầm trong quá khứ đừng để chúng đè nặng lên tâm trí.


                          Đừng bao giờ vương vấn với những chữ “NẾU”, phải tự hỏi “LÀM CÁCH NÀO”. Quên đi là một sự cần thiết tuyệt đối cho một tương lai thành công. Mỗi đêm, khi đi ngủ, thực tập vứt bỏ tất cả những sự thất bại và những lỗi lầm vào trong quá khứ. Chúng đã qua, đã chấm dứt rồi. Nhìn một cách tự tin vào tương lai. Ngủ một giấc ngủ an bình. Thượng Đế, Phật Trời sẽ cho bạn những cơ hội mới mẽ vào mỗi buổi sáng.
                          Bạn quy’ mến, Có một thứ ngôn ngữ mà tất cả con người trên quả đất này đều nói chung: Đó là nụ cười. Cười với nhau, cười với vợ, với chồng, với con cái, với bạn bè- Cười với người dưng, nước lã không kể họ là ai; khi bạn cười cả thế giới này đều cười theo bạn. Và chính điều đó làm cho bạn trưởng thành về tình yêu thương bao la mà bạn dành cho mọi người.

                          Văn hào Antoine de Saint-Exupery đã từng là một phi công chiến đấu chống lại phát-xít Đức và bị tử thương tại chiến trường. Ông đã viết một câu chuyện thích thú dựa vào kinh nghiệm bản thân dưới tựa đề: Le Sourire (Nụ Cười). Tôi xin chia sẻ cùng bạn. Không biết đây có phải là câu chuyện thật hay do óc tưởng tượng phong phú của một nhà văn. Tôi nghĩ tưởng tượng thì đúng hơn.
                          Ông kể ông bị bọn Đức Quốc Xã bắt cầm tù. Nhìn nét căm hờn và sự đối xử cay nghiệt của bọn cai tù ông đoán sẽ bị chúng đem đi hành quyết vào ngày hôm sau. Ông ta kể lại: “Tôi biết chắc tôi sẽ bị chúng giết. Tôi trở nên căng thẳng tột cùng và gần như điên cuồng. Tôi soát lại trong túi áo tù để xem còn điếu thuốc nào sót lại sau khi chúng lục soát hay không. Tôi tìm được một điếu và vì tay quá run nên không thể gắn nó lên ôi…Tôi lại không có diêm quẹt và đã bị chúng lấy hết rồi.
                          Tôi nhìn qua khung cửa nhà giam. Tên cai tù không nhìn tôi. Sau hết, hắn đứng như một xác chết. Tôi gọi hắn: “Thầy cai ơi! Có lửa đốt thuốc cho xin chút?”. Hắn nhìn tôi, nhún vai và đến mồi thuốc cho tôi.
                          Hắn tiến lại gần và bật diêm cho tôi đốt thuốc, đôi mắt của hắn xoắn vào mắt tôi. Giây phút nầy, tôi đã cười. Tôi không biết tại sao tôi hành động như vậy. Có thể do quá căng thẳng, có thể bỡi vì, khi bạn đến quá gần với nhau, thì khó mà không cười với nhau được. Trong bất cứ trường hợp nào thì tôi cũng đã cười. Trong khoảnh khắc đó, hình như một tia lửa vô hình nào đó zẹt qua cái khoảng cách giữa hai tâm hồn của chúng tôi, hai linh hồn con người. Tôi biết hắn không muốn vậy, nhưng nụ cười của tôi đã xuyên qua những song sắt và phát ra nụ cười trên đôi môi của hắn. Hắn đốt thuốc cho tôi nhưng đứng thật gần, nhìn thẳng vào mắt tôi và tiếp tục cười.
                          Tôi tiếp tục cười với hắn ta, bây giờ tôi y’ thức được hắn là một con người không phải là tên cai ngục. Và tia nhìn của hắn hình như ở một bình diện mới mẻ. Hắn hỏi tôi: “Ông có conb không?”.
                          “Có, đây, đây.” Tôi rút trong ví và hồi họp run rẩy lấy tấm hình gia đình cho hắn xem. Hắn cũng vậy đã đưa cho tôi xem những tấm hình các con của hắn và bắt đầu nói chuyện về những kế hoạch và niềm hy vọng mong mỏi của hắn về tương lai của những đứa con. Nước mắt tôi ràn rụa. Tôi nói tôi sợ không có hy vọng gì để nhìn lại được gia đình, sẽ không bao giờ được cơ hội nào để nhìn mặt lại con cái. Đôi mắt hắn cũng rưng rưng ngấn lệ.
                          Bỗng nhiên, không nói lấy một lời, hắn mở cửa nhà giam và thả tôi ra. Ra khỏi nhà giam, rón rén và bằng những con lộ phía sau để trốn ra khỏi tỉnh lỵ.
                          Nụ cười đã cứu thoát đời tôi.

                          Vâng, chính nụ cười-không kiểu cách, không mưu tính, một sự gắn bó tự nhiên giữa con người. Tôi xin kể câu chuyện này trong hành động của tôi, bởi vì, tôi muốn mọi người nhận thức dưới những lớp vỏ mà chúng ta tạo nên để tự bảo vệ, phẩm cách, chức tước, bằng cấp, địa vị và nhu cầu mà con người hằng thấy theo những phương cách nào đó- dưới tất cả những điều đó, vẫn còn duy trì một bản ngã đích thực thiết yếu. Tôi không sợ gọi nó là linh hồn. Tôi thật sự tin tưởng rằng nếu một phần của bạn và một phần của tôi có thể y’ thức lẫn nhau, chúng ta không còn là kẻ thù. Chúng ta không còn ghét bỏ hoặc ganh tỵ hoặc sợ hãi lẫn nhau. Tôi rất buồn mà kết luận rằng tất cả những lớp vỏ nói trên, chúng ta đã cấu tạo chúng trong suốt cuộc đời của chúng ta, xa lánh và cô lập chúng ta trong sự liên hệ trực tiếp với tha nhân.

                          Câu chuyện mà bạn vừa đọc của văn hào Saint Exupery nói lên cái giây phút kỳ ảo giữa hai linh hồn đồng điệu.
                          Tôi vừa mới có được những giây phút giống như vậy. Yêu thương là một ví dụ. Và nhìn đứa bé đang chập chững biết đi. Tại sao chúng ta vui cười hớn hở và vổ tay khi chúng ta nhìn thấy đứa bé? Có lẽ, bởi vì, chúng ta chứng kiến một sinh vật ngây thơ, trong trắng không có lấy một lớp vỏ giả dối bao che.
                          Mong sao tâm hồn thơ ngây của đứa bé luôn luôn ngự trị trong lòng của mỗi người lớn chúng ta.
                          Chúng ta thường chẳng bao giờ mỉm cười mà không có một ly’ do này nọ. Và vì thế chúng ta đánh mất đi rất nhiều nụ cười quý giá mà lẽ ra ta dễ dàng có được. Thật ra chỉ riêng việc chúng ta đang còn được hít thở không khí tươi mát giữa cuộc đời này cũng đã là một l‎ý do quá đủ để chúng ta mỉm cười.
                          Buổi sáng vừa thức dậy là lúc tốt nhất để chúng ta cười- bởi qua một đêm dài, ta thức dậy và biết rằng mình vẫn đang sống. Ngoài kia mặt trời đang lên, những con chim đang hót, bông hoa đang hé nở và những chồi non đang nhú cao.
                          Cuộc sống tươi đẹp và nhiệm mầu đến thế và ta đang có được cơ hội có thể là duy nhất này để sống với tất cả. Vì thế tại sao ta lại không mỉm cười?
                          Mỉm cười vào buổi sáng mang đến cho chúng ta sự tốt lành mà không gì có thể thay thế được, vì khi ta bắt đầu một ngày mới bằng niềm vui tức là ta đã khơi mở cho bao nhiêu niềm vui khác. Ta sẽ mở rộng lòng hơn với mọi người chung quanh và cũng khoan dung độ lượng hơn với chính bản thân mình.
                          Nụ cười là biểu hiện của niềm vui, vì thế nó giúp xua tan đi sự buồn chán, mệt mỏi. Nó cũng giúp ta trấn tĩnh trước những lo âu, hoảng loạn. Khi ta mỉm cười, ta ý thức đúng về những giá trị của cuộc sống, và vì thế mọi lo toan đều sẽ trở thành vụn vặt. Ta sẽ làm hết sức để vượt qua những khó khăn trở ngại, nhưng ta sẽ không bao giờ để cho những điều ấy ngăn trở nụ cười, ngăn trở niềm vui của ta. Nếu ta đánh mất nụ cười vì những khó khăn, điều đó có nghĩa là ta đang làm cho mọi việc trở nên tệ hại hơn mà thôi.

                          Khi ai đó mỉm cười, người ấy cũng mang lại sự bình thản, tin cậy cho mọi người chung quanh. Khi ai đó mỉm cười, ta nên chia sẻ niềm vui cùng người ấy. Vì thế, ta cũng sẽ mỉm cười. Ta mỉm cười vì mọi người quanh ta đang vui và mọi người quanh ta vui vì ta mỉm cười. Cuộc sống là một sự liên kết nhiệm mầu mà chúng ta không bao giờ có thể tìm được hạnh phúc thật sự khi ta chưa nhận ra mối liên kết ấy.
                          Không chỉ có con người mới có nụ cười. Cây cối xanh tươi vươn lên vì chúng đang mỉm cười. Khi một cây xanh héo rũ, ta biết nó đang thiếu vắng nụ cười. Một bông hoa luôn mỉm cười trong suốt thời gian tồn tại ngắn ngủi của nó, và chỉ từ bỏ nụ cười khi không còn giữ được nhựa sống để tươi nguyên.
                          Thiên nhiên quanh ta tươi đẹp, vì tất cả đều đang mỉm cười. Vạn vật đều sống theo cách tốt nhất mà nó có thể. Chỉ có chúng ta đôi khi đã buông bỏ tự nhiên để chạy theo những tham vọng trong cuộc sống, thay vì tận hưởng nó.

                          Khi chúng ta mỉm cười, niềm vui dâng lên trong ta và lan tỏa đến mọi người, đến cả cây cỏ, mây trời…Hay có thể nói cả cuộc đời này đang cười với ta. Khi ta mỉm cười, ta chứng tỏ rằng ta đang ý thức về sự hiện hữu của mình giữa cuộc đời, và vì thế mà cuộc đời trở nên thân thiết và có thật đối với ta.
                          Ta nên mỉm cười theo cách hoàn toàn y’ thức được giá trị của nụ cười mang lại cho mình, thay vì chờ đợi những lý do nào đó theo thói quen mới đem lại cho ta một vài nụ cười hiếm hoi. Khi ý thức được như thế ta sẽ tận hưởng được giá trị của nụ cười và cảm nhận được hạnh phúc là điều hoàn toàn có thật.
                          Hãy cười lên…cho mặt thêm tươi- cho lòng thêm ấm- cho ngày thêm đẹp- cho hoa thêm sắc- cho đời thêm vui!.

                          Hãy mỉm cười: Thế giới giống như một tấm gương: Bạn nhăn mặt với nó, nó nhăn mặt với bạn; bạn mỉm cười với nó, nó cũng mỉm cười với bạn.
                          Hãy mỉm cười: Một nụ cười là một ánh sáng ở tại cửa sổ tâm hồn cho thấy trái tim đang ở nhà.
                          Hãy mỉm cười: Một nụ cười là hệ thống chiếu sáng của gương mặt và hệ thống sưởi ấm của con tim.
                          Hãy mỉm cười! Nếu bạn không dùng nụ cười của bạn, bạn giống như một người có một triệu đô-la trong ngân hàng, mà lại không có ngân phiếu.
                          Hãy mỉm cười! Có hàng trăm ngôn ngữ trên thế giới nhưng một nụ cười thì nói tất cả các ngôn ngữ đó.
                          Hãy mỉm cười! Các nụ cười là ngôn ngữ của tình yêu và một nụ cười đáng giá hơn ngàn lời nói.
                          Hãy mỉm cười! Hãy mỉm cười với nhau- Hãy mỉm cười với vợ bạn- Hãy mỉm cười với chồng bạn-Hãy mỉm cười với con bạn –Hãy mỉm cười với nhau- Với bất cứ ai- Và điều này sẽ giúp các bạn lớn lên trong tình yêu đối với nhau.
                          Một nụ cười chiến thắng làm cho tất cả chúng ta thành người chiến thắng. Không ai cần một nụ cười cho bằng người không có gì để cho.
                          Hãy mỉm cười! Hãy đưa ra một khuôn mặt hạnh phúc- Đấy là phần cửa hàng trưng bày của bạn, là cách bạn quảng cáo tốt nhất.
                          Hãy mỉm cười! Các vết nhăn làm được một việc, là chỉ cho thấy chỗ đã có các nụ cười.
                          Hãy mỉm cười! Điều tiến xa nhất trong việc làm cho cuộc sống có giá trị, mà ít tốn phí nhất, và lại làm được nhiều nhất, đó chính là một nụ cười tươi. Nó đầy giá trị và tốt lành nữa, hòa trộn với lòng nhân hậu. Nó có giá trị hơn triệu đô-la, mà lại không tốn một xu.
                          Hãy mỉm cười! Ánh mặt trời cần cho bông hoa thế nào, các nụ cười cũng cần cho nhân loại như thế.


                          Mang một nụ cười và có bạn bè; mang vẻ nhăn nhó và có các vết nhăn.
                          Chúng ta sống cho chuyện gì nếu không phải là để làm cho thế giới bớt khó đi cho mỗi một người?.
                          Hãy mỉm cười! Đó là cách trị bệnh miễn phí.

                          Vào một buổi sáng, bạn thử đứng tại một góc đường nào đó và nhìn những khuôn mặt của những người qua lại-bao nhiêu người nở nụ cười? Bao nhiêu người có vẻ mãn nguyện, hoặc sung sướng? Chúng ta đang trở nên một thế giới của những con người máy nhăn nhó, cau có, vội vã như đàn kiến mù lòa từ chỗ này đến chỗ nọ, lo lắng, vâng, bạn hãy chỉ danh nó đi. Tôi ước chúng ta có vài con số thống kê trên những nụ cười mỉm và cười vang, vì tôi lo có bao nhiêu phần trăm trong chúng ta, vào một ngày đặc biệt nào đó, không bao giờ cười vang lên hoặc ngay cả mỉm cười, từ lúc chúng ta thức dậy cho đến khi đi ngủ.
                          Chúng ta không phải khờ khạo hay sao? Chúng ta lại quảy trên vai cái gánh nặng của thế giới và cái nhíu mày sẽ tạo nên những nếp nhăn ở nơi không cần đến chúng? Cái trạng thái tinh thần u buồn ngay cả giết chết chúng ta. Bác sĩ James Walsh cho biết: “Những người hay cười thực sự sống lâu hơn những người không cười. Một ít người y’ thức rằng sức khỏe thực sự sẽ thay đổi tùy vào số lượng cười của họ”.
                          Không những chúng ta đã quên làm cách nào để cười, mà còn chúng ta đã quên sự quan trọng của nụ cười. Danh ca da đen Sammy Davis một lần được hỏi định nghĩa sự thành công. Ông ta trả lời: “Tôi không biết thành công là gì, nhưng tôi biết sự thất bại là gì. Thất bại là cố gắng để làm vui lòng mọi người”.
                          Nếu bạn đang cố gắng để làm vui lòng mọi người, và bạn đã quên không biết làm cách nào để cười với họ, và chính bạn. Bây giờ là lúc để học làm cách nào nói “Cần quái gì”. Chấm dứt coi những người khác, và chính bạn, quá nghiêm trọng.

                          *Tôi sẽ thụ hưởng cuộc đời.
                          Không có sinh vật nào có thể cười, ngoại trừ con người. Cây cối rỉ mủ khi chúng bị thương và súc vật trên cánh đồng sẽ rống lên vì đau hoặc đói, tuy nhiên tôi có một tặng phẩm của nụ cười và nó là của tôi để xử dụng bất cứ khi nào tôi chọn lựa. Từ đây tôi sẽ khai thác cái thói quen của nụ cười.
                          Tôi sẽ mỉm cười và sự tiêu hóa của tôi sẽ tiến triển; tôi sẽ khúc khích cười và gánh nặng trên đôi vai của tôi sẽ nhẹ đi; tôi sẽ cười và đời sống của tôi sẽ được kéo dài và đây là sự bí mật sống lâu và bây giờ nó là của tôi.

                          *Tôi sẽ cười với thế giới. Tôi sẽ tận hưởng cuộc đời.
                          Và hơn hết, tôi sẽ cười với chính mình, vì con người nực cười nhất khi hắn tự cho mình quá nghiêm trọng. Tôi sẽ không bao giờ để rơi vào cái bẩy của tinh thần này. Bỡi vì, mặc dầu tôi là một sinh vật vĩ đại nhất của Tạo Hóa; tôi không còn là một hạt ngũ cốc đơn thuần bị cuốn đi do những cơn gió của thời gian sao?. Thật sự tôi không biết tôi đến từ đâu hoặc sống ra làm sao?. Sự quan tâm đến ngày hôm nay không ngớ ngẫn so với mười năm trước?. Tại sao tôi phải để cho những chuyện vụn vặt của ngày hôm nay quấy nhiễu tôi?. Điều gì xảy ra trước mặt trời lặn sẽ không, hình như, không phơi bày trên giòng sông của những thế kỷ.

                          *Tôi sẽ tận hưởng cuộc đời.

                          Và làm thế nào tôi có thể cười vui khi phải đương đầu với mọi người hoặc hành động làm tôi tức giận muốn trào nước mắt hoặc buông lời nguyền rủa. Bốn chữ tôi sẽ tự huấn luyện để nói cho đến khi chúng trở thành thói quen mạnh đến độ nhập tâm bất cứ khi nào tinh thần trào phúng đe dọa rời bỏ tôi. Những tiếng này do tổ tiên truyền lại, sẽ giúp tôi vượt qua mọi thử thách và giữ thăng bằng cho cuộc sống. Bốn chữ này là: Rồi cũng qua đi.

                          *Tôi sẽ tận hưởng cuộc đời.
                          Vì tất cả những gì trên thế giới này rồi cũng qua đi. Khi tôi chán nản tôi sẽ tự an ủi rằng điều này rồi cũng qua đi. Khi tôi hứng khởi trong sự thành công tôi sẽ tự cảnh cáo mình rằng điều này rồi cũng qua đi. Khi tôi vật vã trong sự nghèo hèn tôi sẽ tự nhủ rằng điều này rồi cũng sẽ qua đi. Vâng, đúng như vậy, người đã ra công xây kim-tự-tháp, bây giờ đâu? Ông ta được chôn cất trong những tảng đá đó chứ? Và kim-tự-tháp, một ngày nào đó, có bị vùi chôn dưới đất? Nếu tất cả mọi thứ đều trôi qua tại sao tôi phải quan tâm đến những sự việc của ngày hôm nay?

                          *Tôi sẽ tận hưởng cuộc đời.

                          Tôi sẽ sơn phết ngày hôm nay với nụ cười. Tôi sẽ đóng khung đêm nay với một nhạc phẩm. Tôi không bao giờ khổ công để được hạnh phúc; tôi nên giữ mình bận rộn để tránh buồn bã. Tôi sẽ hưởng hạnh phúc của ngày hôm nay. Đây không phải là hạt giống được tích trữ trong thùng. Không phải rượu nho được chứa trong chai lọ. Nó không có thể để dành cho ngày mai. Nó sẽ được gieo và gặt trong cùng ngày và điều này tôi sẽ thực hiện. Kể từ đây:

                          *Tôi sẽ tận hưởng cuộc đời.
                          Và với nụ cười của tôi tất cả mọi sự sẽ được giảm thiểu xuống một kích thước thích đáng. Tôi sẽ cười ngạo nghễ trước những thất bại và chúng sẽ tan biến vào những đám mây của những giấc mơ mới mẻ, tôi sẽ cười vui với những thành công và chúng sẽ thu hẹp lại đúng với giá trị thực sự của chúng; tôi sẽ mỉm cười trước những quỷ quái và nó sẽ chết đi chưa kịp hại người; tôi sẽ cười với những điều thánh thiện để chúng thịnh vượng. Mỗi ngày sẽ thành công vẻ vang chỉ khi nào nụ cười của tôi mang lại những nụ cười thoải mái từ những người khác và cũng với điều này tôi làm trong sự ích kỷ, đối với những người tôi cau có họ sẽ không hân hoan chào đón tôi.

                          *Tôi sẽ tận hưởng cuộc đời.
                          Từ đây tôi sẽ đổ mồ hôi sôi nước mắt, vì những hạt nước mắt vì buồn rầu hoặc lạnh nhạt hoặc phẫn nộ không có giá trị gì trên thị trường trong khi đó mỗi một nụ cười có thể đổi được vàng bạc và mỗi một lời nói tử tế thốt ra tự đáy lòng, có thể xây cất được lâu đài.
                          Tôi không bao giờ cho phép mình thiếu kiên nhẫn, quá khôn ngoan, quá phẩm cách, quá quyền uy, đến nỗi tôi quên không biết cười như thế nào với chính mình và với mọi người. Về vấn đề này tôi sẽ luôn luôn giữ mình như một đứa bé, và chỉ có đứa bé tôi được dạy dỗ phải kính trọng người lớn. Tôi sẽ không nằm dài hơn cái chiếu nằm.

                          *Tôi sẽ tận hưởng cuộc đời.
                          Và bao lâu tôi có thể cười tôi sẽ không bao giờ nghèo khó. Như vậy, đây là một trong những món quà vĩ đại nhất của Tạo Hóa, tôi sẽ không lãng phí nó nữa. Chỉ có nụ cười và sự hạnh phúc tôi có thể an hưởng thú vui những thành quả của lao động. Nếu không được như vậy, nó sẽ đem đến sự thất bại. Bởi vì hạnh phúc là chất rượu vang làm tăng thêm khẩu vị trong bữa ăn.

                          Để thụ hưởng thành công tôi phải có hạnh phúc, và nụ cười sẽ là tôi tớ phục vụ cho tôi.
                          Năm Mới QÚY TỴ 2013, tôi chân thành cầu chúc bạn và gia quyến: Cười cho thật nhiều. Vì nụ cười đối với con người như mặt trời đối với hoa.

                          Trong cuộc sống phiền muộn này: Người có ly’ tưởng tìm thấy hy vọng trong khó khăn, tìm thấy ánh sáng trong đêm tối. Bởi khó khăn của nó là tạm thời, đêm tối chỉ là một quãng đường ngắn cũng giống như đêm càng khuya thì càng mau tới bình minh. Và có một điều bạn nên biết đó là: Trên thế giới này to lớn nhất là biển cả, lớn hơn biển cả sẽ là bầu trời, lớn hơn bầu trời là Ý CHÍ CON NGƯỜI.


                          Mây-cao-Nguyên
                          Last edited by chieutim; 03-23-2013, 09:52 AM.

                          Comment



                          Hội Quán Phi Dũng ©
                          Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                          website hit counter

                          Working...
                          X