Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Đặc San Hội Ngộ kỳ III

Collapse
X

Đặc San Hội Ngộ kỳ III

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #31
    MÈO HOANG VỚ CÁ RÁN



    Học hành ba chữ lem nhem
    Thấy gái thì thèm như chửa thèm chua

    Cuối tuần nào trung tâm huấn luyện Sheppard Air Force Base ở thành phố Wichita Falls, Texas cũng có chương trình giải trí dành cho khoá sinh ngoại quốc đang thụ huấn: Để quảng bá văn hoá Hoa kỳ với du học sinh ngoại quốc SAFB có thể cho đi nghe trình diễn nhạc kịch opera, nào đi xem những chương trình thể thao quận lỵ, nào đi thăm bảo tàng viện nhỏ của địa phương. Thường thường thì có tổng cộng chừng hai chục vé mời, khoá sinh không kể từ nước nào ai ghi tên vào danh sách trước thì được, đi du hí lại có thêm tiền phụ trội ăn lunch ngoài các cafeteria dân sự thức ăn trăm phần ngon hơn mì ramen do khóa sinh tự mua ở siêu thị quân tiếp vụ. Cuối tuần nằm trong khu cư xá độc thân, xem xi nê thí nhiều quảng cáo hơn xi nê trên tivi, hay sắp hàng đợi tới phiên chơi bi da, thật không còn gì chán hơn. Mỗi ngày mỗi khóa sinh được phát $9.00, tháng nào 31 ngày thì mừng rơn vì được thêm mấy tì lẻ, ai nấy cũng lo dành dụm hy vọng mai mốt học xong về nước có tí tiền may ra kiếm được một cô vợ cho ra hồn. c/U tôi có một kỷ niệm khó quên là một lần ghi tên đi xem chợ phiên state fair đâu vùng ngoại ô Dallas.


    Xe buýt của US Air Force màu xanh đậm rời căn cứ từ 3 giờ sáng, thường thì ai cũng mặc thường phục nhưng thế nào tôi cũng khoác thêm cái áo blouson của Không quân mặc cho đỡ lạnh vì chẳng có tiền dư đâu mà mua áo jacket gần $25.00 bán ở Base Exchange. Trên áo này tuy chưa có mấy giờ bay nhưng thôi thì may thêu đủ thứ nào binh chủng KQ là con "rồng lộn" - xin đừng nói lái lại nghe chói tai lắm, nào huy hiệu sư đoàn "ó đâm", nào "hà bá", nào "voi rừng", "cọp biển" toàn tên những phi đoàn nổi tiếng mà chúng tôi sau khi mãn khoá muốn được về phục vụ. Tám giờ sáng chúng tôi được nhắn nhủ một lần chót điểm hẹn và giờ tập họp ra về chúng tôi tủa ra khu chợ phiên: thôi thì đánh vòng, thảy banh, nhất là lái những cái xe điện nhỏ đâm vào nhau - bumper cars - khóa sinh VN không được phép lái xe vì không có tiền mua xe và mua bảo hiểm, và chiếc xe lửa - roller coaster - tuy nhỏ nhưng phóng thật mau trên đôi đường sắt ngòng ngoèo làm cho người ngồi trên xe lên ruột. Còn một trò chơi nữa là một bánh xe - ferris wheel - có nhiều ghế treo tòng teng cho hai chỗ ngồi đưa người ngồi lên cao rồi lại xuống thấp. Chẳng mấy hấp dẫn, tôi lững thững nhìn mọi người vui chơi bỗng tôi có cảm tưởng nhột nhạt là đang bị nhìn, đảo mắt nhìn thì thấy một "con bé" hình như là nữ sinh của một trường gần đó chắc cũng tổ chức cho đi chơi chợ phiên đang nhìn tôi chằm chặp. "Nó" cũng khá cao, tóc cột cái băng-đô bằng nhung đen, mặc một cái váy đầm trắng dài qua đầu gối, cổ phồng, tay dài bằng một thứ vải cotton trắng rất... bình dân. Tôi đoán chừng "nó" là con nhà nghèo nên không mặc đồ jean như phần đông mọi người, cao lắm đệ tam là cùng, chắc "thằng bồ" nó quanh quẩn gần đó. Tôi tiếp tục nhìn những quán hàng bán thức ăn và những con thú con con nhồi bông. Mắt tôi lại thấy "con bé" hồi nãy đứng ở cạnh xe bán bắp rang vẫn nhìn mình. Có phải tôi đang mơ không ? Tôi ghé vào một xe bán nước mua hai ly nước Coca Cola, xin thêm hai cái nắp và hai cái ống hút. Tôi đi vòng sau quầy hàng tiến lại gần "con bé" đưa ly nước ra mời "I bought this soda for my classmate but he get lost in the crowd, I can't drink both, can you help me ?" Tránh tia mắt tinh nghịch, soi mói của tôi cô ta nhìn xuống bãi cỏ "I'm sorry, but I don't know you." "Tôi tên AnhHùng, tiếng Mỹ là hero nhưng bạn cùng khóa gọi tôi là con gấu dịch sang thành bear, phi đoàn tôi đóng cách đây chừng 200 dặm" "Ông là người ngoại quốc hả ?" "Tôi là người Việt Nam cô ạ." "Ông là phi công sao?" "Tôi đang học điều khiển tàu bay phản lực" "Sao cô không nói cho tôi biết tên cô là gì nhỉ ?" Một thoáng ngại ngùng và rồi ngập ngừng "Má em đặt tên em là Wilma" "Tên lạ nhỉ ! Vậy ba cô gọi cô bằng tên gì?" Biết mình nói hớ tôi vội chữa "Bạn cô đi đâu rồi ?" "Tụi nó dẫn nhau đi hết, em chờ tí nữa Mary và Nancy trở lại tụi em sẽ đi sau." "Nãy giờ đi một mình mỏi chân quá, tôi đứng đây chờ bạn cô với được không ?" "Không được đâu, nó biết, kỳ lắm! Thôi ông đi đi !" Tôi vẫn không di chuyển và được đứng gần tôi mới nhận ra Wilma có cặp mắt màu nâu. "Dân Á đông chúng tôi thường thường mắt đen. Tôi chưa thấy ai có màu mắt nâu đẹp như mắt của cô hết!" Dưới làn da trắng bóc tôi thấy gò má con bé ửng hồng.


    Con bé này đâu biết rằng sau khi huấn nhục được đeo Alpha xong, một câu hát trong bài KQ hành khúc của nhạc sĩ Văn Cao... Ôi phi công danh tiếng muôn đời... đã sửa thành... Ôi phi công ma giáo vô cùng....Tôi tìm những sơ hở của đối phương để bắt đầu tấn công toàn diện "Tôi hơi đói cô biết món nào rẻ tiền ngon hơn cơm lính bao tôi ăn với" "Sáng nay má em cho em có $10.00 thôi, chỉ đủ mình em ăn trưa, không đủ bao ông đâu!" "Cô nghĩ mình nên ăn món gì? " "Nãy em thấy hàng corn dog coi cũng ngon lắm." "Tôi bao cô nhé?" Nói thế thôi nhưng tôi cũng hơi lo vì sợ rớt mất nên gởi hết trong chương mục tiết kiệm chỉ dám mang theo mỗi một tờ $20.00 và nắm tiền xu cộng thêm $15.00 trường cho. Tôi và Wilma song song đi tìm hàng bán thức ăn Mỹ. "Cô học lớp mấy ?" "Freshman !" Tôi nào cần biết freshman nghĩa là cái giống gì hỏi cho có hỏi vậy thôi. Được dịp cô ta kể hết chuyện trường ra chuyện nhà với con mèo lông xù Tomtom. Ngồi tạm trên một khúc cây tôi nuốt trọn hai cái corn dog trong khi Wilma chậm rãi nhai mấy cọng khoai chiên và một cái corn dog mà nàng tự trả tiền không để tôi tranh trả hộ. Trước khi ăn Wilma bỏ viên kẹo chewing gum đang nhai dở lên nắp ly nước, có thể vì không muốn xả rác khu hội chợ hay một lý do gì mà tôi chẳng hỏi. Sau khi ăn xong phần của tôi, nốc cạn nửa ly nước, tôi thò tay bốc viên kẹo Wilma nhè ra bỏ vào miệng mình nhai tiếp. Cô bé trợn mắt tỏ vẻ kinh hãi "Sao ông ăn ghê quá vậy? Bụi bậm dính tùm lum." Wilma dọa "Tui có bệnh truyền nhiễm thì sao?" Thấy tôi vẫn tóp tép nhai Wilma ngại ngùng "Vứt bỏ đi, em cho ông thẻ khác !" Tôi trở nên lỳ lợm hơn "Ối ! Dân VN khó bị bệnh vặt lắm, mà tôi thấy cô mạnh khoẻ tươi tốt lắm mà, nếu bịnh mà xinh như cô thì tôi cũng muốn bịnh! Hơn nữa kẹo này cô nhai sẵn mềm rồi tôi khỏi mất công nhai, vẫn còn thơm chán". Cặp mắt nâu chớp nhẹ rồi thoáng nhìn về chân trời xa... Tôi miên man kể cho người bạn mới quen những thao tác mà tôi mới học được khi tập làm cái loop, thật ra thì mình chỉ bay sao cho thành một hình tròn đứng. Tôi bịa ra là lần nào tôi vẽ hình tròn này cũng tròn như mặt trăng rằm nhưng thường thì méo xẹo giống quả trứng hay tệ hơn thì giống trái banh football vì tay kéo cần lái và tay tốc độ không đều. Wilma chẳng thâu nhận được tôi ba hoa chuyện gì nhưng cô ta vẫn tỏ ra chăm chú theo dõi và rất thán phục. Chẳng bao lâu thì tôi và Wilma đã ngồi chung trên bánh xe ferris wheel. Khi bánh xe này quay ngược lại gây cho người ngồi cảm giác vô trọng lực trong khoảng chừng vài giây. Đã làm quen với cảm giác này mỗi chuyến bay nhưng lần này thì tay tôi được nắm chặt vì cô ta bị hụt hẫng chăng ? "Viên kẹo cô nói cô cho tôi đâu ?" "Em lỡ nhai mất rồi ! Tí nữa em mua phong khác!" "Trả lại tôi đi, cô mới nhai chắc vẫn còn ngọt, không sao đâu" Cô ta nghiêm mặt từ chối thẳng "Thôi". Tôi ngúng ngẩy quay nhìn ra chỗ khác. Wilma thấy không khí căng thẳng, nhượng bộ đưa tay lên miệng định lấy viên kẹo nhai dở ra nhưng tôi ngăn lại "Ngón tay cô dơ lắm" "Vậy sao ông cứ đòi." "Thiếu gì cách..." Đoán ra tà ý của tôi "Ai làm vậy, kỳ lắm" "Thì mình ra chỗ nào vắng vắng đâu có ai thấy đâu" "Em không chịu đâu!" Biết không còn cách nào thuyết phục được chúng tôi bèn dắt tay nhau thả bộ nhìn người ta đi chơi. Đã sắp đến giờ về, khi đi ngang sau căn nhà được bơm hơi cho cao lên dùng cho trẻ em làm cầu tuột nên ánh đèn bị che khuất, Wilma bỗng kéo tay tôi rồi đứng khựng lại, quay sang nhìn tôi thấy Wilma đang giữ mảnh kẹo giữa hai hàm răng với cặp mắt nhắm nghiền lại. Tôi xúc động quá nên tìm mãi vẫn không cắn được viên kẹo mà chỉ thấy cặp môi mềm mềm. "Sao ông nói ông muốn nhai kẹo ?" Tôi thú nhận "I'm not looking for the gum beside I never kiss a pretty girl like you!" "You lie !" Wilma cười bẽn lẽn và sau khi đẩy viên kẹo sang, tôi đã gặp chót lưỡi của nàng đùa với chiếc răng khểnh của tôi. Lúc còn bé tôi thường nhặt những cục pin 9 volt khối chữ nhật, không có cách nào thử nên đưa hai cực chạm vào đầu lưỡi xem còn tốt hay không, tùy theo điện còn nhiều hay ít thì mình bị giựt nhẹ hay mạnh, lần này tôi bị pin Wilma giựt xiểng liểng vì ngồi gật gù trên đường về môi và lưỡi vẫn bị tê tê. Cho đến nay mỗi lần đi ngang dãy hàng kẹo thế nào tôi cũng mua một phong Wrigley's Juicy Fruit Gum màu vàng chuối bỏ túi để "tưởng nhớ mùi hương", vì đã nhổ hết mấy cái răng hàm nên dù muốn cũng không nhai được nữa. Khi Wilma lên xe rồi tôi vẫn còn ráng đứng lên bánh xe, chồm lên cửa sổ hôn gỡ thêm lần chót và có người bạn đã chụp được bức hình lưu niệm ngày xanh này, tuy không thấy mặt nhưng với tướng cao lòng khòng 1m70 và cái áo blouson khoác trên tay thì khó có thể lầm lẫn với ai khác được. Sau khi xe buýt trường Wilma lăn bánh đi một đoạn xa rồi tôi mới chợt nhớ ra rằng tôi đã quên hỏi nhà cửa hay tên họ, trường, lớp, địa chỉ, ngay cả số điện thoại cũng không nốt. Hình như tôi thấy một bàn tay vẫy vẫy sau cửa kính. Tôi vô tâm quá, mắt tôi cay cay, tôi giận tôi. Wilma ơi, anh nhớ em vô cùng.

    Mỗi khi đi thấy một chợ phiên nào đó tôi lại liên tưởng đến hai con chim sẻ một hôm không biết từ đâu bay vụt về đậu trên hàng rào nhẩy nhót, kêu chí choé, tôi thấy chúng nó chạm mỏ nhau nhưng không biết có phải thế là chúng nó hôn nhau không, rồi sau đó lại bay vụt đi trả lại sự yên tĩnh cho sân sau...


    Cậu Út
    Last edited by hung45qs; 11-17-2010, 05:07 PM.
    Hung45HTQS

    Comment


    • #32
      MƠ MỘT LẦN BAY



      (Kính tặng Lôi Bằng 1, Lôi Bằng 2 và thầy Trần Anh Hải, Saudi Arabia.)


      Khi xưa đang học lớp 12
      Em mơ ráng đậu được tú tài
      Trước nhất lấy le cô bạn gái
      Sau là đi lính cũng "hoa mai"

      Đến lúc mùa hè năm 72
      Động viên tất cả các tú tài
      Em mơ vào được Không Quân chủng
      Ai ngờ được học lái máy bay

      Nhớ ngày trình diện Tr/Tá Lai
      Nhìn anh như một đấng anh tài
      Đứng trước hàng quân anh ngậm pipe
      Thì thầm em bảo tướng anh oai !

      Đến lúc giới thiệu Lôi Bằng 2
      Tướng anh mảnh khảnh khá đẹp trai
      Thì ra Đào Vũ Anh Hùng thật
      Em đã nghe danh viết truyện hay

      Rồi đến khi được chọn thầy bay
      Thầy Trần Anh Hải cũng rất tài
      Cực nhọc dạy em hơn 6 tháng
      Ra trường em được xếp hạng 2

      Em mơ bây giờ có dịp bay
      Chiếc UH1 cánh quạt dài
      Bay tới, bay lui, lên, xuống, thẳng
      Ước gì em được một lần bay


      Trần Thanh Thiếc
      Khóa 4/73HTTT
      Cali 12/11/07
      Last edited by hung45qs; 10-28-2010, 04:00 PM.
      Hung45HTQS

      Comment


      • #33
        Mỗi tuần tôi chọn… cùng niềm vui


        Giọng hát Thu Phương qua một bản nhạc của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn làm tôi tự mỉm cười, tôi đang lái xe nên nếu người ngoài nhìn vào họ sẽ cho tôi là thằng khùng đang mãn nguyện với những vật vã của cuộc đời. Kệ họ, mình vui là được rồi, tôi không hiểu sao càng về già, niềm vui của tôi lại trở thành đơn giản, chỉ cần gặp bạn bè ngồi tán dóc là vui rồi…

        “Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi..”
        “Đường đến anh em, đường đến bạn bè..”

        Sao Trịnh Công Sơn lại cùng tư tưởng với mình như vậy, chúng tôi, những cựu SVSQ KQ tuổi đã gần 60 bỗng dưng cảm thấy việc gặp nhau cuối tuần là một nhu cầu cần thiết của đời sống (vợ con không đồng ý…). Chúng tôi có thói quen hay tụ tập ở Café Mưa Rừng mỗi thứ bảy và chủ nhật dù mưa hay nắng. Tôi ở cách Café Mưa Rừng trên 60 miles thế mà tuần nào cũng cố gắng đến để gặp bạn bè, may có Trí Bop ở gần nên chúng tôi thay phiên nhau lái xe. Những gương mặt thường trực ở đó là Vinh (nổ), Nam (nọc), Hùng (Mễ), Hùng (lác), Hùng (ruồi), Hải (râu), Hảo (TL), Trí (bop), Lộc (thủ), Nguyên (TĐ), Bình (răng vàng)……


        “ Đả hơn 1 năm nay, một số anh em của LK72/73 có thói quen vẫn thường tụ tập vào mỗi sáng thứ bảy và chủ nhật tại quán cà phê Mưa Rừng, thành phố Fountain Valley từ 10 sáng cho đến 3 giờ chiều để cà phê, cà pháo , sau đó tan hàng và re-group trở lại ở quán nhậu di động " Té Giếng" cho đến sáng sớm Chủ Nhật mới tan hàng.
        Qua sự nhận xét của đặc phóng viên Lôi Thiên, thì gần 1 tháng nay, số người gặp nhau ở quán cà phê đả tăng lên đáng kể, có lẻ vì muốn gặp lại bạn bè để tán dzo'c, đồng thời cũng muốn biết anh em trong BTC liên khóa đã làm việc đến đâu rồi.”
        (trích từ HQPD – loithien)

        Chẳng biết đặc phóng viên Lôi Thiên là ai nhưng phải công nhận ông này chắc phải có theo dõi tụi này vì những diễn tiến xảy ra mà ông tường thuật đều đúng cả. Không biết ông có biết rằng đã có một quán nhậu khác đã mở ra để cạnh tranh với quán “Té Giếng”, đó là quán “Té Mương” do Hân (73F) trông nom. Tôi không biết có đúng không nhưng hình như quán này mở cửa 24/24 mà giá cả rất phải chăng, châm ngôn của quán này là “Trước mua vui, sau làm nghĩa”. Quán lại có phòng cho anh em nào quá chén thì có thể ở lại qua đêm, đặc biệt là tiền phòng đã tính luôn trong tiền nhậu rồi.


        Tưởng cũng nên nhắc lại là quán “Té Giếng” do Sinh (lác) 72E làm chủ nhân, đối đãi cũng rất ân cần chẳng kém gì “Té Mương”. Một điểu tôi khám phá ra là cả hai quán đểu do một ông đầu bếp phụ trách tên là Quốc (ngon), ông này nấu theo dạng nhảy show nên nơi nào có khách thì ông đến nấu rồi ở lại nhậu luôn. Chủ quán chơi kiểu này nên khỏi trả tiền cho ông đầu bếp này, nhiều khi hứng sảng ông bỏ tiền ra mua thức ăn rồi đem lại nấu luôn….chì chài đi hết.

        Trở lại Café Mưa Rừng, lần đầu tiên đến quán, cô Dung và cô Nga là hai chi em chủ quán với nụ cười chào đón:
        “Uống gì anh “đẹp trai””?
        Tôi nhìn chung quanh, không biết cô ta đang hỏi ai, chưa kịp mừng thì cô hỏi tiếp Trí (Bop), Hùng (lác) với cùng một câu hỏi, bây giờ mới biết, khi đến với Café Mưa Rừng, chúng ta đều “đẹp trai”. Nhưng không phải vì thế mà chúng tôi thích đến Mưa Rừng đâu nhé, chúng tôi đến để nghe và tìm hiểu những tin tức của bạn bè Không Quân. Đối với tôi Mưa Rừng là phòng sinh hoạt và tin tức của SVSQ KQ do Vinh (nổ) phụ trách, hầu như anh này nắm rất rõ trong tay tất cả cuộc đời của các SVSQ KQ liên khóa 72-73. Đến nơi này, tôi chỉ cần hỏi tên của ai là tôi sẽ nghe tất cả lý lịch người đó với đầy đủ thăng trầm trong đời binh ngũ, không thể tìm được ở bất cứ nơi nào.

        Vinh (nổ) và Nam (nọc) là một cặp bài trùng mà khi nhập lại thì cứ như là một cặp vợ chồng khắc khẩu mà mỗi câu đối thoại là một trận cười nghiêng ngã. Chúng tôi cười bò lăn, cười thoải mái, cười… nhiều khi thấy hơi vô duyên. Có vài lần có Vinh (nổ) mà không có Nam (nọc) và ngược lại thì chúng tôi cũng cảm thấy hơi mất mát một tí, một thoáng vô tư bỗng chợt buồn.

        Tôi chợt nghĩ sau ngày Hội Ngộ không biết anh em chúng mình có còn gặp nhau thường xuyên như bây giờ không, hy vọng sẽ còn rất nhiều cơ hội để gặp nhau. Dù sao đi nữa tôi cũng xin cám ơn BTC Hội Ngộ đã tạo cơ hội cho tôi được gặp các anh, đã cho tôi sống lại cái KQ trong tôi, đã cho tôi tìm được những niềm vui của tuổi về chiều. Xin cám ơn những người bạn mới trong cuộc sống hiện tại nhưng đã là tri kỷ từ những ngày tháng trong Quân Trường. Cũng không quên cám ơn Café Mưa Rừng đã là

        “Tụ điểm gặp mặt cuối tuần của các cựu SVSQ KQ”


        Tháng 5 năm 2010
        Lục Tuần
        Last edited by hung45qs; 10-28-2010, 06:01 PM.
        Hung45HTQS

        Comment


        • #34
          Một chuyến đi



          Mãi đến bây giờ tôi vẫn không hiểu được là đi hay về. Đi đâu? về đâu??
          Chỗ nào che chở được với nắng mưa thì chỗ ở đó là nhà, chỗ nào không thể tồn tại được thì làm sao gọi là nhà?? Nơi tôi đã từng sanh ra và cũng là nơi từng bỏ chạy trốn. Mâu thuẫn thì thôi, khi chính mình hiểu rành mạch chỗ nào là chỗ ở của mình. Nhưng sau bao nhiêu biến đổi, thăng trầm của đời người…đi hay về cũng chỉ cùng một ấn tượng tương đối với tôi. Ấn tượng nầy sống với tôi bao lâu nữa, để lòng mình không còn nhầm lẫn để bảo rằng đi hay về. Nơi nào mà tôi sống và làm quen với phần nào của trái đất, nơi ấy được gọi là nhà.

          Miên man trên chiếc phi cơ hàng không dân sự, sau 14 giờ lặn hụp trên những tầng mây bạc, chiếc phi cơ đã hạ cánh xuống miền trái đất tôi đã sanh ra…không phận Việt Nam.
          Bây giờ là 10 giờ đêm Sài Gòn. Trời cuối năm, hơi ẩm ướt, cái nóng vẫn còn hừng hực sau một ngày chói chan, tuy nhiên tôi vẫn cảm nhận trời đất đang chuyển mình bước sang một ngày mới, với một chút gió lơ là.

          Sài Gòn chưa bao giờ đi ngủ, lúc nầy là giờ thức để tiêu tiền của những người giàu có trong xã hội mới, và cũng là lúc thức để kiếm tiền của những kẻ nghèo vì phải phục vụ trong bar, hàng quán để đổi lấy miếng ăn. Xe cộ dập dìu, đủ màu sắc. Chiếc xe van chở bọn tôi đi lướt qua bao nhiêu khu phố để rời thành phố đông người ngột ngạt, khói bụi.
          Hồn tôi đã lạc vào cảnh giới nào chẳng biết, cứ như ngây dại chìm vào giấc ngủ, ngất ngư như sóng biển trong suốt đoạn đường về quê…
          Nghe văng vẳng tiếng anh tài xế bảo, bà con xuống xe qua Bắc Cần Thơ nhe…

          Bên kia bờ là quê tôi, dòng sông nầy đã nuôi tôi khôn lớn, cũng dòng sông nầy đã tiễn chân tôi, cũng dòng sông nầy đã mang tôi trở lại. Tôi làm sao quên được cuộc đời mình gắn liền với dòng sông Hậu. Có lúc cũng muốn quên, nhưng vì giận mà quên chứ không phải ghét mà quên. Có lúc tôi cho rằng có lẽ dòng sông quá vô tình…lúc hận, lúc yêu, lúc là phương tiện, lúc là chướng ngại, ngăn…đôi bờ. Có lẽ tại lòng người…

          Bây giờ trời đã tờ mờ sáng. Sài Gòn cách Cần Thơ chỉ 168 cây số. Thế mà phải mất cả buổi để tới lui, nhưng có khi mất cả đời để dân Cần Thơ hiểu được đời sống của dân Sài Gòn và ngược lại.
          Quê mình, các thành phố không cách nhau xa lắm, thế mà đời sống và văn hoá cũng khá cách biệt. Dân Sài Gòn không tình cảm bằng dân các tỉnh, con gái Sài Gòn phớt tỉnh hơn con gái miền Tây. Nhìn con gái miền Tây muốn nhìn hoài không chán, dù không sắc xảo bằng. Không biết trong ánh mắt đó có chứa đựng ẩn khuất gì mà “có người” đã mất một đời tìm hiểu vẫn chưa ra câu trả lời nào ngã ngủ. Có người đã nhìn ai đó ở miền Tây một lần, mãi sau 40 năm mà vẫn chưa quên. Bởi thế họ vẫn còn ở mãi bên nhau để tự mình dấn thân và “khám phá”…!!! (dù cô ta không phải là Hoa Hậu).
          Trời tờ mờ sáng, thế mà phà Cần Thơ đã chật cứng với khách địa phương qua lại, giới lao động là chủ chốt trên chuyến phà sớm nầy, họ vật lộn với không gian và thời gian, sao cho kịp giờ giao hàng ra chợ. Kẻ đứng, người ngồi trong tư thế chờ đợi. Con phà nặng nề hướng đầu qua bên kia bờ một cách mệt mỏi.

          Nước sông đục ngầu, có lẽ đất cát phù sa đã lẫn vào dòng sông như định mệnh tự bao giờ, màu nước sông vẫn một màu đỏ ngầu muôn thuở. Những dề lục bình lang thang trôi dạt không biết về đâu. Có lẽ đời mình không khác những cụm lục bình kia, tan hợp theo dòng nước, lúc đi lúc về, và có lẽ ngay lúc đi cũng chính là lúc về chăng???
          Quê tôi đây rồi, Cần Thơ đang trở mình thức dậy sau cơn ngủ vùi của đêm dài, những người bên nầy bờ, nhìn ai cũng thân quen, thân quen đến đổi như nhìn lại chính người thân của mình ngày nào.
          Đến bến xe mới, bến xe nầy là nơi trạm xe hành khách SG & Cần Thơ và khắp nơi của lục tỉnh. Nơi nầy cũng đánh dấu mỗi lần đi xa. Lúc còn bé, mỗi lần theo má đi xa, tôi vẫn còn nhớ, bà thường chọn chiếc xe nào chạy chậm và an toàn. Bà vẫn không quên nhắn nhủ nhiều lần cùng bác tài. Thế mà má tôi lần nào cũng giống như mọi lần, bà vẫn không yên tâm khi bác tài nào cũng vẫn hứa, thế mà làm bà muốn lọt tim ra ngoài…


          Chiếc xe van rẽ phải hướng Bình Thủy. Qua lộ 19 và lộ 20…nơi đây là khúc quanh của cuộc đời. Trường Nông Lâm Súc nằm bên trái dọc theo quốc lộ liên tỉnh, cạnh lộ 20. Mái trường xưa vẫn còn ngủ yên bất động. Một thời học viên ở trường, sống và làm quen với dân địa phương như người hàng xóm. Họ đến từ khắp nơi của các tỉnh lân cận. Sau ngày ra trường họ dọn về chốn nào đó và định cư hẳn, như chưa từng biết đến trường NLS Cần Thơ, như chưa bao giờ mặc chiếc áo nâu ngày nào. Bây giờ còn xa hơn nữa, những người như tôi, đã từng ngồi cùng ghế nhà trường, khó mà tưởng tượng được, ngày nào đó mình đi ngang đây và nhìn vào như một người khách lạ. Vâng, lạ lắm bạn ơi, còn gì nữa mà không lạ. Đã hơn bốn thập niên rồi, những thư sinh ngày nào bây giờ tóc bạc phơ. Mái trường xưa phô bày bên dãy mặt tiền văn phòng có cột cờ phía trước, bên trái là một căn nhà hai tầng, có cầu thang hai bậc bên ngoài, bên phải hun hút sau hàng dừa nhỏ có cái cầu bắt ngang mương để qua dãy lớp học, đường dẫn vào có mấy cây bạch đàn. Dưới hàng mương chạy dọc theo đó, thẫn thờ đây đó mấy con cá thòi lòi phóng trên mặt nước. Hình ảnh nầy là biểu tượng chăng? Không những hình ảnh quá tầm thường thuở xưa đã không bảo giờ là biểu tượng của trường xưa, nhưng chúng vẫn nằm đâu đó trong tim người. Nếu cần thì chúng nỗi dậy như đóm than hồng bị phủ bởi lớp bụi tro mờ. Thời gian chẳng có vô tình với ai bao giờ, có lẽ nó đẹp và bền vững, vì chưa bao giờ dám kiêu ngạo với ai. Còn những thứ khác được thiên hạ dựng lên như một biểu tượng duy nhất độc đáo, có lẽ thời gian rồi họ sẽ quên. (Cái tượng bằng xi măng, đứng trơ trọi dưới bến Ninh Kiều không giống ai, thế mà vẫn mặt lì lộm đứng mãi chỉ là biểu tượng của sự gian ác). Vì nó không phù hợp với tự nhiên. Không giống như lâu rồi không còn nghe tiếng mẹ hiền đong đưa bên võng kẽo kẹt, nhưng biểu tượng dân gian hiền lành kia làm sao mà biến mất theo thời gian được.


          Tiếp theo ranh giới trường NLS Cần Thơ là bãi trực thăng của Phi Trường Bình Thủy. Hồi xửa hồi xưa, mấy em nữ sinh trường “tha hồ” mà mơ làm người tình của mấy chàng phi công trực thăng. Tôi còn nhớ mỗi chiều tan trường, khi đi ngang bãi trực thăng, tôi rất ghét mấy tay “giặc lái” nầy. Chỉ vì mấy em đâu thèm nhìn thằng học trò nghèo nàn nầy, tương lai chẳng biết về đâu. Còn mấy tay giặc lái thì tay nào cũng thơm phức, có hàm râu thấy ghét, dáng vẻ thì sở khanh, mang khẩu P.38 thấy mà khó ưa, trong chiếc áo bay “áo liền quần”. Tôi ghét giặc lái lắm….vì nghĩ rằng chẳng bao giờ là đối tượng của chính mình….

          Có lần cô bạn gái thơ ngây của tôi bảo rằng:
          “Em muốn có kép Pilot, để cuối tuần anh mặc đồ bay chở em đi nhà thờ nhé.”
          Tôi giận chín người, vì câu nói của em, làm tôi ăn ngủ không ngon cả tuần.
          “ Em bé ơi..Anh làm sao mặc được đồ bay, và chở em đi nhà thờ…Thôi thì em muốn chia tay phải không???”
          Thời gian dần trôi, tôi rời trường đi vào quân ngũ…”Em ơi, bây giờ chiếc áo bay của ước mơ năm nào, anh đã xếp lại trong ngăn tủ phai mờ, người phi công trực thăng hào hùng mà em mơ ước, bây giờ đã giã từ cuộc chiến và hắn đã gần 6 bó, tóc bạc phơ, da nhăn nheo, dáng một thanh niên hào phóng ngày xưa đã chết theo năm tháng, ngày sau cùng ấy chắc em còn nhớ lúc chia tay vào cuối tháng tư đen….Anh bây giờ là người xa lạ với chính kỷ niệm của đời mình, những kỷ niệm mà không ngờ đã qua đi, như chưa bao giờ có, dù mình đã từng ấp ủ và sống với nó như hơi thở của đời mình. Em bây giờ ở đâu? Mộng ước ngày xưa em có còn ấp ủ, để đón nhận người Phi Công già sau cuộc bể dâu……..”


          Vi vu theo tiếng gió, trong chốc lát, chúng tôi đã đến Bình Thủy. Nơi đây, Đại Thần Nguyễn Trung Trực, trước kia ngài đã tránh sóng gió ngoài sông cái và dừng quân chốn nầy. Thấy mặt nước phẳng lặng, ngài đặt tên nơi đây là Bình Thủy. Ngay cạnh dốc cầu, ẩn khuất trong hàng cây và đường mòn dẫn đến bờ sông, Chùa Nam Nhã toạ lạc nơi đây kể từ cuối thế kỷ 19. Chùa Nam Nhã theo phái Nam Tông (Trung Quốc). Khởi công xây dựng khoảng năm 1911 và hoàn tất năm 1917. Nơi đây, những sĩ phu thời bấy giờ tụ tập để chống Pháp, trong đó có các thời kỳ Phong Trào Đông Du. Ngoài ra cụ Bùi Hữu Nghĩa và con trai là Cụ Bùi Hữu Sanh là một trong những vị chơn tu thời bấy giờ.

          Ông bà tôi đã tu ở chùa nầy đã bốn đời. Cho đến khi tôi ra đời thì mái ngói đã rêu xanh, tường đã mục, những cây trắc bá diệp có mùi hương cong queo, đã trơ mình hàng thế kỷ vẫn còn đứng trước chùa. Trên tường cửa ngõ có mấy hàng liễng mà người xưa cố ý gởi gấm cả một sự nghiệp giải thoát của mình vào mấy hàng chữ nho như sau:
          “Hàng Long Phục Hổ Thông Huyền, Bất Tất Mịch Bồng Lai”
          Hàng chữ trên được giải thích như sau: Hàng phục được âm dương trong người, tức là thông mọi huyền khiếu. Hà tất phải đi tìm bồng lai nữa làm gì???

          Hôm nay ngày cuối năm, nắng xuân nhợt nhạt, tan biến theo mây trời, quê tôi lúc nào cũng nắng hay mưa, chúng tôi phải chọn một trong hai thái cực…Phải mà, là người bình thường trong một xã hội bất công, chúng tôi ít có cơ hội để chọn…. ngay cả thời tiết.

          Thiên hạ ở đây riết rồi quen, họ quen với đời sống bình thường, giản dị. Bình thường có nghĩa rằng cái tiêu chuẩn nào đó là sự gói ghém của gia đình, chứ không phải nhu cầu tạo ra sản phẩm, mà chính sản phẩm nào đó đã tạo ra nhu cầu cần thiết hàng ngày. Tôi phải bỏ ra mấy ngày để làm quen với thời tiết, phong tục, thói quen, giờ giấc, ăn uống. Những cái phải làm quen, đáng lẽ ra, đấy là những chuyện mà tôi đã từng làm quen gần nữa đời người trước kia.

          Lúc ra đi vô tình đánh mất những thói quen cũ bao giờ mà không hay. Những thói quen ngủ trưa, ăn, nói lớn tiếng ngoài đường, thói quen hay đi trễ, khạc nhổ, xả rác nơi công cộng, “tè” không đúng chỗ, bạo lực với con cái, không xếp hàng trật tự, lái xe uống rượu… ăn hàng ngoài vĩa hè, ăn no không cần ngon, lén hút thuốc lá ngoài lớp học, hay cúp cua đi ciné, thấy gái đẹp hay nhìn, ….chờ mưa xuống đi bắt dế…..và còn nữa….

          Bây giờ tôi muốn về quê làm lại từ đầu. Tôi muốn bỏ hết tất cả, chỉ chừa lại vài thói quen dễ thương thôi, để mình sống lại với chính mình và những người hàng xóm, bạn bè cũ thân thương nữa. Nhưng tôi phải bắt đầu từ đâu, khi mình chỉ là người ngoại cuộc đang đứng trên phần đất của chính quê hương mình. Những người con trai có lòng với đất nước, bị gạt ra khỏi xã hội mới, xã hội “ưu việt” của thế giới tư bản đỏ, chúng tôi những thanh niên lớn lên từ miền Nam, cũng từng bị đi tù vì mang tội “Bảo Vệ Quê Hương”.

          Tôi nhớ lắm, nhớ thật nhiều vì cuộc đời mình đã mất quá nhiều rồi, thời gian còn lại của kiếp người không biết có còn đủ để hàn gắng lại những đổ vỡ trong tim mình hay không?
          Tiếng chuông chùa Nam Nhã vang vọng khắp xóm nhà mình, ai cũng hiểu rằng, cuộc đời là những chuyện lôi thôi, hãy gác lại chuyện lẩm cẩm để còn tu thân. Để còn thực hiện những hoài bảo lớn hơn, lợi người, lợi mình.

          Lần nầy, đi hay về, đối với tôi bây giờ vô nghĩa, khi chính mình chưa bao giờ thật sự sống, chỉ cần sống một cách hoàn hảo trong từng hơi thở hàng ngày …đi và đi mãi, nhưng dù đi xa đến đâu, thì vẫn quanh quẩn bên cái thói quen, kỷ niệm thời xa xưa khó quên, chạy làm sao cho khỏi chính mình …và có lẽ ngay lúc đi cũng chính là lúc về chăng???


          Nguyễn Hoàng Tân
          Tháng 4, 2010
          Last edited by hung45qs; 10-29-2010, 08:27 PM.
          Hung45HTQS

          Comment


          • #35
            MỘT CHUYỆN TÌNH… PHẢI QUÊN ĐI



            Đang kẹt cứng trong dòng xe giữa cái nắng oi nồng của mùa hạ thì chuông điện thoại réo rắt vang, tiếng chuông dai dẳng khiến Tuyên dù không muốn cũng phải tìm cách tấp vào bên đường để xem thử ai gọi – số điện thoại lạ quá - Thường thì Tuyên chẳng bao giờ trả lời những số lạ gọi đến, nhất là những lúc đang kẹt xe như thế này, nhưng dường như người ở phía bên kia nhất định gọi bằng được hay sao mà vừa dứt hồi chuông này thì hồi chuông khác lại réo rắt
            • Alo! Ai gọi tôi đó
            • Phải số máy này của Tuyên không?
            • Phải, có gì không? Ai đó
            • Tui nè, biết tui là ai hông?

            Tuyên vừa bực lại vừa buồn cười vì cái kiểu hỏi của người đầu kia, và mặc dù chưa nhận ra giọng ai nhưng cái kiểu nói chuyện này sao Tuyên nghe có vẻ rất quen, Tuyên cũng trả lời kiểu tưng tửng
            • Không biết
            • Trời đất, người yêu mà không nhớ ta ơi, hồi xưa ông yêu ai nói coi
            • Yêu quá trời sao nhớ chớ
            • Cho ông nói lại đó, hồi học ở Cường Để ông yêu ai? Hồi đó ông ca bài “em tan trường về, anh theo Ngọ về cho ai, nói sai bị đòn đó.

            Nghe đến câu này thì quả thật Tuyên không thể tin vào tai mình, chẳng lẽ chính là “nhánh sông xưa”, thế nhưng Tuyên cũng trả lời như cái máy
            • Thuận, Thuận phải không?
            • Em chớ ai
            • Sao biết số của anh vậy?
            • Anh Ba cho, em đang ngồi ở nhà anh, đang nhậu với anh Ba nè
            • Cái gì? Ở đâu, nhậu với ai, anh có nghe lộn không vậy?
            • Không có lộn đâu, em có việc công tác về quê và ghé tìm lại nhà anh

            Tuyên thật sự bất ngờ và bối rối khi nghe Thuận nói, lại thêm việc quá cấp bách nên đành hỏi:
            • Số đang gọi của em phải không? Anh sẽ gọi lại cho em sau nghen, giờ có công chuyện gấp lắm
            • Được rồi, em ở chơi với anh Ba và út Hạnh một chút em cũng phải về với đoàn, sắp tới giờ tập trung rồi, bye anh nghen
            • Bye!

            Công việc của một nhà máy mới bắt đầu đi vào hoạt động thật bề bộn nhưng cũng không thể dứt Tuyên ra khỏi những nghĩ ngợi miên man về Thuận, “Nhánh sông xưa” một thời trai trẻ của chàng. Hơn ba mươi năm rồi Tuyên mới nghe lại giọng nói của Thuận, vẫn ríu rít và trẻ trung như ngày nào dưới mái trường Cường Để, mặc dù bây giờ tuổi Thuận cũng đã ngoài 50

            Thật ra lúc này Tuyên cũng không hiểu nổi mình như thế nào, lẽ ra là oán hận thì thay vào đó lại là niềm hạnh phúc lâng lâng dâng trào trong lòng Tuyên. Chàng đã gọi liên tiếp cho Thuận không biết bao nhiêu cuộc gọi nhỡ từ tối cho tới giờ, bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu thắc mắc cứ vang vang trong đầu Tuyên khiến chàng không tài nào nhắm mắt nổi, nhưng cuối cùng sự mệt mỏi vì quá thiếu ngủ cũng đã làm Tuyên thiếp đi.

            Trong giấc ngủ mê mệt đó, cả một quá khứ vàng son như hiện về đầy đủ từng chi tiết, Thuận như đang đứng đó nhìn chàng với suối tóc dài, tà áo lụa trắng và đôi mắt to tròn nghịch ngợm năm nào.


            Tuyên quen và biết Thuận năm học lớp đệ nhất, năm đó Thuận vào lớp trễ cả tháng trời, cô gái Sài Gòn kiêu sa với đôi mắt to tròn nhưng lạnh lùng và nghiêm nghị ấy đã hớp hồn gần như cả đám con trai cùng lớp, vì là ban B (ban toán), nên con gái trong lớp thật là của quý hiếm, kể cả Thuận nữa thì lớp cũng chỉ có 7 cô nàng. Thế nên việc các cô nàng được các chàng cùng lớp “chăm sóc kỹ lưỡng” cũng không có gì là lạ, huống hồ là cô gái đặc biệt như Thuận. Thế nhưng việc để ý cũng chỉ ở mức độ bình thường nếu không có dịp sinh nhật của Thuận và Tuyên được mời gián tiếp qua lũ bạn .Nói là gián tiếp vì lúc đó Tuyên thuộc loại cao kều nhất lớp nên ngồi tuốt bàn chót trong lúc đó Thuận ngồi bàn đầu nên thân với tụi ngồi gần, Thuận nhờ gửi lời mời đến đám bạn cùng lớp thông qua tụi thằng Tâm, Tĩnh , Tiến , Khắc , Ngọc… và dĩ nhiên cả 6 nàng kia cũng có mặt. Hình như sau bữa sinh nhật đó cả đám con trai trong lớp đều thấy cô nàng Thuận như vì sao lấp lánh, đứa nào cũng có chút gì đó mơ tưởng đến nàng, riêng Tuyên, tình yêu dành cho Thuận là một tình yêu chân thành của một cậu con trai tỉnh lẻ, yêu với ý định xây dựng một gia đình hạnh phúc, thế nhưng trong mắt Thuận hình như không có Tuyên…Nhưng có ai cấm mình yêu cơ chứ, thế nên tình yêu trong Tuyên cứ lớn dần theo ngày tháng, riêng Thuận, tình cảm của Thuận hình như có điều gì đó rất khác với những người bạn cùng lớp, và cũng chính những khác biệt đó đã làm nên một Thuận bất tử trong lòng Tuyên, bất tử vì tình yêu cũng như bất tử vì những hận thù trong lòng Tuyên khi tim chàng bị thương tổn.
            Mới đó mà đã hơn ba mươi năm trôi qua, biết bao vật đổi sao dời. Từ một chàng trai hiền lành, nhút nhát Tuyên đã là một ông chủ thành đạt với vợ con đề huề theo một nghĩa nào đó khi xã hội nhìn vào, nhưng có ai biết cho sự trống vắng mênh mộng trong lòng Tuyên. Đã có lúc Tuyên có “bồ nhí” và những tưởng cô bồ nhí đó có thể lấp đầy khoảng trống mênh mông trong lòng mình, nhưng không…có rất nhiều khi chàng vẫn thấy lòng nhớ thương một điều gì đó mà không sao giải thích hay hiểu nổi… Và bây giờ Tuyên mới hiểu khoảng trống mênh mông này của Tuyên ở đâu và ai mới có thể lấp đầy.

            Sau nhiều lần chuyện trò qua điện thoại, cuối cùng cả hai đã gặp nhau, một cuộc gặp gỡ quả là ngoài dự kiến của cả hai, Tuyên và Thuận đều không nghĩ tình yêu trong lòng của cả hai vẫn còn quá mãnh liệt đến không ngờ như thế. Cả hai đều bị hút vào nhau như hai cực nam châm cực đại, cả hai đều không nhìn thấy tuổi sáu mươi đang ngấp nghé của mình, mà vẫn cứ như là anh chàng Tuyên ngờ nghệch năm xưa với cô Thuận kiêu kỳ của tuổi đôi chín năm nào… Cả hai đã có với nhau một buổi sáng của “Nắng sài gòn anh đi mà chợt mát…” Tuyên cứ bám sát Thuận trong từng bước đi, cả khi ăn sáng cả hai cũng không rời khỏi mắt nhau, chỉ nhìn nhau và cười như hai đứa khùng….

            Hạnh phúc đơn giản thế đó…nhưng cuộc đời thì chẳng hề đơn giản chút nào…và luôn luôn Thuận là người tỉnh thức trước, Tuyên nhiều khi nổi giận với Thuận vì những lo sợ mà chàng cứ cho là không đâu, nhưng thật ra chàng cũng biết và biết rõ hơn cả Thuận về những khó khăn của cuộc tình muộn màng này, bởi một lẽ đơn giản là chàng vì quá yêu nên đã tự dối gạt mình và dối gạt Thuận. Đó chính là bi kịch dù không muốn nhưng chàng cũng đã mang đến cho Thuận. Lòng chàng đau xé khi nghe những lời nói thật nhỏ nhẹ và dịu dàng nhưng đẫm nước mắt của Thuận khi Thuận nói lời chia tay, cứ mỗi lần như thế Tuyên lại gạt đi và cố thuyết phục Thuận bằng cả ngàn lý lẽ biện hộ cho tình yêu, cho mối quan hệ của hai người, kết quả là Thuận không sử dụng số điện thoại quen thuộc đó nữa, cửa nhà thì đóng kín, mặc cho chuông reo rộn rã.

            Công việc kinh doanh bận rộn điên đầu với những hợp đồng, những cuộc hẹn làm ăn với đối tác khiến Tuyên như mụ cả người vì thiếu ngủ, nhưng dù mệt mỏi đến đâu chàng cũng không thể nào thoát nổi nỗi ám ảnh về Thuận, giọng nói ướt đẫm của nàng theo Tuyên ngay cả khi chàng mệt mỏi thiếp đi trên đường công tác…

            Nhiều lúc chàng thấy quá mỏi mệt vì công ty, và gia đình với cô vợ luôn càu nhàu, lại thêm sự giằng xé lương tâm mà Thuận luôn nhắc bên tai…nhưng bắt chàng phải buông Thuận ra thì quả thật Tuyên không đủ can đảm, nhưng vứt bỏ gia đình chàng cũng không thể…không chỉ vì con cái mà còn vì gì nữa thì Tuyên không hiểu, Thuận nói là sự tham lam của đàn ông, Thuận chấp nhận móc trái tim của mình vứt đi để trả Tuyên về với gia đình và bổn phận… Và cuối cùng dù không muốn thì Tuyên cũng phải đọc lá thư này do bưu điện chuyển phát nhanh


            THƯ GỬI NGƯỜI TÌNH XƯA,

            Anh thương yêu,
            Vậy là chúng mình đã gặp lại nhau sau hơn ba mươi năm xa cách, một cuộc gặp mặt đầy ngỡ ngàng và chua xót phải không anh. Chua xót và ngỡ ngàng vì cả hai chúng ta đều không ngờ rằng hơn ba chục năm qua chúng ta đã cùng sống chung trong một thành phố. Hít thở cùng một bầu không khí đầy bụi bặm và ô trọc này mà dường như không hề biết đến sự hiện diện của nhau. Rất có thể nhiều lần trên những nẽo đường xuôi ngược, chúng ta đã cùng tình cờ đứng cạnh nhau trong lúc chờ tín hiệu giao thông, hoặc giả có những lúc chúng ta đối mặt nhau khi đi ngược chiều xe…thế mà chưa bao giờ chúng ta nhận ra nhau. Nghe buồn quá phải không anh? Càng nghĩ em lại càng thấy lòng mình đau xé, và không tài nào nhắm mắt được anh ạ!

            Anh thương yêu,
            Ba mươi năm, biết bao thay đổi “Thương hải biến vi tang điền” phải không anh, em không hề trách khi anh không còn nguyên vẹn là Tân của em ngày nào. Không nguyên vẹn là chuyện rất bình thường của cuộc đời. Nếu còn nguyên vẹn mới là chuyện bất thường, thế nên em không hề trách móc anh đâu, anh cũng nên như thế với em anh ạ! Gặp lại nhau là ơn trời rồi đó anh, trách móc nhau chi cho thêm đau long, có cứu vớt được những giấc mộng cũ đâu anh, mà có được thì cũng đừng nên anh ạ! Chúng ta chỉ nên cứu vớt những niềm tin còn lại trong nhau, nhưng cuộc đời không chỉ có hai chúng mình anh ạ. Là đàn ông, em nghĩ anh nên nhận ra điều gì nên và không nên…. Em không dám “làm thày” anh đâu nhưng dù sao chúng ta cũng nên chấp nhận thực tế đau lòng này. Em không phải là người nóng vội, là người hay chao đảo, là người không có lập trường như anh nghĩ. Thậm chí anh cho là em không biết yêu hay không hề yêu anh.
            Tình yêu của một người phụ nữ sắp bước vào tuổi lục tuần không phải là tình yêu nông nổi của cô bé 16, nhưng vẫn là tình yêu nồng nàn và mãnh liệt, tình yêu của em không hề ích kỷ như thời trẻ trung mà là một tình yêu sẵn sàng chấp nhận khổ đau và hy sinh cho người mình yêu, cũng như hy sinh cho cả những người có liên quan đến người mình yêu. Nói ra thì có thể nhiều người không tin, nhưng em thật lòng thương những đứa con anh, cũng như thương cho người vợ hơn ba chục năm chung sống mà không có diễm phúc nhận được chút tình yêu chân thành của anh… Thế nên dù không muốn em cũng phải viết những dòng này cho anh

            Anh thương yêu,
            Em chắc rằng anh rất bực mình khi nhận thư này, em biết nên em xin lỗi anh trước, thậm chí còn ngàn lần xin lỗi nữa đó. Em biết, với một người đàn ông thành đạt như anh, lại đang sống trong một xã hội mà những giá trị đạo đức về tình yêu được các cô gái chân dài xếp hạng: “nhất muối tiêu, nhì việt kiều“ thì anh đúng là ở vào hàng “top ten”, vậy mà bị một phụ nữ ngấp nghé tuổi sáu mươi như em từ chối tình yêu thì quả là một chuyện không thể nào chấp nhận được phải không anh?

            Anh thương yêu,
            Khi chúng mình gặp lại nhau sau hơn ba mươi năm lạc mất nhau trong đời, khi anh hẹn gặp qua điện thoại em không hình dung ra những biến chuyển tình cảm của chúng mình, thậm chí em đã tự “trang bị” cho tình cảm của mình trong tình huống xấu nhất, đó là bộ mặt lạnh lùng, nụ cười xã giao và giả tạo trên môi anh, thậm chí là cả sự diễu cợt trong mắt anh khi gặp lại cô gái kiêu kỳ một thời đã khiến anh phải khổ đau vì cái tính khí kỳ quặc, một thời anh đã phải mượn thơ của anh NHIÊN để nói với em:
            “Đôi mắt tròn đen như búp bê, cô đã nhìn anh rất kiêu sa
            Anh vái trời cho cô vấp té….để anh nâng…”

            Vâng, và đời em đã vấp ngã như lời anh cầu khẩn nhưng rồi cũng không có anh ở đó để đỡ nâng, em đã bước xuống cuộc đời với những đắng cay cùng cực, với sự chịu đựng ngoài sức tưởng tượng và đợi mong của chính em cũng như của bạn bè… Có nhiều đứa bạn ngày xưa đi học không thích bản mặt lạnh lùng của em nên chúng mong cho em gục ngã thật sự để chúng có thể giúp em với nụ cười mai mỉa, nhưng may là em còn đứng vững trên đôi chân của mình, em luôn nhớ đến lời nhắn nhủ ngày xưa khi em lần đầu tiên thi rớt tú tài II khóa một “đứng vững trên mặt đất, sẽ vượt qua được vũng lầy, em hãy mạnh mẽ lên, hãy luôn tâm niệm: ta là ngọn sóng, là con sóng giữ, bao trùm mọi thành quách, lâu đài, san bằng tạo vật và người đời, bởi vì ta là sức mạnh của chính ta”. Những lời nhắn nhủ đó của anh đã theo em suốt mấy chục năm trường và chính nó đã giúp em đứng được trên đôi chân của chính mình….

            Thế nhưng khi gặp nhau thì lại khác, tình huống không đợi mong đã bất ngờ ập đến, chúng mình đã cùng ào vào vòng tay của nhau không chút ngại ngần, vòng tay đã cùng xiết nhau đến nghẹt thở, vậy mà như thấy vẫn còn chưa đủ, khi đôi tim cùng rộn rã reo vui, khi chiếc xương sườn bị thất lạc của ADAM xưa nhận ra người chủ cũ của mình, chúng ta đã cùng làm nhau nghẹt thở một lần nữa bởi nụ hôn thật dài, thật sâu…rồi nụ cười, rồi nước mắt, rồi cả những thẹn thùng của thời mới lớn bỗng dưng hiện về khiến em không dám nhìn thẳng vào mắt anh đến nỗi anh phải xoay đầu em lại để nhìn sâu trong đôi mắt đã không còn trong trẻo của em. Anh đã nói với em những lời nói khiến em cảm nhận được tình yêu của chính em như vẫn còn ngủ yên đâu đó trong tim mình. Thế nhưng lại cũng vì tình yêu đó nên một lần nữa em phải đau đớn nói lời từ biệt với anh.

            Em nói là đau đớn, vì thật lòng em không muốn xa anh, em muốn những ngày cuối đời của chúng mình là những buổi chiều xuống êm đềm, những buổi cùng ngồi bên nhau nói chuyện vu vơ, em sẽ hát lại những bài hát ngày xưa em đã hát, những bài hát đã làm nên chuyện tình thời thơ trẻ của chúng ta, để anh nghe, và để cả hai ta cùng hoài niệm tuổi xuân xanh của chúng mình… Nhưng cuộc đời giờ đã khác nhiều phải không anh? Thế nên chúng ta phải can đảm nhìn vào sự thật chứ chúng ta không thể có “thái độ đà điểu” anh ạ, chúng ta không thể vùi đầu vào cát để không nhìn thấy ai, không nhìn thấy chuyện gì thì không ai nhìn thấy chúng ta. Anh là người đàn ông từng trải, mạnh mẽ và thành đạt trong cuộc đời, chắc chắn anh hiểu hơn em cả trăm lần... Anh chỉ vờ không hiểu bởi anh choáng ngợp với tình yêu vừa tìm lại thôi, rồi nhưng xôn xao ban đầu cũng sẽ trôi đi, anh sẽ thấy em không còn là cô sinh viên năm nào, anh cũng không còn là chàng Pilot hào hoa năm xưa. Em không yêu anh chàng Tân năm xưa nơi anh, em cũng không yêu một doanh nhân thành đạt nơi anh mà em chỉ yêu bởi vì anh chính là anh mà thôi…. Đàn bà chúng em không phức tạp như các anh vốn nghĩ đâu, chúng em chỉ cần một tình yêu thật, một “true love” đúng nghĩa thôi anh ạ! Nhưng chính vì cần một tình yêu thật sự nên em phải bắt mình đối đầu với thực tế phũ phàng anh ạ!

            Anh nói với em là anh đến với cô vợ của anh hoàn toàn không có tình yêu, anh đến trong lúc đau khổ vì trong mắt em không có anh, anh đến chỉ vì thúc ép của những đòi hỏi của một người đàn ông đang thời sung sức, bằng chứng là anh và cô ta đến giờ vẫn không có một ràng buộc nào về cả phép đạo lẫn phép đời nhưng…ba đứa con anh sờ sờ ra đó thì anh trả lời với em thế nào đây? Dĩ nhiên chuyện có vợ con là chuyện bình thường, nếu anh không có vợ con mà cứ ngồi đó mà ngóng chờ một hình bóng đã dần khuất về cuối đời như em mới là chuyện không bình thường…thế nhưng không thể nói đơn giản là không yêu mà vẫn có con, em hiểu, vì em là người chuyên giảng dạy về chuyện này, nhưng không thể phủ nhận bằng đó năm sống với nhau mà không có chút nghĩa tình. Em không cố tình đặt anh vào tình trạng khó xử, cũng không đưa ra những câu hỏi có tính thúc ép, đơn giản em chỉ muốn chúng ta nhìn vào sự thật, dù có phũ phàng đắng cay thì ta vẫn phải nhận chân sự thật đó anh ạ!

            Chẳng lẽ ba mươi năm trời chung sống chẳng có lúc nào các con anh không đau ốm, và cả anh nữa, không có lúc nào anh hay vợ anh không có một lần cảm cúm, chẳng lẽ không lần nào cô ấy phải nấu cho anh bát cháo hành giải cảm như Thị Nở đã nấu cho Chí phèo hay những lần cô ấy sinh nở anh không một lần dìu nhẹ bước cho cô ấy, không có lần nào cả hai người cùng lo âu bên đứa con đang cơn nóng sốt hay sao?

            Và cả những ngày tháng gian nan của thời bao cấp, những ngày tháng khó khăn kiếm sống cho gia đình, những tháng ngày lẽ ra anh đã làm hồ sơ theo bằng hữu đi ngoại quốc nhưng vì sợ vợ mình không có khả năng nuôi con một mình nên anh đã chấp nhận ở lại để giữ từng chiếc xe, kiếm từng kilo gạo nuôi con, những ngày cùng chia sẻ đắng cay đó không có hình bóng em, thậm chí trong lòng anh lúc đó em chỉ là một kẻ xấu xa vì đã phụ bạc tình anh… Thế thì em đâu có tư cách gì hiện diện trong đời một doanh nhân thành đạt lúc này cơ chứ. Nếu là một kẻ phụ bạc thì bên anh bây giờ phải là một em chân dài đáng tuổi con anh, như đã có lần có một cô nhỏ như thế trong đời anh (nhưng cũng vì thương con nên anh đã quay lại kịp thời), thế nên một bà già ngấp nghé tuổi sáu mươi như em thì chỉ nên làm một điều khôn ngoan và sáng suốt nhất là “vĩnh biệt tình anh”

            Tình yêu một thời thơ dại của chúng ta, và cả những đam mê cháy bỏng nhất thời này cũng không thể nào làm cán cân thăng bằng được đâu anh. Hãy cứ thử để lên bàn cân ba đứa con, một chàng rể, một cháu ngoại, một bà vợ, một cô em vợ…và bên kia là một bà già nặng 45 kí như em thì chắc chắn là em sẽ vút cao đơn độc bên kia cán cân, nếu em không cố mà ôm chặt lấy chiếc đĩa cân chắc là em té nhào mà chết.

            Giữa chúng ta chỉ có tình yêu, chứ chưa có tình thương, chính điều này khi em hỏi anh cũng đã gật đầu đồng ý và chính cái gật đầu đó đã bóp nghẹt tim em, cũng như bóp chết tình yêu bộc phát của chúng mình cũng như lương tâm bấy lâu thoi thóp giằng xé của em đã hiểu rõ mình phải làm gì, con đường em phải đi qua là con đường nào. Lâu nay không có anh em vẫn sống, không có người đàn ông nào, không có bờ vai nào em vẫn tự bước đi dù xiêu vẹo trong những cơn mỏi mệt hay đau đớn…nhưng em vẫn bước đi.

            Cám ơn anh đã cho em hiểu thế nào là tình yêu, thế nào là đau khổ, thế nào là hạnh phúc cũng như hiểu hết đắng cay của một tình yêu phải tự mình rứt bỏ, chỉ vì em là một con người chân chính, em không thể nào làm kẻ thứ ba trong đời của bất cứ ai anh ạ! Dù là người yêu đầu đời của anh, dù là tất cả trong tim anh (đó chỉ là lời anh nói) nhưng em vẫn chỉ là người đến sau, thế nên anh thông cảm cho em.

            Chuyện tình của chúng mình phải quên đi anh ạ! Em không thể đánh mất chính mình, em phải sống sao cho xứng đáng với chính bản chất con người thật của em, dù tim em có nát tan làm trăm mảnh thì ta cũng phải chia tay thôi. Cuối cùng em xin được nói với anh: “Dù mọi chuyện có ra như thế nào chăng nữa, em cũng vẫn yêu và không bao giờ oán trách anh, cho dù lựa chọn nào của anh em cũng luôn tôn trọng và xin hết lòng Cám ơn vì anh đã yêu em!”

            Vĩnh biệt tình ta


            Phạm Thiên Thu
            Last edited by hung45qs; 10-30-2010, 11:34 PM.
            Hung45HTQS

            Comment


            • #36
              Một thời đề nhớ



              Em đã xem qua những tấm hình
              Bạn anh chung một khóa nhà binh
              Bây giờ ai cũng hai màu tóc
              Nhắc đến chuyện xưa biết mấy tình.

              Đây những chàng trai đã một thời
              Nghiêng mình tung cánh thép chơi vơi
              Bay cao trên chín tầng vô định
              Lượn gió vờn mây lướt đỉnh trời

              Mấy chục năm rồi xa cách nhau
              Tìm vui trong kỷ niệm ban đầu
              Quân trường huấn nhục vào ra đó
              Bao chuyện vui buồn quên được đâu

              Tình ái loanh quanh chẳng hẹn thề
              Yêu đương giây phút thoáng cơn mê
              Chiến tranh xé nát thời hoa mộng
              Đâu biết ngày đi có trở về?!

              Em chẳng hiểu gì đời không quân
              Chỉ nghe anh kể một đôi lần
              Chuyện thời nghịch phá và hành phạt
              Huấn luyện can trường bao gian truân

              Huynh đệ chi binh cũng một thời
              Tung hoành ngang dọc khắp muôn nơi
              Bây giờ hội tụ trên màn ảnh
              Ôn lại đời nhau giữa tiếng cười


              Kim Mai
              Last edited by hung45qs; 11-01-2010, 07:39 PM.
              Hung45HTQS

              Comment


              • #37
                MỪNG NGÀY QUÂN LỰC
                MỪNG NGÀY CỦA CHA


                (Riêng tặng cho những Cánh Chim Liên Khóa SVSQ/KQ 72-73 trong bổn phận vừa là Người Cha vừa là Người Lính bất hạnh trong cuộc chiến, nhân dịp Hội Ngộ ngày 3 tháng 7/2010 tới đây, tại Nam Cali.)


                KQ Lê Văn Hải

                Lời mở đầu: Một vài ngày nữa Ngày lễ của Cha lại trở về. Một văn hào đã viết “Nơi chốn bình an nhất của đứa trẻ trên thế giới này là căn phòng của cha nó!” Tình cha nhiều người cho rằng không đằm thắm bằng tình mẹ, có lẽ chỉ vì người cha ít chịu diễn tả mà thôi. Thật ra tình cha như nền móng của căn nhà, giá trị của nó là phần nằm sâu dưới mặt đất. Nhiều người còn ví tình cha như miếng cam thảo, phải ngậm lâu mới ra chất ngọt.
                Riêng người Việt ly hương chúng ta, Ngày Của Cha (Father’s Day) thường rơi đúng vào ngày kỷ niệm Quân Lực VNCH 19 tháng 6 mỗi năm. Nhớ lại hình ảnh những người trai thời chinh chiến, trong các binh chủng Hải, Lục, Không Quân, vừa làm người lính gìn giữ quê hương, vừa phải lo cho gia đình chu toàn bổn phận làm cha. Nên người cha trong đất nước khói lửa, hầu như phải hy sinh tình nhà nhiều. Nhưng không vì thế mà tình cha không đậm đà, thắm thiết. Nhân ngày Quân Lực và Ngày Của cha, KQ Lê Văn Hải xin đóng góp một câu chuyện nhỏ kể theo Angie Kucer, nhằm vinh danh những người cha bất hạnh, hy sinh nhiều, nhưng nhận... chẳng có bao nhiêu! Nhất là những chiến hữu KQ liên khóa 72-73 đã lao theo ánh tinh cầu “ra đi không ai tìm xác rơi!” Đem thân xác mình hòa vào không gian đất Mẹ để vợ con, anh em, đồng bào mình được sống mãi mãi.

                BỐ TÔI, NGƯỜI LÍNH PHI CÔNG QUÂN LỰC VNCH

                Tôi có một người cha già, lại tàn tật, cụt một chân. Khi tôi sinh ra đời bố tôi cũng đã gần 50 tuổi. Trong một thời gian dài, bố tôi đóng vai trò của một người mẹ, tuy di chuyển khó khăn, nhưng ông lo lắng cho tôi không còn thiếu một thứ gì. Bạn bè thường gọi là “Ông nội trợ” và khen là đàn ông mà bố tôi có đầy đủ các đức tính của người phụ nữ Á đông “công, dung, ngôn, hạnh”, nuôi con khéo léo không ai bằng.
                Hồi còn bé, tôi không hiểu được, vì sao không phải mẹ tôi, mà bố tôi luôn luôn ở nhà chăm sóc cho tôi. Từ từ tôi mới nhận ra, trong đám bạn bè, tôi là người duy nhất luôn luôn có người bố bên cạnh. Thiếu tình mẹ, tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy an ủi, mình là người rất may mắn, còn hơn nhiều đứa trẻ thiếu cả tình thương của cha lẫn mẹ.
                Sau này tìm hiểu thì tôi biết, bố tôi là một lính VNCH, một phi công bị thương trên chiến trường, được mẹ tôi bảo lãnh theo diện đoàn tụ, bà lo cho ông hưởng tiền trợ cấp tàn phế. Lúc tôi được hơn 3 tuổi, bố tôi và mẹ tôi ly dị, bà đã lập gia đình với một người đàn ông khác, nhường tôi lại cho bố tôi nuôi. Trong ký ức trẻ thơ, tôi có hình dung được hình ảnh của mẹ tôi một vài lần, khi bà đến thăm, nhưng rất xa lạ, vì luôn luôn bà đi với một người đàn ông nhìn tôi với ánh mắt lạnh lùng.
                Tôi có tí mặc cảm về địa vị bố tôi ngoài xã hội, so với bố của những đứa trẻ khác, tuy nhiên việc chăm sóc tôi thì hoàn hảo, ông chăm lo cho tôi từ việc lớn đến việc nhỏ, không phải đụng tay vào bất cứ thứ gì. Trong suốt thời gian tôi học tiểu học, ông còn thuyết phục ông tài xế xe bus đón tôi đi học ngay tại cửa nhà, thay vì ở trạm xe , cách xa nhà tôi 4 dãy phố. Khi tôi bước vào nhà, lúc nào bố tôi cũng chuẩn bị sẵn thức ăn trưa, nào cá kho, thịt kho, rau xào và có cả canh nữa. Lâu lâu cũng có thức ăn Mỹ, sandwich, hamburger, bơ đậu phộng, và còn thay đổi theo mùa. Giáng Sinh bánh có viền xanh hình cây thông, Valentine có hình trái tim..vv...
                Khi tôi lớn hơn một chút, vào năm đầu tiên trung học, tôi lại thích sống độc lập, tôi muốn thoát ra những cử chỉ yêu thương dành cho con nít của bố, vì sợ chúng bạn trêu chọc. Nhưng chẳng bao giờ bố buông tha tôi cả, một đôi khi tôi rất bực mình.
                Cấp trung học, tôi không thể về nhà ăn cơm được nữa, phải bắt đầu tập tự lo cho mình. Nhưng bố tôi lại thức dậy sớm hơn thường lệ để chuẩn bị bữa ăn trưa cho tôi. Ông cẩn thận ghi cả tên tôi bên ngoài túi giấy đựng đồ ăn. Lật dưới đít bao giấy, luôn luôn có một vài hình vẽ nhỏ, khi thì căn nhà, khi thì dòng suối, ngọn núi, chim cá và hình trái tim với dòng chữ “I Love You Tammy!” Nào hết đâu, bên trong những chiếc khăn giấy cũng có những dòng chữ triều mến “Bố thương con nhiều”. Ông luôn viết, hay có những câu nói bông đùa như thế để nhắc nhở là ông yêu thương tôi nhiều, và muốn làm cho tôi vui.
                Tôi thường lén ăn trưa một mình để không ai thấy được cái túi giấy và khăn ăn. Nhưng cũng chẳng giấu được lâu. Một hôm, một đứa bạn tình cờ thấy khăn ăn của tôi, nó chộp lấy la lên và chuyền đi khắp căn phòng cho mọi người xem. Mặt tôi nóng bừng, bối rối, mắc cỡ muốn chui đầu xuống đất.
                Bữa hôm đó tôi về, đã làm mặt giận với bố tôi và “cấm” ông ấy không được viết, vẽ “bậy bạ” trên khăn giấy nữa, để bạn bè không coi tôi như đứa con nít lúc nào cũng cần người lớn chăm sóc. Lần đầu tiên tôi thấy bố tôi buồn, lặng lẽ vào phòng đóng cửa.
                Ngày hôm sau, tôi vô cùng ngạc nhiên vì tất cả bạn bè bu chung quanh tôi, chờ để được xem chiếc khăn ăn, nhưng lần này thì trống trơn, không có dòng chữ hay hình vẽ gì cả. Nhìn mặt bọn chúng thất vọng, hụt hẫng, tôi mới hiểu ra, tất cả chúng nó đều mong ước có một ai đó biểu lộ tình thương yêu ngọt ngào giống vậy đối với chúng. Lúc đó lòng tôi len lén cảm thấy vui vui, dâng lên niềm tự hào về bố. Tôi vội về làm lành với bố, và những giòng chữ, những hình vẽ yêu thương lại tiếp tục.
                Những năm còn lại trong trường trung học, tôi vẫn đều đều có những chiếc khăn đặc biệt ấy. Và từ đó, tôi giữ lại, chứa trong một cái hộp riêng, giấu kín.
                Chưa hết, khi vào đại học, tôi phải rời xa bố, tôi nghĩ thông điệp xưa kia của bố sẽ phải chấm dứt. Nhưng tôi và bạn bè rất vui sướng vì những cử chỉ biểu lộ tình cảm của bố tôi vẫn tiếp tục qua hình thức khác.
                Ở cấp đại học, dĩ nhiên không còn thấy bố tôi đứng chờ khi tan học, vì thế, tôi hay gọi điện thoại cho ông, chi phí điện thoại khá cao, nhưng không sao, tôi chỉ muốn nghe được giọng nói của ông mà thôi.
                Suốt năm học đầu tiên, chúng tôi quen lối nói chuyện như thế và sau đó kéo dài một năm. Thường thì sau khi tôi nói lời tạm biệt, câu cuối cùng không bao giờ thiếu.
                “Này Tammy”
                Tôi thường trả lời “Dạ, gì thế bố?”
                “Bố thương con nhiều.”
                “Con cũng thế. I Love You!”
                Hình như bố tôi nhận ra chi phí mắc mỏ cho những cuộc điện đàm, từ đó, tôi bắt đầu nhận thư mỗi thứ sáu. Ban thường trực phát thư của trường đều biết ai là người thường gửi lá thư này, mặc dù địa chỉ hồi âm luôn luôn ghi là KBC 1678. (Sau này tôi khám phá ra, KBC viết tắt là Khu Bưu Chính, địa chỉ trong quân đội ngày trước nơi bố tôi phục vụ. Còn số 1678 dễ quá, là số nhà tôi hiện tại.)
                Nhiều lúc bên ngoài bì thư, địa chỉ được viết bằng bút chì và tiếp theo đó là những lá thư có hình con mèo và con chó của gia đình tôi, có vẽ những hình tháp nhiều từng, hình cây cầu nhiều nhịp in trên sóng nước. Hè năm đó, bố tôi và tôi du lịch về Việt Nam, lúc đó tôi mới biết là Chùa Một Cột, Chùa Thiên Mụ, Cầu Tràng Tiền v.v...
                Sau chuyến du lịch ấy, tôi tìm hiểu về Việt nam nhiều hơn, nhất là cuộc chiến tranh trước 75, tôi bắt đầu thấy thương bố nhiều, ông là người lính bại trận, nhưng quân lực ấy đã chiến đấu dũng cảm cho tự do, cho hạnh phúc của người dân miền Nam trong suốt 20 năm. Nếu không bị đồng minh bán đứng, cuộc chiến chưa chắc ai thắng ai.
                Thư đến và được phát mỗi ngày sau buổi ăn trưa. Tôi thường đi nhận thư và mang theo mỗi khi đi uống cà phê. Tôi nhận thấy chẳng cần phải giấu giếm làm gì nữa, bởi bạn cùng phòng tôi là những đứa bạn hồi còn trung học, chúng nó biết rất rõ về những chiếc bao giấy, khăn ăn. Và rồi trở thành như một tập tục, tôi đọc thư, còn bì thư và hình vẽ thì được chuyển khắp bạn bè, thư từ bố tôi thành niềm vui của cả phòng.
                Trong năm cuối cùng đại học, bố tôi bị căn bịnh ung thư hành hạ. Mỗi khi tôi không nhận được thư vào ngày thứ sáu, tôi biết ông ốm nặng, không thể viết được. Ông thường thức dậy lúc 4 giờ sáng để có thể ngồi trong nhà yên tĩnh nắn nót viết những lá thư. Nếu không kịp cho đợt phát thư vào thứ sáu, thì chỉ sau đó, một hai ngày, thế nào rồi thư cũng đến. Bạn bè tôi bình bầu ông là “Người cha thương con nhất trên thế giới này!”
                Ngày lễ cha, Father’s Day, chúng nó gởi một tấm thiệp phong tặng ông danh hiệu đó và tất cả đều ký tên trên tấm thiệp. Tôi tin rằng ông đã dạy cho tất cả chúng tôi về tình phụ tử, bạn bè tôi bắt đầu nhận những tấm khăn ăn giống như tôi từ gia đình chúng nó, với những lời để lại ấn tượng mà sẽ thôi thúc họ hãy biểu hiện tình thương của họ với con cái sau này.
                Suốt thời gian đại học, những lá thư và những cú điện thoại như một chu kỳ đều đặn.
                Ngày ra trường, tôi quyết định chọn công việc làm gần nhà, để được ở cạnh bố tôi, vì căn bệnh bố càng ngày càng nặng. Thời gian được ở gần bố không còn bao nhiêu lâu nữa.
                Đó là những giây phút khó khăn, đau khổ nhất cuộc đời tôi phải trải qua.
                Tôi ở bên cạnh bố tôi một vài ngày trong bệnh viện trước khi ông mất. Vài giờ trước khi hấp hối, ông nắm tay tôi bảo “Bố nhờ con một điều, con về nhà lấy cho bố cái hộp gỗ mà bố để trên đầu tủ, đây là hộp chứa đựng những kỷ niệm đời lính mà bố yêu thương nhất. Bố muốn nhìn nó lại một lần.”







                Tôi lái xe về nhà, và cũng tìm ra ngay chiếc hộp phủ đầy bụi thời gian. Có gì bên trong? Tôi tò mò mở nắp hộp. Mắt tôi bắt đầu cay cay nhòa lệ, khi nhìn thấy những tấm hình của bố tôi còn trẻ, đứng bên cạnh chiếc trực thăng chiến đấu trong bộ quân phục thật oai phong. Có những tấm chụp chung với những người lính bộ binh cầm súng đằng sau chiến trường còn bốc mùi lửa khói. Lật ra đàng sau, những ngày tháng cũ, 68, 70, 71, 72... với những địa danh xa lạ: An Lộc, Bình Long, Đồng Xoài, Khe Sanh... Dưới đáy hộp là căn cước quân nhân, giấy giải ngũ và những tấm huy chương, bộ lon gắn trên cổ áo khi ông mặc những bộ quân phục.
                Bây giờ thì tôi mới hiểu hết, không còn mặc cảm hình ảnh có ông bố tàn tật chỉ biết lo việc “nội trợ”, ngược lại là đàng khác, Bố tôi đã một thời là một người lính chiến oai hùng, đổ máu hy sinh một phần thân thể mình cho một cuộc chiến đầy chính nghĩa, bảo vệ quê hương.
                Rõ ràng bố tôi chăm sóc tôi, vui vẻ làm những việc của người phụ nữ bao nhiêu năm nay, chỉ vì tình thương con mà thôi. Ông thật là người cha tuyệt vời
                Tôi ôm cái hộp, chạy gấp lại bệnh viện, định nói lời xin lỗi với người cha thân yêu của mình, nhưng đã trễ! Người y tá trực cho biết, bố tôi vừa trút hơi thở cuối cùng. Rồi người y tá trao cho tôi chiếc khăn giấy nhà thương, với giòng chữ cuối cùng run rẩy của một người cha dành cho con “Tammy, ba thương con nhiều! Vĩnh biệt!”
                Nước mắt tôi trào ra như suối, cầm tấm khăn giấy trong tay áp vào ngực, tấm khăn giấy cuối cùng, mà cả cuộc đời mãi mãi không còn nhận được nữa.
                Lúc liệm xác, tôi bỏ theo chiếc hộp kỷ niệm đời lính vào hòm cho bố, còn những chiếc khăn giấy tôi sẽ giữ mãi bên cạnh cả cuộc đời tôi.
                Bây giờ thì những chiếc khăn giấy đã đổi màu vàng khè, nhưng tình tôi dành cho người bố càng ngày càng thấm thiết, bất diệt, muôn đời không thay đổi.
                Happy Father’s Day
                Mừng Ngày Của Bố
                Mừng ngày Quân Lực 19/6/2010


                KQ Lê Văn Hải
                Last edited by hung45qs; 11-02-2010, 04:28 PM.
                Hung45HTQS

                Comment


                • #38
                  NGÀY VỀ



                  Chinh chiến người đi mãi chẳng về
                  Người còn ở lại dệt tình quê
                  Hương xưa còn ngát bờ ao lúa
                  Bụi đỏ phong trần trong giấc mê

                  Người vẫn còn xa ánh lửa hồng
                  Vầng trăng cô lẻ bóng phòng không
                  Ai ngồi đan áo mùa đông đến
                  Gởi cánh chim bay vạn nẻo đường

                  Chinh chiến người đi có trở về
                  Người thành góa phụ đợi bên song
                  Lệ rơi rơi lắm nhiều năm lẽ
                  Ai bỏ đời ai sớm muộn màng

                  Chinh chiến người về một sớm mai
                  Gặp nhau ngày ấy lệ vơi đầy
                  Tóc ai đã trắng mùa thương nhớ
                  Lòng ai nở rộ cuộc tình mơ


                  HOA SỨ
                  Last edited by hung45qs; 11-03-2010, 06:32 PM.
                  Hung45HTQS

                  Comment


                  • #39
                    Người Yêu Của Lính



                    Các Anh Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân thân mến.

                    Khi quê hương còn trong khói lửa, khung trời mây xám đầy cánh sắt dưới đóm mắt hỏa châu, sao hôm vẫn đứng một mình, âm thầm lặng lẽ hiền hoà dướí đám mây mù che lấp và cố chen chút những tia sáng lung linh để soi mòn lối nhỏ.... khi những cánh chim sắt quên đường về…. tiếng súng vẫn rền vang, tiếng bom nổ ì ầm của vùng trời giới tuyến, dưới dãy ngân hà chập chùng có tiếng nỉ non của loài côn trùng như tiếng khóc ru ai oán cho cuộc đời của người chiến sĩ ra đi không người đưa... trở về không người đón.... Sự sống chết gần kề trong phút chốc và trong gang tấc.

                    Các anh đã vứt áo thư sinh, từ bỏ thời gian trai trẻ, đẹp nhất của đời mình.. Với những chiều tay trong tay trên phố Bodard mưa nhạt... mưa nhoà, hay những ngày ôm cây đàn bên dòng sông xưa.... nghêu ngao giọng hò Nam bộ..... ghẹo tình cô thôn nữ e ấp dưới chiếc nón bài thơ..... Các anh đã sống với những đóng góp thật nhiều xương máu, một sự hy sinh đầy ý nghĩa nhất cho cuộc đời. Các chiến sĩ là những người sống có lý tưởng..... đã làm những gì đẹp nhất cho quê hương, giữ gìn bờ cõi để các em nhỏ còn thẹn thò núp áo Mẹ cắp sách đến trường làng vớí tiếng... ê... a...... Bác nông dân cày bừa, lom khom dưới đám mạ non, nghe mục đồng ngồi trên lưng trâu thổi sáo, đưa trâu về chuồng, chiếc xe bò chở lúa gập ghềnh chậm rãi trên bờ đê, một cuộc sống yên bình hiền hòa, chất phác chứa ẩn trong lòng một sự kiên cường nhất của dân tộc ta.

                    Hôm nay đây, trải qua bao cuộc sống đầy vất vả cam go của kẻ ly hương, tuổi đời chồng chất, chân mòn gối mỏi, để cho tâm hồn được thanh thản hay cũng để chuẩn bị cho sự lùi về phía sau... dành cho thế hệ tương lai nối tiếp. Một sự ghi ơn rất trân trọng cho những người nằm xuống đã hy sinh vì Tổ Quốc mà khi ra đi là giã biệt người thân...... Ánh mắt Cha già cứ mãi ngóng trông ở lối đi về, Mẹ thân xác gầy gò, dấu đi hàng lệ rơi trong khoé mắt, luôn cầu nguyện cho con được bình an trong đường tên mũi đạn, có những... người vợ ngày hai buổi gồng gánh, tay xách vai mang, dãi nắng dầm mưa vừa làm Mẹ và thay Cha trong những ngày chăn đơn gối chiếc, một lòng son sắc nuôi nấng dạy dỗ đám con thơ dại, từng đêm mòn mõi trông chờ những lá thư các anh từ chiến trường được bình yên. Cũng thật may mắn hơn, còn các anh được đọc những lá thư từ "Người yêu của lính" mong chờ... đẻ cùng hoà đồng nhịp cảm của một tình yêu da diết ở con tim......
                    Nhưng ngày trở về.... có khi là chiếc khăn tang với nén hương quỳ bên nắm mộ Mẹ, người còn đâu nữa... còn đâu những ngày lặn lội bờ đê, ngày hai buổi với cơm canh rau cà ãm đạm..... còn đâu người ngồi tựa cửa vá áo cho con, mắt mỏi mòn trông bóng dáng đứa con, để được vuốt ve ân cần cho đứa con trai như những lần con đi học về, trên bờ đê đạp chiếc xe đạp cọc cạch thật nhanh, vứt cặp vở chạy đi tìm kiếm.... Mẹ, Mẹ ơi... Mẹ ơi !

                    Cũng thật vô cùng đau xót, không gì đau đớn cho bằng cho những chiến sĩ ra đi biền biệt bỏ thân nơi sa trường trận mạc, hay trở về bằng tấm Thẻ bài, chiếc Poncho ấp ủ... phủ kín đời con..... hoặc làm kẻ trở về trên cây nạng gổ ,trên chiếc xe lăn ,đầy dẫy những bệnh tật vương vấn mãi không buông tha cho kiếp sống tật nguyền.... Việt Nam ta là một nước nhỏ bé, con người tuy nhỏ bé, nhưng ý chí mãnh liệt với những sự hy sinh cao đẹp của các anh.... đã đánh dấu sự khâm phục của Thế giới, cũng như để lại một nền tảng hào hùng trong lịch sử cho xứ sở quê hương , cho cả thế hệ đi sau........

                    Tổ Quốc Ghi Ơn
                    Đời Đời Nhớ Ơn Các Anh!


                    Nghe tin ngày Đại Hội SVSQ KQ Liên Khoá 72-73 của các anh sắp gần kề, là ngày các anh hãy trở lại núi rừng trong những giây phút thiêng liêng hiện hữu, cùng những bạn bè từ các nơi, tay bắt mặt mừng, hồi âm lại quá khứ của những trận đánh khốc liệt, những lần đem về chiến thắng vẽ vang, ngày hôm nay với sức sống tràn đầy, hãy nâng ly chúc tụng sức khỏe, lòng ấm áp hoà theo tiếng nhạc.... tiếng ca hào hùng ... thay cho tiếng súng.... Giả -Từ-Vũ-Khí!!!!
                    Các anh cũng đã có những trận chiến thắng trở về thật lừng lẫy, kiêu hùng. Đừng bao giờ nghĩ rằng là những kẻ bại trận...... trong bất cứ trận đấu nào, cuộc chiến nào cũng đều có chiến thắng hay thất bại, tất cả đều là máu đổ, tang tóc và sự chia ly..... Các anh không bao giờ là kẻ bại trận hay thua cuộc, các anh vẫn còn chiến đấu đến giây phút cuối cùng.... trong tư tưởng vẫn còn ý chí hào hùng, trong những lần rợp trời tung bay cánh sắt, một hình ảnh hiên ngang... kiêu hùng của một thời trai ngang dọc.. luôn ngự trị ở tâm hồn của các anh.... mãi cho đến ngày hôm nay.... Đó là lòng yêu Quê hương và Tổ Quốc, trong tinh thần một lòng giữ nước lẩn ý chí quật cường của toàn dân ta đã trải qua bốn ngàn năm văn hiến "Dựng nước Giữ nước"..... đánh đuổi giặc Tàu, quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi.
                    Tôi yêu tiếng nước tôi!...Tôi yêu quê hương tôi !
                    Lời cầu chúc riêng đến tất cả các anh SVSQ KQ Liên Khóa 72-73 trong kỳ Hội Ngộ Liên Khoá nầy, công ơn các anh sẽ được trả bằng những ngày yên vui và thoải mái nhất trong suốt cuộc đời còn lại với những chiến thắng lẫy lừng và những chiến công lẫm liệt của các chiến sĩ là "Một Thời Để Nhớ ...Để Yêu" trong một trang Sữ Oai Hùng của Dân Tộc Việt Nam Cộng Hoà... ghi tạc đến ngàn đời sau.

                    Và vẫn mãi mãi yêu anh....... người chiến sĩ !


                    Em Gái Hậu Phương
                    Canhen
                    Last edited by hung45qs; 11-03-2010, 08:31 PM.
                    Hung45HTQS

                    Comment


                    • #40
                      Nha Trang ngày về



                      Tín biết cuối cùng rồi anh cũng chỉ là chiếc bóng của Ngọc. Chiếc bóng cứ bên cạnh Ngọc chảy trôi trên suốt đường đời. Sau ngày 30 tháng 4 năm 75 Tín trở về quê chịu đựng những tháng ngày đày đoạn vì đã là người lính. Anh cố gắng sống để nhận ra mình vẫn còn tồn tại sau cuộc chiến dài. Trong những ngày đổi đời đó Tín gặp lại Ngọc. Cô lúc nào cũng ngọc ngà óng chuốt như tên của cô. Còn anh lúc nào cũng chạy theo sau niềm ao ước của mình.

                      Tín nhớ lại lúc anh sắp vào lính vào cuối mùa hè năm 72, tình cờ gặp Ngọc. Tình yêu bùng vỡ. Tín chỉ còn lại vài ngày ở quê nhà, sau đó, là những thăng trầm trong đời quân ngũ. Anh yêu Ngọc vội vã như chưa bao giờ được yêu và trả giá cho tình yêu mãnh liệt này là những đêm mộng mị về Ngọc. Tín lang thang trong những đêm trăng, vội vã trong những buổi chiều để tìm gặp người yêu. Anh thu vén tình yêu vào một góc nhỏ của cuộc đời, nơi đó chỉ có mình anh tận hưởng.

                      Chỉ vài tháng sau Tín làm sinh viên sĩ quan (SVSQ) của quân trường Không Quân (KQ) Nha Trang. Anh đã xa Ngọc ở một nơi rất xa, nhưng vào một buổi chiều, khi toán quân đang di chuyển cho một lần học quân sự „ké“ bên quân trường Đồng Đế, Tín đã gặp một cô gái giống y như Ngọc. Tín bắt gặp lại hình ảnh Ngọc. Cô gái đang chăm sóc vườn cây trái. Tín bên ngoài khu vườn. Cô gái bên trong khu vườn, đang với tay hái mấy trái ổi trên cành. Biết mình đã lầm người nhưng là cái lầm thật vui. Tín không thể nào quên ngay được lầm lỗi đáng yêu ngày ấy. Như vậy với Tín có nghĩa là Ngọc đã rời Sài Gòn và ra đến tận Nha Trang với Tín qua hình ảnh cô gái.

                      Tháng 10 năm 1972, trước khi mang túi quần áo vào Quân Vụ Thị Trấn để trình diện đi lính, Ngọc rủ Tín với hai người bạn, một trai một gái, về quê cô „chơi“ một lần cho biết. Tín quê ở miền Đông Nam phần, lớn lên về học ở Sài Gòn, chưa biết gì về sông rạch miền Tây, những buổi chiều hơi sương trên sông Vàm Cỏ, những cô gái mỹ miều trên một góc đường ở bến Ninh Kiều, Tây Đô. Mọi điều đối với anh đều rất còn xa lạ như môi người tình của cậu thiếu niên ở tuổi mười lăm vẫn còn là những mộng mị, ước mơ. Nhưng quê Ngọc không phải ở trên sông Vàm Cỏ hay bến Ninh Kiều. Quê Ngọc ở tận Núi Sập thuộc tỉnh An Giang. Những địa danh xa xôi của miền Tây Nam nước Việt. Buổi chiều ngồi trên chiếc suồng ba lá với khoảng chừng mười lữ khách đi từ bến xe Long Xuyên về Núi Sập, Tín mới biết thế nào là cuộc sống Miệt Vườn của những cuộc đời trôi dạt theo những bến sông. Suốt một đoạn đường dài, nhìn lên là thấy những ngọn cây lá cây màu xanh tươi với đầy hoa trái, nhưng nếu nhìn dọc hai bờ sông sẽ thấy toàn một màu bùn đen sông rạch, thấy những thân cò lặn lội bờ sông, những thiếu nữ tóc mai sợi vắn sợi dài với chiếc áo bà ba chân không lam lũ. Những cậu bé ngây thơ đánh đu tòn ten trên những cây bần cây đước. Những chú heo ụt ịt, dạo ăn quanh những căn nhà lá, mái tranh chiều đang ủ chụp những làn khói mảnh như sương.


                      Quê Ngọc ngày đó đem lại cho Tín nhiều thích thú, y như ngày đầu tiên anh bị „hốt hồn“ khi bắt gặp Ngọc trong Thảo Cầm Viên ở Sài Gòn khi cô đang vui đùa với những chú khỉ. Cô gái với chiếc áo dài trắng thướt tha (các cô nữ sinh ngày ấy bao giờ lại không thướt tha!) đang đi với một cô bạn gái. Mái tóc dài đến đến bờ vai, dáng người mảnh khảnh, môi mộng đỏ như chuẩn bị đón những nụ hôn từ những ngọn gió lùa khi mùa xuân sắp đến. Tín không nhớ là nguyên do nào anh đã quen Ngọc. Nhưng anh biết chắc ngày đầu tiên hai đứa quen nhau là một buổi trưa đầu hè trong sở thú hôm đó. Ngọc đi với một cô bạn gái và anh cũng đi với một người bạn trai. Tiếng chim hót trong vườn Bách Thảo trong buổi trưa đã thay tiếng tơ tình từ hai đứa. Ngày cuối tuần trời Sài Gòn bên ngoài vẫn đầy ồn ào tiếng động, nhưng chỉ cách vài trăm mét đã là yên ắng, đã là chơi vơi. Những ngày sau đó, Tín chỉ đi với Ngọc, và Ngọc cũng chỉ có Tín, tay trong tay khi hai người hẹn hò gặp nhau trong một ngày cuối tuần nào đó trong thành phố Sài Gòn.

                      Ngọc đã dẫn Tín đi trên những con đường quê của cô, đất đá lồi lõm, như những chiếc lưng khòm của những bác nông phu già đang ngồi trên những chiếc xe bò, xe trâu trong buổi chiều nơi quê cô. Vùng Núi Sập có những cây thốt nốt. Ngọc chỉ cho Tín xem khi thấy một người nào đó đang lấy nước thốt nốt trên cây. Một mình anh ta „lã lơi“ trên cành nhánh. Ngọc chỉ cho Tín xem gánh xôi của cô gái quê trong phiên chợ sáng. Cô gái quê bán xôi ở Núi Sập như hàng hàng lớp lớp những cô gái quê trên mọi nẽo đường Việt Nam. Bàn tay gọn gàng vội vã với những nắm xôi, buôn bán không chỉ bằng môi miệng mà còn bằng ánh mắt. Ánh mắt của những cô gái một nắng hai sương, lúc nào cũng muốn là vui lòng ở mỗi người khách: vừa mời mọc, vừa van lơn, kêu gọi. Ngọc chỉ cho Tín xem quán cà phê nơi góc đường, khi chiều đã đi và đêm dần đến. Cô chủ hàng cà phê, theo như Ngọc kể, đã là nơi hẹn hò của những người lính Địa Phương Quân rày đây mai đó khi có dịp đóng quân ở đây. Nước da trắng, mặt mày hồng hào, dáng người khoẻ mạnh, cô chủ quán cà phê đã như đóa hoa hồng thu hút những bướm ong xa lạ.

                      Không như cô chủ hàng cà phê, Ngọc ngày đó gầy gò hơn, nhỏ hơn, nhưng nước da Ngọc trắng, màu trắng của những cô gái ở Sài Gòn. Ngọc lại có chiếc răng nanh duyên dáng mỗi khi cô cười. Là dân gốc Núi Sập, nhưng trông Ngọc như dân Sài Thành thứ thiệt. Những ngày gặp Ngọc là những ngày mộng mơ cho một tình yêu của chàng thanh niên mới lớn tên Tín. Ngôi nhà Ngọc tọa lạc trong một khu vườn rộng lớn, nhà có cả kho chứa lúa phía sau. Tín nghe Ngọc kể, nhà cô có mấy chục mẫu ruộng. Ba cô quanh năm làm ruộng để nuôi chị em cô ăn học ở Sài Gòn. Nhìn ba Ngọc, Tín nghĩ nghề làm ruộng nhưng chắc là ông chỉ mướn người ta làm rồi cuối mùa đong lúa trả, vì trông ông thảnh thơi, tận hưởng. Má Ngọc trông giống mấy bà Biện, bà Lý thời xưa trong những tuồng cải lương đang hát ở Sài Gòn.


                      Nhưng chỉ sau đó vài ba tháng Tín đã lăn lộn ở miền Trung nắng nóng đến rát da. Tín đã trở thành người lính Không Quân đang học giai đoạn quân sự trong quân trường Đồng Đế Nha Trang, đã trở thành người bạn của những loại súng, những đường dây tử thần, giao thông hào, đoạn đường chiến binh v.v…, y như lính bộ binh thứ thiệt, nhưng Tín cũng còn là bạn những cô gái bán chè xôi, bánh ngọt, nước trà đá… trên những bãi tập miền biển cát nóng phỏng da này. Hình ảnh Ngọc đã vời vợi mất hút nơi khung trời Sài Gòn. Ngọc đã xa Tín, Tín đã xa Ngọc, vòng tay ôm đã trả lại cho người. Những cánh thư viết gửi về Sài Gòn không thấy hồi âm. Bàn tay, dòng chữ, hơi hướng Ngọc đã xa vời vợi, đã bị cuốn hút bởi chiến tranh và bởi những đoạn đường xe không còn yên bình trên đất nước. Buồn quá Tín lại làm quen với Mẫn trong một lần đi phép ở phố Nha Trang. Mẫn quê ở Thành, cách Nha Trang gần hai mươi cây số. Mẫn có cách đẹp khác Ngọc, và rất „riêng tây“ (1). Vẫn người nhỏ, vẫn khuôn mặt xinh, nhưng khác một điều Mẫn không có màu nước da trắng như Ngọc, mà là màu da bánh mật, màu „biển mặn“, và Mẫn cũng không mảnh khảnh như Ngọc mà lại hồng hào có da có thịt. Chiếc áo dài màu hoa hồng sậm ngày ấy khi nàng đi dạo với Tín trên bãi biển ở Hòn Chòng, cũng làm cho các cậu còng gió nếu hiện diện nơi đây sẽ điên đảo trước nhan sắc của cô gái ở Thành.

                      Tín yêu Nha Trang ngày đó không chỉ qua các cô gái Nha–Thành, như Mẫn, mà còn qua những hàng dừa chạy dài theo bãi biển để cho bóng mát như mái tóc của một cô gái buông lã lơi xuống đến thắt lưng, mỗi khi gặp làn gió nhẹ đã điểm trang cho khuôn mặt thêm vẻ khêu gợi, tình tứ. Tín cũng yêu Cầu Đá, Hòn Chòng, Chợ Đầm và những con đường Phước Hải, Độc lập…, mà buổi chiều thứ bảy có lần đã vào một quán kem với người bạn lính khi trời bên ngoài trời đã se se lạnh. Nhìn khói thuốc từ miệng bạn bay lên, Tín mới thắm thía cho kiếp sống xa nhà của các bạn anh và ngay cả của chính mình, cô đơn bay vào không gian, như cứ mỗi buổi sáng những chiếc Cesna tập lái cô đơn bay vào cõi trời bao la của biển núi, hay cứ chiều chiều, khi trời chạng vạng, chiếc C47 màu đen thui với ánh đèn chớp tắt, cô đơn một mình cất rời phi đạo, lao vào bóng đêm để tiếp viện, làm „lên tinh thần“ cho những anh Nghĩa quân, Điạ Phương Quân đang làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trên các trục lộ giao thông, hay những chiếc cầu quan trọng, để Huyền thoại về một chiếc cầu đã gảy không thể tái diễn nữa. Nha Trang ngày đó là như vậy.

                      Ngày đó, Tín đến Nha Trang sau Nghĩa, làm đàn em của Nghĩa. Nghĩa không có huấn nhục trực tiếp Tín, không phải là Khánh là Tốt (72G), không phải là Hòa (73C), những niên trưởng chịu trách nhiệm huấn nhục khóa Tín, nên Nghĩa không thể giảm cho Tín một cái hít đất hay một lần đi „bay đêm“ với các bạn đồng khóa. Nhưng mỗi khi Nghĩa xuất hiện ở cửa phòng Thiên Nga của Tín, ôi thằng bạn cùng lớp tên Nghĩa ấy đã đem lại cho Tín đầy sức mạnh để tiếp tục „đón tiếp“ thêm một ngày mai „thê thảm“, trong chuổi ba mươi ngày dài huấn nhục. Nghĩa chỉ cười cười nháy mắt ra tín hiệu, như cho Tín biết mọi việc huấn nhục cho SVSQ KQ ở quân trường Nha Trang này như là trò chơi để thử sức các tân khóa sinh, những người gọi là những thanh niên rường cột nước nhà, để xem các anh có sức khoẻ tới đâu, hào hùng tới đâu mà dám vào đăng ký để đi lính KQ. Bằng chứng là mỗi lần đến đứng nơi đầu Barrack, nhìn Tín, Nghĩa lúc nào cũng cười với nụ cười thật tươi, trong khi mới vài ba tháng trước đây Nghĩa cũng giống như Tín „bay đêm bay ngày“, húp nước mắm, môi miệng khô ran và lở vì thiếu nước. Nghĩa đã đem lại cho Tín nghị lực để vượt qua bốn tuần huấn nhục.


                      Ngày đó, thiếu tá Bé, Đoàn trưởng đoàn SVSQ KQ lúc nào cũng nghiêm trang nhưng hiên ngang với bộ đồ bay màu xanh sậm với chiếc xe Dogt màu xanh da trời. Đại úy Thắng, Đoàn phó, cũng với bộ đồ bay, không những nghiêm như thiếu tá Bé mà còn „ngầu“ nữa bởi bộ râu. Không những „ngầu“ trong lúc đi lại, làm việc trong trại Ngân Hà, Thiên Nga mà ngay cả những lúc đã ngồi trên chiếc xe Lambrettic rời trại để về nhà với bà xả (hay với người yêu?) cũng còn „ngầu“. Thành thật mà nói, thuở ấy, hai vị sĩ quan này rất đẹp trai, rất Không Quân. Ngày đó có việc gì mà phải lên trình diện thiếu tá, đại úy là chết! Làm như nếu không ngầu, không nghiêm không làm được cán bộ cho đoàn SVSQ? Kỷ niệm một lần Tín có với thiếu tá Đoàn trưởng là buổi sáng ngày lễ Phật Đản. Tưởng gặp ngày lễ Phật là sẽ có một ngày rảnh rang. Tưởng vậy mà không phải vậy. Rảnh mà không rảnh. Mặc cho ngày thứ bảy, gặp ngày lễ Phật Đản là các khóa sinh theo đạo Phật phải đi… chùa (chớ không phải đi phố!). Gặp lúc Tín đã mặc đồ xong nhưng còn „chậm chạp“ chưa chịu đi chùa, thiếu tá đã quát. Anh có phải là người theo đạo Phật không? Với cái chào Tín làm ngay như một người máy: SVSQ ….. khoá ….trình diện thiếu tá! Thiếu tá vừa chào vừa lập lại câu hỏi: Anh có phải là người theo đạo Phật không? Dạ phải! Phải mà giờ này anh còn ở đây à? Dạ…! Dạ cái gì? Anh làm cho tôi 10 cái hít đất coi! Tín nghĩ: Buổi sáng chưa tập thể dục thì 10 cái hít đất nhằm nhò gì thiếu tá. Thiếu tá còn nói bâng quơ như để „ hăm dọa“ đến với các bạn khác. Các anh không phải vô thần, các anh có đạo các anh phải đi chùa, đi nhà thờ. Lính thuở VNCH là vậy, không biết bây giờ bộ đội ở VN ra sao!? Phu nhân thiếu tá ngày đó là cô giáo trong một trường trung học ở ngoài phố Nha Trang. Trong một lần Tín đã thấy mặt cô, khi cô cùng chồng vào trại Thiên Nga. Mặt cô rất phúc hậu.

                      Đó là kỷ niệm cho những lần hít đất, nhảy xổm lai rai, chứ còn chuyện bị cạo đầu (Tông-đưa chỉ đi một đường lã lướt sát da đầu từ trước tráng ra tận sau ót đủ…gọi là… cạo rồi!) là chuyện cả khóa đều bị chứ đâu phải mình Tín bị đâu mà phải ráng nhớ. Nhưng ngày ấy có nhiều bạn không chịu đi cạo trọc luôn, ỷ lại tóc còn đang dài nên cứ lấy tóc cho che „đường rảnh“ trên đầu là qua mắt được các người đẹp Nha Thành, như Nhân đã làm, lại lấy làm hảnh diện lắm. Giống y những người dân quê lấy lá dừa đắp lên những đường mương nuôi cá. Không biết bây giờ Nhân, gốc gác Hố Nai, ở đâu rồi? Có nghe rõ năm trên năm không?

                      Trung úy Tấn những ngày Tín ở Nha Trang thì chuyên lo về tiếp liệu. Cô „ trung úy“ là cô thợ may, may hầu hết đồ đi phép của SVSQ trong một hiệu may rất nhỏ nằm ngay trong trại. Trung Úy Tấn ngày đó không „ngầu“, lại còn hay cười đùa với khóa sinh, nhất là những lúc đi đá banh hoặc đánh bóng chuyền với các SVSQ.

                      Còn Trung Tá Lăng, Chuẩn Tướng Oánh, những ngôi sao nằm tuốt ở trời xanh, Tín chỉ thấy mặt hai ông trong buổi sáng thứ hai khi chào cờ. Mà cũng không thấy rõ được mặt chuẩn tướng vì lúc nào ông cũng đeo kiến đen. Nghe nói HAI TÊ (2), là cháu của chuẩn tướng ngày đó, nhưng cũng bị phạt như điên, chẳng „con ông cháu cha“ gì cả. Tê Anh thì Tín không nhớ không thấy (có thể ở toán khác trong lúc huấn nhục) chứ Tê Em thì Tín thấy cũng bị đàn anh phạt kinh hoàng, vì Tê Em cao ráo, hay đứng đầu hàng. Y như Đạt từ Đà Nẳng vào, cũng nghe nói có „cậu làm lớn“ nhưng cũng bị phạt te tua. Hình như nghe nói ai có thân nhân „làm lớn“ lại càng bị phạt nặng! Đúng là mấy niên trưởng mình ngày đó điếc không sợ súng. Không biết Đạt bây giờ ở đâu? Chắc là Trần Viễn biết. Cũng giống như Dũng Hitler, mà Dũng giống Hitler thật, lúc ở Tân Sân Nhất, Dũng đã quần đàn em vô sau quá cở...thợ mộc, nên tin dữ đã đến Nha Thành. Thế là ngày đến Nha Trang, Dũng Hitler là một trong những người bị phạt nặng nhất. Đâu ông nào là Dũng Hitler đâu? Ra trình diện niên trưởng thử coi! Ông đã.. „giết“… đàn em ông ở trong Tân Sân Nhất phải không? Bây giờ ông „giết“ tụi tôi thử coi. Ôi cái giọng „chì chiết“ của đàn anh nghe sao mà dễ…sợ! Sau đó Tín không thấy Dũng Hitler nữa. Dũng Hitler „đi bay“ một mình mất biệt. Dũng Hitler rất dễ thương của những ngày anh em cùng khóa có nhau sau đó. Bây giờ Dũng Hitler ở đâu? Trong danh sách các bạn Tín không thấy. Chắc thế chiến thứ hai chấm dứt, Dũng Hitler cũng đã phải ra toà án Nuernberg ở Đức? Chớ sao giờ không thấy tâm hơi gì cả (nói chơi một chút cho dzui!).

                      Rồi cái gì đến phải đến. Đêm „đi bay“ suốt đêm ở… dưới giao thông hào, rảnh nước, để chờ ngày mai trời lại sáng quả là đêm dài…vô tận! Bì bõm lội dưới giao thông hào đầy sìn nước, bên trên đàn anh lại còn la hét. Các ông bò không nổi nữa phải không? Các ông có muốn ngày mai gắn Alfa không? Các ông có muốn ngày mai đi phép không? Ông nào không muốn thì lên đây. Đây là cơ hội cuối cùng cho các ông. Các ông có thấy chán KQ chưa. Các ông có muốn ra khỏi KQ không. Chỉ còn vài giờ nữa thôi. Các ông hãy nhanh lên! Mặc các niên trưởng „dụ dỗ“, ai mà dám lên trong lúc „dầu sôi lửa bỏng“ đó. Mà đúng thật, chỉ sau đó vài giờ, khi „ánh bình minh vừa ló dạng“ là thời gian huấn nhục chấm dứt, cũng là lúc không còn thấy bóng một niên trưởng nào ló…mặt để lo cho đàn em nữa. Không như buổi chiếu tối hôm trước, lúc còn trong các Thiên Nga, trước mỗi tân khóa sinh đều có một cây đèn cầy đã được đốt lên. Mỗi khóa sinh đều giữ gìn cây đèn mình, che khư khư chỉ vì sợ gió làm tắt, vậy mà các niên trưởng vẫn đâu có để yên. Các ông có muốn tôi thổi tắt đèn của mấy ông…không? Tắt đèn là cuộc đời mấy ông sẽ tắt theo đó mấy…ông .. ơi! Vậy mà sáng nay không niên trưởng nào dám ở lại để thổi tắt mặt trời, chỉ còn biết trốn về Barrack để ngủ bì cho một đêm thức trắng vì „bận lo“ cho đàn…em.


                      Đêm Văn nghệ gắn Alfa cho khóa cũng rất là ầm ĩ. Trên sân khấu có Lập, Trí, Tuấn (râu), Tiền đóng vỡ kịch trào lộng „Đông Tây gặp nhau“. Đường Sơn Đại Huynh Lý Tiểu Long đến từ Hồng Kông, Hiệp Sĩ Mù nghe gió kiếm đến từ Nhựt, Charle Bronson, cây súng cao bồi đến từ Pháp đã làm các tân SVSQ cười nghiêng ngữa. Rồi bản Tình Nước với SVSQ Lý Tỵ, Quê hương anh nước mặn đồng chua, làng tôi nghèo đất cày lên sõi đá tôi với anh hai người xa lạ…, đã làm nỗi buồn vì vận nước đang điêu linh bởi chiến tranh nổi lên trong lòng các tân SVSQ. Mỗi người đều tự hỏi không biết ngày sau sẽ ra sao, khi cuộc đời người lính Không Quân ví như những sao băng giữa vùng không gian trong đêm tối, đi không ai tìm xác rơi. Trên sân khấu ban nhạc hình như cũng là do các tay đàn tay trống của khóa đảm nhiệm. Trong đó có Tâm, thủ trống, là người đã từng chơi trong ban nhạc của Jo Marcel ở Sài Gòn.

                      Với những Hạnh, Trân thủ Quốc Quân kỳ, cùng với Dũng, Lễ…và ai nữa, trong toán hầu kỳ. Lễ còn „nổi tiếng“ lúc huấn nhục vì bị niên trưởng bắt làm thầy tụng đi tụng kinh ở các Barrack, cũng như Tín hay bị niên trưởng Khánh, Hòa bắt ca hoài …Lội bùn nhơ đêm lau lách sương khuya sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh đầy…hay…Xin hiểu lòng nhau trong thời chiến tranh này mấy người mơ ước cho tròn…là những lời ca mà Tín cứ phải ca đi ca lại trong thời gian huấn nhục. Ông ca đi! Ông ca để bạn bè ông được nghỉ! Đó là lời của niên trưởng Hòa hay nói.

                      Với Trần Tuấn, trưởng phi đội từ Tân Sân Nhất ra, khi vừa rời chiếc C130 đã phải đứng đầu hàng để ra lịnh huấn nhục các bạn theo lịnh đàn anh. Với PT Nghị, hay cười hay giỡn, có lần còn dám „giỡn“ với thiếu tá Bé, với H Đ Nghĩa, L H Bình, HTX Thưởng, LPL Sơn, Hải, Hùng, Tuấn (sữa), Hân, Hoàng, Lộc, Chánh, Thành, Hiệp, Vàng, Hiếu, Bữu (đá banh), Cơ, Hảo, DV Hiển, TT Khen, Khai, Tân, Ngô, Minh, Sang, Giản, Bích, Trung ...và gần hơn 300 SVSQ cùng khoá, Tín đã sống trọn vẹn những ngày thật sôi động ở quân trường KQ Nha Trang, những chia ngọt xẻ bùi, và những ngày phép vội vã cùng những phiên gát đêm làm hao gầy sức lực, khi nhìn ra phố Nha Trang trong những đêm về trên phố khuya yên tĩnh. Bạn bè trong khóa nhiều quá. Không thể nhớ hết tên, và cũng không thể kể hết mọi kỷ niệm, dù kỷ niệm đó vẫn còn nằm yên đây, nhưng mỗi khi có ai khơi dậy là bật tung lên như ánh bình minh vươn lên trên mặt biển trong những ngày hè.


                      Những ngày gặp lại được Ngọc thì bóng hình Mẫn đã biền biệt cách xa. Cũng biền biệt cách xa như Nha - Thành. Cô đã ở lại Nha Trang vĩnh viễn hay đã trốn chạy vào Nam trong những ngày gần cuối tháng tư đen? Cô đã ra ngoại quốc, hay đang lênh đênh trên những con thuyền định mệnh muốn rời bỏ quê hương. Mọi việc đều đã tan theo hư không mà đi. Có lẽ chỉ những hàng dừa trên bãi biển Nha Trang và những mối tình với những cô gái Nha -Thành của những chàng trai xếp bút nghiêng theo việc kiếm cung từ mọi nơi đổ về đây là còn để lại ít nhiều vết tích.

                      Gặp lại Ngọc. Ngọc vẫn óng mượt kiêu sa. Tín đã tự ti để tìm cách xa Ngọc dù nhung nhớ đã tràn đầy tim óc, như phù sa đã rải đầy trên những cành đồng sau mùa nước nổi, nhưng cô lại mở rộng vòng tay như ngày nào còn trong thời chiến tranh, dù bây giờ không ít những cán bộ, bộ đội đã theo cô trên mỗi đoạn đường cô đi làm về. Những ngày này, Tín cũng gặp lại những người bạn lính KQ hoặc nghe nói về các người bạn lính. Nghĩa ra Vũng Tàu làm ghe để tìm đường vượt biên. Cơ về làm ruộng quê nhà, chiều chiều đánh xe bò chở lúa, chở cũi về, y như nông dân thứ thiệt, ngọn roi đánh bò cũng điệu nghệ không thua gì người cha già đã có mấy mươi năm làm ruộng. Thành là công nhân cho một nhà máy ở Sài Gòn, dáng dấp cũng giống công nhân lắm! Vài người bạn đang ngồi tù vì tội vượt biên. Và ai đó nữa đã trở thành „cán bộ“ Thủy…lợi. Mọi cuộc sống mới đều đẩy mỗi người vào con đường mới, không thụt lùi lại được. Cứ phải tiến lên thôi. Ngoại trừ những người bạn đã có cơ hội cất cánh bay, bay thẳng ra ngoại quốc trong tuần lễ sau cùng trước khi lịch sử Việt Nam lật qua một trang sử mới. (Bỏ lại anh em chết lên chết xuống ở quê nhà!)

                      Nha Trang Ngày Về chắc có lẽ chỉ còn nghe được trong bản nhạc, chứ từ ngày ấy đến nay Tín chưa có dịp một lần trở lại Nha Trang. Nha Trang biền biệt. Nha Trang mất hút trên đường đời của Tín từ đấy.

                      Nhưng rồi vì tương lai Ngọc cũng đã ra đi. Ngọc yên lặng ra đi, vội vã ra đi, trong một ngày gió Bấc sắp về. May mắn chuyến ghe cô đi vượt biên đến Indo an toàn. Và Ngọc đến Mỹ.

                      Sau đó Tín cũng ra đi. Anh về trời Âu. Sống với mây mù. Nơi đây ít ánh nắng. Nhưng lòng vẫn nóng hổi với những kỷ niệm ở quê nhà. Kỷ niệm với Ngọc của những ngày ở Sài Gòn. Kỷ niệm với Mẫn, với quân trường và các Sĩ quan, niên trưởng, các bạn cùng khóa ở Nha Trang và với cả Nha -Thành. Kỷ niệm còn đây nhưng người đã ở đâu? Ngoài chân mây hay tận góc phương trời nào?


                      1) Riêng Tây: Chữ hay dùng của một nhà văn khi viết tạp bút.
                      2) Nguyễn Tuấn, Nguyễn Thắng

                      Vũ Nam
                      Last edited by hung45qs; 11-04-2010, 08:51 PM.
                      Hung45HTQS

                      Comment


                      • #41
                        Nhớ bạn hiền khóa 72G




                        Tay bưng ly rượu dâng lên
                        Nhớ về dĩ vãng lòng tê tái buồn
                        Chấp tay xin đấng cao xanh
                        Trọn tình bạn cũ một lòng Thành Tâm

                        Bạn ta Chiến Xị Bến Tre
                        Có Huỳnh Văn Tỷ Ba-Ghe Kiến Hòa
                        Có Lực, có Tốt, có San
                        Trong hàng tê dại có Hoàn Ni Cô

                        Vịt bầu bạn Trịnh văn Minh
                        Tranh phần Thắng bại có Cường móc chân
                        Việt Nam còn có tương lai?
                        Miệt mài lam lũ ông Hai Rạch Ròi

                        Hoàng xuân Sỹ ,Vi tiến Mai
                        Hai bạn nổi tiếng ăn chơi đứng đầu
                        La thanh Bình giọng thật to
                        Khi hò, khi hét, thua chào Két Lăng

                        Trong khóa có hai bạn già
                        Có người bạn trẻ tên Thành Baby
                        Già Thìn tuổi mới dậy thì
                        Già Linh nghiệp dứt, chỉ vì an ninh

                        Châu Xẹo, Châu Ngố, Thanh Chì
                        Già Linh, Ái Lý, giã từ Thuỳ Dương
                        Thế là Huynh đệ lạc đàn
                        Thằng về đi Mỹ, đứa còn Nha Trang

                        Nguyễn Khánh tên thật của anh
                        Ðứng trước phạn xá xưng danh Khánh Thùy
                        (Cán bộ phạn xá tên Thuỳ
                        Có đào tên Khánh làm trong nhà bàn)

                        Tân khóa sinh Nguyễn văn Ðông
                        Là người mới nhất được sang Hoa Kỳ
                        Sport có Phước Mỹ Tho
                        Cái Bè có Phước gọi là chăn trâu

                        Bạn hiền ơi hết chổ chê
                        Giọng cười bỉ ổi tài tình Trần Quang
                        Tại bạn cã khóa khóc than
                        Ðạp chết con gián đám tang kinh hoàng

                        Kha, Lộc, Hải, Trọng củ sâm
                        Cùng nhau lũ lượt Long Thành bộ binh
                        Ngọc Hoàng lão tổ thiên đình
                        Thương đàn con dại hai hàng lệ rơi

                        Luông Nguyễn, cùng với Kiều Khiêm
                        Theo chân Tuấn, Ngọc, bay đêm chưa về
                        Tưởng rằng ‘dạ chiến’ dễ thôi
                        Ai ngờ cán bộ Nẩu chơi thiệt tình

                        Nhớ bạn Duy Quý, Như Tùng
                        Nhớ Lộc, Tịnh, Tổng, bây giờ nơi nao
                        Nhớ bạn Phạm Hồng, Trần Khang…
                        Nhớ đêm bắn súng chết dê Trưởng Ðoàn

                        Ðứng trước Thôn, Trấn với Hoàn
                        Khóa sinh Thanh Thiếc xưng danh... bò vào !
                        Đứng trước cán bộ dàn chào
                        Phạm văn Nhớ vợ, Nhớ đào, Nhớ ai?


                        Đi trước Minh ruộng Cần Thơ
                        Đi sau, Minh Ngáp, Minh Thiền, Minh Tu
                        Nguyễn hoài Thu bạn ở đâu ?
                        Tăng Ðược vương vấn nỗi sầu năm xưa

                        Việt Mọi xứ thượng thành danh
                        Trương Văn, Liêm Ðặng, thêm anh Thanh Lùn
                        Liêm Nguyễn, Thanh kim, Tâm gù
                        Bảy chàng pháo thủ, Thưởng công lẫy lừng

                        Ðạo Quạp giờ ở Cà Mau
                        Chơn, Thọ, Cợt hởi, Bạch Ðằng… mỗi nơi
                        Bao nhiêu năm , cuộc đôỉ đơì
                        Lòng ta nhớ mãi bạn ơi! Bạn Hiền

                        Cuối cùng kính cẩn nghiêng mình
                        Vinh danh các bạn đã lìa thế gian
                        Nguyễn hưng Quốc, Phạm ngọc Thanh
                        Anh hùng vì nước, vang danh muôn đời ./.


                        Toán Cần Thơ chụp ảnh lưu niệm taị trại Phi Dũng TTHL/KQ Nha Trang 1972

                        "... Khóa 72G nhập khoá ngày 15 tháng 12 năm 1972 và được huấn nhục tại trại Phi Dũng do các SVSQ Cán Bộ đàn anh khoá 72A KPH chăm sóc. Gồm có 76 SVSQ được nhập lại từ bốn vùng chiến thuật : Saigon 14, Trung Tâm III 33 , Cần Thơ 25 và Đà Nẵng 4.

                        Khoá 72G đã có một số ra trường là Hoa Tiêu Trực Thăng, Hoa Tiêu Quan Sát, Hoa Tiêu A-37, và Quan Sát Viên Phi Hành... về phục vụ tại các đơn vị từ Đà Nẵng, Phù Cát, Nha Trang, Biên Hoà, Saigon, Cần Thơ… (TTT 72G)”


                        PS khóa 72G
                        Last edited by hung45qs; 11-05-2010, 06:30 PM.
                        Hung45HTQS

                        Comment


                        • #42
                          Nhất Quỷ Nhì Ma Thứ Ba...
                          Pilot Trực Thăng


                          Bài này riêng tặng những phi công trực thăng can trường của Quân lực VNCH và tất cả anh em hoa tiêu khóa 72-73. Và đặc biệt gửi đến Huỳnh Trung Tỉnh, một người bạn thân từ "miền quê hương cát trắng".


                          Lời mở đầu: Trong cuộc sống của tuổi trẻ, đôi khi có những hành động ngông cuồng, thiếu suy nghĩ. Nhưng đó là bản chất của con người, nhất là trong là ở một hoàn cảnh chiến tranh, chết chóc, mà tương lai chỉ là những giây phút hiện tại.

                          Trong tiếng động cơ nổ ì ầm đều đặn cùng với tiếng cánh quạt gió phần phật quen thuộc của chiếc trực thăng, tôi ngồi lặng yên chiêm ngưỡng một bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời đang trải dài dưới chân. Từ cao độ bốn ngàn bộ, thành phố Nha Trang đang im lìm sưởi nắng mai bên bãi cát vàng hình vòng cung cạnh bờ đại dương bao la, bát ngát. Trên mặt biển phản chiếu ánh mặt trời, chói lọi lấp lánh như một tấm gương bạc khổng lồ, những chiếc thuyền đánh cá bé tí teo nhấp nhô hướng mũi ra khơi.

                          Đã hơn một tuần lễ tôi mới được ngồi lại trên căn phòng lái nhỏ bé này. Từ khi hiệp định Paris ký kết ngày 27 tháng Giêng năm 73, lệnh ngưng bắn được ban hành trên toàn cõi Việt Nam, tất cả những phi vụ hành quân, tác chiến đều bị đình chỉ. Phi vụ bị cắt giảm, giờ bay bị giới hạn, phi đoàn 215 Thần Tượng chỉ còn lại những chuyến bay liên lạc, huấn luyện hoặc linh tinh khác. Chiến trường ngưng đọng, phi đội trực thăng võ trang không còn đất để dụng võ, tôi bỗng dưng bị "thất nghiệp"... một cách bất ngờ! Suốt ngày quanh quẩn ở phòng hành quân, đấu láo, đánh cờ tướng, chơi domino, binh xập xám hay đánh bi da...Để trám vào khoảng thời gian trống trải, vô vị, tôi thường lấy những phi vụ huấn luyện để tập dợt, hay bắt vài con thú rừng đem về chia vui trong những bữa ăn nhậu cùng với anh em bạn bè.


                          Đã từ lâu, cuộc sống của người phi công trực thăng là gian khổ, hiểm nguy, thường xuyên đối đầu trực diện quân thù trên đầu đủ mọi loại súng rình rập con tàu chậm chạp, ăn ngủ sống chết bên quân bạn như hình với bóng ở những tiền đồn xa xôi hẻo lánh hay luôn luôn sát cánh với bộ binh trên những chiến trường đẫm máu, mạng sống như chỉ mành treo chuông. "Phi công trực thăng là lính bộ binh của Không quân"! Câu nói tuy ví von nhưng đã hàm chứa phần nào sự thật của một cuộc đời phong sương, gió bụi. Những lúc ngồi trên chiếc tàu võ trang lướt trên đầu rừng cây trùng điệp đã cho tôi cảm tưởng mình là một kỵ mã trên con ngựa sắt xông pha nơi chiến địa, hơn là một phi công tung mây lướt gió.

                          Tuy nhiên, sự gian khổ và hiểm nguy của cuộc sống đó, người phi công trực thăng đã được đền bù bằng nhiều giây phút ý nghĩa, đầy mầu sắc, hào hứng và thú vị. Ngoài những giờ phút rượt đuổi những tên du kích trong rừng sâu, núi thẳm, hay vẫy vùng trước họng súng của quân thù, là những ngày được dong duỗi trên khắp nẻo đường đất nước, được ngắm nhìn non sông cẩm tú, thoả chí tang bồng hồ thỉ. Sau nhiều năm dong duổi trên chiến trường, tôi càng cảm thấy yêu mê, và gần gũi con tàu chậm chạp, ầm ỉ này. Nó là một chiếc máy bay kỳ diệu, tuyệt vời!..có thể cất cánh và đáp bất cứ nơi nào, có thể đứng giữa không trung hay bay lùi lại như loài chim "humming bird". Nó là một phương tiện chuyển vận tối cần cho chiến trường rừng rú Việt Nam! Đôi khi cũng là một món đồ chơi lý tưởng cho những "cái-thằng-tôi-trực -thăng" thỏa mãn bản chất tinh nghịch, phá phách của tuổi trẻ ngông cuồng, để xoa dịu bớt những giờ phút căng thẳng trong những phi vụ đầy máu lửa.


                          Tôi dựa ngửa đầu trên ghế bay, hai chân duỗi thẳng trước mặt. Chiếc trực thăng rung nhẹ như ru ngủ. Tôi lim dim, mơ màng, nghĩ mệt sau một tiếng đồng hồ nhào lộn, thực tập ở bãi cát cạnh phi trường.

                          -Này!,..mày đang mơ mộng gì đó,..tao có mang theo cà phê đây, muốn uống không?

                          Tiếng nói trong "intercom" bất chợt cắt đứt dòng tư tưởng đang miên man trong đầu. Tôi quay nhìn Thành, Trung úy trong phi đội trực thăng võ trang của tôi đang ngồi trên ghế phải:

                          -Mơ mộng đếch gì!..đang buồn ngủ đây! Mày có mang theo cà phê thì còn chờ đợi gì nữa,..cho tao một ly đi!

                          -Bay đi,..để tao lấy cà phê.

                          Tôi ngồi thẳng dậy, cầm cần lái. Thành quay người ra sau, mở túi bay treo trên lưng ghế móc ra một bình thủy màu đỏ mở nắp rót đầy rồi đưa cho tôi. Cầm nắp bình thủy, tôi nhắp một ngụm nhỏ. Mùi cà phê nóng bốc lên mũi thơm ngào ngạt cùng với khói thuốc lá quyện bay trong căn phòng lái quen thuộc. Tôi hít mạnh vào hai buồng phổi làn gió trong lành của đại dương đang đập phần phật vào khoang tàu.

                          -Này Thành!..mày có thấy tụi mình được may mắn hơn nhiều người không? Cà phê thuốc lá trên tay, tự do bay lượn như cánh chim trời thế này,..mấy ai mà có được!

                          -Đồng ý,.. còn gì hơn nữa!..nhưng tụi mình cũng có lúc khổ còn hơn con chó, mấy ai biết! Thành trả lời.

                          - Mày muốn xuống đất, mang ba lô lội rừng lội suối như người lính bộ binh không? Đừng đòi hỏi nhiều quá.

                          -À!.. mấy hôm trước, thằng Vĩnh "gấu" đi bay về bắt được một con rùa to tổ mẹ, mày biết không? Tôi đổi đề tài.

                          -Không!..Có nghe nó nói gi đâu?.. Thành trả lời.

                          -Tao nghe kể lại, thằng Vĩnh "gấu" bay từ Phan Thiết về,..ngang Phan Rí, thấy một con rùa đang đẻ trứng trên bãi cát, nó đáp xuống "dzớt" lên. Con rùa bự lắm, hai anh mê vô xạ thủ lật không nổi con rùa! Tao chưa ăn thịt rùa, không biết có ngon không?

                          -Mẹ,..ăn hết xẫy! Nấu đủ kiểu! Rùa ăn ngon và mát,..rất tốt cho người bị "âm hư hỏa vượng", nghe mấy ông thầy thuốc bắc nói vậy! Cái thằng Vĩnh có con thú nào mà nó tha. Lúc biệt phái ở Phan Rang, nó dùng trực thăng rượt theo bắn một con chim ưng đang bay lượn trên trời bằng đại liên M-60. Mày không biết đâu,..hai cái cánh chim của nó xỏa ra dài cả thước. Kẹt đang biệt phái, đâu nấu nướng gì được, tụi nó liệng thùng rác. Uổng quá!

                          Vĩnh là một hoa tiêu trong phi đội tải quân, có một thân hình cao to, và khuôn mặt bự trên vần trán rộng nên anh em gọi là Vĩnh "gấu". Một lần đang đi trên đường phố với người bạn gái, tình cờ gặp Vĩnh, tôi giới thiệu: "Đây là Trung úy Vĩnh 'gấu', ở cùng phi đoàn với anh". Cô bạn gái quay qua nhìn tôi, rồi ngây ngô hỏi: " Hai anh cùng họ hả?.. có bà con gì với nhau không vậy?". Vốn bản tánh hiền hòa khác hẳn với hình tướng của anh, Vĩnh nhe miệng cười trả lời: "Tôi tên là Vĩnh chứ không phải là Gấu!.."

                          Tôi đưa ly cà phê lên miệng nhấp một ngụm nhỏ rồi nhìn Thành hỏi:

                          -Này Thành,..mình còn hơn cả tiếng đồng hồ để bay, tao muốn lên "Thành" kiếm con gì nhậu chơi,..mày nghĩ sao? Thành là tên gọi của quận Diên Khánh cách Nha Trang chưa tới mươi cây số. Gần đó hoa tiêu 215 thường hay bay đến để thực tập đáp trên những ngọn đồi nhỏ (pinnacle landing), lúc xưa là đồn lính của Đại hàn, nay đã bỏ trống.

                          Thành trả lời không một giây suy nghĩ:

                          - Còn chờ gì nữa!..Tao cũng đang cần đem về cho vợ tao vài con gà, con thỏ gì để nó nấu thêm cho mấy đứa con ăn đây! Con vợ tao được cái cần kiệm, lo cho con cái, nhưng với số lương lính, chẳng đủ thiếu tới đâu. Nhiều lúc thấy nó cũng tội nghiệp!..Lúc lấy tao, nó tưởng mấy anh pilot là ngon lành, phong lưu. Mày biết không!.. nhiều lúc đồ hộp phi đoàn mình phát để tao đem đi biệt phái,.. tao phải để nhà cho nó lo cho mấy đứa con.

                          Nghe Thành than thở, tôi hiểu ý, quay mũi tàu bay về vùng "đất hứa".

                          Trung úy Thành "râu" là một phi công đẹp trai, có nét tây phương, cao ráo. và rất tinh nghịch, thích săn bắn. Chưa có một loại thú rừng nào mà Thành tha mạng. Từ gà tới thỏ, nai, heo rừng, chồn, nhím...và ngay cả cọp. Riêng chỉ có một loài thú mà không bao giờ một ai trong phi đoàn tôi đụng đến, đó là Voi, biểu hiệu của phi đoàn Thần Tượng. Một lần Thành rủ tôi đi đảo Hòn Tre chơi với một ông bạn chài lưới tên Năm dẹp, có chiếc ghe con. Thành mang theo một nồi cà ri chồn vừa bắn được ngày hôm trước. Thú thật hôm đó, tôi phải ăn bánh mì không với xi dầu vì không chịu được vị khai khai của thịt chồn. Ở nhà, Thành "râu” có một hũ rượu thuốc ngâm nhung, hà nàm (bào thai) nai, bao tử nhím..v...v...để dành cho vợ uống tẩm bổ trong thời gian mang thai. Tôi rất nghi ngờ về cái hũ rượu bổ vô song mà anh thường quảng cáo, cho đến khi thấy đứa con trai anh ra đời. Bồng thằng bé mấy tháng trên tay mà tôi tưởng như đang bế một ông Phật Di Lạc con. To gấp đôi những đứa trẻ cùng trang lứa, đầu không một sợi tóc và trắng như một cục bột. Không biết có phải nhờ mẹ nó uống rượu ngâm hà nàm đó, hay nó đúng thật là một ông Phật Di Lạc vừa tái sanh?


                          Điếu thuốc chưa tàn trên tay, chiếc trực thăng đã đến nơi. Đây là một vùng đồng ruộng mênh mông, bỏ hoang không canh tác, nằm cạnh bìa rừng cây thấp, chạy dài từ chân núi ra tới QL-1, đoạn đường từ Nha Trang tới quận Diên Khánh. Nơi đây thường xuyên có nhiều loại thú ưa chạy ra mé rừng kiếm ăn. Tàu giảm cao độ. Từ trên cao khoảng năm bảy trăm bộ, tôi chợt thấy một con gì đang lững thửng kiếm ăn trên bãi ruộng hoang sát bìa rừng. Bất chợt Thành la to trong intercom:

                          - Ê,..ê,...con...con gà,..đó..đó, thấy chưa? Vừa nói Thành vừa đưa tay chỉ.

                          - Con công!..chứ gà gì... mà bự vậy? Để đó cho tao. Mày leo ra sau lấy túi bay sẵn sàng đi!

                          Nghe tôi nói, Thành không một chút thắc mắc, vội vã gỡ dây nịt bụng, lom khom chui ra sau khoang tàu.

                          Bắt sống công hay gà rừng là một nghệ thuật, đòi hỏi một tay lái thành thạo, kinh nghiệm trong nghề bay. Kỹ thuật này tôi đã học hỏi và thực tập khi quan sát con chim ưng săn mồi. Chiếc trực thăng đang ở cao độ khoảng năm trăm bộ, tôi đẩy cần lái, hạ cần cao độ, chúi mũi lao chiếc trực thăng xuống ngay con công đang đứng trên mặt ruộng khô. Tàu vừa cách mặt đất chừng vài chục bộ, tôi kéo mũi tàu ngửa đầu lên trời, rồi kéo nhanh cần cao độ. Chiếc trực thăng đứng khựng trên đầu con vật. Sức gió từ cánh quạt (down wash) thổi xuống đất ào ào. Đất cát, cỏ lá bay tung mù mịt. Con công lộn thùng phèo, lăn lông lốc trên mặt đất như một bao rác. Sau sàng tàu, Thành phóng xuống đất, tay xách theo túi bay, rượt theo con vật đang bị gió cuốn. Cho chiếc trực thăng sà theo con công, tiếp tục dùng sức gió không cho nó ngóc đầu dậy - đó là một động tác rất quan trọng mà tôi đã thiếu sót khi chưa có kinh nghiệm, và đã làm vuột mất nhiều con mồi. Trong đám bụi mù, cỏ lá bay tung, nhìn Thành râu đầu đội nón bay, tay cầm túi xách chạy theo vồ con công đang "cuốn theo chiều gió", bị vấp, té chúi nhủi. Đang tập trung điều khiển con tàu, tôi không nhịn được, bật cười thành tiếng! Sau vài lần vồ hụt, con công cuối cùng chui gọn vào túi bay của Thành.

                          Chiếc trực thăng hạ thấp xuống, chưa đụng mặt đất, Thành, tay xách túi đựng "chiến lợi phẩm", phóng lên sàn tàu nhanh như cắt. Mặt lấm tấm hồ hôi, đỏ ửng dính đầy bụi đất, Thành nhe răng cười thỏa mãn! Bỗng Thành chồm lên ghế bay, vỗ vai tôi:

                          - Ê!..ê,..thanh long,..thanh long! Vừa nói, Thành vừa chồm lên trên cockpit, đưa tay chỉ một tàng cây cao nhô lên khỏi đám rừng thấp trước mặt mũi tàu.

                          -Đâu?..đâu?...Tôi hỏi.

                          - Kia, kìa..., cặp tàu vào, tao hái cho. Làm luôn đi, mắc cở gì nửa! Thành nói vội vã, giọng nói kích động.

                          Tôi nhìn theo hướng chỉ tay của Thành, cách chừng vài trăm thước, một thân cây cao, nhô lên khỏi rừng thấp, những trái thanh long đỏ tươi nổi bật trên những cành lá xanh. Đẩy cần lái, tôi bay tới gần, đưa hông chiếc trực thăng ép sát vào tàng cây, gần những trái chín bên ngoài và ở trên cao. Gió từ cánh quạt thổi xuống ào ạt ngả nghiêng cành lá!

                          -Gần vào chút nữa!..chút nữa.., OK!...được rồi! Thành ngồi sát mé cửa, tay vịn vào thành tàu, thò hẳn người ra ngoài, miệng vừa nói vừa vói tay hái những trái thanh long liệng lên trên sàn. Có những trái nằm sâu vào trong cành lá, hai càng chiếc trực thăng gần như nằm lọt vào tàng cây rậm, cánh quạt quay vùn vụt chém đứt mấy cành lá văng tung tóe! Người trước, người sau, lẹ làng. Trong vòng vài phút, hơn mười mấy trái thanh long đỏ, mập ú nằm lăn lóc trên sàn tàu.

                          - Đủ rồi!..Thành,..Tao "dzọt" đây! Tôi la to, rồi nghiêng cánh quạt. Chiếc trực thăng tách rời khỏi tàng cây như một con ong vỗ cánh rời nhụy hoa sau khi đã hút hết mật.

                          Ở phía sau, Thành gom hết những trái thanh long trên sàn, thồn vào túi bay rồi leo lên cockpit ngồi vào ghế. Lấy ra một con dao nhỏ, Thành cắt làm đôi một trái xong lột vỏ đưa tôi. Tay cầm cần lái, tay đưa nửa trái thăng long lên miệng cắn một miếng thật lớn. Vị ngọt của trái cây rừng mới hái thấm vào đầu lưỡi mát rượi. Tôi chắt lưỡi:

                          -Ngon hết sẩy!

                          Miệng đang ngồm ngoàm thưởng thức hương vị đồng quê, bổng tôi nghe Thành la chói lói::

                          - Ê!..Heo!...Heo!...Heo!..Thành chồm về phía trước, như muốn nhảy ra khỏi ghế bay, vừa la lớn vừa chỉ xuống dưới đất.

                          Tôi nhìn xuống dưới bụng con tàu. Một con heo đen thui thủi, bự tướng đang lủi nhanh dưới mặt rừng thưa.

                          - Mẹ,..từ từ,..mày la làm tao giật cả mình!..Hôm nay mình xuất hành chắc trúng giờ tốt đó Thành! Vừa nói tôi vừa đẩy vòng vèo chiếc trực thăng trên đầu rừng cây thưa, tìm bóng dáng con thú chạy loáng thoáng dưới những bụi cây.

                          Thành "râu" là một trong những hoa tiêu tôi gần gũi nhất trong phi đội trực thăng võ trang. Tôi rất hiểu Thành. Hay hoảng hốt bất chợt, lại thêm cái tánh háo sát. Khi vào bay ở vùng hành quân, bất chợt gặp mấy tên du kích Việt Cộng là anh nổi cơn, hăng tiết vịt, muốn ăn tươi nuốt sống kẻ thù. Trong một phi vụ truy kích, lùng địch ở một mật khu Việt Cộng. Tôi bay chiếc trực thăng võ trang dẫn đầu, trên mặt rừng cây, tinh thần đang tập trung nhìn xuống bên dưới, trong tư thế sẵn sàng tác xạ. Đột nhiên trên tầng số có tiếng la chói lói củaThành đang bay theo sau; "Á..., Á...nó đó, bắn!...bắn!" Thần kinh đang căng thẳng, nghe tiếng la thất thanh của Thành "râu" làm tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực! Tôi vòng con tàu trở lại. Bóng dáng của một trâu rừng đang vụt chạy biến mất vào bụi rậm, trên cao là chiếc trực thăng của Thành đang bay vòng vèo.


                          Một lần khác, hai đứa tôi đang đèo bồng nhau trên xe Honda trên đường Biệt Thự *, bỗng một chiếc xe Jeep do một anh Mỹ G.I phóng vụt ngang, nhanh như ăn cướp, ép sát xe Thành vào lề đường lọt xuống một ổ gà chúi nhủi, gần té. Phản ứng nhanh như một anh cao bồi bắn súng, Thành rút nhanh khẩu súng lục đeo bên hông, chỉa về phía chiếc xe Jeep liên tiếp bóp cò...giữa thanh thiên bạch nhật! Anh tài xế Mỹ quay đầu lại nhìn, rồi đạp ga phóng chạy như bị ma đuổi!
                          Vài câu chuyện nhỏ đã nói cá tánh của một người bạn đồng sanh, đồng tử của tôi. Anh là một trong những hoa tiêu trực thăng võ trang đã gây rất nhiều tổn thất cho quân địch trong những năm tháng phục vụ tại phi đoàn Thần Tượng.

                          -"Lẹ lên,..ép nó ra đồng...trống!..Đó đó!...Heo nái!..bự quá cỡ! Ép bên trong...kẻo nó chạy mất! Thành tiếp tục la to.

                          Bên dưới, con thú rừng đen đủi tiếp tục phóng nhanh như một mũi tên xuyên qua những bụi cây rậm rạp. Trong một động tác máy móc, tôi lái con tàu bay phía bên trong bìa rừng, ép con thú chạy ra đồng trống. Tiếng động cơ ầm ỉ trên đầu đã làm con heo hốt hoảng hướng mũi ra phía đồng ruộng. Đúng như ý tôi muốn!..
                          Chạy ra tới vùng đồng trống, con thú rừng càng sợ hãi, cuống cuồng lấy hết sức bình sinh phóng như bay trên mặt ruộng khô lồi lõm. Như một anh chăn bò, tôi cho con tàu bay sau lưng con heo rừng, cho nó tiếp tục chạy thẳng. Số phận con heo đen đủi, đơn độc, nổi bật giữa cánh đồng mênh mông màu vàng cháy cỏ rạ đã được định đoạt,..vấn đề còn lại là thời gian! Bao lâu nữa nó thì sẽ hết "xăng" trước khi tàu tôi hết xăng?
                          Nhìn con heo rừng đang phóng như điên cuồng, mắt Thành mở lớn như hai đèn pha. Có lẽ đang liên tưởng tới những món thịt heo rừng hấp dẫn mà anh sẽ chế biến như:
                          * Thịt heo rừng nướng (ướp ngũ vị)
                          * Thịt heo rừng nướng dân tộc
                          * Thịt heo rừng nướng chao
                          * Thịt heo rừng xào lăn
                          * Thịt heo rừng tái dấm
                          * Thịt heo rừng xáo măng
                          * Thịt heo rừng nấu rựa mận...

                          - Ép sát sau lưng nó,.. đừng cho nó... chạy vào bìa rừng.., cứ để cho nó chạy thẳng như vậy. Đừng cho nó quay trở lui!

                          - Biết rồi!...mày nín đi!..Sao mà nóng thế,..để nó cho tao! Tôi la lớn, rồi quay qua hỏi Thành:

                          -Trong túi bay mày có đem súng gì không?

                          - Đ. có!..sáng này dậy trễ, vội quá quên mẹ cây súng M-18 ở nhà!

                          -Tao có cây súng "rouleaux" với sáu viên đạn đây. Mẹ,..con heo rừng này, theo tao nghĩ, quá to. Sáu viên đạn rouleaux này chắc đếch làm gì được đâu!

                          Thành "râu", cười đưa hàm răng trắng bóc dưới bộ râu đậm được cắt tỉa kỹ lưỡng.

                          -Thì cứ thử đi!..không được tính sau!

                          - OK Thành!..mày bay đi. Tao bắn. Đừng bay gần nó quá,.. nó lòn dưới bụng tàu là hết bắn được đó!

                          Nói xong tôi giao cần lái cho Thành. Chiếc trực thăng bay song song, sát bên con thú vẫn đang phóng hết tốc lực, miệng sủi bọt mép trắng, đưa hai cái răng nanh dài ngoằng, nhọn hoắc. Luồn tay dưới quần bay móc ra khẩu súng lục, tôi thò tay ra khỏi cửa. Con heo chạy quá gần, tôi không cần nhắm, bóp cò bắn từng phát một. Tôi thấy rõ từng cụm bụi nho nhỏ bung lên mỗi khi viên đạn chạm vào làn da đen xám. Sáu viên đạn đã ra khỏi nòng, con heo vẫn chạy! Hai đứa tôi nhìn theo,..trong bụng đánh lô tô. Nhưng không lâu! Chạy một khoảng ngắn, con heo rừng đứng khựng lại một giây, rồi hai chân sau quỵ xuống, hai chân trước chống xuống đất. Tôi đút khẩu súng hết đạn vào túi quần, giật cần lái của Thành:

                          - Để tao đè nó!

                          Cho chiếc trực thăng "hover" (đứng yên) đúng trên đầu con heo chừng một sải tay, tôi đè nhanh cần cao độ. Chiếc trực thăng rơi thẳng xuống, cái càng bên trái đè lên mình con vật khốn khổ. Con tàu mất thăng bằng, nghiêng hẳn qua bên phải chao đảo, cánh quạt đập không khí kêu phần phật như muốn chém vào mặt ruộng khô. Hết hồn!.. tôi kéo tàu vụt lên cao! Thành "râu" nhổm người trên ghế bay la lớn:

                          - Coi chừng!..coi chừng!...không được đâu!..coi chừng "crashed"!

                          Đang lấy lại thăng bằng, tôi nghe Thành nói:

                          -Tao thấy đằng xa kia có người đang làm ruộng. Mày bay tới đó cho tao,..tao muốn mượn cái rựa.

                          Không có cách nào hơn, tôi bay đến bên luống đất. Một cụ già đầu quấn khăn, đang cầm rựa phác cỏ hoang. Thành vội vàng nhảy xuống, cầm tay cụ già kéo lên tàu. Tội nghiệp ông cụ!..mặt ngơ ngác, chẳng hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Tôi bay trở lại đậu bên con heo rừng. Thành nhảy phóc xuống đất, tay cầm cái rựa phang tới tấp trên đầu con thú rừng đã kiệt lực. Gầm gừ một lát nó ngã quỵ. Thành ngoắc ông già, hai người hì hục cố đẩy con thú lên sàn tàu. Con heo quá nặng! Tôi mở cửa nhảy xuống phụ. Con thú rừng lên tới sàn tàu. Máu me tanh tưởi hòa với mùi thú vật bốc lên mũi đến lợm giọng. Tất cả diễn tiến xảy ra tưởng dài như một "thế kỷ" như thực ra không quá mười phút đồng hồ. Cuốn phim đang chiếu với tốc độ "fast forward"!

                          - Bay thả ông già về chổ cũ đi! Thành ghé tai tôi hét lớn.

                          Chiếc trực thăng bay trở lại đám ruộng, ông cụ già lom khom nhảy xuống đất.

                          - Cho ông ít tiền đi! Tôi nói vói theo.

                          - Tiền đ. đâu mà cho!.. tao dúi ông gói thuốc Quân Tiếp Vụ mới mua rồi, mày yên chí!

                          Thành nói tiếp:

                          - Dọt lẹ đi!.. Bay lên Đồng Đế thả con heo này xuống rẫy của người quen tao,..chiều tao sẽ đi lấy!

                          Kéo cần cao độ, chiếc trực thăng bốc cao lên bầu trời đang còn hanh nắng. Tôi nhìn Thành đang lúi húi cột "seatbelt":

                          - Mày làm cái gì thì làm,..nhưng nhớ lấy cho tao một cái nanh heo nghe!

                          Cho tàu bình phi, tôi nghĩ xả hơi, móc thuốc ra hút. Điếu thuốc run rẩy trên hai ngón tay, tôi rít một hơi dài, phà vào căn phòng lái, đầu óc vẫn còn căng thẳng như vừa thi hành xong một phi vụ rức tim trên vùng hỏa tuyến. Có tiếng sột soạt sau lưng. Con công đang quẩy mạnh trong túi bay móc sau lưng ghế. Tôi mỉm cười, liên tưởng tới bữa nhậu "hoa đồng cỏ nội", khoảng đãi mấy thằng bạn trong phi đội võ trang, những phi công cảm tử trên chiến trường dậy sóng...


                          Tháng tư, ngày18 năm 2010
                          Vĩnh Hiếu
                          Last edited by hung45qs; 11-24-2010, 11:35 PM.
                          Hung45HTQS

                          Comment


                          • #43
                            Những Cánh Chim Non


                            (Những chi tiết và tên nhân vật đều có thật, và người viết cố gắng diễn tả đúng và trung thực... những ngày học bay của mình.)

                            Sáng hôm nay, sau khi thức dậy, nhìn ra ngoài đường, cả thành phố Portland
                            bị bao phủ một lớp đá dầy, ngoài đường đóng băng không ai đi được, ngồi đây xem đi xem lại video clip của chiếc Trực Thăng bị nạn rớt xuống biển, và truyện của một người Phi Công khu trục bị bắn rơi, tự nhiên tôi cảm thấy buồn và thương cho những Anh Hùng vắn số, could've been me!...trời ơi tội nghiệp quá! Đã hơn ba mươi năm rồi tôi còn nhớ rỏ như ngày hôm qua.


                            Cuộc đời bay bổng của tôi lận đận vô cùng. Những ngày đầu học bay Cessna T-41 là những ngày đau khổ nhất của cuộc đời tôi. Mấy lần bay đầu tiên liên tiếp tôi bị ói. Và khi bị ói thì mệt và chóng mặt, như vậy thì làm sao học bay được nữa? Vì quá lo lắng nên hễ nghe đến đi bay là mặt mày tôi xanh lè xanh lét, bao tử tôi đau và sôi lên.

                            Sau mấy tuần học bay, khoá 75-02 bắt đầu solo… Nhưng tôi thì vẩn còn bay straight and level (bình phi). Khi Thầy tôi bắt đầu chỉ dẩn cách làm những động tác khó như quẹo gắt (steep bank turn) hoặc triệt nâng (stall), mỗi lần như vậy là tôi chuẩn bị bao ni lông để ói thay vì ngồi chăm chú nhìn và lắng tai nghe Thầy chỉ dẫn.

                            Những ngày ở Căn Cứ Không Quân Medina thật là buồn bã. Vì bay bị khó khăn trong khi tập luyện nên tôi thường hay đi theo nhóm Na, Nhuận, Trường, Bảo, Vinh… Các bạn này đã rớt bay và đang nằm nhà binh xập xám trong lúc chờ tài khoá đi học Kiểm soát Không lưu, hoặc những ngành cơ khí v.v… ở những căn cứ Không Quân khác.

                            Còn Trời còn đất còn mây nước
                            Chẳng lẽ ta U mãi thế này?
                            (thơ KQ)

                            Việc gì đến sẽ đến, khi một khoá sinh phi công (student pilot) bị 3 chữ U (unsatisfactory) thì bị loại ra khỏi khóa bay. Thầy dạy lái máy bay T-41 của tôi còn rất trẻ. Ông có 3 đứa học trò : tôi, Thức, và Tiến, lúc đó khóa 75-02 quá đông nên lớp tôi chia làm hai nhóm. Một nhóm đi xe bus đến Tincan Field và nhóm tôi đi xe bus đến Hondo Field. Thường thì tôi bay với Thầy trước, ra vùng thực tập rồi bay về đáp ở Tincan. Mỗi lần về đến Tincan là Tiến phải lau tàu, vì khi ói tôi chụp bao ny lông không kịp nên văng đầy trên đông hồ phi cụ và trên sàn tàu! Thằng Tiến vừa lau vừa chửi thề vì cái mùi tanh khó chịu trong phòng lái (cockpit). Mỗi lần Tiến về đến Medina là nó chửi tôi thậm tệ, không còn chữ gì để diễn tả cái bực mình của nó, vì đáng lẽ tôi phải ở lại để tiếp nó và Thầy lau chùi tàu… nhưng xe bus và các bạn đang chờ để về căn cứ.

                            Những lần Thầy tôi biểu diễn cách làm stall (triệt nâng), kéo cần lái lên để máy bay vọt lên thẳng đứng, rồi cắt tay ga, chân trái đạp bánh lái (rudder)… Máy bay không còn đủ sức bay lên vì hết ga (power) nên cắm đầu rớt xuống như cục gạch thì làm sao tôi chịu nổi ? Tôi buồn nôn và ói ra liền, chụp bao ói không kịp trong lúc máy bay đâm nhào xuống.

                            Những đứa đã solo (bay một mình) bắt đầu chuẩn bị xếp va li đi qua trường bay phản lực. Lòng tôi buồn vô hạn. Hằng ngày ở Medina tôi ghé thăm Vũ Nam Nhuận ngồi nói dóc, than thở ngậm ngùi cho số phận của mình. Lâu lâu lại theo Nguyễn Na đánh bài, vì tôi sắp bị Thầy cho nghỉ bay để chờ đi học ngành khác !

                            Thầy của tôi chẳng màng gì đến tôi vì ông biết rằng chắc chắn, và không sớm thì muộn là tôi sẽ bị loại ra khỏi ngành bay. Bạn cùng lớp thì Thầy cho điểm E (excellent), hoặc G (good), tôi thì chữ F (fair) và chữ U (unsatisfactory). Cuối cùng Ông không bay với tôi nữa vì ông nói tôi thiếu khả năng bay. Tôi phải đi kiểm tra khả năng bay (checkride) với Ông Volander, Trưởng phòng huấn luyện.

                            Những ngày đầu tháng 12 năm 73 gió lạnh, thời tiết bắt đầu xấu và có gió nhiều. Thường thường khi Thầy đã từ chối bay với học trò và cho chữ U, thì Ông Thầy Trưởng ngành huấn luyện chắc chắn sẽ cho chữ U kế tiếp. Tôi hồi hộp và lo lắng khi đi bay với Ông Volander, trong đầu lúc nào tôi cũng nghĩ rằng cuộc đời bay bổng của mình sẽ chấm dứt từ đây ! Bay chỉ có một vòng chung quanh phi trường (traffic pattern), rồi đáp xuống… Ông Volander bảo tôi phải tự đáp một mình. Tôi run lẩy bẩy cầm cần lái. Thầy tôi có bao giờ dạy cho tôi đáp một mình đâu ? Cắn răng chịu đựng, tôi từ từ vào Cận Tiến (final approach). Mặt đất dâng lên thật nhanh, quá sợ tôi kéo cần lái thật mạnh, con tàu bay ngóc lên, rồi ập xuống, nó nhảy như con cóc và chút xíu nữa thì ra cỏ !

                            Mặt Ông đỏ lòm như người say rượu. Ông hét lên :
                            “No...No… That's it, I have the air craft” (Đưa cần lái cho tôi ngay ! Anh ngồi đó để tôi bay !).
                            Trong bụng tôi nghĩ... mới bay có một vòng chưa đầy 20 phút tại sao lại ngưng ? Như vậy thì Ông sẽ cho thêm một chữ U nữa rồi ! Lại thêm một cái đinh đóng vào quan tài ! (one more nail in the coffin) Ôi từ đây tôi sẽ vẫy tay từ giã cuộc đời bay bổng… của tôi. Con đường taxi vào sân đậu máy bay sao mà dài quá ! Mặt tôi buồn rầu, nghĩ đến tương lai mà nước mắt rưng rưng... Nhìn qua Ông Volander mặt lạnh như tiền, không nói một câu.

                            Ôi Không Gian giờ đây ta mới biết
                            Mộng mây trời đã giết chết cuộc đời ta
                            Hối hận ư .?...thôi đã muộn rồi
                            Tôi thèm khát một khung trời thoải mái
                            (thơ KQ)

                            Đang ngồi nhìn ra bầu trời xám ngắt, nghĩ đến những ngày đi theo thằng Na, thằng Nhuận. Hai thằng này bán trời không mời thiên lôi, một lời nói ra là thiên hạ cười bể bụng, rất ma giáo, nhưng lúc nào cũng tốt với ban bè, ai bị nạn hoặc có vấn đề gì… đều sẵn sàng quên mình giúp bạn. Cho đến bây giờ 30 năm sau vẫn vậy.

                            Ít nhất mình cũng được an ủi một phần nào, thôi thì theo hai thằng này coi bộ vui nha ! Pha cà phê và đi mua thuốc lá cho nó hút, giặt đồ dùm nó, bù lại nó dắt mình đi chơi thăm mấy em "xì" ở dưới Down Town, ngày ngày có những trận cười bể bụng… Như vậy cũng vui rồi...

                            Đang theo dõi những dòng tư tưởng … Tự dưng chiếc máy bay thắng thật gấp, chút xíu nữa là đầu tôi đụng vào bảng đồng hồ phi cụ (instrument panel)... Ông Volander nói như hét
                            “I am getting out.. good luck!” (Tôi đi ra khỏi phi cơ đây ! Chúc anh may mắn !)
                            Chưa kịp nói gì thì Ông đã đóng cửa và bước ra ngoài, thả tôi bay solo…


                            Những chuyến bay đầu tiên ngày nào tôi cũng bị ói, lúc nào tôi cũng mệt nhoài, chóng mặt nên chẳng học được gì. Thầy của tôi cũng chẳng muốn tập dợt cho tôi đáp (landing) hoặc những động tác điều khiển khác. Thôi thì đến nước này rồi thì một liều ba bảy cũng liều… Đã cỡi cọp rồi thì bây giờ biết làm sao ? Cất cánh thì dễ rồi, nhưng làm sao mà đáp xuống an toàn ? .Đường bay chung quanh phi trường để vào đáp, và động tác điều khiển máy bay thì quờ quạng, đồng hồ phi cụ cả chục cái nhìn làm sao hết ? Chết rồi... !

                            Bây giờ không lẽ chạy vô bến đậu và từ chối solo (bay một mình không có Thầy ngồi bên cạnh) ? Như vậy làm sao sống nổi với sự cười chê của bạn bè, nhất là hai cái miệng của thằng Nhuận và Na ? Các bạn Không Quân ở Lackland và Medina sẽ chê mình là gà chết, tiếng đồn nhanh như điện xẹt, có nước mà đi xứ khác làm ăn ! Tôi một mình taxi ra phi đạo , gọi đài xin take off clearance (cho phép cất cánh), đẩy tay ga (power) 100% và cất cánh bay lên, làm một vòng bay trên phi trường...

                            Thánh nhân đãi kẻ khù khờ. Cuộc đời cũng có lúc hên ! Gió ngang thật mạnh ! Thời tiết đột ngột thay đổi, đài bảo tất cả máy bay về đáp vì gió lớn. Đang lo âu không biết mình làm sao xuống ? Các động tác phương pháp điều khiển máy bay (Procedures)… tất cả lộn xộn trong đầu. Thôi thì vô cận tiến (final approach) rồi tính... Trên đầu phi đạo (landing threshold) tôi giảm ga, con tàu từ từ đáp xuống thật chậm.
                            Ầm ...Con tàu chạm đất bằng ba bánh, nhảy lên thêm vài lần nữa rồi chạy chậm dần trên phi đạo… Thế là tôi đã đáp xuống an toàn. Hú hồn hú vía !

                            Muốn tiếp tục học lên giai đoạn phản lực, khoá sinh (student pilot) phải solo và đáp 3 lần. Nhưng hôm đó trời gió lớn, nên tôi đáp được có một lần, vậy là tôi solo ! Đó là điều kiện để tiếp tục giai đoạn kế tiếp.

                            HA HA HA ! Con đường trở thành Phi công Phản lực thênh thang rộng mở từ đây.


                            Đến căn cứ Không Quân Sheppard, thành phố Wichita Falls, Texas, mọi thứ đều mới lạ. Thiếu Tá Tạ hòa Hưởng như con Đại Bàng dang đôi cánh rộng chào đón những con chim non mới đến. Vẻ mặt Ông nghiêm nghị, người cao, ốm đen như người của sắt thép làm ai cũng kính nể.

                            Noel 1973, Sheppard chào đón lớp 75-02 bằng một bữa tiệc linh đình. Thiếu Tá Hưởng mở màn buổi tiệc tất niên ở Officer Club bằng môt khiêu vũ với một người con gái đẹp Việt Nam duy nhất trong buổi dạ vũ, Nga. Nàng Tiên này là Tiếp viên phi hành (Airline stewardess) ghé ngang thành phố Wichita Falls Texas để thăm người yêu, một khoá sinh tên Mến đang thụ huấn tại đây. Sau này tôi đinh cư ở Portland và gặp lại cô Nga năm xưa... Tôi có nhắc đến bài khiêu vũ đầu tiên của cô và Thiếu Tá Hưởng. Cô Nga xinh đẹp ngày nào bây giờ đã có chồng... Mỹ, tên Jones. Còn chàng Phi Công phản lực đẹp trai hào hùng và độc đáo năm xưa có lẽ bị đi học tập mút mùa tại một nơi rừng rú xa xôi nào đó ở Việt Nam.


                            Những ngày học nhảy dù đã xong, không ai bị què chân gẫy gọng, phòng cao độ là chuyện nhỏ. Bây giờ đến trường bay, những chiếc phản lực cơ T-37 và
                            T-38 huấn luyện lên xuống gầm thét liên hồi... Trước căn cứ có bảng đề chữ thật lớn, và vẽ hai chiếc phản lực hợp đoàn bay lên...............ROARING TO THE FUTURE...............( GẦM THÉT ĐỂ TIẾN ĐẾN TƯƠNG LAI )


                            Những ngày đầu khóa tôi đến Flightline nhận dù, mặt nạ chụp vào mũi và miệng để thở khí oxy (oxygen mask) và nón bay (helmet)... Đang loay hoay trong phòng dù thì Trịnh Khanh, trước tôi một lớp vừa đi bay về, đầu tóc bờm xờm, mặt mày xanh lè và nhăn nhó như con khỉ. Chắc hôm nay thằng Khanh bay quờ quạng nên bị thầy uýnh ! Khi thấy tụi tôi vui vẻ cười nói ngắm nghía nón bay, nên hắn quạu quọ và phán cho tui tôi một câu :
                            _ Đ. m. Không có sướng đâu con ơi ! Đeo mõm chó vô thì đời của mấy con tàn rồi... !
                            Có lẽ còn chưa hả dạ, sau khi ra khỏi phòng dù, Trịnh Khanh còn ngoái đầu lại bực dọc :
                            Đ. m.. cười cho đã đi con, tuần sau tụi mày sẽ biết!

                            Đúng như lời Khanh tiên đoán... Những ngày đau khổ của tôi lại diễn ra Tôi bi ói 7, 8 phi vụ liên tiếp. Ngày nào cũng ói ra tàu, có lúc giật mask ra không kịp tôi ói luôn vào mask .Sau khi bay tôi phải rửa tàu, rửa mask… Tôi phải dùng tăm xỉa răng để lấy từng hạt cơm, vì trong mask có những lỗ rất nhỏ để liên lạc vô tuyến, người pilot khi liên lạc vói đài phải nói vào trong mask (mặt nạ). Và mask cũng là dây để thở oxygen.

                            Lúc ấy Texas là mùa đông, Wichita Falls có tuyết, lần đầu tiên trong bao nhiêu năm. Tôi phải xách từng sô nước đi bộ từ Flight Line đến chổ đậu máy bay rất xa. Ngồi trong phòng lái (cockpit), tôi cặm cụi lau tàu… Lau từng đồng hồ phi cụ. Bàn tay tôi lạnh cóng. Lâu lâu tôi lại ngừng tay nhìn ra ngoài thấy bạn bè mình đi ngang với Thầy nói cười vui vẻ...


                            Trời ơi ! Tôi thèm được như mọi người… Tôi thèm được thầy tôi yêu mến...Tôi hoàn toàn thua kém bạn bè về nhiều mặt, nhất là kiểm soát tiền phi (Pre-flight check). Đào Công Chánh hết lòng giúp đỡ tôi để theo kịp bạn bè cùng lớp. Thầy tôi đối với tôi lạnh nhạt, chỉ chờ cơ hội để ‘dứt chỉ’ thằng con. Một là chuyển cho tôi đi qua Thầy khác, hoặc hai là… đánh rớt tôi. Tôi cô đơn. Trong lớp tôi là con vịt đẹt chỉ chờ ngày để tế thần ! Tôi mơ ước hình ảnh oai hùng của người Phi công Phản lực, của Thiếu Tá Tạ Hòa Hưởng... oai phong lẫm liệt đứng trước hàng quân !

                            Bây giờ thằng Nhuận, thằng Na đã đi xa. Nhuận và Bảo đi Mather học C-130 Navigator, Na đi Tyndall học Kiểm soát không lưu, còn ai đâu mà nghe tôi kể lể
                            những khó khăn của tôi ?


                            Thầy tôi không còn bay với tôi, và chuẩn bị thả thằng học trò duy nhất Trần văn Ngôn 72C solo. Tôi là đứa con lạc loài ! Những Thầy lớp khác khi cần giờ bay huấn luyện thì xuống M Flight để bay với tôi. Họ đâu cần biết thằng học trò này cần tập dợt những động tác nào để mà dạy ?


                            Rồi khóa tôi chuẩn bị solo. Phạm Kim Ngôn 72 E và Dũng "lia chia" 72C solo đầu tiên. Và lần lượt đến mọi người… Khi Thầy thả solo, thì Thầy rất hãnh diện vì mình đã thành công trong việc dạy học trò mình. Đã đến lúc tôi phải solo để theo kịp ban bè cùng khóa, hoặc là nằm nhà chờ đi học ngành khác, hoặc về Bộ Binh Long Thành…

                            Thầy của Phạm Kim Ngôn là Richard Karch, một người đẹp trai cao lớn tính tình hiền hậu và rất cởi mở. Ông đi bay với tôi được hai lần. Ông rảnh rỗi vì chỉ có một học trò. Học trò của Ông có khiếu bay nên Ông cũng rất hãnh diện.

                            Tôi đã đi bay với Lt. Karch. Ý tưởng solo cũng chẳng đến với tôi vì tôi biết khả năng của mình. Và đâu có ai ngu dại gì thả solo một đứa học trò mà mình chưa biết khả năng của nó ? Lỡ nó đập tàu thì sao ???Ai sẽ thả tôi solo ?

                            Hôm đó tôi không ra ngoài vùng nửa mà thực tập đáp ở phi trường (traffic pattern). Đáp được hai lần tạm được. Thầy Karch ngừng, và chạy vào bến đậu. Ông bảo tôi mở canopy ra và nhỏ nhẹ nói với tôi : Chúc may mắn (good luck !) và leo ra ngoài.
                            Vẻ mặt Ông rất lo âu, và Ông cười đau khổ :
                            _ Will I lose this wing ??? ( Anh có làm tôi có bị mất cánh bay không ? )Ông chỉ vào cánh bay của Ông trên ngực áo, và vẫy tay tạm biệt. Khi Thầy thả solo... nếu học trò "đập tàu" thì Thầy sẽ bị mất cánh bay.
                            Tôi Taxi ra phi đạo, và cất cánh bay lên. Tiếng động cơ phản lực gầm hú vang trời như hỏa tiễn phóng về phía trước. Bay vòng đầu, trên cao độ 2000 feet, vận tốc (air
                            speed) 200 knots…


                            Tôi bay lệch lạc và không thẳng đường trên phi đao. Thức dặn dò tôi hoài, dễ ẹt, mày cứ để "thằng nhỏ" của mày trên Phi đạo là mày sẽ bay thẳng băng. Lần đầu tiên trong đời solo phản lực, tôi ra mồ hôi như tắm. Ướt đẫm áo bay, cố gắng nhớ những gì Thầy và Thức đã dặn dò : "Thằng nhỏ" trên phi đạo, cao độ 2000 feet… Cánh trái ngang với đài kiểm soát không lưu (control tower), 60% tay ga… Nghiêng cánh 60 độ quẹo gắt về bên trái để vào inside down wind, kéo stick lên để khỏi mất cao độ…

                            Tôi mãi nhìn đồng hồ phi cụ (air speed indicator. altitude indicator) và đài kiểm soát mà quên đi điều quan trọng nhất là trước khi quẹo gắt (pitched out) phải... clear... clear... clear. Khi quẹo phải nhìn xem có ai bay gần mình không?

                            Sau khi quẹo quay vòng thật gắt 180 độ và lấy lại thăng bằng, tôi thấy hai chiếc phi cơ phản lực bay hợp đoàn (formation) ngay trước mặt. Khoảng cách rất gần giống như bạn lái xe trên đường xa lộ cao tốc (freeway). Nếu lái xe thì tôi đã nhẹ nhàng đạp thằng và từ từ cách xa xe đằng trước. Nhưng trên trời máy bay phản lực jet plane bay rất nhanh làm sao mà thắng? Trong khoảng tích tắc, tôi nghe tiếng la trong máy:
                            _ Formation number two breaking out for spacing (Hợp đoàn chiếc số hai bay thẳng lên cao độ 3000 bộ để tránh tai nạn.)


                            Chiếc formation number 2 bắn như pháo thăng thiên lên 3000 feet. Chiếc hợp đoàn số một quẹo trái vào vòng đáp cận tiến. Trong lúc lo sợ đó, tôi đã quên bỏ bánh đáp !
                            Lúc đó tôi phải quẹo vào vòng đáp cuối cùng, và vào cận tiến. Tôi nhắm vào cuối phi đạo và chuẩn bị hạ cánh. Tôi nghe tiếng la thất thanh trong máy :
                            _ Final approach go around. (Phi cơ đang vào cận tiến không được phép đáp. Phải bay lên và làm vòng đáp khác.)

                            Lúc đó chiếc hợp đoàn số một đã ở trên đầu phi đạo (landing threshold) và sắp chạm đất (touch down).Tôi đang ở vị trí cận tiến (final approach) trên cao độ khoảng 300 feet và thấy rỏ chiếc hợp đoàn số một (formation #1). Tôi thầm nghĩ, tại sao tên Pilot của con tàu trước mình không nghe lệnh của đài và bay lên để làm lại một vòng đáp khác vậy cà ? Hay là nó ngủ quên nên không nghe đài nói ?

                            Chiếc hợp đoàn số một (formation number 1) đã đáp và đang quẹo vào bến đậu máy bay. Tôi lại nghe đài, lần này la lớn hơn :
                            _ Go around, Go around ! (Không được đáp, làm vòng đáp khác.)
                            Lúc đó tôi thấy chỉ có một mình tôi đang vào cận tiến (final approach) ! Ngay lập tức tôi đẩy tay ga 100%, ấn hết tay ga… Tiếng phản lực gầm rú vang trời. Thay vì vào đáp, con tàu phóng thẳng về phía trước…
                            Khi đẩy tay ga, tôi lấy tay đấy tay điều khiển nâng bánh đáp lên. Nhưng, trời ơi ! Cần điều khiển bánh đáp (gear) đã nằm ở vị trí khoá (lock) rồi !Tức là tôi chưa bỏ bánh đáp xuống ! Khi làm xong vòng quẹo gắt và thấy 2 chiếc hợp đoàn phản lực, tôi đã sợ quá mà quên bỏ bánh đáp !.Đáp bụng thì đi đời nhà ma.
                            Lúc đó Thức đang trực ở nhà nhỏ cuối phi đạo. Sau này khi gặp lại ở Flight line Thức nói với tôi là chút nữa là họ bắn flares ra phi đạo để báo cho tôi biết là đừng có đáp vì không thấy bánh đáp ở dưới bụng máy bay.
                            Trên đường đi vào Flight line tôi vừa buồn vừa sợ. Ước chi có phép nhiệm mầu nào đó để tôi biến đi, cho tôi tan vào hư không để khỏi nghe tiếng cười chế nhạo của bạn bè và không gặp lại người Thầy đã thả mình solo !


                            Mọi việc theo thời gian trôi mau. Tôi đã quen dần với con chim sắt, từ lúc đó tôi không bị ói, tôi được chuyển qua Thầy mới. Ông hết lòng giúp đỡ tôi và tôi là học trò duy nhất của Ông. Những giai đoạn kế tiếp, ngày đêm chuyên cần luyện tập, việc học bay dần dần trở nên dễ dàng với tôi. Bay trong thời tiết mây mù, bay hợp đoàn với ba chiếc hoặc bốn chiếc phản lực cơ, hoặc bay lật ngửa và nhào lộn tôi không còn thấy khó khăn nữa. Tôi cố gắng hết sức mình, nhất là với sự giúp đỡ của bạn bè và những khóa đàn anh, tôi đã vượt qua bao sự khó khăn.

                            Mỗi lần check ride tôi đều được thuận buồm xuôi gió và không bị khó khăn như những ngày đầu học bay, trước sự ngạc nhiên của bạn bè cùng khóa. Có nhiều bạn không tin và cho rằng tôi nuốt phải ruồi ở 20 ngàn feet. Những ngày chuẩn bị ra trường gần đến. Mọc đủ lông đủ cánh... làm chim Đai Bàng. Tiền thưởng hơn hai ngàn đô la.

                            Tiền đầy trong túi, sòng bài lại được lập ra... nhưng thằng Na đã học xong và về nước rồi. Thiếu Uý Na lúc đó đã về Pleiku hay Đà Nẵng... lấy ai dạy tôi đánh bài
                            đây?


                            Rồi một tin đồn được tung ra : Bắt đầu từ khóa tôi tất cả sẽ được tiếp tục bay T-38, và F-5 E. Nguồn tin này ai cũng tin tưởng chắc chắn là đúng vì mấy tháng trước nửa lớp 74-09 va 75-01 đã bắt đầu tiếp tục huấn luyện T-38 tại căn cứ Webb Air Force Base. Như vậy thì đời tôi lên hương quá cỡ rồi. (Tôi lại lầm thầm trong bụng : hi vọng lần này lên T-38 va F-5 E không bị ói nữa, hihihihi!)
                            Nhưng, than ôi ! Phước bất trùng lai... họa vô đơn chí !
                            Trái với niềm hi vọng của mọi người, toàn khóa 75-02 được lệnh phải về nước bay chiến dấu, vì tình hình quá sôi động ở quê nhà. Việt Cộng đã bắt đầu tấn công vào các Tỉnh miền Trung.

                            16 Cadets và 1 SQ Đà Lạt (Trung Uý Nguyễn đắc Trung ) đã được gắn cánh bay phản lực ngày 6, tháng 9, năm 1974, Tất cả được gắn cánh bay (United States Air Force Silver Wings) và lên đường về nước ngày 12 tháng 9 năm 1974.


                            Bảo Quốc Trấn Không...Thề Trung Thành với Tổ Quốc.....lúc nào cũng văng vẳng bên tai của những chàng Phi Công Nước Việt
                            .
                            30 tháng Tư năm 1975...Đứt phim ...
                            Đàn chim 75-02 tan tác bay đi, Hai đứa đã đi thành lập phi đoàn bên kia thế giới, mấy đứa học tập mút mùa, đi HO qua đây lại bệnh tật yếu đau vì những năm tháng dài trong trại học tập, những đứa ở lại Việt Nam cuộc đời bấp bênh, nghèo đói, bán cà phê vỉa hè, hoặc đạp cyclo sống tạm qua ngày. Tôi bây giờ không sợ bị ói nữa, nhưng những lo sợ khác lại đến với tôi... Tôi sợ không làm tròn nhiệm vụ để giúp đỡ bạn bè…cho đúng với tình nghĩa Không Quân…


                            "Không bỏ Anh Em... Không bỏ bạn bè"


                            Bebau
                            Hung45HTQS

                            Comment


                            • #44
                              Những Giòng Ký Ức



                              Quyên ngồi yên lặng bên cửa sổ nhìn ra ngoài trời; tuyết vẫn rơi mỗi lúc một nhiều hơn. Cả đất trời như đang chìm trong một màu trắng mênh mang, lạnh ngắt. Những bông tuyết bay bay rồi đậu lại trên các nhánh cây khô làm nên từng cụm hoa trắng tinh khôi. Từng giây, từng phút, tuyết cứ phủ dày lên bao mái nhà, bao đồi cỏ một màu trắng xóa đến não lòng người. Tuyết đẹp chỉ để ngắm nhìn, nhưng tuyết gợi buồn quá, cứ mỗi một bông tuyết rơi lại một nỗi nhớ mông lung, rời rạc dậy lên trong ký ức Quyên. Những ngày thơ ấu nào đã rất xa, rồi những ngày bắt đầu làm người lớn, biết cảm xúc với thiên nhiên, biết cười bằng ánh mắt, biết mơ mộng về con tim, biết hát những bài tình ca và biết vần vơ nhung nhớ…một người…một người từ lúc là thư sinh cho đến khi anh vào lính. Rồi một ngày, tình cờ gặp anh trở về từ trại tù cải tạo; tàn tạ, khập khễnh với vết thương bên chân phải, chứng tích của sự trốn thoát tù tội. Nỗi vui mừng chứa chan nhiều nước mắt, hạnh phúc được gặp nhau chưa nói hết lời, và nụ cười chưa trọn vẹn. Anh lại ra đi, lại biệt tăm tông tích. Dù năm tháng đã quá xa, anh vẫn là anh đó, một người quen, một người bạn, một người yêu nhưng không đã là yêu. Anh đi, anh đến cũng như một huyền thoại trong lòng Quyên để cho Quyên bao mong nhớ, khắc khoải, chờ đợi, ngập buồn lên đôi mắt. Tuyết cứ rơi và lòng Quyên cứ nhớ, nỗi nhớ cứ dày theo từng hàng tuyết phủ lên giòng ký ức nặng nề, xa vắng…

                              Sau biến cố lịch sử đau thương xuân 68, lúc ấy Quyên chỉ mới lên mười. Tình hình kinh tế trong gia đình Quyên bắt đầu đi xuống, vật giá leo thang, tiền lương của một sĩ quan biệt phái cấp úy như bố không đủ chi tiêu. Mẹ lại vừa sinh thêm em bé trai thứ tám, không thể mướn người làm, nên là con gái lớn trong nhà, Quyên phải gánh vác một phần công việc nội trợ để giúp mẹ. Khi bố mở lớp dạy kèm luyện thi tú tài toàn phần ban toán tại nhà sau giờ làm việc thì cũng là lúc anh xuất hiện. Trong số khoảng bốn, năm anh học trò đến học, chỉ có mỗi mình anh là hay nhìn Quyên mỉm cười, đôi khi anh còn cho Quyên kẹo nữa. Những hôm anh đến sớm nộp bài tập cho bố chấm, anh không hề ngồi tại bàn học để theo dõi bài sửa mà thường đến chỗ Quyên ngồi trông em nói chuyện, lần đầu anh hỏi Quyên: “ Em tên gì vậy?”, lần sau thì: “ Em học lớp mấy? Trường nào?” Có lần Quyên đang đút cơm cho đứa em trai thứ bảy, thằng bé được mười lăm tháng. Hôm đó, nó rất khó chịu không muốn ăn, cứ khóc và lắc đầu nguầy nguậy. Tưởng em đòi bế, Quyên xốc nách nó trên tay dỗ dành nhưng nó vẫn khóc tức tưởi, nó nắm tóc Quyên rồi ngả đầu ra phía sau gào to giận dỗi. Nó giẫy cái chân rất mạnh làm Quyên mất thăng bằng chao đảo rồi té. Ngay lúc ấy, Quyên cảm thấy như có bàn tay ai đó đã chụp lấy hai chị em Quyên từ phía sau. Lúc hoàn hồn lại, Quyên mới biết đó là bàn tay trợ giúp của anh học trò lơ đãng. Quyên nhìn anh bằng ánh mắt nửa biết ơn, nửa xấu hổ. Có lẽ tiếng em bé khóc đã làm anh phân tâm ngó ra ngoài sân, Quyên nghĩ chắc anh học dở lắm mới phải đi học thêm, đã thế sao thấy anh chẳng chú ý gì tới bài giảng của bố, cứ ngồi cười hoài trông anh điên điên làm sao. Một hôm, Quyên than phiền với mẹ rằng: “Bố có anh học trò kỳ cục quá, cứ nhìn con cười hoài.” Mẹ đã mắng Quyên: “ Ơ hay, mày không nhìn người ta làm sao mày biết người ta nhìn mày.” Quyên ngập ngừng không biết trả lời sao, mẹ nói thêm: “ Này, con hãy còn bé lắm nhé, đừng có nhìn ai vớ vẩn mà bị thôi miên đấy, lại coi chừng bị bắt cóc nữa , thời buổi loạn lạc này, đàn ông, con trai tuổi nào cũng đáng sợ.” Quyên hỏi mẹ: “Thôi miên là gì hả mẹ?” Mẹ nói: “Thôi miên là khi hai nguời nhìn nhau như bị bỏ bùa mê, tốt hơn hết là con không nên nhìn ai lâu nghe chưa?” Quyên chẳng hiểu hết lời mẹ dặn, nhưng nghe đến chữ bùa mê và bắt cóc thì tự nhiên Quyên thấy sợ anh thật. Những lần sau anh đến học, Quyên hay bế em trốn dưới bếp, rồi khi em khóc quá lại phải bế nó đi ngang qua phòng bố dạy học để ra ngoài sân dỗ em, để cho anh có dịp lơ đãng nhìn chị em Quyên chơi. Nhớ đến lời mẹ, Quyên nhất định không nhìn anh chàng điên này một phút nào, kể cả những lúc anh lân la đến nói chuyện với Quyên. Anh hỏi gì, Quyên cũng không nói. Tuy nhiên, thỉnh thoảng những viên kẹo anh cho như một lời giảng hoà kín đáo làm Quyên cảm thấy anh cũng không đến nỗi điên lắm.

                              Một năm sau, trước ngày bố thuyên chuyển lên Đalạt làm việc. Anh đột ngột đến thăm bố với món quà nhỏ. Anh cho bố biết là anh đã đậu tú tài toàn phần hạng ưu năm ngoái, dự định sẽ nhập ngũ. Bố rất vui và có ý khuyên anh với bằng tú tài toàn phần nên thi vào Võ bị Đà Lạt, nếu anh thích đời binh nghiệp. Anh tủm tỉm cười tiết lộ rằng: “ Thưa thật với thầy là em đã vào không quân cũng từ năm ngoái, và đang được huấn luyện ở Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân NhaTrang gần năm nay rồi. Em cũng vừa may mắn trúng tuyển kỳ thi khoá học bay ở Mỹ. Chắc khoảng hơn hai tháng nữa em sẽ rời Việt Nam.” Anh đã cho bố sự ngạc nhiên và khâm phục đến độ bố buột miệng: “ A, cậu này giỏi thật, giỏi thật”. Lần đó anh có vẻ tự nhiên hơn với chị em Quyên, anh cho các em Quyên rất nhiều kẹo bánh và anh cho Quyên một cái kẹp tóc bằng đồi mồi. Lúc chào tạm biệt bố ra về, anh không quên quay lại cười với Quyên và nói : “ Khi nào tóc em dài nhớ kẹp tóc bằng kẹp đồi mồi nhé!” Đó là lần cuối cùng gặp anh trong thời thơ ấu của Quyên, cái vóc dáng thư sinh cao, gầy, đôi mắt sáng tràn đầy tự tin. Nụ cười vui mang nhiều hoài bão. Quyên bâng quơ nhìn theo bóng anh khuất sau giàn bông giấy trước hiên nhà.


                              Vài tháng sau, bố thu xếp cho cả nhà dọn lên Đà Lạt, chị em Quyên háo hức được đi máy bay và đổi nhà mới. Cũng trong năm đó, bố được thăng cấp bậc thiếu tá với chức “Văn Hoá Vụ phó” kiêm trưởng khoa toán ở trường Võ Bị Đà Lạt. Gia đình Quyên ở trong một khu cư xá dành cho sĩ quan gọi là cư xá Lý Thường Kiệt ở Chi Lăng, phía ngoài cổng vào cư xá có một đồn lính canh gác, người lạ muốn vào thường phải xuất trình thẻ căn cước. Quyên rất yêu thích khung cảnh mới của những ngôi nhà cư xá, buổi sáng ở đây thật là yên tĩnh, cảnh vật mờ ảo như trong truyện thần tiên bởi sương mù còn giăng mờ trên những ngọn thông cao ngất. Quyên hay dắt em ra khu vườn sau nhà buổi sáng để cùng thi nhau thở ra khói, rồi đùa vui dưới hơi lạnh của bầu trời sương sớm.

                              Mùa xuân năm 1973, mùa xuân bắt đầu nở ra trong Quyên một chồi non mơ mộng. Cứ mỗi lần mẹ sai lau cửa kiếng là Quyên lại đứng hàng giờ nhìn ra khu vườn nhỏ bé tuyệt vời sau nhà. Quyên yêu sao cây đào rừng với màu hoa hồng tươi thắm, giàn hoa bìm bịp tím thẫm leo quanh bờ rào. Quyên yêu những sáng xuân trong lành có tiếng chim cười rúc rích trong vòm lá. Một làn gió nhẹ qua, thoảng mùi hương cỏ ướt quyện với mùi đất ẩm, mùi thông non, mùi hoa dại…. Cũng vào một buổi sáng đang lau cửa kiếng phía trước nhà, Quyên chợt thấy bố lái chiếc xe Jeep vào sân, từ trên xe bước xuống cùng với bố là hai chàng thanh niên trẻ mặc hai bộ quân phục khác nhau. Quyên có thể nhận ra một người là sinh viên Võ Bị vì anh mặc quân phục Võ Bị, còn người thanh niên kia mặc bộ quân phục màu xanh trông rất oai nghiêm. Quyên chép miệng: “Lại có khách”, rồi vội vàng chạy tọt vào trong, luồn cửa bếp để ra vườn sau. Quyên rất sợ cái cảnh bưng khay trà ra mời khách, phải trốn cho lẹ để mẹ sai Trâm. Khổ nỗi Quyên vừa ngồi xuống bậc thềm sân sau thì đã nghe tiếng mẹ gọi giật lại: “Quyên, lên pha trà cho khách này”
                              Quyên nhăn nhó:
                              “Mẹ bảo Trâm pha trà đi, con mắc bận rồi.”
                              “Bận việc gì cũng mặc, mau lên pha trà cho khách không bố mày lại la bây giờ. Con Trâm tha em đi chơi đâu rồi”
                              Quyên đành phải đứng lên vào bếp đặt ấm nước, Quyên phân bì:
                              “Mẹ xem con Trâm chẳng bao giờ ở nhà phụ mẹ, việc gì cũng tới con, mệt quá”
                              Mẹ mắng: “ Lại cành nanh với em, mày là chị lớn kia mà”

                              Quyên chỉ biết thở dài. Sắp đặt xong khay trà, Quyên trịnh trọng bưng ra mời khách. Một sự ngạc nhiên đến sững sờ khi Quyên nhận ra anh, người thanh niên mặc quân phục màu xanh, chắc chắn đó là quân phục của không quân rồi. Trông anh có vẻ đen và già dặn hơn hồi Quyên gặp anh mấy năm về trước. Anh cũng tròn mắt nhìn Quyên, một cái nhìn rất lạ, nụ cười ngày xưa đã không còn trên môi anh. Quyên thấy lúng túng trước cái nhìn đó, run tay đặt khay nước trên bàn, Quyên lí nhí: “ Mời bố , mời hai anh dùng nước” rồi chạy nhanh vào trong nhà. Quyên nghe tiếng anh hỏi: “Có phải em Quyên đó không thầy? “
                              “Ừ Quyên chứ còn ai, năm nay nó đang học đệ tam, lớp mười bây giờ đấy”
                              “ Trời ơi Quyên lớn quá, nếu gặp ngoài đường chắc em chẳng nhận ra”


                              Quyên không biết mình đã lớn và đổi khác ra sao như anh nhận xét, nhưng Quyên biết chắc là trông Quyên nhếch nhác, lam lũ lắm. Mẹ có thêm em bé gái thứ chín, Quyên lại bận hơn với hàng đống công việc nhà sau giờ học. Không có quần áo đẹp như mình mơ ước, không được phép đi đâu chơi với bạn bè, Quyên cảm thấy mình thua sút rất nhiều so với những cô gái cùng trang lứa. Dù lúc đó bố đã được thăng cấp lên bậc trung tá, lương bố vẫn không đủ để mướn ngườì làm, cảnh nhà Quyên vẫn không sung túc như những gia đình sĩ quan khác trong khu cư xá. Chị em Quyên thường đi bộ đi học, không có tài xế đưa đón…Quyên thở dài, lặng lẽ đến bên cái gương nhìn xem mình đã lớn như thế nào, mà không thấy anh cười với Quyên như lúc trước. Xem này cái mặt Quyên lúc nào cũng đỏ bừng như người bị lên máu bởi lẽ Quyên cứ ở trong bếp luôn, tóc Quyên dài thì phải búi lên cho gọn để làm việc, muốn xoã tóc ra làm điệu cũng không được. Quyên chợt nhớ đến cái kẹp đồi mồi anh cho đã bị gẫy vì tóc Quyên quá dày. Quyên nói thầm: “Trông mình giống như bà cụ non thật, khiếp quá” Rồi Quyên quay ra miệng vẫn còn lẩm bẩm: Khiếp quá, khiếp quá. Tiếng anh hỏi đã làm Quyên giật mình: “Cái gì khiếp hả Quyên?” Quyên nhìn anh sửng sốt:
                              “Ủa ! sao anh lại đứng ở đây?”
                              “ Anh muốn xem cây đào rừng sau nhà, nghe thầy nói đẹp lắm, anh lại chưa bao giờ thấy hoa đào, thầy bảo vào nói Quyên dẫn anh ra xem”
                              “Ồ, cây đào ở đây nè” Quyên và anh ra sau vườn, cây đào đang trổ nhiều bông hoa tươi thắm trông rất đẹp mắt. Anh ngắm cây đào thì ít mà ngắm Quyên thì nhiều làm Quyên ngượng ngùng cứ phải quay đi để tránh cặp mắt kỳ quái của anh. Cặp mắt mà hình như đã nhốt cả thời thơ ấu của Quyên trong ấy, Quyên hỏi anh một câu thừa thãi: “Hoa đẹp quá anh hả?”
                              Anh nói tỉnh bơ: “Ừ đẹp như em vậy!”
                              Quyên ngạc nhiên: “ Em mà đẹp gì, như lọ lem ấy”
                              “Ừ, thì đẹp như công chúa lọ lem”
                              “ Anh cứ nhạo Quyên hoài ” Quyên mắc cỡ quay đi
                              “ Anh đâu có nhạo Quyên làm gì, thời gian đi nhanh quá, lần cuối gặp Quyên ở Sài Gòn , Quyên hãy còn nhỏ xíu mà bây giờ đã đệ tam rồi.”
                              Quyên nhặt một chiếc lá rơi trên ghế băng, buồn buồn nói:
                              “ Em còn mong cho mình lớn thật mau để đi làm kiếm tiền”
                              “Sao em mong dại dột thế, làm người lớn nhiều nỗi lo lắm. Kiếm tiền là nỗi lo khủng khiếp, cay đắng nhất. À mà Quyên học ban gì vậy?”
                              “ Em học ban C”
                              Anh trợn mắt:
                              “ Ban C? Sao bố dạy toán mà con gái lại không học ban toán?”
                              Quyên vò nhẹ chiếc lá trong tay ngập ngừng:
                              “ Tại …tại em … dốt toán nên đành phải chọn ban văn chương. Bố cũng buồn em lắm”
                              Anh lắc đầu:
                              “Anh không tin là em dốt toán, anh còn nhớ hồi học bố em ở nhà, anh có lén xem tập toán và tập chính tả của em, thấy toàn điểm mười không à. Hồi đó không nhớ em học lớp mấy mà chữ em đẹp ghê”
                              “Anh cũng tò mò quá há, không lo học mà cứ rình coi tập người ta. Hồi em học tiểu học em rất thích môn toán, nhưng khi lên lớp đệ thất thì em bắt đầu ghét toán, và thích môn văn. Em không chú ý đến môn toán nữa, rồi mất căn bản từ lúc đó.”
                              Anh gật gù: “À, ra thế! Mà em chọn ban C cũng hay, con gái học ban toán thì thấy khô khan quá, học ban C nghe ướt át tình cảm hơn”
                              Nói xong, anh nhìn Quyên cười cười, nụ cười quen thuộc của ngày nào mà Quyên đã nghĩ là điên. Quyên chợt hỏi:
                              “À, anh có thích đọc thơ không?”
                              “ Không thích lắm, nhưng nếu thơ của Quyên làm thì anh rất thích đọc”
                              Quyên tròn mắt nhìn anh hỏi lại: “ Sao anh biết em làm thơ?”
                              Anh lại cười: “ Thì anh nghe thầy than là con gái thầy dạo này cứ hay làm thơ thẩn chẳng chịu lo học hảnh gì cả”
                              “Chết, bố em nói với anh vậy hả, vậy mà bố hay đưa sách thơ cho em đọc, lại còn mang giấy màu về cho em đóng tập thơ nữa. Lần tới anh về chơi em sẽ làm một bài thơ tặng anh nhe”
                              Anh cười to: “Ủa , phải lần tới mới được tặng thơ hả? Sao lần này không tặng anh cho rồi, lỡ mai mốt anh không có dịp nào ghé đến đây nữa thì sao!”
                              Quyên cúi đầu thở dài: “ Em sưu tầm được nhiều thơ hay lắm, làm cũng nhiều nhưng đã bị mẹ xé hết hai cuốn rồi.”
                              Anh ngạc nhiên: “ Sao vậy ?”
                              “ Mẹ không thích con gái làm thơ, mẹ bảo mơ mộng hão huyền, lãng mạn thì chóng hư, mẹ chỉ muốn em làm việc nhà thật giỏi, thật nhanh”
                              Nói đến đó tự nhiên Quyên thấy buồn muốn khóc, Quyên tiếc những tập thơ mà Quyên đã ngồi nắn nót chép hàng giờ, và vẽ vời đủ màu sắc. Thú vui duy nhất của Quyên đã bị đập vỡ rồi. Quyên nghe như có tiếng chân anh bưóc đến gần Quyên cùng tiếng anh nói:
                              “ Mẹ Quyên phòng thủ cho con gái kỹ quá! Thật là tội cho Quyên.” Quyên ngước lên thấy anh đã đứng sát bên mình. Anh đưa bàn tay lên vuốt má Quyên thì thầm “ Quyên dễ thương lắm em có biết không ?”. Quyên đỏ mặt chạy vụt vào trong nói to: “Không, em không biết”, mặc kệ cho anh gọi “ Kìa Quyên đi đâu vậy?”

                              Quyên nghe trái tim mình đập thình thịch, một cảm giác xấu hổ lan trong người tê cứng, Quyên sờ mặt mình thấy nóng ran, giận anh sao kỳ cục quá, mình đâu còn là trẻ con nữa mà vuốt má. Rồi Quyên lại tự trách mình sao mắc cỡ một cách lãng nhách thế, phải nên tự nhiên hơn và xem mình hãy còn là con nít dưới mắt anh, lúc nói chuyện với anh Quyên cũng thấy vui vui vậy. Quyên vén rèm cửa nhìn ra ngoài phòng khách, thấy anh đã ngồi bên cạnh bố tự lúc nào, nhìn anh rất oai phong trong bộ quân phục, bấy giờ Quyên mới thấy trên hai bên cầu vai áo anh có một bông mai . Trời ơi anh đã là thiếu úy rồi kia! Quyên nghe anh nói với bố là lần sau nếu phi đoàn anh đóng ở NhaTrang thì anh sẽ có dịp ra thăm em trai anh, và thăm bố. Vậy là lần đó anh đi phép ra thăm em trai anh, người sinh viên Võ Bị đang đứng cạnh anh. Quyên nhủ thầm nếu anh đến thăm bố lần nữa, Quyên sẽ cố nói chuyện với anh tự nhiên hơn. Đấy là lần đầu tiên gặp lại anh của thời thiếu nữ, Quyên đã bắt đầu nghĩ đến anh nhiều hơn, đã thích đọc những bài thơ tình của lính… Và cũng kể từ sau ngày đó Quyên không còn dịp nào gặp anh nữa, chắc anh phải đi bay nhiều nơi vì tình hình chiến sự trong những năm tháng ấy rất gay go, khốc liệt; bố cũng phải cấm trại luôn.


                              Đầu Xuân năm 75, Quyên có thêm em bé gái thứ mười, Quyên càng bận hơn với trăm công việc nhà, không có thì giờ để ngồi mơ mộng hay chép thơ tình của lính. Dù vậy, trong lòng Quyên lúc nào cũng nghĩ đến anh. Quyên cứ ước mong một ngày nào anh sẽ đột ngột ghé qua thăm bố, và Quyên lại có dịp được nói với anh vài câu. Khi Việt Cộng chiếm Ban Mê Thuột vào tháng ba, bố đã tất bật lo cho cả nhà di tản về Sài Gòn, Quyên thấy thương bố quá…
                              Ngày trường Võ Bị rời về Long Thành và làm lễ ra trường vội cho sinh viên. Tình cờ, cũng lại tình cờ bố đã gặp anh khi anh chạy sang Võ Bị để xem tình trạng của người em trai. Sau ngày lễ ra trường, anh đã chở bố về nhà bằng Honda, Quyên nghe bố kể , anh chạy như bay dưới làn đạn pháo, bố cứ tưởng là cả hai người khó mà sống sót trở về. May mắn thay, bố Quyên chỉ bị trúng một mảnh đạn nhỏ vào chân trái, còn anh thì không việc gì. Ngày hôm ấy, khi anh ngừng xe dìu bố vào nhà, thấy chân bố chảy máu chị em Quyên sợ đến nhốn nháo. Mẹ chạy ra chạy vào lo băng bó cho bố. Quyên mong anh sẽ nói một câu gì với Quyên, hay ít ra một cái nhìn tạm biệt, nhưng anh đã vội vã đi ngay.

                              Chiến tranh chấm dứt, bố đi học tập cải tạo, cuộc sống của gia đình Quyên càng thê thảm hơn. Mẹ vất vả ngược xuôi với đủ mọi nghề để nuôi mười đứa con. Bố bặt tin từ lúc ra đi khi em bé út của Quyên chỉ vừa tròn 4 tháng tuổi, mãi đến lúc bé út biết đi, biết chạy thì gia đình Quyên mới nhận được tin đi thăm nuôi bố. Lần đầu tiên đi thăm bố cả nhà đều khóc, bố trông gầy yếu, xanh xao quá, tóc bố bạc đi nhiều, râu bố dài tới ngực. Bố đưa tay ra bế em bé út, nó khóc thét lên vì sợ bộ râu dài của bố. Mẹ hỏi bố có gặp người bạn nào chung trại không? bố nói chẳng gặp ai quen, chỉ gặp có mỗi thằng Đại hôm đi lao động. Tưởng là không quân như nó thì phải đi trước hết, có ngờ đâu bị kẹt lại. Nó cũng bị đày ở đây, nhưng mà ở khác chỗ. Quyên giật mình, có sự xui khiến nào mà anh và bố lại gặp nhau trong cảnh tù đày thế này. Thầy trò nhìn nhau chắc không sao tránh khỏi sự ngậm ngùi cho số phận bi thương của người lính sau chiến tranh. Quyên nhìn quanh khu nhà thăm nuôi, thầm mong sao có một sự màu nhiệm nào đó để Quyên có thể nhìn thấy anh ngay tại đây, để khóc, đề được nói với anh rằng: Quyên luôn nghĩ đến anh, từng ngày, từng tháng, vì Quyên đã biết yêu đời lính từ lúc bắt đầu thành thiếu nữ. Đời lính của anh luôn gắn liền với hy sinh, mất mát. Đời lính của anh luôn là những giấc mơ thanh bình, tự do, no ấm cho quê hương, giờ đây khi thanh bình đã thực sự đến, những người lính như bố như anh đã không còn tự do, và tất cả những người dân hiền lành cũng chằng có ấm no trọn vẹn.

                              Sáu năm sau bố trở về, sự vui mừng của ngày xum họp không kéo dài được bao lâu thì một nỗi buồn lớn lại đến với gia đình Quyên. Cơn bệnh ung thư quái ác đã tàn phá cơ thể mẹ trong những năm tháng vật lộn với cuộc sống cơm áo. Lo lắng, buồn rầu, suy dinh dưỡng là những nguyên nhân đã tăng nhanh mầm bệnh và kéo mẹ đi đến chỗ kiệt sức. Cuối cùng mẹ đã bỏ bố và chị em Quyên ra đi không một lời trăn trối. Bố thay mẹ tiếp tục phần đời còn lại nuôi các con, bố bắt đầu nghề dạy kèm toán tại tư gia. Quyên cũng đi kèm trẻ nhiều chỗ ngoài giờ làm việc để phụ với bố nuôi em. Cuộc sống tạm yên ổn, và bố cũng tạm vui trong cảnh gà trống nuôi con. Những buổi tối khu phố bị cúp điện, chị em Quyên thường ngồi quanh bố để nghe bố kể chuyện, có khi bố kể chuyện kiếm hiệp, có khi bố kể chuyện trong tù cải tạo. Môt ngày nọ, bố kể về anh, người học trò giỏi, người sĩ quan không quân trẻ mà bố rất khâm phục. Anh đã gan dạ dám trốn trại một mình, dù bị rượt đuổi gắt gao, bị bắn cảnh cáo nhiều lần anh vẫn cứ chạy, chạy cho đến khi anh bị thương và ngã gục. Trời ơi! Anh thật là một người lính kiên cường bất khuất. Dẫu phải đương đầu với hoàn cảnh tù đày nghiệt ngã, anh vẫn không muốn đầu hàng. Nghĩ đến anh, lòng Quyên trào lên một nỗi xót xa, lo lắng. Không biết số phận anh đã ra sao? bao giờ anh mới được thả về, và Quyên có còn dịp nào gặp anh nữa không?

                              Rồi trời cũng thương số phận người hiền, anh được trả tự do và bất ngờ đến thăm bố, anh là thế, sự thăm viếng của anh luôn luôn bất ngờ. Hôm ấy bố lại đi vắng, Quyên đón anh ngay cửa , cả hai không nhận ra nhau, anh gầy, đen, râu tóc mọc dài như người tiền sử, môi anh không còn nụ cười vui, mắt anh thôi tràn đầy tự tin chiếu sáng.. Khuôn mặt anh hằn lên nỗi ưu tư, chán nản và buồn bã. Có lẽ trông Quyên cũng già và khác nhiều trong mắt anh, nên nhìn Quyên anh ngập ngừng nói:
                              “ Tôi...tôi là Đại , mới đi học tập về ghé qua đây thăm thầy cũ”
                              Nghe giọng nói, Quyên đã nhận ra anh, Quyên nghẹn ngào: “Trời ơi anh Đại trông anh thay đổi nhiều quá ”
                              Anh khựng lại vài giây: “Xin lỗi, chị.. à cô.. là…”
                              Quyên ngắt ngang lời anh: “Là Quyên đây mà, anh quên rồi sao!”
                              Anh mừng rỡ, thảng thốt gọi: “Ồ Quyên, Quyên đó hả, nhìn em thấy lạ, anh hoàn toàn không nhận ra.”
                              “Anh vào nhà chơi uống nước đợi bố Quyên về, gặp lại anh bố Quyên mừng lắm đó”

                              Anh dắt chiếc xe đạp vào sân, Quyên để ý thấy anh đi như người có tật chân cao chân thấp, nhớ đến chuyện bố kể về anh, lòng Quyên chợt nhói đau. Thời chinh chiến, anh đã vượt qua được bao nhiêu sự hiểm nguy, chết chóc, thương tật. Vậy mà khi hoà bình anh lại mang thương tật bởi họng súng điên rồ của những người cùng tiếng nói da vàng với mình. Không biết bố và anh đã mang tội gì với nhân dân? để rồi phải đền tội bằng những năm tháng tù đày khốn khổ như thế.

                              Anh ngồi xuống ghế, mắt nhìn Quyên đăm đăm. Cái nhìn đã không còn làm cho Quyên ngượng nghịu, tránh né như thuở nào, trái lại nó thôi thúc Quyên phải nhìn sâu hơn vào mắt anh. Một cảm giác nào đó thật thiết tha, thật trìu mến, thật đắm đuối, thật vui và cũng thật buồn. Quyên rót cho anh một tách trà nóng, Quyên hỏi anh đã về hôm nào? Anh nói chỉ mới hôm qua thôi, hôm nay anh dành một ngày để đi thăm người quen thân thuộc. Anh hỏi Quyên:
                              “ Thầy vẫn khoẻ chứ Quyên?”
                              “ Bố Quyên vẫn khỏe, chỉ bị máu cao một chút thôi.”
                              “ Bây giờ thầy làm gì?”
                              “ Bố Quyên dạy kèm toán ở nhà, có khi dạy nhóm ở nhà học trò nữa.”
                              “ Thầy lại trở về với nghề dạy học, thầy thật yêu nghề quá. Còn cô?”
                              Nghe anh hỏi đến mẹ, nước mắt Quyên chợt ứa ra, chỉ lên bàn thờ Quyên nức nở: “ Bố Quyên về chưa được một năm thì mẹ mất, trời còn thương cho bố mẹ gặp nhau lần cuối, chứ nếu mẹ Quyên mất trước khi bố về , Quyên không biết phải làm sao, chắc Quyên chết luôn quá”.
                              Quyên nghe anh thở dài: “ Thật là tội” rồi anh đứng lên tiến đến bên bàn thờ mẹ, thắp một nén nhang. Quyên nhìn anh từ phía sau, dáng anh vẫn cao, gầy, anh gầy đi nhiều. Quyên không còn tin được ở mắt mình đây chính là anh của năm nào trong bộ đồ không quân oai hùng. Trông anh bây giờ thật tuyệt vọng, chờ anh ngồi xuống, Quyên hỏi:
                              “ Vết thương ở chân anh còn đau không?”
                              Anh chậm rãi lấy thuốc ra hút, nhìn Quyên qua khói thuốc anh hỏi:
                              “ Sao Quyên biết anh bị thương? Chắc thầy kể chuyện của anh phải không?”
                              Quyên gật đầu: “ Nghe bố kể, thấy anh gan lì quá đi thôi, lỡ bị bắn chết thì sao?”
                              “ Chết thì thôi có gì phải sợ! Không phải là anh gan lì đâu, mà là anh liều mạng thì đúng hơn. Lúc trốn được ra ngoài anh nghĩ mình đã thoát, nhưng khi bị phát hiện anh phải chạy cho mau để không bị bắt lại, lúc đó anh có nghe nhiều tiếng la hét phía sau, rồi tiếng súng nổ. Anh không cần biết gì hết, trước mắt anh, và cả trong đầu anh bấy giờ chỉ có hai chữ: phải thoát, thế là cứ chạy như điên.”
                              Anh ngừng nói, rít một hơi thuốc dài. Quyên hỏi: “ Rồi sao nữa anh?”
                              “ Anh đã bị ngất đi nên không còn biết gì hết, mà thôi chuyện buồn lắm Quyên nghe làm gì, thầy cũng kể cho các em rồi”
                              “ Bố Quyên chỉ kể đại khái thôi, không có chi tiết, Quyên rất muốn nghe chuyện buồn của anh, muốn biết sau đó họ đã làm gì anh?”
                              “Khi anh tỉnh dậy thì thấy mình nằm trong nhà thương, tay chân bị trói, anh rất là đau đớn… Anh cứ tưởng rằng chân anh sẽ bị cưa, vì vết thương bị nhiễm trùng ghê gớm lắm… Nhưng rồi có lẽ mạng anh hãy còn lớn, và cũng nhờ ở sự đức độ của mẹ, con trai nhờ đức mẹ mà, nên anh đã qua khỏi …Sau đó anh bị chuyển trại. Anh không muốn nhớ lại chuyện đó nữa, đừng bắt anh kể thêm nhé.”
                              Quyên nhìn anh, lòng dạt dào thương cảm, muốn nói với anh vài câu an ủi mà không biết mở đầu làm sao. Tìếng anh hỏi Quyên:
                              “ Hiện giờ Quyên đang làm việc gì?”
                              “ Quyên đi dạy tiểu học”
                              Anh chợt cười nhẹ:
                              “À, Quyên là cô giáo rồi đấy, thảo nào trông cô giáo chững chạc quá.”
                              Nhìn anh cười, Quyên cảm thấy mạnh dạn lên đôi chút, Quyên nói:
                              “ Thì anh cứ nói là thấy Quyên già đi, anh dùng chữ chững chạc nghe chua xót làm sao”
                              “Ơ kìa, chững chạc đâu phải là già, mà nếu nói Quyên già thì anh cũng thành cụ rồi. Anh hơn Quyên đến tám tuổi kia mà.”
                              Quyên ngạc nhiên: “ Sao anh biết tuổi của Quyên?”
                              “ Anh đoán tuổi theo lớp học. Này nhé, lần anh gặp Quyên ở Đà Lạt, lúc đó anh hai mươi ba tuổi, Quyên học lớp mười thì có phải là Quyên mười lăm tuổi không? Anh nhìn Quyên bây giờ thấy lạ chỉ tại trong đầu anh lúc nào cũng nhớ đến hình ảnh của Quyên lúc đó, da trắng má hồng, mũm mĩm như con búp bê, suốt ngày nấu cơm, giặt quần áo, bế em…”
                              Quyên phì cười: “ Bộ hồi đó Quyên mập lắm hả?”
                              Anh dụi tàn thuốc, nghiêng đầu nhìn Quyên: “Không mập gì, chỉ hơi tròn tròn như hột mít thôi. Mà anh nhớ không lầm thì đã mười năm rồi, mười năm phải cho người ta trường thành chứ. Đâu có thể mãi là cô bé hoài để mình cho kẹo, dù gì bây giờ đã là cô giáo rồi, mình phải thận trọng chứ.”
                              Quyên cụp mắt nhìn xuống hai bàn tay mình, một niềm vui đang trải rộng trong lòng Quyên. Anh thực sự cũng có nghĩ đến Quyên sao, bao năm tháng nhớ mong, mơ mộng về anh như một ảo ảnh, Quyên không dám tin rằng có một ngày như hôm nay gặp anh, mặt đối mặt để nghe anh nói chuyện thật tình cảm với Quyên. Ồ mà biết anh có nói thật lòng không, hay chỉ là một lời tán hưu tán vượn cho vui.
                              Tiếng anh hỏi cắt đứt ý nghĩ của Quyên:
                              “ Sao Quyên im lặng vậy? Quyên buồn hả?”
                              Quyên lắc đầu, nhìn anh: “ Không, Quyên đang vui vì nghe chuyện một người hãy còn nhớ đến Quyên từ mười năm trước, Quyên cảm động quá”
                              Cuộc đàm thoại hôm ấy cũng khá lâu mà bố vẫn chưa về, anh không thể chờ lâu hơn nữa nên đành phải cáo từ, hẹn hôm khác sẽ đến thăm bố. Trước khi anh đứng lên, anh chợt nắm lấy bàn tay Quyên vuốt nhẹ rồi nói: “ Quyên này, trông em gầy và xanh xao lắm , em ráng giữ sức khỏe nhé, đừng suy nghĩ hay lo lắng nhiều quá mà thành bệnh đấy”
                              “ Anh cũng gầy nhom à, nhìn anh sa sút Quyên thật muốn khóc luôn”
                              Câu nói của Quyên đã làm anh khựng lại, anh nhìn Quyên thăm thẳm, khó hiểu quá. Rồi anh vụt quay đi : “ Anh là đàn ông mà, lại đã từng đi lính , anh chịu cực khổ quen rồi, thôi anh về nhé”


                              Anh đã tạt qua thăm bố thêm hai lần nữa, cả hai lần đều không gặp được bố. Một lần thì Quyên đi vắng, anh ngồi nói chuyện với mấy em Quyên. Nghe Trâm nói anh cũng có ý ngồi chờ Quyên và bố về, chờ dài cả người mà chẳng thấy bóng em và bóng thầy đâu. Chán quá chàng đành ra về, Trâm còn diễu cợt: “ Xem ra, cái ông Đại này có vẻ si tình chị Quyên rồi nhe” Quyên đập vai Trâm “ Bậy bạ nào” Những đứa khác được thể nhao nhao lên: “Ờ bậy bạ vậy mà trúng tùm lum, ổng điều tra chị mình kỹ dễ sợ luôn, đúng là dịp may để tụi em tha hồ nói xấu chị , lúc chị đang dạy học trò có bị nhảy mũi không ? Có thấy ngứa lỗ tai không?” Quyên hỏi: “Ổng điều tra cái gì?” Thịnh cười: “Trời, trời hỏi tới nghe” Con bé Hương làm ra vẻ người lớn trịnh trọng nói: “Đây nè để em nói cho mà nghe ổng hỏi chị Quyên có hay đánh mấy em không ? Em liền nói chị Quyên đâu có uy trong nhà mà đánh ai. Chị Trâm có uy quyền hơn chị Quyên, nên tụi em sợ chị Trâm hơn chị Quyên” con bé Út thêm: “ Chị Trâm có nhiều bạn trai đến nhà chơi cho tụi em quà, muốn có quà thì phải nghe lời chị Trâm, còn chị Quyên chẳng có ai”. Quyên bẹo má em phì cười: “ Toàn nói nhảm nhí”.

                              Lần thứ tư anh đến thăm thì đã gặp được bố, thầy trò hàn huyên tâm sự rất lâu. Hẩu hết những lần anh đến chơi sau này chỉ ngồi trò chuyện với bố. Anh và Quyên rất ít có dịp nói chuyện với nhau. Cho đến một ngày, anh hẹn Quyên đi chơi, đó là môt ngày vui nhất trong đời Quyên kể từ lúc gặp anh. Hai đứa đi bộ hết con đường Nguyễn Du thanh vắng mà vẫn không mỏi chân. Hôm ấy, Quyên nói chuyện huyên thuyên không ngớt, Quyên kể về con đường Nguyễn Du này đã cho Quyên bao nhiêu kỷ niệm vui buồn của thời còn đi học sư phạm. Quyên kể những nỗi buồn chán trong suốt hai năm trời mệt nhoài với sách vở … Những ngày đi bộ dạy kèm rời rã cả chân tay. Quyên nói nhiều như chưa bao giờ được nói hết tâm sự trong lòng mình. Anh chỉ im lặng lắng nghe, trông anh rất là tư lự. Quyên hỏi:
                              “ Hình như anh đang suy nghĩ chuyện gì hả anh? Có nghe Quyên nói không, sao anh cứ im lặng hoài vậy?”
                              Anh lắc đầu: “À không , anh có nghĩ gì đâu, anh đang nghe Quyên kể chuyện mà”
                              Quyên biết anh nói dối, chợt linh tính một điều gì đó không hay sẽ đến. Quyên nghĩ đến niềm vui hiện tại, niềm vui có anh bên cạnh như lúc này sẽ kéo dài được bao lâu, hay chỉ là thoáng chút thôi, rồi Quyên lại trở về với những nhớ nhung chờ đợi. Quyên mạnh dạn hỏi:
                              “ Anh à, không biết chuyện giữa hai đứa mình rồi sẽ đi đến đâu?”
                              Anh chép miệng:
                              “ Anh cũng đang tự hỏi mỉnh câu hỏi đó”
                              Rồi anh dừng lại, rít một hơi thuốc, anh tiếp: “Anh vẫn không tìm ra câu trả lời cho mình.”
                              Anh quăng mạnh tàn thuốc vào gốc cây, quay sang phía Quyên, anh bất chợt ôm vai Quyên kéo sát vào anh. Quyên chống chế một cách yếu ớt, mùi thuốc lá nồng nồng từ hơi thở anh làm cho Quyên phải bật ho khan mấy tiếng. Quyên nghe như bờ môi anh đang chạm trên tóc mình, và lướt qua vầng trán, trôi bên má rồi nhẹ nhàng xuống đôi môi. Người Quyên mềm nhũn trong tay anh, nụ hôn đầu đời sao vụng về mà thân thiết quá, sao ngọt ngào mà vẫn nghe cay đắng, sao nồng nàn mà chua xót tận đáy tim, sao đam mê mà đau thắt cõi lòng. Quyên nghe tiếng anh thì thầm bên tai tựa hồ như vọng lại từ nơi nào rất xa:
                              “ Quyên dễ thương lắm, em có biết không ? Đã mấy lần anh cũng muốn liều nhờ mẹ đến xin thầy cho Quyên về với anh, nhưng nghĩ đến phận mình mới đi tù về, việc làm không có, tiền bạc cũng không lấy gì mà nuôi Quyên. Ở đây tương lai mù mịt quá, anh đành phải nghĩ cách ra đi thôi.”
                              Quyên sửng sốt: “ Anh đi đâu?”
                              Anh ngập ngừng: “ Anh đi ...vượt biên”
                              “ Trời ơi, chừng nào anh đi?”
                              Anh thở dài: “Đêm nay”
                              “Đêm nay, sao gấp quá vậy anh? Sao anh không nói trước với Quyên?” Quyên kinh ngạc hỏi
                              “ Nói trước để làm gì?”
                              Đêm nay anh đi, Quyên mím chặt môi lại để không bật ra tiếng khóc tức tưởi. Đêm nay anh đi, trái tim Quyên như thắt nghẹn, mắt Quyên như mờ đục, đầu Quyên choáng váng. Quyên nói như mê:
                              “ Anh đi bằng đường nào vậy ?Quyên có thể tiễn anh được không ?”
                              “ Cứ coi như bây giờ là lúc mình đang tiễn nhau đi, anh đi đường bộ nên khó khăn lắm”
                              “ Trời ơi! Đường bộ nguy hiểm vô cùng anh có biết không?”
                              “ Anh biết nhưng nghe nói nó gần hơn đường biển”
                              Quyên nghe cõi lòng mình nát tan từng mảnh vụn. Ngày đầu tiên hò hẹn cũng là ngày cuối cùng chia tay. Quyên không biết nói gì hơn nữa, nước mắt Quyên cứ trào ra, trào ra... Anh nhẹ đưa những ngón tay khô rám gạt nước mắt cho Quyên:
                              “Đừng khóc nữa Quyên, anh đi rồi không biết thành công hay thất bại, sống hay chết, thế nên em đừng chờ đợi anh lảm gì để phí hoài tuổi xuân. Nếu sau này có người nào thương yêu em thì hãy lập gia đình. Anh không dám hứa với em điều gì chỉ sợ mình thất hứa.”
                              Quyên lắc đầu buồn bã: “ Mình về đi anh, ở đây càng lâu , Quyên không chịu nổi giây phút ảm đạm này đâu”

                              Trên đường về nhà, cả hai đều im lặng, sự im lặng như tăng nỗi buồn lên gấp bội, ánh nắng chiều soi bóng anh dài bên bóng Quyên ngắn, chùng lại trên mặt đường thênh thang. Chia tay ở đầu ngõ, anh nhìn Quyên lưu luyến, anh nắm tay Quyên, nhưng Quyên đã giựt tay lại. Anh thở dài: “Anh đi nhé!” Quyên thẫn thờ nhìn theo bóng anh lung linh, mờ ảo, nhoè nhoẹt xa dần, xa dần…

                              Quyên vẫn có thói quen ngồi bất động trước cửa sổ hàng giờ, để thả những giòng ký ức đi lang thang. Từ cái khung cửa nhỏ trên căn gác thấp lè tè hồi còn ở quê nhà, nhìn ra chỉ thấy những mái ngói chồng chất lên nhau, lâu lâu có vài đám khói từ bếp nhà ai đó bay ra. Đến cái khung cửa sổ lớn ỏ xứ người những khi nhìn tuyết rơi. Cả hai khung cửa ở hai phương trời đã chất chứa bao nỗi nhớ về anh, sự chờ đợi, mỏi mòn khô héo đã hai mươi mấy năm rồi. Không biết bây giờ anh đang ở đâu, làm gì ? Nơi anh ở có nhiều tuyết như chỗ Quyên không? Anh đã có khi nào nghĩ đến Quyên, dù chỉ là một thoáng nhớ qua thôi. Chắc anh đã có một gia đình mới rất hạnh phúc, ấm êm, và biết đâu anh đã có một đàn cháu nội, cháu ngoại. Nhưng sao anh không liên lạc với Quyên ? Hay anh đã bị chết giữa rừng sâu nước độc. Quyên rùng mình xua đi ý nghĩ chết chóc đó. Không, anh không thể chết, anh không bao giờ chết được trong lòng Quyên. Hình như anh đang trở về với bộ quân phục không quân, anh đi nghênh ngang dưới làn mưa tuyết phủ trắng xoá trên người anh. Quyên mừng rỡ chạy đến bên anh gọi to: “ Anh Đại , anh Đại”, ơ kìa sao anh chỉ cười mà không bước lại gần Quyên, anh cứ lùi, lùi mãi, lùi mãi cho đến khi bóng anh tan ra.
                              “ Nhà có chị gái mà đi làm về không có cơm ăn, chị Quyên, chị Quyên đâu rồi?” . Tiếng Thịnh, em trai Quyên gọi đã kéo Quyên về thực tại. Quyên ngơ ngác hỏi:
                              “ Mấy giờ rồi ?”
                              Thịnh nói: “ 4 giờ chiều rồi, sao chị không nấu cơm nước gì hết vậy ? lại ngồi ngẩn ngơ suy nghĩ chuyện cũ phải không ?”
                              “Đâu có suy nghĩ gì đâu”
                              “ Bác sĩ dặn chị rồi đó, đừng có nghĩ ngợi chuyện buồn nhiều mà bệnh depress lại nặng thêm. Tuyết ngưng rồi, thôi ra cào tuyết với em cho vui chứ để ngày mai nó đóng đá thì cào không nổi đâu”
                              Quyên lững thững đi theo Thịnh, tuyết đẹp chỉ để ngắm nhìn, nhưng tuyết lại làm khổ người ta khi trở về đời sống thực.Cũng như chuyện của anh và Quyên có lẽ chỉ đẹp khi mình ngồi ngắm nghía và hồi tưởng đến nhau cho Quyên lại được sống trong những giấc mơ yêu thương, mong ngóng, để khi tỉnh giấc mơ nghe lòng mình trống rỗng, trái tim mình tê tái. Quyên chợt hát nho nhỏ:
                              “ Một lần nào cho em gặp lại anh, nghe anh nói em vui một lần
                              Một lần nào cho em gặp lại anh rồi thiên thu sẽ là nhung nhớ
                              Giòng đời nào đưa anh đi về đâu, sao không thấy qua đây một lần
                              Giòng đời nào đưa anh đi về đâu những bến bờ xưa cũ đã mờ” (1)

                              (1) bài hát: “ Một Lần Nào Cho Tôi Gặp Lại Em” của Vũ Thành An


                              Quế Hương
                              Tháng giêng 2010
                              Last edited by hung45qs; 11-11-2010, 07:19 AM.
                              Hung45HTQS

                              Comment


                              • #45
                                Những Ngày làm lính Không Quân



                                Ba mươi mấy năm trôi qua, kể từ ngày phải xa đại gia đình Quân đội, binh chủng Không Quân của QLVNCH, tôi chưa viết lại được gì, hẳn vì bọn chúng tôi, những thằng nhập ngũ trước sau Mùa Hè Đỏ Lửa năm 72. Những thằng chỉ chống chọi, trôi nổi vào cuộc chiến Quốc-Cộng, khi cuộc chiến sắp hạ màn, chiến tranh sắp đến hồi kết thúc. Cơn bão rớt, từ hoàn cảnh ngập lụt đã nhiều ngày qua.

                                Những người hiện nay đã viết, đang viết và sẽ viết về cuộc chiến là những niên trưởng của các quân binh chủng, đã có thời gian khá lâu, rất lâu, rất dài trong quân đội, nằm gai nếm mật, sống bên và trên những xác chết của đồng đội, của phe bên kia. Họ đã Dựa Lưng Nỗi Chết (1) ở những ngọn đèo, con suối; trên những đỉnh đồi đầy mùi tử khí của xác người. Những người đã từng thấy đạn tầm nhiệt SA7 lao vào phi cơ bạn, mà không làm sao cứu được bạn, những người đã từng thấy phi cơ bạn lao xuống, đánh bom vào vùng địch để cứu bạn mình dưới đất, rồi vĩnh viễn ở lại làm kẻ đi không ai tìm xác rơi. Những vị Hải Quân anh hùng đã để lại cho hậu thế trận Hoàng Sa chống Trung quốc thật đáng tự hào. Tôi, kẻ hậu sinh trong cuộc chiến, rất trân trọng khi lật từng trang sách của các vị này để đọc. Sự thật bao giờ cũng là sự thật.

                                Ở đây tôi chỉ viết lại vài kỷ niệm vui buồn của những ngày tôi ở binh chủng Không Quân.


                                Chúng tôi vào lính trong và sau mùa hè năm 72, khi hoa phượng đang nở tưng bừng trên khắp mọi con đường. Trong những ngày đi thi tú tài, đại học là những ngày đã chuẩn bị tinh thần sau kỳ thi này đậu rớt gì cũng vào lính, vì lịnh tổng động viên của chính phủ vừa ban hành. Vừa thi, mà chiến sự ngoài chiến trường bay về thành phố như những hoả châu nóng chiếu sáng trên mọi khung trời, để thấy miền Nam Việt Nam đang đi vào chỗ đối đầu quyết liệt nhất trong cuộc chiến, chỉ có sống hoặc chết, không còn con đường nào khác. Phía bên kia họ đã đưa ra những chọn lựa như thế. Những ngày học thi, tin tức chiến sự, những trận đánh lẫy lừng lấy lại Quảng Trị, giải thoát Bình Long được tường trình trên tivi, báo chí Sàigòn mỗi ngày, đôi khi làm bọn trẻ đã ngẫn ngơ để quên đi những vòng tay êm ái từ người yêu, quên đi ánh mắt dịu dàng từ những cô bé tuổi mười sáu trăng tròn, mười tám, đôi mươi dành cho người anh, người tình.

                                Vừa lách mình qua khỏi cổng Quân vụ thị trấn ở đường Lê Văn Duyệt, Sàigòn, vào một ngày của tháng 10 năm 1972 là tôi biết tôi đã giã từ đời sống dân sự, và đời sống quân nhân bắt đầu. Ngay chiều hôm đó đã có xe nhà binh đưa chúng tôi ngay vào Trung Tâm 3 Tuyển mộ nhập ngũ.

                                Xe chạy trên con đường Lê Văn Duyệt dẫn đến Trung Tâm 3, trời về chiều, Sàigòn vẫn rộn rã tiếng người tiếng xe. Những cô nữ sinh áo dài trắng từng đôi trên những xe Honda Dame, PC đẹp thật kỳ lạ dưới mắt tôi trong buồi chiều vàng của thành phố. Tôi tự nhắn nhủ mình rồi cũng phải xa vắng những hình ảnh mộng mơ này một thời gian dài, để chịu ghép mình trong bổn phận làm lính và những kỷ luật quân đội.


                                Nhìn những cô nữ sinh tôi chạnh nhớ đến Hương, cô bạn cùng lớp. Hương chăm chỉ, học giỏi, đưa những tia nhìn tình tứ với tôi trong những ngày chúng tôi sắp bãi trường. Hương người Tàu lai, mắt một mí, nước da trắng, hàm răng có những chiếc răng trắng đều như những hạt bắp. Tôi biết giờ này Hương đang ở nhà, phụ má nấu cơm. Vì những khi tôi đến mượn bài vở vào những buổi chiều như hôm nay là lúc Hương đang quanh quẩn trong bếp, trên con Trần Hoàng Quân đang ồn ào náo nhiệt bên ngoài. Hương biết tôi sắp đi lính, như Viễn, như Quý, những thằng bạn trai sẽ ra đi sau kỳ thi, nhưng Hương và tôi chỉ đi xa hơn tình bạn một chút, là chúng tôi nhìn nhau tình tứ, chớ một cuộc hẹn hò cho chuyện trăm năm, vẫn chưa ai, một trong hai chúng tôi nói đến. Mục đích Hương là tiếp tục học, học cao hơn. Còn tôi không còn mục đích nào cả, chỉ còn một con đường trước mặt: vào lính.

                                Màn đầu tiên ở Trung Tâm 3 là màn la ó của vị quân nhân mang cấp bậc trung sĩ nhất, hay thượng sĩ gì đó. Tướng ông to cao, giọng nói rổn rảng. Mỗi lệnh lạc ông đều la to làm các lính mới thật vô cùng bở ngở, nhưng sợ. Kỹ luật quân đội là đây sao? Chúng tôi phải di chuyển theo từng nhóm thật nhanh khi bị gọi tên. Sàn qua sàn lại như đàn vịt. Nguyễn văn A. Có mặt. Trần Văn B. Có mặt… Cứ thế chúng tôi được xếp thứ tự thành tiểu đội, trung đội, đại đội. Cứ hai thằng đứng cạnh nhau là trở thành đôi bạn ngay, đồng cam cộng khổ cho những ngày lính sắp tới.

                                Chúng tôi đi hớt tóc, lãnh sac marin và xuống nhà bàn ăn cơm khi trời đã chạng vạng tối.

                                Một ngày đã qua, hôm sau có kẻn đánh thức dậy, thi hành những thủ tục như một người lính. Thời gian này là tổng động viên nên tất cả các nơi trình diện nhập ngũ đều rất đông tân binh. Ở Trung Tâm 3 này cũng vậy. Hàng hàng lớp lớp tân khóa sinh. Đi đâu cũng gặp những bộ áo lính đồng màu cứt ngựa rộng thùng thình. Trong trại, căn-tin, những gốc cây… Mặc dù nghe nói đã có rất nhiều khóa sinh đi về các quân trường Quang Trung, Đồng Đế, Thủ Đức v.v…, để thụ huấn, nhưng những ngày này ở đây còn rất đông.

                                Rồi chúng tôi cũng được đi phép cả… tháng. Lý do: Các quân trường không còn đủ chỗ để chứa. Mà cứ nằm dài ở Trung Tâm 3 để làm gì chớ. Thôi cứ cho tân khóa sinh về nhà nghỉ phép dài hạn là hay nhất.

                                Tôi quê ở Bà Rịa nhưng đi trọ học ở Sài Gòn. Nên những ngày được nghỉ phép lúc này tôi trở về lại Bà Rịa. Gia đình cha mẹ đang ở vùng hơi mất an ninh vào ban đêm, nên những ngày phép tôi ở tạm trong gia đình bà chị trong khu gia binh của những sĩ quan Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Vạn Kiếp.

                                Ban ngày tôi hay lấy xe Honda của anh chị chạy đi thăm bạn bè cũ, những thằng bạn thời trung học đệ nhứt cấp ở thị xã Bà Rịa trầm lắng này. Chiều tôi đi xem đá banh. Tối ra ngồi chơi nơi những vọng gác với những tân binh đang theo học tại Trung Tâm Vạn Kiếp. Trung Tâm nằm ngay gần thị xã, tình hình yên tĩnh, nên vừa gác, ai gác thì gác, còn lại các bạn vừa uống rượu, đấu láo. Tôi thức cả đêm với họ, đến khi buồn ngủ mới về. Lúc trăng lên cao, trời về khuya, nhưng khí hậu vẫn ấm, khi đã ngà ngà say một vài lính mới cất giọng hát chung bài Chiến Sĩ Vô Danh, tôi cũng họa theo: Mờ trong bóng chiều, một đoàn quân thấp thoáng, lá cây rừng, lắng tiếng nghe hình bóng, của người anh hùng…, ra biên cương trong một chiều sương âm u, âm thầm theo khói mờ…. Hay bản nhạc Hòn Vọng Phu: …Có ai xuôi vạn lý, nhắn cho tin mấy lời… Giọng ca chung, tài tử, nhưng có lúc trầm hùng, lúc bảng lảng như gió rừng. Bên những chun rượu đế càng về khuya giọng ca, lời nói càng buồn, càng nói lên được thân phận trai thời ly loạn. Các bạn này, cũng giống như tôi, cũng vừa mới bị động viên vào lính, mặt mày trẻ măng, từ „bốn phương trời ta về đây chung vui“, nên chúng tôi dễ dàng thông cảm, chơi với nhau rất hợp. Cứ khi nào thiếu mồi, hềt mồi, tôi chạy về bếp nhà bà chị lục tôm khô, củ kiệu, vì ông anh rễ tôi lúc đó cũng là tay nhậu. Còn rượu thì các bạn lo. Trong khu gia binh, dù khuya, nhưng vẫn còn có quán mở cửa bán.


                                Trong những ngày này tôi gặp Quyển, cô nữ sinh mười bảy tuổi, đang học lớp đệ tam tại Bà Rịa. Mặc đồ dân sự nhưng tóc hớt cao, ắt hẳn cô cũng biết tôi đang là lính. Như những học sinh nam ở Sàigòn, tôi quen khá nhiều các cô gái bạn học cùng lớp, dưới lớp, hàng xóm, nhưng chưa ai làm xao xuyến lòng tôi bằng Quyển, kể cả Hương như tôi vừa kể. Tôi đã đi bộ theo Quyển để tán tỉnh trong những buổi chiều khi cô đi học về. Cô rất mắc cở, vành nón lá che nghiêng, điệu bộ lúng túng, đúng là nữ sinh, nhưng qua người bạn gái cô cũng gửi tôi một lá thư để trả lời thư tôi, cô chúc tôi những ngày trong quân trường sắp tới được mạnh khoẻ, ráng vượt qua giai đoạn khó khăn, để làm sĩ quan với người ta. Những ngày này trong giấc ngủ của tôi hình ảnh Quyển thỉnh thoảng hiện về. Mỗi ngày tôi cứ trông đến chiều, khi Quyển tan trường, tôi chạy xe Honda theo nhịp bước của cô. Mối tình tôi và Quyển tôi vẫn giữ mãi đến tận bây giờ. Dù bây giờ hai đứa đã có gia đình, nhan sắc Quyển đã tàn phai theo thời gian và tuổi tác, nhưng mỗi khi nhớ về Quyển lòng tôi vẫn rạo rực như ngày đầu tiên gặp nàng.

                                Trước lần đi phép dài hạn lần thứ hai, do bạn bè rủ tôi đi vào Tân Sân Nhất xin đơn để gia nhập Không Quân. Nộp đơn xong lòng dững dưng không hồi hộp đợi chờ. Được vô KQ cũng được, không cũng không sao. Bạn học tôi, tên Quý, đang là SVSQ Thủ Đức, đang đi chiến dịch ở Bà Rịa, gặp, thấy Quý cũng đẹp trai phong độ trong bộ đồ quân nhân bộ binh tác chiến. Cổ áo đeo uy hiệu Alfa màu vàng rất nổi bật trên nền áo xanh đậm nét lá cây rừng. Quý chắc cũng làm các cô nữ sinh chết mê chết mệt. Đầu năm 1974, khi đang học sinh ngữ ở trường Sinh Ngữ Quân đội, tôi nghe tin Quý tử trận. Sau đó Viễn, người bạn học cùng lớp, và cùng phòng thi trong ngày thi tú tài ở trường Việt Nam Học Đường, Sài Gòn, cũng tử trận. Trong lớp, tôi ít thân với Quý, nhưng rất thân với Viễn vì chúng tôi cùng học chung một lớp, lại gần nhà. Nghe tin Viễn tử trận tôi rất buồn. Chắc hai bạn bây giờ là cố thiếu úy!

                                Nộp đơn vô KQ xong tôi về nhà nghỉ phép như thường lệ. Sau đó khoảng một tuần có giấy gọi kêu đi khám ở Tân Sân Nhất. Toán tôi khoảng 45 người, khám qua mắt, tai, răng, mủi, họng, tim, thân thể…, cuối cùng đậu khoảng 20, trong đó có tôi. Có nhiều bạn trong toán cao to hơn mình vẫn không đậu, chắc tại vì mắt, tai không còn tốt, chắc vì yêu nhiều quá nên tim đã bị…yếu. Giấy báo cáo đã đậu vào KQ chuyển về Trung Tâm 3, chúng tôi chỉ chờ KQ gửi giấy gọi.

                                Ngày ở Trung Tâm 3 nhập ngũ buồn nhất là ngày Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc bài diễn văn trên truyền thanh truyền hình đầu năm tết Âm lịch 1973. Chúng tôi đứng tập trung quanh ông thượng sĩ già có cái radio đang phát thanh lời tổng thống. Thời gian này là đang (hay sắp?) ký Hiệp Định Ba Lê, nên tổng thống báo cho toàn dân Miền Nam biết về chuyện Hiệp Định. Nói chung là rất bi quan, đừng tin tưởng nhiều vào phe Miền Bắc, dù họ có ký Hiệp Định Ba Lê để chấm dứt chiến tranh. Ông thượng sĩ già người Bắc có những dẫn giải làm buồn lòng các tân binh thêm. Kinh nghiệm của ông vào thời điểm 54 ở miền Bắc, làm ông không thể tin ở phe bên kia chiến tuyến.

                                Lúc tôi được triệu tập vào trình diện ở Tân Sân Nhất để gia nhập Không Quân là vào khoảng tháng 2 năm 1973. Các niên trưởng mới vô trước vài ba tuần cũng hò hét ỏm tỏi. Nhưng quen bên Trung Tâm 3 rồi nên tôi không còn thấy sợ. Dũng có biệt danh „Dũng Hitler“ là niên trưởng hò hét to nhất, dữ nhất trong ngày đầu khi toán tôi vào. Thời gian này có những cán bộ cộng sản Bắc Việt nằm trong Ủy Ban Hiệp Định Đình Chiến ở ngay Tân Sân Nhất. Theo tinh thần ký kết hiệp định, phe Quốc gia phải bảo vệ họ. Hằng ngày di chuyển trong Tân Sân Nhất, thỉnh thoảng tôi thấy xe họ chạy ngang qua. Những ngày này, lính Mỹ theo hiệp định đã rút hết về nước. Những barrack lúc trước cho lính Mỹ ở, giờ trống không, không người ở, nhưng đồ đạc như tủ lạnh, máy lạnh còn nguyên. Chỉ mấy ngày sau, theo lịnh đại úy Hiệp chỉ huy chúng tôi lúc đó, tôi và vài người bạn cùng trong phi đội 68 được đưa đi trực gác ở ngoài các vọng gác của phi trường với mấy cây súng Cabin M1, hướng đông bắc. Chỉ huy chúng tôi là vị trung úy còn rất trẻ. Ông đến chia chúng tôi gác rồi đi mất, ít khi xuất hiện đột ngột. Từ vọng gác nhìn ra thấy toàn là nhà lá của dân nghèo, không thấy một chiếc xe hơi chạy ngang. Trời trưa nắng chang chang nhìn ra thấy như mặt đất bốc khói, văng vẳng bên mé nhà dân vọng lại bản vọng cổ Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài do Minh Cảnh và Lệ Thủy ca. Tuấn Mã ơi mi hãy phi mau về báo hung tin cho quân ta được rõ, vì Võ Đông Sơ đã lìa xa vĩnh viễn Bạch Thu Hà. Bạn tình ơi đừng mòn mỏi đợi chờ, nghe „mùi tận mạng“. Sau lưng tôi là Sài Gòn với những cao ốc, nhưng trước mặt tôi là nhà dân nghèo, tôi thấy rõ sự nghèo giàu chênh lệch, đúng là đất nước đang ở trong tình trạng có chiến tranh. Hết giờ gác tôi tự động „chuồn“ ra đi chơi ở Sàigòn, khi nào có ca gác vô trở lại. Thời gian này bạn học cũ đang học ở các quân trường Quang Trung, Thủ Đức về những quận ở vòng đai Sài Gòn nằm ứng chiến. Có thì giờ dư giả chúng tôi cứ tụ họp nhậu nhẹt.

                                Chúng tôi, khóa 73F, được tập trung để vận tải cơ C130 chở ra Nha Trang vào khoảng cuối tháng 3 năm 1973. Trên mỗi chiếc chắc là khoảng 50 mạng có mang theo sac marin. Tôi không có một người bạn học nào trong khóa 73F này. Lần đầu tiên đi máy bay, tôi thấy cũng bình thường như đi xe đò. Nỗi lòng háo hức lần đầu tiên được ngồi trên „máy bay“ phút chốc cũng qua. Năm chục mạng ngồi yên lặng không ồn ào sôi nổi, vì tất cả đều nghe phong phanh trong một tháng huấn nhục ở Nha Trang sẽ „tả tơi“, sẽ như „mền rách“ nên ai cũng lo. Nhìn qua cửa kiến thấy bầu trời xanh và những áng mây trắng bên ngoài. Thỉnh thoảng phi cơ mất độ nâng, rớt xuống, chắc đâu vài chục mét, làm ruột gan chạy ngược lên gần tới đầu.


                                Suốt hơn một tiếng đồng hồ ngồi phi cơ để ra Nha Trang tâm hồn tôi dửng dưng thật lạ. Mình có chuẩn bị vào KQ đâu, rồi cũng vào. Mình có chuẩn bị bay bổng đâu giờ cũng ngồi trên phi cơ. Rồi ngày sau cũng chưa biết ra sao? Chỉ biết một đều là đã xa Sài Gòn, xa Bà Rịa, xa Quyển, xa Hương mà chưa biết bao giờ mới gặp lại.

                                Qua cửa sổ nhỏ của phi cơ, khi tôi thấy mặt biển Nha Trang cũng là lúc bánh phi cơ gần chạm mặt phi đạo. Công nhận Nha Trang có biển thật đẹp. Trời trong xanh, nắng mười giờ óng ánh trên mặt nước gợn sóng lăng tăng. Tháng ba bà già đi biển, nên mặt biển êm ru như mặt hồ. Phi cơ dừng lại. Cửa sau phi cơ vừa bật lên thì hởi ơi một bày „kiến vàng“ đã bắt đầu hò hét bên dưới. Các ông xuống tập họp nhanh lên! Lính mới trên phi cơ chưa nhốn nháo, mà các niên trưởng cán bộ ở bên dưới nhốn nháo như có lửa cháy.

                                Rồi cái gì đến phải đến. Ngày đầu của một tân binh, một tân khóa sinh. Những động tác cho một người lính đã bắt đầu sau khi bước chân ra khỏi phi cơ. Tiếng hò hét của các cán bộ niên trưởng. Tập họp nhanh, đều. Tinh thần đồng đội. Kỷ luật quân đội. Tổ Quốc Không Gian. Hào hùng độc đáo. Ăn cơm nhà bàn. Giày trận áo lính và những bài hùng ca…. theo nhịp bước di hành.

                                Phút chốc phải quên đi hình ảnh người tình, một cô bạn học dễ thương, cô gái hàng xóm sớm chiều trông đợi…ai, để lao vào cuộc huấn nhục trước cái đã.

                                Ánh nắng chói chang tại phi trường Nha Trang của trời tháng 3, năm 1973 đang đón chúng tôi, những tân khóa sinh khóa 73F Không Quân. Trước đó, tôi chưa một lần đến Nha Trang, nhưng bản nhạc Nha Trang Ngày Về không phải là bản nhạc xa lạ. Nhưng ngày tôi và các bạn cùng khóa đến Nha Trang là những ngày khác với bản nhạc rất nhiều. Những ngày này tôi quên cả bản nhạc lẫn lời ca. Quên tất cả mọi việc và chỉ còn biết một việc cố gắng cùng anh em, ai tới đâu mình tới đó, để cho qua giai đoạn một tháng huấn nhục, ban đầu tưởng bở, sau mới biết „tưởng dzậy mà không phải dzậy“. Thật kinh…khủng!

                                Mộng ước đầu đời của thằng con trai vừa mười tám tuổi của tôi không phải là đời lính, áo trận giày sô, để đêm ngày nghe những bản nhạc Anh Tiền Tuyến Em Hậu Phương…, và càng không phải là những anh Không Quân hào hoa, hay Hải Quân với những đoàn tàu lướt sóng ra khơi làm rạng danh đức Trần Hưng Đạo. Tôi có giấc mộng bình thường, được học để sau này làm công chức. Vì chiến tranh nên như mọi bạn bè trang lứa tôi cũng phải xếp bút nghiên theo việc kiếm cung. Và đã đến trại Thùy Dương, Nha Trang, sau khi đã cùng anh em vác sac marin chạy bộ từ phi trường về quỳ gối trước tượng Đại Bàng của Trung tâm huấn luyện Không Quân, để nhận lịnh bắt đầu cho những ngày huấn nhục. Mãi cho đến bây giờ tôi vẫn không còn nhớ bạn nào đã đứng hai bên phải và trái của tôi trong những ngày huấn nhục ban đầu, chớ nói gì đứng trước và sau tôi.

                                Tiếng hô của các niên trưởng cán bộ đàn anh liên tục, hết niên trưởng này đến niên trưởng khác…. Các ông tà tà phải không? Các ông có biết tụi tôi đã đợi các ông bao lâu rồi không? Ai là… ra trình diện niên trưởng coi. Ông giết bạn bè ông ở trong Tân Sân Nhất phải không. Bây giờ ông giết tụi tôi thử coi. Ai gắn lon thiếu úy dắt đào di dạo ở Sàigòn. Ông nào tự giác coi. Đừng để tụi tôi lôi các ông ra. Lôi ra riêng là các ông tiêu đó các ông ơi…. Tôi dư biết những lời đó là những lời vừa nói thiệt lẫn nói chơi, nhưng lúc đó muốn cười cũng cười không nổi!

                                Và sau đó là cả khóa chỉ còn biết thi hành lịnh phạt. Ai bò riêng cứ bò. Ai „ma giáo“ bị các niên trưởng phát hiện phải „đi bay“ riêng cứ đi: chống tay trên dĩ sắt nóng, lăng thùng phi trên cát nóng giữa trưa…, còn lại chung cả khóa là bò, là nhảy xỏm, nhảy công lực, hít đất (chớ không phải nằm bẹp xuống đất) vài ba trăm cái là chuyện bình thường. Hết đợt này đến đợt khác, hết món này đến món khác mãi cho đến tận giờ…cơm mới được di chuyển đi bộ đến nhà bàn.

                                Ở bàn ăn, một điều tôi nhớ rất rõ là không thằng nào ăn nổi, dù là ăn chỉ một phần ba mâm cơm. Riêng tôi chỉ liếm láp vài ba hột cơm, rồi húp nước súp, trên cặp môi đã khô khóc. Cặp môi này vài ngày sau đó đã bị lở ra, vì thiếu nước. Bạn bè, nhìn thằng nào cũng thấy thảm thương, tôi cũng vậy. Tụi tôi chỉ chực kiếm nước uống. Nước lúc này là vàng là bạc. Nước lúc này quý cả hơn người yêu, quý hơn các bản hùng ca. Và bất kỳ nước gì, có cứ uống. Nước rửa chén, nước trong trong hồ tắm, nhà cầu. Nếu có là uống ngay, không còn biết nghĩ đến sạch dơ. Nhưng không, chúng tôi, sau ba bốn giờ „bị quầng“ giữa nắng chang chang giờ chỉ có uống được mỗi thằng ba nắp bi-đông nước, không hơn không kém, còn lại là húp nước mắm! Húp nước mắm lúc này không có việc tự nguyện hay không tự nguyện. Không có việc „ em không thích nước ...mắm, em chỉ thích nước.. đá… lạnh thôi“. Mà là, một hai ba „dzô“ tất cả đều phải húp nước mắm dưới sự giám sát chặt chẽ của các niên trưởng cán bộ. Húp đều đều bằng muổng như húp súp. Uống nước lạnh là các ông bị „i-nap“ hết đó các ông ơi! Uống nước mắm để giữ mồ hôi, để các ông không bị xỉu. Một tháng huấn nhục còn dài lắm!… Vừa uống các niên trưởng còn theo „chăm sóc“ như thế.

                                Giờ phút này bỗng dưng tôi nhớ đến má và những ly nước đá chanh của những ngày còn nhỏ, thế mới chết! Lúc khoảng 12 tuổi, cứ mỗi buổi sáng trong những ngày hè nghỉ học, tôi hay đạp xe đạp theo ông già đi thăm khu vườn của ông cách nhà khoảng mười cây số. Đến nơi ông chăm sóc cây trái trong vườn, còn tôi chỉ chơi : bắt dế, cào cào, hái trái thù lù ăn. Đến trưa hai cha con mới đạp xe trở lại về nhà. Trời mùa hè ở miền Nam, trưa đứng bóng, đạp xe đi trên một đoạn đường mười cây số về đến nhà tôi cũng „ná thở“. Nhưng một ly nước đá chanh đã làm tôi tỉnh táo lại ngay. Chất ngọt của đường và chua của vitamin làm cơ thể của một thằng con nít sau những giờ đạp xe mệt, trở lại bình thường. Nhà là quán ăn, nếu khi về không gặp má tôi đang ở quán, chăm sóc tôi bằng một ly nước đá chanh, tôi tự động vào làm để uống tùy thích… Còn buổi trưa hôm nay, ở Nha Trang này, mệt hơn những ngày còn nhỏ đến hai ba chục lần, nhưng tôi chỉ có được „3 chun“ nước lạnh! Cái khát như cấu vào cổ.

                                Cơm nước xong, về phòng nghỉ chút ít cho tiêu cơm, xong lại phải tập hợp ra trở lại ngoài sân để được tiếp tục… huấn nhục!

                                Có những việc riêng, cá biệt thì riêng anh em biết, hay những người đứng cạnh ở gần biết, những người ở phòng khác chỉ nghe kể lại. Như ngày hai bạn cùng khoá, Tran Tue va Nguyen Van Hop, chết trong lúc huấn nhục tôi cũng chỉ nghe, chớ cũng chưa bao giờ biết mặt hai bạn. Riêng việc uống nước tiểu thì tôi biết một trăm phần trăm vì anh bạn nằm cạnh tôi trong đêm đã uống, tôi thấy và anh bạn cũng đã kể việc này, trong ngày hôm sau khi tôi hỏi cho ra lẽ. Anh nói tại vì khát nước quá, đái ra hứng ở bi-đông rồi uống đại, nhưng cũng chẳng đã khát! Và có những chuyện khác tôi cũng biết như trong những ngày huấn nhục, đang ngồi, nằm đứng gì đó trong phòng (ngoại trừ giờ đêm đi ngủ), hể có một cán bộ nào vừa để chân lên thềm xi-măng của phòng là bạn ở đầu phòng phải hô „vào hàng, phắt“. Hô không kịp cũng bị phạt cả phòng. Ai không kịp đứng dậy cũng bị phạt. Ai cố tình chống đối còn bị phạt dữ hơn. Có các niên trưởng cán bộ còn chơi ác, cứ để chân lên rồi rút xuống, cứ thập thò, vô không hẳn vô, ở ngoài không hẳn ở ngoài, làm thằng bạn ngồi đầu cửa phòng cũng mệt cầm canh.

                                Sau giờ đi ngủ tất cả đều phải nằm xuống. Đèn tắt. Các cán bộ đi tuần đi rình bên ngoài. Ai lom khom ngồi dậy, tìm kẹo, tìm nước (đã giấu giếm được trong ngày) để ăn để uống mà cán bộ bắt gặp là hôm sau phải đi bay riêng. Cũng có khi đi bay ngay trong đêm, nếu „tội trạng“ xét ra thấy nghiêm trọng.

                                Hình như trong những ngày huấn nhục mỗi tuần chúng tôi được tắm một lần. Tắm theo 30 (hay là hơn?) tiếng đếm từ 1 đến 30 của cán bộ. 1 là bắt đầu cửi áo quần ra chạy ra chỗ tắm, và 30 là đã mặc quần áo xong (sau khi tắm!) đứng xếp hàng ngay ngắn trong phòng. Các bạn sao thì tôi không biết, riêng tôi, lúc đi tắm, chuyện uống nước là quan trọng, chớ không phải chuyện tắm, dù mình mẩy sau một tuần đã quá bốc mùi.

                                Trong thời gian huấn nhục, tuần đầu là tuần khổ nhất, xỉu nhiều nhất, và có cả cái chết như tôi vừa kể ở trên, nhưng đến tuần thứ hai là chúng tôi đều biết „ma giáo“, hoặc các niên trưởng cán bộ giả làm ngơ để tụi tôi ma giáo. Tự giác, thành thực là chỉ có chết! Nhất là những bạn làm trưởng toán, các bạn „thông minh“ không thể ngờ. Cán bộ ra lịnh một trăm cái nhảy xổm. Ban đầu bạn đếm còn ra ngô ra khoai 1, 2, 3, chừng vài phút sau thấy niên trưởng cán bộ „lơ là“ là thay vì thứ tự đến 21, 22 bạn đếm ngay 31, 32, như vậy đã ăn gian được mười cái nhảy xổm. Nếu niên trưởng cứ mãi lơ là thì bạn tôi cứ „lo“ đếm lộn. Nếu bạn nào hại bạn (thành thật quá không chịu đếm lộn) thì anh em trong hàng xì xào lên ngay. Lên tuần thứ 3 thứ 4 của một tháng huấn nhục tụi tôi ăn gian (đếm số lộn) là chuyện thường.

                                Hoặc nếu thấy các cán bộ không nhìn về chỗ mình thì tụi tôi cứ nhún lên nhún xuống, chứ không ai ngu, thành thực nhảy đúng thế một trăm cái nhảy xổm hay công lực. Sau vài ba ngày huấn nhục, cả cặp đùi đều mỏi nhừ, có muốn nhảy đúng thế cũng không ai còn nhảy nổi, nhất là phải đội sac-ma-ren trên đầu mà nhảy. Ngoại trừ muốn nhảy đúng thế xong rồi xỉu…để được khiêng vào bịnh xá.

                                Ăn gian thứ hai là các bạn bè với nhau từ hồi còn ở ngoài đời, bây giờ dù làm cán bộ trực tiếp coi huấn nhục hay không vẫn tìm cách gián tiếp giúp bạn mình. Ban đêm nhét kẹo chua vào những khe hở của Barrack để tiếp tế cho bạn thêm sinh lực. Dẫn riêng bạn đi để cho bạn uống một miếng nước…cam. Dù sao bạn học từ ngoài đời thì trong cơn hoạn nạn không thể không giúp nhau. Vì ai cũng đã từng biết qua cảnh huấn nhục.

                                Đến tuần thứ ba, thứ tư chúng tôi được những giờ sinh hoạt trong phòng. Ai nhảy đầm được thì ra nhảy giúp vui cho bạn, ca được thì ca, kể chuyện làm trò cười được thì cứ kể cứ làm… Tất cả là vì các niên trưởng cán bộ muốn để chúng tôi nghỉ ngơi sau một hai tuần bị hành xác tối đa. Hình như trong thời gian huấn nhục khoá chúng tôi được một lần đi tắm biển.

                                Đêm trước ngày gắn Alfa làm sinh viên sĩ quan chúng tôi phải „đi bay“ suốt đêm ở… dưới giao thông hào, rảnh nước, để chờ ngày mai trời lại sáng, quả là đêm dài…vô tận! Bì bõm lội dưới giao thông hào đầy sìn nước, bên trên cán bộ đàn anh lại còn la hét. Các ông bò không nổi nữa phải không? Các ông có muốn ngày mai gắn Alfa không? Các ông có muốn ngày mai đi phép không? Ông nào không muốn thì lên đây. Đây là cơ hội cuối cùng cho các ông. Các ông có thấy chán KQ chưa. Các ông có muốn ra khỏi KQ không. Chỉ còn vài giờ nữa thôi. Các ông hãy nhanh lên! Mặc các niên trưởng „dụ dỗ“, ai mà dám lên trong lúc „dầu sôi lửa bỏng“ đó. Mà đúng thật, chỉ sau đó vài giờ, khi „ánh bình minh vừa ló dạng“ là thời gian huấn nhục chấm dứt, cũng là lúc không còn thấy bóng một niên trưởng nào ló…mặt để lo cho đàn em nữa. Không như buổi chiếu tối hôm trước, lúc còn trong các Thùy Dương, trước mỗi tân khóa sinh đều có một cây đèn cầy đã được đốt lên. Mỗi khóa sinh đều giữ gìn cây đèn mình, che khư khư chỉ vì sợ gió làm tắt, vậy mà các niên trưởng vẫn đâu có để yên. Các ông có muốn tôi thổi tắt đèn của mấy ông…không? Tắt đèn là cuộc đời mấy ông sẽ tắt theo đó mấy…ông .. ơi! Vậy mà sáng nay không niên trưởng nào dám ở lại để thổi tắt mặt trời, chỉ còn biết trốn về Barrack để ngủ bì cho một đêm thức trắng vì „bận lo“ cho đàn…em. Và chúng tôi đã trở thành sinh viên sĩ quan từ độ ấy.


                                Tết năm 1974, tôi được „về phép“ đặc biệt để thăm nhà vì có điện tín „cha bịnh nặng“. Không chờ được phi cơ, tôi đi từ Nha Trang về Sài Gòn bằng chuyến xe đò Phi Mã. Lần đầu tiên tôi đi theo đường Quốc lộ 1. Đang là lính ở quân trường mà ngày Tết được ở nhà thì không còn gì bằng. Nhưng vì tóc hớt cao, da mặt đen nên tôi cũng ít đi ra đường, chỉ quanh quẩn với ông bà già và chị em trong nhà. Bạn bè, bà con thân nhân nào đến thăm tôi rất vui, chớ tôi ít đi đến nhà ai. Không khí chiến tranh vẫn rình rập ở một làng quê trong tỉnh Phước Tuy này.

                                Mấy ngày Tết này chỉ có một điều làm tôi vui vui. Đó là gặp lại Thảo, cô bạn gái thời tiểu học và hai năm học đệ thất đệ lục ở trường làng. Tính ra đã bảy tám năm chúng tôi mới gặp lại. Học hết đệ lục tôi rời quê về thị xã học tiếp. Thảo nghỉ học ra phụ nhà bán quán tạp hoá. Ngày mùng hai Tết, Thảo cùng mấy người bạn gái học cùng lớp ngày trước đến thăm tôi, vì nghe nói tôi đi lính ở xa vừa về phép. Ngồi chung bàn ai cũng chọc tôi và Thảo, bởi vì các cô bạn này vẫn còn nhớ cuối năm đệ lục tôi đã gửi cho Thảo một cánh thư tỏ tình. Thú thật tôi cũng không còn nhớ việc này! Đúng là các cô gái tinh tế hơn đám đàn ông con trai, những kỷ niệm về tình yêu họ thường da diết nhớ. Nhớ hoài. Họ không quên được „người đi qua đời tôi“ dễ dàng như đám con trai. Lúc Thảo vừa 12 tuổi, „phải lòng“ Thảo, tôi đã biết viết những lời tỏ tình vô tội vạ, vậy mà giờ cô gái Thảo 19 tuổi đang ngồi trước mặt tôi, tôi vẫn dửng dưng. Có lẽ đời sống lính tráng, quân trường đã làm tôi mệt mõi, không còn nỗi hưng phấn với tình yêu. Tôi đang chờ ngày trở lại quân trường Nha Trang, chờ những ngày tháng căng thẳng sắp tới. Các bạn đều nói tôi đen nhưng thấy vẻ khoẻ mạnh. Đúng là nhờ cơm nhà bàn.

                                Tôi cũng không ghé qua tìm gặp Quyển trên thị xã Bà Rịa, dù trước ngày đi Nha Trang, hình ảnh cô vẫn lảng vảng bên mình. Tôi chỉ có 6 ngày phép, ngày đi ngày về đã mất hai. Nên bốn ngày phép còn lại tôi dành trọn cho gia đình. Còn chuyện thăm lại Quyển, Hương tôi muốn để khi nào tôi rời Nha Trang trở lại Sài Gòn luôn cái đã. Trong bốn ngày phép, sáng, chạy xe Honda từ thị xã Bà Rịa về làng thăm cha mẹ, chiều đã lo trở lại thị xã. Dù Tết, nhưng với tình hình an ninh, là người lính tôi không thể lơ là được. Như lúc ở trên đường từ Nha Trang về Sài Gòn cũng vậy. Gần đến Rừng Lá, Long Khánh, tài xế thường nhét chúng tôi vào ngồi giữa, vì theo kinh nghiệm các tài xế sợ „bên kia“ ra chận đường bất tử.


                                Nhờ những buổi sáng sớm chạy xe Honda qua những làng quê trong những ngày Tết, tôi mới tận hưởng được trọn vẹn không khí Tết. Buổi sáng thật yên bình khi xe chạy ngang những cánh đồng, qua những làng quê, đì đùng tiếng pháo nổ. Về đến làng, trên đường gặp đầy những bộ quần áo mới đang di động của trẻ con làm trong lòng tôi thấy vui hơn, quên hết mọi chuyện, kể cả những thằng bạn thân giờ này đang nằm trong quân trường ở miền thùy dương nắng gió.

                                Sau mấy ngày phép tôi trở lại Nha Trang, trong tay mang theo những phong bánh ngọt. Ngay buổi tối, pha nước trà, mở phong bánh ra, đãi vài người bạn thân trong phòng, tôi quên ngay những ngày Tết vừa qua, chỉ còn lại là bắt đầu cho một ngày mai trong quân trường cùng các bạn.

                                Thời chúng tôi vào lính là thời cuối cuộc chiến. Thời cuộc đã nhốn nháo. Viện trợ cúp. Thiếu thốn đủ điều. Chính phủ, Bộ TTM, các quân binh chủng đều tập trung lo chống trả với địch quân ở các chiến trường, chớ đâu có phải như thời gian trước, còn yên bình, còn dồi dào viện trợ để lo cho các tân khóa sinh, lính mới, các quân trường. Chúng tôi đành cam chịu sự thiếu thốn nhưng vẫn làm tròn lời hứa với QLVNCH. Tổ Quốc Danh Dự Trách Nhiệm, Tổ Quốc Không Gian vẫn khắc ghi.

                                Cho đến ngày cuối cuộc chiến, tính theo âm lịch ngày tháng này là cuối mùa xuân. Nhưng xuân năm này đúng là xuân tan thương! Vì chiến tranh đã và đang đến hồi cao độ. Tây nguyên mất, miền trung mất, miền duyên hải nam trung phần mất, Long Khánh mất và cuối cùng là chính một bạn trong khóa 73F chúng tôi đã bắn cháy một chiếc xe T54 và đổi lại là Trinh Văn Ta, cũng khoá của chúng tôi, đã tử thương ở giờ thứ 25, vì bị đạn từ chiếc xe tăng này bắn trả lại tại cổng quân trường Bộ Binh Thủ Đức, sáng ngày 30 tháng 4, 75, khi xe tăng chạy vào cổng quân trường.

                                Chúng tôi vào lính là những SVSQ Không Quân, nhưng trớ trêu thay, ngày Quân lực VNCH tan hàng, 30 tháng 4, 75, đại đa số chúng tôi lại là những sinh viên sĩ quan KQ, cùng với những sinh viên sĩ quan Đà lạt, Thủ Đức „trấn thủ lưu đồn“ ở trường Bộ Binh Thủ Đức (cũng có các bạn cùng khóa đã học bay xong và đang ở các phi đoàn), nằm ở cửa ngỏ vô Sàigòn „để cản“ những chiếc xe T54 đang ồ ạt tấn công vào thành phố ở mạn đông này. Chúng tôi vẫn ghìm tay súng và chỉ bỏ súng rời trường Thủ Đức sau khi tổng thống Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng, các sĩ quan cán bộ cho lịnh giải tán. Tan hàng, chia tay với lòng thanh thản, nhưng buồn. Thanh thản là vì mình đã làm tròn bổn phận của người thanh niên trong thời đất nước có chiến tranh. Còn buồn cho vận nước vì sự kết cuộc của một cuộc chiến.

                                Buổi sáng hôm đó, khi tôi ra khỏi trường Thủ Đức với Hảo bằng con đường mòn nhỏ bên hông trường, mặt hướng về Sài Gòn, vừa đến chỗ ra đã có những anh bộ đội cộng sản người Bắc hùng hổ chạy tới, tay chỉa súng Aka, vai quấn vải đỏ, bộ tịch dữ dằn, tra hỏi lung tung, thái độ của kẻ chiến thắng. Giờ, sau ba mươi mấy năm, mình chạy trước họ chạy sau (vượt biên, vượt biển ra khỏi nước, đi lao động, du lịch, hay bằng cách này hay cách khác để rời VN), cuối cùng mục tiêu rồi cũng tìm cách đến với Mỹ, Tây Âu. Bây giờ đại đa số cán binh, cán bộ cộng sản soi lại tâm mình lòng mình, hầu hết đều nói, cuộc chiến vừa qua, không có ai thắng ai thua, chỉ có một người thua là dân tộc VN. Câu nói quả cũng đáng suy nghĩ. Còn Hảo, chiều ngày 1 tháng 5, 1975, hai đứa chia tay tại Bà Rịa đến nay tôi vẫn chưa gặp lại.

                                Trong năm này, ngày 4 và 5 tháng 7 năm 2008, khóa 73F có tổ chức Ngày Hội Ngộ ở Virginia sau 33 năm kể từ ngày tan hàng, 30 tháng 4 năm 75. Khóa có trên dưới 350 anh em, nhưng ngày hội tụ chỉ có khoảng trên dưới 20 niên trưởng về dự. Con số thật ít ỏi! Nhưng cộng với vợ con, và các niên trưởng Không Quân ở các khóa khác, tất cả khoảng gần 70 người. Tôi không có mặt nhưng nghe nói rất vui. Đủ trò. Xôm tụ. Nhậu nhẹt. Kể chuyện vui, chuyện cũ, chuyện huấn nhục. Đấu láo. Chụp hình kỷ niệm...Tuấn râu, Tuấn sữa, Tuấn Tabert, Thắng (ở Virginia) đứng ra tổ chức. Các Bạn và các bà xả nghe nói rất mệt, rất bận, nhưng vui, vì tổ chức được cho các bạn hội tụ là vui rồi. Có Hiển,Thưởng ở những tiểu bang đông bắc gần đó về phụ. Có cựu đại úy Thắng, sĩ quan cán bộ ở Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân/ Đoàn sinh viên sĩ quan, cùng phu nhân về tham dự. Có mặt trong hai ngày hôm đó có Tâm và Lễ ở Âu Châu qua. Ở Canada có Lợi, Hoàng nhí. Ở Mỹ có Hân, Lập, Định, Giảng, Trung, Minh (GA)), Minh (CA), Toản, Tỉnh, Nhựt.... Con số ít ỏi nhưng cũng đại diện cho vài quốc gia ở hải ngoại này. Chỉ tiết là ở VN không ai qua được vì không gian cách trở, hoặc các NT ở VN chưa chuẩn bị kịp. Lần khác chắc chắn sẽ có các NT ở VN tham dự. Tuy nhiên dù không gian cách trở, nhưng vẫn có những bạn từ VN đã viết email chào mừng Ngày Hội Ngộ của khóa 73F.

                                Ngày nào trẻ trung, mười tám hai mươi, cùng chịu cực khổ trong quân trường, cùng chịu đựng những lần “hành xác” trong bốn tuần huấn nhục ở Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang, cùng làm SVSQ Không Quân của cái thời chiến tranh Quốc-Cộng, thời của những nỗi buồn át hẳn những niềm vui, vậy mà nay, khi gặp lại nhau ai cũng tươi cười. Nhìn hình các bạn tôi cảm được sự lạc quan yêu đời trên từng gương mặt, ánh mắt.

                                1) Tựa một truyện dài của nhà văn Phan Nhật Nam


                                Vũ Nam
                                Hung45HTQS

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X