Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Hồi ký TÔI TÌM TỰ DO - Nguyễn Hữu Chí ( Hữu Nguyên )

Collapse
X

Hồi ký TÔI TÌM TỰ DO - Nguyễn Hữu Chí ( Hữu Nguyên )

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #91
    TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

    Hữu Nguyên


    KỲ 90

    Sau khi qua được trạm gác thứ nhất, đi được khoảng 500 thước, tôi đến trạm gác thứ hai. Vì đây là trạm gác của du kích địa phương, nên tôi qua dễ dàng. Cả trạm gác chỉ có 2 người du kích tuổi chưa đầy 20. Thì ra, số trạm gác từ đây đến Móng Cái tuy trên dưới 20 trạm, nhưng chỉ có những trạm gác có công an áo vàng và bộ đội biên phòng là canh gác nghiêm ngặt. Còn lại, đa số canh gác cho có lệ, nên việc qua lại cũng không đến nỗi khó khăn. Nhất là khi tôi không mang theo hành lý, quần ống thấp ống cao, áo may ô lại ố vàng, nên những tên lính gác đều không để ý đến tôi. Hơn nữa, số người qua lại trên đường quốc lộ 4B thời điểm đó rất đông, nên các trạm gác chỉ chú trọng đến việc xét hỏi giấy tờ của những người Hoa gồng gánh đồ đạc từ các nơi đổ về Móng Cái, chẳng có thì giờ xét hỏi một người có bề ngoài bẩn thỉu tầm thường như tôi.

    Ngày hôm đó, tôi qua được gần chục trạm gác, thì trời tối, số người qua lại ngày càng vắng vẻ, nên ngay khi mặt trời lặn, tôi phải lẻn vào rừng, chui lên một ngọn đồi ngủ qua đêm. Cũng may thời gian đó, trời chỉ lạnh khan chứ không có mưa, nên tôi chỉ việc kiếm gốc cây to, khuất gió, sau đó cởi quần áo, lộn trái, rồi mặc vô ngủ. Làm như vậy để sáng hôm sau, khi mặc tôi chỉ việc lộn phải, khỏi dơ quần áo, để khi đi đường không bị ai nghi ngờ.

    Lúc đó, khoảng cánh từ chỗ tôi ngủ đến thị trấn Móng Cái chỉ vài cây số đường chim bay, nên tôi nghe rất rõ tiếng loa phóng thanh của bên Trung Cộng ra rả chửi Việt Cộng. Bên phía VC thì loa chõ về phía bên Đông Hưng, nói rặt tiếng Quảng rồi tiếng Quan thoại nghe không rõ lắm. Còn loa của Trung Cộng thì chõ về phía Móng Cái và nói rặt tiếng Việt. Cả hai hệ thống đánh võ mồm này làm việc liên tục suốt ngày đêm, và công suất của hệ thống loa phát thanh của cả hai bên đều rất lớn, vang vọng cả một vùng. Ngoài ra, mạng lưới đèn rọi của cả hai bên dọc theo sông Ka Long cũng bao phủ cả một vùng rộng lớn tận cùng tầm mắt của tôi. Thỉnh thoảng, trong đêm đen, đột nhiên vang lên tiếng nổ của vài loạt đạn, lúc xa lúc gần… Tối hôm đó, trằn trọc đến gần sáng tôi mới ngủ thiếp đi trong giấc ngủ đầy ác mộng.

    Sáng hôm sau, dậy sớm, tôi kiếm một vũng nước nhỏ, rửa mặt mũi qua loa, rồi lộn phải quần áo và mặc vô đàng hoàng. Từ trên đồi cao tôi quan sát thấy đường quốc lộ 4B đã tấp nập xe cộ và người qua lại. Yên tâm, tôi cắt đường đi xuống và nhanh chóng hoà vào đoàn người đi về Móng Cái.

    Đến trưa hôm đó, tôi qua được thêm ba trạm gác nữa. Tuy dễ dàng và càng ngày càng gần thị trấn Móng Cái, tôi vẫn không quên thu thập tất cả những dữ kiện cần thiết về hành chánh, địa danh, tên tuổi của các tên chủ tịch, bí thư đảng các xã, huyện trong những vùng lân cận, mỗi khi có dịp trò chuyện với người dân địa phương, hoặc khi ghé vô bưu điện bên đường. Chính nhờ những dữ kiện này, tôi dễ dàng qua mắt bộ đội công an cộng sản, khi đóng vai một người dân ở địa phương.

    Chiều hôm đó, tôi ghé vô một quán nước bên đường, tính mua chút gì ăn lót dạ. Giống như hầu hết những quán ăn bên đường ở Miền Bắc, quán rất nghèo nàn, chỉ có chiếc bàn gỗ nhỏ, bẩn thỉu, run rẩy trên 4 chiếc chân xiêu vẹo bằng tre. Quanh bàn là ba “dẫy ghế” mỗi dẫy làm bằng hai, ba thân tre đặt lên trên hai ba cái bục bằng đất. Trên bàn chỉ có một chiếc lọ thuỷ tinh cáu bẩn, bên trong có vài chiếc kẹo vừng, kẹo lạc. Trên chiếc đĩa sành có một gói thuốc lá đã bóc, có một điếu thò ra ngoài như mời gọi người mua lẻ. Vài chiếc chén sứt mẻ úp xuống mặt bàn. Chủ quán là một người đàn bà không rõ tuổi tác, vì trời lạnh, khăn trùm kín mặt, và cả một đống quần áo và chằng vá đụp choàng lên người bà.

    Tôi mua một chiếc bánh mì luộc ăn với muối, vài chiếc kẹo vừng bỏ túi để dành sau này ăn dần lấy sức đi đường. Bánh mì luộc đã lâu, vừa cứng vừa hôi và thật nhạt nhẽo. Nhưng vì trong quán ngoài món mì luộc, chẳng còn món nào ngoài món cháo nấu cũng bằng bột mì và vài củ khoai mì, khoai lang luộc bầy trên chiếc mẹt rách, đầy ruồi.

    Trong quán lúc tôi vô chỉ có một người khách. Ông đã lớn tuổi, ngồi xổm bó gối, vừa hút thuốc vừa ho sù sụ. Trông thấy tôi, ông dửng dưng không một chút để ý, tiếp tục vừa hút thuốc vừa ho. Suốt thời gian tôi ngồi ăn mì luộc, ông cũng chẳng buồn ngó ngàng gì đến tôi nên tôi cũng yên tâm ngồi ăn.

    Khi tôi ăn gần xong, bỗng thấy có một cô bé dắt chiếc xe Phượng hoàng đen dựa vào chiếc cột bên cạnh quán. Đây là loại xe đạp sản xuất tại Trung Cộng nhưng rất phổ thông ở Miền Bắc. Xe này cao, chắc chắn, có bộ khung rất cứng, thường để cho đàn ông đi hay thồ hàng hóa. Vì vậy, khi thấy cô bé dắt chiếc xe Phượng hoàng, tôi cũng ngạc nhiên. Cô bé cẩn thận khoá xe bằng một sợi dây xích làm bằng xích xe đạp. Khóa xong cô bước vô quán, ngồi xuống ghế, chọn mua một củ khoai lang thật to và một chén nước chè tươi nóng. Vì trong quán nhỏ hẹp, nên ngay khi ngồi xuống ghế, cô đã nhìn thấy tôi. Tôi không biết cô bao nhiêu tuổi, vì cả gương mặt của cô được bọc kín bằng chiếc khăn vuông màu đen, chỉ để lộ có hai con mắt. Khi ăn uống, cô cũng chỉ kéo vạt khăn vuông ở miệng xuống một chút vừa đủ. Nhưng qua cặp mắt đen láy, hàm răng trắng muốt, và dáng người nhỏ nhắn, tôi đoán cô chỉ 16, 17 tuổi là cùng. Nghe giọng nói, tôi đoán cô người Hải Phòng. Đôi ba lần, thấy trong ánh mắt của cô nhìn tôi, có vẻ tò mò, nên tôi lúng túng né tránh, ngại trò chuyện không khéo, sẽ vô tình để lộ thân thế của mình. Vì thế, tôi ăn vội cho xong, rồi trả tiền, và nhanh chóng rời khỏi quán.

    Ra khỏi quán, đi bộ được khoảng 15 phút, tôi thấy cô gái đạp chiếc xe Phượng hoàng chạy qua. Chạy được một quãng, không hiểu sao cô ngừng xe, nhảy xuống đứng chờ. Chờ ai không biết, nhưng thấy cô nhìn tôi, tôi đoán cô chờ tôi. Tôi lúng túng không hiểu cô gái có ý gì, nhưng vẫn phải có giữ bình tĩnh bước tới. Khi tôi tới gần, cô gái kéo chiếc khăn bịt mặt xuống, hỏi giọng thân mật, gần gũi:

    – Chú đi Móng Cái phải không chú?

    Tôi ngạc nhiên:

    – Sao cô biết?

    Cô bé mỉm cười:

    – Cháu còn biết chú là người Hoa nữa.

    Tôi đang ngần ngừ không biết có nên nhận mình là người Hoa hay không thì cô gái đã nói tiếp:

    – Nhìn chú cháu biết ngay chú là người Hoa, nên cháu đoán chú đi Móng Cái. Cháu tên Liên. Còn chú, tên gì?

    Dứt lời, không chờ tôi trả lời, Liên đẩy chiếc xe đạp về phía tôi:

    – Cháu cũng đi Móng Cái. Chú đạp xe đèo cháu đi cho nhanh…

    Nhìn dáng điệu của Liên hồn nhiên, cặp mắt trong vắt, tôi thấy tin tưởng. Tôi nghĩ rất nhanh, từ đây đến Móng Cái chỉ còn vài cây số. Đi bộ cũng không lâu, nhưng nếu đi xe đạp thì nhanh hơn, thoải mái hơn. Vả lại, trong bầu không khí ngột ngạt tại Móng Cái hiện nay, hầu như không có ai đi một mình như tôi. Vì vậy, nếu tôi đi vô Móng Cái với một cô gái thì cũng ít bị để ý hơn là đi một mình. Nghĩ vậy, tôi cảm ơn Liên, đón ghidong xe rồi tôi và Liên cùng ngồi trên chiếc xe Phượng hoàng, bon bon chạy về thị trấn Móng Cái.

    Vừa đạp xe vừa trò chuyện, tôi mới biết, bố mẹ của Liên là người Hoa, sinh sống ở Hải Phòng không biết bao nhiêu đời. Ông nội của Liên, thời Pháp thuộc, có tàu biển chở hàng đi Hồng Kông, Ma Cao, đã cùng với các chú các bác vô Nam năm ngay 1954. Riêng bố của Liên vì đi buôn ở bên Trung Quốc, không về kịp nên bị kẹt phải ở lại sống với cộng sản. Đến năm 1978, vì hai nước Việt, Hoa mâu thuẫn, nên cũng giống như tất cả những người Hoa ở Hải Phòng, nhà cửa của gia đình Liên bị đập phá, bố mẹ Liên cùng với các em buộc phải về Trung Quốc từ trước Tết. Riêng Liên là con gái lớn, đang học lớp 10, phải trọ học ở nhà dì ở Hà Nội. Khi xung đột xảy ra, gia đình Liên về Trung Quốc thì Liên phải ở lại cùng gia đình người dì đi về Trung Quốc theo ngả Lạng Sơn. Chẳng may vì lý do gì đó, gia đình dì bị công an biên phòng bắt giam mấy tháng trời. Rốt cuộc, cả nhà bà dì và Liên bị kẹt lại cho đến nay. Sau thời gian mấy tháng trời bị kẹt ở Hà Nội, Liên đành phải đạp xe từ Hà Nội đi Hải Phòng, rồi từ Hải Phòng đi Móng Cái, để đến nhà bà ngoại, tìm được sang bên Trung Quốc đoàn tụ với gia đình.

    Nghe chuyện của Liên tôi thật xúc động. Thì ra, sống trong chế độ cộng sản, nỗi đau khổ của người dân hiện ra muôn hình vạn trạng. Và tôi cũng biết, những cuộc đời đau khổ mà tôi đã gặp chỉ là một phần rất nhỏ trong số muôn vạn phần khổ đau xảy ra cùng khắp trên đất nước tôi trong suốt nửa thế kỷ kể từ khi bóng ma CS xuất hiện ở VN.

    Để tránh cho Liên bị liên luỵ, khi đến gần các trạm gác, tôi xuống xe, trả xe cho Liên, còn tôi đi bộ trong hình hài và bộ điệu như cũ. Qua khỏi trạm gác một đoạn xa, Liên xuống xe đứng chờ tôi. Tuy tin tưởng và quý mến Liên, tôi không trò chuyện nhiều về tôi, vì thấy đó là những chuyện không cần thiết, nếu nói ra, có thể tạo nguy hiểm cho Liên.

    Chúng tôi vô được thị trấn Móng Cái vào lúc 5 giờ chiều. Cả thị trấn tràn ngập công an, bộ đội, thanh niên xung phong. Bóng dáng người dân chỉ lác đác. Toàn bộ hệ thống hành chánh và sinh hoạt dân sự trong thị trấn hoàn toàn bị tê liệt. Thay vào đó là cả thị trấn bị quân sự hóa. Hỏi thăm đường xá mãi, chúng tôi mới ghé vô được một tiệm ăn mang tên “Cửa hàng Ăn uống Tổng hợp” (!?). Tiệm ăn đông nghẹt toàn bộ đội là bộ đội. Tôi xếp hàng đợi mua đồ ăn, còn Liên xếp hàng chờ giữ bàn ăn. Khi tôi mua được hai chiếc bánh bao chay (không có nhân) và hai ly nước chanh đường (không có đá) đem ra thì Liên vẫn chưa kiếm được một chỗ ngồi. Tôi và Liên đành vừa đứng vừa ăn uống. Nhìn ra chung quanh thấy phần đông bộ đội, công an, súng ống đầy người8, cũng đứng ăn giống như chúng tôi.

    Lúc đó, trong tiệm ăn, chỉ có mình Liên là con gái, còn toàn đàn ông con trai. Vì vậy, khi nhìn thấy những ánh mắt tò mò của những người chung quanh, tôi bồn chồn nói nhỏ với Liên, ăn nhanh rồi đi ra ngoài.

    Qua trò chuyện, tôi chỉ cho Liên biết, cũng giống như hoàn cảnh của Liên, tôi là người Hoa, gia đình đã về Trung Quốc, còn tôi bị kẹt lại, hiện đang có ý định trốn sang Trung Quốc. Cũng giống phần đông những người Hoa ở Miền Bắc, phải sống trong chế độ cộng sản, bị chúng áp dụng chính sách đồng hóa không cho nói, viết, đọc tiếng Hoa, nên Liên không hề biết tiếng Hoa. Nhờ vậy, khi tôi nói tôi là người Hoa, dù tôi không biết nói tiếng Hoa, Liên không hề mảy may nghi ngờ.

    Lúc đó Liên có ý định muốn tôi về ở nhà bà ngoại của Liên rồi tìm cách vượt biên chung với tôi, nhưng tôi khéo léo từ chối. Hoàn cảnh của tôi lúc đó rất nguy hiểm, nếu bị bắt tôi có thể bị tử hình hoặc bị tù chung thân. Còn Liên chỉ là một cô bé người Hoa mới 15 tuổi, tìm đường vượt biên sang Trung Quốc đoàn tụ với gia đình, đúng theo sách lược xua đuổi người Hoa về nước của cộng sản Việt Nam, nếu chẳng may bị bắt, cộng sản Việt Nam cũng chỉ giam giữ Liên ít tháng rồi thả, trả về Trung Quốc. Vì vậy, tôi không thể để Liên bị liên luỵ. Tôi cảm ơn Liên đã có lòng tốt cho tôi quá giang, nhưng tôi khéo léo từ chối. Chúng tôi bịn rịn chia tay nhau, sau khi trao cho nhau lời chúc bình an và niềm hy vọng tương lai sẽ gặp lại nhau ở Trung Quốc.

    Dĩ nhiên, khi trao gửi niềm hy vọng đó, tôi đâu có thể ngờ được, không đầy mấy tháng sau, tôi gặp lại Liên ở Trung Quốc. Tôi càng không thể ngờ được, sau đó mấy chục năm, một ngày nọ, đang vô internet, bỗng nhiên tôi nhận được email của Liên, trong đó Liên cho biết, Liên đã có gia đình, hiện định cư ở Anh quốc và có một người chú có tiệm bán bánh mì ở Sydney…

    Trở lại buổi chiều hôm đó, sau khi chia tay Liên, suốt mấy tiếng đồng hồ, tôi đi lại ngược xuôi trong thị trấn Móng Cái, để tìm đường đến bên sông Ka Long, nhưng không được. Tất cả các ngả đường trong thị trấn dẫn đến bờ sông Ka Long đề bị canh gác nghiêm mật, hoặc bị rào bằng kẽm gai kiên cố với những bảng hiệu “Nguy hiểm! Có Mìn!”

    Khoảng 10 giờ tối hôm đó, không thành công với kế hoạch vượt biên qua sông Ka Long, tôi bắt buộc phải tìm đường trốn ra khỏi thị trấn vì lệnh giới nghiêm sẽ có hiệu lực trên toàn thị trấn từ 12 giờ đêm.

    Đi bộ ra khỏi thị trấn được khoảng 2 cây số, tôi tạt vào rừng, tìm lên một ngọn đồi rậm rạp trước là ngủ, sau là tính kế vượt biên. Rõ ràng cho đến lúc đó, số phận của tôi đã vô cùng may mắn. Tôi đã vượt qua không biết bao nhiêu gian nan nguy hiểm, và bây giờ, chỉ còn cách biên giới Việt Hoa có không đầy 2 cây số đường chim bay. Tôi biết chắc, trong tình hình căng thẳng đầy xung đột giữa cộng sản Việt Nam và cộng sản Trung Quốc, nếu tôi vượt biên sang được bên Trung Quốc, tôi sẽ được an toàn định cư, và nếu may mắn, tôi sẽ được đoàn tụ với gia đình ở Úc. Tôi cũng biết, tôi không phải là người Hoa, không biết nói tiếng Hoa, một khi vượt biên sang Trung Quốc, tôi sẽ bị Trung Quốc nghi ngờ tôi là gián điệp của cộng sản Việt Nam, sẽ bị tra vấn, giam giữ… Nhưng chắc chắn, với tất cả sự thật của cuộc đời tôi, cùng với sự giúp đỡ của thân nhân ở Úc, tôi sẽ thuyết phục được giới chức Trung Cộng tin tưởng tôi là một nạn nhân của cộng sản Việt Nam. Trong niềm tin vững vàng đó, khuya hôm đó, tôi thiếp đi trong một giấc ngủ ngon lành….

    còn tiếp

    Comment


    • #92
      TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

      Hữu Nguyên


      KỲ 91

      Buổi tối hôm đó, nằm trên ngọn đồi cao, tôi trằn trọc không ngủ được. Thao thức nghĩ hoài, tôi vẫn không tìm được cách nào có thể vượt biên an toàn sang Trung Quốc. Nếu vượt biên theo ngả đường rừng thì sợ mìn bẫy. Còn vượt biên qua ngả thị trấn thì các dẫy phố dọc theo sông Ka Long đều bị các đơn vị bộ đội, công an canh gác, phong tỏa. Ngoài ra, những chỗ này cũng có thể bị gài mìn rất nguy hiểm. Trong lúc bế tắc như vậy, đã có lúc tôi nghĩ đến chuyện đi ra phía Trà Cổ rồi bơi vòng ở ngoài biển để sang Trung Quốc. Tôi dám nghĩ đến con đường này vì tôi rất tự tin vào khả năng bơi lội của mình. Lớn lên bên dòng sông Châu, tôi mê bơi lội từ bé. Tôi đã từng được phong tặng là con ếch vàng khi bơi ếch và khi bơi dai sức, tôi có thể bơi 5, 7 cây số không biết mệt. Điều tôi lo ngại là cả chục năm qua tôi rất ít bơi, không biết sức bơi của mình bây giờ còn được bao nhiêu. Nhất là bây giờ thời tiết giá lạnh, bơi lâu dưới nước, tôi có thể bị cảm lạnh, chuột rút, chết đuối bất ngờ… Thêm vào đó, bơi ở biển ngang qua cửa sông là điều không dễ dàng, tôi có thể bị thuỷ lưu của dòng sông lôi đi xa cả chục cây số, và trong trường hợp nguy hiểm, tôi có thể bị chết đuối khi bị cuốn chìm vào những vùng nước xoáy…

      Tôi cũng nghĩ đến giải pháp chờ đợi một thời gian nữa, khi Trung Quốc mở cửa cho phép người Hoa về nước, tôi sẽ trà trộn để vượt biên. Tôi biết, điều đó chưa dễ gì thành công, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại, làm sao tôi có thể sống trong lúc chờ đợi với số tiền vỏn vẹn có 10 đồng bạc. Số tiền còn lại gần 100 đồng, tôi đã ghé bưu điện Móng Cái, gửi hết về cho Mẹ của tôi ở Hà Nội. Tôi làm vậy phần vì thương Mẹ già, phần để tăng quyết tâm vượt biên của tôi bằng mọi giá. Một khi trong túi hết tiền, không thể trở lại Hà Nội, tôi chỉ còn có một con đường là vượt biên sang Trung Quốc mà thôi. Tôi biết, nếu không vượt biên được ở Móng Cái, tôi sẽ không còn đủ can đảm trải qua những khó khăn đó một lần nữa để có thể vượt biên ở bất cứ đâu.

      Gần sáng, tôi đang thiu thiu ngủ thì giật mình tỉnh giấc vì nghe những tiếng hô thật to, nhịp nhàng của hàng trăm người, “một, hai, ba bốn”… “một, hai, ba bốn”… Từ trên đồi cao nhìn xuống, tôi thấy dưới ánh sáng bình minh, những đoàn bộ đội, chỉ mặc có quần đùi và áo may ô, đang chạy ngược xuôi trên đường lộ 4B. Thì ra đó là các đơn vị bộ đội phải chạy thể dục vào mỗi buổi sáng sớm. Họ vừa chạy vừa hô vang dội cả khu vực. Có đơn vị chạy từ trong thị trấn Móng Cái ra ngoại ô, và cũng có những đơn vị chạy từ ngoại ô vô trong thị trấn. Ngoài ra, tôi cũng thấy có nhiều người chạy thể dục thành từng nhóm, bốn năm người có, hai ba người có, và một người cũng có….

      Quan sát một hồi, tôi đoán, những người chạy lẻ tẻ này có thể là những người bị rơi rớt lại vì sức yếu, nhưng cũng có thể là những cá nhân, do hoàn cảnh khác nhau, chỉ có một vài người phải canh giữ một trạm gác, chiếm đóng một địa điểm, nên phải chạy thể dục riêng lẻ. Nhìn quần áo họ mặc, tôi thấy tuy có khác biệt về màu sắc, nhưng tất cả đều giống nhau ở chỗ quần đùi, áo may ô và dép râu… Nhìn thấy những người bộ đội trong bộ quần áo như vậy, tôi mừng rỡ phát hiện ra một chi tiết vô cùng quan trọng: Tất cả không một ai mang theo giấy tờ!

      Rõ ràng, chạy thể dục buổi sáng, trên người chỉ có quần đùi, áo may ô, đâu có ai mang theo giấy tờ. Và như vậy, tôi tin chắc không có một trạm gác nào xét hỏi giấy tờ những người đang chạy thể dục buổi sáng. Nghĩ đến đó, tôi bỗng giật mình ngồi dậy vì nghĩ ngay ra một kế: Tại sao tôi không mặc quần đùi, áo may ô chạy thể dục như những người bộ đội? Rõ ràng, dép râu, quần đùi, áo may ô là những thứ tôi đang có. Tuy chúng không giống hẳn của bộ đội, nhưng cũng chẳng khác là bao, và xem ra chẳng có ai để ý đến sự khác biệt, vì tôi thấy có rất nhiều người đang chạy cũng mặc đủ loại quần đùi, áo may ô khác nhau. Vả lại, nếu cẩn thận, tôi có thể chờ đến tối nay, chui vô một nhà dân nào đó có bộ đội đóng quân, lấy trộm một bộ quần đùi áo may ô của bộ đội là điều không có khó. Sau đó, chờ đến sáng, trong bộ đồ quần đùi, áo may ô và dép râu, tôi cũng sẽ vừa miệng hô to “một, hai, ba bốn”, vừa chạy thẳng từ ngoại ô vào thị trấn Móng Cái. Một khi vào đến thị trấn, tôi sẽ chạy thẳng tới hướng cầu Ka Long, rồi tuỳ theo tình thế và địa hình, tôi sẽ tiến đến sát bờ sông Ka Long. Tôi hiểu, dọc theo bờ sông Ka Long lúc đó đều có các đơn vị bộ đội đóng chốt. Và ở đâu có bộ đội thì ở đó đều có bộ đội mặc quần đùi, áo may ô, đi dép râu chạy thể dục buổi sáng. Như vậy, tôi, trong bộ đồ quần đùi, dép râu, áo may ô, cũng sẽ dễ dàng chạy thể dục tới sát chỗ đóng quân của những đơn vị đó…

      Nghĩ đến đó tôi mừng quá. Tôi không biết mình có thành công hay không, nhưng tôi tin chắc về đại thể, với kế đó, chắc chắn tôi sẽ dễ dàng đến sát bờ sông Ka Long. Vào buổi sáng tinh mơ, trong không khí chạy thể dục buổi sáng của hàng chục ngàn bộ đội trong ngoài thành phố, tất cả các trạm gác nếu có người gác, cũng sẽ uể oải, ngái ngủ, không một ai để ý hay nghi ngờ có sự hiện diện của tôi trong số hàng ngàn bộ đội chạy thể dục. Thiệt không ngờ, đối phó với cả một tình huống phức tạp nguy hiểm, đầy cạm bẫy với hàng trăm ngàn bộ đội đóng kín cả một thị trấn, tôi lại tìm ra một kế đơn giản và dễ dàng như vậy… Tôi chắc chắn sẽ thành công, sẽ vượt qua tất cả các trạm gác, các khu canh phòng cẩn mật, trên con đường thâm nhập vô thị trấn Móng Cái, để rồi tôi sẽ đến sát bờ sông Ka Long. Sau đó, trong khoảng cách còn lại vài chục thước tới bờ sông, trong một đêm, tôi sẽ có đủ thì giờ thận trọng mầy mò từng tấc đất để phát hiện và gỡ mìn, trước khi tôi phóng mình xuống sông Ka Long, bơi sang phía Trung Quốc….

      Để bảo đảm cho cuộc chạy thể dục của tôi thành công, sáng hôm đó, tôi leo lên một ngọn đồi rậm rạp, ngay bên ngoài thị trấn Móng Cái, tính chờ tới mười hai giờ tối hôm đó, tôi chui vào nhà dân lấy trộm một bộ quần đùi áo lót bộ đội. Ngọn đồi này gần hơn ngọn đồi tôi ngủ đêm hôm trước, nên tôi thấy rõ quang cảnh của thành phố Đông Hưng hơn. Bên đó, dân chúng vẫn sống đời sống bình thường. Người dân vẫn

      ra sông gánh nước, tắm rửa, giặt giũ quần áo. Trẻ em vẫn bơi lội vùng vẫy dưới sông. Trên bờ, dân chúng vẫn chợ búa bình thường… Thỉnh thoảng, tôi lại thấy từng đoàn người rất đông, cỡ vài ngàn người là ít, mang theo cờ xí, khẩu hiệu, đi ngược đi xuôi, dọc theo bờ sông. Lúc đó, tôi đoán họ là những đoàn biểu tình do Trung Cộng điều khiển để chống lại Việt Cộng. Nhưng sau này, khi sang được đến Trung Cộng tôi mới biết là mình đoán sai.

      Trong khi đời sống bên Đông Hưng, Trung Cộng huyên náo, tấp nập như vậy thì trái lại, bên thị trấn Móng Cái đúng là một thành phố chết, hoàn toàn bỏ hoang, không có một chút sinh khí nào của đời sống dân sự. Cả thành phố chỉ thấy bộ đội và súng ống….

      Tối hôm đó, sau khi lấy được bộ đồ quần đùi áo lót của bộ đội, tôi đi ngủ sớm… Tôi làm một giấc ngon lành cho đến gần sáng thì thức giấc. Lúc đó, vì còn quá sớm nên chưa thấy ai chạy thể dục, nhưng tôi đã sẵn sàng. Chiếc quần đùi, áo may ô của bộ đội, tôi đã mặc sẵn từ tối hôm qua. Miếng giấy mỏng dính, cuộn tròn bằng đầu đũa, ngoài bọc nylong, đã được tôi giấu kín luồn sâu trong gấu quần đùi. Trong tờ giấy này tôi ghi tất cả những địa chỉ quan trọng của người thân và bạn bè ở Việt Nam cũng như hải ngoại. Để bảo đảm bí mật, tôi đã viết tất cả những địa chỉ này theo lối mã hóa của riêng tôi. Khác với lối mã hóa bình thường, nhìn vô là biết mã hóa, như vậy sẽ nguy hiểm, nếu chẳng may lọt vào tay bộ đội công an, chúng sẽ tra khảo, truy bức tôi; lối mã hóa của tôi rất đơn giản, dù có bị phát hiện cũng chỉ thấy đó là những dòng địa chỉ bình thường, mà không hề biết, chúng đã được đánh tráo một cách khéo léo. Sợ thất lạc, cũng như đề phòng khi bị bắt, bị lục soát, tôi đã giấu những địa chỉ này ở ba nơi trên người tôi. Bây giờ, chuẩn bị cho chuyến đi cuối cùng, rời khỏi quê hương Việt Nam, tôi chỉ giữ lại có một miếng giấu trong quần đùi và một miếng giấu trong dép râu.

      Thức chờ được khoảng mười lăm phút, tôi nghe thấy những tiếng hô “một, hai, ba bốn” vọng lại từ xa. Không đầy 5 phút sau, những tiếng hô như vậy nổi lên ở nhiều nơi… Nhìn xuống quốc lộ 4 B, tôi thấy xa xa có một đoàn bộ đội đang chạy vô thị trấn… Yên tâm, tôi trút bỏ bộ quần áo dài, chạy khởi động khoảng 5 phút cho máu huyết lưu thông, cơ thể nóng bừng, rồi từ trên đồi, tôi chạy xuống đường quốc lộ. Tới gần đường quốc lộ, tôi ẩn mình vào trong bụi rậm bên đường, chờ đoàn bộ đội chạy qua khoảng 30 giây, tôi mới chạy ra đường lộ….

      Ra tới đường lộ, nhìn về phía tay phải, tôi yên tâm, chỉ có một toán bộ đội đang chạy tới, nhưng còn xa tới mấy trăm thước. Trời lúc đó sương mù lãng đãng và khí lạnh tràn ngập nên không một ai nhìn thấy tôi… Hít một hơi thở thật sâu, tôi chạy theo toán bộ độ phía trước, nhưng giữ một khoảng cách vài chục thước… Chạy được một lúc, có thêm một toán bộ đội khác từ trong hẻm nhập cuộc… Toán này có vẻ sung sức, nên qua mặt tôi vù vù. Họ vừa chạy vừa hô “một, hai, ba bốn”, “một, hai, ba bốn”… Tôi cũng hô to như họ. Hầu hết khi chạy qua đều có vẻ mặt thản nhiên, chẳng một ai để ý đến tôi… Chỉ có một người chạy cuối cùng, nhìn tôi một thoáng rồi mỉm cười… Tôi cũng mỉm cười “đáp lễ”…

      Chạy được một đoạn, qua mấy trạm gác, tôi thấy có trạm gác trống trơn, có trạm chỉ có một người gác. Nhưng quả nhiên như tôi đoán, chẳng có người lính gác nào bận tâm chuyện xét hỏi giấy tờ… Tôi thản nhiên chạy qua trạm gác, miệng hô to, “một, hai, ba bốn” giống hệt như một tên bộ đội, mà trong lòng vừa mừng vừa buồn cười…

      Chạy được khoảng mười lăm phút, tôi thấy trên đường có quá nhiều người chạy thể dục. Bên cạnh số đông là bộ đội, công an biên phòng, nam nữ thanh niên xung phong,… còn có cả những người dân mặc nguyên quần dài, áo bông, cùng chạy. Ngoài ra, cũng có nhiều người, chẳng hiểu có phải là bộ đội hay không, chạy lẻ tẻ một mình như tôi, nên tôi rất an tâm…

      Nhờ đã nghiên cứu kỹ bản đồ và quan sát kỹ từ trên đồi cao, nên tôi đã biết được cầu sông Ka Long nằm về hướng nào. Vì vậy, chạy theo toán bộ đội đến khi vô thị trấn, tôi rẽ trái vô ngay một con lộ lớn. Dọc theo con lộ này cũng có hai toán bộ đội chạy ngược chiều nhau, mỗi toán khoảng 20 người. Tôi nhanh chóng chạy theo toán đang chạy về hướng tây bắc… Đây là hướng đi về phía cầu Ka Long.

      Chạy được khoảng một cây số, qua cả chục trạm gác an toàn, không một ai chặn hỏi, tôi mừng quá. Tôi thầm ước lượng, bây giờ tôi chỉ còn cách sông Ka Long khoảng hai trăm thước là cùng. Tôi định hướng rất nhanh và đoán con đường này vì chạy dọc theo bờ sông Ka Long, nên tôi không thể chạy hoài theo toán bộ đội phía trước được. Khổ nỗi, vì nhà cửa dọc theo con lộ san sát, nên tôi không biết là mình đã chạy qua cầu sông Ka Long chưa. Đang lo nghĩ như vậy thì may quá, tôi thấy ở bên phải có một khu đất trống khá rộng, không có nhà cửa, cây cối gì. Nhờ vậy, tôi có thể phóng tầm mắt quan sát và tôi nhìn thấy ngay cầu sông Ka Long nằm phía trước, cách chỗ tôi đang chạy khoảng năm, bảy trăm thước. Ở phía đầu cầu bên này có một trạm gác rất lớn. Phía bên ngoài, tôi nhìn thấy có mấy ánh đèn pha chiếu rọi ngang dọc về phía bờ sông… mặc dù lúc đó trời đã sáng. Từ đây, tôi cũng nhìn thấy cả mấy ngọn đồi ở bờ bên này sông, và con đường nho nhỏ ở phía bên kia bờ sông Ka Long. Như vậy, tôi chỉ cách bờ sông có vài trăm mét… Thấy địa hình địa vật như vậy tôi quyết định tôi phải tìm đường rẽ về phía sông Ka Long ngay bây giờ, vì nếu để đến gần cầu sông Ka Long mới rẽ, tôi sẽ bị lọt vô tầm quan sát của đám bộ đội công an biên phòng ở đầu cầu. Khác với các trạm gác ở trong thị trấn Móng Cái dửng dưng với cảnh bộ đội chạy thể dục buổi sáng, trạm gác ở cầu Ka Long có trách nhiệm đối phó với Trung Cộng từng giây từng phút nên họ rất cảnh giác. Vì vậy, từ trên cao, nếu họ phát hiện thấy tôi, trong bộ đồ chạy thể dục, một mình chạy về phía chân cầu Ka Long, chắc chắn họ sẽ nghi ngờ, theo dõi…

      Quyết định như vậy nên đang chạy phía bên trái, tôi vội băng qua đường, sang phía bên phải. Trong khi chạy băng qua đường, tôi liếc nhanh về phía sau quan sát…. và yên tâm khi chỉ thấy có một toán bộ đội chạy cách xa vài trăm thước.

      Chạy được không đầy 100 thước, tôi thấy con hẻm nhỏ phía tay phải. Lập tức tôi rẽ phải. Lúc này chân của tôi thì vẫn chạy bình thường như một người chạy thể dục, nhưng miệng thì không còn hô, và mắt thì láo liêng, vì trong con hẻm này vắng lặng, nhà cửa bỏ hoang siêu vẹo, không có bóng người nào ngoài tôi…

      còn tiếp

      Comment


      • #93

        TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

        Hữu Nguyên


        KỲ 92

        Chạy được khoảng 100 thước, tôi vô cùng lo sợ và hoảng hốt. Nhìn xuốt chặng đường dài đến cuối tầm mắt, tôi không thấy một bóng người. Khung cảnh hai bên đường hoang vu, trống trải. Tình huống lúc đó cho tôi thấy, đây không phải là khu vực có bộ đội chạy thể dục vào mỗi buổi sáng. Nghĩ vậy, tuy không biết con đường sẽ đi về đâu, nhưng tôi biết nếu cứ tiếp tục chạy theo con đường này trong mươi phút nữa, tôi sẽ lọt vô khu vực kiểm soát của đồn biên phòng trên cầu Ka Long. Đúng ra, từ chỗ tôi đang chạy, tôi đã nhìn thấy cả đồng biên phòng lẫn cầu Ka Long cách khoảng bốn, năm trăm thước. Trong khoảng cách đó, nếu một tên bộ đội biên phòng trên đồn chiếu ống nhòm về phía tôi, hắn sẽ dễ dàng phát hiện ra tôi. Và nếu quả thực đoạn đường này từ xưa đến nay không có một tên bộ đội nào chạy thể dục vào buổi sáng, cũng như dọc theo con đường này không có một đơn vị bộ đội nào đóng, chắc chắn chúng sẽ nghi ngờ tôi…

        Trong tâm trạng hoảng hốt như vậy, nên ngay khi thấy con hẻm nhỏ phía tay phải, tôi chẳng kịp suy nghĩ, liền vội vàng rẽ ngay vô. Con hẻm này nhỏ hơn, chiều ngang chỉ khoảng 4 thước, cỏ hoang mọc đầy trên đường, cao tới gần đầu gối, chứng tỏ cả mấy tháng trời không có người qua lại. Chạy được vài chục bước đến chỗ quẹo phải. Tôi vừa quẹo vô thì đột nhiên giật mình khi thấy hiện ra trước mắt một tấm biển bằng ván đen, trên có vỏn vẻn bốn chữ viết nguệch ngoạc bằng vôi trắng: “Cấm vào! Có Mìn!”…

        Tôi rụng rời tay chân, đứng khựng lại, trong lòng phân vân không biết nên đi tiếp hay quay trở lại. Đi tiếp, tôi phải chấp nhận nguy cơ đụng phải mìn, chết tan xác. Quay trở lại, tôi sẽ bị bắt. Và cho dù chưa bị bắt, thì tương lai tôi cũng không thể nào có được cơ hội tiến sát đến bờ sông Ka Long như lần này… Nhìn theo con hẻm, tôi thấy con hẻm ngoằn ngoèo khoảng hơn trăm thước, dẫn đến ngọn đồi nhỏ, trên là một căn nhà lợp ngói thiệt lớn, nhưng đầy vẻ hoang phế, tiêu điều. Tôi đoán, đó là một nhà kho chứa hàng hay trại chế biến thức ăn cho gia súc… Sau một thoáng suy nghĩ, tôi đánh liều đi tiếp. Dấu hiệu “Cấm vào! Có Mìn!” tuy làm cho tôi lo sợ đụng phải mìn, nhưng nó cũng giúp tôi an tâm, trong khu vực này chắc chắn không có bộ đội, công an, du kích…. Tôi chỉ cần thật cẩn thận, tránh đụng phải mìn là được.

        Bước qua mấy khúc tre, gỗ, dựng sơ sài làm chỗ treo tấm biển “Cấm vào! Có Mìn!” tôi thận trọng bước từng bước. Được vài bước, tôi nhìn thấy ngay những cụm cỏ héo khô rải rác hai bên hẻm. Cúi xuống quan sát, tôi thấy ngay dấu hiệu mìn cá nhân được chôn bên dưới. Thì ra, những trái mìn đã được gài một cách vội vàng nên chỗ nào có mìn, chỗ đó cây cỏ bị héo úa, trông khác hẳn những vùng không có mìn, cây cỏ tươi tốt. Nhận ra được điều đó, tôi mừng rỡ, nên đi nhanh hơn, mặc dù tôi vẫn rất thận trọng chọn chỗ đặt từng bước chân của mình. Cũng may mắn cho tôi, ở khu vực này, ngọn đồi đã che khuất đồn biên phòng trên cầu Ka Long, nên tôi không phải lo ngại bị những ánh mắt cú vọ từ đó phát hiện.

        Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, tôi chui được vô căn nhà trên đỉnh đồi. Thì ra đó là không phải là nhà kho hay trại chế biến gia súc như tôi đoán mà là nhà máy làm chén đã bỏ hoang. Nhà hình tròn, chu vi khoảng ba, bốn chục thước. Phía dưới là khu vực chất than đá đã cháy hết, phía trên là hàng chục ngàn chén, đĩa các loại được xếp thành từng dẫy ngang dọc, trong khi ở trên sàn, chén đĩa, cái lành cái vỡ, nằm ngổn ngang. Tất cả đều bị cháy đen thành sành và cả nhà máy đều lạnh lẽo, hoang tàn, đổ nát, im lìm không một tiếng động. Tôi đoán, nhà máy đã được lệnh “sơ tán” gấp rút, chuẩn bị đối phó với cuộc xâm lăng của Trung Cộng, nên công nhân đã không kịp “thu hoạnh” sản phẩm. Kết quả lửa than vẫn cháy cho đến khi tàn, khiến chén đĩa cháy đen thành than…

        Vô được bên trong nhà máy chén an toàn tôi mừng quá. Đi quanh một vòng, quan sát qua các khe giữa các bức tường gạch, tôi vô cùng mừng rỡ khi thấy về hướng bắc, là dòng sông Ka Long chảy cách nhà máy chén không đầy 200 thước. Phía bên tay trái (tức là phía tây) của nhà máy chén, cách khoảng 200 thước là đồn biên phòng trên cầu sông Ka Long. Từ nhà máy chén, tôi cũng nhìn thấy rõ cầu sông Ka Long, ở giữa cầu có dựng một hàng rào. Hai bên cầu đều có lính bồng súng đi lại. Bên VN tôi thấy có ba, bốn người lính. Còn Trung Quốc, tôi chỉ thấy có một người lính. Riêng phía bên tay phải (tức là phía đông) của nhà máy chén, tôi thấy có mấy đơn vị bộ đội phòng không đóng liền liền như bát úp, cách nhà máy chén khoảng hơn 100 thước.

        Sau khi tìm hiểu thật kỹ địa hình địa vật, tôi thấy rất khó có thể vượt qua sông Ka Long giữa ban ngày. Chỉ cần tôi xuất hiện tiến về bờ sông Ka Long, tôi sẽ bị lọt vô tầm kiểm soát của đồn biên phòng cầu Ka Long nếu tôi chọn hướng bên trái; hoặc tôi sẽ đụng phải các đơn vị bộ đội phòng không nếu tôi chọn hướng bên phải. Còn nếu chọn vượt qua sông Ka Long vào lúc tối, tôi sẽ gặp nguy hiểm bị bên Trung Cộng bắn chết trước khi tới được bờ bên kia. Tôi hiểu, khi hai quốc gia trong tình trạng thù nghịch, chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào, việc tôi bơi qua sông vào ban ngày sẽ bớt nguy hiểm rất nhiều. Còn bơi qua sông lúc đêm tối sẽ rất nguy hiểm. Cho dù tôi có trốn thoát được phía cộng sản Việt Nam, tôi cũng sẽ dễ dàng bị bên Trung Cộng bắn chết vì họ nghi ngờ tôi là gián điệp, đặc công của VC xâm nhập lãnh thổ Trung Quốc.

        Suy nghĩ mãi cuối cùng tôi thấy chỉ có hai cách. Một, đợi đến lúc hoàng hôn, lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng, tôi sẽ liều mạng bơi qua sông Ka Long. Khi đó, trời chưa tối hẳn, dân chúng Trung Cộng vẫn còn tắm rửa giặt giũ bên bờ sông Ka Long rất đông, nên khi tôi bơi qua sông tôi sẽ dễ dàng bị mọi người phát hiện. Nhờ vậy, hành động bơi qua sông của tôi không bị binh lính và công an Trung Cộng coi là hành động lén lút để có thể bị họ “xử lý” bắn chết tại chỗ.

        Cách thứ hai, tôi chịu khó chờ thật khuya, bơi qua sông Ka Long, để cho nước trôi xuống hạ nguồn, rồi tìm chỗ ẩn nấp an toàn, đợi đến sáng hôm sau, giữa ban ngày, ra nộp mạng cho nhà cầm quyền Trung Cộng. Cách này có vẻ an toàn hơn, nhưng nghĩ kỹ, tôi thấy có mấy nguy cơ. Thứ nhất, sau khi bơi qua sông, tôi không thể đủ sức chịu đựng suốt một đêm trong lạnh lẽo để chờ trời sáng. Nhất là từ sáng đến giờ, tôi không có một chút gì trong bụng. Khi chạy được vô nhà máy chén, tôi cũng sơ ý và cũng không thể mang theo được bất cứ thứ gì có thể ăn được. Kiểu này cho đến khi bơi qua sông Ka Long và chờ đợi đến sáng mai, tôi vẫn phải nhịn đói. Như vậy là điều rất nguy hiểm cho tôi. Nguy cơ thứ hai, dù cho tôi có bơi qua sông Ka Long an toàn, khi tôi ẩn nấp ở bên kia bờ sông trong đêm tối để chờ trời sáng, tôi vẫn có thể bị bộ đội biên phòng, công an của Trung Cộng phát giác, bắn chết bất cứ lúc nào.

        Cân nhắc hồi lâu, tôi thấy cách hay nhất là chờ trời chập choạng tối, tôi sẽ bò từ nhà máy chén đến bờ sông Ka Long và bơi qua sông khi bờ sông bên Trung Cộng, dân chúng vẫn còn nhộn nhịp sinh hoạt. Tôi tin chắc, bơi qua sông khi đó, mọi người sẽ dễ dàng phát hiện ra tôi và như vậy tôi chỉ có thể bị bên Trung Cộng bắt sống. Đoạn đường nguy hiểm nhất là đoạn đường từ nhà máy chén đến bờ sông Ka Long, làm sao tôi có thể qua mắt được bộ đội biên phòng và công an VC. Nếu VC phát hiện ra tôi đang đào tẩu về phía Trung Cộng, trong khu vực đã gài mìn, chắc chắn VC sẽ bắn chết tôi ngay.

        Lúc đó tôi cũng đã nghĩ đến cách liều mạng chạy thẳng từ nhà máy chén đến sông Ka Long. Với khoảng cách 200 thước, tôi chạy thật nhanh chỉ mất khoảng 3 phút. Trong thời gian 3 phút ngắn ngủi đó, dù cho bộ đội biên phòng hay công an VC có phát hiện, chắc gì chúng đã kịp đối phó? Nhưng điều tôi lo ngại là những trái mìn cá nhân được gài rải rác suốt cả một khu vực mênh mông từ đây tới bờ sông. Nếu tôi đi hoặc bò thật chậm rãi trong lúc ánh nắng chưa tắt hẳn, tôi có thể phát hiện ra được những bụi cỏ héo để tránh né. Còn nếu phải chạy thật nhanh, làm sao tôi có thể tránh thoát được những trái mìn cá nhân? Đáng lo hơn nữa là đoạn đường từ nhà máy chén đến bờ sông Ka Long không hề có đường mà chỉ là một bãi cát mênh mông, với những bụi cây dại mọc lác đác. Tôi không biết, dưới bãi cát đó, VC có gài mìn cá nhân hay không? Nếu có, tôi rất khó phát hiện ra chúng. Càng nghĩ, tôi càng điên cả người. Bây giờ tôi giống như một cá bị mắc cạn. Chạy đường nào tôi cũng 9 phần chết một phần sống. Mà nếu không đủ can đảm chạy thì tôi cũng đành chịu chết đói trong nhà máy chén!

        Tôi không có đồng hồ, nhưng đoán chừng khi vô được nhà máy chén khoảng 8 giờ sáng. Từ đó cho đến chiều, tôi không có một thứ gì ăn, uống. Sau mấy tiếng đồng hồ chịu đói chịu khát, tôi phải đi tiểu vào một cái chén để uống chút chút cho đỡ khát. Nhìn ra phía ngoài, tôi thấy ngay cạnh sườn đồi về phía cầu sông Ka Long cách nhà máy chén khoảng 10 thước, có mấy dây khoai lang bò ngổn ngang trên mặt đất. Tôi không biết những dây khoai lang đó đã có củ hay chưa, nhưng dù cho không có củ, nếu tôi lấy được một nắm lá khoai lang ăn sống cũng đỡ mệt rất nhiều. Tôi muốn bò ra ngoài hái ít rau khoai lang, hay tìm kiếm thêm ít trái cây để ăn cầm lòng, nhưng dưới ánh sáng mặt trời, tôi thấy rất rõ những người lính đóng trên đồn biên phòng ở cầu sông Ka Long đang đi lại. Ngoài ra, tôi cũng thấy cả những đơn vị bộ đội đóng chung quanh nhà máy chén, tiếng hò hét, la ó, cười đùa vang lên rõ mồn một. Ngay cả con hẻm có tấm bảng đen “Cấm vào! Có Mìn!” bây giờ cũng có một đơn vị bộ đội đi tuần tiễu. Như vậy là tôi đã bị bộ đội, công an, và mình bẫy bao vây tứ bề. May mắn, tôi đã chui vào ở trong một nhà máy chén nằm giữa khu vực có gài mìn, nên được tạm thời an toàn.

        Đến xế trưa, mệt quá, tôi nằm ngủ thiếp đi một lúc. Không biết ngủ được bao lâu, khi giật mình tỉnh giấc, ngó ra ngoài, tôi thấy trời đã hoàng hôn. Tôi ngồi dậy tập thở khoảng 15 phút cho đầu óc tỉnh táo, khí lực hồi phục. Sau đó tôi cố gắng tập trung mọi suy nghĩ của mình sao cho thật lạc quan để có ý chí, có quyết tâm vượt biên bằng mọi giá…

        Tôi hiểu, cho đến lúc này tôi đã trải qua không biết bao nhiêu gian truân khổ ải, nhưng cũng gặp không biết bao nhiêu may mắn. Trong suốt cuộc đời, tôi đã được hưởng bao nhiêu ơn nghĩa, ân huệ của những người đã rộng lòng đùm bọc, yêu thương tôi với cả tấm lòng. Từ những người thân yêu ruột thịt đã có công sinh thành ra tôi, đến bè bạn, hàng xóm láng giềng ở những vùng đất nghèo khổ của Miền Bắc; từ những người thân ruột thịt ở Miền Nam đến những ông bà, chú bác, cô dì, bằng hữu đã chăm lo cho tôi từ khi tôi đặt chân đến Miền Nam… Rồi trên đường vượt ngục, đào tẩu, vượt biên, tôi đã được bao nhiêu người giúp đỡ, đùm bọc, bất chấp hiểm nguy, liên luỵ, có thể tan cửa nát nhà. Trong số những người đó, có những người tôi biết tên, biết địa chỉ, để sau này tôi có thể đền đáp phần nào ơn nghĩa, một trong muôn một. Nhưng cũng có không biết bao nhiêu người, trong hoàn cảnh éo le, bất ngờ, đã giúp đỡ tôi, đã có ơn cứu tử đối với tôi, nhưng tôi vĩnh viễn không biết họ là ai, ở đâu…. Tất cả những may mắn đó, tất cả những ân tình đó,… chỉ có ý nghĩa nếu tôi chấp nhận can đảm đi tiếp con đường tôi định đi: Tìm Tự Do!

        Gần mười năm trước, nhờ được gia đình giáo dục và nhờ những cuốn sách cấm, tôi đã vượt thoát khỏi thân phận của một người bộ đội phải cầm súng xâm lăng Miền Nam, để lên đường tìm tự do, và tôi đã may mắn được tự do. Dù chỉ được sống vỏn vẻn có mấy năm trời ở Miền Nam, nhưng cuộc sống tự do và những tấm lòng nhân nghĩa, đôn hậu đầy tình người trên lãnh thổ Miền Nam đã giúp tôi hiểu được giá trị của tự do đối với tương lai thịnh vượng của một đất nước, một dân tộc, cũng như đối với tương lai của mỗi gia đình, mỗi con người. Sau 30-4-1975, cùng với tang thương của đất nước, của dân tộc khi Miền Nam tự do bị mất vào tay cộng sản, tôi lại có dịp hiểu rõ hơn bản chất dã man, phi nghĩa của chủ nghĩa cộng sản. Tôi tin tưởng mãnh liệt, không sớm thì muộn, chủ nghĩa cộng sản cũng sẽ bị sụp đổ trên quê hương Việt Nam. Đó là quy luật của lịch sử và cũng là chân lý của tự nhiên.

        Tôi cũng hiểu rằng, đời người chỉ sống có một lần. Tôi không thể sống lại lần thứ hai và cũng không thể nào đi lại quãng đời mà tôi đã đi qua. Điều quan trọng là nếu tôi đã chẳng thể thay đổi được hoàn cảnh khi tôi phải sinh ra và lớn lên trong một chế độ cộng sản, thì tôi đã may mắn thoát khỏi hoàn cảnh đó, chế độ đó. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, tôi đã bị chế độ CS bắt cầm súng xâm lăng Miền Nam, để tàn sát dân tộc tôi, trong đó có những người chị, người cháu ruột thịt của tôi, thì may mắn hơn hàng triệu thanh niên Miền Bắc, tôi đã can đảm trốn thoát. Và cho đến giờ phút này, tôi tự hào và thấy lòng mình thật thanh thản vì hai bàn tay của tôi chưa hề dính một giọt máu của người Việt Nam….

        Trong suốt thời gian ngót 10 năm qua, tôi đã tìm tự do, đã được tự do, rồi lại mất tự do! Hôm nay, trước thảm họa cộng sản bao trùm trên quê hương, cùng với hàng triệu người Việt Nam trên khắp mọi miền của đất nước, tôi lại tiếp tục con đường vượt biên Tìm Tự Do! Ngày hôm nay có thể là ngày cuối cùng của tôi. Nhưng tôi chấp nhận, thà được chết trên đường tìm tự do, để thấy cuộc sống của tôi còn hạnh phúc và có ý nghĩa, hơn là tôi phải sống mất tự do trong ngục tù CS. Nghĩ đến đó, tôi thấy lòng mình thật thanh thản, tâm trí thật sáng suốt. Tôi đứng dậy vươn vai, hít thở vài lần thật sâu, nhịn thở thật lâu, cho dưỡng khí thấm sâu vào từng đường gân thớ thịt, huyết mạch trên cơ thể…. Sau đó, tôi uống chút nước tiểu rồi cởi chiếc áo may ô, lấy nước tiểu xoa bóp thật kỹ các bắp thịt, trước khi tập chạy khởi động tại chỗ khoảng 20 phút cho cơ thể nóng bừng, máu huyết lưu thông. Làm như vậy để khi lao vào dòng sông Ka Long lạnh cóng của mùa đông, tôi không bị chuột rút, hay bị cảm lạnh…

        Khoảng 6 giờ chiều hôm đó, ngó ra bên ngoài, thấy mặt trời đã khuất bóng, ánh nắng hoàng hôn đã gần tắt… Nhìn mấy sợi dây lang ngoằn ngoèo cách chân tường khoảng chục thước, tự dưng tôi thấy thèm thuồng quá… Bỗng chẳng hiểu sao, tôi vội lách người qua khe hở giữa hai bức tường gạch, bước vội mấy bước xuống triền đồi… Trong thâm tâm lúc đó, tôi chỉ có ý định giật vội lấy mấy ngọn khoai lang rồi chạy trở lại ngay nhà máy chén… Chẳng may, phần vì sườn đồi hơi giốc, đất cát lại lún, tôi thì vừa đói vừa hoảng hốt, không kịp giữ thăng bằng, nên bị trượt chân, té lộn hai ba vòng liền…

        Kinh hoàng, tôi vội lồm cồm bò dậy, chưa kịp đứng vững thì bỗng nghe có tiếng hét từ xa vọng lại: Ai??? Đứng lại!!!

        Chớp nhoáng, tôi nhận ra ngay tiếng hét từ phía đồn biên phòng trên cầu Ka Long. Trong ánh hoàng hôn, tôi vẫn còn nhìn rõ lố nhố mấy tên bộ đội biên phòng đang cầm súng chỉ chỏ về phía tôi. Khoảng cách trên dưới 200 mét thật ngắn ngủi và lý tưởng cho những tràng đạn AK-47. Chạy trở lại nhà máy chén bây giờ là điều vô cùng nguy hiểm. Chúng sẽ bao vây, bắt sống hoặc bắn chết tôi dễ dàng. Còn chậy thẳng xuống sông Ka Long, tôi cũng bị chúng đốn ngã bằng những tràng AK ác nghiệt, hoặc chết banh xác vì mìn… Còn đứng lại theo lệnh của chúng, tôi sẽ bị chúng bắt!

        Trong vài tích tắc phân vân, bỗng có tiếng loa phát thanh vang lên thật lớn:

        – Đồng chí… đơn vị nào???

        Nghe chúng hỏi vậy tôi hy vọng mình còn có thể đánh lừa được chúng. Tôi há miệng hét lớn tên một đơn vị mà tôi đã coi được trên bì thư của một tên bộ đội ở bưu điện Móng Cái. Khổ nỗi dù tôi hét lớn, nhưng tiếng nói của tôi khè khè như người hết hơi. Thì ra, từ sáng đến giờ tôi không ăn, không uống, nên cổ tôi bị khô và tôi không còn sức để hét… Vả lại, cho dù tôi có hét to đi nữa, đã chắc gì những tên bộ đội trên đồn biên phòng nghe thấy, và dù có nghe đã chắc gì chúng tin…

        Tiếng loa lại vang lên, và lần này thì thật khủng khiếp: Đồng chí… đứng im, dơ tay lên!

        còn tiếp

        Comment


        • #94
          TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

          Hữu Nguyên


          KỲ 93

          Nghe tiếng thét, tôi giật mình hoảng hốt vô cùng. Nếu tôi chấp nhận đứng im, dơ tay, tôi sẽ bị tụi VC bắt sống và cầm chắc cái chết. Còn nếu tôi liều mạng bỏ chạy, tôi sẽ bị chúng bắn, nhưng tôi vẫn còn hy vọng thoát chết. Điều tôi lo ngại là trong tình huống như thế này, nếu bỏ chạy tôi sẽ phải chạy bán sống bán chết, làm sao tôi có thể tránh được mìn bẫy? Nhưng bây giờ tôi không còn cách nào chọn lựa ngoài cách bỏ chạy. Thôi thì chỉ biết cầu nguyện Đấng Tối Cao cùng vong linh thầy tôi và vong linh chị Phúc, người chị ruột sinh trước tôi khoảng 2 năm, mất khi tôi mới lên 2 tuổi, mà suốt cuộc đời tôi luôn luôn tin tưởng chị rất linh thiêng phù hộ cho tôi…. Nghĩ vậy, tôi đột nhiên xoay người chạy thục mạng xuống triền đồi, thẳng về phía sông Ka Long…

          Vừa chạy được vài bước thì tôi bị vấp, té lộn nhiều vòng dọc theo triền đồi. Nhưng tôi chẳng hề thấy đau đớn, vội đứng dậy chạy tiếp… Ngay khi đó từ loa phóng thanh vang lên tiếng hét gay gắt: “Đứng lại! Đứng lại!” Kèm theo là một tràng đạn súng AK nổ vang. Tôi biết đó là tràng đạn bắn chỉ thiên. Tôi vẫn chạy. Khoảng cách từ chỗ tôi đứng lúc đó đến bờ sông Ka Long không đầy 200 thước. Người chạy nhanh nhất thế giới chạy mất khoảng 22 giây. Tôi không biết chạy nhanh như thế nào, nhưng vì từ trên đồi chạy xuống, nên tôi chạy nhanh lắm… Ngay khi đó, tràng đạn thứ hai lại nổ vang, và lần này tôi nghe thấy tiếng đạn xé gió ngay bên cạnh. Nhưng tôi bất chấp, tôi liều mạng, và tôi cũng chẳng còn thì giờ để ẩn nấp, né tránh hay chạy theo hình chữ chi để tránh đạn như sách vở đã dậy… Tiếp theo, mấy tràng đạn nữa nổ vang, nhưng thật may mắn và cũng thật kỳ lạ, không một viên đạn nào bắn trúng tôi…

          Chạy được khoảng vài chục thước, bỗng dưng tôi giật mình khi thấy trước mặt có mấy cụm chông thép ló lên khỏi mặt đất, mỗi cụm khoảng 2, 3 mũi chông, cụm nọ cách cụm kia khoảng nửa thước… Tôi sợ quá, vội đứng ngay lại nhìn xuống chung quanh chỗ mình đứng thì thấy thật may mắn, cả hai bàn chân của tôi đều cách những cụm chông thép có hơn một gang tay… Tôi vội ngoái nhìn lại phía sau… và những gì nhìn thấy khiến tôi rùng mình sợ hãi thật sự. Dưới ánh nắng chiều sắp tắt, cả một bãi chông thép mênh mông trải dài suốt cả bãi cát… Những mũi chông thép phản chiếu ánh mặt trời, lấp lánh ánh sáng, trông thật là ghê rợn. Thì ra, dưới làn đạn truy đuổi, tôi đã chạy thục mạng, chạy bán sống bán chết, chạy vào giữa một bãi chông thép mà không hề dẵm phải một mũi chông nào!!! Nhìn những mũi chông đó tôi biết, đế của chúng làm bằng xi măng, có đường kính khoảng 20 phân, trên cắm ba mũi chông thép có cựa, dài ngắn khác nhau. Tôi chỉ cần dẵm phải một mũi là đủ bị ghim cứng tại chỗ, chờ cho cộng sản đến bắt sống… Nhìn bãi chông trải ra mênh mông đằng trước, đằng sau, bên trái, bên phải, tôi đứng chết lặng cả người vì sợ hãi, hú hồn vì thoát chết, và cũng vô cùng mừng rỡ vì may mắn… Ngay giây phút đó, vượt lên trên tất cả mọi chuyện, tôi chợt thức ngộ được một điều vô cùng thiêng liêng: Phép lạ của Đức Tin!!! Phép lạ của sự Nguyện Cầu!!!… Quý bạn đọc thử nghĩ coi, lúc đó làm sao tôi không tin có Phép lạ được khi tôi cắm đầu cắm cổ chạy vào giữa một bãi chông mà không hề dẵm phải một mũi chông nào???

          Tôi cũng ngạc nhiên, khi thấy lúc này tiếng súng, tiếng loa phóng thanh không hiểu sao bỗng cùng im bặt. Nhìn về phía đồn biên phòng trên cầu sông Ka Long, tôi chợt hiểu. Thì ra, tôi đã chạy khuất vào một chân đồi, nên lính canh gác trên đồn biên phòng không còn nhìn thấy tôi. Điều may mắn nữa, vì khu vực tôi chạy vô đã được gài đầy chông và mìn, nên bộ đội biên phòng và công an VC chẳng thể truy đuổi tôi. Trái lại, họ chỉ có thể bắn chết tôi hoặc chờ đợi tôi bị giết bằng chông mìn. Thì ra tôi đã chạy vô chỗ chết để được may mắn tìm ra đường sống. Tuy nhiên, tôi phải nhanh chóng chạy xuống dòng sông Ka Long, phải bơi nhanh sang bờ bên kia… Lúc đó tôi chỉ còn cách bờ sông có vài chục thước. Tôi vội cẩn thận quan sát và rón rén đặt chân xuống những chỗ không có chông. Tới sát bờ sông, sợ đụng phải mìn gài ở ven bờ, tôi vội bám vào một cây tre, đu người ra tới gần ngọn, rồi thả người xuống dòng sông và bơi vội sang bờ bên kia…

          Sông Ka Long không rộng. Bề ngang chỉ khoảng 200 thước, nước trong xanh và không chảy xiết. Tuy đầu mùa đông nhưng nước lại ấm. Trái với sự lo sợ của tôi, không hiểu vì sao bộ đội biên phòng trên cầu sông Ka Long không bắn đuổi theo tôi khi tôi bơi qua sông? Có thể VC sợ không muốn có những hành động để Trung Cộng hiểu lầm là gây hấn chăng? Tuy vậy, tôi vẫn cắm đầu cắm đầu cắm cổ bơi. Không đầy 5 phút sau, tôi sang được bờ sông Ka Long phía Trung Quốc.

          Khi ấy mặt trời đã gần lặn, nắng đã gần tắt, nên vẫn còn nhìn rõ mặt người. Dọc theo bờ sông vẫn còn rất đông người tắm giặt, gánh nước, trẻ em nô đùa, và trên bờ người qua lại vẫn tấp nập. Bỗng dưng khi thấy tôi bơi từ bên bờ Việt Nam bơi sang, nhiều người ngạc nhiên, chỉ trỏ. Khi tôi từ dưới nước đi lên, họ la hét bằng tiếng Hoa nhưng tôi không hiểu họ nói gì. Trong chốc lát, một đám đông bu quanh tôi, tiếng la hét, cười đùa trêu chọc ầm ĩ…

          Giữa lúc tôi đang run rẩy, không biết nói gì, làm gì, đi về đâu… thì bỗng có tiếng hét lanh lảnh, rồi đám đông bỗng rẽ ra hai bên. Bước vô là một nữ dân quân, mặc quần áo dân sự nhưng đeo súng AK, cánh tay có đeo băng đỏ, gương mặt tròn trĩnh, trẻ măng, hai má phúng phính nhưng nghiêm nghị. Cô chĩa khẩu súng AK vào người tôi rồi lanh lảnh nói một hồi. Tôi nghe nhưng lắc đầu không hiểu. Cô lại nói một hồi nữa, tôi cũng lắc đầu, rồi tôi nói thật chậm rãi bằng tiếng Việt: “Tôi tỵ nạn”. Nghe tôi nói, cả đám đông cười ồ lên rồi la hét “Vziệt nàm nhần” (người Việt Nam), nhưng người nữ dân quân mím môi nhất định không cười. Cô thúc mũi súng vào người tôi, rồi chỉ tay về phía dòng sông Ka Long ra hiệu, miệng kêu “pằng pằng”. Tôi hiểu ý cô bảo tôi phải bơi trở về phía bên kia bờ, nếu không sẽ bị cô bắn. Tôi lắc đầu cương quyết không chịu. Cô tức giận lên đạn rồi hét lên “pằng pằng” giọng tức giận. Tôi hiểu ý cô muốn nói, nếu tôi không chịu bơi trở lại Việt Nam, cô sẽ bắn chết. Nhưng tôi hiểu đó chỉ là sự hăm dọa. Trước mặt bao nhiêu người Hoa, tôi chỉ có hai bàn tay trắng, lại chẳng gây nên tội lỗi gì trên đất nước Trung Hoa, tôi chẳng đe dọa một ai, làm sao cô dám tự dưng bắn tôi? Hiểu vậy, tôi vẫn cương quyết lắc đầu, không chịu nhúc nhích…

          Ngay lúc đó có một người đàn ông cao to, rẽ đám đông bước vô. Ông khoảng 40 tuổi, râu quai nón xồm xoàm, tiếng nói sang sảng. Câu nói đầu tiên của ông là câu ông hỏi tôi, bằng tiếng Việt:

          – Anh người Việt?

          Tôi mừng rỡ:

          – Vâng, tôi người Việt.

          – Không phải người Việt gốc Hoa?

          – Không, tôi người Việt thuần tuý.

          Người đàn ông quay sang người nữ dân quân nói líu lô một hồi rồi quay sang hỏi tôi:

          – Anh không phải người Việt gốc Hoa thì bơi sang Trung Quốc này làm gì?

          Tôi nói ngắn gọn:

          – Tôi xin được tỵ nạn chính trị.

          Người đàn ông ngạc nhiên không hiểu:

          – Anh nói gì? Tỵ nạn chính trị là thế nào?

          Tôi nghĩ ngay, có lẽ người đàn ông chỉ là một người thông ngôn bình thường, không hiểu gì về luật pháp. Vì vậy tôi nói một cách dễ hiểu hơn:

          – Tôi bị cộng sản Việt Nam truy sát, nên tôi phải chạy sang đây ẩn tránh.

          Người đàn ông ồ lên một tiếng, gật gù ra vẻ hiểu, rồi quay sang người nữ dân quân líu lô một hồi bằng tiếng Hoa. Cả đám đông nghe ông nói xong đều ồ lên tỏ vẻ reo vui, đồng cảm. Mũi súng AK chĩa vào người tôi bây giờ cũng được chúc xuống dưới. Thái độ của người nữ dân quân không còn gay gắt như trước. Nhưng người nữ dân quân vẫn líu lô nói với người thông ngôn, tay chỉ về phía bên kia sông. Người đàn ông gật đầu, quay sang tôi nói tiếp:

          – Đảng và nhà nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã đóng cửa biên giới từ ngày…. tháng… năm. Kể từ ngày đó không một người Việt gốc Hoa nào được phép đặt chân lên lãnh thổ Trung Hoa. Vì vậy, cô này ra lệnh cho anh anh phải bơi trở lại Việt Nam ngay, nếu không anh sẽ bị xử lý tại chỗ.

          Tôi lắc đầu, cương quyết:

          – Tôi không phải là người Việt gốc Hoa. Tôi là người Việt chạy trốn cộng sản Việt Nam.

          Người thông ngôn líu lô nói với cô dân quân một hồi. Trời lúc này đã tối, gió lạnh thổi, người tôi lạnh run cầm cập… May mắn ngay lúc đó, một người đàn bà từ trong đám đông quẳng cho tôi một chiếc áo. Tôi cảm động cầm chiếc áo khoác vội lên người, định nói hai chữ “tố chề” (cảm ơn), thì người đàn bà đã biến mất trong bóng tối…

          Thấy người nữ dân quân Trung Cộng tuổi còn trẻ măng, người thông ngôn có vẻ thiếu hiểu biết, mà tình thế có vẻ bế tắc, tôi liền đánh nước liều. Tôi lên tiếng, giọng dõng dạc, rõ ràng:

          – Tôi có thù không đội trời chung với cộng sản Việt Nam. Vì vậy tôi phải vượt qua không biết bao nhiêu nguy hiểm, phải bơi qua sông Ka Long, để sang đây gặp lãnh tụ Hoa Quốc Phong, “chủ tịch quốc vụ viện, chủ tịch hội đồng quân uỷ và chủ tịch nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa”….

          Nghe tôi nói một hơi dài, người thông ngôn nhìn tôi, ngạc nhiên không nói gì. Tôi dục ông:

          – Ông nói với cô ấy, cho tôi gặp cán bộ, công an cao cấp ở đây để giải quyết nguyện vọng quan trọng của tôi. Còn cô ấy bảo tôi bơi về bên Việt Nam, tôi cương quyết không. Ông nói cho cô ấy biết, thà tôi bị cô ấy bắn chết trên đất nước Trung Hoa còn hơn tôi phải bơi về để bị cộng sản Việt Nam cầm tù.

          Người thông ngôn quay sang người nữ dân quân nói một hồi. Cả đám đông nghe xong vỗ tay hoan hô ầm ĩ. Tôi đoán có lẽ họ đã hoan hô câu tôi nói, “Thà tôi bị cô ấy bắn chết trên đất nước Trung Hoa còn hơn tôi phải bơi về để bị cộng sản Việt Nam cầm tù”.

          Nghe người thông ngôn nói xong, và thấy đám đông hoan hô ủng hộ tôi, người nữ dân quân ngúng nguẩy không nói gì, quay đầu bước đi. Người thông ngôn bảo tôi đi theo cô về đồn công an, rồi ông ta đi sau tôi. Cả đám đông người Hoa cũng ồn ào và lũ lượt đi theo…

          Tôi bước theo người nữ dân quân, lòng mừng khôn tả. Tôi không biết chính quyền Trung Cộng sẽ đối xử với tôi như thế nào, tin tưởng câu chuyện của tôi đến mức độ nào, nhưng tôi biết chắc một điều, nếu tôi một lòng cương quyết không chịu trở lại Việt Nam, cuộc sống của tôi trên đất Trung Quốc cũng sẽ không nguy hiểm. Dĩ nhiên, lúc đầu, công an, tình báo của Trung Cộng sẽ nghi ngờ những lời khai của tôi. Nhưng cùng với thời gian, sự thật sẽ được chứng minh, họ sẽ hiểu tấm lòng ngay thật của tôi. Hơn nữa, cùng với sự giúp đỡ của các thân nhân và bè bạn ở ngoại quốc, chính quyền Trung Cộng sẽ hiểu rõ tôi hơn. Vả lại, tôi không hề có ý định ở lại Trung Quốc, mà chỉ muốn xin tỵ nạn tạm thời ở Trung Quốc một thời gian trước khi lên đường đoàn tụ với gia đình ở Úc, hoặc ở Mỹ. Như vậy, mọi giả thuyết họ cho rằng tôi là gián điệp của cộng sản Việt Nam muốn xâm nhập vào Trung Quốc sẽ không đứng vững.

          Đi được khoảng 15 phút qua những con đường lát đá ngoằn nghèo và nhỏ hẹp, thì đến một đồn công an sau này tôi biết đó là đồn công biên phòng Tống Hếnh (Đông Hưng). Ngay ở cổng đồn có một trạm gác, trong có một ngọn đèn điện tù mù tỏa sáng. Người nữ dân quân bước tới nói với người công an trong trạm gác một lúc. Sau đó, có hai người công an từ trong đồn bước ra, dẫn chúng tôi vô trong sân đồn. Riêng tôi, khi vào tới sân đồn, người thông ngôn dẫn tôi vô một phòng nhỏ, mỗi chiều khoảng 3 thước, trong có duy nhất chiếc bàn gỗ, mấy chiếc ghế và một ngọn đèn điện. Sau khi bảo tôi ngồi chờ, người thông ngôn đóng cửa, khóa trái.

          Tôi rất ngạc nhiên trước thái độ lơ là, thiếu cảnh giác của công an, bộ đội biên phòng Trung Cộng. Tôi nhớ khi giải tôi từ bờ sông về đồn công an, người nữ dân quân đeo súng AK lại đi trước, để tôi đi sau, trong khi hay tay tôi không hề bị còng, bị trói gì. Cho đến khi tôi về đến đồn công an, cũng chẳng có ai còng tay trói chân tôi. Thái độ của mọi người công an khi thấy tôi cũng dửng dưng, chẳng thấy ai có thái độ thù nghịch, cảnh giác, trông chừng…

          Đang suy nghĩ vẩn vơ, bỗng dưng cửa bật mở. Bước vô là một người đàn ông cao to, trắng trẻo, đẹp trai, mặc đồ công an 4 túi, nhưng không đeo quân hàm. Người đàn ông niềm nở bắt tay tôi và tự giới thiệu bằng tiếng Việt rất lưu loát:

          – Tôi là Ngô, đặc trách công tác chăm lo đời sống cho Hoa kiều hồi hương. Còn “đồng chí” tên gì?

          Tôi trả lời ngay:

          – Thưa, tôi là Phạm Thái Lai…

          Cán bộ Ngô gật gù, nói tiếp, giọng vui vẻ, bặt thiệp:

          – Tôi tin là “đồng chí” hiện đang rất đói… Vì vậy, trước khi chúng ta có thể làm việc với nhau, tôi nghĩ “đồng chí” nên làm một tô mì cho ấm bụng đã nghe.

          Tôi vừa mừng vừa ngạc nhiên. Mừng vì quả thực lúc đó tôi đang đói đến bủn rủn chân tay, mà chưa tiện mở miệng xin ăn. Ngạc nhiên, vì không ngờ một cán bộ Trung Cộng lại nói tiếng Việt rất sõi, lại xưng hô “đồng chí” với tôi, một người Việt mới chân ướt chân ráo đặt chân lên đất Trung Hoa, trên người chỉ có một chiếc quần đùi và chiếc áo vá chằng vá đụp của một người Hoa tốt bụng vừa cho. Mặc dù chẳng ưa gì hai chữ “đồng chí” trên miệng những người cộng sản, nhưng trong hoàn cảnh đó, tôi nghĩ thái độ của cán bộ Ngô quả là điềm lành cho tôi.

          Tôi chưa kịp lên tiếng, cán bộ Ngô lại tiếp:

          – Bây giờ “đồng chí” ngồi đây chờ một chút. Tôi cho người mang vô một bộ đồ “đồng chí” mặc tạm. Sau đó, sẽ có người mang vô cho đồng chí một tô mì. Đồng chí ăn xong, chúng ta sẽ nói chuyện vui vẻ…

          Dứt lời, cán bộ Ngô đứng dậy bắt tay tôi rất chặt rồi bước ra. Cánh cửa duy nhất vẫn để nguyên không khóa.

          Vài phút sau, một người công an bước vô, đưa cho tôi một bộ đồ và một đôi dép. Mở bộ đồ ra coi, thì thấy đó là một bộ đồ công an hơi cũ. Thay đồ xong, thì cũng vừa lúc một người đàn bà luống tuổi bước vô, tay bưng tô mì nóng hổi, khói bốc nghi ngút… Tối hôm ấy tôi ngồi ăn ngấu nghiến tô mì mà không hề biết, hôm đó là ngày 1 tháng 10, ngày quốc khánh của nước “cộng hòa nhân dân Trung Hoa”…

          còn tiếp

          Comment


          • #95

            TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

            Hữu Nguyên


            KỲ 94

            Khoảng nửa tiếng sau, cửa mở. Trông ra, tôi thấy hai người công an nhưng không thấy cán bộ Ngô. Cả hai đều có gương mặt khó coi, ánh mắt lạnh lùng và đều nói tiếng Việt rất sõi. Một người đến giờ tôi vẫn còn nhớ, mắt hình tam giác, mặt dài như mặt ngựa và bị rỗ, hút thuốc liên tục. Còn người thứ hai thì thấp, có một chiếc sẹo rất to ở cổ.

            Đặt trên bàn một xấp giấy trắng, một cây viết, tên công an mặt rỗ nói với tôi giọng sắc lạnh:

            – Tôi là Trung. Còn đây là đồng chí X (tôi không nhớ tên). Chúng tôi được lệnh làm việc với anh trong 1 tiếng. Sau đó, anh có bổn phận viết lại thật đầy đủ cuộc đời của anh từ khi còn nhỏ cho đến khi đặt chân lên đất nước Trung Hoa. Trước khi làm việc, chúng tôi yêu cầu anh phải thành thật trả lời mọi câu hỏi, phải thành thật khai báo. Chúng tôi cũng báo để anh biết, chúng tôi có tai mắt ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ Việt Nam các anh, nên nếu anh man khai, ngụy tạo, anh sẽ bị chúng tôi phát hiện dễ dàng và anh sẽ bị trừng trị đích đáng.

            Nghe tên Trung nói tôi vô cùng ngao ngán. Đúng là cộng sản, ở đâu cũng cùng một giọng lưỡi như vậy. Điệu này dám tôi tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, chạy Việt Cộng lại gặp Trung Cộng! Nhưng dù sao, tôi cũng chẳng hề có ý định ở lại Trung Cộng. Tôi chỉ đến Trung Cộng tạm trú một thời gian để rồi sau đó, một khi liên lạc với thân nhân lo được giấy tờ bảo lãnh cho tôi định cư tại Úc hoặc Mỹ… là tôi chuồn. Có điều tôi ngạc nhiên, tại sao nửa tiếng đồng hồ trước, Ngô “cán bộ” lại có vẻ niềm nở, thân mật, gọi tôi bằng “đồng chí” rồi lo đồ ăn thức uống cho tôi. Bây giờ thái độ của Trung và X lại lạnh lùng, coi tôi như một tên tội phạm.

            Tôi hỏi Trung, giọng lễ phép:

            – Thưa ông, cán bộ Ngô đâu ạ?

            Trung sẵng giọng:

            – Anh không được quyền hỏi bất cứ điều gì khi chưa được phép của tôi. Hiện giờ anh là một tù nhân của chúng tôi. Anh nghe rõ chưa?

            – Thưa ông, tôi bị tù về tội gì?

            – Tôi xâm nhập lãnh thổ nước “cộng hòa nhân dân Trung Hoa” bất hợp pháp.

            – Tôi là một người tỵ nạn bị cộng sản Việt Nam truy đuổi…

            – Đó là anh nói. Sự thật có đúng như lời anh nói hay không phải chờ chúng tôi điều tra. Trong thời gian điều tra, anh phải hiểu cương vị của anh là một tù nhân. Khi nào mọi chuyện minh bạch, anh đúng là người bị cộng sản Việt Nam truy lùng, chúng tôi sẽ thả anh. Anh nghe rõ chưa?

            Tuy không ưa gì giọng nói lạnh lùng vô cảm của tên Trung, nhưng tôi phải thừa nhận y nói vậy là hợp lý. Trong lúc hai nước đang căng thẳng sắp chiến tranh, bỗng dưng tôi từ Việt Nam trốn sang Trung Hoa rồi tự nhận mình bị cộng sản Việt Nam truy lùng, làm sao bảo họ có thể tin tôi được. Tự đặt mình vào trong hoàn cảnh của họ, tôi hiểu sự nghi ngờ của họ là hợp lý. Điều quan trọng bây giờ, tôi phải làm sao chinh phục được niềm tin của công an Trung Cộng, bằng không, tôi có thể bị tra tấn, bị thủ tiêu, hoặc bị trục xuất về Việt Nam. Tôi tin tưởng, sự thật về cuộc đời của tôi đủ thuyết phục được công an Trung Cộng tin tôi là nạn nhân của cộng sản Việt Nam. Nhưng làm sao để công an Trung Cộng tin những gì tôi nói là sự thật, không phải là ngụy tạo? Hơn nữa, Việt Cộng và Trung Cộng cũng đều là cộng sản. Làm sao tôi có thể hoàn toàn tin tưởng để khai tất cả mọi sự thật? Nhất là trong số mấy chục ngàn người Hoa đang sống tại vùng Đông Hưng, tôi biết chắc chắn có gián điệp Việt Cộng. Vì vậy, tôi nghĩ, cách tốt nhất tôi chỉ khai những sự thật nào cần thiết chung quanh cái tên giả Phạm Thái Lai, chứ không khai thật, khai hết những sự thật quanh cái tên thật Nguyễn Hữu Chí. Và để có thể đánh tan những nghi ngờ cho rằng tôi là một gián điệp được cộng sản Việt Nam cài vô Trung Cộng, tôi phải thẳng thắn và minh bạch cho họ biết, tôi chẳng hề có ý đinh cư ở Trung Quốc. Tôi chỉ đến Trung Quốc tạm trú thời gian ngắn, và sẵn sàng đi khỏi Trung Quốc ngay khi tôi được thân nhân ở Mỹ, Úc bảo lãnh.

            Sau đó, trong thời gian một tiếng đồng hồ “làm việc”, tôi khai báo đầy đủ lý lịch của tôi, một Phạm Thái Lai, làm nghề xướng ngôn viên, Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, thuộc chính phủ Việt Nam Cộng Hòa; sau 1975 bị cộng sản VN bắt đi tù cải tạo, rồi vượt ngục, vượt biên,… cho đến khi tôi bơi qua sông Ka Long đặt chân lên lãnh thổ Trung Hoa. Tôi cũng khai báo đầy đủ tên tuổi, địa chỉ của thân nhân hiện đang sống ở Mỹ, Úc và nguyện vọng thiết tha của tôi là được đoàn tụ với gia đình ở ngoại quốc càng sớm càng tốt.

            Suốt thời gian “làm việc”, chỉ có Trung hỏi tôi, còn X thì cắm cúi ghi chép. Trước khi chấm dứt buổi “lấy cung”, Trung hỏi tôi:

            – Anh bị cộng sản Việt Nam đầy đọa khổ sở như vậy, anh có căm thù chúng không?

            Tôi trả lời ngay:

            – Tôi căm thù chứ.

            Trung hỏi tiếp:

            – Vậy anh có đủ can đảm chiến đấu chống lại cộng sản Việt Nam?

            Tôi gậy đầu kiên quyết:

            – Tôi đủ can đảm.

            Trung tiếp lời, giọng chậm rãi, nhấn mạnh từng chữ:

            – Vậy nếu chính phủ và nhân dân Trung Quốc thành lập một lực lượng chí nguyện quân, giải phóng Việt Nam khỏi ách thống trị của cộng sản Việt Nam và cộng sản Liên Xô, anh có chịu tham gia hay không?

            Tôi giật mình. Trong thâm tâm, quả thực tôi rất muốn lật đổ chế độ cộng sản Việt Nam. Nhưng tôi không tin cộng sản Tàu có thực tâm muốn và dám lật đổ cộng sản Việt Nam. Và cho dù cộng sản Tàu có muốn và dám làm điều đó, tương lai dân tộc Việt Nam dưới chế độ cộng sản Tàu e cũng thê thảm chẳng khác gì dưới chế độ cộng sản Hà Nội. Không, tôi chẳng thể nào làm hành động cõng rắn Tàu cắn rắn Việt… dù đó là rắn cộng sản.

            Thấy tôi im lặng, Trung hỏi gặng:

            – Sao, anh không đủ can đảm hay anh sợ hai chữ Việt gian? Anh yên tâm, nếu anh có tham gia lực lượng chí nguyện quên giải phóng Việt Nam do chúng tôi thành lập, thì cũng do người Việt của các anh lãnh đạo và anh cũng không phải cầm súng đâu mà lo. Anh chỉ cần làm công tác tuyên truyền, như xướng ngôn viên trên đài phát thanh chẳng hạn. Nghề đó đúng là nghề của anh mà?

            Tôi ngần ngừ một chút rồi hỏi:

            – Anh muốn tôi phải trả lời thành thực?

            Trung nhìn tôi dò xét rồi gật đầu, nói giọng dễ dãi:

            – Anh có quyền không trả lời, nhưng nếu trả lời anh phải trả lời thành thực. Anh cũng biết lực lượng mà anh tham gia có tên là “chí nguyện quân giải phóng Việt Nam” gồm toàn những người tình nguyện trong các đơn vị tinh nhuệ của quân đội nhân dân Trung Hoa, những người Hoa kiều từng sinh sống tại Việt Nam và những người Việt yêu nước như các anh…

            Tôi thở phào, trả lời ngay:

            – Nếu vậy anh cho tôi suy nghĩ vài ngày nữa tôi sẽ trả lời.

            Trung nhìn tôi nhíu mày, định nói, nhưng không hiểu nghĩ sao, y gật đầu:

            – Tốt, anh thành thực như vậy là rất đáng hoan nghênh.

            Sau đó, Trung đưa mấy tờ giấy do tên X ghi chép toàn bộ cuộc hỏi cung cho tôi ký. Quá mệt nhọc, tôi chẳng hề đọc lại, ký vội tên vào từng tờ giấy. Ký xong, Trung đưa cho tôi xấp giấy, bảo tôi viết lại thật chi tiết cuộc đời và hành trình trốn thoát khỏi ngục tù cộng sản. Y cho tôi 3 ngày làm việc.

            Tối hôm đó, tôi nằm co ro, lạnh lẽo ngay trên sàn gạch của một căn phòng nhỏ, mỗi chiều khoảng 3 thước, đầu gối lên một hòn gạch. Tuy đã yên tâm thoát chết, nhưng tương lai của tôi xem ra cũng chưa có dấu hiệu gì sáng sủa.

            * * *

            Sáng hôm sau, tôi đang say ngủ thì một người công an Trung Cộng vô đánh thức. Tên này không biết nói tiếng Việt. Y chỉ ra hiệu cho tôi ra phòng bên ngoài ngồi viết lời khai. Tôi ngạc nhiên khi thấy tôi không được cho ăn sáng, không được đánh răng rửa mặt. Nhưng tôi hỏi gì y cũng chỉ lắc đầu, và một mực ra hiệu cho tôi ngồi viết. Tôi thở dài, đành phải ngồi vào bàn và bắt đầu viết với bộ mặt ngái ngủ, đói ăn….

            Cặm cụi viết đến trưa, tôi cũng vẫn không được ăn uống gì. Chân tay bủn rủn, bụng đói vô cùng. Suốt cả buổi sáng cho đến trưa tôi chỉ được uống có nước lạnh trừ cơm. Mãi đến gần 2 giờ chiều, công an ăn trưa xong mới có một người công an mang còng tới còng hai tay tôi lại rồi dắt tôi ra phố Đông Hưng. Tôi rất ngạc nhiên, không hiểu tên công an dắt tôi đi đâu. Thú thực lúc đó, điều tôi sợ nhất là công an Trung Cộng trả tôi về Việt Nam.

            Dắt quanh co một hồi, người công an đưa tôi vô một tiệm ăn Tàu. Một người Tàu từ trong quầy vừa chùi tay vào tạp dề vừa chạy vội ra, miệng líu lo nói với tên công an, bộ điệu khúm núm, sợ sệt. Tên công an nói gì đó một hồi. Người Tàu gật đầu lia lịa, rồi dẫn tên công an và tôi đến một chiếc bàn kê ở góc quán phía trong cùng.

            Tên công an tháo còng tay cho tôi, rồi còng một cổ chân tôi vô chiếc bàn ăn. Xong, y thản nhiên bỏ ra ngoài, chẳng hề nói với tôi một tiếng. Ngồi trong quán, mùi đồ ăn thức uống thơm ngào ngạt làm tôi cồn cào cả ruột gan. Được khoảng mươi phút, một người đàn bà tuổi ngoài 40 có nét mặt u uất, rười rượi buồn, bưng ra một chiếc khay gỗ, trên có một tô cơm bự, một tô canh xu hào, một đĩa tôm rim, một đĩa thịt ninh nhừ có mùi thuốc bắc và một chiếc chén, một đôi đũa.

            Vừa mừng vừa ngạc nhiên trước bữa cơm hậu hĩ, tôi đang định nói hai chữ “tố chề” là hai tiếng Quảng duy nhất tôi biết, thì bỗng giật mình khi nghe người đàn bà hỏi tôi bằng tiếng Việt:

            – Cậu là người Việt phải không?

            Tôi ấp úng chưa kịp trả lời thì người đàn bà đã nói tiếp, rất nhanh:

            – Tôi cũng là người Việt nè. Tôi bị mẹ mìn bắt bán sang đây lâu lắm rồi. Thôi cậu ăn đi cho nóng…

            Nói xong, người đàn bà vội vã quầy quả bỏ đi trước sự bâng khuâng của tôi. Nhìn theo người đàn bà Việt Nam lam lũ, vất vả trên đất khách tôi thấy có sự bâng khuâng, vui buồn lẫn lộn và không biết bao nhiêu điều muốn hỏi…

            Thực khách của mấy bàn chung quanh toàn là người Hoa. Họ kín đáo nhìn tôi, ánh mắt đầy vẻ tò mò mà không hề có sắc căm thù oán hận.

            Tôi lặng lẽ ngồi ăn bữa cơm nóng sốt, ngon lành nhất sau mấy tháng trời bôn ba trong đói khát, lạnh lẽo và hoảng hốt. Trong khi ăn, người đàn bà Việt Nam đi ra đi vô, miệng mỉm cười rất phúc hậu. Tôi biết, nụ cười của bà dành cho tôi, nhưng tuyệt nhiên, bà không hề nhìn về phía tôi. Khi tôi ăn xong, bà lại bàn tôi dọn dẹp, lau chùi và nói nhỏ, nhanh:

            – Tôi tên là Thìn. Tôi có đứa con, giờ còn sống thì nó cũng chạc tuổi cậu… Nhưng nó chết rồi. Nó chết vì bệnh lao… Tôi chỉ có một mình nó…

            Nói đến đó, bà Thìn khóc… Tôi rất xúc động. Không thể ngờ nơi đất khách, tôi lại gặp một thiếu phụ Việt Nam bị mẹ mìn bắt cóc đem bán sang Tàu từ mấy chục năm về trước… Tôi nhớ đến những câu chuyện, những bài thơ của các nhà văn nhà thơ Việt Nam mô tả nỗi khổ chồng chất của những người con gái phải lên xe hoa về nhà chồng ở một phương trời xa xăm nào đó trên quê hương tôi. Nhưng bà Thìn, một người con gái thơ ngây bị bắt, bị bán rồi phải làm vợ một người đàn ông Tàu ở một vùng đất dị biệt về ngôn ngữ, phong tục tập quán… chắc chắn bà còn phải khốn khổ gấp bội phần… bà phải khóc không biết nhiêu đêm, và không biết bao nhiêu là nước mắt…

            Ăn xong, tôi ngồi trong quán thẫn thờ, lòng buồn rười rượi, đầu óc cứ quẩn quanh về hình ảnh bà Thìn, về nụ cười phúc hậu cùng những giọt nước mắt lã chã của bà khi bà nhắc đến đứa con bất hạnh đã qua đời…

            Nửa tiếng đồng hồ sau, tên công an quay trở lại, mở còng chân, rồi còng hai tay tôi ra phía sau. Y đẩy tôi đi ra cửa. Ra tới cửa, tự dưng linh cảm, khiến tôi khẽ ngoái cổ và thấy bà Thìn đang đứng dựa vào cửa bếp nhìn theo tôi, nét mặt đầy ái ngại….

            còn tiếp

            Comment


            • #96

              TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

              Hữu Nguyên


              KỲ 95

              Trở về đến đồn công an, tôi được nằm nghỉ khoảng 1 tiếng, sau đó phải ra phòng làm việc viết bản tường thuật thật “tỉ mỉ” về cuộc đời của mình. Đến chiều, khoảng 6 giờ tối, một công an Trung Cộng khác lại áp giải tôi đi ăn tối cũng tại tiệm ăn buổi trưa. Lần này, không hiểu sao, tôi không thấy bóng dáng bà Thìn đâu cả. Tôi nghĩ có thể bà không làm buổi tối, nhưng cũng có thể chủ tiệm hay công an cấm không cho bà tiếp xúc, trò chuyện với tôi.

              Ngày hôm sau, trước giờ đi ăn trưa, công an Trung đến mở cửa phòng hỏi tôi:

              – Anh đã viết xong bản tường thuật về cuộc đời của anh chưa?

              Tôi ngạc nhiên:

              – Thưa ông, hôm trước ông cho phép tôi viết trong 3 ngày.

              Trung gật đầu:

              – Tôi nhớ chứ. Vì vậy tôi chỉ hỏi anh viết xong chưa?

              – Thưa ông, chưa.

              Trung gật đầu:

              – Tốt, vậy anh viết đến đâu, đưa hết cho tôi coi.

              Tôi lặng lẽ lấy ra một xấp giấy đã viết đưa cho Trung. Trung không hề xem qua, bảo tôi:

              – Anh đưa hết chỗ giấy trắng còn lại cho tôi. Cả cây viết nữa.

              Tôi băn khoăn:

              – Thưa tôi còn phải viết tiếp…

              Trung lắc đầu, nói sẵng:

              – Khỏi cần. Anh viết vầy là đủ rồi. Đưa hết chỗ giấy còn lại cho tôi.

              Thấy thái độ của Trung như vậy, tôi đoán lành ít dữ nhiều. Nhưng dữ như thế nào thì tôi không đoán ra. Tôi nghĩ, thông thường, nếu công an Trung Cộng nghi ngờ tôi là gián điệp, bao giờ họ cũng phải tìm cách khai thác, điều tra, phỏng vấn. Vì vậy, việc tôi đang viết tự thuật lại cuộc đời mình, bỗng dưng bị ngưng ngang là điềm nguy hiểm cho thấy, họ chẳng muốn khai thác, điều tra tôi nữa. Điệu này, dám họ đem tôi ra xử bắn lắm!… Đoán vậy, nhưng tôi không biết làm thế nào. Nếu ở Việt Nam, tôi sẽ trốn bằng mọi giá. Nhưng ở đây, ngôn ngữ bất đồng, tiền bạc không có, dù có trốn ra được khỏi đồn công an, tôi cũng chẳng thể đi đâu xa. Nhất là xã hội Trung Quốc, “muôn người như một” dưới sự tuyên truyền và kìm kẹp của Trung Cộng, làm sao tôi có thể trà trộn trốn tránh hoặc có được những người với tấm lòng vàng sẵn sàng giúp đỡ tôi như ở Việt Nam?

              Ngày hôm đó, tôi vẫn được công an áp giải đi ăn trưa và ăn tối tại cùng tiệm ăn, nhưng tôi vẫn không thấy bà Thìn. Khi ngồi ăn, chân tôi vẫn bị xích vô bàn ăn, và những người Hoa trong tiệm ăn vẫn xa lánh tôi, và nhìn tôi đầy vẻ nghi kỵ. Tôi phớt tỉnh vì nghĩ đã đến hoàn cảnh này, tôi chẳng thể làm gì hơn thì đành chấp nhận chết là cùng.

              Tối hôm đó, nằm trên sàn gạch, gối đầu lên hòn gạch, tôi co ro vì lạnh lẽo và sợ hãi nên trằn trọc không ngủ được. Mãi đến khuya, tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Đang ngủ chập chờn, tôi nghe có tiếng mở khóa, cửa mở, rồi có tiếng chân người đi vô. Lúc đó tôi nằm quay mặt vào tường nên làm như không hay biết, tôi vẫn giả vờ nhắm mắt ngủ say, nhưng trong lòng tôi hoảng hốt vô cùng.

              Có người đá nhẹ vào người tôi hai cái, rồi nghe tiếng đánh thức của Trung công an:

              – Dậy, A Phàm, dậy!…

              Tôi quay trở ra, thấy trong phòng, ngoài Trung còn có một người công an đeo súng AK cầm chiếc còng số 8, và một người khác đeo súng ngắn. Tôi vừa ngồi dậy, người công an đeo súng AK đã nhanh nhẹn cúi xuống, còng hai tay tôi ra phía sau. Trong lòng tôi bấn loạn vô cùng. Tôi nghĩ chắc phen này họ đem tôi ra xử bắn mất thôi. Tôi định hỏi mà miệng khô ran, cổ họng bị nghẹn lại, chỉ lắp bắp được có hai tiếng:

              – Sao… giết?….

              Nhìn nét mặt hoảng hốt cuả tôi lúc đó, Trung trấn an:

              – Anh yên tâm, nhà nước Trung Hoa vĩ đại chúng tôi không giết anh làm gì.

              Nghe Trung nói, tôi không tin. Đang đêm hôm khuya khoắt thế này, dựng tôi dậy, còng tay tôi rồi đem đi thì chỉ có hành quyết tôi thôi… Cộng sản nói thì làm sao mà tin được. Cộng sản Việt Nam với cộng sản Trung Cộng thì cũng rứa mà thôi…

              Ra đến chiếc xe comangca, tôi bị tống vô băng sau. Trong ánh đèn xe mờ mờ tôi thấy, bên trái tôi là người lính cầm khẩu AK, bên phải tôi là công an Trung, phía trước có một công an ngồi ghế tài xế, còn tên công an đeo súng ngắn thì ngồi ghế bên tay phải của tài xế. Tôi chỉ kịp nhìn vội vàng được như vậy thì đã có một miếng vải bịt kín cả hai mắt tôi lại. Thoạt đầu bị bịt kín mắt như vậy, tôi càng thêm kinh hoàng lo sợ. Nhưng một thoáng sau, nghĩ lại, tôi bớt lo. Vì tôi nghĩ, nếu quả thực họ đem tôi đi xử bắn, thì họ đâu cần phải bịt mắt tôi làm gì. Một người đã bị bắn chết, thì đâu còn gì phải đề phòng mà bịt mắt. Còn nếu như họ đã đề phòng bằng cách bịt mắt tôi như vậy, chắc là họ giải giao tôi đến một địa điểm bí mật nào khác mà không muốn cho tôi biết đường chăng? Nếu vậy thì tôi vẫn còn có cơ hội sống sót.

              Yên tâm với ý nghĩ đó một hồi, tôi bỗng giật mình khi nghĩ tới những người bị xử bắn bao giờ cũng bị bịt mắt. Bịt mắt trong những trường hợp đó là nhằm để cho người bị xử bắn khỏi sợ hãi một phần, phần khác là những người bắn súng khỏi bị ám ảnh bởi ánh mắt vĩnh biệt thế gian của người bị bắn. Nếu vậy, tôi bị công an Trung Cộng bịt mắt không phải vì họ muốn bảo đảm bí mật mà chỉ vì không muốn cho tôi khỏi sợ hãi khi bị hành quyết… Nghĩ đến đó tôi thấy lạnh gáy. Chẳng lẽ trải qua bao nhiêu may mắn trên đường vượt biên, cuối cùng, tôi lại lãnh cái chết hay sao? Không khí trong xe lúc này cũng thật nặng nề. Không một ai nói với ai tiếng nào. Chỉ nghe tiếng máy xe nổ đều đều và tiếng gió ào ào thổi bên ngoài khi xe chạy lắc lư nghiêng ngả trên những con đường nhỏ, lát đá xanh lởm chởm…

              Xe chạy quanh co một hồi rồi dừng lại. Tôi bị lôi ra khỏi xe một cách phũ phàng. Hành động phũ phàng kiểu này chỉ dành cho người bị xử bắn thôi. Tôi nghĩ. Tôi thấy gió thổi lồng lộng, rồi nghe thấy tiếng sóng vỗ vào bờ. Tôi đoán chắc tôi đang đứng bên bờ sông Ka Long, và bên kia là tổ quốc của tôi, nơi có tất cả những người thân yêu ruột thịt, bạn bè bằng hữu của tôi và không biết bao nhiêu ân nhân đã giúp đỡ cưu mang tôi. Trên những chặng đường của tổ quốc hình chữ S, tôi đã có không biết bao nhiêu kỷ niệm trong suốt cuộc đời 25 năm trời… dù đó là những kỷ niệm vui hay buồn, may mắn hay bất hạnh, bây giờ đối với tôi đều thật là lung linh vô giá, đáng nhớ đến ứa nước mắt…. Tôi nhớ đến dòng sông Châu nước lúc nào cũng trong xanh, những cánh đồng mía bạt ngàn nổi tiếng ngọt, mềm và ròn của Vĩnh Trụ quê tôi… Thoang thoảng trong không khí thanh tịnh của đêm khuya như có mùi thơm của hoa, nhưng tôi không rõ là mùi của hoa gì. Rồi có tiếng quạ kêu, vài hai tiếng lẻ loi cô đơn trên trời cao… Ngửa mặt lên trời, tôi hít một hơi thở thật sâu cho căng lồng ngực rồi nín thở khoảng mươi mười lăm giây… Tự nhiên, tôi thấy lòng mình trở nên bình tĩnh lạ lùng….

              Tôi bước những bước chập choạng vì bị người công an kéo đi, trong khi mắt bị bịt kín, và bờ sông thì lồi lõm, sỏi đá khắp nơi. Đi được một đoạn khoảng hai mươi phút, tôi thấy mình phải leo dốc. Mười phút sau, tôi bước lên những bậc thang cao dần, cao dần. Leo được khoảng hai chục bậc như vậy thì thấy bước chân của mình bước trên mặt phẳng, có lẽ là của sàn gỗ, vì tôi nghe rõ tiếng giầy nện cộp cộp của mấy tên công an. Đi được khoảng 10 bước thì tôi bị giữ lại. Lúc này gió thổi lồng lộng và tôi nghe rõ tiếng nước chảy ở dưới chân… Chẳng hiểu sao ngay lúc đó tôi đoán mình đang đứng trên cầu sông Ka Long…

              Mấy tên công an nói xì xồ tiếng Quan thoại một hồi, rồi Trung nói với tôi bằng tiếng Việt:

              – Chúng tôi biết anh là gián điệp của tụi Việt cộng, xâm nhập nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa để phá hoại. Tội của anh đáng lẽ phải bị xử bắn. Nhưng đảng và nhà nước Trung Hoa luôn luôn khoan hồng, nên cho anh cơ hội sống sót cuối cùng…

              Nói đến đó, tên Trung im lặng, nghe tên công an xì xồ nói tiếp tiếng Quan Thoại. Tôi mấp máy môi định nói, nhưng không biết nói gì, vì thấy có nói gì đi nữa cũng chẳng thể thuyết phục được họ, nên tôi lại lặng im. Trung công an lại nói tiếp:

              – Bây giờ anh đang đứng trên cầu biên giới sông Ka Long. Trước mặt anh là đồn biên phòng của cộng sản VN. Chúng tôi sẽ tháo còng cho anh, để anh tự do đi thẳng về bên kia, cho các “đồng chí” của anh đón tiếp. Còn nếu anh từ chối không chịu đi, chúng tôi sẽ xử bắn anh tại chỗ. Anh nghe rõ chưa?

              Nghe công an Trung nói vậy tôi vô cùng buồn bã và ngao ngán. Như vậy là trải qua không biết bao nhiêu nguy hiểm để trốn khỏi cái chế độ bất nhân độc tài cộng sản Việt Nam, bây giờ tôi lại phải trở lại cái chế độ đó, để bước chân vào lao tù, kìm kẹp và thậm chí có thể chết. Không, tôi không thể nào làm như vậy. Thà tôi bị bắn chết, chứ nhất định tôi không thể nào sống trong chế độ cộng sản Việt Nam.

              Công an Trung gằn giọng, nhắc lại câu hỏi:

              – Anh nghe rõ chưa?

              Tôi đứng im lặng bất động. Có bàn tay nào đó tháo mảnh vải bịt mắt cho tôi. Tôi chớp mắt liền mấy cái, nhìn vẫn chỉ thấy lờ mờ, nhưng tôi nhận ra, đúng là mình đang đứng trên cầu sông Ka Long. Có bàn tay sờ vào chiếc còng tay sau lưng tôi có lẽ định mở khóa. Tôi khẽ xoay người quay về phía tên công an đeo súng ngắn. Tưởng tôi có hành động gì, lập tức có tiếng hô rít lên bằng tiếng Hoa, rồi đầu súng AK thúc vào lưng tôi đau điếng. Lúc đó tuy không nhìn rõ mặt ai trong bóng tối, tôi vẫn nghiến răng chịu đau, nhìn thẳng vào mặt tên công an đeo súng ngắn và nói, giọng rõ ràng, dứt khoát:

              – Không, tôi không về. Dù các ông có bắn chết, tôi cũng không về. Tôi đã nói với các ông, tôi là nạn nhân của cộng sản Việt Nam, chứ không phải là gián điệp. Nếu tôi về bên đó, cộng sản Việt Nam cũng sẽ bắt và giết tôi. Thà tôi bị các ông bắn chết ngay bây giờ ở đây, còn hơn về bên Việt Nam tôi bị cộng sản Việt Nam bắt và giết chết. Tôi tìm đến với các ông vì tôi đinh ninh các ông là bạn. Vì vậy thà tôi bị chết trong tay các ông, những người tôi coi là bạn; còn hơn tôi bị chết trong tay cộng sản Việt Nam, những kẻ tôi coi là thù.

              Tôi nói liền một hơi, nói trong nỗi niềm xúc động khôn cùng, nên tôi vừa nói vừa thở hổn hển, vừa khóc nghẹn ngào… Nói xong, tôi vẫn còn xụt xịt khóc… Chẳng hiểu sao sau khi tôi nói xong, cả ba tên công an đều im lặng, kể cả tên Trung là người có trách nhiệm dịch lại tiếng Hoa cho tên chỉ huy nghe cũng đứng như phỗng…

              Hai, ba phút sau, tên công an đeo súng ngắn quay sang Trung hỏi bằng tiếng Hoa. Trung vội vã nói lại bằng tiếng Hoa. Tôi không biết Trung dịch lại có trung thực và đầy đủ lời tôi nói hay không, nhưng giọng nói của Trung cũng có vẻ xúc động…

              Trung nói xong, cả ba tên công an Trung Cộng đều đứng im lặng. Tôi cũng im lặng không nói, nhưng trong lòng tôi đã quyết, trừ khi chúng trói gô tôi lại như khúc giò rồi lăn về bên kia cầu, hay chúng bắn chết tôi rồi quẳng xác về bên kia, còn không, tôi cương quyết không về với cộng sản Việt Nam.

              Mấy phút im lặng trôi qua, tên công an đeo súng ngắn xì xồ nói gì một hồi rồi quay lưng đi trước. Kế đến là tên đeo súng AK. Còn tên Trung đặt nhẹ bàn tay lên vai, đẩy tôi đi trở lại phiá bờ Trung Cộng. Tôi run rẩy, thở phào sung sướng… Bước đi được mấy bước, tự nhiên tôi tối tăm mặt mũi, chân bước loạng choạng rồi té rụi xuống mặt cầu.

              Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đã ngồi trong xe. Tay tôi không còn bị còng, và cả 3 người công an trong xe đều nói cười vui vẻ. Không khí trong xe lúc về khác hẳn lúc đi, không còn nặng nề, nghẹt thở như trước. Đây là một dấu hiệu vui mừng cho tôi.

              Trở về đến đồn công an, tôi vẫn bị dắt vô trong phòng giam cũ, nhưng lần này, tôi được một người công an quẳng vô cho chiếc mền cá nhân. Quá mệt mỏi và căng thẳng, cộng với cơn hú viá vừa thoát chết, tôi nằm xuống là ngủ liền một giấc cho đến 10 giờ sáng hôm sau….

              còn tiếp

              Comment


              • #97

                TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

                Hữu Nguyên


                KỲ 96

                Sáng hôm sau thức dậy, nghĩ lại những chuyện xảy ra tối hôm trước, tôi vẫn còn bàng hoàng, hoảng hốt. Tôi thực không ngờ mấy câu nói liều lĩnh của tôi vào giây phút cuối cùng lại có thể cứu sống cuộc đời tôi. Nếu tôi không nói những câu đó, không biết bây giờ, tính mạng tôi đã ra sao? Tôi cũng mong người công an Trung Cộng sẽ phiên dịch đầy đủ câu nói của tôi khi báo cáo lên thượng cấp. Như vậy, tôi hy vọng, số phận của tôi sẽ không đến nỗi bi đát. Nghĩ đến đó tôi lại băn khoăn tự hỏi, nếu người phiên dịch không tường thuật hết ý nghĩ câu nói cuả tôi thì sao? Và dù cho người công an làm nhiệm vụ thông ngôn có tường thuật hết ý nghĩa câu nói của tôi đi nữa, đã chắc gì thượng cấp Trung Cộng hiểu thấu quyết tâm “sẵn sàng chết, nhất định không chịu trở về VN” của tôi, khi họ không hề có mặt lúc câu chuyện xảy ra?

                Sau một lúc suy nghĩ, tôi thấy tôi cần phải chủ động làm một cái gì cho rõ ràng, quyết liệt, để cho thượng cấp của công an Trung Cộng hiểu rõ lòng quyết tâm của tôi chứ tôi không thể âm thầm thụ động, trông chờ ở sự đồng cảm của họ. Nghĩ vậy, tôi liền quyết định viết một lá đơn xin tỵ nạn chính trị, gửi cho chính phủ Trung Cộng. Tôi hiểu, trong hoàn cảnh ngôn ngữ bất đồng như vậy, lời nói của tôi chắc chắn không giá trị bằng những gì viết trên giấy trắng mực đen. Một khi tôi trình bầy quyết tâm của tôi trong thư, dù là bằng tiếng Việt, chắc chắn sẽ được giới chức cao hơn quan tâm. Và nếu quả thiệt, lời nói của tôi tối qua có thể lay động trái tim của những người người công an Trung Cộng, thì chắc chắn những gì tôi viết trên giấy cũng sẽ có những ảnh hưởng nhất định đối với giới chức hữu trách Trung Cộng.

                Nghĩ vậy tôi liền gõ cửa, xin với người lính gác một tờ giấy và cây viết. Vì người lính gác không biết nói tiếng Việt nên tôi phải ra dấu một hồi. Khi hiểu, người lính gác chạy đi, nhưng không phải là đi lấy giấy mà là gọi Trung, người công an thông ngôn đến.

                Trung mở cửa hỏi tôi, giọng thân mật:

                – Phàn cố (anh Phạm) cần bút giấy để làm gì?

                Tôi lễ phép:

                – Thưa cán bộ, tôi cần viết một cái đơn gửi cho Vòa Coóc Phóng sếnh sáng (Hoa Quốc Phong tiên sinh).

                Trong mấy ngày bị giam giữ, tôi đã lõm bõm học được một ít tiếng Quảng, nên sử dụng ngay.

                Trung ngạc nhiên không hiểu:

                – Vòa Coóc Phóng là ai?

                Tôi biết vì quá bất ngờ nên Trung không hiểu ý của tôi. Tôi nói rõ hơn:

                – Hoa Quốc Phong Chủ tịch nước Trung Hoa đó, cán bộ.

                Trung càng ngạc nhiên hơn:

                – Phàn cố cũng biết Chủ tịch nước Hoa Quốc Phong của chúng tôi nữa sao?

                Tôi nói rõ hơn:

                – Thưa anh, tôi còn biết Hoa Quốc Phong là Chủ tịch Quốc Vụ Viện (chức vụ tương đương thủ tướng), và Chủ tịch Hội Đồng Quân Uỷ Trung Ương (chức đảng cao nhất trong quân đội Trung Cộng) nước Trung Hoa nữa đó.

                Trung ngạc nhiên và thích thú:

                – Ồ, Phàn cố giỏi quá nhỉ! Để tôi đi lấy giấy bút….

                Khoảng mười phút sau, Trung bước vô nói giọng vui vẻ:

                – Giấy bút đã có đầy đủ rồi. Mời Phàn cố ra bàn ngoài này ngồi viết cho thoải mái.

                Tôi bước ra ngoài thấy trên chiếc bàn hỏi cung, ngoài giấy bút, còn có một ly nước, một bình trà và một đĩa kẹo sữa, loại vẫn thường thấy bán ở Hà Nội, Hải Phòng…

                Trung rót trà mời tôi và nói:

                – Phàn cố yên tâm, chúng tôi sẽ báo cáo nội vụ đêm qua lên thượng cấp, và bảo đảm Phàn cố sẽ không bị trả về Việt Nam đâu.

                Tôi cảm ơn Trung, giọng xúc động thật sự:

                – Nói thực với cán bộ, tôi thực sự là một nạn nhân của cộng sản Việt Nam. Nếu còn sống ở Việt Nam, sớm muộn gì tôi cũng sẽ bị cộng sản Việt bắt và giết. Vì vậy bây giờ may mắn tôi đã đến được đất nước Trung Hoa, tôi nhất định không khi nào trở lại Việt Nam. Dù chết tôi cũng không về. Nhờ anh nói dùm với thượng cấp của anh để họ hiểu lòng quyết tâm của tôi là như thế.

                Trung gập đầu hứa sẽ tận tình giúp đỡ tôi. Sau đó Trung mời tôi hút thuốc, uống trà, ăn kẹo…, rồi để tôi một mình ngồi viết thư “gửi Chủ tịch Hoa Quốc Phong”.

                Chuyện này xảy ra cách đây ngót 30 năm, nhưng tôi vẫn nhớ như in trong óc, vì ngay chiều hôm đó, tôi được chuyển về ở khách sạn Hồng Kỳ (tiếng Tàu gọi là Chiêu Đãi Trạm), được cấp giấy bút, nên tôi có viết nhật ký, ghi lại những sự kiện quan trọng này. Những cuốn nhật ký đó hiện tôi vẫn còn giữ, trong đó có cả những bài học tiếng Hoa đầu tiên của tôi.

                Hôm đó, trong lá thư viết đề ngày 5, hay 6 tháng 10 năm 1979, tôi có ghi rõ trên đầu lá thư: “Kính gửi Ngài Hoa Quốc Phong”. Hàng chữ này tôi viết chữ in, thiệt lớn, gần hết bề ngang trang giấy. Ba dòng kế tiếp, tôi viết chữ hoa, nhỏ hơn, mỗi dòng là một chức vụ của Hoa Quốc Phong: Chủ tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Chủ tịch Quốc Vụ Viện nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Chủ tịch Hội Đồng Quân Ủy Quân Đội Nhân Dân Trung Hoa”. Dưới ba dòng này là dòng chữ hoa, viết lớn: “Đơn Xin Tỵ Nạn Chính Trị của Phạm Thái Lai”.

                Phần kế tiếp, tôi ghi rõ tên họ (Phạm Thái Lai), ngày sanh, nơi sanh, nghề nghiệp, cùng hoàn cảnh tôi bị cộng sản Việt Nam bắt bỏ tù, phải vượt ngục, vượt biên sang Trung Quốc để xin tỵ nạn chính trị như thế nào. Ngoài ra, tôi cũng ghi rõ họ tên, địa chỉ của những người thân hiện ở ngoại quốc.

                Sau đó, tôi viết: “Tôi tin tưởng, Trung Quốc là một quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc, nên Trung Quốc có trách nhiệm thi hành Hiến Chương của LHQ về vấn đề tỵ nạn. Vì vậy, tôi long trọng yêu cầu ngài Chủ tịch chấp thuận đơn xin tỵ nạn chính trị của tôi, cho phép tôi được tạm thời định cư ở Trung Quốc trong thời gian tôi chờ đợi được tái định cư với thân nhân ở ngoại quốc. Tôi long trọng bảo đảm, tất cả những gì tôi trình bầy trong thư này là hoàn toàn đúng sự thật. Nếu quý quốc điều tra, phát hiện bất cứ điều gì giả trá, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm, và nếu cần tôi chấp nhận bị tử hình vì những giả trá đó.”

                Cuối cùng, tôi viết lại câu tôi đã nói trên cầu sông Ka Long: “Tôi cũng xin khẳng định, trước sau như một, tôi cương quyết không trở lại Việt Nam. Tôi đến với quý quốc để xin tỵ nạn vì tôi đinh ninh quý quốc là bạn. Nếu quý quốc có ý định trả tôi lại VN, thì xin cứ việc đem tôi bắn bỏ. Vì tôi biết, nếu cộng sản Việt Nam bắt được tôi, chúng cũng sẽ bắn tôi chết. Do đó tôi nghĩ, thà tôi bị bắn chết trong tay những người tôi coi là bạn còn hơn bị bắn chết trong tay những kẻ tôi coi là thù.”

                Cuối thư tôi đề Đông Hưng, ngày… tháng… năm, Phạm Thái Lai rồi ký tên. Xong tôi trao lá thư cho người công an Trung Cộng đang ngồi trong phòng trực. Trở về phòng, ngồi chưa được 5 phút thì một người công an mở cửa dắt tôi đi ăn trưa. Khác hẳn những lần trước hai tay bị còng, lần này, tôi không bị còng, và người công an dắt tôi đi cũng không đeo súng AK mà chỉ mang súng ngắn…

                Bước vào nhà hàng tôi cũng thấy không khí khác hẳn. Nhiều người Hoa thập thò nhìn tôi, nhưng thay vì những ánh mắt nghi kỵ, ác cảm của mấy hôm trước, bây giờ là những ánh mắt thân ái, những nụ cười thiện cảm. Một hạnh phúc bất ngờ đến với tôi là người bưng món ăn ra cho tôi hôm nay là bà Thìn. Bà nhìn tôi cười vui vẻ:

                – Sao A Lồi hôm nay có khỏe không?

                Tôi lúng túng chưa kịp đáp thì bà đã nói tiếp:

                – Cậu gan cóc tía lắm!

                Tôi ngạc nhiên hỏi:

                – Sao bà nói vậy?

                – Đừng gọi tôi là bà, gọi tôi là thím đi cho thân mật…

                Tôi cảm động hỏi bà:

                – Sao thím bảo cháu gan cóc tiá?

                – Thì nghe mấy ông công an nói, cậu nói câu gì hay lắm đó… Thà bị chết trong tay pằng dẩu (bạn hữu) Trung Quốc còn hơn chết trong tay kẻ thù cộng sản Việt Nam. Có phải vậy không?

                Tôi ngẩn người. Thiệt không ngờ câu nói của tôi tối hôm trước đã lan nhanh và gây ấn tượng mạnh mẽ đến nhiều người như vậy. Sau này, có nhiều người gặp tôi cũng đã nhắc lại câu nói đó. Mọi người đều coi câu nói của tôi như là một bằng cớ, chứng minh, trong cuộc xung độc giữa cộng sản Việt Nam và cộng sản Trung Cộng lúc đó, cộng sản Việt Nam là kẻ phi nghĩa, bị ngay chính người Việt Nam như tôi ruồng bỏ, chống đối.

                Bữa cơm hôm đó cũng thịnh soạn hơn trước vì có thêm món đậu hũ nhồi thịt và cá chiên nấu ám. Sau đó còn có trái cây tráng miệng. Thời gian ăn trưa cũng rộng rãi hơn, phải tới hơn một tiếng đồng hồ.



                Thấy cung cách đối xử của mọi người, tôi rất mừng và đinh ninh cuộc đời của tôi sẽ càng ngày càng sáng sủa. Biết vậy, nhưng tôi không thể ngờ, ngay chiều hôm đó, tôi đã được hưởng ngay những đãi ngộ đặc biệt của chính phủ Trung Cộng….

                Trưa hôm đó, ăn cơm xong, tôi lại trở về phòng giam nằm ngủ trưa. Đầu tôi vẫn gối trên hòn gạch, nằm vẫn trên sàn nhà lạnh lẽo. Chỉ có điều cách cửa của phòng giam chỉ đóng lại mà không khoá. Đó là dấu hiệu tốt lành cho tôi rồi. Tôi nghĩ vậy và đi vào giấc ngủ…

                Đang thiu thiu ngủ, bỗng nhiên có người đánh thức, tôi ngồi dậy, trong nỗi bàng hoàng, nhưng cũng nhìn thấy trước mặt mình có 5, 6 người Trung Cộng cao to, mặc áo đại cán 4 túi, may bằng loại vải nỉ “cao cấp”, đang đứng nói chuyện xì xồ với Trung thông ngôn. Nhìn bộ điệu khúm núm của Trung, tôi hiểu, mấy người Trung Cộng mới tới là cán bộ có cấp bậc cao hơn Trung nhiều.

                Sau khi nghe một hồi, gật đầu vâng dạ lia lịa một hồi, Trung quay sang tôi nói:

                – Sau khi nhận được đơn xin tỵ nạn của “đồng chí”, các đồng chí “đặc uỷ” thấy vì nhu cầu an ninh nên có lệnh yêu cầu “đồng chí” phải chuyển chỗ ở ngay bây giờ.

                Tôi giật mình vì hai tiếng “đồng chí” Trung gọi tôi. Tôi chẳng ưa gì hai tiếng này, cho dù nó chỉ có nghĩa chỉ những người cùng chung chí hướng. Trước 1930, từ “đồng chí” được dùng rộng rãi để chỉ những Việt yêu nước đấu tranh chống thực dân Pháp, nhưng từ 1930 trở về sau, vì người cộng sản Việt Nam đã sử dụng nó quá nhiều, khiến hai chữ “đồng chí” bị cộng sản hóa, làm cho nhiều người thấy dị ứng với nó. Nhưng trong hoàn cảnh của tôi lúc đó, khi nghe Trung gọi tôi là “đồng chí” tôi rất mừng, vì điều ấy chứng tỏ, giới chức hữu trách của Trung Cộng đã không còn coi tôi là gián điệp của cộng sản Việt Nam, ít nhất là bề ngoài. Tôi cũng biết rằng, bản thân Trung thông ngôn không phải là người có thẩm quyền được dùng hai chữ “đồng chí” khi gọi tôi, mà phải có sự chấp thuận của những cán bộ Trung Cộng cao cấp hiện diện. Khi nghe gọi “đồng chí”, tôi nhớ ngay buổi tối đầu tiên bước vô đồn công an, cán bộ Ngô cũng đã gọi tôi là “đồng chí” khi gọi cho tôi tô hủ tiếu…

                Vì tôi chẳng có đồ đạc, quần áo gì, nên ngay sau khi nghe Trung nói vậy, tôi đứng dậy theo mấy người công an đi ra ngoài. Ra đến sân đồn công an, tôi thấy có hai chiếc comangca đậu sẵn. Một người công an chỉ cho tôi lên ngồi ở băng sau của chiếc xe đậu phía sau. Lần này, tôi không bị còng tay, cũng không bị bịt mắt. Mọi người trong xe nói chuyện ầm ĩ, thái độ vui vẻ. Trong số 5 người cán bộ, chỉ có một người lên chung xe với tôi, ngồi ở ghế trước, bên tay phải của tài xế. Còn lại, lên chiếc xe phía trước.

                Xe chạy vòng vèo trong thị trấn Đông Hưng mà ấn tượng duy nhất trong đầu óc tôi là đường rất xóc vì đường phố Đông Hưng không trải nhựa mà lót bằng những phiến đá tảng to, đủ hình dạng khác nhau. Nhà cửa trong thị trấn Đông Hưng phần lớn đều làm bằng gỗ, hai tầng, liền san sát. Người Trung Quốc, đúng là “muôn người như một”, đàn bà, đàn ông đều ăn mặc giống nhau, áo quần cùng mầu xanh nước biển đậm, cũ kỹ, bạc mầu và ngắn cũn cỡn. Đàn ông, ai cũng cắt tóc cao; đàn bà con gái ai cũng kết tóc đuôi sam thành hai sợi vắt vẻo hai bên vai. Cả đàn ông, đàn bà đều mặc quần cộc trên mắt cá cả gang tay và đi vội vã như chạy.

                Xe chạy khoảng 10 phút thì dừng lại. Tôi bước xuống xe và nhìn thấy trước mắt là một tòa nhà bê tông nhiều tầng, bề thế, giống như một chung cư. Ngay phía ngoài có một tấm biển bằng gỗ thật lớn màu vàng, trên có mấy chữ Tàu màu đỏ, thiệt to. Sau này tôi mới biết đó là chữ Hồng Kỳ Chiêu Đãi Trạm.

                Bước qua hai chiếc cửa gỗ to lớn và nặng nề, tôi thấy ngay căn phòng đầu tiên ở bên tay trái có một chiếc bàn dài, trải khăn bàn màu trắng, chung quanh có hơn chục chiếc ghế, trong đó có nhiều chiếc đã có người ngồi. Tất cả đều có dáng vóc bệ vệ, mặt mũi đều hồng hào, quần áo đắt tiền. Cuối bàn là một người cũng mặc áo công an đại cán (4 túi), nhưng gương mặt quen quen, nhìn tôi mỉm cười. Trong nhất thời, tôi chưa nhận ra ông. Một người công an kéo chiếc ghế ở đầu bàn bên này, ra dấu cho tôi ngồi xuống… Tôi ngồi xuống trong sự rụt rè, bỡ ngỡ, nhưng trong lòng rất vui vì tất cả có những dấu hiệu cho tôi thấy tôi đang gặp may mắn. Nhưng may mắn đến mức nào và may mắn như thế nào thì tôi chưa đoán ra được…

                còn tiếp

                Comment


                • #98
                  TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

                  Hữu Nguyên


                  KỲ 97

                  Tôi vừa ngồi xuống ghế, thì một người ngồi ở ghế giữa dẫy ghế bên tay phải của tôi đứng dậy. Ông này cao lớn, da dẻ hồng hào, dù tóc đã bạc. Khác hẳn những người khác đều mặc áo công an, màu xanh lá cây, ông mặc bộ quần áo đại cán bằng nỉ màu cứt ngựa. Cầm trên tay lá thư của tôi, ông gật đầu về phía người ngồi cuối bàn, đối diện với tôi. Khi người đó đứng dậy, tôi nhận ra ngay ông là cán bộ Ngô, người đã vui vẻ tiếp đón tôi và gọi tôi là “đồng chí” ngay khi tôi bước vào đồn công an Trung Cộng chiều tối hôm 1 tháng 10.

                  Ông tóc bạc nói tiếng Hoa vài câu rồi dừng lại để cán bộ Ngô dịch sang tiếng Việt cho tôi nghe. Đầu tiên, ông nói ngắn gọn về việc nhận đơn xin tỵ nạn chính trị của tôi, cùng hoàn cảnh tôi đã trải qua trên đường vượt biên. Riêng câu tôi viết, thà chết trong tay những người tôi coi là bạn còn hơn chết trong tay những người tôi coi là thù, ông đã đọc nguyên văn, và ngay khi ông đọc xong, mọi người vỗ tay vang dội làm tôi rất phấn khởi. Sau đó, ông tóc bạc nói:

                  – Thay mặt Hoa Chủ tịch và giới chức thẩm quyền địa phương hôm nay chúng tôi tạm thời chấp thuận đơn xin tỵ nạn chính trị của “đồng chí” Phạm. Chúng tôi nói tạm thời là vì chúng tôi còn phải tiếp tục điều tra xem “đồng chí” có phải là tỵ nạn chính trị thiệt không. Nếu không phải, “đồng chí” phải hoàn toàn chịu trách nhiệm, và chúng tôi sẽ có biện pháp trừng trị thích đáng.

                  Nghe cán bộ Ngô dịch xong, tôi mừng quá, đứng dậy, định nói mấy lời, nhưng cán bộ tóc bạc, dơ tay ngăn tôi lại, và ra dấu bảo tôi ngồi xuống. Ông nói tiếp:

                  – Trong tư cách tỵ nạn chính trị, “đồng chí” được hưởng tiêu chuẩn “trung táo” tại chiêu đãi trạm Hồng Kỳ, có phòng ngủ riêng, có người nấu ăn riêng, quần áo có người giặt giũ. “Đồng chí” cũng được quyền tự do đi lại trong thành phố Đông Hưng. Nhưng vì đây là là cửa khẩu tiếp giáp với Việt Nam, có nhiều gián điệp của cộng sản Việt Nam trà trộn, nên vì an ninh của “đồng chí”, mỗi khi đi đâu, “đồng chí” phải có bổn phận báo cáo với đồng chí Ngô.

                  Sau đó, cán bộ Ngô hỏi tôi có thắc mắc hay muốn đề nghị gì không. Tôi đứng dậy nói mấy lời cảm ơn trong sự xúc động thực sự của mình. Vẫn biết, Trung Cộng cũng là cộng sản, là nguyên nhân gián tiếp hoặc trực tiếp của không biết bao nhiêu đau khổ cho dân tộc Việt Nam, nhưng lúc đó, tôi thấy biết ơn họ vô cùng. Tôi cũng cam đoan với họ những gì tôi khai báo là đúng sự thực, và đề nghị chính phủ Trung Cộng giúp đỡ cho tôi được đoàn tụ với gia đình ở Úc càng sớm càng tốt. Tôi phải nhấn mạnh điểm này để đánh tan trong đầu óc của họ những nghi ngờ cho rằng tôi là gián điệp của Việt Cộng được cài vô Trung Quốc hoạt động.

                  Sau khi tôi nói xong, mọi người đều đứng dậy bắt tay tôi và nói xì xồ tiếng Hoa với tôi. Còn tôi, tôi chỉ nói được có hai tiếng “tố chề” (cảm ơn). Tuy vậy, mọi người xem ra đều vui vẻ thực tình. Khi mọi người đi hết, cán bộ Ngô chỉ vào đống quần áo, giầy dép, bàn chải đánh răng…. trên bàn và cho tôi biết, tất cả là của chiêu đãi trạm phân phát cho tôi. Ôm đồm tất cả mọi thứ, tôi đi theo cán bộ Ngô và một nhân viên của chiêu đãi trạm leo lên lầu, vô một căn phòng có cửa sổ trông ngay xuống nhà bếp. Đồ đạc trong phòng rất đơn giản, chỉ có một chiếc giường đơn, một chiếc tủ đựng quần áo, một chiếc bàn nhỏ, trên có bình thuỷ, ấm trà và một chiếc tách. Trên giường trải chiếu và có một chiếc gối. Một bóng đèn điện lủng lẳng ngay giữa phòng, cách đầu tôi khoảng một thước. Tuy mang tiếng là phòng riêng, nhưng giữa các phòng chỉ có những tấm vách ngăn cao khoảng hai thước rưỡi, còn phía trên các phòng đều thông tuông, cùng trông thấy nóc nhà.

                  Cán bộ Ngô ân cần bảo tôi:

                  – “Đồng chí” được hưởng tiêu chuẩn “trung táo” là 1 đồng rưỡi (hay 2 đồng rưỡi, lâu ngày tôi không nhớ) một ngày. Tiêu chuẩn này dành riêng cho những Hoa kiều về nước có giấy chiếu khán nhập cảnh của tòa đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội. Còn tất cả những Hoa kiều về nước khác chỉ được hưởng tiêu chuẩn “đại táo”. Họ không được ở khách sạn, phải ăn cơm tập trung. Như vậy đủ thấy đảng và nhà nước đã quan tâm đến “đồng chí” như thế nào. Bây giờ đồng chí cần gì thì nói với đồng chí X (tôi không nhớ tên). Những gì trong phạm trù quy định, đồng chí X sẽ giải quyết. Còn không, đồng chí X sẽ đề đạt lên tôi giải quyết.

                  Tôi vội vã hỏi:

                  – Thưa cán bộ, tôi cần ít giấy bút để viết thư cho gia đình ở ngoại quốc.

                  Cán bộ Ngô gật đầu:

                  – Đồng chí X sẽ mang giấy bút ngay cho “đồng chí”. Cũng báo để đồng chí biết, với tiêu chuẩn “trung táo”, “đồng chí” được lãnh mỗi tháng 15 đồng tiêu vặt. Ngoài ra, đồng chí X cũng sẽ trao cho “đồng chí” một bản nội quy của chiêu đãi trạm… “Đồng chí” cố gắng thi hành thật tốt…

                  Sau khi cán bộ Ngô đi khỏi, cán bộ X mang giấy bút cho tôi. X cũng là người Việt gốc Hoa, nói tiếng Việt rất sõi nên vừa là thông ngôn, vừa là nhân viên an ninh có trách nhiệm bảo vệ (hay nói đúng hơn là theo dõi) tôi.

                  Chiều hôm đó, tôi cặm cụi viết hơn chục lá thư gửi cho những người thân ở Úc, Mỹ và Việt Nam. Riêng những thư gửi về Việt Nam, tôi phải gửi qua Úc, Mỹ, và nhờ người thân ở đó chuyển về. Khi đi gửi thư, tôi tế nhị trao cho cán bộ X, đinh ninh ông

                  này sẽ giữ lại để kiểm duyệt trước khi gửi. Không ngờ, X đưa tiền cho tôi và chỉ đường ra bưu điện để tôi tự gửi. Tôi không biết như vậy, bưu điện sẽ có biện pháp kiểm duyệt thư của tôi, hay quả thực, Trung Cộng đã cho phép tôi được tự do thư tín?

                  Chiều hôm đó, tôi được ăn bữa cơm “trung táo” đầu tiên trong cuộc đời. Ngày xưa khi đi bộ đội, tôi vẫn nghe đến mấy chữ “tiểu táo, trung táo, đại táo”, nhưng không bao giờ nghĩ là sẽ có ngày được ăn tiêu chuẩn “trung táo”, nhất là được ăn trên đất Trung Cộng.

                  Vì tôi chỉ có một mình, nên nhà bếp dọn cho tôi một mâm riêng. Bữa cơm “trung táo” khá thịnh soạn, có 5 món, đủ cả thịt cá, rau canh, và trái cây tráng miệng. Các món ăn làm rất ngon, lạ miệng nhưng vì thiếu nước mắm nên giảm ngon phân nửa. Thì ra, người Hoa quen chấm xì dầu, ít dùng nước mắm. Mấy ngày sau, quen biết với các chị nấu bếp, thấy các chị rất dễ dãi và hiền lành, tôi hỏi xin “mắm sủi” (nước mắm), các chị liền mua riêng cho tôi một chai nước mắm. Từ đó, biết tôi thích ăn nước mắm, bữa cơm nào các chị cũng cho một chén trong đó có chút nước mắm để chấm.

                  Thời gian này tôi cũng bắt đầu bập bẹ học tiếng Hoa. Vì học hành không trường lớp, nên có nhiều chuyện tức cười. Một trong những chuyện đến nay tôi vẫn còn nhớ là chuyện “chí nhục ngạo ngổ”. Khi ở chiêu đãi trạm, những từ ngữ tiếng Hoa đầu tiên tôi được các chị nấu bếp dậy là các món ăn, trong đó có chữ “chí nhục” là thịt heo. Còn chữ “ngạo” là cắn, “ngổ” là tôi, thì tôi đã biết lõm bõm từ trước. Một ngày nọ, đến chơi một gia đình người Hoa ở ngay cạnh bến xe Đông Hưng. Vì người Hoa ở đấy có thói quen nuôi heo thả rông trong nhà như nuôi chó, nên có một con heo chạy xồng xộc lại cắn tôi. Tôi giật mình vội la lên, “chí nhục ngạo ngổ!” khiến mọi người trong nhà cười ồ thích thú. Sau đó, mọi người mới giải thích cho tôi hiểu, nói “chí ngạo ngổ” là heo cắn tôi, còn nói “chí nhục ngạo ngổ” là sai vì làm sao “thịt heo” lại biết cắn người được.

                  Đông Hưng là một thị trấn nhỏ, nhưng vì nằm ngay bên bờ sông Ka Long là biên giới tự nhiên giữa hai nước Việt Hoa, nên buôn bán sầm uất, cửa hàng, cửa tiệm san sát. Mỗi tuần có hai phiên chợ, dân chúng từ khắp các vùng quê lân cận đổ về đông như kiến, chen chúc mua bán đủ các mặt hàng nông lâm thổ sản, trong đó có những thứ lạ lùng, chúng tôi chưa từng nghe thấy bao giờ.

                  Mức sống của người dân Trung Cộng tại Đông Hưng cũng nghèo túng, nhưng khá hơn người dân Miền Bắc Việt Nam rất nhiều. Nhìn chung, họ được ăn no, mặc ấm, nhưng rất hiếm các mặt hàng tiêu dùng, các sản phẩm kỹ nghệ. Cả thị trấn có một cửa hàng bách hóa tổng hợp tương đối lớn, nhưng hầu hết các mặt hàng chỉ để trưng làm mẫu chứ không bán. Ngoài ra, một tiệm sách và một rạp chiếu phim chỉ bán sách và chiếu phim tuyên truyền của Trung Cộng. Sau này, khi chuyển về Phòng Thành, tôi mới được xem một số phim của Ấn Độ và một phim của Mỹ có phụ đề tiếng Hoa.

                  Người Hoa ở vùng Đông Hưng, Phòng Thành rất thật thà, chất phác, tốt bụng và lạc hậu. Ngoại trừ những người dân sống ở ngay thị trấn Đông Hưng, Phòng Thành, còn dân chúng ở quê sống trong tăm tối, xa cách với mọi tiện nghi văn minh như điện nước, thậm chí có những người cả đời không hề biết chụp hình, ăn phở là gì.

                  Suốt thời gian ở chiêu đãi trạm Hồng Kỳ, cán bộ Ngô rất tận tình giúp đỡ tôi. Ông rất hiền lành và tốt bụng, thường xuyên chỉ bảo tôi mọi chuyện và bất cứ khi nào tôi cần cái gì, hỏi ông, ông đều cố gắng giải quyết. Vì vậy, tôi rất có cảm tình với ông, coi ông như một ân nhân. Mãi sau này, gặp ba của Liên, tôi mới biết, ông là đại tá tình báo của công an Trung Cộng, nói thông thạo 5 ngôn ngữ, kể cả tiếng Anh.

                  Hôm đó là ngày có chợ phiên. Tôi đang dạo phố ở Đông Hưng, tình cờ tôi gặp lại cô Liên cùng đi với ba má. Chắc qúy độc giả còn nhớ Liên là cô bé đã cho tôi đi nhờ xe đạp vô thị xã Móng Cái trước đây. Hôm đó, chia tay ở tiệm ăn, cả hai đều chúc tụng và hẹn hò sẽ gặp lại nhau ở Trung Quốc. Lúc ấy hẹn hò vậy cho vui, chứ đâu có ngờ, bây giờ chúng tôi gặp lại nhau thật.

                  Gặp tôi, Liên rất hồn nhiên, vui vẻ, hai má ửng hồng, mắt sáng long lanh, trông rất dễ thương. Bố Liên tên là Phùng, khoảng ngoài 50, thân hình cao to, hai bàn tay như hai chiếc quạt, gương mặt xương, dài như mặt ngựa, lại rỗ huê, nhưng có bộ râu quai nón trông rất oai hùng và cặp lông mày chổi xể hung tợn, bất cứ ai chỉ nhìn một lần là nhớ suốt đời. Sau này, ở Cabramatta tôi có gặp một ông người Hoa cũng có lông mày y hệt như vậy, khiến tôi ngạc nhiên, cứ nhìn ông chằm chằm… nhưng cho tôi miễn nói tên của ông ở đây.

                  Mẹ của Liên, tên là Hoa, thì nhỏ nhắn, óng ả, dịu dàng, với mái tóc dài buông xõa, khác hẳn những người phụ nữ Trung Hoa kết tóc đuôi sam. Khí hậu lúc đó khá lạnh, nên bà mặc áo bông dầy sụ, nhưng bà cao phải thước sáu hoặc hơn, nên trông vẫn thấy nét duyên dáng đài các. Tôi thấy người phụ nữ như bà thật hiếm có trong xã hội “phụ nữ ba đảm đang” phải làm việc như trâu ở Miền Bắc. Về sau tôi mới biết, bà là con gái út của ông Tổng Lâm, người giầu có nổi tiếng nhất nhì ở tỉnh Bắc Ninh thời Pháp.

                  Nghe Liên giới thiệu tôi là người Việt gốc Hoa nhưng không biết nói tiếng Hoa, tôi ngượng quá vội nói:

                  – Thú thiệt với anh, tôi là người Việt trăm phần trăm… Nhưng vì lúc đó ở Móng Cái…

                  Tôi đang lúng túng tìm cách nói thực hoàn cảnh của mình thì ông Phùng cười ha hả, đưa bàn tay khổng lồ của ông vỗ vỗ vai tôi, nói một cách hào sảng:

                  – Nhằm nhò gì ba chuyện lẻ tẻ đó… Chú mày khỏi thanh minh thanh nga. Thời buổi loạn ly, lang sói ở khắp mọi nơi, ai mà chả phải nói dối… Đi, đi… đi nhậu thịt chó với anh mày một bữa…

                  Rồi chẳng cần biết tôi có đồng ý hay không, miệng ông nói, tay ông đẩy tôi đi về phía trước… Thấy thái độ thân thiện, cởi mở của ông, tôi không nỡ chối từ, vội đi theo ông.

                  Tại Đông Hưng, thịt chó là món ăn được bầy bán rất phổ biến. Những quán bán thịt chó xuất hiện nhan nhản dọc theo các căn phố. Quán không hề có biển, có chữ gì, chỉ có một hai con chó da trắng hếu, treo lủng lẳng trước cửa là đủ thu hút khách. Nhất là vào những ngày có chợ phiên thì những quán bán thịt chó xuất hiện càng nhiều. Đi khoảng vài chục thước là có một quán bán ngay bên đường, mùi thịt nướng, mùi rựa mận thơm lừng không gian. Những quán bán bên vệ đường này chỉ có ba, bốn chiếc ghế đẩu nhỏ, cao hơn gang tay, nên phần đông thực khách đều đứng hoặc ngồi xổm chung quanh, ăn uống xì xụp, rất tự nhiên, bất kể người qua lại, bụi bặm, ruồi muỗi…

                  Đi qua nhiều quán thịt chó, ông Phùng đều lắc đầu tỏ ý chê, mà tôi không biết ông chê cái gì. Có điều, tôi ngạc nhiên khi thấy có rất nhiều ở chợ quen biết ông, chào hỏi ông vồn vã. Có người gặp ông thì ôm hôn thắm thiết, có người ông bắt tay, có người ông vỗ vai bồm bộp, có người ông chỉ hừ hừ trong cổ họng, tay phẩy nhẹ rồi đi.

                  Đi hết khu phố chợ, quẹo vô con đường nhỏ dẫn đến bờ sông Ka Long, chúng tôi bước vô một tiệm ăn nhỏ, từ ngoài vào trong đều trần thiết bằng gỗ đen như mun. Chủ quán là một người Hoa mình ve xác hạc, nhưng cao lênh khênh, đầu đội một cái mũ nhỏ xíu dính sát da đầu, trông rất dị tướng. Thấy ông Phùng, ông không chào hỏi gì, chỉ quay lưng dắt hai người chúng tôi vô một chiếc phòng nhỏ, có cửa sổ trông xuống ngay sông Ka Long. Vì lúc trước, vợ ông Phùng và Liên đã đi chợ, nên bây giờ chỉ có ông Phùng và tôi ngồi nhậu…

                  còn tiếp

                  Comment


                  • #99
                    TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

                    Hữu nguyên


                    KỲ 98

                    Trong phòng ăn nhỏ chỉ kê có một chiếc bàn, mấy chiếc ghế và một lò than hồng khá lớn đặt ngay giữa phòng. Nhờ có lò than, nên không khí trong phòng ấm cúng, mặc dù

                    gió sông lộng thổi và trời đã vào đông. Ngồi trong quán, nhìn ra mặt sông, thấy sương mù lãng đãng, và những chiếc thuyền đánh cá hiện ra khi tỏ khi mờ giữa biển sương mù, trông thật thơ mộng, thoát tục. Bên kia sông, thị trấn Móng Cái hiện ra trong vẻ tịch mịch, xa xăm, lạ lùng và hiền lành làm sao. Vậy mà đằng sau vẻ hiền lành vô hại đó, không biết bao nhiêu bi kịch đã xảy ra, bao nhiêu người đã chết trong âm thầm, bao nhiêu gia đình đã phải ly tán… Ngay cả bản thân tôi cũng đã từng có những giờ phút kinh hoàng tưởng chết trong thị trấn đó. Bây giờ nghĩ lại, chuyện mới xảy ra ngày hôm qua hôm kia, mà sao tưởng chừng như trong mơ…

                    Có lẽ ông Phùng là khách quen thuộc của quán, nên chẳng thấy ông gọi đồ ăn gì, vậy mà một lát sau, đã thấy một cậu bé tuổi khoảng 15, 16, đầu húi cua, mày thanh mắt sáng, da trắng trẻo, bưng lên một mâm mấy món nhậu nóng hổi, khói bốc nghi ngút. Cậu bé lặng lẽ đặt các món ăn lên bàn, rồi cúi gập người chào ông Phùng, sau đó quay sang tôi, cậu cũng cúi gập người chào, rất lễ độ. Lão Phùng cười ha hả, rồi kéo cậu bé vào lòng thì thầm chuyện gì đó, tôi nghe lõm bõm nhưng không hiểu. Cậu bé bẽn lẽn lắc đầu, mặt đỏ ửng, liếc mắt nhìn tôi, trông thiệt đáng yêu…

                    Khi cậu bé đi khỏi, ông lão chủ quán xuất hiện tay ôm bình rượu quấn lá chuối, mấy chiếc ly đá và một gói rau thơm đủ loại. Lão lặng lẽ đặt các thứ lên bàn rồi cúi đầu chào ông Phùng nhưng miệng không thốt một lời, trước khi lão quay gót. Chờ lão đi khỏi, ông Phùng nói:

                    – Lão A Thoòng này bị câm từ khi mấy vợ con lão chết đuối?

                    Tôi ngạc nhiên:

                    – Chết đuối cả mấy vợ con?

                    Ông Phùng gật đầu:

                    – Cả vợ và 3 đứa con. Chết ngay trên dòng sông Ka Long này. Trước nhà của lão ở bên Móng Cái. Ngày xưa lão đi lính cho Pháp đóng đến quan hai, quan ba gì đó, nên từ sau năm 1954, lão bị nhà nước Việt Nam bắt đi tù trước sau tới mươi lần. Lần nào lâu thì một hai năm, ngắn thì vài tháng. Vì thế lão hận cộng sản Việt Nam lắm…

                    Chỉ tay vào bình rượu ngâm rắn, ông Phùng nói:

                    – Cái loại tam xà tửu này của A Thoòng nổi tiếng từ Trà Cổ đến Hải Phòng, vì uống nhiều uống ít đều không sao. Tam xà tửu của thiên hạ thì chỉ uống một chét hạt mít là đủ. Uống nhiều sẽ ngộ độc. Còn của A Thoòng thì uống đến say cũng chẳng bị hành hạ gì cả. Thế mới lạ…

                    Về khoản rượu tôi không rành, nên ngồi im nghe ông Phùng nói. Nhậu nhẹt lai rai được vài ly, ông Phùng hỏi chuyện tôi vượt biên như thế nào. Tôi kể lại đầu đuôi cho ông nghe. Nghe xong, ông hỏi:

                    – Chú mày có biết cán bộ Ngô là người thế nào không?

                    Tôi thưa không biết rõ. Ông Phùng gật đầu tiếp:

                    – Tay đó là một sĩ quan tình báo cao cấp của Trung Cộng, cấp bậc đại tá. Y có trách nhiệm tiếp xúc, thẩm tra, theo dõi, báo cáo tất cả những Hoa kiều về nước có hành tung khả nghi. Hoa kiều về nước đi “nông xường” (nông trường) hay được ở lại thành phố làm ăn là do y quyết định hết.

                    Tôi ngạc nhiên:

                    – Nhưng tôi thấy ông ta đối xử rất tốt với tôi.

                    Ông Phùng gật đầu:

                    – Chuyện đó anh biết, anh biết. Nhưng chú mày phải hiểu cư xử tốt của một viên đại tá tình báo Trung Cộng không thể nào xuất phát từ tình người thuần tuý. Hắn đối tốt với chú mày là để khai thác tin tức và sử dụng khi cần.

                    Tôi ngẫm nghĩ lời ông nói và thấy ông nói đúng. Tuy nhiên, tôi nghĩ mình thì có gì để cho họ khai thác hoặc sử dụng? Tôi chưa kịp nói ý nghĩ này của mình thì ông Phùng đã tiếp, như đi guốc trong bụng tôi:

                    – Chú mày tưởng chú mày chỉ là một người Việt vượt biên quèn nên không có gì để cho họ khai thác, sử dụng hay sao? Lầm, chú mày lầm. Trong tình thế căng thẳng giữa hai quốc gia hiện nay, nhà nước Trung Cộng rất cần những người Việt thuần tuý như chú mày.

                    Tôi ngạc nhiên:

                    – Ủa, Trung Cộng cần những người như tôi để làm gì?

                    – Để làm gì hả? Để đưa chú mày lên đài phát thanh phát biểu, phản tuyên truyền; hay cho chú mày vô lính, phát động một cuộc chiến tranh trừng phạt cộng sản Việt Nam. Chú mày phải biết, những người Việt gốc Hoa như tụi tao hay những người lính Trung Cộng mà có lên tiếng chửi nhà nước Việt Nam thì nghe đâu có đã bằng chính những người Việt 100% như chú mày chửi.

                    Tôi đồng ý:

                    – Ông nói như vậy cũng đúng. Nhưng còn chuyện chiến tranh, ông nghĩ Trung Cộng liệu có đánh cộng sản Việt Nam không?

                    Ông Phùng nốc cạn ly rượu, không biết đó là ly thứ mấy, rồi xuống giọng thì thầm:

                    – Chuyện đó tao bảo đảm với chú mày sẽ xảy ra. Thằng bé con tính đánh thằng khổng lồ thì cùng bất đắc dĩ mới phải đánh. Còn thẳng khổng lồ như thằng Trung Cộng mà đánh thằng tí hon Việt Cộng, thì đánh lúc nào chả được. Nhất là cả hai thằng đều du côn du kề, ít học và man rợ như nhau. Chú mày cứ tin tao nói đi, sớm muộn gì Trung Cộng cũng đánh Việt Cộng. Và khi đó, những người như chú mày là nhà nước Trung Cộng rất cần trong đoàn quân chinh phạt Việt Cộng…

                    Tôi ngao ngán lắc đầu:

                    – Thưa ông, tôi vượt biên tỵ nạn để tìm tự do chứ không phải để cõng rắn cắn gà nhà.

                    Ông Phùng gật đầu:

                    – Tao đồng ý với chú mày điều đó. Nhưng chú mày đến Trung Quốc rồi thì chú mày phải ở lại đây, chứ chú mày tính đi đâu?

                    – Tôi chỉ ở Trung Quốc tạm thời vài tháng, rồi tôi sẽ đoàn tụ với gia đình ở Úc, Mỹ…

                    Ông Phùng cười hô hố:

                    – Ha… ha… Chuyện đoàn tụ gia đình của chú mày còn khuya. Ngay cả người Trung Quốc có thân nhân ở ngoại quốc bảo lãnh mà còn phải dài cổ chờ 5, 10 năm, thì chú mày đủ hiểu những người như chú mày sẽ phải chờ đợi bao lâu.

                    Tôi ngạc nhiên không tin:

                    – Chờ đợi 5, 10 năm?

                    Ông Phùng gật đầu quả quyết:

                    – Đúng như vậy. Chú mày không tin sao? Chính gia đình ông bác của anh mày (ông vừa nói vừa vỗ vào ngực bành bạch) có bố mẹ ruột ở bên Anh mà lo bảo lãnh suốt cả 7 năm trời nay vẫn chưa xong…

                    – Ủa tôi tưởng ông là người Hoa sống ở Móng Cái?

                    – Anh nói với chú em anh sống ở Móng Cái hồi nào? Anh chỉ đi lại buôn bán ở bên đó thôi. Gia đình anh ở Hải Phòng. Nhưng anh buôn bán ở Đông Hưng, Phòng Thành, Móng Cái. Mẹ của con Liên mà chú em gặp đó là vợ thứ tư của anh đó. Bà là người Việt hoàn toàn. Còn ba mụ vợ khác của anh đều là người Hoa…

                    Thì ra là vậy. Hèn chi, tôi thấy vợ chồng của ông có vẻ gì là lạ. Hai người đã có con 15, 16 tuổi mà trông vẫn đầu mày cuối mắt, tình tứ nồng đượm tựa như mới cưới…

                    Ông Phùng nói tiếp:

                    – Chú mày đã đến Trung Quốc thì cứ yên tâm ở lại đây cỡ 10 năm là ít, rồi mới tính đến chuyện đi ra nước ngoài, đoàn tụ gia đình. Vì tiêu chuẩn đầu tiên để chú mày có thể đoàn tụ gia đình là chú mày phải là công dân của nước Trung Quốc. Không là công dân Trung Quốc thì lấy tư cách gì để Trung Quốc cấp giấy xuất cảnh cho chú mày?

                    Tôi lắc đầu:

                    – Ông nói vậy nghe có lý, nhưng tôi đến Trung Quốc là xin tỵ nạn chính trị chứ không phải xin định cư ở Trung Quốc.

                    Ông Phùng gật đầu:

                    – Rồi, chú mày xin tỵ nạn ở Trung Quốc, có đúng không nào? Vậy nếu Trung Quốc chấp nhận, thì Trung Quốc phải có bổn phận cho chú mày định cư ở Trung Quốc, nhập tịch Trung Quốc. Sau khi có quốc tịch Trung Quốc, chú mày mới liên lạc với thân nhân ở ngoại quốc để họ bảo lãnh đoàn tụ. Đó, mọi việc phải tiến hành trình tự theo đúng luật pháp như vậy…

                    Tôi ngạc nhiên, nhưng phải thú nhận những gì ông Phùng nói là có lý. Tôi hỏi:

                    – Ông làm gì ở Trung Quốc mà biết rõ như vậy?

                    Ông Phùng cười:

                    – Thì anh đã nói là anh đi buôn bán làm ăn mà. Chắc chú em thấy anh ăn mặc lam lũ nên nghĩ anh là dân vô học? Nói thực, anh mày là dân vô học thực, nhưng ông anh con ông bác của anh hiện làm ở sở ngoại kiều Phòng Thành…

                    – Làm ở sở ngoại kiều mà ông ta không lo được cho mình đoàn tụ với gia đình ở bên Anh?

                    Ông Phùng vỗ hai bàn tay đánh đốp một cái, nghe to như tiếng pháo, làm tôi giật mình. Ông nói:

                    – Thì chính hắn còn khó khăn như vậy, nói chi chú mày.

                    Tôi thắc mắc:

                    – Còn nếu Trung Quốc không chấp nhận cho tôi tỵ nạn chính trị thì sao?

                    – Nếu vậy thì Trung Quốc có quyền trục xuất chú mày, và chú mày phải rời Trung Quốc trong một thời hạn nhất định. Khi đó, nếu có quốc gia nào nhận cho chú mày nhập cảnh thì chú mày tới quốc gia đó. Còn không, thì chú mày sẽ bị giải giao cho Việt Cộng.

                    Tôi bần thần cả người. Nếu đúng như lời ông Phùng nói, tôi phải ở lại Trung Cộng cả chục năm nữa hay sao? Tôi hỏi tiếp:

                    – Tại sao những người tỵ nạn đến các quốc gia như Hồng Kông, Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương… thì họ được gia đình bảo lãnh, đoàn tụ nhanh chóng là thế nào?

                    Ông Phùng cười ha hả:

                    – Chú mày phải hiểu, những nơi đó khác, còn Trung Quốc khác. Những nơi đó được LHQ công nhận là những đệ nhị quốc gia, có trách nhiệm tiếp nhận người tỵ nạn đến tự đệ nhất quốc gia là Việt Nam, để rồi chuyển tiếp những người tỵ nạn đó đến định cư tại các quốc gia đệ tam. Còn Trung Quốc thì không được hưởng tiêu chuẩn là đệ nhị quốc gia, mà phải là đệ tam quốc gia, có nghĩa là Trung Quốc không có quyền chuyển tiếp người tỵ nạn mà phải định cư người tỵ nạn…

                    – Như vậy có nghĩa tôi không thể được định cư ở Úc, Mỹ như là những người tỵ nạn chính trị.

                    Ông Phùng lắc đầu:

                    – Không, không tài nào được, nếu chú em từ Trung Quốc đến Mỹ, Úc. Nếu chú em muốn định cư ở Mỹ, Úc như là những tỵ nạn chính trị, thì trước hết, chú mày phải đến những quốc gia đó hoặc đến các tòa đại sứ, lãnh sự của họ để xin tỵ nạn. Còn đây là lãnh thổ của Trung Quốc, và như chú mày đã nói đó, chú mày viết đơn cho ông Hoa Quốc Phong, xin được tỵ nạn chính trị tại Trung Quốc thì Trung Quốc lấy tư cách gì cho chú mày sang định cư ở Mỹ, Úc.

                    Tôi tuyệt vọng:

                    – Như vậy là không còn cách nào ngoái cách chờ 10 năm?

                    Ông Phùng trầm ngâm rồi gật đầu:

                    – 10 năm hoặc hơn.

                    Tôi thở dài không nói và chán nản chẳng buồn nhấc chén đũa. Ông Phùng nhìn tôi một lúc, rồi tiếp:

                    – Dĩ nhiên là còn một cách khác…

                    Tôi nhìn ông chờ đợi. Ông nhìn tôi và nói chậm rãi:

                    – Chú em phải trốn sang Hồng Kông.

                    Tôi thảng thốt:

                    – Trốn sang Hồng Kông?

                    Ông Phùng gật đầu:

                    – Trốn sang Hồng Kông, khai mình là người tỵ nạn đi từ Việt Nam. Khi đó, chính quyền Hồng Kông sẽ chấp nhận cho chú em vô trại tỵ nạn chờ đi định cư ở Mỹ, Úc, đoàn tụ với gia đình.

                    Tôi thấy có tia hy vọng, dù là rất mong manh:

                    – Mà làm cách nào để có thể trốn đi Hồng Kông?

                    Ông Phùng nghiêng bình tam xà tửu. Tửu lượng của ông thật khủng khiếp. Cả bình rượu gần hai lít, tôi chỉ uống có ba, bốn ly là cùng, còn ông uống liên tục, nay đã gần cạn. Ngửa cổ uống hết ly rượu một hơi, ông nói:

                    – Từ Việt Nam sang đến đây khó khăn là thế mà chú mày còn đi được, thì từ đây đi Hồng Kông đâu có khó khăn gì. Hoa kiều ở đây họ đi rần rần, bộ chú mày không biết chuyện đó sao?…

                    – Từ Việt Nam sang đây tuy khó khăn, nguy hiểm, nhưng tôi vẫn thoát được đến đây là nhờ cùng ngôn ngữ. Còn ở đây đi Hồng Kông đối với tôi khó khăn vô cùng, vì tôi không biết nói tiếng Hoa…

                    Ông Phùng gật đầu:

                    – Chú em nói điều đó có lý chứ không phải không. Nhưng bất đồng ngôn ngữ không phải là điều quan trọng cản trở chú em đi từ Bắc Hổi đến Hồng Kông. Vì nếu chú mày lên Bắc Hổi, chú mày sẽ thấy ở đó, người Hoa nói rặt tiếng Việt không à.

                    Nghe ông Phùng nói vậy, tôi mừng quá, vội năn nỉ:

                    – Ông biết vậy, xin chỉ dùm tôi, tôi sẽ đội ơn ông vô cùng.

                    Ông Phùng xua tay:

                    – Không có ơn nghĩa gì cả. Anh hùng thấy người hoạn nạn là giúp, chớ ơn nghĩa gì mà chú em kể lể làm cho nó giảm hào khí giang hồ đi… Cứ từ từ, anh sẽ nói đường đi nước bước cho chú mày. Còn nghe hay không là tuỳ chú mày…

                    còn tiếp

                    Comment


                    • TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

                      Hữu Nguyên


                      KỲ 99

                      Khi ông Phùng dốc bình rượu rót vừa được một ly cuối cùng, thì ông chủ quán A Thoòng bước vô, lặng lẽ đặt trên bàn bình rượu thứ hai, giống hệt bình rượu trước. Tôi ngạc nhiên, vì không thấy ông gọi thêm rượu gì mà sao chủ quán biết mang rượu vô thật đúng lúc. Hiểu được sự ngạc nhiên của tôi, ông Phùng xua tay:

                      – Ngạc nhiên hả? Chuyện nhỏ mà. Chú em đừng có tròn mắt ra nhìn như vậy. Anh của chú vô đây nhậu thường xuyên nên lão biết thói quen của anh, vậy thôi.

                      Châm thêm chút rượu vào chiếc ly còn trên lưng của tôi, ông dục tôi cạn ly. Tôi uể oải nhắp một chút rồi lo lắng chờ đợi. Ông Phùng ngửa cổ cạn ly, khà một tiếng khoái trá, rồi tiếp:

                      – Chú em biết không, trước đây ta đi buôn từ Việt Nam, suốt một dẻo Hải Phòng, Tiên Yên, Móng Cái, qua đến Trung Quốc, từ Đông Hưng đến Phòng Thành, Bắc Hổi, Quảng Châu, Hồng Kông… ta đi nhẵn cả. Nhưng trong gần đó nơi, chú mày muốn đến Hồng Kông thì phải đến Bắc Hổi, vì chỉ có Bắc Hổi là nơi chú mày có thể đến được.

                      – Tại sao không đi thẳng Quảng Châu? Tôi nghe nói Quảng Châu ngay cạnh Hồng Kông…

                      Ông Phùng xua xua tay:

                      – Chú lặng im nghe ta nói. Về cái khoản đường xá ở Trung Quốc, chú em không biết tí ti gì. Còn ta thì cả một miền duyên hải từ đây lên Hồng Kông ta rất rành. Vì vậy, chú mày không biết thì hỏi, ta sẽ giảng giải cho mà nghe.

                      Tôi ngồi lặng im. Ông Phùng nhìn tôi một lúc rồi thong thả:

                      – Chú mày không thể đi Quảng Châu vì mấy lẽ. Cái thứ nhất là từ đây đi Quảng Châu cả mấy ngàn cây số, tiền bạc, xe cộ, ăn ngủ rất khó khăn, mà chú mày thì bất đồng về ngôn ngữ. Còn Bắc Hổi thì từ đây đi chỉ bằng phần mười đường. Cái thứ hai là ở Bắc Hổi có rất nhiều người Việt tỵ nạn tụ tập, trong đó hầu hết là người Việt gốc Hoa, và có cả người Việt thuần tuý nữa.

                      Tôi ngạc nhiên:

                      – Ông nói ở Bắc Hổi có cả người Việt?

                      Ông Phùng gật đầu:

                      – Người Việt trăm phần trăm. Họ là những người vượt biên đi từ Việt Nam đến Hồng Kông. Trên đường đi họ phải ghé vô Bắc Hổi tránh bão, hoặc mua thêm lương thực, xăng nhớt… trước khi đi chặng chót thẳng tới Hồng Kông.

                      Tôi hỏi tiếp:

                      – Ông nói họ đi từ Việt Nam là từ những tỉnh nào?

                      – Đủ hết, Đà Nẵng, Nha Trang, ra đến Hải Phòng, Móng Cái, rồi cả Hà Nội nữa. Chú em biết không, anh nghe nói hiện ở Hồng Kông có cả mấy chiếc tàu sắt chở cả mấy ngàn người ở Hà Nội, Sàigòn,… đang neo ở Hồng Kông, chờ chính phủ Hồng Kông cho phép vô trại tỵ nạn.

                      Tôi băn khoăn:

                      – Vậy chính phủ Trung Quốc chấp nhận cho thuyền bè tỵ nạn Việt Nam ghé Bắc Hổi hay sao?

                      Ông Phùng gật đầu và giải thích:

                      – Chú em phải hiểu Trung Quốc vì bất đắc dĩ mà nhận mấy trăm ngàn người Việt gốc Hoa chứ trong thâm tâm, Trung Quốc không muốn tiếp nhận họ. Trung Quốc coi họ là dân có đầu óc tư bản đế quốc, ăn trắng mặc trơn quen rồi, nên nếu để họ ở Trung Quốc, họ lười lao động, như vậy sẽ nuôi ong tay áo, rất bất lợi cho xã hội. Vì thế, chính phủ Trung Quốc ngấm ngầm khuyến khích Hoa kiều cũng như người Việt gốc Hoa sau khi về Trung Quốc, nên tìm đường vượt biên sang Hồng Kông. Và Bắc Hổi chính là cửa ngõ để người Hoa ở Trung Quốc có thể trà trộn trở thành người Việt tỵ nạn vượt biên sang Hồng Kông… Đó là lý do khiến Trung Quốc nhắm mắt làm ngơ cho thuyền bè người tỵ nạn Việt Nam ghé vô Bắc Hổi.

                      Nói đến đó, ông Phùng bỗng hạ giọng:

                      – Nói thiệt cho chú em biết, chính quyền Trung Cộng không những cho phép thuyền nhân Việt Nam ghé Bắc Hổi mà họ còn bí mật tiếp tế lương thực, xăng nhớ, và cho tàu, kéo thuyền của người tỵ nạn tới thẳng hải phận Hồng Kông nữa đó.

                      Sau buổi ăn nhậu và nghe ông Phùng nói chuyện, tôi thấy buồn vô hạn. Nhưng dù sao, lúc đó, tôi cũng còn bán tín bán nghi những điều ông ta nói. Sau này, khi nhận được những văn thư từ chối không cho nhập cảnh của chính phủ Úc, Mỹ, tôi mới thấy lời ông nói là chí lý. Tôi cũng rất ngạc nhiên không hiểu tại sao ông Phùng lại biết nhiều hiểu nhiều đến như vậy. Cho đến năm 2005, Liên ở Anh Quốc có tìm tôi qua internet và được một người Việt ở Sydney cho cô biết địa chỉ email của tôi. Khi liên lạc được với tôi, Liên cho biết, Liên có gia đình bà dì mở tiệm ăn ở ngay tiểu bang NSW, nên nhờ vậy tôi mới hiểu rõ hơn về ông Phùng và người vợ Việt Nam của ông. Nhưng đó là chuyện mấy chục năm sau này. Hôm đó, sau khi hàn huyên câu chuyện về thị trấn Bắc Hổi, ông Phùng có mời tôi ghé lại trung tâm tạm cư của người Hoa hồi hương ở ngay Đông Hưng để gặp ông và hai mẹ con Liên. Lâu ngày tôi không còn nhớ tên trung tâm tạm cư này, nhưng đại khái, thời gian đó ở Đông Hưng, để tiếp nhận hàng chục ngàn người Hoa từ Việt Nam về, cho họ ở tạm trước khi phân loại đưa về nông trường, hoặc đi thành phố,… chính quyền Trung Quốc đã lập nên mấy trung tâm tạm cư ở ngay ngoại ô thị trấn Đông Hưng.

                      Khi tôi đến trung tâm hồi cư của người Hoa nơi có gia đình ông Phùng ở tạm, tôi thấy cả một biển người đông như kiến tụ tập quanh một vùng hoang vu, có hai, ba ngọn đồi và rừng cây lá thấp. Dưới chân những ngọn đồi này là những dòng suối quanh co trông rất thơ mộng. Nhưng lúc ấy, dọc theo dòng suối, trên những triền đồi thoai thoải, không biết bao nhiêu là lều, lán, tăng, võng, đủ loại, đủ kiểu, to nhỏ khác nhau. Cảnh nấu nướng, giặt giũ quần áo, người đi ngược, kẻ đi xuôi, huyên náo ầm ĩ cả một vùng.

                      Tôi đang bơ vơ, bỡ ngỡ không biết làm sao tìm được lều của ông Phùng thì bỗng nghe có người hát nho nhỏ bài Hạ Trắng… Vừa ngạc nhiên vừa mừng, tôi đi lại phía căn lều có tiếng hát. Trời lúc đó đã mùa đông lạnh lẽo, thêm gió ở triền đồi thổi lồng lộng, khiến cái lạnh càng thêm tê tái… Nhìn vào lều, tôi thấy có có mấy người đang quây quần quanh đống lửa, than đỏ hồng. Chỉ nhìn thoáng qua cách ăn mặc tôi cũng nhận ra có hai người từ Miền Nam, một người tuổi khoảng 50, thấp và nhỏ con, nét mặt xương, mắt to và sáng, tóc muối tiêu; một người tuổi khoảng 15, vóc dáng thư sinh, nước da trắng trẻo gò má ửng hồng, môi đỏ tựa thoa son, trông như con gái. Còn lại mấy người đang nói chuyện um xùm, nhưng nghe giọng, tôi biết ngay họ người Hải Phòng. Lui vào phía trong, cách biệt hẳn đám đông ồn ào bên ngoài là một người đàn ông, tuổi trạc 50, vận có một chiếc áo phong phanh, thái độ bất cần đời, nhưng đầy vẻ hào hoa phong lưu, và có nét mặt hao hao giống cậu bé 15 tuổi… Nhìn ông, tôi cũng đoán ngay, ông là người Miền Nam và là người Việt. Thấy tôi, người đàn ông vẫn thản nhiên và say sưa hát nho nhỏ bài Hạ Trắng… Mắt ông nhìn ra ngoài, nhưng có vẻ như nhìn vào một vùng xa xăm nào đó, không hề hiện hữu trước mắt…

                      Quần áo tôi mặc lúc đó do Chiêu Đãi Trạm Hồng Kỳ cung cấp mới mấy ngày hôm trước, tất cả đều mới tinh và cũng có 4 túi, giống hệt như đồng phục của cán bộ Trung Cộng hay mặc, nên khi đi vô trại hồi hương của người Hoa, ai nhìn tôi cũng nghĩ tôi là cán bộ Trung Cộng. Mấy người đang ngồi sưởi ở phía ngoài thấy tôi đều đon đả chào hỏi bằng tiếng Hoa. Tôi lúng túng bập bẹ trả lời bằng mấy tiếng Quảng mới học… Sau đó, nhìn người đàn ông mà tôi nghĩ là người Miền Nam, tôi hỏi bằng tiếng Việt:

                      – Xin lỗi anh cho tôi hỏi, anh có phải là người Việt từ Miền Nam?

                      Anh đó gật đầu, nhìn tôi, ánh mắt không giấu vẻ tò mò và ngạc nhiên. Tôi vội tự giới thiệu:

                      – Thưa anh, tôi tên Lai, cũng người Việt ra đi từ Miền Nam…

                      Anh hỏi ngay:

                      – Anh là Phạm Thái Lai?

                      Tôi ngạc nhiên:

                      – Ủa, sao anh biết?

                      Anh đứng ngay dậy đưa tay bắt, miệng nói đon đả: “Tụi tôi vẫn nghe mấy ông cán bộ Tàu cộng nói về anh. Nghe nói anh được ở khách sạn, ăn uống tiêu chuẩn “trung táo” sướng lắm phải không? Tôi là Thu…”

                      Đưa tay chỉ về phía người đàn ông đang ngồi phía trong, anh Thu tiếp:

                      – Còn kia là Tiến, trước là trưởng ty kiến thiết Hậu Nghĩa. Còn cậu này là Đức, con của Tiến… Rồi mời anh vô đây làm ly trà cho ấm bụng rồi tha hồ trò chuyện…

                      Gặp được các anh, tôi mừng quá. Thú thiệt, sau bao nhiêu ngày tháng xa rời Miền Nam, trên đường vượt biên đi qua bao nhiêu thành phố, thị xã, gặp không biết bao nhiêu người Việt trên đất Bắc, trong đó có cả những thân quen ruột thịt của tôi, nhưng ngoại trừ những người thân yêu nhất tôi tin tưởng, còn lại lúc nào tôi cũng thủ cẳng, vì hiểu rằng, guồng máy tuyên truyền của chế độ cộng sản, sau mấy chục năm đã biến mỗi người dân lương thiện ở Miền Bắc thành những người công an. Vì vậy, đây là lần đầu tiên, sau thời gian hơn một năm trời xa Miền Nam, tôi được trò chuyện một cách thoải mái, phơi bầy tất cả những điều tâm huyết của mình.

                      Anh Tiến khi biết tôi là Lai, cũng tươi cười niềm nở trò chuyện. Qua câu chuyện tôi được biết anh là kiến trúc sư, trước ở đường Phạm Hồng Thái, Sàigòn. Còn anh Thu làm kế toán cho nha kiến thiết, có người chị ruột còn kẹt ở Hải Phòng sau 1954, nên đã rủ hai bố con anh Tiến ra Bắc thăm người chị. Rồi hoàn cảnh run rủi, cả ba người liền trà trộn với người Hoa vượt biên sang Trung Cộng chót lọt từ mấy tháng trước, mà chẳng mất một lạng vàng nào. Hai anh cũng cho biết, có ý tìm đến chiêu đãi trạm Hồng Kỳ để thăm tôi, nhưng vì ngôn ngữ bất đồng nên chưa thể nhờ người đưa đi… Nhân dịp này, tôi cũng mách nước hai anh, viết đơn cho chính phủ Trung Cộng xin tỵ nạn chính trị để được đối xử thoải mái hơn. Tôi cũng trao đổi với các anh về những khó khăn trong việc đi định cư ở các quốc gia đệ tam như Mỹ, Úc… mà tôi đã nghe ông Phùng nói. Tuy nhiên, các anh tin tưởng, với vị thế của các anh trong quá khứ, cộng với tư cách tỵ nạn chính trị, và mối quen biết tại hải ngoại, các anh sẽ không gặp khó khăn trong việc xuất cảnh đến một cuộc gia đệ tam.

                      Trong những tuần lễ kế tiếp, của cuối năm 1978, mâu thuẫn giữa Trung Cộng và Việt Cộng ngày càng gia tăng, khiến tình hình biên giới Trung Việt tại Đông Hưng càng thêm căng thẳng. Xem ra, viễn ảnh một cuộc chiến tranh tại biên giới hai nước đang ngày càng cận kề…

                      Vào một buổi chiều gần Giáng Sinh, bỗng dưng cán bộ Ngô đến gặp tôi. Sau vài câu thăm hỏi xã giao, cán bộ Ngô cho biết:

                      – Hôm nay tôi đến để báo cho “đồng chí” biết, vì vấn đề an ninh tại Đông Hưng không bảo đảm, nên cấp trên quyết định cho đồng chí “sơ tán” về Phòng Thành, cách đây 50 cây số (lâu ngày tôi không nhớ chính xác, nên tạm coi là 50 cây số).

                      Vì trước đây ông Phùng đã nói cho tôi biết, Phòng Thành gần với Bắc Hổi, nên khi nghe cán bộ Ngô nói chuyển về Phòng Thành, tôi rất mừng. Giả vờ ngây ngô, tôi thăm dò:

                      – Thưa cán bộ, tôi thấy tình hình an ninh ở đây bảo đảm lắm. Có cho ăn kẹo, Việt Cộng cũng không dám gây hấn với Trung Cộng…

                      Cán bộ Ngô gật đầu:

                      – Chuyện đó thì chắc chắn không xảy ra. Nhưng trung ương đang có kế hoạch “sơ tán” toàn bộ mạng lưới dân cư, kinh tế, hành chánh, dọc theo biên giới trong phạm vi sâu 20 cây số…

                      Nghe cán bộ Ngô nói vậy, tôi ngạc nhiên nghĩ, chẳng lẽ Trung Cộng phải lo sợ, đề phòng một cuộc tấn công từ phía Việt Cộng? Lúc đó tôi đâu có biết, Trung Cộng đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc tấn công Việt Nam để “dậy cho Việt Cộng một bài học”.

                      Sực nhớ lời của ông Phùng nói về Bắc Hổi, tôi ướm thử:

                      – Thưa cán bộ, tại sao không cho chúng tôi sơ tán thẳng lên Bắc Hổi?

                      Cán bộ Ngô ngạc nhiên:

                      – Sao “đồng chí” biết Bắc Hổi?

                      – Tôi nghe mấy người Hoa về nước họ rủ nhau lên Bắc Hổi để vượt biên sang Hồng Kông, nên hỏi cán bộ vậy thôi.

                      Cán bộ Ngô gật đầu, nói giọng nghiêm trang:

                      – Nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa luôn luôn tôn trọng quyền tự do đi lại của mọi công dân. Ai muốn đi Bắc Hổi là quyền của của họ. Nhưng bất cứ ai vượt biên sang Hồng Kông là họ vi phạm luật pháp và họ sẽ bị trừng trị.

                      Tôi rụt rè:

                      – Như vậy chúng tôi có quyền đi Bắc Hổi được không?

                      Cán bộ Ngô gật đầu:

                      – “Đồng chí” có toàn quyền đi bất cứ nơi đâu trên lãnh thổ Trung Hoa, không một ai ngăn cấm, miễn hồ đừng có những hành động phạm pháp.

                      Chủ Nhật tuần đó, anh Thu, hai bố con anh Tiến và tôi đi chơi phố lần cuối, và chúng tôi chứng kiến những đơn vị bộ đội đầu tiên của Trung Cộng đổ về thị trấn Đông Hương, trong khi dân chúng, công nhân viên chức tại thị trấn, đang huyên náo “sơ tán”.

                      Ngày hôm sau, tôi cùng “sơ tán” với cả chiêu đãi trạm Hồng Kỳ. Trên đường “sơ tán” bằng xe tiến về Phòng Thành, chúng tôi chứng kiến không biết cơ man nào là binh lính, xe tăng, đại pháo… của Trung Cộng đang rầm rộ tiến về phía Đông Hưng….

                      còn tiếp
                      Last edited by BaNai; 04-30-2015, 04:35 AM.

                      Comment


                      • TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

                        Hữu Nguyên


                        KỲ 100

                        NPhòng Thành là một thị trấn có diện tích rộng hơn Đông Hưng, nhưng không khí buôn bán không sầm uất, thịnh vượng bằng. Cả thị trấn có một rạp hát, một cửa hàng bách hóa tổng hợp trong đó hầu hết các mặt hàng đều có tấm biển nhỏ ghi hàng chữ “hàng mẫu không bán, miễn hỏi”, một bến xe, một tiệm sách, vài tiệm ăn. Thị trấn chỉ thực sự có sinh khí từ 10 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Ngoài ra, thị trấn rất hoang vu, lạnh lẽo, đường phố vắng ngắt, với vài bóng điện lu mờ tỏa ánh sáng vàng vọt. Riêng những buổi chợ phiên thì đông đúc, tấp nập và huyên náo vô cùng.

                        Ngay khi về Phòng Thành, tôi được chuyển về sống với hai cha con anh Hoàng Văn Tiến và anh Nguyễn Văn Thu, tại một khu nhà riêng biệt, ngay cạnh dòng suối rất thơ mộng chảy qua thị trấn. Tại đây, chúng tôi được cung cấp gạo, thực phẩm và tiền để tự lo liệu mọi chuyện nấu nướng, ăn uống.

                        Mấy ngày sau, một nhóm người khác cũng đến ở với chúng tôi. Nhóm này có hơn chục người. Trưởng gia là bà Nguyễn Thị Trà, ngoài 50 tuổi, một thương gia thành công trước 1975. Đi với bà có cô con gái tên Dung, ngoài 20 tuổi và con trai tên Tuấn (?) 19 tuổi, em gái của bà Trà là chị Giang, 36 tuổi, và con gái của chị mới có 9 tuổi. Tất cả những người này đều sống ở Sàigòn. Ngoài ra, còn có ông em của bà Trà ở Hải Phòng, lâu ngày tôi quên mất tên, cùng với hai con trai của ông là Bình 25 tuổi và Hải 23 tuổi….

                        Theo lời kể của bà Trà thì gia đình bà rời Sàigòn từ đầu tháng 1 năm 1979, đến Hải Phòng trú ngụ ở nhà người em một thời gian, rồi cả gia đình bà và gia đình người em trà trộn với người Hoa, vượt biên qua Đông Hưng xin tỵ nạn chính trị ngày 15/2, sau tôi đúng 4 tháng rưỡi.

                        Bà Trà trước sống ở Lê Văn Duyệt, Sàigòn, có một người con gái tên là Hạnh, lấy chồng Mỹ tên là Richard Calvarado thì phải. Không hiểu trước 1975, ông này làm gì, nhưng vào thời điểm 1979, bà Trà cho biết, con rể của bà đang là giám đốc kế hoạch cho cơ quan United Way tại San Antonio, Texas.

                        Khi cả gia đình bà lớn bé già trẻ 14 người đến sống chung với chúng tôi, ai ai cũng rất vui mừng, mọi chuyện vui buồn của quê hương đất nước, của mỗi cuộc đời sau năm 1975 đều được mọi người chia sẻ, tâm tình thoải mái. Đúng là tha phương ngộ đồng hương cũng hạnh phúc không kém gì cố tri. Phần bà Trà là người giầu có, thêm tiền bạc của con rể con gái từ Mỹ gửi sang, phần bà tiêu pha hào phóng, xứng đáng là bà chị cả của “đại gia đình tỵ nạn”, nên chúng tôi thường xuyên thưởng thức những bữa ăn thịnh soạn do bà khoản đãi.

                        Bà thường đi chợ cùng với một người thông ngôn, để chính tay bà chọn những con gà, vịt, cá, tôm… to nhất và ngon lành nhất. Mua về, em gái bà là chị Giang và Dung con gái bà, cùng vô bếp nấu nướng với sự “tả phù hữu bật” của hai người cháu là Bình và Hải. Còn chúng tôi, anh Tiến và anh Hải đều ngoài 50 tuổi, được bà Trà coi như em, nên được ngồi trò chuyện với “Chị”. Riêng tôi gọi bà là bác xưng cháu, nhưng được bà rất thương yêu, nhất định không cho tôi nhúng tay vào bất cứ công việc gì.

                        Khi được biết, bà Trà có người con rể Mỹ đang làm giám đốc một công ty Mỹ, ba anh em chúng tôi đều nghĩ bà sẽ có cơ hội đi Mỹ nhanh hơn. Vì vậy, hai bố con anh Tiến và anh Thu đã chấp thuận đứng tên chung trong đại gia đình của bà Trà khi nộp đơn xin đi Mỹ. Riêng tôi vẫn một mình một đơn xin đi Úc.

                        Thời gian này tôi đã liên lạc được với gia đình ở Úc. Vì vậy, một mặt gia đình lo làm giấy tờ bảo lãnh cho tôi, mặt khác, gia đình cũng đã gửi tiền, quà, quần áo lạnh cho cả 4 anh em chúng tôi. Vì Phòng Thành là một thị trấn nhỏ, dân chúng sống rất lạc hậu, nên mỗi khi 4 người chúng tôi diện những bộ đồ lạnh của Úc đi dạo phố là cả một đám đông con nít vây quanh và đi theo, gây nên nhiều chuyện cười chảy nước mắt.

                        Một kỷ niệm vui buồn lẫn lộn nhưng thật ý nghĩa và đáng nhớ nữa là chuyến viếng thăm người em gái của anh Thu. Anh Thu trước quê ở Hải Phòng. Năm 1954, anh di cư vào Nam, sau làm kế toán cho Nha Kiến Thiết. Cuối năm 1978, anh trở về Hải Phòng thăm thân nhân, họ hàng, mới được biết tin về người em gái bị bắt cóc rồi bị bán sang Trung Quốc từ năm 1945. Nay chị ta đã lấy chồng và sống ở một vùng thôn quê hẻo lánh, lâu ngày tôi quên mất tên, cách Phòng Thành khoảng bốn chục cây số. Vì vậy, anh Thu muốn tất cả chúng tôi cùng ghé thăm gia đình người em của anh vài ngày.

                        Sau thời gian bàn bạc, xin phép cán bộ Ngô, chúng tôi lên đường đi thăm cô em của anh Thu. Sau chặng đường đi xe đò từ Phòng Thành đến thị trấn Sàng Pú (?), chúng tôi phải đi bộ khoảng trên dưới 10 cây số từ Sàng Pú đến làng, vì đường này không có bất cứ phương tiện chuyên chở công cộng nào. Điều ngộ nghĩnh nữa là theo lời dặn của cô em, anh Thu đã mua 4, 5 cặp ngỗng làm quà cho gia đình. Vậy là 4 anh em chúng tôi, trong 4 bộ đồ lạ lẫm không giống ai, lùa cả chục con ngỗng đi trên con đường quanh co của vùng sơn cước dẫn tới nhà em của anh Thu.

                        Thôn xóm của em gái anh Thu ở là một thôn xóm cách biệt hẳn văn minh của đô thị, dù là đô thị của Trung Hoa. Cả thôn không có đèn điện, không có bất cứ dụng cụ gì liên quan tới điện và cơ giới. Nhà nhà đều làm bằng đất trộn rơm, đắp thành từng tảng lớn chung quanh nhà, trên mái thì lợp rơm hoặc cỏ tranh. Trong nhà đồ đạc hầu như không có gì. Không bàn ghế, giường tủ. Mọi người ngủ ngay trên nền đất ẩm thấp, được lót sơ sài bằng ổ rơm, hoặc chiếu. Bếp đều đắp bằng đất, và tất cả mọi chuyện nấu nướng đều bằng chiếc chảo gang to đen sì. Nấu cơm xong, rỡ ra rá hoặc ra chiếc mâm bằng gỗ, rồi cũng chiếc chảo gang đó tiếp tục đun nước, nấu đồ ăn. Đồ ăn thường là canh muối nấu với đủ các loại rau hái ở ngoài vườn. Vật dụng duy nhất trong nhà mang dấu vết của “văn minh” là tờ lịch có hình Hoa Quốc Phong và bức tranh Mao Trạch Đông đang đứng dơ tay giữa Thiên An Môn.

                        Vì thôn xóm lạc hậu như vậy, nên chuyến viếng thăm của chúng tôi quả là một sự kiện gây chấn động cả thôn xóm. Cả xóm lũ lượt đổ tới coi hình dáng “ngoại nhân” và những bộ quần áo lạ lẫm, mầu sắc sặc sỡ. Nhiều người, nhất là con nít, chỉ thích rụt rè đưa tay sờ mấy chiếc áo len rực rỡ hình ảnh và màu sắc của tụi tôi. Khi cô em của anh Thu giới thiệu người này sẽ đi Mỹ, người kia sẽ đi Úc,… mọi người đều trầm trồ ngưỡng mộ, xuýt xoa khao khát ước mơ. Lúc đó, trong con mắt của người dân Trung Hoa nói chung và dân làng ở đó nói riêng, các quốc gia tự do phương tây, nhất là nước Mỹ, Úc, giống như thiên đàng hạ giới, họ chỉ được nghe mà chưa được thấy.

                        Em của anh Thu tên là Đông, một cái tên nghe thật héo hắt u buồn, đầy lạnh lẽo sầu khổ, giống như một tiền định cho cuộc đời của chị. Theo lời kể của anh Thu, chúng tôi được biết, tuổi của chị lúc đó chưa tới 50, nhưng nhìn chị già hơn tuổi. Nét mặt của chị lúc nào cũng đầy vẻ đăm chiêu, chịu đựng, cam phận. Riêng cặp mắt cuả chị thì đẹp và buồn vô cùng. Cả cuộc đời của tôi, cho đến bây giờ khi viết những dòng chữ này, tôi đã từng thấy không biết bao nhiêu nỗi sầu đau ẩn hiện trên ánh mắt của không biết bao nhiêu người, nhưng tôi chưa hề thấy cặp mắt người phụ nữ nào sũng buồn như mắt của chị. Kể từ ngày gặp chị cho đến nay đã ngót 30 năm, vậy mà bất cứ lúc nào, kể cả lúc tôi đang vui mừng hạnh phúc cùng người thân, hay say sưa bù khú bên ly rượu cùng bạn hữu,… hễ tôi bất chợt nhớ đến ánh mắt sũng buồn của chị, là tôi lại thấy lòng mình nao nao buồn và không nén được tiếng thở dài…

                        Ngay buổi tối hôm đó, bên ánh lửa bập bùng, trong nước mắt và bằng giọng nghẹn ngào sụt sùi, chị ngồi kể lại cho chúng tôi nghe cuộc đời của chị, từ khi chị bị bắt vào năm chị mới 15, 16 tuổi, rồi bị bán sáng Trung Quốc làm vợ một người đàn ông Trung Hoa ở thôn quê vùng sơn cước này suốt hơn 30 năm. Hơn 30 năm đó, chị đã phải chịu đựng không biết bao nhiêu nỗi khổ đau, chị đã khóc không biết bao nhiêu nước mắt, trong nỗi cô đơn của một người con gái phải ly biệt quê hương, nhớ thương cha mẹ, anh chị em,… và phải sống giữa những người hoàn toàn xa lạ, bất đồng về ngôn ngữ, phong tục, tập quán…

                        Suốt thời gian hơn 30 năm, chị được về thăm quê có một lần vào năm 1969. Nhưng lần đoàn tụ và hội ngộ đó cũng đầy đau khổ và nước mắt. Chị khóc khi thấy cha mẹ, anh chị em, quá túng thiếu, nghèo khổ. Chị ở Trung Quốc khổ vì đói cơm, vì nhớ nhung, nhưng cha mẹ anh chị em của chị ở Việt Nam thì ngay cả những thứ ăn độn như khoai, sắn, rau, củ chuối… cũng không có mà ăn. Thiệt xa thì đau lòng vì nhớ, đến khi gặp rồi thì thêm xót xa đau đớn vì thương. Vì vậy, khi chia tay về Trung Quốc, chị lại càng khóc thương, sầu khổ nhiều hơn mỗi khi nhớ đến người thân còn ở Việt Nam.

                        Cũng may, người chồng của chị rất thương yêu chị. Lớn hơn chị gần chục tuổi, nhưng ông có một thân hình cường tráng gân guốc, gương mặt quắc thước. Ông ngồi bên cạnh chị vững vàng như tảng đá tạc, im lìm hút thuốc bằng chiếc ống vố dài gần nửa thước. Suốt từ đầu đến cuối chuyện, ông chỉ lim dim cặp mắt mà nói rất ít, nhưng bàn tay ông xiết chặt bàn tay của vợ đã biểu lộ lòng yêu thương vợ tha thiết của ông.

                        Điều kỳ diệu là tuy xa quê nhà từ năm 15, 16 tuổi, nhưng chị Đông nói và viết tiếng Việt rất giỏi. Không những vậy, chị còn dậy cho các con nói và viết tiếng Việt thông thạo. Vì vậy, chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy các cháu con của chị đem cho chúng tôi coi những tập vở trong đó chép toàn những bài ca dao và thơ của Nguyễn Bính. Chị Đông và các cháu không những thuộc lòng những câu ca dao và thơ của Nguyễn Bính mà con biết hát quan họ bài “Trống Cơm” và bài “Người ở đừng về”. Thì ra, sống xa tổ quốc suốt mấy chục năm trời, tấm lòng thương quê nhớ nước của người thiếu phụ chỉ còn biết bấu víu vào những câu hát dân ca, những câu ca dao và những vần thơ của Nguyễn Bính, để duy trì ngôn ngữ Việt giữa một vùng thâm sơn cùng cốc của một đất nước mênh mông, dân cư đông đúc, có cả tỷ người nói tiếng Hoa.

                        Nói ra thiệt xấu hổ, tất cả mấy anh em chúng tôi, sinh ra và lớn lên trên quê hương Việt Nam suốt cả đời người, vậy mà không một ai thuộc lời hay biết hát bất kỳ một bài hát quan họ nào cho trọn vẹn, ngoại trừ anh Thu nhớ bập bõm vài câu trong bài “Trống Cơm”. Còn ca dao và thơ Nguyễn Bính thì anh Tiến và tôi cũng nhớ được một ít, nhưng không thuộc lòng từ đầu đến cuối như chị Đông.

                        Chúng tôi cảm động nhất khi nghe mấy mẹ con hát quan họ bài “Người ở đừng về”. Nghe hát xúc động quá, chúng tôi lấy giấy bút ra chép rồi cũng nghêu ngao hát theo, vừa hát vừa rưng rưng lệ: “Người ơi người ở đừng về. Người về em vẫn khóc thầm. Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa”….

                        Sau mấy ngày thăm viếng, cuối cùng chúng tôi phải từ giã mọi người, vì cán bộ Ngô chỉ cho phép chúng tôi đi có một tuần lễ. Chị Đông và mấy người con, cháu năn nỉ xin đi theo chúng tôi lên phố để chụp một tấm hình lưu niệm.

                        Đoạn đường chỉ ngắn ngủi có 10 cây số, nhưng là một kỷ niệm tuyệt vời… Sáng sớm hôm đó, chúng tôi đi trên những con đường quanh co của miền sơn cước, ẩn hiện giữa cả một biển sương mù, vừa đi vừa thấy thấp thoáng núi cao, rừng rậm, sông sâu, khiến tôi có cảm giác như được đi trên những con đường thỉnh kinh của thầy trò Tam Tạng, Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký. Trong cảnh sơn thuỷ hữu tình đó, chúng tôi cùng nhau hát vang bài quan họ “Người ở đừng về”: “Người ơi người ở đừng về. Người về em vẫn trông theo. Trông nước nước nước chảy, trông bèo bèo trôi”…

                        Những câu hát đó mãi mãi ngân nga trong lòng chúng tôi. Quả thật, chân bước đi rồi nhưng lòng chúng tôi vẫn quay trở lại… với cảnh với người… Và bây giờ khi viết những dòng chữ này, lòng tôi vẫn bồi hồi khi nhớ lại những ngày tháng ấm cúng tuyệt vời, đầy tình nghĩa giữa những người xa quê hương, để rồi thấy thật thấm thía câu thơ, “Khi ta đến, đất là nơi ta ở. Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”…

                        Thị trấn Sàng Pú (?) là một thị trấn nhỏ, nghèo, dân cư thưa thớt. Cả thị trấn chỉ có một tiệm hình duy nhất, với chiếc máy hình cổ lỗ sĩ. Nhưng con và cháu của chị Đông đều rất hồi hộp vì đây là lần đầu tiên họ được chụp hình. Sau khi chụp hình xong, chúng tôi mời chị Đông và mấy người con, cháu đi ăn ở tiệm ăn “tổng hợp”. Giống như hầu hết các tiệm ăn “tổng hợp” trong chế độ cộng sản, tiệm ăn ở Sàng Pú cũng nghèo nàn, bẩn thỉu và chỉ có hai món ăn là bánh bao và một loại phở. Nước uống chỉ có một loại nước chanh đường, không có đá. Chị Đông thì không có xa lạ gì những món ăn trong tiệm, nhưng với mấy người con, người cháu cuả chị, thì đây là lần đầu tiên họ được ăn phở.

                        Sau khi ăn uống xong, chúng tôi mua ít bánh bao, khăn mặt, xà bông thơm làm quà, rồi bịn rịn chia tay chị Đông vào buổi trưa hôm đó tại bến xe Sàng Pú. Ngồi trên xe, chúng tôi với tay qua cửa sổ bắt tay nhau lần cuối. Ai cũng sụt sùi rưng rưng lệ…. Khi xe vừa nổ máy, tôi thấy chị Đông và mấy người con, cháu đều ôm nhau khóc ngất. Chúng tôi cũng khóc… Xe chuyển bánh, ngoái nhìn lại phía sau, tôi thấy qua màn lệ, chị Đông và mấy người con, cháu, vừa ôm nhau khóc, vừa vẫy tay, vẫy tay… Rồi tất cả mờ dần, mờ dần, và khuất hẳn, để lại trong lòng mỗi người chúng tôi nỗi bâng khuâng, buồn bã khôn tả… Trĩu nặng niềm tâm sự của ly biệt, tất cả chúng tôi ngồi trên xe không ai nói với ai một lời, trên suốt chặng đường trở lại Phòng Thành.

                        còn tiếp

                        Comment


                        • TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

                          Hữu Nguyên


                          KỲ 101

                          Cuộc sống của chúng tôi ở Phòng Thành thật êm đềm. Phong cảnh Phòng Thành thơ mộng, sơn thuỷ hữu tình và người dân địa phương chất phác, tốt bụng, giầu lòng thương người. Tuy vốn liếng tiếng Hoa của tôi thật ít ỏi, nhưng nhờ học thuộc lòng một số câu, mồm miệng lại nhanh nhảu, nên được nhiều gia đình người Hoa thương, giúp đỡ rất tận tình. Tôi còn nhớ một câu Quan thoại tôi thuộc lòng thời gian đó, “Tráng lại ủa lỳ hối Trung Của, ủa xì xì hên chệt nỉ”, có nghĩa, “Tương lai tôi rời xa Trung Quốc nhưng tôi luôn luôn nhớ ông /bà /cô /bác /anh /chị…”. Mỗi khi tôi nói câu này, những người lớn tuổi hay đàn ông con trai thì vỗ tay tán thưởng cười nói vui vẻ; còn phụ nữ, nhất là các cô gái người Hoa thì đỏ mặt, ngượng ngùng, vì họ coi chữ “luôn luôn nhớ” hàm ý yêu đương trai gái.

                          Người dân Phòng Thành sinh sống bằng đủ thứ nghề, nhưng nghề tạo cho tôi nhiều thương tâm nhất là nghề “tả sẹc” (đập đá). Vì chảy qua Phòng Thành có một dòng sông lớn, vào mùa nước cạn, hai bờ sông tràn ngập các loại sỏi đủ cỡ to nhỏ. Người dân ra sông gánh sỏi đem về chất đống trước nhà, rồi vợ chồng, con cái, bất cứ ai, hễ có thì giờ là ra ngồi đập những viên đá sỏi vụn ra thành từng miếng nhỏ gọi là đá răm. Sau đó, những viên đá răm được đổ gọn thành từng thước khối, chờ người ở công xưởng lái xe đến đo mua, trả tiền, rồi chở đi.

                          Kỹ thuật đập đá ở Phòng Thành rất đơn giản và nguy hiểm. Nếu đá sỏi loại lớn, thì người đàn ông trong gia đình dùng những chiếc búa tạ đập ra thành những miếng nhỏ. Sau đó, ông bà già, phụ nữ, trẻ em trong gia đình, dùng những chiếc búa nhỏ đập cho những miếng đá đó thành đá răm, để dùng trong các công trình xây cất.

                          Thù lao cho nghề đập đá rất rẻ mạt. Nhưng hầu hết những người đập đá đều là người già, phụ nữ và trẻ em. Họ là những người không có một tay nghề căn bản nào để có thể kiếm ra tiền, cả ngày không biết làm gì, trong khi cuộc sống của gia đình thì quá thiếu thốn, nên bất cứ khi nảo rảnh rỗi, là họ phải đập đá để kiếm thêm tiền chi tiêu trong gia đình.

                          Những người dân đập đá đều không có găng tay, không có kiếng an toàn. Họ phải dùng những tấm vải rách đủ màu, đủ loại quấn kín chân tay, mặt mũi, chỉ để hở có hai con mắt. Vì vậy, có rất nhiều người bị tai nạn, đập búa vào các ngón tay, hay miểng đá văng vào mắt, vào mặt, vào tay chân… trong đó có những trường hợp trầm trọng bị mù.

                          Khi viết những dòng chữ này, tôi lại bùi ngùi nhớ đến Phòng Thành, hình ảnh của những con hẻm nhỏ chạy dài với những hàng cây, và trước mỗi căn nhà là những đống đá say ngủ, những người làm nghề “tả sẹc” âm thầm, cô đơn, thui thủi một mình, bất kể sáng tối, trưa chiều, mưa nắng, trong những bộ quần áo, giẻ rách nhiều hơn vải, và bộ mặt bịt kín, chỉ hở có hai con mắt. Tôi đã từng đến thăm những gia đình làm nghề “tả sẹc”, cảm khái chứng kiến những bà cụ, ông cụ, những em học sinh… chân tay, mặt mũi bị sẹo hoặc bị tàn tật chỉ vì đập đá.

                          Tuy chỉ mới sống ở Phòng Thành có vài tháng ngắn ngủi, chúng tôi đã thấy rõ sự khủng hoảng trai thừa gái thiếu tại Trung Hoa, hậu quả cuả chính sách 1 con cho một gia đình được áp dụng rộng rãi tại Trung Hoa trong suốt nhiều thập niên. Thường cứ vào buổi chiều, đàn ông con trai độc thân tụ tập trước cửa nhà trò chuyện, hoặc lang thang đi dạo phố để được đắm đuối ngắm vuốt trong tuyệt vọng những cô gái Trung Hoa thắt bím, đi nhanh như chạy. Bề ngoài những người đàn ông con trai vui vẻ cười đùa, nhưng trong thâm tâm, hầu hết đều lo nghĩ đến chuyện tìm kiếm một người phụ nữ làm vợ. Vì sự chênh lệch tỷ lệ giữa nam và nữ quá cao, cộng tình trạng con gái ở Phòng Thành đổ xô ra thành thị làm việc, nên lấy vợ tại Phòng Thành thời đó vừa tốn kém vừa rất vất vả cho người con trai. Ngoài những khó khăn trong việc kiếm được vợ, họ còn gặp khó khăn trong tài chánh. Tôi đã nghe nhiều chuyện, tình duyên của họ nửa đường đứt gánh vì tiền bạc không có, nhiều ông bố cả đời chỉ lo chắt bóp dành dụm để có đủ tiền lo đám cưới cho con mà cũng không đủ, dẫn đến không biết bao nhiêu bi kịch trong gia đình, ngoài xã hội. Thường, sau mỗi cuộc tình dang dở như vậy, người con trai đều bỏ Phòng Thành đi Nam Ninh, Quảng Châu hay Thượng Hải… nói là đi “kiếm tiền”, “đổi đời”, nhưng hầu hết là đi để tìm quên lãng, và rồi vĩnh viễn không thấy trở lại.

                          Trong thời gian này, gia đình bà Trà và anh Tiến, anh Thu thường xuyên gửi thư cho tòa đại sứ Mỹ ở Bắc Kinh, cũng như gia đình ở Mỹ để một mặt xin nhập cảnh Mỹ theo tiêu chuẩn tỵ nạn chính trị, mặc khác xúc tiến hồ sơ bảo lãnh vô Mỹ theo tiêu chuẩn đoàn tụ gia đình.

                          Ngày 28 tháng 3 năm 1979, bà Trà nhận được thư của tòa đại sứ Mỹ chính thức từ chối đơn xin vô Mỹ theo tiêu chuẩn tỵ nạn chính trị. Thư của tòa đại sứ Mỹ xác nhận, chương trình đặc biệt cho người Việt được nhập cảnh Mỹ theo diện tỵ nạn chỉ dành cho người Việt đang sống tại các trại tỵ nạn ở các quốc gia vùng Đông Nam Á và Hồng Kông. Thư cũng khẳng định trách nhiệm của Trung Quốc là định cư người tỵ nạn Việt Nam, trong đó có 200 ngàn người Việt gốc Hoa bị cộng sản Việt Nam cưỡng bức hồi hương, chứ Trung Quốc không có quyền chuyển tiếp người tỵ nạn đến các quốc gia đệ tam. Nói cách khác, Trung Quốc cũng như Hoa Kỳ là quốc gia đệ tam, phải có bổn phận chia xẻ gánh nặng tỵ nạn với Liên Hiệp Quốc. Cuối cùng thư của tòa đại sứ Mỹ cho biết, biện pháp duy nhất để gia đình bà Trà có thể nhập cảnh vô Mỹ là đoàn tụ gia đình. Và điều này tuỳ thuộc vào khả năng tài chánh, mối quan hệ của thân nhân bà Trà ở Hoa Kỳ, chiếu theo luật di trú của Mỹ.

                          Kèm theo thư là một xấp giấy tờ liên quan đến luật di trú, thủ tục xin chiếu khán nhập cảnh Mỹ… Như vậy là con đường có thể rời Trung Quốc chớp nhoáng để đi Mỹ theo diện tỵ nạn của gia đình bá Trà đã bị bế tắc. Còn con đường đến Mỹ theo tiêu chuẩn đoàn tụ gia đình thì rất nhiêu khê, phải mất ít nhất là 2 năm, theo lời trình bầy của cán bộ Ngô.

                          Trường hợp của tôi cũng tương tự như vậy. Ngay từ tháng 12 năm 1978, sau khi tôi đặt chân đến Trung Quốc được 2 tháng, gia đình tôi ở Úc đã nhờ Hội Tỵ Nạn Đông Dương gửi thư cho ông Michael MacKellar, tổng trưởng di trú, xin cứu xét cho nhập cảnh trên tiêu chuẩn tỵ nạn. Tuy nhiên đơn xin đã bị bác. Trong thư trả lời, bộ di trú Úc cũng khẳng định, thỏa thuận giữa Úc và Trung Hoa vào tháng 10 năm 1976 chỉ cho phép thường trú nhân hay công dân Trung Quốc được phép nhập cảnh Úc theo tiêu chuẩn đoàn tụ gia đình. Và thời gian để đi Úc theo tiêu chuẩn này cũng mất ít nhất 2 năm.

                          Đến lúc đó tôi mới thấy những lời giải thích của ông Phùng, ba của Liên thật chính xác. Thời gian phải chờ đợi 2 năm trời để được đến Mỹ, Úc, đối với chúng tôi quá khủng khiếp. Vì vậy, chúng tôi bàn đến giải pháp “vượt biên” tới Hồng Kông qua ngả Bắc Hải, theo như sự gợi ý của ông Phùng. Vấn đề được đặt ra lúc đó là làm sao chúng tôi có thể đến được Bắc Hải khi ngôn ngữ bất đồng, tiền bạc không có. Khó khăn nữa là lấy tiền đâu ra để chung cho chủ tàu? Số tiền cho một người đi từ Bắc Hải đến Hồng Kông lúc đó là 300 đến 500 đồng “nhân dân tệ” (tiền Trung Cộng). Đây là số tiền khá lớn, tương đương lương một năm của một công nhân viên chức Trung Cộng.

                          Ngoài ra, chúng tôi còn một khó khăn nữa là ai đi ai ở? Cá nhân tôi tuy mình đi một đường, nhưng lâu nay sống chung trong một mái gia đình nên cũng muốn cùng nhau chia sẻ hoạn nạn từ Phòng Thành đến Hồng Kông. Còn lại 14 người trong gia đình bà Trà, phần đông là đàn bà, con gái và con nít, không phải ai cũng chấp nhận phiêu lưu vượt biển sang Hồng Kông. Với những người này, thời gian chờ đợi 2 năm để được đi Mỹ an toàn bằng phi cơ vẫn là thượng sách. Riêng hai cha con anh Tiến và anh Thu vì đã vô chung một hộ với gia đình bà Trà nên cũng có tình gia đình, chẳng thể một sớm một chiều quyết định bỏ gia đình bà Trà lại để đi Hồng Kông.

                          Sau thời gian bàn bạc, chúng tôi tạm thời đi tới phương hướng, bà Trà, ông em của bà Trà cùng đàn bà và con nít khoảng chục người sẽ ở lại Trung Quốc chờ đợi giấy bảo lãnh chính thức vô Mỹ. Còn lại người con trai của bà Trà, hai người con trai của ông em bà Trà là Bình, Hải, và hai cha con anh Tiến, anh Thu, cùng với tôi sẽ tìm đường vượt biên sang Hồng Kông. Tiền bạc trả cho chủ tàu thì người nào đi, người đó lo. Tôi được mọi người cử đi Bắc Hải dò đường đi nước bước, tìm hiểu tình hình, và móc nối với chủ tàu. Trước khi đi, tôi viết vội lá thư gửi cho gia đình ở Úc, trình bầy hoàn cảnh khó khăn cùng quyết định của mình, và yêu cầu gia đình gửi gấp tiền sang để tôi trả tiền tàu, vượt biên sang Hồng Kông.

                          Thời gian đó, có rất nhiều người Hoa ở Chợ Lớn về ở Đông Hưng, Phòng Thành một thời gian, rồi bị đẩy về nông trường. Tất cả những người đó nhờ được sống trong chế độ Miền Nam tự do nên không một ai muốn ở lại Trung Cộng. Vì vậy, vượt biên sang Hồng Kông là con đường duy nhất họ chọn lựa để có thể tìm đến miền đất hứa. Những người bạn tôi quen ở Đông Hưng, Phòng Thành, như anh Vũ Quang Phong, Diệp Đức Tuấn, hai chị em Quan Trọng Hà, Quan Trọng Du, Liên, Ngọc… đều khuyên tôi vượt biên sang Hồng Kông. Nhưng khi đó, tôi còn tin tưởng vào con đường đi chính thức nên thờ ơ trước những lời khuyên của họ. Bây giờ khi con đường đi chính thức bị bế tắc, tôi cần tìm đến họ thì không biết họ ở đâu. Riêng ông Phùng lúc đó tôi cũng đã mất liên lạc nên tôi đành lên đường đi Bắc Hải một mình.

                          Trước khi đi, tôi lo ngại không biết có nên xin phép cán bộ Ngô không. Tôi có hỏi anh Tiến và anh Thu. Cả hai anh nói, nên xin phép, nhưng chỉ nói với cán bộ Ngô là đi Bắc Hải thăm bạn, chứ không nên nói đi tìm đường vượt biên.

                          Chiều hôm đó, tôi ghé chiêu đãi trạm, xin gặp cán bộ Ngô. Người tuỳ phái dắt tôi vô phòng khách chờ. Khoảng 5 phút sau cán bộ Ngô bước vô, đon đả chào hỏi. Tôi đi thẳng vào vấn đề:

                          – Thưa hôm nay tôi đến xin phép cán bộ cho tôi đi Bắc Hải thăm người bạn.

                          Cán bộ Ngô gật đầu:

                          – Nước “cộng hòa nhân dân” Trung Hoa là nước tự do. “Đồng chí” có có quyền đi bất cứ nơi đâu “đồng chí” muốn…

                          Tôi rụt rè:

                          – Thưa cán bộ, như vậy tôi có cần giấy phép đi đường gì không?

                          Cán bộ Ngô cười lắc đầu:

                          – Tôi đã nói với “đồng chí” là “đồng chí” có quyền đi bất cứ nơi đâu “đồng chí” muốn thì tại sao lại cần phải có giấy phép?

                          Nghe vậy tôi thở dài như trút được gánh nặng. Sự thực, tôi cũng hiểu, trong chế độ cộng sản Trung Hoa, “mỗi người dân là một người công an”, nên việc kiểm soát người lạ chặt chẽ và khôn ngoan hơn Việt Cộng nhiều. Giữa cả biển người đông hàng tỷ, nhưng quả thật “muôn người như một”, từ quần áo, giầy dép, cách ăn nói, nếp suy nghĩ, sở thích, cá tính… của cả tỷ người Trung Hoa đều giống nhau theo những khuôn phép nhất định, khiến bất cứ người lạ nào đến Trung Quốc đều cảm thấy lạc lõng và bị nhận diện một cách dễ dàng. Vì vậy, đi giữa xã hội đó, có giấy phép hay không có giấy phép đều không thành vấn đề, vì tôi vẫn bị cả một mạng lưới “công an nhân dân” theo dõi, giám sát khắp mọi nơi, mọi lúc.

                          Tôi cảm ơn cán bộ Ngô, rồi tính đứng dậy ra về thì cán bộ Ngô dơ tay ngăn lại và nói:

                          – “Đồng chí” lên Bắc Hải cần phải cẩn thận, vì ở nơi đó có rất nhiều cán bộ Việt cộng trà trộn với thuyền nhân đi từ Việt Nam sang. Chúng tôi tôn trọng quyền tự do đi lại của “đồng chí” nhưng chúng tôi cũng có bổn phận bảo vệ an ninh cho “đồng chí” khi nào “đồng chí” còn trên lãnh thổ của nước “cộng hòa nhân dân” Trung Hoa.

                          Tôi ngạc nhiên:

                          – Thưa cán bộ, chuyện đó có thật sao?

                          Cán bộ Ngô gật đầu:

                          – Nước Trung Hoa chúng tôi có 50 triệu Hoa kiều hiện sinh sống trên khắp bề mặt địa cầu, nên chúng tôi biết rất rõ tầm quan trọng của chính sách Hoa vận tại hải ngoại. Cộng sản Việt Nam cũng hiểu rõ điều này, nên việc họ cài cán bộ vào thuyền nhân Việt Nam là điều chắc chắn phải có. Vì vậy, khi “đồng chí” lên Bắc Hải, chúng tôi luôn luôn có người theo sát để bảo vệ, nhưng “đồng chí” cũng cần phải cẩn thận.

                          Nói xong, không cần tôi trả lời, cán bộ Ngô đứng dậy dơ tay bắt và nói tiếp:

                          – Tôi nghe nói, việc xuất ngoại sang Úc của các “đồng chí” đang gặp khó khăn, nếu chờ đoàn tụ gia đình thì phải mất vài năm. Vì vậy, khi nào các “đồng chí” muốn đi sang Hồng Kông để hợp thức hóa tư cách tỵ nạn, cứ cho tôi biết, tôi có thể giúp đỡ…

                          Nói đến đó, cán bộ Ngô dừng lại một chút rồi thân mật vỗ vai tôi nói tiếp, chậm rãi và nhấn mạnh:

                          – Dĩ nhiên là giúp đỡ… một cách không chính thức.

                          Tôi ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Trong vài phút đồng hồ tôi không hiểu cán bộ Ngô nói vậy là có ý gì. Vì vậy, tôi im lặng, đi theo cán bộ Ngô ra cửa. Tại cửa, cán bộ Ngô bắt tay tôi một lần nữa rồi chúng tôi chia tay…

                          Trên đường từ chiêu đãi trạm về nhà, tôi băn khoăn không hiểu lời của cán bộ Ngô là một lời “cảnh cáo khéo” ý đồ vượt biên sang Hồng Kông của chúng tôi, hay thực sự ông muốn giúp đỡ chúng tôi… Tôi quyết định đem điều đó bàn bạc với anh Tiến và anh Thu xem thế nào.

                          còn tiếp

                          Comment


                          • TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

                            Hữu Nguyên


                            KỲ 102

                            Cuộc sống của chúng tôi ở Phòng Thành thật êm đềm. Phong cảnh Phòng Thành thơ mộng, sơn thuỷ hữu tình và người dân địa phương chất phác, tốt bụng, giầu lòng thương người. Tuy vốn liếng tiếng Hoa của tôi thật ít ỏi, nhưng nhờ học thuộc lòng một số câu, mồm miệng lại nhanh nhảu, nên được nhiều gia đình người Hoa thương, giúp đỡ rất tận tình. Tôi còn nhớ một câu Quan thoại tôi thuộc lòng thời gian đó, “Tráng lại ủa lỳ hối Trung Của, ủa xì xì hên chệt nỉ”, có nghĩa, “Tương lai tôi rời xa Trung Quốc nhưng tôi luôn luôn nhớ ông /bà /cô /bác /anh /chị…”. Mỗi khi tôi nói câu này, những người lớn tuổi hay đàn ông con trai thì vỗ tay tán thưởng cười nói vui vẻ; còn phụ nữ, nhất là các cô gái người Hoa thì đỏ mặt, ngượng ngùng, vì họ coi chữ “luôn luôn nhớ” hàm ý yêu đương trai gái.

                            Người dân Phòng Thành sinh sống bằng đủ thứ nghề, nhưng nghề tạo cho tôi nhiều thương tâm nhất là nghề “tả sẹc” (đập đá). Vì chảy qua Phòng Thành có một dòng sông lớn, vào mùa nước cạn, hai bờ sông tràn ngập các loại sỏi đủ cỡ to nhỏ. Người dân ra sông gánh sỏi đem về chất đống trước nhà, rồi vợ chồng, con cái, bất cứ ai, hễ có thì giờ là ra ngồi đập những viên đá sỏi vụn ra thành từng miếng nhỏ gọi là đá răm. Sau đó, những viên đá răm được đổ gọn thành từng thước khối, chờ người ở công xưởng lái xe đến đo mua, trả tiền, rồi chở đi.

                            Kỹ thuật đập đá ở Phòng Thành rất đơn giản và nguy hiểm. Nếu đá sỏi loại lớn, thì người đàn ông trong gia đình dùng những chiếc búa tạ đập ra thành những miếng nhỏ. Sau đó, ông bà già, phụ nữ, trẻ em trong gia đình, dùng những chiếc búa nhỏ đập cho những miếng đá đó thành đá răm, để dùng trong các công trình xây cất.

                            Thù lao cho nghề đập đá rất rẻ mạt. Nhưng hầu hết những người đập đá đều là người già, phụ nữ và trẻ em. Họ là những người không có một tay nghề căn bản nào để kiếm ra tiền, cả ngày không biết làm gì, trong khi cuộc sống của gia đình thì quá thiếu thốn, nên bất cứ khi nảo rảnh rỗi, là họ phải đập đá để kiếm thêm tiền chi tiêu trong gia đình.

                            Những người dân đập đá đều không có găng tay, không có kiếng an toàn. Họ phải dùng những tấm vải rách đủ màu, đủ loại quấn kín chân tay, mặt mũi, chỉ để hở có hai con mắt. Vì vậy, có rất nhiều người bị tai nạn, đập búa vào các ngón tay, hay miểng đá văng vào mắt, vào mặt, vào tay chân… trong đó có những trường hợp trầm trọng bị mù.

                            Khi viết những dòng chữ này, tôi lại bùi ngùi nhớ đến Phòng Thành, hình ảnh của những con hẻm nhỏ chạy dài với những hàng cây, và trước mỗi căn nhà là những đống đá say ngủ, những người làm nghề “tả sẹc” âm thầm, cô đơn, thui thủi một mình, bất kể sáng tối, trưa chiều, mưa nắng, trong những bộ quần áo, giẻ rách nhiều hơn vải, và bộ mặt bịt kín, chỉ hở có hai con mắt. Tôi đã từng đến thăm những gia đình làm nghề “tả sẹc”, cảm khái chứng kiến những bà cụ, ông cụ, những em học sinh… chân tay, mặt mũi bị sẹo hoặc bị tàn tật chỉ vì đập đá.

                            Tuy chỉ mới sống ở Phòng Thành có vài tháng ngắn ngủi, chúng tôi đã thấy rõ sự khủng hoảng trai thừa gái thiếu tại Trung Hoa, hậu quả cuả chính sách 1 con cho một gia đình được áp dụng rộng rãi tại Trung Hoa trong suốt nhiều thập niên. Thường cứ vào buổi chiều, đàn ông con trai độc thân tụ tập trước cửa nhà trò chuyện, hoặc lang thang đi dạo phố để được đắm đuối ngắm vuốt trong tuyệt vọng những cô gái Trung Hoa thắt bím, đi nhanh như chạy. Bề ngoài những người đàn ông con trai vui vẻ cười đùa, nhưng trong thâm tâm, hầu hết đều lo nghĩ đến chuyện tìm kiếm một người phụ nữ làm vợ. Vì sự chênh lệch tỷ lệ giữa nam và nữ quá cao, cộng tình trạng con gái ở Phòng Thành đổ xô ra thành thị làm việc, nên lấy vợ tại Phòng Thành thời đó vừa tốn kém vừa rất vất vả cho người con trai. Ngoài những khó khăn trong việc kiếm được vợ, họ còn gặp khó khăn trong tài chánh. Tôi đã nghe nhiều chuyện, tình duyên của họ nửa đường đứt gánh vì tiền bạc không có, nhiều ông bố cả đời chỉ lo chắt bóp dành dụm để có đủ tiền lo đám cưới cho con mà cũng không đủ, dẫn đến không biết bao nhiêu bi kịch trong gia đình, ngoài xã hội. Thường, sau mỗi cuộc tình dang dở như vậy, người con trai đều bỏ Phòng Thành đi Nam Ninh, Quảng Châu hay Thượng Hải… nói là đi “kiếm tiền”, “đổi đời”, nhưng hầu hết là đi để tìm quên lãng, và rồi vĩnh viễn không thấy trở lại.

                            Trong thời gian này, gia đình bà Trà và anh Tiến, anh Thu thường xuyên gửi thư cho tòa đại sứ Mỹ ở Bắc Kinh, cũng như gia đình ở Mỹ để một mặt xin nhập cảnh Mỹ theo tiêu chuẩn tỵ nạn chính trị, mặc khác xúc tiến hồ sơ bảo lãnh vô Mỹ theo tiêu chuẩn đoàn tụ gia đình.

                            Ngày 28 tháng 3 năm 1979, bà Trà nhận được thư của tòa đại sứ Mỹ chính thức từ chối đơn xin vô Mỹ theo tiêu chuẩn tỵ nạn chính trị. Thư của tòa đại sứ Mỹ xác nhận, chương trình đặc biệt cho người Việt được nhập cảnh Mỹ theo diện tỵ nạn chỉ dành cho người Việt đang sống tại các trại tỵ nạn ở các quốc gia vùng Đông Nam Á và Hồng Kông. Thư cũng khẳng định trách nhiệm của Trung Quốc là định cư người tỵ nạn Việt Nam, trong đó có 200 ngàn người Việt gốc Hoa bị cộng sản Việt Nam cưỡng bức hồi hương, chứ Trung Quốc không có quyền chuyển tiếp người tỵ nạn đến các quốc gia đệ tam. Nói cách khác, Trung Quốc cũng như Hoa Kỳ là quốc gia đệ tam, phải có bổn phận chia xẻ gánh nặng tỵ nạn với Liên Hiệp Quốc. Cuối cùng thư của tòa đại sứ Mỹ cho biết, biện pháp duy nhất để gia đình bà Trà có thể nhập cảnh vô Mỹ là đoàn tụ gia đình. Và điều này tuỳ thuộc vào khả năng tài chánh, mối quan hệ của thân nhân bà Trà ở Hoa Kỳ, chiếu theo luật di trú của Mỹ.

                            Kèm theo thư là một xấp giấy tờ liên quan đến luật di trú, thủ tục xin chiếu khán nhập cảnh Mỹ… Như vậy là con đường có thể rời Trung Quốc chớp nhoáng để đi Mỹ theo diện tỵ nạn của gia đình bá Trà đã bị bế tắc. Còn con đường đến Mỹ theo tiêu chuẩn đoàn tụ gia đình thì rất nhiêu khê, phải mất ít nhất là 2 năm, theo lời trình bầy của cán bộ Ngô.

                            Trường hợp của tôi cũng tương tự như vậy. Ngay từ tháng 12 năm 1978, sau khi tôi đặt chân đến Trung Quốc được 2 tháng, gia đình tôi ở Úc đã nhờ Hội Tỵ Nạn Đông Dương gửi thư cho ông Michael MacKellar, tổng trưởng di trú, xin cứu xét cho nhập cảnh trên tiêu chuẩn tỵ nạn. Tuy nhiên đơn xin đã bị bác. Trong thư trả lời, bộ di trú Úc cũng khẳng định, thỏa thuận giữa Úc và Trung Hoa vào tháng 10 năm 1976 chỉ cho phép thường trú nhân hay công dân Trung Quốc được phép nhập cảnh Úc theo tiêu chuẩn đoàn tụ gia đình. Và thời gian để đi Úc theo tiêu chuẩn này cũng mất ít nhất 2 năm.

                            Đến lúc đó tôi mới thấy những lời giải thích của ông Phùng, ba của Liên thật chính xác. Thời gian phải chờ đợi 2 năm trời để được đến Mỹ, Úc, đối với chúng tôi quá khủng khiếp. Vì vậy, chúng tôi bàn đến giải pháp “vượt biên” tới Hồng Kông qua ngả Bắc Hải, theo như sự gợi ý của ông Phùng. Vấn đề được đặt ra lúc đó là làm sao chúng tôi có thể đến được Bắc Hải khi ngôn ngữ bất đồng, tiền bạc không có. Khó khăn nữa là lấy tiền đâu ra để chung cho chủ tàu? Số tiền cho một người đi từ Bắc Hải đến Hồng Kông lúc đó là 300 đến 500 đồng “nhân dân tệ” (tiền Trung Cộng). Đây là số tiền khá lớn, tương đương lương một năm của một công nhân viên chức Trung Cộng.

                            Ngoài ra, chúng tôi còn một khó khăn nữa là ai đi ai ở? Cá nhân tôi tuy đi một đường, nhưng lâu nay sống chung trong một mái gia đình nên cũng muốn cùng nhau chia sẻ hoạn nạn từ Phòng Thành đến Hồng Kông. Còn lại 14 người trong gia đình bà Trà, phần đông là đàn bà, con gái và con nít, không phải ai cũng chấp nhận phiêu lưu vượt biển sang Hồng Kông. Với những người này, thời gian chờ đợi 2 năm để được đi Mỹ an toàn bằng phi cơ vẫn là thượng sách. Riêng hai cha con anh Tiến và anh Thu vì đã vô chung một hộ với gia đình bà Trà nên cũng có tình gia đình, chẳng thể một sớm một chiều quyết định bỏ gia đình bà Trà lại để đi Hồng Kông.

                            Sau thời gian bàn bạc, chúng tôi tạm thời đi tới phương hướng, bà Trà, ông em của bà Trà cùng đàn bà và con nít khoảng chục người sẽ ở lại Trung Quốc chờ đợi giấy bảo lãnh chính thức vô Mỹ. Còn lại người con trai của bà Trà, hai người con trai của ông em bà Trà là Bình, Hải, và hai cha con anh Tiến, anh Thu, cùng với tôi sẽ tìm đường vượt biên sang Hồng Kông. Tiền bạc trả cho chủ tàu thì người nào đi, người đó lo. Tôi được mọi người cử đi Bắc Hải dò đường đi nước bước, tìm hiểu tình hình, và móc nối với chủ tàu. Trước khi đi, tôi viết vội lá thư gửi cho gia đình ở Úc, trình bầy hoàn cảnh khó khăn cùng quyết định của mình, và yêu cầu gia đình gửi gấp tiền sang để tôi trả tiền tàu, vượt biên sang Hồng Kông.

                            Thời gian đó, có rất nhiều người Hoa ở Chợ Lớn về ở Đông Hưng, Phòng Thành một thời gian, rồi bị đẩy về nông trường. Tất cả những người đó nhờ được sống trong chế độ Miền Nam tự do nên không một ai muốn ở lại Trung Cộng. Vì vậy, vượt biên sang Hồng Kông là con đường duy nhất họ chọn lựa để có thể tìm đến miền đất hứa. Những người bạn tôi quen ở Đông Hưng, Phòng Thành, như anh Vũ Quang Phong, Diệp Đức Tuấn, hai chị em Quan Trọng Hà, Quan Trọng Du, Liên, Ngọc… đều khuyên tôi vượt biên sang Hồng Kông. Nhưng khi đó, tôi còn tin tưởng vào con đường đi chính thức nên thờ ơ trước những lời khuyên của họ. Bây giờ khi con đường đi chính thức bị bế tắc, tôi cần tìm đến họ thì không biết họ ở đâu. Riêng ông Phùng lúc đó tôi cũng đã mất liên lạc nên tôi đành lên đường đi Bắc Hải một mình.

                            Trước khi đi, tôi lo ngại không biết có nên xin phép cán bộ Ngô không. Tôi có hỏi anh Tiến và anh Thu. Cả hai anh nói, nên xin phép, nhưng chỉ nói với cán bộ Ngô là đi Bắc Hải thăm bạn, chứ không nên nói đi tìm đường vượt biên.

                            Chiều hôm đó, tôi ghé chiêu đãi trạm, xin gặp cán bộ Ngô. Người tuỳ phái dắt tôi vô phòng khách chờ. Khoảng 5 phút sau cán bộ Ngô bước vô, đon đả chào hỏi. Tôi đi thẳng vào vấn đề:

                            – Thưa hôm nay tôi đến xin phép cán bộ cho tôi đi Bắc Hải thăm người bạn.

                            Cán bộ Ngô gật đầu:

                            – Nước “cộng hòa nhân dân” Trung Hoa là nước tự do. “Đồng chí” có có quyền đi bất cứ nơi đâu “đồng chí” muốn…

                            Tôi rụt rè:

                            – Thưa cán bộ, như vậy tôi có cần giấy phép đi đường gì không?

                            Cán bộ Ngô cười lắc đầu:

                            – Tôi đã nói với “đồng chí” là “đồng chí” có quyền đi bất cứ nơi đâu “đồng chí” muốn thì tại sao lại cần phải có giấy phép?

                            Nghe vậy tôi thở dài như trút được gánh nặng. Sự thực, tôi cũng hiểu, trong chế độ cộng sản Trung Hoa, “mỗi người dân là một người công an”, nên việc kiểm soát người lạ chặt chẽ và khôn ngoan hơn Việt Cộng nhiều. Giữa cả biển người đông hàng tỷ, nhưng quả thật “muôn người như một”, từ quần áo, giầy dép, cách ăn nói, nếp suy nghĩ, sở thích, cá tính… của cả tỷ người Trung Hoa đều giống nhau theo những khuôn phép nhất định, khiến bất cứ người lạ nào đến Trung Quốc đều cảm thấy lạc lõng và bị nhận diện một cách dễ dàng. Vì vậy, đi giữa xã hội đó, có giấy phép hay không có giấy phép đều không thành vấn đề, vì tôi vẫn bị cả một mạng lưới “công an nhân dân” theo dõi, giám sát khắp mọi nơi, mọi lúc.

                            Tôi cảm ơn cán bộ Ngô, rồi tính đứng dậy ra về thì cán bộ Ngô dơ tay ngăn lại và nói:

                            – “Đồng chí” lên Bắc Hải cần phải cẩn thận, vì ở nơi đó có rất nhiều cán bộ Việt cộng trà trộn với thuyền nhân đi từ Việt Nam sang. Chúng tôi tôn trọng quyền tự do đi lại của “đồng chí” nhưng chúng tôi cũng có bổn phận bảo vệ an ninh cho “đồng chí” khi nào “đồng chí” còn trên lãnh thổ của nước “cộng hòa nhân dân” Trung Hoa.

                            Tôi ngạc nhiên:

                            – Thưa cán bộ, chuyện đó có thật sao?

                            Cán bộ Ngô gật đầu:

                            – Nước Trung Hoa chúng tôi có 50 triệu Hoa kiều hiện sinh sống trên khắp bề mặt địa cầu, nên chúng tôi biết rất rõ tầm quan trọng của chính sách Hoa vận tại hải ngoại. Cộng sản Việt Nam cũng hiểu rõ điều này, nên việc họ cài cán bộ vào thuyền nhân Việt Nam là điều chắc chắn phải có. Vì vậy, khi “đồng chí” lên Bắc Hải, chúng tôi luôn luôn có người theo sát để bảo vệ, nhưng “đồng chí” cũng cần phải cẩn thận.

                            Nói xong, không cần tôi trả lời, cán bộ Ngô đứng dậy dơ tay bắt và nói tiếp:

                            – Tôi nghe nói, việc xuất ngoại sang Úc của các “đồng chí” đang gặp khó khăn, nếu chờ đoàn tụ gia đình thì phải mất vài năm. Vì vậy, khi nào các “đồng chí” muốn đi sang Hồng Kông để hợp thức hóa tư cách tỵ nạn, cứ cho tôi biết, tôi có thể giúp đỡ…

                            Nói đến đó, cán bộ Ngô dừng lại một chút rồi thân mật vỗ vai tôi nói tiếp, chậm rãi và nhấn mạnh:

                            – Dĩ nhiên là giúp đỡ… một cách không chính thức.

                            Tôi ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Trong vài phút đồng hồ tôi không hiểu cán bộ Ngô nói vậy là có ý gì. Vì vậy, tôi im lặng, đi theo cán bộ Ngô ra cửa. Tại cửa, cán bộ Ngô bắt tay tôi một lần nữa rồi chúng tôi chia tay…

                            Trên đường từ chiêu đãi trạm về nhà, tôi băn khoăn không hiểu lời của cán bộ Ngô là một lời “cảnh cáo khéo” ý đồ vượt biên sang Hồng Kông của chúng tôi, hay thực sự ông muốn giúp đỡ chúng tôi… Tôi quyết định đem điều đó bàn bạc với anh Tiến và anh Thu xem thế nào.

                            còn tiếp

                            Comment



                            • TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

                              Hữu Nguyên


                              KỲ 103

                              Ngay khi bước vô lán, tôi gặp anh Tiến và anh Thu. Anh Tiến bao giờ cũng nói năng chậm rãi, nhỏ nhẹ, từ ngữ cân nhắc. Anh Thu thì vui vẻ hoạt bát, tính tình nhanh nhảu, hay pha trò, tuy tuổi của anh hơn tuổi anh Tiến. Sau khi nghe tôi kể lại những lời nhắn gửi muốn giúp đỡ của cán bộ Ngô, cả hai anh đều vui vẻ đón nhận và coi đó là cơ hội để có thể thoát khỏi những năm tháng dài chờ đợi trên đất Trung Quốc. Hai anh cũng đồng ý, tôi nên đi Bắc Hải xem tình thế ra sao rồi sẽ cùng nhau bàn bạc kỹ hơn về ý định của cán bộ Ngô.

                              Ngày hôm sau, tôi đến Bắc Hải bằng xe đò. Đúng như ông Phùng nói, Bắc Hải lúc đó có rất nhiều thuyền bè đến từ Việt Nam, chở đầy người Việt tỵ nạn, trong đó hầu hết đến từ Miền Bắc. Trời lúc đó mới vào hè, nhưng khí hậu rất oi bức, mặc dù Bắc Hải là một thị trấn cảng nằm sát cạnh biển. Ngay khi đến Bắc Hải, tôi đã thấy cả một vùng đất khoảng một cây số vuông, dưới bến thì kín mít thuyền bè các loại, còn trên bờ thì san sát lều trại to nhỏ của người tỵ nạn.

                              Đang đi phất phơ trên bến, bỗng có người vỗ vai tôi thật mạnh cùng với tiếng la thiệt to:

                              – A Phàn!

                              Tôi giật mình quay lại…. và vui mừng nhận ra đó là ông Phùng. Cùng đi với ông có bà Hoa, cô bé Liên và hai người đàn bà nữa, trông lớn tuổi hơn bà Hoa. Hôm nay trời

                              nắng đẹp, nên hai mẹ con bà Hoa ăn vận rất giản dị. Bà Hoa mặc chiếc áo lụa màu hoa cà, tóc búi cao, dáng người thanh thoát, tươi trẻ. Liên cũng mặc áo lụa cùng màu, cổ quàng hờ chiếc khăn xoa màu kem trông rất nhã. Hai người đàn bà đi cùng tuy mặc đồ màu đen, nhưng vóc dáng cũng cao ráo. Trông bộ điệu e lệ và tuổi tác của hai người, tôi đoán, họ đều là vợ của ông Phùng.

                              Thấy tôi, ông Phùng quay lại nói tiếng Hoa với bà Hoa. Bà ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe, rồi quay qua tôi gật đầu chào nhẹ và cùng với Liên và hai bà đi thẳng vô bờ.

                              Ông Phùng quay qua vỗ vai tôi, nói giọng thân mật có chút kẻ cả:

                              – Đi, chú mày đi đánh chén với anh mày một bữa.

                              Tôi phì cười nghĩ bụng, hễ gặp ông này ở đâu là rủ ăn nhậu. Phần không đói, phần có công việc phải làm nên tôi vội vàng từ chối:

                              – Nói thực với ông, tôi lên đây có chút chuyện, rồi phải trở về Phòng Thành ngay chiều nay…

                              Ông Phùng cười ha hả:

                              – Chuyện gì cũng không quan trọng bằng chuyện chú mày định đi Hồng Kông, có phải không nào? Mà muốn đi Hồng Kông thì phải đánh chén trước đã…

                              Tôi ngạc nhiên:

                              – Ai nói với ông tôi định đi Hồng Kông?

                              Ông Phùng vừa kéo tay tôi đi vừa nói:

                              – Cần gì phải nghe ai nói. Những người như chú mày mà xuất hiện ở Bắc Hổi thì chỉ có tìm đường đi Hồng Kông thôi. Bây giờ kiếm cái gì đánh chén rồi anh sẽ bầy cách cho chú mày đi Hồng Kông ngon lành, chẳng tốn kém tiền bạc gì.

                              Nghe ông Phùng nói vậy, tôi bán tín bán nghi. Nghĩ lại những gì ông nói với tôi trước đây trong quán nhậu, sau đều trúng hết, nên tôi tin tưởng ngoan ngoãn đi theo ông.

                              Đi được mấy chục thước, ông kéo tôi chui vô một cái lán che bằng mấy tấm vải dù, buộc chung với hai ba tấm ni lông. Trong lán mùi thịt nước, mùi nước mắm tỏi chanh thơm lừng, cùng với tiếng hò hét huyên náo ầm ĩ của cả chục người đang nhậu nhoẹt. Vừa thò đầu chui vô, bỗng dưng mọi tiếng ồn ào trong lán im bặt. Rồi tôi chỉ nghe thấy có giọng hô thật lớn và đon đả: “Phùng tài gia, Phùng tài gia, mời vô, mời vô”.

                              Vì vừa ở ngoài trời nắng bước vô lán nên mắt tôi hoa lên, không nhìn thấy gì. Chút sau, quen dần ánh sáng trong lán, tôi mới nhận ra khoảng chục thanh niên ngồi dọc theo hai bên lán. Người nào người nấy tay chén tay đũa. Thì ra họ đang ăn dở, nhưng thấy ông Phùng vô nên lui ra ngoái để nhường chỗ cho ông. Tất cả đều im lặng, tỏ vẻ cung kính đối với ông Phùng. Còn lại, ngồi cạnh chiếc mâm đồng thật lớn ở giữa lán là hai người đàn ông lớn tuổi đều cởi trần. Trong mâm có hai đĩa thịt nướng thật lớn, tôi đoán một đĩa thịt heo, một địa thịt bò. Ngoài ra là đủ loại rau sống, chuối xanh nguyên quả, khế chua nguyên trái… chất đống trong một chiếc xoong nhôm thật to. Hơn chục chai bia của Trung Quốc để trong chiếc thau nhựa, đổ đầy nước. Một đống vỏ chai để ngổn ngang chung quanh.

                              Ông Phùng khoan thai ngồi xuống bên mâm, rồi ra dấu cho tôi ngồi theo. Ông chỉ hai người đàn ông giới thiệu một ông là bang trưởng của bang hội nào đó ở Hải Phòng thì phải; và một ông là quản tài của một tiệm buôn lớn lắm ở phố Hàng Buồm, Hà Nội. Hai ông trông đặc sệt người Hoa, nhưng nói tiếng Việt rất trôi chảy.

                              Chỉ tay vào tôi, ông Phùng chỉ nói vắn tắt, “Chú em ở Hải Phòng”, rồi thản nhiên cầm đũa chén. Cả hai vị bang trưởng và quản tài đều tỏ vẻ kính trọng đặc biệt ông Phùng, nên khi nghe giới thiệu tôi, cả hai vị đều quay sang tôi chắp tay nói “hân hạnh, hân hạnh”, làm tôi ngượng chín cả người, lúng túng không biết trả lời sao.

                              Trong bữa tiệc, hai vị bang trưởng và quản tài đều tận tâm thù tiếp, còn ông Phùng thì ăn uống tự nhiên như là ông chủ trong gia đình. Riêng tôi thì rụt rè, bỡ ngỡ vì không khí trong lán quá xa lạ.

                              Ăn uống trò chuyện xã giao một hồi, ông Phùng hỏi giọng oang oang:

                              – Vụ tàu của lão Bình đến đâu rồi?

                              Ông bang trưởng quay nhìn lão quản tài rồi hỏi, giọng lễ phép:

                              – Thưa lão Bình nào?

                              Ông Phùng gõ đũa vào chiếc xoong nhôm đựng rau kêu keng keng:

                              – Lão Bình tàu Thiên Vận chớ còn Bình nào?

                              Ông bang trưởng vỡ lẽ:

                              – À, lão đó thì chắc bị tù mọt gông rồi. Cả lão và mấy thằng phụ tá đều bị tụi Hồng Kông truy tố ra tòa tội buôn lậu người.

                              Ông Phùng quay sang tôi hỏi:

                              – Chú mày biết tàu Thiên Vận không?

                              Tôi chưa kịp trả lời “không biết” thì ông đã tiếp luôn:

                              – Nó là chiếc tàu sắt khổng lồ do tụi cộng sản tổ chức cho 3000 người Việt gốc Hoa đi chính thức, có hoa tiêu, ca nô của cộng sản hộ tống ra tận hải phận quốc tế. Mỗi người phải trả cả 20, 30 lượng vàng thì chú mày đủ biết tụi cộng sản Việt Nam nó vơ vét nhiều đến thế nào. Tàu này cập bến Hồng Kông nhưng bị chính phủ Hồng Kông treo giò, không cho ai vô…

                              Ông quản tài đỡ lời:

                              – Mà không phải chỉ có tàu Thiên Vận đâu thưa Phùng đại gia. Nội trong mấy tháng qua, có cả chục tàu sắt khổng lồ chở người cập bến Hồng Kông như tàu Huê Phong, Hải Hồng…

                              Ông bang trưởng gật gù:

                              – Tụi cộng sản Việt Nam nó bất nhân vậy đó. Còn chính phủ Trung Quốc cũng cho hoa tiêu, ca nô kéo tàu tỵ nạn đến Hồng Kông nhưng không lấy một xu nào. – Quay về phía tôi, ông tiếp – Như vậy “nỉ” thấy có đúng Trung Quốc nhân đạo hơn cộng sản Việt Nam không nào…

                              Tôi gật đầu đồng ý. Thời gian đó, những tên tàu như Thiên Vận, Huê Phong, Hải Hồng đối với tôi còn rất xa lạ. Sau này đặt chân đến Hồng Kông, nghe người tỵ nạn kể, tôi mới biết được cả một âm mưu buôn lậu người do cộng sản VN cấu kết với các băng đảng tội phạm quốc tế, trong đó có cả những người gốc Hoa ở Hồng Kông, Singapore, Nam Dương…, đã biến những chiếc thương thuyền bằng sắt thành những tầu chở người tỵ nạn khổng lồ, mang lại cho cộng sản hàng trăm ngàn lượng vàng.

                              Sợ tôi không hiểu rõ, ông Phùng quay qua giải thích:

                              – Chú em cũng biết đó, những thuyền nhân người Việt ở đây hầu hết là người Hoa ra đi từ Miền Bắc. Ngoài ra ở đây cũng có cả những thuyền của người Việt đi từ Đà Nẵng, Nha Trang, Hà Nội, Hải Phòng, Móng Cái, và nhất là vùng Trà Cổ. Một khi những thuyền đó ghé Bắc Hải, chính phủ Trung Quốc sẵn sàng giúp đỡ, mà không hề phân biệt thuyền đó đi từ đâu, chở người Hoa hay người Việt.

                              Tôi hỏi:

                              – Thưa ông, chính phủ Trung Quốc giúp đỡ như thế nào?

                              Ông Phùng giơ tay bấm từng đốt, miệng nói:

                              – Giúp lương thực, thực phẩm, nước uống, nhiên liệu, thuốc men… là một. Sửa chữa tàu bè, bảo đảm an toàn trên biển là hai. Những ai ốm đau sẽ được đưa vô bệnh viện chữa trị là ba. Cho ca nô kéo thuyền đến tận hải phận Hồng Kông là bốn…

                              Quay sang phía bang trưởng và quản tài, ông Phùng chỉ tay về phía tôi và nói:

                              – Chú em tôi đây muốn đi Hồng Kông, liệu hai ông giúp đỡ được hay không?

                              Ông bang trưởng hỏi:

                              – Chú em không phải là người Hoa?

                              Tôi chưa kịp lên tiếng, ông Phùng đã trả lời:

                              – Không, chú ấy là người Việt hoàn toàn. Và không có tiền bạc gì cả.

                              Ông bang trưởng có một thoáng ngần ngại. Ông quản tài nhanh nhẩu:

                              – Thưa ông, chuyện đó đâu có khó. Mấy chiếc thuyền đi từ Trà Cổ cũng rặt người Việt không à. Mình xuống đó nói với họ một tiếng là họ nhận lời ngay thôi. Có một người đi thì dễ quá mà, tiền bạc khỏi lo.

                              Tôi rụt rè thưa:

                              – Thú thực với các ông, chúng tôi có tất cả 7 người…

                              Ông Phùng ngạc nhiên, trợn mắt nhìn tôi:

                              – 7 người? Anh nhớ là gặp chú mày ở Đông Hưng, đi chỉ có một mình mà?

                              Tôi gật đầu:

                              – Dạ thưa ông khi đó thì chỉ có một mình. Nhưng về Phòng Thành thì tôi gặp một số người cùng cảnh ngộ, và nói thực với ông, hôm nay tôi đi Bắc Hải là tìm đường cho tất cả 7 anh em cùng vượt biên sang Hồng Kông.

                              Ông Phùng buông đũa thở dài nhìn bang trưởng và quản tài. Cả hai người này cũng lắc đầu. Tôi coi bộ mấy người không giúp được cả 7 người chúng tôi nên chán nản, muốn cáo lui. Biết ý, ông Phùng vỗ vai tôi và nói:

                              – Nếu đi cả 7 người thì quả thật anh không thể giúp chú mày được. Nhưng anh có một cách…

                              Tôi hy vọng:

                              – Thưa ông cách gì? Xin ông cứ nói, chúng tôi sẽ làm theo lời ông, và nếu thành công đến được Hồng Kông thì chúng tôi đội ơn ông vô cùng.

                              Ông Phùng xua tay:

                              – Ơn huệ gì. Giang hồ tứ hải, gặp nhau lúc khó khăn, anh có thể giúp chú mày hôm nay thì mai sau, thiên hạ giúp anh cũng vậy thôi. Bây giờ theo anh nghĩ, chú mày cứ về nói với tất cả mọi người cùng đến gặp cán bộ Ngô nói rõ là muốn đi Hồng Kông. Chắc chắn khi đó, cán bộ Ngô sẽ có biện pháp giúp…

                              Nghe ông nói vậy tôi ngạc nhiên vì ý kiến của ông Phùng lúc đó sao mà giống hệt lời hứa hẹn của cán bộ Ngô ngày hôm trước. Tôi chưa kịp hỏi tới, ông Phùng đã giải thích:

                              – Chú em phải hiểu, đảng và nhà nước Trung Cộng không muốn những người như chú em ở lại đây. Với chính sách mỗi gia đình chỉ được một con, mà dân ở đây cũng đã đông đến độ khủng khiếp, thì chính phủ đâu có muốn nhận thêm bất cứ ai. Cái thứ hai là những người từng sống trong các quốc gia tự do của tây phương như chú mày, ít nhiều cũng bị tiêm nhiễm tư tưởng tự do dân chủ của đế quốc. Những người như vậy nếu sống ở Trung Quốc sẽ là mầm mống tạo nên sự bất ổn cho xã hội ở đây. Vì vậy, họ phải tìm cách tống khứ những người đó ra khỏi Trung Quốc. Công khai họ không thể xua đuổi những Hoa kiều và những người tỵ nạn như chú mày. Nhưng âm thầm, họ sẽ bí mật giúp đỡ tất cả những Hoa kiều và những người tỵ nạn rời khỏi Trung Quốc. Chú mày cứ tin anh đi, bảo đảm là cán bộ Ngô sẽ giúp rất ngon lành…

                              Ông bang trưởng nói thêm:

                              – Nói để “nỉ” hiểu, ở đây lâu lâu, công an Trung Quốc lại dắt người xuống gửi gắm các chủ thuyền. Nay năm ba người, mai mươi người. Chuyện đó thường lắm. Tất cả các chủ thuyền đây đều sợ chính quyền Trung Cộng một phép, và đều mong công an đến gửi người vì thuyền nào được công an gửi người thì thuyền đó sẽ được ca nô, tàu kéo của nhà nước kéo đi Hồng Kông sớm.

                              Tôi hỏi:

                              – Nếu chúng tôi chấp thuận đi có trả tiền thì bao nhiêu tiền một đầu người?

                              Ông bang trưởng nói ngay:

                              – Tuỳ thuyền to nhỏ, tuỳ người lớn bé. Nhưng đại khái cao nhất là 500, thấp nhất là 300 nhân dân tệ (tiền của Trung Cộng, 1 nhân dân tệ xấp xỉ 1 đô la Úc lúc đó). Nếu “nỉ” có tiền, cứ đến đây gặp tôi, tôi sẽ giúp được dễ dàng.

                              Nghe những lời khuyên của ông Phùng tôi thấy hợp lý. Nhất là hôm trước, chính tai tôi đã nghe cán bộ Ngô hứa hẹn sẽ giúp đỡ không chính thức nếu chúng tôi có ý đi Hồng Kông. Như vậy tại sao tôi không về bàn bạc với anh Tiến và anh Thu để nói chuyện thẳng với cán bộ Ngô? Nghĩ vậy, tôi yên tâm, chào ông Phùng và hai người bạn của ông, lên đường trở về Phòng Thành với tất cả hy vọng và niềm vui…

                              Lúc đó tôi đâu có thể ngờ được, sau cuộc chiến tranh biên giới xua quân tiến chiếm 6 tỉnh phía bắc của Việt Nam vào tháng 2 năm 1979, cơ quan tình báo của Trung Cộng đã móc nối được Hoàng Văn Hoan và đang có âm mưu thành lập một “chính phủ Việt Nam lưu vong”. Với âm mưu này, cán bộ Ngô vừa nhận được lệnh lôi kéo những người Việt gốc Hoa, và đặc biệt là những người Việt hiện đang tỵ nạn trên lãnh thổ Trung Quốc, tham gia vào “chính phủ VN lưu vong”. Tôi cũng không thể ngờ được, trong số những người Việt ở Phòng Thành lúc đó, cán bộ Ngô vừa được lệnh cố gắng lôi kéo anh Hoàng Văn Tiến, kiến trúc sư, trưởng ty kiến thiết Hậu Nghĩa tham gia “chính phủ Việt Nam lưu vong” của Hoàng Văn Hoan….

                              còn tiếp

                              Comment



                              • TÔI ĐI TÌM TỰ DO (Nguyễn Hữu Chí)

                                Hữu Nguyên


                                KỲ 104

                                Chiều hôm đó tôi về đến Phòng Thành. Vừa bước vô nhà, anh Thu và anh Tiến đã vội kéo tôi ra ngoài bờ suối. Anh Thu hỏi tôi:

                                – Sao tình hình Bắc Hải thế nào? Có thuận lợi không?

                                Tôi vắn tắt thuật lại cho hai anh nghe những điều mắt thấy tai nghe ở Bắc Hải và những gợi ý của ông Phùng, nhưng giấu không cho hai anh biết, ông Phùng có lòng tốt muốn giúp tôi đi Hồng Kông mà không mất tiền. Thuật xong, tôi kết luận:

                                – Em thấy trong hoàn cảnh của mình bây giờ, muốn đi Hồng Kông dễ dàng, chỉ có cách làm theo lời của ông Phùng, đến nói thật với cán bộ Ngô để họ giúp đỡ là tốt nhất.

                                Anh Thu đáp ngay:

                                – Thì từ lúc cậu đi đến giờ, tôi cũng đã bàn với Tiến như vậy. Nếu cán bộ Ngô đã nói với cậu hôm qua như vậy thì mình đâu có ngại ngần gì nữa mà không nhờ họ giúp.

                                Anh Tiến chậm rãi hỏi anh Thu:

                                – Nhưng ông nghĩ sao về cuộc hẹn vào sáng mai?

                                Tôi ngạc nhiên:

                                – Hẹn ai vào sáng ngày mai?

                                Anh Thu trả lời ngay:

                                – Với cán bộ Ngô.

                                Tôi hỏi tới:

                                – Có chuyện gì vậy?

                                Anh Thu lắc đầu:

                                – Cũng không biết chuyện gì. Chỉ thấy cán bộ Ngô trực tiếp xuống lán mời mình họp vào 10 giờ sáng mai tại chiêu đãi trạm.

                                Tôi thắc mắc:

                                – Mời mình là mời cả lán gần hai chục người hay chỉ có mấy anh em mình?

                                – Chỉ có Tiến, tôi và cậu. – Anh Thu trả lời – Tôi có hỏi rõ là có mời mấy đứa Hải Phòng không thì cán bộ Ngô nói không.

                                Tôi băn khoăn vì từ khi chuyển về Phòng Thành, tất cả mấy anh em chúng tôi và 14 người của gia đình bà Trà, cộng với anh Chữ (đi lính cho Pháp, kẹt lại Miền Bắc sau năm 1954), đều được chính quyền Trung Quốc đối xử bình đẳng, không hề có bất cứ sự phân biệt nào. Hơn nữa, trong thời gian mấy tháng qua, mọi sinh hoạt của chúng tôi đều phẳng lặng, chỉ ăn ngủ và dạo phố, rất ít khi làm việc với cán bộ Ngô, đây là lần đầu tiên có cuộc hẹn hò tại chiêu đãi trạm.

                                Tôi hỏi anh Tiến:

                                – Anh nghĩ sao, họ hẹn mình có chuyện gì vậy?

                                Anh Tiến chậm rãi, vừa nói vừa suy nghĩ:

                                – Tôi cũng nghĩ nát óc, mà chưa đoán được chuyện gì.

                                Anh Thu dè dặt:

                                – Hay là họ chủ động đuổi khéo mình đi Hồng Kông?

                                Tôi hưởng ứng:

                                – Em cũng nghĩ vậy. Để mình ở đây chờ vài năm, lo chỗ ăn chỗ ở mà chẳng được tích sự gì thì họ đâu có muốn nuôi báo cô.

                                Anh Tiến lắc đầu:

                                – Tôi nghĩ chuyện đi Hồng Kông là chuyện nhỏ đối với họ. Nếu hôm qua, cán bộ Ngô đã nói với cậu là sẽ không chính thức giúp chúng ta đi Hồng Kông thì cán bộ Ngô không thể nào mời chúng ta ngày mai chính thức đến chiêu đãi trạm họp để bàn về chuyện đó.

                                Tôi thấy anh nói vậy có lý, nên im lặng. Anh Thu có vẻ lo lắng:

                                – Không bàn về chuyện đó thì chuyện gì?

                                Anh Tiến im lặng không nói. Tôi cũng lo lắng hỏi:

                                – Hay họ định gửi mình về nông trường?

                                Anh Tiến cười nhẹ:

                                – Cậu không nghe ông Phùng nói à? Những người như chúng mình ở Trung Quốc thêm ngày nào chỉ có hại cho chính phủ Trung Cộng. Như vậy dại gì họ cho mình về nông trường. Hơn nữa mình là người tỵ nạn chính trị, lại có thân nhân ở ngoại quốc, họ đâu được quyền cho mình về nông trường khơi khơi như vậy được.

                                Anh Thu không đồng ý:

                                – Bộ ông không đọc thư của tòa đại sứ Mỹ, Úc gửi tụi mình hay sao? Họ đã nói là chính phủ và nhân dân Trung Quốc có bổn phận định cư người Việt tỵ nạn đó thôi. Như vậy họ đưa về mình về nông trường thì đâu có gì sai trái.

                                Anh Tiến gật đầu:

                                – Tôi đồng ý với anh điều đó. Nhưng nếu họ có ý gửi mình về nông trường thì tại sao họ chỉ muốn gặp có 3 anh em mình? Tại sao họ không gặp chị em bà Trà và mấy đứa con của họ.

                                Lời giải thích của anh Tiến cũng hợp lý. Anh Thu cũng nhận ra điều đó nên anh lặng im không nói. Anh Tiến thong thả kết luận:

                                – Chuyện gì thì chuyện, cứ chờ ngày mai sẽ biết. Nhưng tôi dám chắc không có chuyện họ đưa chúng ta về nông trường đâu.

                                Tối hôm đó, chúng tôi thao thức không ngủ được. Ai cũng bồn chồn nghĩ đến buổi hẹn ngày mai không biết lành dữ như thế nào.

                                * * *

                                Sáng hôm sau, mới chín giờ kém, ba anh em chúng tôi đã lên đường đi bộ đến chiêu đãi trạm. Đó là đoạn đường ngắn khoảng 3 cây số, nên chưa tới 10 giờ, chúng tôi đã có mặt ở chỗ hẹn. Một nhân viên tóc hoa râm, ăn vận chững chạc, dắt chúng tôi vô phòng khách, nói chúng tôi ngồi chờ.

                                Đúng 10 giờ, cán bộ Ngô mở cửa mời chúng tôi theo ông. Anh Thu, anh Tiến và tôi, lần lượt đi theo ông đi dọc một hành lang dài, rồi bước vô một căn phòng rộng, bài trí đơn giản nhưng nghiêm trang. Ngay trước mặt là một bức hình Mao Trạch Đông thật lớn kín cả bức tường, khoác áo đại cán, tay cầm cuốn trước tác màu đỏ hướng về phía mặt trời đang mọc, tỏa sáng rực cả chân trời. Tường phía bên phải là treo quốc kỳ, quốc huy Trung Hoa và hai bức ảnh thật lớn, chân dung của Mao Trạch Đông và Hoa Quốc Phong. Giữa phòng là một chiếc bàn bằng gỗ dầy chạy dài, chung quanh có mấy chiếc ghế có nệm. Ngoại trừ 3 chiếc ghế ở giữa bàn và chiếc ghế đối diện là chưa có người ngồi, còn lại mỗi ghế đều có một cán bộ Trung Cộng mặc áo đại cán ngồi nghiêm chỉnh.

                                Cán bộ Ngô hướng dẫn chúng tôi ngồi vô ba chiếc ghế trống, sau đó ông đi về chiếc ghế trống đối diện chúng tôi rồi lặng lẽ và trịnh trọng ngồi xuống. Ở góc phòng phía bên tay phải có một người lính đứng nghiêm, thân hình cứng đơ như khúc gỗ. Không khí trong phòng nặng nề khiến tôi cũng bồn chồn lo lắng và bất an.

                                Gần một phút im lặng trôi qua, người ngồi ở ghế chủ tọa, ngay dưới hai bức chân dung Hoa Quốc Phong và Mao Trạch Đông, mới cất tiếng nói, giọng ề à, chậm rãi. Ông tương đối lớn tuổi, tóc đã hoa râm, khi nói ông đeo kính và trông vào tờ giấy trước mặt. Ông nói khá dài, khoảng hai mươi phút và chốc chốc ông dừng lại cho cán bộ Ngô thông ngôn cho chúng tôi nghe. Cả hai khi nói đều ngồi.

                                Đại khái ông nói về tình hữu nghĩ giữa hai dân tộc Việt Trung, sự giúp đỡ của Trung Cộng đối với Việt Cộng suốt từ thời chống Pháp đến cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước, giải phóng Miền Nam”. Rồi ông nói đến việc Việt Cộng đã cấu kết với Nga Xa phản bội Trung Cộng, thực hiện tham vọng bá quyền khu vực bằng cách tấn công Căm Bốt. Vì vậy, để dậy cho Việt Cộng một bài học, Trung Cộng đã mở màn tấn công Việt Cộng vào trung tuần tháng 2 và kết thúc vào trung tuần tháng 3 vừa qua. Ông cũng cho biết, trong thời gian một tháng, Trung Cộng đã mở mặt trận toàn diện các tỉnh vùng biên giới Việt Trung như Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh… tiêu diệt được hàng chục ngàn binh lính VC, “giải phóng” (?) được 4 thị xã và cầm tù hàng ngàn tù binh VC…

                                Sau một hồi cà kê nói về những chiến thắng vẻ vang của Trung Cộng, thái độ ngoan cố của Việt Cộng, ông đề cập đến trách nhiệm lật đổ chế độ cộng sản của người Việt yêu nước trong đó có chúng tôi. Ông nói:

                                – Thưa các “đồng chí” Việt Nam yêu nước. Trong tinh thần và trách nhiệm quốc tế của giai cấp vô sản, chính phủ và 800 triệu nhân dân Trung Quốc vĩ đại sẵn sàng hậu thuẫn người Việt Nam thực hiện mục tiêu cao cả, lật đổ chế độ cộng sản tại Việt Nam để mang lại hạnh phúc, cơm no áo ấm cho nhân dân Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh “dậy cho Việt Cộng một bài học” vừa qua, nhân dân Trung Quốc đã hy sinh xương máu để thực hiện mục tiêu cao cả đó. Trong tương lai, nhân dân Trung Quốc sẵn sàng tiếp tục hy sinh để “giải phóng” nhân dân Việt Nam khỏi sự kìm kẹp của bá quyền Việt Cộng. Tuy nhiên, cuộc cách mạng tại Việt Nam phải do chính người Việt Nam thực hiện. Vì vậy, tôi kêu gọi lòng yêu nước của các “đồng chí” Việt Nam ngồi đây, hãy cùng chung vai sát cánh với chúng tôi thực hiện bằng được cuộc cách mạng lật đổ cộng sản Việt Nam trong tương lai…

                                Nói đến đó ông nhường lời cho một cán bộ khác ngồi bên tay phải của ông. Sau khi nghe cán bộ Ngô thông ngôn lời của ông, tuy chưa rõ ràng, nhưng qua lời kêu gọi “chung vai sát cánh lật đổ Việt Cộng” chúng tôi đã linh cảm, ông muốn chúng tôi tham gia vào đội quân của Trung Cộng xâm lăng Việt Nam…

                                Người cán bộ thứ hai trẻ hơn ông cả chục tuổi, có giọng nói hùng hồn, khi nói ông đứng thẳng, tay chém chém vào không khí với dáng điệu quả quyết. Qua lời phiên ngôn của cán bộ Ngô, chúng tôi biết ông họ Lưu, là uỷ viên trưởng uỷ ban liên lạc Việt Trung cho “chính phủ Việt Nam lưu vong” tại Trung Cộng. Ông nói, hiện một “chính phủ VN lưu vong” đang được thành lập với sự hậu thuẫn tối đa về tiền bạc, nhân sự, phương tiện, vũ khí… của chính phủ và nhân dân Trung Cộng. Để có thể thu hút được sự hậu thuẫn của nhân dân Việt Nam cũng như của quốc tế, “chính phủ VN lưu vong” phải có đầy đủ các thành phần đại diện cho người Việt, nhất là những người Việt yêu nước gốc “chế độ cũ”…

                                Nhìn thẳng về phía chúng tôi, cán bộ Lưu hùng hồn:

                                – Các “đồng chí” là con dân nước Việt, lại là những người Việt trí thức yêu nước, các “đồng chí” không thể quay lưng lại với tổ quốc và nhân dân khi lịch sử lên tiếng kêu gọi. Bây giờ chính là giờ phút trọng đại của lịch sử, nên tôi kêu gọi các “đồng chí” hãy xứng đáng là những “Lôi Phong” của Việt Nam bằng cách tham gia “chính phủ VN lưu vong”. Tôi tin với sự hậu thuẫn vô cùng to lớn và vô điều kiện của chính phủ và 800 triệu nhân dân Trung Hoa, các “đồng chí” sẽ lập được những chiến công hiển hách lẫy lừng lịch sử. Chúng tôi đang chờ đợi ở sự hưởng ứng của các “đồng chí”…

                                Nghe cán bộ Ngô thông ngôn xong những lời nói hùng hồn của cán bộ Lưu, cả ba chúng tôi bàng hoàng ngây cả người. Nhất là lời kêu gọi chúng tôi thành những “Lôi Phong” của Việt Nam đã làm tôi kinh hoàng đến tê dại cả người. Sống trong chế độ cộng sản, tôi không lạ gì nhân vật Lôi Phong. Đó là một biểu tượng anh hùng cuồng tín trong chế độ cộng sản Trung Cộng, đã hy sinh cho đảng và Mao Chủ Tịch một cách ngu ngốc đến giọt máu cuối cùng. Anh Thu và anh Tiến tuy không biết Lôi Phong là ai, nhưng đại khái, hai anh cũng hiểu được cán bộ Lưu kêu gọi hai anh ở lại Trung Cộng tham gia “chính phủ VN lưu vong” để đánh Việt Cộng.

                                Cán bộ Ngô thông ngôn xong, mọi người im lặng nhìn về phía chúng tôi. Chúng tôi cũng ngồi im bất động vì không biết trả lời sao. Mọi chuyện xảy ra quá đột ngột, vượt xa sự tưởng tượng của chúng tôi. Một phút im lặng trôi qua, cán bộ Ngô cất tiếng, giọng hòa hoãn và niềm nở:

                                – Các “đồng chí” cứ vui vẻ thoải mái cân nhắc lời đề nghị của đồng chí Lưu. Đó chỉ là những gợi ý, những lời kêu gọi, chứ không hề có ý bắt buộc. Dĩ nhiên là tuỳ theo hoàn cảnh của mỗi người, các “đồng chí” có thể cống hiến cho cuộc cách mạng nhân dân lật đổ chế độ bá quyền Việt Cộng ở những cương vị khác nhau, mức độ và cách thức khác nhau…

                                Sau một lúc im lặng tiếp theo, anh Tiến dơ một ngón tay xin có ý kiến. Cán bộ Ngô sáng mắt nói ngay, giọng rất lịch sự:

                                – Xin mời “đồng chí” Tiến.

                                Anh Tiến đứng dậy, nói giọng chậm rãi:

                                – Chúng tôi rất cảm ơn chính phủ và nhân dân Trung Hoa đã chấp thuận cho chúng tôi hưởng quy chế tỵ nạn chính trị và đã tận tình giúp đỡ chúng tôi trong thời gian qua. Hôm nay qua lời của cán bộ Vương và cán bộ Lưu, chúng tôi cũng xin thưa là chúng tôi luôn luôn ước mơ một ngày không xa, chế độ cộng sản tại Việt Nam sẽ sụp đổ. Nhưng ngồi im nguyền rủa cho nó sụp đổ thì không bằng ra tay góp phần làm cho nó sụp đổ nhanh hơn. Người xưa đã nói, thà đốt một ngọn nến nhỏ còn hơn nguyền rủa bóng tối, có phải vậy không thưa quý vị? Vì vậy, chúng tôi rất hoan nghênh việc chính phủ và nhân dân Trung Hoa đã, đang và sẽ còn tiếp tục hậu thuẫn nhân dân Việt Nam thực hiện sứ mạng lật đổ chế độ “bá quyền” cộng sản Việt Nam…

                                Anh Tiến nói đến đâu, cán bộ Ngô mỉm cười, gật gù lia lịa đến đó. Mấy cán bộ người Hoa khác tuy không biết tiếng Việt, nhưng thấy thái độ của cán bộ Ngô như vậy, họ cũng gật gù tỏ dấu hoan nghênh. Khi anh Tiến nói đến hai chữ “bá quyền”, cán bộ Ngô khoái quá, dơ tay nhịp nhịp, bảo anh Tiến tạm ngưng để ông ta thông ngôn.

                                Quay qua mấy cán bộ người Hoa, cán bộ Ngô hùng hồn thông ngôn sang tiếng Hoa. Nghe xong, mấy cán bộ người Hoa vỗ tay hoan hô, xì xồ nói cười ầm ĩ. Tôi và anh Thu nhìn nhau lo lắng, vì không biết anh Tiến sẽ nói tiếp những gì…

                                Chờ cho mọi người im lặng, anh Tiến nói tiếp:

                                – Là những người Việt Nam yêu nước, chúng tôi rất đau đớn khi cộng sản Bắc Việt vi phạm hiệp định Ba Lê xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi cũng mong có ngày giải phóng quê hương, đất nước chúng tôi thoát khỏi ách đô hộ của cộng sản Việt Nam. Nhưng qua lời của cán bộ Lưu, chúng tôi muốn hỏi cho rõ,

                                nếu chúng tôi gia nhập “chính phủ VN lưu vong” là gia nhập như thế nào? Liệu chúng có phải cầm súng chiến đấu hay không? Cảm ơn quý vị.

                                Nói xong, anh Tiến thong thả ngồi xuống. Nghe anh Tiến hỏi, tôi liếc mắt nhìn anh Thu, thấy vẻ mặt của anh vẫn thản nhiên, nên tôi cũng im lặng giữ vẻ mặt thản nhiên. Cán bộ Ngô gật gù nhìn anh Thu và tôi như có ý hỏi chúng tôi có ý kiến gì không. Thấy cả hai im lặng, ông đứng lên quay về phía cán bộ Vương và cán bộ Lưu nói líu lô bằng tiếng Hoa. Hai bên nói qua nói lại bằng tiếng Hoa một lúc, rồi cán bộ Lưu đứng lên nói, cán bộ Ngô thông ngôn:

                                – Cảm ơn “đồng chí” Tiến đã hỏi một câu rất quan yếu. Như cán bộ Ngô đã nói lúc nẫy, khi tham gia vào “chính phủ Việt Nam lưu vong”, các đồng chí sẽ đóng góp theo đúng khả năng, kiến thức và cương vị của mình, và sẽ được đãi ngộ xứng đáng. Riêng “đồng chí” Tiến, với kiến thức của một công trình sư (kiến trúc sư), và chức vụ lãnh đạo trưởng ty kiến thiến của một tỉnh, tôi tin chắc là “đồng chí” sẽ đóng một vai trò trọng yếu bậc nhất trong “chính phủ VN lưu vong”. Nhất là hiện nay, theo tôi biết “chính phủ VN lưu vong” chưa có một gương mặt quan trọng nào của “chế độ cũ”, và chúng tôi hiện rất cần một nhân vật quan trọng như vậy trong “chính phủ VN lưu vong”. Vì vậy nếu “đồng chí” tham gia thì sẽ là một khích lệ to lớn cho chúng tôi. Nói vậy có nghĩa là khi tham gia “chính phủ VN lưu vong”, không bao giờ có chuyện các “đồng chí” phải cầm súng chiến đấu, mà chỉ đóng vai trò lãnh đạo, cố vấn, hoặc những công việc điều hành của trung ương. Câu trả lời của tôi như vậy không biết có thỏa mãn “đồng chí” Tiến không nhỉ?

                                Anh Tiến gật đầu nhẹ và nói nhỏ hai tiếng “Cảm ơn”, không nói gì thêm. Cán bộ Ngô hỏi anh Thu và tôi có ý kiến gì không. Chúng tôi đều lắc đầu nói nhỏ, “xin được suy nghĩ thêm”.

                                Sau đó, một số cán bộ hỏi chúng tôi về tình hình sinh hoạt, ăn uống, nguyện vọng, cùng vài câu thăm hỏi, chúc mừng xã giao… trước khi giải tán. Chúng tôi được cán bộ Vương, cán bộ Lưu và cán bộ Ngô tiễn ra tận cửa, và được xe riêng của chiêu đãi trạm chở về tận cửa lán.

                                còn tiếp

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X