Trở Về Quê Hương Bẽ Bàng
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 23
Trở Về Quê Hương Bẽ Bàng
Tình Hoài Hương
***
“Quê hương trái đất nửa vòng.
Ngày thương đêm nhớ, những mong ngày về”.
Trên không trung có vầng trăng sáng toả vằng vặc như chiếc dĩa bạc soi rõ mọi thứ trong góc phòng bệnh viện. Hành đứng lên lại nằm xuống, đi ra đi vô xem ti vi chiếu tin tức thế giới, xem “chuyện lạ Việt Nam”, thỉnh thoảng trên ti vi Mỹ chiếu đi chiếu lại những cuộc biểu tình gay gắt cũ sôi sục đêm ngày: Các phe nhóm chống chính phủ, các cấp lãnh đạo tôn giáo, các tổ chức chính trị, sinh viên học sinh rầm rộ phản đối, biểu tình, rối tung rối mù, mù… mịt trời đất, hầu hết diễn ra ở miền Nam Việt Nam.
Nỗi buồn đau bỗng trĩu nặng trên vai Hành, không biết làm gì hơn là tối ngày Hành soạn va ly ra coi những gói quà to tướng sẽ đem về tặng thân nhân ở quê nhà. Hành dùng chất vitriol rửa những hình thể đá thạch bóng ngời, trông giống như màu da thật. Hành lại bồi hồi thở vắn than dài, thẩn thờ đóng lại mấy cái va ly. Các bạn cùng khoá đã trở về Việt Nam lâu lắm rồi! Chỉ còn độc nhất mỗi mình "ta cứ nằm ù lì lại”. Trước khi về VN, các bạn đã đến chia tay anh, họ xúm lại chọc quê:
- Thôi, yên trí đi, mầy cứ ở lại Mỹ an giấc nghìn thu hen.
- Nằm nghỉ ngơi cho sướng cái đít đi.
- Còn sống, thì mầy chộp cổ ngay một con Mẽo, con Xì… là "xong bén đời giai”.
- Tầm bậy! Sao xúi hắn an giấc ngàn thu?
- Vì, không bao giờ có ai nói: An giấc ngàn Xuân cả.
- Vậy thì đừng biểu nó: An giấc ngàn Đông nghen?
- Hãy an giấc ngàn hạ xuống, để tàn đời trai cho rùi.
- Xuân, Hạ, hay với Thu?
- Ư hừ!
- Mầy théc méc mần chi hỉ! Hổng chịu mở méc ra, coi tụi tao tôm gốp thùng bẹc két rủng rỉnh "xung xướng” đem tiền Mỹ đi dzìa Việt Nam nè.
Những buổi tối, Hành nằm thao thức hằng giờ đăm đăm xem thời sự trên tivi, nhìn cảnh chiến tranh Sài Gòn đổ nát, chết chóc. Cộng sản tràn ngập vào Thủ Đô. Hành nghĩ thầm: “Thôi. Thế là hết”. Hành mòn mỏi chờ đợi chiến cuộc Tết Mậu Thân 1968 ở Việt Nam mau chóng chấm dứt, giảm bớt cường độ giao tranh. Hoặc là: đụng độ dữ dội giữa miền Nam Việt Nam và miền Bắc tạm lắng xuống, thì bằng mọi giá anh phải xin đi về Việt Nam. Mấy bạn Mỹ thường trêu:
- Làm sao anh về nước? Khi tay chân bó bột? khi chiến tranh đang xảy ra liên miên?
Đại bàng có bay xa bao nhiêu cũng phải dừng cánh, đàn ông có đi xa bao lâu cũng phải có ngày trở về nhà. Ở Việt Nam có thể có người muốn đi du lịch ra ngoại quốc, còn anh trải qua nhiều tháng năm sống "lây lất" ở nước ngoài rồi, nay anh nôn nao mòn mỏi ngóng trông mau chóng "tung cánh chim tìm về tổ ấm”, hạnh phúc thay khi có ngày mình được trở về quê mẹ thân yêu. Hành quyết chí gởi thư đến căn cứ Không-quân đòi họ cho phép anh trở về quê hương. Vì ít nhiều gì, Hành vẫn mang canh cánh bên lòng mối tình hoài hương. Vã lại, toàn bộ gia đình ba má, anh, chị, em, các cháu của mình ở Việt Nam mà. Cũng có thể là Hành còn nghĩ đến chút tình với Trân Thư.
Ngày ngày... chẳng biết làm gì ngoài việc giết thì giờ nhàn rỗi quá chán ngán, Hành cùng những anh quân nhân thương binh Không-quân Mỹ xúm lại coi thời sự trên ti vi, lúc nầy đài Mỹ chiếu đi chiếu lại chuyện lạ bốn phương "hot" nhất: ông Jean Bedel Bokassa đã tham gia trong đoàn quân viễn chinh Pháp. Ông qua Việt Nam hồi thập niên 1950, Jean Bedel Bokassa (thuộc bộ tộc M’Baka ở Phi Châu) sinh ngày 22-2-1921 tại làng Bobangui, cách xa thủ đô M’Baiki (Phi Châu Xích Đạo - Equatorial Africa). Năm 1950, Trung-sĩ-nhất Bokassa là quân tình nguyện của Lục-quân Pháp, thuộc binh chủng lính Lê Dương (Légion étrangère), khi ấy Trung Phi vẫn là thuộc địa của Pháp. Năm 1953, ông Trung-sĩ-nhất Bokassa 32 tuổi, đóng tại Chánh Hưng, Sài Gòn (quận 8 bây giờ). Thời gian sang Việt Nam tham chiến, chàng Lê-dương Bokassa tây đen tăng cường về Biên Hòa làm nhiệm vụ gác cầu ở Cù Lao Phố (cầu Gành), nơi Cầu Gành có một máy nước công cộng. Ông ta đã “tò te” với một bà Việt Nam xồn xồn Huệ nghèo gánh nước mướn ở Tân Thuận Đông. Họ thuê một căn nhà nhỏ ở Tân Thuận Đông, quận Nhà Bè, nơi đơn vị anh ta đóng quân gần cầu Tân Thuận. Khi Huệ có bầu, thì Bokassa buộc phải rời khỏi Việt Nam quay gót trở về cố hương. Bao nhiêu năm thăng trầm trôi qua, ông Jean Bedel Bokassa từ từ leo lên chức Tướng, rồi ông trở thành hoàng-đế Cộng-Hoà Trung-Phi. Tháng 1 năm 1966, Bokassa đảo chính, lật đổ David Dacko, tự lên làm tổng thống. Hoàng đế Jean Bedel Bokassa sực nhớ đến người tình cũ và con gái, ông bèn gởi một văn thư nhờ bộ Ngoai Giao Pháp, chuyển đến Bộ Ngoại Giao miền Nam Việt Nam Cộng Hoà: xin họ giúp ông tìm con gái ruột tên Nguyễn thị Martine. Bộ Ngoại Giao ráo riết tìm kiếm, nhưng không thể tìm ra Martine.
Họ bèn đem một cô gái lai da đen 19 tuổi tên Baxi (con bà Nguyễn Thị Thân ở Xóm Gà, Gia Định) giả làm con gái Tổng-thống Bokassa. Đúng là có một “nàng con” đến trình diện bộ Ngoại-giao, cô gái nầy làm thủ tục xuất ngoại. Tổng-thống vui mừng tổ chức buổi tiếp nhận con rất long trọng. Phần bà Huệ sanh con gái có làn da ngăm đen, và hơi ngà ngà, thì bà vui buồn lẫn lộn. Thời gian mấy năm đầu, thỉnh thoảng Bokassa và bà Huệ có liên lạc trao đổi tin tức, sau đó do hoàn cảnh mỗi người, nhất là không gian và thời gian xa cách biền biệt góc biển chân trời, dần dần họ vắng bặt tin tức. Lớn lên, Martine là một cô gái nghèo khổ hiếu thuận, ngoan ngoãn, chịu khó giúp mẹ làm việc vất vả khuân vác tại nhà máy Xi-măng Hà Tiên.
Nào ngờ, khi biết tin ấy, cậu ruột của cô gái Nguyễn Thị Martine đã đến toà soạn nhật báo Trắng Đen trình bày tự sự, kèm y chứng thư đầy đủ chính xác giấy tờ hộ tịch. Chính phủ và đồng bào khắp nơi ở miền Nam Việt Nam, “ồn lên” bàn tán sôi nổi về hai cô công chúa lọ lem. Không biết ai thiệt, ai giả? Tin nầy đến tai vua Cộng Hoà Trung Phi. Hoàng Đế Bokassa lại gởi văn thư khác, xin Tổng-thống Thiệu cho “cả hai cô công chúa” đi tuốt về thủ đô Bangui, thuộc Cộng Hoà Trung Phi. Phái đoàn đại diện cao cấp Cộng hòa Trung Phi lại sang Việt Nam & còn có: ông bà chủ nhiệm báo Trắng Đen, bà Nguyễn Thị Huệ, cô Martine, một tùy viên sứ quán Pháp đại diện Bộ Ngoại giao Pháp, và thông dịch viên. Họ đi Trung Phi.
Tổng thống nhận ra người tình cũ, và con gái “công chúa Martine”, nên càng vui mừng khôn xiết, ông ra lệnh tiếp đãi phái đoàn Việt Nam như thượng khách. Ông không ngần ngại nhận "cô Baxi giả công chúa" kia làm con gái nuôi. Bà Huệ trở về Việt Nam. Khi đó bà Huệ đã có chồng vẫn được lãnh trợ cấp mỗi tháng 200,000$ tại Pháp Á ngân hàng Sài Gòn do Tổng thống Bokassa cấp dưỡng. Thời điểm đó số tiền nầy rất lớn. Thật là chuyện hi hữu ngàn năm có một không hai. Hai nàng lọ lem sau những năm tháng trong đêm tối hãi hùng đói khổ ở quê nhà, hôm nay đã tót lên đỉnh cao sang, phú quý trong ngôi vị công chúa. Thật là đời lên hương ngát, “xung xướng” tê người. Chuyện duy nhất có thật, bàng hoàng thiệt.
***
Từ sự cương quyết của Hành, và do Thủy-quân Lục-chiến Hoa Kỳ, & Hạm-đội thứ Bảy can thiệp, lúc đó họ mới cho Hành biết: sẽ đưa anh trở về Việt Nam. Cuộc đi kéo dài hơn cả tháng, vì cứ bay “nhảy cóc” từ chỗ nầy đến nơi khác, như là mình đang bồng bềnh dạo chơi trên không trung du hí vậy. Thoạt đầu, họ mang anh ra phi trường khi Hành còn nằm trên cáng thương. Họ xách theo bốn va ly to tướng đầy nhóc quần áo, đồ đạc linh tinh & hai thùng carton to bự sư đựng quà dành riêng cho cô bồ, hai thùng nữa dành cho gia đình, xách tay samsonite đầy đủ thuốc men, do bác sĩ ghi toa chỉ định cách uống thuốc. Một mình Hành là “thượng khách chễm chệ” trên chiếc phi cơ rộng lớn. Trong buồng lái chỉ có: Phi hành đoàn. Tiếp viên hàng-không lo về việc ẩm thực. Bốn anh lính Không-quân thay nhau khiêng cáng, bưng đồ dùng của Hành. Hai bác sĩ quân-y. Một y-tá. & Lữ Phi Hành. Hết. Ngoài ra không có ai nữa.
Bay đến Colorado, nằm lại ba đêm. Rồi bay qua San Francisco, Hành nằm tại bệnh viện hai tuần. Hành ăn no rồi ngủ kỹ. Tự nhiên có một ngày thanh bình và trời quang mây tạnh, Hành được đám phóng viên, truyền thông ở Mỹ đến tận nơi dàn dựng quay phim, họ đưa anh "oai dũng" hí hửng leo lên... ti vi nữa. Tình cờ mà tức cười thật. Họ bảo:
- Anh cứ “giả đò, làm bộ làm tịch” như mình chính xác là thương phế binh gốc người Hoa sống ở Mỹ nhe. Anh cầm phone vui vẻ gọi về nhà, nói chuyện với thân nhân gia đình anh, nhe.
Thiệt tình! Xạo hết chỗ nói. Nằm tại San Francisco hai tuần, thì chiếc phi cơ C – 130 rất to, chở Hành đi. Lại vẫn chỉ có bấy nhiêu người cũ, tất cả lên phi cơ bay một lèo qua Clark Field (Phi Luật Tân). Họ lại đưa anh vô nằm trong bệnh viện đợi thêm hai tuần nữa. Ôi là ngao ngán và ớn bệnh viện lên tới cần cổ! Chỉ mong chờ bớt chiến sự ở miền Nam Việt Nam, thì anh mới được trở về, sẽ tính sau. Ngày đêm mòn mỏi chờ đợi... rồi đợi chờ, trông ngóng đợi chờ hoài mãi. Hành cảm thấy quá căng thẳng, lo âu, mệt mỏi, hết sức oãi và lâu quá chừng chừng!
Thế rồi buổi sáng Thứ Bảy khoảng đầu tháng Tư, năm Mậu Thân 1968, chiếc C-130 hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhứt. Mặc dù khi phi cơ còn lăn bánh chạy chầm chậm trên phi đạo, họ đã hạ cái bửng phía sau đuôi phi cơ xuống. Ngay lập tức có một chiếc xe cứu thương, một xe cứu hoả, chạy cặp sát hai bên hông chiếc phi cơ C -130 hai xe chạy rề rề theo. Hai anh lính phi công Mỹ, (ở bên xe cứu thương), liền nhanh nhẹn nhảy phóc xuống dưới đường phi đạo. Chạy bộ rất nhanh, họ bưng cái cáng thương trống không ở trên phi cơ xuống, họ chạy qua bên chiếc C-130 để "trao trả" cái cáng nầy cho Việt Nam. Đồng thời trên phi cơ, hai anh lính Mỹ lanh lẹ khiêng sẵn cáng “áp tải thương binh Lữ Phi Hành” tụt nhanh xuống đất. Họ giao cáng thương cho người đứng dưới đất ở Việt Nam nhận. Lúc ấy, từ trên cửa phi cơ họ thảy bốn chiếc va ly to tướng, mấy thùng carton lớn, cùng tất cả đồ dùng, chiếc xách tay đựng thuốc men của Hành qua xe cứu thương ở Việt Nam, khi phi cơ đang còn chạy chầm chậm, rề rề.
Phi cơ C-130 lo dzọt vút bay đi thật lẹ. Vì lúc nầy tất cả xe cứu thương, phi cơ, ai ai cũng đinh ninh mình đang ở trong tầm ngắm của hoả tiễn 122 hay 130 bên “phe kia”, nằm đâu đó ngoài vòng phi đạo, (mà lúc còn ở ngoại quốc mỗi ngày Hành nhìn trên ti vi các nơi, đều chiếu những đoạn thời sự nóng bỏng ở Tết Mậu Thân). Thế nên phi hành đoàn đã gồnh mình tới miền chiến tranh đang ì ầm, phải cẩn thận cảnh giác tối đa, họ dám liều mình mà bay trên không phận miền Nam, thì đã làm một nghĩa cử cao đẹp, rất can đảm phi thường và anh hùng rồi. Hành hết lòng cảm ơn chính phủ Hoa Kỳ. Phi cơ tăng tốc độ, chạy một đoạn ngắn thì cất cánh bay bổng. Hai chiếc xe cứu hoả, cứu thương lo rẽ vào đường Taxiway. Họ đưa Hành qua bên bệnh viện dã chiến số 3. (Third Field Hospital). Vài ông Mỹ ngồi bên cạnh nói:
- Are you crazy?
- Coming back to Việt Nam?
Phi Hành hoảng hốt la lên:
- Ô! Các anh lầm rồi. Tôi là người của bên Không-quân Việt Nam. Không phải bên Không-quân Hoa Kỳ.
Họ vội quay đầu xe, đem Hành bàn giao qua bên Không-quân Việt Nam. Úi Trời! May quá! nếu mà ông Mỹ kia không lên tiếng nói ra, chắc là anh sẽ “bị” quay trở về Mỹ mất rồi! Vô bệnh viện Cộng Hoà gặp bác sĩ Thành khám anh rất kỹ. Ông định cho Hành xuống nằm ở bệnh xá Không-quân, nhưng Hành năn nỉ bác sĩ:
- Em du-học suốt ba mươi lăm tháng rồi. Nhớ nhà lắm. Em còn chống nạn đi đứng tốt. Xin bác sĩ cho phép em về thăm ba má. Nhà em ở gần đây. Sáng thứ Hai, em xin trở vô bệnh viện.
- ... OK.
Thế là bác sĩ kêu xe cứu thương cho chở Hành về, xe đậu ngay trước cửa nhà. Hành mặc bộ quần áo ở bệnh viện vui vẻ háo hức hân hoan chậm bước dưới phố chiều Sài Gòn rực nắng tươi. Mọi người đi lui đi tới tấp nập, cảnh vật nhộn nhịp huyên náo lạ! Lòng anh cảm thấy vui và hồi hộp không thể tả! Hành bảo hai binh sĩ Việt Nam khiêng, xách, vát bốn va ly, mấy thùng quà bước vô nhà trước Hành. Ba của anh đang ngồi đọc báo trên sofa, ông đứng lên, dáo dác nhìn hai anh binh sĩ lạ, rồi ông nghiêng mình nhìn kỹ. Một lát sau ông liền chạy đến, ôm chầm lấy con trai lấp ló sau lưng mấy người lính, ông kêu lên rất to:
- Trời ơi! Thằng Hành đã về rồi nè. Má sắp nhỏ ơi...
Ba khóc. Hành khóc... má chạy ra, mừng rỡ níu lấy cổ con, hôn chùn chụt và khóc rống lên hu hu hu.... Các chị, em, ở trên lầu ba, lầu bốn, vụt chạy xuống, họ xôn xao mừng rỡ mà khóc oà. Cả nhà đều choáng váng và bất ngờ tột độ. Vì anh không hề báo trước về chuyện anh sẽ trở về Việt Nam. Hành muốn dành cho gia đình mình một sự ngạc nhiên thú vị mừng vui tuyệt vời. Thật là một cuộc đoàn tụ bất ngờ, kinh hoảng mà đầy nước mắt hân hoan vui mừng trào lên bờ mi “kịch tính”. Lạ lùng như vậy đó. Quả đất tròn vo, tưởng là to lớn lắm! Ấy thế mà, khi đi xa nửa quả địa cầu, nay quay trở về quê hương, hoá ra Hành vẫn thấy nhỏ ha.
Ngay lập tức, ba anh gọi phone cho “em Trân Thư iêu rấu” biết tin "ngày trở về (của anh thương binh)... anh bước lê trên quãng đưởng đê, đến bên luỹ tre, nắng vàng hoe...". Hành nóng lòng nóng ruột nôn nao đi ra, đi vào, chờ đợi cuộc trùng phùng thật tình cờ. Hành đang nằm lim đim trên sofa, thì cô ta đến. Trông Trân Thư chẳng vui vẻ, hân hoan mừng rỡ, hay lo âu cuống quít một mảy may gì! Nét ưu tư, lỡ làng dường như hằn rõ lên gương mặt Thư đã héo hon rồi. Thế là, Hành và cô ta lúng túng, e ngại hững hờ ngồi trên sofa, nói những câu chuyện hết sức vô duyên, nhạt nhẽo hơn nước ốc, gượng ép, ngượng ngùng và xa lạ, chả ra môn ra khoai. Cô ta luôn cúi đầu xuống, hay sượng sùng né tránh cái nhìn lặng lẽ của anh. Sau khi Thư cho Hành biết: cô ta đã đổi nhà, dọn lên đường Phan Thanh Giản, cô ta vội vội vàng vàng đứng dậy, cáo từ.
Cuộc gặp gỡ nầy chưa đầy mươi phút. Hành hẹn Thư hôm sau sẽ lên đón cô ta đi ăn sáng. Cô ta ấp úng, ngập ngừng, lưỡng lự, do dự ậm ự... nhẹ gật đầu. Bây giờ mặt đối mặt, diện kiến trực tiếp, anh kiểm chứng lại điều nầy: Thái độ ngượng ngùng của Thư trả lời anh rất chính xác, nên anh chuẩn bị tinh thần từ cái nhìn xa lạ, hững hờ dè dặt đầu tiên, chỉ sau hơn hai năm xa cách biền biệt, nay mới gặp lại. Không có gì khó hiểu đâu. Xa mặt cách lòng! dĩ nhiên có nhiều thay đổi khi con người không có sự trung kiên, không có tình yêu chân thật, không chung thuỷ, thì tình ấy như một món hàng, chỉ là sự chọn lựa trên địa vị, danh vọng và tiền tài, tình cảm dễ dàng thay đổi trong chớp nhoáng, bạc bẽo theo.
Hành đã biết ngay từ dạo ở Mỹ, nhưng anh còn "bán tín bán nghi", khi Thư nghe hung tin anh báo bị tai nạn phi cơ. Lẽ ra, như bao người yêu chân tình, hay những vị hôn thê thủy chung khác, họ sẽ tỏ ra cuống quít âu sầu, lo lắng, ngày ngày thư từ, hoặc gởi điện tín tấp nập hỏi thăm người yêu rối rít. Đằng nầy... lúc Hành vừa qua Mỹ trước khi anh bị tai nạn, mỗi tuần Thư viết cho anh ít nhất vài ba bốn lá thư dài. Nhưng sau khi biết “anh lâm nạn”, kể từ đó đến nay hơn mươi bốn tháng, thì cô ta đã tỏ ra lạnh nhạt, lâu thật lâu cô ta mới "nhỏ giọt" có vài hàng chữ “cầm hơi” rồi... im bặt. Ở Mỹ anh luôn suy nghĩ: chẳng lẽ Thư bây giờ sinh tệ như: “sông sâu có thể bắc cầu. Lòng người thâm hiểm, biết đâu mà dò”! Thì cũng phải... Hành bây chừ chẳng khác nào: "Làm trai cho đáng sức trai. Khom lưng chống gối gánh hai “hạt vừng”. Khổ nỗi người ta làm trai còn chống gối vì hai "hạt vừng", còn tôi đây chỉ còn "một hột" cũng chả xong...
Buổi sáng, Hành lái chiếc xe bedford đi lên điểm hẹn chờ Thư, anh chỉ đậu xe ở xa xa. Vì Thư nói:
- Không muốn cho người nhà biết chuyện hẹn hò nầy.
Lúc bấy giờ chân phải của anh đã hoàn toàn cưa cắt bỏ băng bột, nhưng còn chống nạn đi khập khễnh (cho tới bây giờ. Tuy thế, anh không đi nạng, nếu ai không nhìn kỹ, thì ít ai lưu ý điều nầy). Loại nạng đặc biệt do bên bệnh viện Hoa Kỳ chế tạo riêng. Vì, tay phải của Hành vẫn còn bó bột đặt ở độ cong 90/o. Nên chiếc nạng bình thường được lắp thêm cái tay, để anh có thể tựa cả cùi chỏ lên, mà làm điểm tựa, cho anh đi vững vàng chắc chắn hơn nhờ có thêm cái nạng.
Thư lấm lét nhìn anh, vẻ mặt ngượng ngùng, e ngại, bối rối. Thấy thế, tự nhiên Hành cũng cảm thấy xốn xang lúng túng ngượng ngùng không kém. May là Hành lo xa, đã mặc bộ đồ bay màu xám đính huy hiệu con rồng thè lưỡi trước ngực áo, mà cô ta còn tỏ thái độ lấm lét ngượng ngùng ái ngại rụt rè như thế. Nếu chẳng may anh chỉ là tên lính quèn, nghèo xơ nghèo xát; thì ắt hẳn... (hồi xưa & bây giờ) Thư chả bao giờ ngó nửa con mắt, hay tự động làm quen Hành trước, giống như hồi Hành ở Đà Lạt đâu nhỉ!
Hai người đến tiệm ăn Sing Sing ở đường Phan đỉnh Phùng. Khi anh và Thư bước vào tiệm, thì hầu như tất cả thực khách thân ái và đầy cảm tình dồn mắt nhìn về phía "tụi tôi". Một thiếu úy phi công lái chiếc xe hơi bedford diễu qua phố, đậu trước nhà hàng rồi chống nạng đi với người đẹp! Khiến ai ai cũng ưa thích ái mộ về sự phô trương, lác mắt vì thời thế tạo anh hùng thế thời phải thế. Chắc ai ai cũng nghĩ anh bị tai nạn xe cộ. Vì, nếu là phi công thì... ít khi có ai què quặt, hoặc lành lặn trở về nhà sau một phi vụ không chiến. Hôm qua, lần đầu tiên mới nghe bản nhạc “Kỷ vật cho em” của Phạm Duy, trong đó Hành nhớ mang máng hình như câu nầy:... "Anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về bại tướng cụt chân, bên người yêu tật nguyền chai đá" - (hay là... “ngập ngừng ngượng ngùng cay đắng... phải không em Thư ui!).
Hành đăm chiêu mà mỉm cười, vụng về vướng vít tí chút khi tay ôm cái nạng gỗ cho nó dựa vô góc tường, rồi lết đít ngồi xuống ghế, kéo rề rề theo cái chân què muốn lặt lià lặt lọi. Thư thản nhiên gần như dửng dưng nhìn, cô tự động ngồi xuống đối diện với anh, đầu cô ta luôn cúi gầm xuống mặt bàn, lâu lâu cô ta liếc nhìn trộm anh, cái nhìn dường như có ý đồ bất chính nào đó, gian gian mà lúc nầy Hành không thể hiểu nỗi. Thư chẳng thèm nhìn thẳng vào mặt anh, không hề hỏi thăm thương tích của “anh yêu” ra sao rồi? Hoặc giả nếu cô ta có "vờ như" ân cần vui vẻ, nói câu an ủi vỗ về nào (khác hẳn như hồi xưa cô ưa liếng thoắng). Thì anh sẽ tin ngay, không bao giờ nghĩ xấu về những "hành vi lố bịch" lúc bấy giờ của "cô em Bắc Kỳ nhớn nhớn"... dành cho anh đây chẳng qua là một "tai nạn nghề nghiệp". Hành ngao ngán lẫn thất vọng, kín đáo thở dài, anh cũng chả cần hỏi thăm ở quê nhà Thư "thay lông đổi cánh" tới đâu!?
Cứ thế, cả hai người cúi gầm đầu im lặng ăn ăn, húp húp và uống uống... mệt nghỉ. Hành nghẹn đắng cổ họng khô lông lốc. Ăn qua loa cho xong, anh lặng lẽ đứng dậy khập khễnh từng bước đi tính tiền. Hai người lụp chụp lật đật đi ra khỏi tiệm. Ngồi trong xe, sự riêng tư bây chừ lại có vẻ lố bịch vô duyên nên cả hai người càng khó chịu hơn. Chả bù cho ngày xưa trước khi Hành đi Mỹ, thì một tay anh cầm lái, còn một tay Hành vòng qua kẹp cổ nàng bóp bóp, nắn nắn chỗ nầy chỗ nọ... Còn Thư thì tay bận rộn ôm ôm, rờ mó cổ, bấu víu tai tóc và rờ bụng nắn ngực của anh, dù nhột ơi là nhột nhưng Hành rất khoái. Thỉnh thoảng cô chồm qua hôn anh chùn chụt, miệng nói tía lia: "em yêu anh, em nhớ anh nhiều".
Nhưng... gặp nhau lần nầy thiệt quá tệ và xa lạ, bẽ bàng đến độ xót xa, dường như Hành và Thư chưa hề có một thời gian thân mật đậm đà yêu thương nồng nhiệt, khắng khít hơn vợ chồng trước suốt thời gian anh chuẩn bị đi Mỹ, hay sao ta?! Bi giờ coi Thư có thái độ quá dị hợm, xa lắc xa lơ, bẽ bàng, trơ trẽn đến độ thê thảm. Trước khi thả Thư xuống lề đường gần nhà cô ta, vì Thư muốn vậy. Hành cố gặn hỏi:
- Bao giờ... anh mới có thể gặp lại em?
Hoàn toàn im lặng, không có câu trả lời, không một cái lắc đầu hay gật đầu. Càng tệ hại hơn không có cái liếc nhìn, mà cô ta chỉ cúi gầm xuống đất.
- Cho anh xin số phone nha.
Lắc đầu quầy quậy. Im lặng. Không cho. Âm thầm lặng lẽ chia tay nhau ra về. Thật hết rồi: “Yêu nhau sinh tử cùng liều. Thương nhau lội suối qua đèo có nhau” mà! Ở đây Phi Hành và Trân Thư: Chẳng thà không gặp thì thôi. Gặp nhau rồi, cùng phơi bày những điều quá trắng trợn, càng buồn đau tê tái và tủi hờn thê thảm hơn. Thế thì... quá rõ ràng rồi. Còn nghi ngờ gì nữa!
Sông sâu có thể bắc cầu.
Lòng người nham hiểm biết đâu mà mò.
Sông sâu còn có kẻ dò.
Lòng người nham hiểm ai đo cho tường. (*)
Ngay lúc đó, Hành quẹo xe lái một mạch vào bệnh xá Không-quân. Xem xét tập hồ sơ bệnh án dày cộm của anh. Sau khi khám xong, ông Thiếu-tá bác sĩ cho biết:
- Mọi việc đều ổn. Cứ ở lại đây mấy tuần. Tôi theo dõi anh. Sẽ quyết định sau.
- Xin bác sĩ vui lòng cho em về nghỉ. Nhà em ở rất gần đây.
- Anh đến đây bằng cái gì?
- Em tự lái xe hơi đến.
Ông trố mắt, kinh ngạc nói:
- Ôi! Chết rồi. Làm sao tay chân anh như vậy, mà tự lái xe đến? Không được đâu. Để tôi cho xe đưa anh về. Từ ngày mai sẽ có xe cứu thương đến, rước anh vô đây khám, rồi có tài xế đưa anh về.
Thiếu-tá bác sĩ quá chu đáo ân cần chăm sóc bệnh nhân, Hành đành phải tuân lệnh thôi. Nhưng, mỗi ngày khi khám bệnh xong, chú tài xế Trung-sĩ vừa đưa anh ra khỏi cổng Phi Long, Hành liền bảo chú dừng lại, anh cho chú ta ít tiền, và nói:
- Tôi tự lái xe được. Ngày nào cũng vậy, chú cứ đậu xe chờ tôi ở chỗ nầy. Tôi gởi xe nơi người bạn. Đơn vị anh ấy làm ở phòng an ninh phi trường. Rồi chú chỉ chở tôi vô bệnh xá thôi hen. OK?
Dĩ nhiên là chú ta rất vui mừng. Vì chẳng mất công đưa đón, mà mỗi ngày Hành còn tặng chú vài trăm đồng, để chú uống cà phê.
* * *
Dẫu sao thì trong lòng Hành cũng ấm ức bứt rứt bực tức không vui, ba bốn tuần nay anh ưa lái xe lảng vảng đến gần nhà Thư. Có mấy lần Hành lái xe đến đậu thẳng ở bên sát mé cổng. Khi bấm chuông, thì Hành thấy Thư hăng hái vui vẻ bước ra thềm. Rồi... chợt Thư ngước nhìn thấy Hành, nên cô ta vội vã thụt lùi, vụt lui nhanh vô phía phòng khách. Chờ một lúc khá lâu, Hành bấm lại mấy lần chuông. Người nhà ra cổng, nhìn anh ú ớ:
- Cô Thư... đi vắng rồi.
Lần sau. Lần sau. Lần sau nữa... vẫn cứ thế! Dĩ nhiên Hành thất vọng và thật buồn. Nhưng thôi, anh đã hiểu. Khi con người đã tàn nhẫn quay lưng đi, thì nếu mình cố giằng co níu kéo, lại càng vô ích mà thêm mang nhục. Dù rằng anh rất muốn mọi chuyện yêu đương giữa Thư và Hành: nên giải thích rõ ràng, minh bạch, hầu: “cư xử với nhau, không gì hay bằng nghĩa, không có gì quý bằng nhân”. Sau nầy, nếu hai người có tình cờ hay hữu ý gặp lại nhau, cũng không thể bẽ mặt bôi tro trét trấu, dị hợm nói xấu nhau chả ra gì. Thật là anh đã rất lầm khi yêu Trân Thư. Một mối tình không xứng đáng với lòng tin yêu nồng nhiệt thân thiết của mình.
Một ngày kia, Thư phone đến thì biết Hành đi vắng nhà, Cô ta khệ nệ bưng đem trả lại anh tất cả thư từ, hình ảnh, quà bánh... nhiều thật nhiều mà anh đã gởi tặng Thư từ lúc còn ở Mỹ. Ba má anh nói Thư ráng ở lại chút, chờ Hành về, hai người ngồi lại nói chuyện phải trái sau. Cô ta lắc đầu quầy quậy. Cộc lốc nói:
- Không. Cháu bận.
Người ơi gặp gỡ làm chi
Để rồi hai đứa chia ly hai đường. (*)
Sau cú quay giò lái chia tay “tuyệt đẹp của cô ta”, Hành sống những tháng ngày trôi qua rất vô vị, chán chường, thất vọng và hụt hẫng biết bao! Hành trôi lênh đênh như con thuyền không bến đậu. Trước ngày đám cưới, Thư nhờ bạn thân là Hiền gọi phone tới nhà gặp anh, lấy cớ “bắn tin”:
- Thư lấy chồng, để “trừ cấn món nợ” cờ bạc khổng lồ, vì bà dì của Thư mắc nợ ông chồng của Thư.
Bỗng dưng anh sảng khoái cười xoà kha kha kha. Úi trời đất qủi thần thiên địa ơi! Gạt đứa con nít có lẽ nó còn kinh ngạc nữa là. Nghe giống y hệt chuyện “nàng Kiều lâm nạn thời nay”! Nợ của bà dì, thì mắc mớ chi mà cháu gái họ xa xôi (nếu dùng củ cà nông bắn đi, chưa chắc đã trúng tới họ với hàng) mà cháu hờ… ấy phải nai lưng ong nuột nà ra, để gánh vác, đỡ đần cho bà dì có một đàn con cháu lít chít (chứ không phải do nợ của cha mẹ mình, hoặc cô ta... mắc phải ông chồng cao cấp, danh giá giàu sang, nên trừ cấn cho dứt điểm "món nợ hồi môn" ấy!? đành “hy sanh” cuộc đời son trẻ, tương lai rạng rỡ, hạnh phúc tình yêu)?! Ô là là... Sao nói dối ngọt xớt thế, mà không biết ngượng mồm loa mép dãi? hả trời!!!
Ngày Thư làm đám cưới, là đúng vào ngày đầu năm dương lịch, ngày ấy không xa ngày Hành đến bên cổng nhà nhìn Trân Thư núp lén sau rèm không muốn gặp mình bao lâu, Hành đã lái xe đến đậu ở bên kia bưu điện Sài Gòn sớm hơn một giờ. Anh ngắm nhìn xe hoa chở cô dâu chú rể trờ tới. Hành để ý quan sát tỉ mỹ thật kỹ: Rõ ràng Trân Thư không hề có cử chỉ ủ dột, miễn cưỡng, hay lo buồn, bâng khuâng thương tiếc người tình xưa, lẫn tiếc thương thân phận mình khi phải “ hy sanh bán mình” chuộc nợ cho "bà dì khả ố" nào cả. Ngược lại Thư đang hân hoan, hí hửng, khoan khoái, ung dung vui vẻ lí lắc rìu rịt cặp tay chồng. Nói đúng ra, cô ta chẳng hề có chút nào "bị" gượng ép, bị bắt buộc lấy chồng; để trả nợ đậy cho bà dì. Trái lại, coi cô ta rất lả lơi, hí hửng tình tứ nép sát vô ngực chồng, hai anh chị một già một trẻ dung dăng dung dẽ tiến vô vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn. Không hiểu ở trong nhà thờ Trân Thư có thở than cùng Chúa:
Người đâu gặp gỡ làm chi.
Để cho khổ thế còn gì tuổi xuân?
Chúa ơi! Con khổ vô ngần.
Chúa mà không giúp là thân con tàn.
Con đang thiếu nợ trăm ngàn.
Nhìn đồ “chồng” sắm hai hàng lệ rơi.
Con quỳ lạy Chúa trên trời.
Giúp cho con trốn được người con yêu. (*)
Hành ngồi trong xe hơi, lặng câm thừ người ra suy nghĩ miên man, buồn bã mất mươi phút. Khi nhìn thấy sự thật rõ mồn một và hiểu ra… anh vui vui chút ít, nên kết thúc xong một chuyện tình mà Hành cứ lầm tưởng là “đẹp như giấc mơ hoa dâm bụt”. Dẫu sao thì... khi xưa, đã rất nhiều lần anh giăng rộng vòng tay ra ôm ấp, ghì siết Trân Thư đắm đuối si dại tình tự. Hành cùng đi chung với cô nàng trên một đoạn đường đời luyến ái dài, khá dài khoảng trên một năm rưỡi cùng nhau yêu cuồng... cũng đủ để thấm đượm nỗi vui mừng ái ân cuống quít, hay hờn ghen nho nhỏ về chuyện xa xưa. Hành đã cười trên nỗi đắng cay bẽ bàng, vô duyên tệ lậu của đời mình. Ha Ha Ha!!! Anh mạnh dạn lái xe đi về nhà, cảm thấy lòng nhẹ nhõm, hết băn khoăn, sầu muộn. Quả thật đúng như thế, chẳng lẽ anh “rên”:
Người đi một nửa hồn tôi mất...
Một nửa hồn kia... đứng chưởi thề! (*)
Mãi về sau nầy khi an cư lạc nghiệp ở Mỹ, ly dị ông chồng già khú đế nhưng giàu sang đầy danh vọng xong. Năm 2005, bà ta gọi phone về nhà anh, tò te ỏn ẻn nỉ non tha thiết nói:
- Lúc em xa anh, mà đi lấy chồng đó; không ai hiểu được em đâu.
- Thì vâng! Anh hiểu! Hô hô hô!!!
*
(*) sưu tầm đó đây
***
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 23
Tình Hoài Hương
***
“Quê hương trái đất nửa vòng.
Ngày thương đêm nhớ, những mong ngày về”.
Trên không trung có vầng trăng sáng toả vằng vặc như chiếc dĩa bạc soi rõ mọi thứ trong góc phòng bệnh viện. Hành đứng lên lại nằm xuống, đi ra đi vô xem ti vi chiếu tin tức thế giới, xem “chuyện lạ Việt Nam”, thỉnh thoảng trên ti vi Mỹ chiếu đi chiếu lại những cuộc biểu tình gay gắt cũ sôi sục đêm ngày: Các phe nhóm chống chính phủ, các cấp lãnh đạo tôn giáo, các tổ chức chính trị, sinh viên học sinh rầm rộ phản đối, biểu tình, rối tung rối mù, mù… mịt trời đất, hầu hết diễn ra ở miền Nam Việt Nam.
Nỗi buồn đau bỗng trĩu nặng trên vai Hành, không biết làm gì hơn là tối ngày Hành soạn va ly ra coi những gói quà to tướng sẽ đem về tặng thân nhân ở quê nhà. Hành dùng chất vitriol rửa những hình thể đá thạch bóng ngời, trông giống như màu da thật. Hành lại bồi hồi thở vắn than dài, thẩn thờ đóng lại mấy cái va ly. Các bạn cùng khoá đã trở về Việt Nam lâu lắm rồi! Chỉ còn độc nhất mỗi mình "ta cứ nằm ù lì lại”. Trước khi về VN, các bạn đã đến chia tay anh, họ xúm lại chọc quê:
- Thôi, yên trí đi, mầy cứ ở lại Mỹ an giấc nghìn thu hen.
- Nằm nghỉ ngơi cho sướng cái đít đi.
- Còn sống, thì mầy chộp cổ ngay một con Mẽo, con Xì… là "xong bén đời giai”.
- Tầm bậy! Sao xúi hắn an giấc ngàn thu?
- Vì, không bao giờ có ai nói: An giấc ngàn Xuân cả.
- Vậy thì đừng biểu nó: An giấc ngàn Đông nghen?
- Hãy an giấc ngàn hạ xuống, để tàn đời trai cho rùi.
- Xuân, Hạ, hay với Thu?
- Ư hừ!
- Mầy théc méc mần chi hỉ! Hổng chịu mở méc ra, coi tụi tao tôm gốp thùng bẹc két rủng rỉnh "xung xướng” đem tiền Mỹ đi dzìa Việt Nam nè.
Những buổi tối, Hành nằm thao thức hằng giờ đăm đăm xem thời sự trên tivi, nhìn cảnh chiến tranh Sài Gòn đổ nát, chết chóc. Cộng sản tràn ngập vào Thủ Đô. Hành nghĩ thầm: “Thôi. Thế là hết”. Hành mòn mỏi chờ đợi chiến cuộc Tết Mậu Thân 1968 ở Việt Nam mau chóng chấm dứt, giảm bớt cường độ giao tranh. Hoặc là: đụng độ dữ dội giữa miền Nam Việt Nam và miền Bắc tạm lắng xuống, thì bằng mọi giá anh phải xin đi về Việt Nam. Mấy bạn Mỹ thường trêu:
- Làm sao anh về nước? Khi tay chân bó bột? khi chiến tranh đang xảy ra liên miên?
Đại bàng có bay xa bao nhiêu cũng phải dừng cánh, đàn ông có đi xa bao lâu cũng phải có ngày trở về nhà. Ở Việt Nam có thể có người muốn đi du lịch ra ngoại quốc, còn anh trải qua nhiều tháng năm sống "lây lất" ở nước ngoài rồi, nay anh nôn nao mòn mỏi ngóng trông mau chóng "tung cánh chim tìm về tổ ấm”, hạnh phúc thay khi có ngày mình được trở về quê mẹ thân yêu. Hành quyết chí gởi thư đến căn cứ Không-quân đòi họ cho phép anh trở về quê hương. Vì ít nhiều gì, Hành vẫn mang canh cánh bên lòng mối tình hoài hương. Vã lại, toàn bộ gia đình ba má, anh, chị, em, các cháu của mình ở Việt Nam mà. Cũng có thể là Hành còn nghĩ đến chút tình với Trân Thư.
Ngày ngày... chẳng biết làm gì ngoài việc giết thì giờ nhàn rỗi quá chán ngán, Hành cùng những anh quân nhân thương binh Không-quân Mỹ xúm lại coi thời sự trên ti vi, lúc nầy đài Mỹ chiếu đi chiếu lại chuyện lạ bốn phương "hot" nhất: ông Jean Bedel Bokassa đã tham gia trong đoàn quân viễn chinh Pháp. Ông qua Việt Nam hồi thập niên 1950, Jean Bedel Bokassa (thuộc bộ tộc M’Baka ở Phi Châu) sinh ngày 22-2-1921 tại làng Bobangui, cách xa thủ đô M’Baiki (Phi Châu Xích Đạo - Equatorial Africa). Năm 1950, Trung-sĩ-nhất Bokassa là quân tình nguyện của Lục-quân Pháp, thuộc binh chủng lính Lê Dương (Légion étrangère), khi ấy Trung Phi vẫn là thuộc địa của Pháp. Năm 1953, ông Trung-sĩ-nhất Bokassa 32 tuổi, đóng tại Chánh Hưng, Sài Gòn (quận 8 bây giờ). Thời gian sang Việt Nam tham chiến, chàng Lê-dương Bokassa tây đen tăng cường về Biên Hòa làm nhiệm vụ gác cầu ở Cù Lao Phố (cầu Gành), nơi Cầu Gành có một máy nước công cộng. Ông ta đã “tò te” với một bà Việt Nam xồn xồn Huệ nghèo gánh nước mướn ở Tân Thuận Đông. Họ thuê một căn nhà nhỏ ở Tân Thuận Đông, quận Nhà Bè, nơi đơn vị anh ta đóng quân gần cầu Tân Thuận. Khi Huệ có bầu, thì Bokassa buộc phải rời khỏi Việt Nam quay gót trở về cố hương. Bao nhiêu năm thăng trầm trôi qua, ông Jean Bedel Bokassa từ từ leo lên chức Tướng, rồi ông trở thành hoàng-đế Cộng-Hoà Trung-Phi. Tháng 1 năm 1966, Bokassa đảo chính, lật đổ David Dacko, tự lên làm tổng thống. Hoàng đế Jean Bedel Bokassa sực nhớ đến người tình cũ và con gái, ông bèn gởi một văn thư nhờ bộ Ngoai Giao Pháp, chuyển đến Bộ Ngoại Giao miền Nam Việt Nam Cộng Hoà: xin họ giúp ông tìm con gái ruột tên Nguyễn thị Martine. Bộ Ngoại Giao ráo riết tìm kiếm, nhưng không thể tìm ra Martine.
Họ bèn đem một cô gái lai da đen 19 tuổi tên Baxi (con bà Nguyễn Thị Thân ở Xóm Gà, Gia Định) giả làm con gái Tổng-thống Bokassa. Đúng là có một “nàng con” đến trình diện bộ Ngoại-giao, cô gái nầy làm thủ tục xuất ngoại. Tổng-thống vui mừng tổ chức buổi tiếp nhận con rất long trọng. Phần bà Huệ sanh con gái có làn da ngăm đen, và hơi ngà ngà, thì bà vui buồn lẫn lộn. Thời gian mấy năm đầu, thỉnh thoảng Bokassa và bà Huệ có liên lạc trao đổi tin tức, sau đó do hoàn cảnh mỗi người, nhất là không gian và thời gian xa cách biền biệt góc biển chân trời, dần dần họ vắng bặt tin tức. Lớn lên, Martine là một cô gái nghèo khổ hiếu thuận, ngoan ngoãn, chịu khó giúp mẹ làm việc vất vả khuân vác tại nhà máy Xi-măng Hà Tiên.
Nào ngờ, khi biết tin ấy, cậu ruột của cô gái Nguyễn Thị Martine đã đến toà soạn nhật báo Trắng Đen trình bày tự sự, kèm y chứng thư đầy đủ chính xác giấy tờ hộ tịch. Chính phủ và đồng bào khắp nơi ở miền Nam Việt Nam, “ồn lên” bàn tán sôi nổi về hai cô công chúa lọ lem. Không biết ai thiệt, ai giả? Tin nầy đến tai vua Cộng Hoà Trung Phi. Hoàng Đế Bokassa lại gởi văn thư khác, xin Tổng-thống Thiệu cho “cả hai cô công chúa” đi tuốt về thủ đô Bangui, thuộc Cộng Hoà Trung Phi. Phái đoàn đại diện cao cấp Cộng hòa Trung Phi lại sang Việt Nam & còn có: ông bà chủ nhiệm báo Trắng Đen, bà Nguyễn Thị Huệ, cô Martine, một tùy viên sứ quán Pháp đại diện Bộ Ngoại giao Pháp, và thông dịch viên. Họ đi Trung Phi.
Tổng thống nhận ra người tình cũ, và con gái “công chúa Martine”, nên càng vui mừng khôn xiết, ông ra lệnh tiếp đãi phái đoàn Việt Nam như thượng khách. Ông không ngần ngại nhận "cô Baxi giả công chúa" kia làm con gái nuôi. Bà Huệ trở về Việt Nam. Khi đó bà Huệ đã có chồng vẫn được lãnh trợ cấp mỗi tháng 200,000$ tại Pháp Á ngân hàng Sài Gòn do Tổng thống Bokassa cấp dưỡng. Thời điểm đó số tiền nầy rất lớn. Thật là chuyện hi hữu ngàn năm có một không hai. Hai nàng lọ lem sau những năm tháng trong đêm tối hãi hùng đói khổ ở quê nhà, hôm nay đã tót lên đỉnh cao sang, phú quý trong ngôi vị công chúa. Thật là đời lên hương ngát, “xung xướng” tê người. Chuyện duy nhất có thật, bàng hoàng thiệt.
***
Từ sự cương quyết của Hành, và do Thủy-quân Lục-chiến Hoa Kỳ, & Hạm-đội thứ Bảy can thiệp, lúc đó họ mới cho Hành biết: sẽ đưa anh trở về Việt Nam. Cuộc đi kéo dài hơn cả tháng, vì cứ bay “nhảy cóc” từ chỗ nầy đến nơi khác, như là mình đang bồng bềnh dạo chơi trên không trung du hí vậy. Thoạt đầu, họ mang anh ra phi trường khi Hành còn nằm trên cáng thương. Họ xách theo bốn va ly to tướng đầy nhóc quần áo, đồ đạc linh tinh & hai thùng carton to bự sư đựng quà dành riêng cho cô bồ, hai thùng nữa dành cho gia đình, xách tay samsonite đầy đủ thuốc men, do bác sĩ ghi toa chỉ định cách uống thuốc. Một mình Hành là “thượng khách chễm chệ” trên chiếc phi cơ rộng lớn. Trong buồng lái chỉ có: Phi hành đoàn. Tiếp viên hàng-không lo về việc ẩm thực. Bốn anh lính Không-quân thay nhau khiêng cáng, bưng đồ dùng của Hành. Hai bác sĩ quân-y. Một y-tá. & Lữ Phi Hành. Hết. Ngoài ra không có ai nữa.
Bay đến Colorado, nằm lại ba đêm. Rồi bay qua San Francisco, Hành nằm tại bệnh viện hai tuần. Hành ăn no rồi ngủ kỹ. Tự nhiên có một ngày thanh bình và trời quang mây tạnh, Hành được đám phóng viên, truyền thông ở Mỹ đến tận nơi dàn dựng quay phim, họ đưa anh "oai dũng" hí hửng leo lên... ti vi nữa. Tình cờ mà tức cười thật. Họ bảo:
- Anh cứ “giả đò, làm bộ làm tịch” như mình chính xác là thương phế binh gốc người Hoa sống ở Mỹ nhe. Anh cầm phone vui vẻ gọi về nhà, nói chuyện với thân nhân gia đình anh, nhe.
Thiệt tình! Xạo hết chỗ nói. Nằm tại San Francisco hai tuần, thì chiếc phi cơ C – 130 rất to, chở Hành đi. Lại vẫn chỉ có bấy nhiêu người cũ, tất cả lên phi cơ bay một lèo qua Clark Field (Phi Luật Tân). Họ lại đưa anh vô nằm trong bệnh viện đợi thêm hai tuần nữa. Ôi là ngao ngán và ớn bệnh viện lên tới cần cổ! Chỉ mong chờ bớt chiến sự ở miền Nam Việt Nam, thì anh mới được trở về, sẽ tính sau. Ngày đêm mòn mỏi chờ đợi... rồi đợi chờ, trông ngóng đợi chờ hoài mãi. Hành cảm thấy quá căng thẳng, lo âu, mệt mỏi, hết sức oãi và lâu quá chừng chừng!
Thế rồi buổi sáng Thứ Bảy khoảng đầu tháng Tư, năm Mậu Thân 1968, chiếc C-130 hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhứt. Mặc dù khi phi cơ còn lăn bánh chạy chầm chậm trên phi đạo, họ đã hạ cái bửng phía sau đuôi phi cơ xuống. Ngay lập tức có một chiếc xe cứu thương, một xe cứu hoả, chạy cặp sát hai bên hông chiếc phi cơ C -130 hai xe chạy rề rề theo. Hai anh lính phi công Mỹ, (ở bên xe cứu thương), liền nhanh nhẹn nhảy phóc xuống dưới đường phi đạo. Chạy bộ rất nhanh, họ bưng cái cáng thương trống không ở trên phi cơ xuống, họ chạy qua bên chiếc C-130 để "trao trả" cái cáng nầy cho Việt Nam. Đồng thời trên phi cơ, hai anh lính Mỹ lanh lẹ khiêng sẵn cáng “áp tải thương binh Lữ Phi Hành” tụt nhanh xuống đất. Họ giao cáng thương cho người đứng dưới đất ở Việt Nam nhận. Lúc ấy, từ trên cửa phi cơ họ thảy bốn chiếc va ly to tướng, mấy thùng carton lớn, cùng tất cả đồ dùng, chiếc xách tay đựng thuốc men của Hành qua xe cứu thương ở Việt Nam, khi phi cơ đang còn chạy chầm chậm, rề rề.
Phi cơ C-130 lo dzọt vút bay đi thật lẹ. Vì lúc nầy tất cả xe cứu thương, phi cơ, ai ai cũng đinh ninh mình đang ở trong tầm ngắm của hoả tiễn 122 hay 130 bên “phe kia”, nằm đâu đó ngoài vòng phi đạo, (mà lúc còn ở ngoại quốc mỗi ngày Hành nhìn trên ti vi các nơi, đều chiếu những đoạn thời sự nóng bỏng ở Tết Mậu Thân). Thế nên phi hành đoàn đã gồnh mình tới miền chiến tranh đang ì ầm, phải cẩn thận cảnh giác tối đa, họ dám liều mình mà bay trên không phận miền Nam, thì đã làm một nghĩa cử cao đẹp, rất can đảm phi thường và anh hùng rồi. Hành hết lòng cảm ơn chính phủ Hoa Kỳ. Phi cơ tăng tốc độ, chạy một đoạn ngắn thì cất cánh bay bổng. Hai chiếc xe cứu hoả, cứu thương lo rẽ vào đường Taxiway. Họ đưa Hành qua bên bệnh viện dã chiến số 3. (Third Field Hospital). Vài ông Mỹ ngồi bên cạnh nói:
- Are you crazy?
- Coming back to Việt Nam?
Phi Hành hoảng hốt la lên:
- Ô! Các anh lầm rồi. Tôi là người của bên Không-quân Việt Nam. Không phải bên Không-quân Hoa Kỳ.
Họ vội quay đầu xe, đem Hành bàn giao qua bên Không-quân Việt Nam. Úi Trời! May quá! nếu mà ông Mỹ kia không lên tiếng nói ra, chắc là anh sẽ “bị” quay trở về Mỹ mất rồi! Vô bệnh viện Cộng Hoà gặp bác sĩ Thành khám anh rất kỹ. Ông định cho Hành xuống nằm ở bệnh xá Không-quân, nhưng Hành năn nỉ bác sĩ:
- Em du-học suốt ba mươi lăm tháng rồi. Nhớ nhà lắm. Em còn chống nạn đi đứng tốt. Xin bác sĩ cho phép em về thăm ba má. Nhà em ở gần đây. Sáng thứ Hai, em xin trở vô bệnh viện.
- ... OK.
Thế là bác sĩ kêu xe cứu thương cho chở Hành về, xe đậu ngay trước cửa nhà. Hành mặc bộ quần áo ở bệnh viện vui vẻ háo hức hân hoan chậm bước dưới phố chiều Sài Gòn rực nắng tươi. Mọi người đi lui đi tới tấp nập, cảnh vật nhộn nhịp huyên náo lạ! Lòng anh cảm thấy vui và hồi hộp không thể tả! Hành bảo hai binh sĩ Việt Nam khiêng, xách, vát bốn va ly, mấy thùng quà bước vô nhà trước Hành. Ba của anh đang ngồi đọc báo trên sofa, ông đứng lên, dáo dác nhìn hai anh binh sĩ lạ, rồi ông nghiêng mình nhìn kỹ. Một lát sau ông liền chạy đến, ôm chầm lấy con trai lấp ló sau lưng mấy người lính, ông kêu lên rất to:
- Trời ơi! Thằng Hành đã về rồi nè. Má sắp nhỏ ơi...
Ba khóc. Hành khóc... má chạy ra, mừng rỡ níu lấy cổ con, hôn chùn chụt và khóc rống lên hu hu hu.... Các chị, em, ở trên lầu ba, lầu bốn, vụt chạy xuống, họ xôn xao mừng rỡ mà khóc oà. Cả nhà đều choáng váng và bất ngờ tột độ. Vì anh không hề báo trước về chuyện anh sẽ trở về Việt Nam. Hành muốn dành cho gia đình mình một sự ngạc nhiên thú vị mừng vui tuyệt vời. Thật là một cuộc đoàn tụ bất ngờ, kinh hoảng mà đầy nước mắt hân hoan vui mừng trào lên bờ mi “kịch tính”. Lạ lùng như vậy đó. Quả đất tròn vo, tưởng là to lớn lắm! Ấy thế mà, khi đi xa nửa quả địa cầu, nay quay trở về quê hương, hoá ra Hành vẫn thấy nhỏ ha.
Ngay lập tức, ba anh gọi phone cho “em Trân Thư iêu rấu” biết tin "ngày trở về (của anh thương binh)... anh bước lê trên quãng đưởng đê, đến bên luỹ tre, nắng vàng hoe...". Hành nóng lòng nóng ruột nôn nao đi ra, đi vào, chờ đợi cuộc trùng phùng thật tình cờ. Hành đang nằm lim đim trên sofa, thì cô ta đến. Trông Trân Thư chẳng vui vẻ, hân hoan mừng rỡ, hay lo âu cuống quít một mảy may gì! Nét ưu tư, lỡ làng dường như hằn rõ lên gương mặt Thư đã héo hon rồi. Thế là, Hành và cô ta lúng túng, e ngại hững hờ ngồi trên sofa, nói những câu chuyện hết sức vô duyên, nhạt nhẽo hơn nước ốc, gượng ép, ngượng ngùng và xa lạ, chả ra môn ra khoai. Cô ta luôn cúi đầu xuống, hay sượng sùng né tránh cái nhìn lặng lẽ của anh. Sau khi Thư cho Hành biết: cô ta đã đổi nhà, dọn lên đường Phan Thanh Giản, cô ta vội vội vàng vàng đứng dậy, cáo từ.
Cuộc gặp gỡ nầy chưa đầy mươi phút. Hành hẹn Thư hôm sau sẽ lên đón cô ta đi ăn sáng. Cô ta ấp úng, ngập ngừng, lưỡng lự, do dự ậm ự... nhẹ gật đầu. Bây giờ mặt đối mặt, diện kiến trực tiếp, anh kiểm chứng lại điều nầy: Thái độ ngượng ngùng của Thư trả lời anh rất chính xác, nên anh chuẩn bị tinh thần từ cái nhìn xa lạ, hững hờ dè dặt đầu tiên, chỉ sau hơn hai năm xa cách biền biệt, nay mới gặp lại. Không có gì khó hiểu đâu. Xa mặt cách lòng! dĩ nhiên có nhiều thay đổi khi con người không có sự trung kiên, không có tình yêu chân thật, không chung thuỷ, thì tình ấy như một món hàng, chỉ là sự chọn lựa trên địa vị, danh vọng và tiền tài, tình cảm dễ dàng thay đổi trong chớp nhoáng, bạc bẽo theo.
Hành đã biết ngay từ dạo ở Mỹ, nhưng anh còn "bán tín bán nghi", khi Thư nghe hung tin anh báo bị tai nạn phi cơ. Lẽ ra, như bao người yêu chân tình, hay những vị hôn thê thủy chung khác, họ sẽ tỏ ra cuống quít âu sầu, lo lắng, ngày ngày thư từ, hoặc gởi điện tín tấp nập hỏi thăm người yêu rối rít. Đằng nầy... lúc Hành vừa qua Mỹ trước khi anh bị tai nạn, mỗi tuần Thư viết cho anh ít nhất vài ba bốn lá thư dài. Nhưng sau khi biết “anh lâm nạn”, kể từ đó đến nay hơn mươi bốn tháng, thì cô ta đã tỏ ra lạnh nhạt, lâu thật lâu cô ta mới "nhỏ giọt" có vài hàng chữ “cầm hơi” rồi... im bặt. Ở Mỹ anh luôn suy nghĩ: chẳng lẽ Thư bây giờ sinh tệ như: “sông sâu có thể bắc cầu. Lòng người thâm hiểm, biết đâu mà dò”! Thì cũng phải... Hành bây chừ chẳng khác nào: "Làm trai cho đáng sức trai. Khom lưng chống gối gánh hai “hạt vừng”. Khổ nỗi người ta làm trai còn chống gối vì hai "hạt vừng", còn tôi đây chỉ còn "một hột" cũng chả xong...
Buổi sáng, Hành lái chiếc xe bedford đi lên điểm hẹn chờ Thư, anh chỉ đậu xe ở xa xa. Vì Thư nói:
- Không muốn cho người nhà biết chuyện hẹn hò nầy.
Lúc bấy giờ chân phải của anh đã hoàn toàn cưa cắt bỏ băng bột, nhưng còn chống nạn đi khập khễnh (cho tới bây giờ. Tuy thế, anh không đi nạng, nếu ai không nhìn kỹ, thì ít ai lưu ý điều nầy). Loại nạng đặc biệt do bên bệnh viện Hoa Kỳ chế tạo riêng. Vì, tay phải của Hành vẫn còn bó bột đặt ở độ cong 90/o. Nên chiếc nạng bình thường được lắp thêm cái tay, để anh có thể tựa cả cùi chỏ lên, mà làm điểm tựa, cho anh đi vững vàng chắc chắn hơn nhờ có thêm cái nạng.
Thư lấm lét nhìn anh, vẻ mặt ngượng ngùng, e ngại, bối rối. Thấy thế, tự nhiên Hành cũng cảm thấy xốn xang lúng túng ngượng ngùng không kém. May là Hành lo xa, đã mặc bộ đồ bay màu xám đính huy hiệu con rồng thè lưỡi trước ngực áo, mà cô ta còn tỏ thái độ lấm lét ngượng ngùng ái ngại rụt rè như thế. Nếu chẳng may anh chỉ là tên lính quèn, nghèo xơ nghèo xát; thì ắt hẳn... (hồi xưa & bây giờ) Thư chả bao giờ ngó nửa con mắt, hay tự động làm quen Hành trước, giống như hồi Hành ở Đà Lạt đâu nhỉ!
Hai người đến tiệm ăn Sing Sing ở đường Phan đỉnh Phùng. Khi anh và Thư bước vào tiệm, thì hầu như tất cả thực khách thân ái và đầy cảm tình dồn mắt nhìn về phía "tụi tôi". Một thiếu úy phi công lái chiếc xe hơi bedford diễu qua phố, đậu trước nhà hàng rồi chống nạng đi với người đẹp! Khiến ai ai cũng ưa thích ái mộ về sự phô trương, lác mắt vì thời thế tạo anh hùng thế thời phải thế. Chắc ai ai cũng nghĩ anh bị tai nạn xe cộ. Vì, nếu là phi công thì... ít khi có ai què quặt, hoặc lành lặn trở về nhà sau một phi vụ không chiến. Hôm qua, lần đầu tiên mới nghe bản nhạc “Kỷ vật cho em” của Phạm Duy, trong đó Hành nhớ mang máng hình như câu nầy:... "Anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về bại tướng cụt chân, bên người yêu tật nguyền chai đá" - (hay là... “ngập ngừng ngượng ngùng cay đắng... phải không em Thư ui!).
Hành đăm chiêu mà mỉm cười, vụng về vướng vít tí chút khi tay ôm cái nạng gỗ cho nó dựa vô góc tường, rồi lết đít ngồi xuống ghế, kéo rề rề theo cái chân què muốn lặt lià lặt lọi. Thư thản nhiên gần như dửng dưng nhìn, cô tự động ngồi xuống đối diện với anh, đầu cô ta luôn cúi gầm xuống mặt bàn, lâu lâu cô ta liếc nhìn trộm anh, cái nhìn dường như có ý đồ bất chính nào đó, gian gian mà lúc nầy Hành không thể hiểu nỗi. Thư chẳng thèm nhìn thẳng vào mặt anh, không hề hỏi thăm thương tích của “anh yêu” ra sao rồi? Hoặc giả nếu cô ta có "vờ như" ân cần vui vẻ, nói câu an ủi vỗ về nào (khác hẳn như hồi xưa cô ưa liếng thoắng). Thì anh sẽ tin ngay, không bao giờ nghĩ xấu về những "hành vi lố bịch" lúc bấy giờ của "cô em Bắc Kỳ nhớn nhớn"... dành cho anh đây chẳng qua là một "tai nạn nghề nghiệp". Hành ngao ngán lẫn thất vọng, kín đáo thở dài, anh cũng chả cần hỏi thăm ở quê nhà Thư "thay lông đổi cánh" tới đâu!?
Cứ thế, cả hai người cúi gầm đầu im lặng ăn ăn, húp húp và uống uống... mệt nghỉ. Hành nghẹn đắng cổ họng khô lông lốc. Ăn qua loa cho xong, anh lặng lẽ đứng dậy khập khễnh từng bước đi tính tiền. Hai người lụp chụp lật đật đi ra khỏi tiệm. Ngồi trong xe, sự riêng tư bây chừ lại có vẻ lố bịch vô duyên nên cả hai người càng khó chịu hơn. Chả bù cho ngày xưa trước khi Hành đi Mỹ, thì một tay anh cầm lái, còn một tay Hành vòng qua kẹp cổ nàng bóp bóp, nắn nắn chỗ nầy chỗ nọ... Còn Thư thì tay bận rộn ôm ôm, rờ mó cổ, bấu víu tai tóc và rờ bụng nắn ngực của anh, dù nhột ơi là nhột nhưng Hành rất khoái. Thỉnh thoảng cô chồm qua hôn anh chùn chụt, miệng nói tía lia: "em yêu anh, em nhớ anh nhiều".
Nhưng... gặp nhau lần nầy thiệt quá tệ và xa lạ, bẽ bàng đến độ xót xa, dường như Hành và Thư chưa hề có một thời gian thân mật đậm đà yêu thương nồng nhiệt, khắng khít hơn vợ chồng trước suốt thời gian anh chuẩn bị đi Mỹ, hay sao ta?! Bi giờ coi Thư có thái độ quá dị hợm, xa lắc xa lơ, bẽ bàng, trơ trẽn đến độ thê thảm. Trước khi thả Thư xuống lề đường gần nhà cô ta, vì Thư muốn vậy. Hành cố gặn hỏi:
- Bao giờ... anh mới có thể gặp lại em?
Hoàn toàn im lặng, không có câu trả lời, không một cái lắc đầu hay gật đầu. Càng tệ hại hơn không có cái liếc nhìn, mà cô ta chỉ cúi gầm xuống đất.
- Cho anh xin số phone nha.
Lắc đầu quầy quậy. Im lặng. Không cho. Âm thầm lặng lẽ chia tay nhau ra về. Thật hết rồi: “Yêu nhau sinh tử cùng liều. Thương nhau lội suối qua đèo có nhau” mà! Ở đây Phi Hành và Trân Thư: Chẳng thà không gặp thì thôi. Gặp nhau rồi, cùng phơi bày những điều quá trắng trợn, càng buồn đau tê tái và tủi hờn thê thảm hơn. Thế thì... quá rõ ràng rồi. Còn nghi ngờ gì nữa!
Sông sâu có thể bắc cầu.
Lòng người nham hiểm biết đâu mà mò.
Sông sâu còn có kẻ dò.
Lòng người nham hiểm ai đo cho tường. (*)
Ngay lúc đó, Hành quẹo xe lái một mạch vào bệnh xá Không-quân. Xem xét tập hồ sơ bệnh án dày cộm của anh. Sau khi khám xong, ông Thiếu-tá bác sĩ cho biết:
- Mọi việc đều ổn. Cứ ở lại đây mấy tuần. Tôi theo dõi anh. Sẽ quyết định sau.
- Xin bác sĩ vui lòng cho em về nghỉ. Nhà em ở rất gần đây.
- Anh đến đây bằng cái gì?
- Em tự lái xe hơi đến.
Ông trố mắt, kinh ngạc nói:
- Ôi! Chết rồi. Làm sao tay chân anh như vậy, mà tự lái xe đến? Không được đâu. Để tôi cho xe đưa anh về. Từ ngày mai sẽ có xe cứu thương đến, rước anh vô đây khám, rồi có tài xế đưa anh về.
Thiếu-tá bác sĩ quá chu đáo ân cần chăm sóc bệnh nhân, Hành đành phải tuân lệnh thôi. Nhưng, mỗi ngày khi khám bệnh xong, chú tài xế Trung-sĩ vừa đưa anh ra khỏi cổng Phi Long, Hành liền bảo chú dừng lại, anh cho chú ta ít tiền, và nói:
- Tôi tự lái xe được. Ngày nào cũng vậy, chú cứ đậu xe chờ tôi ở chỗ nầy. Tôi gởi xe nơi người bạn. Đơn vị anh ấy làm ở phòng an ninh phi trường. Rồi chú chỉ chở tôi vô bệnh xá thôi hen. OK?
Dĩ nhiên là chú ta rất vui mừng. Vì chẳng mất công đưa đón, mà mỗi ngày Hành còn tặng chú vài trăm đồng, để chú uống cà phê.
* * *
Dẫu sao thì trong lòng Hành cũng ấm ức bứt rứt bực tức không vui, ba bốn tuần nay anh ưa lái xe lảng vảng đến gần nhà Thư. Có mấy lần Hành lái xe đến đậu thẳng ở bên sát mé cổng. Khi bấm chuông, thì Hành thấy Thư hăng hái vui vẻ bước ra thềm. Rồi... chợt Thư ngước nhìn thấy Hành, nên cô ta vội vã thụt lùi, vụt lui nhanh vô phía phòng khách. Chờ một lúc khá lâu, Hành bấm lại mấy lần chuông. Người nhà ra cổng, nhìn anh ú ớ:
- Cô Thư... đi vắng rồi.
Lần sau. Lần sau. Lần sau nữa... vẫn cứ thế! Dĩ nhiên Hành thất vọng và thật buồn. Nhưng thôi, anh đã hiểu. Khi con người đã tàn nhẫn quay lưng đi, thì nếu mình cố giằng co níu kéo, lại càng vô ích mà thêm mang nhục. Dù rằng anh rất muốn mọi chuyện yêu đương giữa Thư và Hành: nên giải thích rõ ràng, minh bạch, hầu: “cư xử với nhau, không gì hay bằng nghĩa, không có gì quý bằng nhân”. Sau nầy, nếu hai người có tình cờ hay hữu ý gặp lại nhau, cũng không thể bẽ mặt bôi tro trét trấu, dị hợm nói xấu nhau chả ra gì. Thật là anh đã rất lầm khi yêu Trân Thư. Một mối tình không xứng đáng với lòng tin yêu nồng nhiệt thân thiết của mình.
Một ngày kia, Thư phone đến thì biết Hành đi vắng nhà, Cô ta khệ nệ bưng đem trả lại anh tất cả thư từ, hình ảnh, quà bánh... nhiều thật nhiều mà anh đã gởi tặng Thư từ lúc còn ở Mỹ. Ba má anh nói Thư ráng ở lại chút, chờ Hành về, hai người ngồi lại nói chuyện phải trái sau. Cô ta lắc đầu quầy quậy. Cộc lốc nói:
- Không. Cháu bận.
Người ơi gặp gỡ làm chi
Để rồi hai đứa chia ly hai đường. (*)
Sau cú quay giò lái chia tay “tuyệt đẹp của cô ta”, Hành sống những tháng ngày trôi qua rất vô vị, chán chường, thất vọng và hụt hẫng biết bao! Hành trôi lênh đênh như con thuyền không bến đậu. Trước ngày đám cưới, Thư nhờ bạn thân là Hiền gọi phone tới nhà gặp anh, lấy cớ “bắn tin”:
- Thư lấy chồng, để “trừ cấn món nợ” cờ bạc khổng lồ, vì bà dì của Thư mắc nợ ông chồng của Thư.
Bỗng dưng anh sảng khoái cười xoà kha kha kha. Úi trời đất qủi thần thiên địa ơi! Gạt đứa con nít có lẽ nó còn kinh ngạc nữa là. Nghe giống y hệt chuyện “nàng Kiều lâm nạn thời nay”! Nợ của bà dì, thì mắc mớ chi mà cháu gái họ xa xôi (nếu dùng củ cà nông bắn đi, chưa chắc đã trúng tới họ với hàng) mà cháu hờ… ấy phải nai lưng ong nuột nà ra, để gánh vác, đỡ đần cho bà dì có một đàn con cháu lít chít (chứ không phải do nợ của cha mẹ mình, hoặc cô ta... mắc phải ông chồng cao cấp, danh giá giàu sang, nên trừ cấn cho dứt điểm "món nợ hồi môn" ấy!? đành “hy sanh” cuộc đời son trẻ, tương lai rạng rỡ, hạnh phúc tình yêu)?! Ô là là... Sao nói dối ngọt xớt thế, mà không biết ngượng mồm loa mép dãi? hả trời!!!
Ngày Thư làm đám cưới, là đúng vào ngày đầu năm dương lịch, ngày ấy không xa ngày Hành đến bên cổng nhà nhìn Trân Thư núp lén sau rèm không muốn gặp mình bao lâu, Hành đã lái xe đến đậu ở bên kia bưu điện Sài Gòn sớm hơn một giờ. Anh ngắm nhìn xe hoa chở cô dâu chú rể trờ tới. Hành để ý quan sát tỉ mỹ thật kỹ: Rõ ràng Trân Thư không hề có cử chỉ ủ dột, miễn cưỡng, hay lo buồn, bâng khuâng thương tiếc người tình xưa, lẫn tiếc thương thân phận mình khi phải “ hy sanh bán mình” chuộc nợ cho "bà dì khả ố" nào cả. Ngược lại Thư đang hân hoan, hí hửng, khoan khoái, ung dung vui vẻ lí lắc rìu rịt cặp tay chồng. Nói đúng ra, cô ta chẳng hề có chút nào "bị" gượng ép, bị bắt buộc lấy chồng; để trả nợ đậy cho bà dì. Trái lại, coi cô ta rất lả lơi, hí hửng tình tứ nép sát vô ngực chồng, hai anh chị một già một trẻ dung dăng dung dẽ tiến vô vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn. Không hiểu ở trong nhà thờ Trân Thư có thở than cùng Chúa:
Người đâu gặp gỡ làm chi.
Để cho khổ thế còn gì tuổi xuân?
Chúa ơi! Con khổ vô ngần.
Chúa mà không giúp là thân con tàn.
Con đang thiếu nợ trăm ngàn.
Nhìn đồ “chồng” sắm hai hàng lệ rơi.
Con quỳ lạy Chúa trên trời.
Giúp cho con trốn được người con yêu. (*)
Hành ngồi trong xe hơi, lặng câm thừ người ra suy nghĩ miên man, buồn bã mất mươi phút. Khi nhìn thấy sự thật rõ mồn một và hiểu ra… anh vui vui chút ít, nên kết thúc xong một chuyện tình mà Hành cứ lầm tưởng là “đẹp như giấc mơ hoa dâm bụt”. Dẫu sao thì... khi xưa, đã rất nhiều lần anh giăng rộng vòng tay ra ôm ấp, ghì siết Trân Thư đắm đuối si dại tình tự. Hành cùng đi chung với cô nàng trên một đoạn đường đời luyến ái dài, khá dài khoảng trên một năm rưỡi cùng nhau yêu cuồng... cũng đủ để thấm đượm nỗi vui mừng ái ân cuống quít, hay hờn ghen nho nhỏ về chuyện xa xưa. Hành đã cười trên nỗi đắng cay bẽ bàng, vô duyên tệ lậu của đời mình. Ha Ha Ha!!! Anh mạnh dạn lái xe đi về nhà, cảm thấy lòng nhẹ nhõm, hết băn khoăn, sầu muộn. Quả thật đúng như thế, chẳng lẽ anh “rên”:
Người đi một nửa hồn tôi mất...
Một nửa hồn kia... đứng chưởi thề! (*)
Mãi về sau nầy khi an cư lạc nghiệp ở Mỹ, ly dị ông chồng già khú đế nhưng giàu sang đầy danh vọng xong. Năm 2005, bà ta gọi phone về nhà anh, tò te ỏn ẻn nỉ non tha thiết nói:
- Lúc em xa anh, mà đi lấy chồng đó; không ai hiểu được em đâu.
- Thì vâng! Anh hiểu! Hô hô hô!!!
*
(*) sưu tầm đó đây
***
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng
Comment