IV. RÉT, NÓNG, và BỆNH TẬT
Đói rét vẫn đi liền với nhau. Càng đói càng thấy rét, và càng rét càng thêm đói.
Chúng tôi được chở ra Bắc vào đầu mùa Đông năm ’76 là mùa đông rét nhất trong mấy mươi năm. Đêm rét nhất năm đó là 3o C. Thế mà trại giam không có cửa kính, nằm trên sập gỗ và chúng tôi thiếu áo ấm, thiếu mền, thiếu ăn. Có bao nhiêu áo quần đem mặc cả vào người, kể cả áo mưa. Có bao nhiêu khăn lông đem quấn cả vào đầu vào cổ. Có bao nhiêu tấm nylon đem che loạn cả lên. Người nào trông cũng giống như đàn bà đẻ ở nhà quê ngày xưa. Buồng nào trông cũng như buồng đẻ. Nhưng không có lò than để sưởi. Lạnh nhất là những hôm gió bấc mưa phùn tháng Chạp ta. Giá mỗi buổi sáng có một tô phở nóng nước béo ăn vào thì chắc ấm được ngay. Nhưng buổi sáng không có ăn gì. Buổi trưa ăn đói. Buổi chiều ăn đói. Cho nên bụng thì cồn cào lép kẹp, quần áo thì mong manh, mà rét năm ’76 kéo dài gần hai tháng liền. Rét liên tục từ Noël tới Tết. Sau Tết trời mới bắt đầu dễ chịu lại. Năm đầu tiên rét nhiều và thiếu áo ấm nhưng được cái là chúng tôi mới ra chưa phải lao động. Những năm sau thì ít rét hơn, và chúng tôi đã được gia đình gởi áo ấm ra (trại cũng có phát cho mỗi người một cái áo trấn thủ, tức là loại áo vải may kẹp bông bên trong nhưng bông mỏng thôi, và chỉ che được từ ngực tới giữa bụng, không có tay), nhưng lại phải làm lao động ngoài trời.
Mùa đông đầu tiên, có người rét quá, lấy tấm nylon quấn vào, lấy áo mưa nylon mặc vào mà ngủ, tưởng là ấm, nhưng vì hơi nước trong người bốc ra không bay hơi được, người ướt đẫm, sáng ra thì bị cảm. Đầu hôm còn ngủ được, từ nửa đêm trở đi sao mà nước mát, đến thế!
Anh Lê Thành Châu, (Tổng Giám đốc Khai Hoang Lập Ấp), nổi tiếng là sợ đỉa , nhưng đến ngày tắm giặt thì cũng bất chấp đỉa, cũng nhào xuống nước ngay.
Lúc nào chúng tôi cũng chỉ mặc có cái quần đùi. Buổi trưa nằm trong trại giam, người nào cũng chỉ có cái quần đùi, nằm sát nhau như cá hộp, hầu hết đều da bọc xương, trời thì nóng bức. Có lần giữa trưa nóng quá ngủ không được, tôi nhổm dậy nhìn quang cảnh đó và thầm nghĩ quá đúng là địa ngục rồi đây. Và tôi nghĩ giá có cái máy ảnh chụp được cảnh chúng tôi gầy gò, bụng lép, ngực đầy xương sườn, nằm thiêm thiếp sát bên nhau, mồ hôi nhễ nhại, trong trại giam đóng chặt giữa buổi trưa Hè nóng bức như thế này mà gởi qua Pháp cho báo Paris-Match đăng lên, thì chắc chắn không còn ai có thể nghi ngờ gì về cái địa ngục Cộng sản được nữa. Thanh Hóa nóng hơn Quảng Ninh vì chúng tôi ở xa biển và chịu ảnh hưởng gió Lào.
Trời nóng như thế, tắm giặt dơ bẩn khổ sở như thế, và ăn đói thì bệnh tật xảy đến là chuyện dĩ nhiên. Hầu hết chúng tôi đều mang bệnh trong mình. Kẻ bệnh phổi, người teo chân, kẻ đau dạ dày, người bệnh trĩ , kẻ thần kinh suy nhược, người đau răng… chẳng mấy ai thoát được. Mùa hè ’79, tất cả chúng tôi bị sảy ngứa cùng mình. Buổi trưa, buổi tối, ai cũng gãi sồn sột. Ai không lở lói, thì bị sảy ngứa là lấy làm may mắn rồi.
Mùa đông năm ’78 và đầu mùa Hè năm ’79, một số chúng tôi lâm vào tình trạng kiệt sức. Chỉ có 10% là tuy sức khỏe xuống nhưng không quá tồi tệ, còn có 90% là rất gầy yếu trong đó chừng 30% chỉ còn da bọc lấy xương.
Thuốc men của trại thì gần như không có gì. Hồi ở Quảng Ninh, đa số chúng tôi bi sán lãi, vì rau toàn bón bằng phân người. Cầu tiêu thì trong phòng giam. Mỗi ngày chúng tôi phải dọn cầu, gánh thùng phân ra, phân và nước tiểu nhỏ giọt vương vãi trên sàn. Cứ thế mà sán lải lan tràn. Ngày nào dọn phân cũng thấy mấy con lải đũa trong thùng phân. Thế mà báo cáo với trạm Y tế thì cán bộ Y tế trả lời là không có thuốc lải, và ‘‘giun thì ai chả bị, các anh nên khắc phúc, chết chóc gì mà sợ giun”.
Thuốc men đã không có, thuốc của gia đình người ta gởi ra lại kiểm soát, hạn chế. Cán bộ y tế khi kiểm soát thuốc trong Nam gởi ra, cứ phàn nàn là sao thuốc men trong Nam nhiều loại nhiều thứ rắc rối qua, chẳng biết thứ gì dùng vào bệnh gì. Ngoài Bắc thì chỉ có mấy loại thôi, giản dị lắm. Đã không biết thuốc nhưng lại cứ kiểm soát. Có lần tôi bị giữ thuốc lại, xin mãi mới được phát. Khi phát ra, cán bộ Y tế giảng đi giảng lại mãi rằng phải dùng thuốc cho đúng, rằng thuốc Dénoral là thuốc sốt rét… (thực ra thì Donéral là thuốc trị sổ mũi!)
Năm đầu ở Quảng Ninh thỉnh thoảng còn có phát Rinifon, Kavet.. Từ mùa Hè năm ’77 thì tịt luôn. Đau bụng, chỉ phát lá ổi để nấu mà uống. Thỉnh thoảng cho mấy thứ lá, ai có cảm thì nấu nồi nước lá mà xông. Xông không khỏi, hoặc có bệnh trầm trọng khác thì cho sang Bác sĩ Của châm cứu. Châm cứu không hết thì anh Của đưa lên trạm xá của trại, có cán bộ Y Tế khám. Cán bộ y tế chỉ là một y tá và trạm xá cũng chẳng có thuốc men gì. Có lần bác sĩ Của cõng một bệnh nhân lên trạm xá, anh em chúng tôi cười và chỉ trỏ ”hãy trông bác sĩ cõng bệnh nhân đến cho y tá khám”. Thỉnh thoảng có chích cho mũi thuốc thì không có thuốc sát trùng, chỉ lấy cục bông nhúng vào luộc luộc ống tiêm, chà chà trên da rồi chích.
Cũng có trường hợp cho đi bệnh viện. Nhưng đến nhà tù Cộng sản mà cho đi bệnh viện thì ít hi vọng trở về….
Ông bà ta nói “khéo co thì ấm”. Nhưng lạnh cỡ 3o C mà không có lò sưởi , không có cửa kính, không có mền, không có áo ấm, chỉ mặc mấy lớp quần áo mỏng và đắp một cái chăn mỏng thì co cách nào cho ấm nổi, thì không ai ngủ nổi.
Ông Lê văn Đồng, Thẩm phán bị bệnh phổi và đã cao tuổi, suốt đêm nằm ho. Anh Đỗ Kế Cầu bị bệnh suyễn suốt đêm nằm bơm thuốc (thuốc và bơm là của nhà mang đi) và nhiều phen không thở được . Co vào cũng rét, duỗi ra càng rét, nằm nghiêng cũng rét, nằm ngữa càng rét, tay để trong mền nhưng mền mỏng quá mà tay không mang găng nên bàn tay cóng lại, vành tai lạnh quá mất cả cảm giác. Mùa đông năm ’76 quả thật là mùa đông rét kinh hoàng của chúng tôi.
Khoẻ như bác sĩ Văn văn Của mà rét còn không ngủ được. Không ngủ được thì lại đói, đói quá. Nửa đêm, ông Của dậy bàn với ông Canh (Thiếu Tá) kiếm cách gì cho đỡ đói, đỡ rét. Thuốc lào hết rồi. Thuốc điếu không có. Thực phẩm dự trữ không còn gì. Loay hoay một hồi rồi ông Của tìm được gói muối nhỏ trong xắc. Bèn lấy ra cùng với ông Canh quẹt muối vào lưỡi cho mặn miệng rồi uống nước. Nhưng uống nước với muối vào thì bụng càng cồn cào thêm. Tôi nằm bên cạnh, rét quá không ngủ được nghe hai anh thì thầm bàn với nhau mà xót xa. Tôi tuởng tượng giá mình còn cục đường nhỏ thôi. Môt cục đường vào bụng được bao nhiêu calories. Người ta hay nói đùa “hột muối cắn đôi, hột đường đớp hết”. Không biết lúc đó tôi còn cục đường thì có thức dậy lấy chia cho anh Của và anh Canh nổi không. Giá có cục đường chắc phải nghĩ ngợi găng lắm. Nhưng không có gì, thôi đành nằm yên chịu rét. Lúc ấy chúng tôi đang ở phòng số 3 trại Quảng Ninh, và đang là tháng chạp năm Thìn. .
Mùa Hè thì nóng. Trại Quảng Ninh tương đối khá vì gần vịnh Hạ Long, khí hậu không đến nổi quá nóng, và nhà giam lợp ngói, nước tắm đầy đủ. Trại nầy vốn khi xưa là một trại nhà binh Pháp nên có hệ thống nước lấy nước suối trên núi xuống, các bồn nước lúc nào cũng đầy.. Chỉ phiền là khi trời mưa thì nước suối đục, nước trong bồn cũng đỏ ngầu. Nhưng được thế cũng quý lắm rồi, cũng có chút tiện nghi của “thực-dân đế-quốc” để lại.
Khi vào trại số 5 Thanh Hóa, mà phân trại B và phân trại C là hoàn toàn của “Xã hội Chủ nghĩa” xây cất, thì buồng giam quá nóng, và không đủ nước dùng. Khi đến phân trại B, chúng tôi có đào thêm giếng và lúc đó còn trong mùa mưa, mạch nước lúc nào cũng đầy. Còn phân trại A là nơi có bộ chỉ huy của trại giam số 5 thì nguyên là một khu cơ sở gì không rõ, của Pháp xây cất từ trước năm 1945, nên cũng còn được.
Mùa Hè nóng nực và khổ sở nhất cho chúng tôi là mùa Hè hạn hán năm 1979. Lúc đó chúng tôi ở phân trại C. Nước không có chúng tôi chỉ tắm rửa bằng nước ruộng, nước ao. Theo quy định, một tuần lễ chỉ được tắm hai lần, sau buổi làm lao động khổ sai ngoài đồng. Nước ao, kế liền đó là ruộng, trâu dẫm ở đó, phân bón ruộng, phân tưới rau cũng chạy ra đó, nước đục ngầu và đầy những đỉa, thế mà đến ngày tắm giặt là chúng tôi mừng lắm. Chúng tôi cũng nhìn thấy nước đục, nước dơ bẩn đấy, nhưng vẫn cứ tranh nhau nhảy xuống.
Từ Quảng Ninh vào Thanh Hóa, nhóm chúng tôi khoảng 500 người (hồi mới ra thì 800 người, nhưng đã được đưa trước vào trại 90A một số rồi), bị chết khỏang 30 người vì bệnh trong thời gian ’78, ’79.
Anh Lưu Trương Không (?) (trước là Giám đốc tại Bộ Chiêu Hồi) bị chết vì biến chứng của bệnh phù thủng. Anh Chung (Thiếu Tá Cảnh Sát) đang ngồi sinh hoạt học tập, bỗng gục xuống chết vì bệnh tim và kiệt sức. Khi di chuyển từ Quảng Ninh về Thanh Hóa, anh Bé (Trung Tá) bị bệnh chở ra bệnh viện Hòn Gay rồi không thấy vào Thanh Hóa, về sau nghe nói đã chết. Anh Minh (Đảng Dân Chủ), anh Ngô Chuẩn (Cảnh Sát) đi bệnh viện Thanh Hóa, không thấy trở về.
Còn nhiều nữa, nhưng tôi không nhớ tên.
Kinh hoàng nhất là Trạm xá phân trại B trại số 5 Thanh Hóa, nơi các bệnh nhân nằm mà chỉ chờ chết. Tháng 8 năm 1978, khi chúng tôi mới từ Quảng Ninh vào Thanh Hóa, chúng tôi đã đếm được 18 tù hình sự chết nội trong tháng đầu. Mà số tù hình sự chết ở phân trại nầy chỉ độ 300 thôi. 300 tù mà một tháng đã chết 18 người! Và nhìn vào trạm xá thì thấy các bệnh nhân trông đúng là các bộ xương. Anh em để ý kỹ thì thấy dường như chỉ có một cái hòm dùng đi dùng lại. Mỗi lần có người chết, bỏ vào hòm khiêng ra, nhưng chắc là chỉ chôn xác mà không có hòm. Hòm có lẽ được khiêng trở vào lúc ban đêm, để lần khác dùng nữa.
Anh Bùi văn Bảy, (trước là Thiếu Tá, chuyên viên điện toán tại Bộ Cựu Chiến Binh), bị kiệt sức và lao phổi ho ra máu, người chỉ còn da bọc xương và xanh mét. Thế mà vẫn để nằm ở trạm xá phân trại C, sống lây lất nhờ anh em trong tù giúp đỡ thuốc men và thức ăn.Trường hợp anh Bảy là một trường hợp rất đáng thương tâm. Anh đi ở tù, chị Bảy bệnh tim nặng chết vào năm 1977, một đứa con nhỏ chết vì té lầu, những đứa còn lại phân tán nhờ vã bà con sống cho qua ngày. Bà con cùng xóm với gia đình anh Bảy thấy hoàn cảnh qua thương tâm và thấy anh Bảy trước kia chỉ là chuyên viên điện tóan lo về hồ sơ cô nhi quả phụ tại Bộ Cựu Chiến Binh, nên họp nhau làm đơn xin cho anh Bảy về, theo tinh thần ”nhân dân làm chủ”. Nhưng đơn của nhân dân lối xóm gởi đi, Công an chẳng thèm trả lời, trong khi đó anh Bảy không được gia đình tiếp tế vì các con còn nhỏ và quá nghèo, nên đã kiệt sức chỉ còn nằm đợi chết trong tù.
Còn nhiều trường hợp lắm nhưng tôi không nhớ tên. Trong trại giam, buồng nầy buồng kia ngăn cách nhau, cấm không cho liên lạc với nhau nên thường chỉ thấy mặt quen mà không biết tên.
Những bệnh không có tính cách cấp tính như trĩ, đau răng, đau dạ dày…thì trại coi như không, bắt đi làm lao động như thường và không có thuốc men gì cả. Đau dạ dày vẫn phải ăn mạch cả vỏ, và ăn sắn như thường, nếu không muốn nhịn đói hoàn toàn. Trên nguyên tắc, mỗi ngày ai bệnh có thể ghi tên xin ăn cháo. Nhưng thực tế, trong thời gian ăn mạch và sắn thì việc ghi tên xin ăn cháo rất là hạn chế vì lẽ không có gạo nấu cháo. Mỗi ngày một đội chỉ được ghi cho một người ăn cháo thôi. Nếu có nhiều người bệnh, cũng chỉ chọn lấy một người. Trong nhà tù Cộng sản , một tô cháo ăn với muối cũng là ân huệ đặc biệt lắm đấy.
Nhức răng xin muối ngậm cũng khó khăn lắm. Cán bộ bảo là theo nội quy, cấm phạm nhân giữ muối. Chúng tôi hiểu là muối có tác dụng làm mau hư hại các song sắt của trại giam. Nhưng điều buồn cười là trại giam lợp tranh, vách đất, thì nếu muốn trốn, việc gì người ta phải tính chuyện phá song sắt. Đối với trại giam ở Miền Bắc, việc trốn ra khỏi trại không khó, cái khó là làm sao thoát được về đến nhà hay đến chỗ an toàn mà không bị bắt lại.
Bệnh đau răng rất là phổ thông trong trại giam. Nhiều người bị sưng hàm, sưng mặt. Chính tôi cũng bị sưng mặt lên rồi. Đầu năm 1980, tôi vừa về đến nhà, vợ tôi là Nha sĩ, phải mổ ngay vì thấy cả mấy chân răng đều làm mủ , và mủ đã bắt đầu lan ra về phía trên mũi rồi.
Mùa Đông thiếu áo, mùa Hè nóng và dơ bẩn, quanh năm đói, bệnh tật thì “khắc phục”. Đảng và Nhà nước Cộng sản chỉ biết nhốt chúng tôi và bắt chúng tôi làm khổ sai, chết thì chôn..
Trước kia, trong chế độ Cải Huấn của ta, mỗi khi có tù chết trong trại giam là Biện lý đến điều tra, quy trách cho Quản đốc Trung Tâm về vấn đề chữa bệnh cho tù nhân, hạch hỏi tại sao không đem đi bệnh viện kịp thời. Trung Tâm phải báo ngay cho thân nhân người chết theo thời hạn luật định, để thân nhân đến còn nhìn thấy được thi hài và có quyền khiếu nại nếu thấy có điểm nghi ngờ.
Còn trong chế độ cải tạo của Cộng sản , chết là đem chôn ngay, chẳng thông báo cho thân nhân gì cả. Hồi ở trại Long Thành, tôi thấy ông chồng bà bác sĩ Vũ thị Thoa bị chết trong trại, bà Thoa ở Sàigòn chỉ cách Long Thành có mấy chục cây số, mà không có thông báo gì cả, đem chôn luôn. Một anh khác, là nhân viên Phủ Đặc ủy Tình Báo, sau khi anh chết trong trại bốn tháng rồi, mẹ anh vẫn còn gửi thư và quà đến trại cho anh vì tưởng con mình còn sống! Còn nói gì đến trại “cải tạo” Miền Bắc xa cách Miền Nam, ai hơi đâu mà thông báo. Chết thì chôn ngay. Không cần hòm.
V. KHỔ SAI
Mỗi bước vào nhà tù Cộng sản, ai cũng được nghe thuyết ngay rằng “Lao Động là Vinh Quang”. Câu nầy thực ra chẳng mới mẻ gì. Vã lại chúng ta chẳng ai khinh lao động, dù là lao động chân tay hay trí óc. Có thể có một số người ở thành phố, giầu sang, ngại lao động chân tay. Nhưng đó chỉ là số ít và tất cả chúng ta đều biết rằng, nếu chúng ta ngại làm việc chân tay thì đó là vì chúng ta lười biếng, hoặc vì thấy lối làm việc đó không đem lại kết quả bằng những phương cách làm việc khác, chứ chúng ta không hề có ý khinh bỉ lao động chân tay. Quan niệm kẻ giàu sang không thèm động đến chân tay, cái gì cũng phải có kẻ hầu người hạ, là quan niệm đã qúa xưa mà chúng ta không cần phải nhắc đển để bàn cãi gì nữa.
Nhưng Cộng sản thì cứ làm như là mọi người không ai chịu lao động, nên cứ hô hào “lao động là vinh quang” để bắt người ta làm khổ sai cho chúng. Người ta không muốn làm lao động trong chế độ Cộng sản không phải vì khinh lao động , nhưng vì người ta thấy rõ là chỉ làm khổ sai, làm dưới sự chỉ huy của những tên cán bộ dốt nát, và làm ra được cái gì thì Đảng và Nhà nước lấy đi chứ không phải mình hưởng. Mà Nhà nước lấy đi để xử dụng vào việc gì thì chỉ có Đảng và Nhà nước biết, chứ “nhân dận làm chủ” thì chỉ có quyền tiếp tục lao động khổ sai chứ không có quyền biết về sản phẩm của mình.
Ở ngoài xã hội đã thế, trong trại giam tất nhiên phải tệ hơn nữa. Mỗi ngày chúng tôi phải làm lao động ít nhất tám giờ. Ngày thứ bảy cũng phải làm nguyên ngày. Ngày chủ nhật được nghỉ. Nhưng cứ vài tuần lại có một ngày Chủ Nhật làm “lao động Xã hội Chủ nghĩa”. Ngoài xã hội, “lao động xã hội chủ nghĩa” có nghĩa là làm việc ngày Chủ Nhật không được ăn lương. Trong trại giam, tất nhiên là không ăn lương rồi. Trong khi chế độ tự do buộc chính quyền và chủ nhân phải trả tiền phụ trội cho công nhân, viên chức khi làm việc trong ngày nghỉ hoặc giờ nghỉ, thì chế độ Cộng sản bắt làm không lương trong ngày nghỉ và gọi đó là “lao động Xã hội Chủ nghĩa”.
Giờ làm việc được quy định tùy theo mùa. Mùa làm thông tầm (làm luôn trưa), có khi về trại nghỉ trưa, nhưng thời gian nghỉ trưa rất ngắn. Mùa hè thì nghỉ trưa lâu nhưng phải đi làm thật sớm trong buổi sáng và về rất trễ trong buổi chiều. Dù sao, tổng cộng cũng phải đủ 8 giờ.
Tù nhân được tổ chức thành đội và tổ. Mỗi đội gồm chừng 40, 50 người. Ban Tư Quản do trại chỉ định, gồm có đội trưởng, tất cả mọi việc trong đội cho cán bộ quản giáo. Cán bộ quản giáo đội là người của ban Giám thị đưa đến để theo dõi đội hàng ngày. Mỗi buổi đi làm, ngoài cán bộ quản giáo, còn có hai cảnh vệ vác súng đi theo canh chừng. Muốn đi tiểu tiện, đại tiện, phải xin phép cảnh vệ. Đi xong, trở về chỗ làm việc, phải báo cáo.
Ai làm việc kém, bị coi là lơ là thì bị cắt bớt khẩu phần lương thực. Theo quy chế, khẩu phần tính chung là 15 ký gạo mỗi tháng. Ai làm việc kém, bị ăn 13,5 ký một tháng. Ai làm giỏi được ăn 18 ký. Nhưng Nhà nước không cho thêm lương thực, cho nên nếu có một người ăn 18 ký thì phải có hai người ăn 13 ký rưởi để bù lại chỗ thiếu. Ngược lại, nếu có nhiều người ăn 13 ký rưỏi, thì không bắt buộc phải có người ăn 18 ký. Cho nên người nào tỏ ra mình lao động giỏi, lấy điểm với cán bộ để được ăn 18 ký, là ăn trên khẩu phần của người khác.
Như đã nói trong mục ĐÓI, khẩu phần 15 ký thực ra không bao giờ có đủ, mà chỉ độ 10 đến 12 ký thôi; cho nên khẩu phần 13 ký lại càng thê thảm. Ngoài việc ăn 13 ký, còn có thể bị nhốt vào phòng kỷ luật với lý do “lãng công”, “chống đối lao động”. Nhốt vào phòng kỷ luật, thì nhốt biệt giam, phòng tối, bị cùm một chân hoặc hai chân, và chỉ ăn khẩu phần 10 ký, nghĩa là mỗi bữa ăn một nắm cơm, nếu là bữa ăn cơm, hoặc 1 -2 khúc sắn nhỏ, nếu là bữa ăn sắn. Vào phòng kỷ luật, chỉ vài tuần là người xanh lướt, đi không nổi, rất dễ bị liệt. Cho nên mặc dầu biết lao động thực ra chỉ là khổ sai, chúng tôi vẫn phải đi làm hằng ngày để khỏi vào phòng kỷ luật, giữ lấy mạng sống hầu có ngày gặp lại vợ con, có ngày làm cái gì cho Tổ Quốc.
Hồi ở trại Quảng Ninh, chúng chưa áp dụng việc cắt giảm khẩu phần đối với những người yếu lao động. Vào đến Thanh Hóa, ở phân trại B, chúng muốn áp dụng, nhưng gặp lúc chúng tôi đấu tranh, nhất định, không bình bầu ai 18 ký, ai 13 ký gì cả, và tuyên bố hẳn với cán bộ rằng dù có phân biệt khẩu phần thì về đến đội, chúng tôi sẽ chia đều ra mà ăn. Chúng tạm hoãn việc áp dụng qui chế này. Nhưng đến đầu năm 1979, tại phân trại C, chúng tự chỉ định người ăn 13 ký, 18 ký và cho biết nếu không ăn đúng như thế chúng sẽ nhốt vào phòng kỷ luật. Thực tế, chúng đã nhốt một số vào phòng kỷ luật nên chúng đã áp dụng được khẩu phần phân biệt. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn trao phần ăn cho nhau để luân phiên chịu phần ăn 13 ký.
Năm 1979, tôi và Hoàng Xuân Hảo ăn chế độ 13 ký trong ba tháng liền. Cũng may là lúc đó chúng tôi đều đã được vợ ra thăm nuôi, nên chẳng ngại gì việc khẩu phần sút giảm. Chúng tôi ngồi ăn khẩu phần 13 ký, vui vẻ đua nhau “binh xập xám”. Thế mà cũng có người báo cáo, và tên cán bộ quản giáo lại xỉ vả chúng tôi.
Công việc thì tùy từng đội. Có đội trồng rau, có đội đập đá, có đội làm gạch, có đội làm lò rèn, có đội đi xây nhà, sửa đưòng, có đội đi đào đá ong. Ngoài ra còn có đội làm bếp.
Hồi ở Quảng Ninh, tôi ở đội 4, phụ trách phá núi để trồng chè. Đây là công việc nặng. Núi phần lớn là đá sỏi, khi cuốc phải dùng cuốc chim. Chúng tôi phải khai hoang trước, sau mới cuốc cho núi thành từng bậc tam cấp, trên mỗi bậc phải dùng cuốc chim đào mương rồi gánh đất thịt từ dưới chân núi lên đổ vào các mương cho đầy, xong mới trồng chè trên các mương đó. Phải chi đất đều đã tận dụng cả rồi mới khai thác đến núi đá bằng cách đó thì còn có lý. Đằng này đất ở dưới còn chưa khai thác hết, và khai thác rất cẩu thả, thế mà lên núi đá trồng chè theo kiểu phí sức như thế, thực chẳng hợp lý về kinh tế chút nào cả. Nhưng ”nước sông còng tù”, chúng cứ bắt chúng tôi làm như thế. Năm đầu chúng tôi trồng xong, năm sau đi làm việc khác, nhìn lại đồi chè thấy toàn cỏ dại vì chẳng có phân công cho đội nào chăm sóc cả.
Việc trồng rau, mới nghe tưởng nhẹ, nhưng cũng không nhẹ đâu. Không có hệ thống tưới, chúng tôi phải gánh nước để tưới. Mỗi ngày, gánh hàng trăm đôi nước, đường đi phải lên dốc xuống gò trong khi bụng đói thân gầy, chẳng phải là chuyện dễ. Lại còn cái nạn tưới phân Bắc (phân người). Phân không kip ủ đã bắt lấy ra dùng. Dòi bọ và lải tùm lum trong đó. Lúc ở Quảng Ninh phải lấy phân cả những cầu tiêu khu nữ tù nhân thì có cả những “băng” vệ sinh trong ấy, gánh phân có khi đỏ lòm! Mà chúng tôi chẳng ai có găng tay, giày bốt gì cả. Cứ cởi trần ra, tay trần chân không, độc có cái quần đùi, nhảy xuống đống phân, vọc vào thùng phân, pha nước mà tưới. Làm xong thì tắm xà-phòng cũng là xà-phòng của nhà gửi ra chứ xà-phòng trại phát một năm chỉ dùng một tháng. Mùa nóng thì làm công việc này xong, tắm rửa không có gì trở ngại. Mùa rét mà làm công việc này, không tắm không được, mà tắm xong thì người xanh xám vì lạnh cóng.
Mỗi năm cứ theo mùa mà trồng rau. Mùa Hè rau muống, mùa Thu cải thìa, mùa Đông cải bắp và su hào. Ngoài ra có trồng thêm bí ngô. Trại Quảng Ninh hay Thanh Hóa thì thấy quanh đi quẩn lại cũng chi trồng có thế thôi.
Ở Quảng Ninh, đầu năm 1978, thu hoạch được cải bắp và su hào rất khá, nhưng chúng tôi chẳng được ăn bao nhiêu. Cải bắp thì chúng tướt lá xanh bên ngoài (thứ lá thường vứt đi hoặc nấu cho heo ăn) cho chúng tôi ăn. Còn bắp cải thật sự thì cán bộ ăn hoặc chở đi bán. Su hào thì thỉnh thoảng mới được ăn quả su hào nấu với muối, còn thường thì chỉ ăn canh lá su hào mà thôi.
Hồi ở trại số 5 Thanh Hóa, chúng tôi thấy những câu khẩu hiệu nhan nhản ở ngoài đồng, trong đó có câu:
Hạt lúa là hạt lúa vàng,
Phơi khô quạt sạch, sẵn sàng nhập kho.
Câu này diễn tả có phần đúng. Phơi khô, quạt sạch lúa rồi để nhập kho Nhà nước, chứ không phải để mình ăn. Nhà nước quản lý mà. Hồi đó anh em tụi tôi vẫn thường cười câu nói của Cộng sản “Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo”. Công việc của người làm chủ, thực ra chỉ là việc lãnh đạo và quản lý, thế mà hai việc nầy Đảng và Nhà nước nắm cả rồi, thì Nhân dân còn công việc gì để làm chủ nữa? Nhân dân chỉ còn công việc lao động, sản phẩm của lao động thì được nhập kho Nhà nước, thế là xong.
Chúng tôi là thân phận thằng tù, đâu dám bì với nhân dân. Thế mà nhân dân còn vậy, huống gì chúng tôi. Chúng tôi có kêu ca cũng chẳng được, đành cứ làm lao động sản xuất, và được bao nhiêu gạch, bao nhiêu lúa (tại trại số 5 Thanh Hóa, có trồng lúa nhiều nhưng do các đội tù hình sự làm), bao nhiêu rau, bao nhiêu đá dăm, bao nhiêu đá ong v.v.. thì những sản phẩm nầy được chở đi đâu, được xử dụng như thế nào, chúng tôi không có quyền hỏi đến. Truớc kia, trong chế độ Cải Huấn của ta, có các Trung Tâm dạy nghề, và sản phẩm làm ra, sau khi trừ vốn và bỏ một phần nhỏ vào quỹ điều hành, được kể là của phạm nhân có công sản xuất. Tiền bán được sẽ ghi vào sổ cho phạm nhân đó để họ tiêu dùng. Còn chi phi ăn uống của phạm nhân thì hoàn toàn do ngân sách quốc gia đài thọ. Chính quyền Cộng sản miệng chửi người khác bóc lột, nhưng chúng bắt tù làm khổ sai và tiền bán sản phẩm được nhập quỹ Nhà nước. Tất cả tù đều phải làm khổ sai. Cho nên Cộng sản có thể giam giữ rất nhiều tù mà không sợ tốn. Có lẽ Nhà nước còn có lợi khi giam giữ tù chứ chẳng phải chi tiêu gì.
Cộng sản chửi địa chủ, nhưng chúng tôi thấy không có người địa chủ nào có thể bắt tá điền làm việc cực nhọc như chúng tôi (cuốc núi đá, đào đá ong, hốt phân người…) mà lại cho ăn bằng thức ăn dành cho súc vật, và ăn quá đói.
Qua mấy trại giam, chúng tôi thấy thời gian ở phân trại C, trại số 5 Thanh Hóa là cực khổ nhất về phương diện lao động. Sau cuộc đấu tranh cuối năm ’78 và đầu năm ’79, chúng đàn áp tàn bạo, và bắt chúng tôi làm khổ sai thật nặng. Mùa hè năm ’79, đội chúng tôi phụ trách trồng sen trong một khu hồ rất rộng. Muốn trồng sen, trước hết phải dọn hồ. Hồ toan là gai góc, cỏ rậm, ở gần khu gia đình cán bộ, phân người tùm lum dưới hố. Và đỉa, chao ôi là đỉa. Nhất là lúc hết xuân sang hè, sao mà đỉa ra lắm thế. Hồ này rộng phải đến có mấy chục mẫu. Đội chúng tôi chỉ có 30 người, cũng có lúc được các đội khác tăng cường, phái xuống hồ, hụp lặn mà gỡ cho hết gai góc, dọn cho sạch cỏ và cây dại, rồi mới đi nhổ sen giống về trồng. Buổi nào làm lao động xong, người chúng tôi cũng đầy máu vì đỉa. Anh Nguyễn Thành Danh (trước là Thiếu tá , con trai ông Nguyễn văn Vàng cựu Bộ trưởng tại Phủ Thủ Tưóng), có lần bị hai con đỉa chui vào dương vật, may mà chúng nó vào một lát rồi theo đường nước tiểu chui trở ra, vì không chịu được nhiệt độ nóng trong cơ thể con người. Nhưng chúng nó đã cắn hút máu bên trong rồi và anh Danh thuộc loại máu khó đông đặc nên không cầm máu được. Cứ thế máu chảy qua đến ngày hôm sau, quần đỏ lòm, chúng tôi đùa là “lâu lắm mới thấy một người có kinh nguyệt”. Sau, phải kiếm Vitamine K trong anh em cho anh ấy mới cầm được máu. Tiến sĩ Hoàng Xuân Hảo thì người thấp mà không biết bơi, gặp có chỗ hồ sâu lút đầu, mấy lần suýt chết đuối.
Chúng tôi vừa ngâm mình dưới hồ, vừa nhắc cho nhau lịch sử Việt Nam. Việt sử chép rằng khi quân Tàu sang đô hộ, chúng rất tàn bạo, bắt dân ta lên núi tìm sừng tê giác, xuống biển mò ngọc trai.. Xuống biển mò trai thì nước biển còn sạch mà không có đỉa. Còn nay Cộng sản bắt dân ta xuống hồ trồng sen cho cán bộ chúng ngồi chơi hồ sen với nhau, mà hồ nước thì dơ bẩn đầy những cứt đái, gai góc và đầy đỉa. Và người làm dưới hồ thì toàn là thành phần trí thức của dân tộc Việt Nam . Hòa giải hòa hợp dân tộc của Cộng sản là thế đấy.
VI. KHAI BÁO, KIỂM ĐIỂM
Trong nhà tù Cộng sản, chúng có đề ra 4 tiêu chuẩn mà chúng gọi là bốn tiêu chuẩn cải tạo:
1. Khai Báo
2. Lao động, nội quy
3. Thi hành nội quy
4. Tố giác lẫn nhau
Điều mà Cộng sản muốn chúng tôi làm trong trại giam là: (1) khai báo tất cả các hoạt động công khai hay bí mật của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trước kia và nhất là các hoạt động của Mỹ. Về 3 tiêu chuẩn còn lại, thì (2) chúng muốn chúng tôi làm khổ sai cho chúng, thỉnh thoảng có sách báo Mác-xít thì đọc và nói như những con vẹt; (3) giữ trật tự trong trại; và (4) dòm ngó nhau trong anh em để báo cáo tất cả những lời nói hành động của anh em cho tên cán bộ quản giáo biết..
Chúng bắt chúng tôi khai báo rất nhiều lần. Riêng thời gian đầu ở Long Thành đã phải khai báo hàng chục lần rồi. Khi ra Bắc, chúng lại bắt chúng tôi làm lại các bản tự khai. Trước mỗi lần khai báo, chúng soát xét đồ đạc của chúng tôi để tịch thu tất cả những bản thảo của những kỳ khai báo trước còn giữ lại. Mục đích là để chúng tôi mỗi lần khai đều phải dùng trí nhớ mà viết ra, và nếu khai dối thì các bản khai sẽ không phù hợp nhau được.
Trước khi khai báo, luôn luôn chúng hướng dẫn buộc chúng tôi phải nhận tội. Trong trại tù Cộng sản, tù nhân bị bắt buộc phải nhận tội, và nhận tội nhiều lần. Không nhận tội thì chúng ghép vào tội ngoan cố, trừng trị nặng hơn bằng các phương cách khác. Nhận tội thì chúng sẽ nói rằng chính các anh đã nhận tội, và như thế chúng tiếp tục giam giữ.
Thực ra, về sau nầy, chúng có vẻ không thiết tha lắm trong việc buộc chúng tôi nhận tội, vì dù nhận hay không thì chúng cũng cứ giam giữ dài dài, chúng chẳng cần có căn bản gì để kéo dài sự giam giữ. Nói về pháp lý, thì việc giam giữ chúng tôi, ngay từ đầu đã không có căn bản rồi. Nhưng chúng còn chống chế bằng việc ban hành chính sách cải tạo 3 năm cho đám chúng tôi. Tuy nhiên, đến khi qua hạn 3 năm, chúng cứ lì ra, khi thì đổ cho tại Trung quốc gây chiến (mà chúng tôi có trách nhiệm trong việc đó đâu, và có theo Trung Cộng bao giờ đâu), khi thì nói rằng chính quyền vô sản chuyên chính không cần gì căn bản pháp lý đối với kẻ thù giai cấp! Và nếu ai hỏi tới thì chúng cho vào nhà kỷ luật mà cùm chân lại, thế là xong.
Mục đích chính của những cuộc khai báo là chúng muốn moi tin tức. Nhóm chúng tôi từ Long Thành ra Quảng Ninh rồi vào Thanh Hóa gồm đủ thành phần: công chức cao cấp, sĩ quan quân đội, cảnh sát (phần lớn là cấp Tá), tình báo, đảng phái, dân biểu, nghị sĩ v.v… Trong các thành phần nầy, chúng chú trọng nhất là các nhân viên Phủ Đặc ủy Tình báo, và sĩ quan Cảnh sát quốc gia, nhất là ngành Cảnh sát đặc biệt. Mải đến đầu năm 1980, tôi vẫn thấy hai thành phần nầy còn bị gọi lên gọi xuống để hỏi mãi về những hoạt động tình báo trước kia. Việc thẩm vấn nầy do nhân viên của Bộ Nội-vụ đến phụ trách chứ không phải nhân viên trại giam. ·
Đợt khai báo mà chúng tổ chức kỹ càng nhất, là đợt khai báo đầu năm 1978 ở trại Quảng Ninh. Chúng lợi dụng việc chúng tôi sắp hết hạn ba năm cải tạo để phỉnh gạt chúng tôi khai báo trong đợt đó.
Cán bộ Bộ Nội-vụ về trại giam thuyết rằng đến đúng 3 năm là chúng tôi về cả, chỉ trừ một số rất ít mà thôi. Tuy nhiên hãy còn tùy thuộc đợt khai báo nầy. Ai khai báo lập công, cung cấp được những tin tức quý giá có lợi cho Cộng sản sẽ được về trước, ai dấu diếm sẽ bị “lưu ban” (lưu ban nghĩa là ở lại, không được về). Chúng chia chúng tôi ra từng tổ khai báo, mỗi tổ chừng mươi người, có một tên cán bộ theo dõi hàng ngày. Đợt khai báo nầy kéo dài đến ba tháng. Mỗi người chúng tôi phải viết một tập, có người viết đến hơn 500 trang, viết ngắn cũng phải 100 trang.
Trước khi viết, phải thảo luận trong từng tổ về cách viết, và các đề tài liên quan đến việc viết tự khai. Tôi còn nhớ trong một cuộc thảo luận tổ, anh Nguyễn Ngọc Xuân có đặt vấn đề quy chế của chúng tôi trong trại giam là quy chế gì, có phải là tù binh không, và hiệp định Paris có còn giá trị không. Anh cũng nêu lên rằng chính phủ (Cộng sản) vẫn còn đòi Mỹ thi hành điều 21của hiệp định Paris, thế thì chắc hiệp định Paris vẫn còn giá trị chứ. Mấy tên cán bộ hướng dẫn thảo luận chú ý ngay anh Xuân, và sau đợt khai báo, chúng cho anh Xuân vào nhà kỷ luật cùng với 5 vị Linh mục, rồi sau đó, di chuyển những người nầy đi trại khác. Trong số 5 vị Linh mục, có Linh mục Phạm Hữu Nam, Dòng Chúa Cứu Thế, có lần được chúng gọi lên phát biểu ý kiến trong buổi thảo luận chung, Linh-mục đã tỏ ý coi thường chúng bằng câu nói “đối với tôi, tu sĩ Nhà Dòng, thì trại giam hay Dòng tu cũng thế thôi”.
Đến tháng 5 năm 1978, chúng kết thúc các đợt khai báo nầy, và tỏ ý thất vọng; nhiều tên cán bộ nói “các anh chỉ làm tốn giấy mực, tốn thì giờ, viết lung tung mà chẳng có gì cả”.
Không biết thực ra kết quả ra sao, nhưng điều rõ ràng là đến tháng 6-1978, đúng hạn 3 năm của chúng tôi, chẳng có người nào được thả về. Sau đó, chúng vẫn tiếp tục các cuộc thẩm vấn đối với thành phần Tình báo và Cảnh sát.
Thực ra chúng tôi đã ở tù lâu năm, dù có biết chuyện gì thì cũng mất thời gian tính cả rồi. Những điều chúng muốn hỏi nhất đó là việc cài người vào trong hàng ngũ của chúng. Trong đợt khai báo, chúng khuyến khích chúng tôi tố giác những người trong hàng ngũ của chúng mà có hoạt động cho Việt Nam Cộng Hòa hoặc cho Mỹ, coi đó là ưu tiên 1. Chúng liệt kê từ Phó Chủ tịch Nhà nước trở xuống, cứ việc tố cáo. Khi nghe vậy chúng tôi nghĩ ngay đến Nguyễn Hữu Thọ, và chắc rằng cái ông “Mặt Trận Giải Phóng” nầy mặc dầu được chúng dựng lên, nhưng lúc nào chúng cũng nghi ngờ. Khi những tên Công an cấp thấp mà cũng dám đề cập đến việc tố giác Phó Chủ tịch Nhà nước, thì chắc rằng quyền hành thực sự của ông nầy chẳng có gì.
Chúng bắt chúng tôi tố giác cả bà con ruột thịt của mình. Nhưng phần lớn chúng tôi đều viết dài dòng về những điều mà ai cũng biết, chẳng có hại cho ai. Đám hành chánh chúng tôi viết thật dài về công việc thường ngày của người công chức hành chánh, về kế toán lương bổng, kế toán vật liệu, quản trị nhân viên, v.v.. là những vấn đề mà giấy tờ hồ sơ hãy còn đầy tại các công sở sau ngày sụp đổ. Chúng chỉ chú trọng hạch hỏi về tình báo, còn đám công chức, sĩ quan quân đội thì thường chúng chỉ hỏi lấy lệ, nhưng cũng có hỏi, để tỏ ra chúng khỏi phải chỉ nhằm vào tin tức tình báo, mà nhằm vào việc “cải tạo con người”. Nhưng chúng tôi cũng chẳng quá ngu mà không nhận xét được.
Trong những đợt khai báo, chúng tôi có cảm tưỏng rằng chúng không được vững về hàng ngũ của chúng. Có lẽ chúng nghi ngờ nhất là những thành phần Saigòn chống đối chính quyền Việt Nam Cộng Hoà và nay hợp tác với chúng. Anh em thuộc Phủ Đặc ủy Tình Báo bị hỏi nhiều nhất là về những thành phần nầy. Trong con mắt của chúng, người nào cũng có thể là CIA. Vã lại, chúng cho rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ kìm kẹp, làm sao những người như bà Ngô Bá Thành, Huỳnh Tấn Mẫm.. lại có thể hoạt động chống đối công khai như thế nếu không có cái gì bên trong. Chúng vẫn lợi dụng những người nầy, vẫn cho họ vào đoàn thể của chúng, có thể ngay từ trước 1975, nhưng nghi ngờ thì chúng vẫn nghi ngờ. Một đặc điểm của chế độ độc tài là tính đa nghi.
Trong đợt khai báo, cũng có người khai báo rất hăng. Không tù nhân nao được biết nội dung khai báo của người khác, nhưng nhìn sự lo lắng chăm chỉ, nhìn cách thảo luận, cách hỏi han, cách xum xoe với cán bộ, ta có thể biết những kẻ cố gắng muốn nhờ đợt khai báo nầy mà được về. Kết quả là dù khai thế nào thì cũng chẳng có ai về cả.
Ngoài việc khai báo, mỗi 3 tháng, 6 tháng, 1 năm đều có làm kiểm điểm tam cá nguyệt, lục cá nguyệt, và kiểm điểm hằng năm. Mục đầu tiên kiểm điểm bao giờ cũng là về tư tưỏng, kế đó là lao động, hoc tập, thi hành nội quy, đấu tranh tố giác lẫn nhau. Càng những năm về sau, chúng tôi càng coi thường những phiên họp kiểm điểm, và những bản kiểm điểm nầy. Mặc cho bọn cán bộ nói ba hoa, chúng tôi cứ lẵng lặng viết vắn tắt trong bản kiểm điểm. Về tư tưởng, lúc nào chúng cũng muốn chúng tôi viết về “tin tưởng, yên tâm cải tạo”. Giam giữ người ta, ban đầu nói là học tập 1 tháng, sau thành cải tạo 3 năm, sau thành ở tù không biết bao giờ về, mà cứ bắt người ta yên tâm, tin tưởng! Quả thật bọn Cộng sản chẳng phải là con người nữa. Cho nên chúng tôi cũng có cách viết của chúng tôi. Thấy tình hình bế tắc của Cộng sản , chúng tôi viết “Rất yên tâm, tin tưởng vào tương lai dân tộc”. Thấy rõ tình hình kinh tế suy sụp, lạc hậu của Miền Bắc, chúng tôi viết “Nay chúng tôi đã được hiểu rõ thế nào là xã hội chủ nghĩa. Phải, cái thứ “xã hội chủ nghĩa” mà người Sàigòn bảo là “xếp hàng cả ngày, xiết họng công nhân, xạo hết chỗ nói”. Chúng tôi cứ viết vắn tắt với những ý nghĩ thầm kín trong lòng, mà bọn cán bộ thì thấy có đủ các chữ “yên tâm, tin tưởng”. “xã hội chủ nghĩa”... thế là được rồi.
Thỉnh thoảng chúng có cho chúng tôi đọc báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, nghe Đài Phát Thanh Hà-nội. Hồi mới ra Quảng Ninh, cuối năm ’76, đầu năm ’77 thì chúng cho đọc báo rất đều, hầu như ngày nào cũng có. Đến khi nổ ra vụ biên giới Campuchia thì chúng ngừng báo vài tháng. Rồi lâu quá không dấu được, chúng cho cán bộ tiết lộ từ từ, sau mới cho đọc báo lại nhưng rất hạn chế, chúng chọn kỹ từng tờ báo, thường một tuần chỉ được đọc một hai tờ thôi. Kế đó đến tháng 5-1978, chúng lại ngưng báo nữa.
Chúng tôi đã có kinh nghiệm, cứ mỗi lần chúng ngưng không cho đọc báo là có việc quan trọng bất lợi cho chúng đây. Quả vậy, anh em tù hình sự (người địa phương Miền Bắc) tuy bị ngăn cách nhưng cũng có tìm cách thông báo cho chúng tôi một cách vắn tắt, mỗi khi đi lao động bên ngoài, gặp nhau giữa đường:
“Trung quốc sắp đánh rồi”‘
“Chiến tranh đến nơi rồi”.
“Người Hoa quanh vùng nầy (hồi đó chúng tôi ở trại Quảng Ninh) bỏ về Tàu cả rồi….”
Chúng tôi từng nhóm nhỏ tin cẩn nhau, thì thầm bàn tán, cố nhận định tình hình, ước đoán các biến chuyển qua những tin tức vắn tắt hạn chế như thế.
Đến tháng 7-1978 (sau khi nổ ra vụ xích mích với Trung Cộng hai tháng) chúng mới tập họp chúng tôi lại mà phổ biến các sự việc, dĩ nhiên là trình bày theo quan điểm của chúng. Sau đó, trong khi nói chuyện riêng với một vài anh em chúng tôi, một cán bộ Bộ Nội-vụ có tiết lộ rằng, trước khi nổ ra vụ xích mích công khai nầy, Lê Duẫn đã sang Trung quốc ba lần (chúng chỉ công bố có một lần) để cố gắng dàn xếp nhưng thất bại. Bắt đầu từ đấy không bao giờ được nói “Trung quốc vĩ đại”, ‘Trung quốc Việt Nam môi hở răng lạnh, núi liền núi sông liền sông”, “nhân dân Việt Nam đời đời nhớ ơn Trung quốc”…, mà đã xuất hiện những vở kịch chửi bới Mạo Trạch Đông, và khi chửi thì chửi từ cuộc Vạn lý trường chinh chửi đi, chửi từ lý thuyết Mao đến thực tế Trung quốc, chửi cả sự viện trợ của Trung quốc “để cho Việt Nam chống Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”…
Chúng tôi cười với nhau. Không biết tòa soạn báo Nhân Dân khi chửi như thế có giở ra xem lại những số báo cũ trong những năm trước đã ca tụng Mao, ca tụng Trung quốc như thế nào không. Ôi, “ba dòng thác cách mạng” của chúng! Ôi, thế giới ở “thời kỳ sau Việt Nam”! Sau ba dòng thác cách mạng lại có dòng thác một tỉ người chảy đâm họng như thế nầy. Sao “thời kỳ sau Việt Nam”, tưởng đế quốc ”tan rã từng mãng lớn”, mà hóa ra khối xã hội chủ nghĩa lại có một tỉ người nhảy sang làm “Nato phương Đông” thế nầy!
Ở trong tù Cộng sản , đói khát, khổ sai, và không biết bao giờ về, nhưng chúng tôi còn sống được là nhờ ở những tin tức, những lời bàn như thế đấy. Mà những tin tức, lời bàn đó đều rút ra từ báo Nhân Dân chứ không phải chúng tôi phịa ra.
(Trích trong "NHỮNG NĂM “CẢI TẠO” Ở BẮC VIỆT")
(còn tiếp)
Đói rét vẫn đi liền với nhau. Càng đói càng thấy rét, và càng rét càng thêm đói.
Chúng tôi được chở ra Bắc vào đầu mùa Đông năm ’76 là mùa đông rét nhất trong mấy mươi năm. Đêm rét nhất năm đó là 3o C. Thế mà trại giam không có cửa kính, nằm trên sập gỗ và chúng tôi thiếu áo ấm, thiếu mền, thiếu ăn. Có bao nhiêu áo quần đem mặc cả vào người, kể cả áo mưa. Có bao nhiêu khăn lông đem quấn cả vào đầu vào cổ. Có bao nhiêu tấm nylon đem che loạn cả lên. Người nào trông cũng giống như đàn bà đẻ ở nhà quê ngày xưa. Buồng nào trông cũng như buồng đẻ. Nhưng không có lò than để sưởi. Lạnh nhất là những hôm gió bấc mưa phùn tháng Chạp ta. Giá mỗi buổi sáng có một tô phở nóng nước béo ăn vào thì chắc ấm được ngay. Nhưng buổi sáng không có ăn gì. Buổi trưa ăn đói. Buổi chiều ăn đói. Cho nên bụng thì cồn cào lép kẹp, quần áo thì mong manh, mà rét năm ’76 kéo dài gần hai tháng liền. Rét liên tục từ Noël tới Tết. Sau Tết trời mới bắt đầu dễ chịu lại. Năm đầu tiên rét nhiều và thiếu áo ấm nhưng được cái là chúng tôi mới ra chưa phải lao động. Những năm sau thì ít rét hơn, và chúng tôi đã được gia đình gởi áo ấm ra (trại cũng có phát cho mỗi người một cái áo trấn thủ, tức là loại áo vải may kẹp bông bên trong nhưng bông mỏng thôi, và chỉ che được từ ngực tới giữa bụng, không có tay), nhưng lại phải làm lao động ngoài trời.
Mùa đông đầu tiên, có người rét quá, lấy tấm nylon quấn vào, lấy áo mưa nylon mặc vào mà ngủ, tưởng là ấm, nhưng vì hơi nước trong người bốc ra không bay hơi được, người ướt đẫm, sáng ra thì bị cảm. Đầu hôm còn ngủ được, từ nửa đêm trở đi sao mà nước mát, đến thế!
Anh Lê Thành Châu, (Tổng Giám đốc Khai Hoang Lập Ấp), nổi tiếng là sợ đỉa , nhưng đến ngày tắm giặt thì cũng bất chấp đỉa, cũng nhào xuống nước ngay.
Lúc nào chúng tôi cũng chỉ mặc có cái quần đùi. Buổi trưa nằm trong trại giam, người nào cũng chỉ có cái quần đùi, nằm sát nhau như cá hộp, hầu hết đều da bọc xương, trời thì nóng bức. Có lần giữa trưa nóng quá ngủ không được, tôi nhổm dậy nhìn quang cảnh đó và thầm nghĩ quá đúng là địa ngục rồi đây. Và tôi nghĩ giá có cái máy ảnh chụp được cảnh chúng tôi gầy gò, bụng lép, ngực đầy xương sườn, nằm thiêm thiếp sát bên nhau, mồ hôi nhễ nhại, trong trại giam đóng chặt giữa buổi trưa Hè nóng bức như thế này mà gởi qua Pháp cho báo Paris-Match đăng lên, thì chắc chắn không còn ai có thể nghi ngờ gì về cái địa ngục Cộng sản được nữa. Thanh Hóa nóng hơn Quảng Ninh vì chúng tôi ở xa biển và chịu ảnh hưởng gió Lào.
Trời nóng như thế, tắm giặt dơ bẩn khổ sở như thế, và ăn đói thì bệnh tật xảy đến là chuyện dĩ nhiên. Hầu hết chúng tôi đều mang bệnh trong mình. Kẻ bệnh phổi, người teo chân, kẻ đau dạ dày, người bệnh trĩ , kẻ thần kinh suy nhược, người đau răng… chẳng mấy ai thoát được. Mùa hè ’79, tất cả chúng tôi bị sảy ngứa cùng mình. Buổi trưa, buổi tối, ai cũng gãi sồn sột. Ai không lở lói, thì bị sảy ngứa là lấy làm may mắn rồi.
Mùa đông năm ’78 và đầu mùa Hè năm ’79, một số chúng tôi lâm vào tình trạng kiệt sức. Chỉ có 10% là tuy sức khỏe xuống nhưng không quá tồi tệ, còn có 90% là rất gầy yếu trong đó chừng 30% chỉ còn da bọc lấy xương.
Thuốc men của trại thì gần như không có gì. Hồi ở Quảng Ninh, đa số chúng tôi bi sán lãi, vì rau toàn bón bằng phân người. Cầu tiêu thì trong phòng giam. Mỗi ngày chúng tôi phải dọn cầu, gánh thùng phân ra, phân và nước tiểu nhỏ giọt vương vãi trên sàn. Cứ thế mà sán lải lan tràn. Ngày nào dọn phân cũng thấy mấy con lải đũa trong thùng phân. Thế mà báo cáo với trạm Y tế thì cán bộ Y tế trả lời là không có thuốc lải, và ‘‘giun thì ai chả bị, các anh nên khắc phúc, chết chóc gì mà sợ giun”.
Thuốc men đã không có, thuốc của gia đình người ta gởi ra lại kiểm soát, hạn chế. Cán bộ y tế khi kiểm soát thuốc trong Nam gởi ra, cứ phàn nàn là sao thuốc men trong Nam nhiều loại nhiều thứ rắc rối qua, chẳng biết thứ gì dùng vào bệnh gì. Ngoài Bắc thì chỉ có mấy loại thôi, giản dị lắm. Đã không biết thuốc nhưng lại cứ kiểm soát. Có lần tôi bị giữ thuốc lại, xin mãi mới được phát. Khi phát ra, cán bộ Y tế giảng đi giảng lại mãi rằng phải dùng thuốc cho đúng, rằng thuốc Dénoral là thuốc sốt rét… (thực ra thì Donéral là thuốc trị sổ mũi!)
Năm đầu ở Quảng Ninh thỉnh thoảng còn có phát Rinifon, Kavet.. Từ mùa Hè năm ’77 thì tịt luôn. Đau bụng, chỉ phát lá ổi để nấu mà uống. Thỉnh thoảng cho mấy thứ lá, ai có cảm thì nấu nồi nước lá mà xông. Xông không khỏi, hoặc có bệnh trầm trọng khác thì cho sang Bác sĩ Của châm cứu. Châm cứu không hết thì anh Của đưa lên trạm xá của trại, có cán bộ Y Tế khám. Cán bộ y tế chỉ là một y tá và trạm xá cũng chẳng có thuốc men gì. Có lần bác sĩ Của cõng một bệnh nhân lên trạm xá, anh em chúng tôi cười và chỉ trỏ ”hãy trông bác sĩ cõng bệnh nhân đến cho y tá khám”. Thỉnh thoảng có chích cho mũi thuốc thì không có thuốc sát trùng, chỉ lấy cục bông nhúng vào luộc luộc ống tiêm, chà chà trên da rồi chích.
Cũng có trường hợp cho đi bệnh viện. Nhưng đến nhà tù Cộng sản mà cho đi bệnh viện thì ít hi vọng trở về….
Ông bà ta nói “khéo co thì ấm”. Nhưng lạnh cỡ 3o C mà không có lò sưởi , không có cửa kính, không có mền, không có áo ấm, chỉ mặc mấy lớp quần áo mỏng và đắp một cái chăn mỏng thì co cách nào cho ấm nổi, thì không ai ngủ nổi.
Ông Lê văn Đồng, Thẩm phán bị bệnh phổi và đã cao tuổi, suốt đêm nằm ho. Anh Đỗ Kế Cầu bị bệnh suyễn suốt đêm nằm bơm thuốc (thuốc và bơm là của nhà mang đi) và nhiều phen không thở được . Co vào cũng rét, duỗi ra càng rét, nằm nghiêng cũng rét, nằm ngữa càng rét, tay để trong mền nhưng mền mỏng quá mà tay không mang găng nên bàn tay cóng lại, vành tai lạnh quá mất cả cảm giác. Mùa đông năm ’76 quả thật là mùa đông rét kinh hoàng của chúng tôi.
Khoẻ như bác sĩ Văn văn Của mà rét còn không ngủ được. Không ngủ được thì lại đói, đói quá. Nửa đêm, ông Của dậy bàn với ông Canh (Thiếu Tá) kiếm cách gì cho đỡ đói, đỡ rét. Thuốc lào hết rồi. Thuốc điếu không có. Thực phẩm dự trữ không còn gì. Loay hoay một hồi rồi ông Của tìm được gói muối nhỏ trong xắc. Bèn lấy ra cùng với ông Canh quẹt muối vào lưỡi cho mặn miệng rồi uống nước. Nhưng uống nước với muối vào thì bụng càng cồn cào thêm. Tôi nằm bên cạnh, rét quá không ngủ được nghe hai anh thì thầm bàn với nhau mà xót xa. Tôi tuởng tượng giá mình còn cục đường nhỏ thôi. Môt cục đường vào bụng được bao nhiêu calories. Người ta hay nói đùa “hột muối cắn đôi, hột đường đớp hết”. Không biết lúc đó tôi còn cục đường thì có thức dậy lấy chia cho anh Của và anh Canh nổi không. Giá có cục đường chắc phải nghĩ ngợi găng lắm. Nhưng không có gì, thôi đành nằm yên chịu rét. Lúc ấy chúng tôi đang ở phòng số 3 trại Quảng Ninh, và đang là tháng chạp năm Thìn. .
Mùa Hè thì nóng. Trại Quảng Ninh tương đối khá vì gần vịnh Hạ Long, khí hậu không đến nổi quá nóng, và nhà giam lợp ngói, nước tắm đầy đủ. Trại nầy vốn khi xưa là một trại nhà binh Pháp nên có hệ thống nước lấy nước suối trên núi xuống, các bồn nước lúc nào cũng đầy.. Chỉ phiền là khi trời mưa thì nước suối đục, nước trong bồn cũng đỏ ngầu. Nhưng được thế cũng quý lắm rồi, cũng có chút tiện nghi của “thực-dân đế-quốc” để lại.
Khi vào trại số 5 Thanh Hóa, mà phân trại B và phân trại C là hoàn toàn của “Xã hội Chủ nghĩa” xây cất, thì buồng giam quá nóng, và không đủ nước dùng. Khi đến phân trại B, chúng tôi có đào thêm giếng và lúc đó còn trong mùa mưa, mạch nước lúc nào cũng đầy. Còn phân trại A là nơi có bộ chỉ huy của trại giam số 5 thì nguyên là một khu cơ sở gì không rõ, của Pháp xây cất từ trước năm 1945, nên cũng còn được.
Mùa Hè nóng nực và khổ sở nhất cho chúng tôi là mùa Hè hạn hán năm 1979. Lúc đó chúng tôi ở phân trại C. Nước không có chúng tôi chỉ tắm rửa bằng nước ruộng, nước ao. Theo quy định, một tuần lễ chỉ được tắm hai lần, sau buổi làm lao động khổ sai ngoài đồng. Nước ao, kế liền đó là ruộng, trâu dẫm ở đó, phân bón ruộng, phân tưới rau cũng chạy ra đó, nước đục ngầu và đầy những đỉa, thế mà đến ngày tắm giặt là chúng tôi mừng lắm. Chúng tôi cũng nhìn thấy nước đục, nước dơ bẩn đấy, nhưng vẫn cứ tranh nhau nhảy xuống.
Từ Quảng Ninh vào Thanh Hóa, nhóm chúng tôi khoảng 500 người (hồi mới ra thì 800 người, nhưng đã được đưa trước vào trại 90A một số rồi), bị chết khỏang 30 người vì bệnh trong thời gian ’78, ’79.
Anh Lưu Trương Không (?) (trước là Giám đốc tại Bộ Chiêu Hồi) bị chết vì biến chứng của bệnh phù thủng. Anh Chung (Thiếu Tá Cảnh Sát) đang ngồi sinh hoạt học tập, bỗng gục xuống chết vì bệnh tim và kiệt sức. Khi di chuyển từ Quảng Ninh về Thanh Hóa, anh Bé (Trung Tá) bị bệnh chở ra bệnh viện Hòn Gay rồi không thấy vào Thanh Hóa, về sau nghe nói đã chết. Anh Minh (Đảng Dân Chủ), anh Ngô Chuẩn (Cảnh Sát) đi bệnh viện Thanh Hóa, không thấy trở về.
Còn nhiều nữa, nhưng tôi không nhớ tên.
Kinh hoàng nhất là Trạm xá phân trại B trại số 5 Thanh Hóa, nơi các bệnh nhân nằm mà chỉ chờ chết. Tháng 8 năm 1978, khi chúng tôi mới từ Quảng Ninh vào Thanh Hóa, chúng tôi đã đếm được 18 tù hình sự chết nội trong tháng đầu. Mà số tù hình sự chết ở phân trại nầy chỉ độ 300 thôi. 300 tù mà một tháng đã chết 18 người! Và nhìn vào trạm xá thì thấy các bệnh nhân trông đúng là các bộ xương. Anh em để ý kỹ thì thấy dường như chỉ có một cái hòm dùng đi dùng lại. Mỗi lần có người chết, bỏ vào hòm khiêng ra, nhưng chắc là chỉ chôn xác mà không có hòm. Hòm có lẽ được khiêng trở vào lúc ban đêm, để lần khác dùng nữa.
Anh Bùi văn Bảy, (trước là Thiếu Tá, chuyên viên điện toán tại Bộ Cựu Chiến Binh), bị kiệt sức và lao phổi ho ra máu, người chỉ còn da bọc xương và xanh mét. Thế mà vẫn để nằm ở trạm xá phân trại C, sống lây lất nhờ anh em trong tù giúp đỡ thuốc men và thức ăn.Trường hợp anh Bảy là một trường hợp rất đáng thương tâm. Anh đi ở tù, chị Bảy bệnh tim nặng chết vào năm 1977, một đứa con nhỏ chết vì té lầu, những đứa còn lại phân tán nhờ vã bà con sống cho qua ngày. Bà con cùng xóm với gia đình anh Bảy thấy hoàn cảnh qua thương tâm và thấy anh Bảy trước kia chỉ là chuyên viên điện tóan lo về hồ sơ cô nhi quả phụ tại Bộ Cựu Chiến Binh, nên họp nhau làm đơn xin cho anh Bảy về, theo tinh thần ”nhân dân làm chủ”. Nhưng đơn của nhân dân lối xóm gởi đi, Công an chẳng thèm trả lời, trong khi đó anh Bảy không được gia đình tiếp tế vì các con còn nhỏ và quá nghèo, nên đã kiệt sức chỉ còn nằm đợi chết trong tù.
Còn nhiều trường hợp lắm nhưng tôi không nhớ tên. Trong trại giam, buồng nầy buồng kia ngăn cách nhau, cấm không cho liên lạc với nhau nên thường chỉ thấy mặt quen mà không biết tên.
Những bệnh không có tính cách cấp tính như trĩ, đau răng, đau dạ dày…thì trại coi như không, bắt đi làm lao động như thường và không có thuốc men gì cả. Đau dạ dày vẫn phải ăn mạch cả vỏ, và ăn sắn như thường, nếu không muốn nhịn đói hoàn toàn. Trên nguyên tắc, mỗi ngày ai bệnh có thể ghi tên xin ăn cháo. Nhưng thực tế, trong thời gian ăn mạch và sắn thì việc ghi tên xin ăn cháo rất là hạn chế vì lẽ không có gạo nấu cháo. Mỗi ngày một đội chỉ được ghi cho một người ăn cháo thôi. Nếu có nhiều người bệnh, cũng chỉ chọn lấy một người. Trong nhà tù Cộng sản , một tô cháo ăn với muối cũng là ân huệ đặc biệt lắm đấy.
Nhức răng xin muối ngậm cũng khó khăn lắm. Cán bộ bảo là theo nội quy, cấm phạm nhân giữ muối. Chúng tôi hiểu là muối có tác dụng làm mau hư hại các song sắt của trại giam. Nhưng điều buồn cười là trại giam lợp tranh, vách đất, thì nếu muốn trốn, việc gì người ta phải tính chuyện phá song sắt. Đối với trại giam ở Miền Bắc, việc trốn ra khỏi trại không khó, cái khó là làm sao thoát được về đến nhà hay đến chỗ an toàn mà không bị bắt lại.
Bệnh đau răng rất là phổ thông trong trại giam. Nhiều người bị sưng hàm, sưng mặt. Chính tôi cũng bị sưng mặt lên rồi. Đầu năm 1980, tôi vừa về đến nhà, vợ tôi là Nha sĩ, phải mổ ngay vì thấy cả mấy chân răng đều làm mủ , và mủ đã bắt đầu lan ra về phía trên mũi rồi.
Mùa Đông thiếu áo, mùa Hè nóng và dơ bẩn, quanh năm đói, bệnh tật thì “khắc phục”. Đảng và Nhà nước Cộng sản chỉ biết nhốt chúng tôi và bắt chúng tôi làm khổ sai, chết thì chôn..
Trước kia, trong chế độ Cải Huấn của ta, mỗi khi có tù chết trong trại giam là Biện lý đến điều tra, quy trách cho Quản đốc Trung Tâm về vấn đề chữa bệnh cho tù nhân, hạch hỏi tại sao không đem đi bệnh viện kịp thời. Trung Tâm phải báo ngay cho thân nhân người chết theo thời hạn luật định, để thân nhân đến còn nhìn thấy được thi hài và có quyền khiếu nại nếu thấy có điểm nghi ngờ.
Còn trong chế độ cải tạo của Cộng sản , chết là đem chôn ngay, chẳng thông báo cho thân nhân gì cả. Hồi ở trại Long Thành, tôi thấy ông chồng bà bác sĩ Vũ thị Thoa bị chết trong trại, bà Thoa ở Sàigòn chỉ cách Long Thành có mấy chục cây số, mà không có thông báo gì cả, đem chôn luôn. Một anh khác, là nhân viên Phủ Đặc ủy Tình Báo, sau khi anh chết trong trại bốn tháng rồi, mẹ anh vẫn còn gửi thư và quà đến trại cho anh vì tưởng con mình còn sống! Còn nói gì đến trại “cải tạo” Miền Bắc xa cách Miền Nam, ai hơi đâu mà thông báo. Chết thì chôn ngay. Không cần hòm.
V. KHỔ SAI
Mỗi bước vào nhà tù Cộng sản, ai cũng được nghe thuyết ngay rằng “Lao Động là Vinh Quang”. Câu nầy thực ra chẳng mới mẻ gì. Vã lại chúng ta chẳng ai khinh lao động, dù là lao động chân tay hay trí óc. Có thể có một số người ở thành phố, giầu sang, ngại lao động chân tay. Nhưng đó chỉ là số ít và tất cả chúng ta đều biết rằng, nếu chúng ta ngại làm việc chân tay thì đó là vì chúng ta lười biếng, hoặc vì thấy lối làm việc đó không đem lại kết quả bằng những phương cách làm việc khác, chứ chúng ta không hề có ý khinh bỉ lao động chân tay. Quan niệm kẻ giàu sang không thèm động đến chân tay, cái gì cũng phải có kẻ hầu người hạ, là quan niệm đã qúa xưa mà chúng ta không cần phải nhắc đển để bàn cãi gì nữa.
Nhưng Cộng sản thì cứ làm như là mọi người không ai chịu lao động, nên cứ hô hào “lao động là vinh quang” để bắt người ta làm khổ sai cho chúng. Người ta không muốn làm lao động trong chế độ Cộng sản không phải vì khinh lao động , nhưng vì người ta thấy rõ là chỉ làm khổ sai, làm dưới sự chỉ huy của những tên cán bộ dốt nát, và làm ra được cái gì thì Đảng và Nhà nước lấy đi chứ không phải mình hưởng. Mà Nhà nước lấy đi để xử dụng vào việc gì thì chỉ có Đảng và Nhà nước biết, chứ “nhân dận làm chủ” thì chỉ có quyền tiếp tục lao động khổ sai chứ không có quyền biết về sản phẩm của mình.
Ở ngoài xã hội đã thế, trong trại giam tất nhiên phải tệ hơn nữa. Mỗi ngày chúng tôi phải làm lao động ít nhất tám giờ. Ngày thứ bảy cũng phải làm nguyên ngày. Ngày chủ nhật được nghỉ. Nhưng cứ vài tuần lại có một ngày Chủ Nhật làm “lao động Xã hội Chủ nghĩa”. Ngoài xã hội, “lao động xã hội chủ nghĩa” có nghĩa là làm việc ngày Chủ Nhật không được ăn lương. Trong trại giam, tất nhiên là không ăn lương rồi. Trong khi chế độ tự do buộc chính quyền và chủ nhân phải trả tiền phụ trội cho công nhân, viên chức khi làm việc trong ngày nghỉ hoặc giờ nghỉ, thì chế độ Cộng sản bắt làm không lương trong ngày nghỉ và gọi đó là “lao động Xã hội Chủ nghĩa”.
Giờ làm việc được quy định tùy theo mùa. Mùa làm thông tầm (làm luôn trưa), có khi về trại nghỉ trưa, nhưng thời gian nghỉ trưa rất ngắn. Mùa hè thì nghỉ trưa lâu nhưng phải đi làm thật sớm trong buổi sáng và về rất trễ trong buổi chiều. Dù sao, tổng cộng cũng phải đủ 8 giờ.
Tù nhân được tổ chức thành đội và tổ. Mỗi đội gồm chừng 40, 50 người. Ban Tư Quản do trại chỉ định, gồm có đội trưởng, tất cả mọi việc trong đội cho cán bộ quản giáo. Cán bộ quản giáo đội là người của ban Giám thị đưa đến để theo dõi đội hàng ngày. Mỗi buổi đi làm, ngoài cán bộ quản giáo, còn có hai cảnh vệ vác súng đi theo canh chừng. Muốn đi tiểu tiện, đại tiện, phải xin phép cảnh vệ. Đi xong, trở về chỗ làm việc, phải báo cáo.
Ai làm việc kém, bị coi là lơ là thì bị cắt bớt khẩu phần lương thực. Theo quy chế, khẩu phần tính chung là 15 ký gạo mỗi tháng. Ai làm việc kém, bị ăn 13,5 ký một tháng. Ai làm giỏi được ăn 18 ký. Nhưng Nhà nước không cho thêm lương thực, cho nên nếu có một người ăn 18 ký thì phải có hai người ăn 13 ký rưởi để bù lại chỗ thiếu. Ngược lại, nếu có nhiều người ăn 13 ký rưỏi, thì không bắt buộc phải có người ăn 18 ký. Cho nên người nào tỏ ra mình lao động giỏi, lấy điểm với cán bộ để được ăn 18 ký, là ăn trên khẩu phần của người khác.
Như đã nói trong mục ĐÓI, khẩu phần 15 ký thực ra không bao giờ có đủ, mà chỉ độ 10 đến 12 ký thôi; cho nên khẩu phần 13 ký lại càng thê thảm. Ngoài việc ăn 13 ký, còn có thể bị nhốt vào phòng kỷ luật với lý do “lãng công”, “chống đối lao động”. Nhốt vào phòng kỷ luật, thì nhốt biệt giam, phòng tối, bị cùm một chân hoặc hai chân, và chỉ ăn khẩu phần 10 ký, nghĩa là mỗi bữa ăn một nắm cơm, nếu là bữa ăn cơm, hoặc 1 -2 khúc sắn nhỏ, nếu là bữa ăn sắn. Vào phòng kỷ luật, chỉ vài tuần là người xanh lướt, đi không nổi, rất dễ bị liệt. Cho nên mặc dầu biết lao động thực ra chỉ là khổ sai, chúng tôi vẫn phải đi làm hằng ngày để khỏi vào phòng kỷ luật, giữ lấy mạng sống hầu có ngày gặp lại vợ con, có ngày làm cái gì cho Tổ Quốc.
Hồi ở trại Quảng Ninh, chúng chưa áp dụng việc cắt giảm khẩu phần đối với những người yếu lao động. Vào đến Thanh Hóa, ở phân trại B, chúng muốn áp dụng, nhưng gặp lúc chúng tôi đấu tranh, nhất định, không bình bầu ai 18 ký, ai 13 ký gì cả, và tuyên bố hẳn với cán bộ rằng dù có phân biệt khẩu phần thì về đến đội, chúng tôi sẽ chia đều ra mà ăn. Chúng tạm hoãn việc áp dụng qui chế này. Nhưng đến đầu năm 1979, tại phân trại C, chúng tự chỉ định người ăn 13 ký, 18 ký và cho biết nếu không ăn đúng như thế chúng sẽ nhốt vào phòng kỷ luật. Thực tế, chúng đã nhốt một số vào phòng kỷ luật nên chúng đã áp dụng được khẩu phần phân biệt. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn trao phần ăn cho nhau để luân phiên chịu phần ăn 13 ký.
Năm 1979, tôi và Hoàng Xuân Hảo ăn chế độ 13 ký trong ba tháng liền. Cũng may là lúc đó chúng tôi đều đã được vợ ra thăm nuôi, nên chẳng ngại gì việc khẩu phần sút giảm. Chúng tôi ngồi ăn khẩu phần 13 ký, vui vẻ đua nhau “binh xập xám”. Thế mà cũng có người báo cáo, và tên cán bộ quản giáo lại xỉ vả chúng tôi.
Công việc thì tùy từng đội. Có đội trồng rau, có đội đập đá, có đội làm gạch, có đội làm lò rèn, có đội đi xây nhà, sửa đưòng, có đội đi đào đá ong. Ngoài ra còn có đội làm bếp.
Hồi ở Quảng Ninh, tôi ở đội 4, phụ trách phá núi để trồng chè. Đây là công việc nặng. Núi phần lớn là đá sỏi, khi cuốc phải dùng cuốc chim. Chúng tôi phải khai hoang trước, sau mới cuốc cho núi thành từng bậc tam cấp, trên mỗi bậc phải dùng cuốc chim đào mương rồi gánh đất thịt từ dưới chân núi lên đổ vào các mương cho đầy, xong mới trồng chè trên các mương đó. Phải chi đất đều đã tận dụng cả rồi mới khai thác đến núi đá bằng cách đó thì còn có lý. Đằng này đất ở dưới còn chưa khai thác hết, và khai thác rất cẩu thả, thế mà lên núi đá trồng chè theo kiểu phí sức như thế, thực chẳng hợp lý về kinh tế chút nào cả. Nhưng ”nước sông còng tù”, chúng cứ bắt chúng tôi làm như thế. Năm đầu chúng tôi trồng xong, năm sau đi làm việc khác, nhìn lại đồi chè thấy toàn cỏ dại vì chẳng có phân công cho đội nào chăm sóc cả.
Việc trồng rau, mới nghe tưởng nhẹ, nhưng cũng không nhẹ đâu. Không có hệ thống tưới, chúng tôi phải gánh nước để tưới. Mỗi ngày, gánh hàng trăm đôi nước, đường đi phải lên dốc xuống gò trong khi bụng đói thân gầy, chẳng phải là chuyện dễ. Lại còn cái nạn tưới phân Bắc (phân người). Phân không kip ủ đã bắt lấy ra dùng. Dòi bọ và lải tùm lum trong đó. Lúc ở Quảng Ninh phải lấy phân cả những cầu tiêu khu nữ tù nhân thì có cả những “băng” vệ sinh trong ấy, gánh phân có khi đỏ lòm! Mà chúng tôi chẳng ai có găng tay, giày bốt gì cả. Cứ cởi trần ra, tay trần chân không, độc có cái quần đùi, nhảy xuống đống phân, vọc vào thùng phân, pha nước mà tưới. Làm xong thì tắm xà-phòng cũng là xà-phòng của nhà gửi ra chứ xà-phòng trại phát một năm chỉ dùng một tháng. Mùa nóng thì làm công việc này xong, tắm rửa không có gì trở ngại. Mùa rét mà làm công việc này, không tắm không được, mà tắm xong thì người xanh xám vì lạnh cóng.
Mỗi năm cứ theo mùa mà trồng rau. Mùa Hè rau muống, mùa Thu cải thìa, mùa Đông cải bắp và su hào. Ngoài ra có trồng thêm bí ngô. Trại Quảng Ninh hay Thanh Hóa thì thấy quanh đi quẩn lại cũng chi trồng có thế thôi.
Ở Quảng Ninh, đầu năm 1978, thu hoạch được cải bắp và su hào rất khá, nhưng chúng tôi chẳng được ăn bao nhiêu. Cải bắp thì chúng tướt lá xanh bên ngoài (thứ lá thường vứt đi hoặc nấu cho heo ăn) cho chúng tôi ăn. Còn bắp cải thật sự thì cán bộ ăn hoặc chở đi bán. Su hào thì thỉnh thoảng mới được ăn quả su hào nấu với muối, còn thường thì chỉ ăn canh lá su hào mà thôi.
Hồi ở trại số 5 Thanh Hóa, chúng tôi thấy những câu khẩu hiệu nhan nhản ở ngoài đồng, trong đó có câu:
Hạt lúa là hạt lúa vàng,
Phơi khô quạt sạch, sẵn sàng nhập kho.
Câu này diễn tả có phần đúng. Phơi khô, quạt sạch lúa rồi để nhập kho Nhà nước, chứ không phải để mình ăn. Nhà nước quản lý mà. Hồi đó anh em tụi tôi vẫn thường cười câu nói của Cộng sản “Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo”. Công việc của người làm chủ, thực ra chỉ là việc lãnh đạo và quản lý, thế mà hai việc nầy Đảng và Nhà nước nắm cả rồi, thì Nhân dân còn công việc gì để làm chủ nữa? Nhân dân chỉ còn công việc lao động, sản phẩm của lao động thì được nhập kho Nhà nước, thế là xong.
Chúng tôi là thân phận thằng tù, đâu dám bì với nhân dân. Thế mà nhân dân còn vậy, huống gì chúng tôi. Chúng tôi có kêu ca cũng chẳng được, đành cứ làm lao động sản xuất, và được bao nhiêu gạch, bao nhiêu lúa (tại trại số 5 Thanh Hóa, có trồng lúa nhiều nhưng do các đội tù hình sự làm), bao nhiêu rau, bao nhiêu đá dăm, bao nhiêu đá ong v.v.. thì những sản phẩm nầy được chở đi đâu, được xử dụng như thế nào, chúng tôi không có quyền hỏi đến. Truớc kia, trong chế độ Cải Huấn của ta, có các Trung Tâm dạy nghề, và sản phẩm làm ra, sau khi trừ vốn và bỏ một phần nhỏ vào quỹ điều hành, được kể là của phạm nhân có công sản xuất. Tiền bán được sẽ ghi vào sổ cho phạm nhân đó để họ tiêu dùng. Còn chi phi ăn uống của phạm nhân thì hoàn toàn do ngân sách quốc gia đài thọ. Chính quyền Cộng sản miệng chửi người khác bóc lột, nhưng chúng bắt tù làm khổ sai và tiền bán sản phẩm được nhập quỹ Nhà nước. Tất cả tù đều phải làm khổ sai. Cho nên Cộng sản có thể giam giữ rất nhiều tù mà không sợ tốn. Có lẽ Nhà nước còn có lợi khi giam giữ tù chứ chẳng phải chi tiêu gì.
Cộng sản chửi địa chủ, nhưng chúng tôi thấy không có người địa chủ nào có thể bắt tá điền làm việc cực nhọc như chúng tôi (cuốc núi đá, đào đá ong, hốt phân người…) mà lại cho ăn bằng thức ăn dành cho súc vật, và ăn quá đói.
Qua mấy trại giam, chúng tôi thấy thời gian ở phân trại C, trại số 5 Thanh Hóa là cực khổ nhất về phương diện lao động. Sau cuộc đấu tranh cuối năm ’78 và đầu năm ’79, chúng đàn áp tàn bạo, và bắt chúng tôi làm khổ sai thật nặng. Mùa hè năm ’79, đội chúng tôi phụ trách trồng sen trong một khu hồ rất rộng. Muốn trồng sen, trước hết phải dọn hồ. Hồ toan là gai góc, cỏ rậm, ở gần khu gia đình cán bộ, phân người tùm lum dưới hố. Và đỉa, chao ôi là đỉa. Nhất là lúc hết xuân sang hè, sao mà đỉa ra lắm thế. Hồ này rộng phải đến có mấy chục mẫu. Đội chúng tôi chỉ có 30 người, cũng có lúc được các đội khác tăng cường, phái xuống hồ, hụp lặn mà gỡ cho hết gai góc, dọn cho sạch cỏ và cây dại, rồi mới đi nhổ sen giống về trồng. Buổi nào làm lao động xong, người chúng tôi cũng đầy máu vì đỉa. Anh Nguyễn Thành Danh (trước là Thiếu tá , con trai ông Nguyễn văn Vàng cựu Bộ trưởng tại Phủ Thủ Tưóng), có lần bị hai con đỉa chui vào dương vật, may mà chúng nó vào một lát rồi theo đường nước tiểu chui trở ra, vì không chịu được nhiệt độ nóng trong cơ thể con người. Nhưng chúng nó đã cắn hút máu bên trong rồi và anh Danh thuộc loại máu khó đông đặc nên không cầm máu được. Cứ thế máu chảy qua đến ngày hôm sau, quần đỏ lòm, chúng tôi đùa là “lâu lắm mới thấy một người có kinh nguyệt”. Sau, phải kiếm Vitamine K trong anh em cho anh ấy mới cầm được máu. Tiến sĩ Hoàng Xuân Hảo thì người thấp mà không biết bơi, gặp có chỗ hồ sâu lút đầu, mấy lần suýt chết đuối.
Chúng tôi vừa ngâm mình dưới hồ, vừa nhắc cho nhau lịch sử Việt Nam. Việt sử chép rằng khi quân Tàu sang đô hộ, chúng rất tàn bạo, bắt dân ta lên núi tìm sừng tê giác, xuống biển mò ngọc trai.. Xuống biển mò trai thì nước biển còn sạch mà không có đỉa. Còn nay Cộng sản bắt dân ta xuống hồ trồng sen cho cán bộ chúng ngồi chơi hồ sen với nhau, mà hồ nước thì dơ bẩn đầy những cứt đái, gai góc và đầy đỉa. Và người làm dưới hồ thì toàn là thành phần trí thức của dân tộc Việt Nam . Hòa giải hòa hợp dân tộc của Cộng sản là thế đấy.
VI. KHAI BÁO, KIỂM ĐIỂM
Trong nhà tù Cộng sản, chúng có đề ra 4 tiêu chuẩn mà chúng gọi là bốn tiêu chuẩn cải tạo:
1. Khai Báo
2. Lao động, nội quy
3. Thi hành nội quy
4. Tố giác lẫn nhau
Điều mà Cộng sản muốn chúng tôi làm trong trại giam là: (1) khai báo tất cả các hoạt động công khai hay bí mật của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trước kia và nhất là các hoạt động của Mỹ. Về 3 tiêu chuẩn còn lại, thì (2) chúng muốn chúng tôi làm khổ sai cho chúng, thỉnh thoảng có sách báo Mác-xít thì đọc và nói như những con vẹt; (3) giữ trật tự trong trại; và (4) dòm ngó nhau trong anh em để báo cáo tất cả những lời nói hành động của anh em cho tên cán bộ quản giáo biết..
Chúng bắt chúng tôi khai báo rất nhiều lần. Riêng thời gian đầu ở Long Thành đã phải khai báo hàng chục lần rồi. Khi ra Bắc, chúng lại bắt chúng tôi làm lại các bản tự khai. Trước mỗi lần khai báo, chúng soát xét đồ đạc của chúng tôi để tịch thu tất cả những bản thảo của những kỳ khai báo trước còn giữ lại. Mục đích là để chúng tôi mỗi lần khai đều phải dùng trí nhớ mà viết ra, và nếu khai dối thì các bản khai sẽ không phù hợp nhau được.
Trước khi khai báo, luôn luôn chúng hướng dẫn buộc chúng tôi phải nhận tội. Trong trại tù Cộng sản, tù nhân bị bắt buộc phải nhận tội, và nhận tội nhiều lần. Không nhận tội thì chúng ghép vào tội ngoan cố, trừng trị nặng hơn bằng các phương cách khác. Nhận tội thì chúng sẽ nói rằng chính các anh đã nhận tội, và như thế chúng tiếp tục giam giữ.
Thực ra, về sau nầy, chúng có vẻ không thiết tha lắm trong việc buộc chúng tôi nhận tội, vì dù nhận hay không thì chúng cũng cứ giam giữ dài dài, chúng chẳng cần có căn bản gì để kéo dài sự giam giữ. Nói về pháp lý, thì việc giam giữ chúng tôi, ngay từ đầu đã không có căn bản rồi. Nhưng chúng còn chống chế bằng việc ban hành chính sách cải tạo 3 năm cho đám chúng tôi. Tuy nhiên, đến khi qua hạn 3 năm, chúng cứ lì ra, khi thì đổ cho tại Trung quốc gây chiến (mà chúng tôi có trách nhiệm trong việc đó đâu, và có theo Trung Cộng bao giờ đâu), khi thì nói rằng chính quyền vô sản chuyên chính không cần gì căn bản pháp lý đối với kẻ thù giai cấp! Và nếu ai hỏi tới thì chúng cho vào nhà kỷ luật mà cùm chân lại, thế là xong.
Mục đích chính của những cuộc khai báo là chúng muốn moi tin tức. Nhóm chúng tôi từ Long Thành ra Quảng Ninh rồi vào Thanh Hóa gồm đủ thành phần: công chức cao cấp, sĩ quan quân đội, cảnh sát (phần lớn là cấp Tá), tình báo, đảng phái, dân biểu, nghị sĩ v.v… Trong các thành phần nầy, chúng chú trọng nhất là các nhân viên Phủ Đặc ủy Tình báo, và sĩ quan Cảnh sát quốc gia, nhất là ngành Cảnh sát đặc biệt. Mải đến đầu năm 1980, tôi vẫn thấy hai thành phần nầy còn bị gọi lên gọi xuống để hỏi mãi về những hoạt động tình báo trước kia. Việc thẩm vấn nầy do nhân viên của Bộ Nội-vụ đến phụ trách chứ không phải nhân viên trại giam. ·
Đợt khai báo mà chúng tổ chức kỹ càng nhất, là đợt khai báo đầu năm 1978 ở trại Quảng Ninh. Chúng lợi dụng việc chúng tôi sắp hết hạn ba năm cải tạo để phỉnh gạt chúng tôi khai báo trong đợt đó.
Cán bộ Bộ Nội-vụ về trại giam thuyết rằng đến đúng 3 năm là chúng tôi về cả, chỉ trừ một số rất ít mà thôi. Tuy nhiên hãy còn tùy thuộc đợt khai báo nầy. Ai khai báo lập công, cung cấp được những tin tức quý giá có lợi cho Cộng sản sẽ được về trước, ai dấu diếm sẽ bị “lưu ban” (lưu ban nghĩa là ở lại, không được về). Chúng chia chúng tôi ra từng tổ khai báo, mỗi tổ chừng mươi người, có một tên cán bộ theo dõi hàng ngày. Đợt khai báo nầy kéo dài đến ba tháng. Mỗi người chúng tôi phải viết một tập, có người viết đến hơn 500 trang, viết ngắn cũng phải 100 trang.
Trước khi viết, phải thảo luận trong từng tổ về cách viết, và các đề tài liên quan đến việc viết tự khai. Tôi còn nhớ trong một cuộc thảo luận tổ, anh Nguyễn Ngọc Xuân có đặt vấn đề quy chế của chúng tôi trong trại giam là quy chế gì, có phải là tù binh không, và hiệp định Paris có còn giá trị không. Anh cũng nêu lên rằng chính phủ (Cộng sản) vẫn còn đòi Mỹ thi hành điều 21của hiệp định Paris, thế thì chắc hiệp định Paris vẫn còn giá trị chứ. Mấy tên cán bộ hướng dẫn thảo luận chú ý ngay anh Xuân, và sau đợt khai báo, chúng cho anh Xuân vào nhà kỷ luật cùng với 5 vị Linh mục, rồi sau đó, di chuyển những người nầy đi trại khác. Trong số 5 vị Linh mục, có Linh mục Phạm Hữu Nam, Dòng Chúa Cứu Thế, có lần được chúng gọi lên phát biểu ý kiến trong buổi thảo luận chung, Linh-mục đã tỏ ý coi thường chúng bằng câu nói “đối với tôi, tu sĩ Nhà Dòng, thì trại giam hay Dòng tu cũng thế thôi”.
Đến tháng 5 năm 1978, chúng kết thúc các đợt khai báo nầy, và tỏ ý thất vọng; nhiều tên cán bộ nói “các anh chỉ làm tốn giấy mực, tốn thì giờ, viết lung tung mà chẳng có gì cả”.
Không biết thực ra kết quả ra sao, nhưng điều rõ ràng là đến tháng 6-1978, đúng hạn 3 năm của chúng tôi, chẳng có người nào được thả về. Sau đó, chúng vẫn tiếp tục các cuộc thẩm vấn đối với thành phần Tình báo và Cảnh sát.
Thực ra chúng tôi đã ở tù lâu năm, dù có biết chuyện gì thì cũng mất thời gian tính cả rồi. Những điều chúng muốn hỏi nhất đó là việc cài người vào trong hàng ngũ của chúng. Trong đợt khai báo, chúng khuyến khích chúng tôi tố giác những người trong hàng ngũ của chúng mà có hoạt động cho Việt Nam Cộng Hòa hoặc cho Mỹ, coi đó là ưu tiên 1. Chúng liệt kê từ Phó Chủ tịch Nhà nước trở xuống, cứ việc tố cáo. Khi nghe vậy chúng tôi nghĩ ngay đến Nguyễn Hữu Thọ, và chắc rằng cái ông “Mặt Trận Giải Phóng” nầy mặc dầu được chúng dựng lên, nhưng lúc nào chúng cũng nghi ngờ. Khi những tên Công an cấp thấp mà cũng dám đề cập đến việc tố giác Phó Chủ tịch Nhà nước, thì chắc rằng quyền hành thực sự của ông nầy chẳng có gì.
Chúng bắt chúng tôi tố giác cả bà con ruột thịt của mình. Nhưng phần lớn chúng tôi đều viết dài dòng về những điều mà ai cũng biết, chẳng có hại cho ai. Đám hành chánh chúng tôi viết thật dài về công việc thường ngày của người công chức hành chánh, về kế toán lương bổng, kế toán vật liệu, quản trị nhân viên, v.v.. là những vấn đề mà giấy tờ hồ sơ hãy còn đầy tại các công sở sau ngày sụp đổ. Chúng chỉ chú trọng hạch hỏi về tình báo, còn đám công chức, sĩ quan quân đội thì thường chúng chỉ hỏi lấy lệ, nhưng cũng có hỏi, để tỏ ra chúng khỏi phải chỉ nhằm vào tin tức tình báo, mà nhằm vào việc “cải tạo con người”. Nhưng chúng tôi cũng chẳng quá ngu mà không nhận xét được.
Trong những đợt khai báo, chúng tôi có cảm tưỏng rằng chúng không được vững về hàng ngũ của chúng. Có lẽ chúng nghi ngờ nhất là những thành phần Saigòn chống đối chính quyền Việt Nam Cộng Hoà và nay hợp tác với chúng. Anh em thuộc Phủ Đặc ủy Tình Báo bị hỏi nhiều nhất là về những thành phần nầy. Trong con mắt của chúng, người nào cũng có thể là CIA. Vã lại, chúng cho rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ kìm kẹp, làm sao những người như bà Ngô Bá Thành, Huỳnh Tấn Mẫm.. lại có thể hoạt động chống đối công khai như thế nếu không có cái gì bên trong. Chúng vẫn lợi dụng những người nầy, vẫn cho họ vào đoàn thể của chúng, có thể ngay từ trước 1975, nhưng nghi ngờ thì chúng vẫn nghi ngờ. Một đặc điểm của chế độ độc tài là tính đa nghi.
Trong đợt khai báo, cũng có người khai báo rất hăng. Không tù nhân nao được biết nội dung khai báo của người khác, nhưng nhìn sự lo lắng chăm chỉ, nhìn cách thảo luận, cách hỏi han, cách xum xoe với cán bộ, ta có thể biết những kẻ cố gắng muốn nhờ đợt khai báo nầy mà được về. Kết quả là dù khai thế nào thì cũng chẳng có ai về cả.
Ngoài việc khai báo, mỗi 3 tháng, 6 tháng, 1 năm đều có làm kiểm điểm tam cá nguyệt, lục cá nguyệt, và kiểm điểm hằng năm. Mục đầu tiên kiểm điểm bao giờ cũng là về tư tưỏng, kế đó là lao động, hoc tập, thi hành nội quy, đấu tranh tố giác lẫn nhau. Càng những năm về sau, chúng tôi càng coi thường những phiên họp kiểm điểm, và những bản kiểm điểm nầy. Mặc cho bọn cán bộ nói ba hoa, chúng tôi cứ lẵng lặng viết vắn tắt trong bản kiểm điểm. Về tư tưởng, lúc nào chúng cũng muốn chúng tôi viết về “tin tưởng, yên tâm cải tạo”. Giam giữ người ta, ban đầu nói là học tập 1 tháng, sau thành cải tạo 3 năm, sau thành ở tù không biết bao giờ về, mà cứ bắt người ta yên tâm, tin tưởng! Quả thật bọn Cộng sản chẳng phải là con người nữa. Cho nên chúng tôi cũng có cách viết của chúng tôi. Thấy tình hình bế tắc của Cộng sản , chúng tôi viết “Rất yên tâm, tin tưởng vào tương lai dân tộc”. Thấy rõ tình hình kinh tế suy sụp, lạc hậu của Miền Bắc, chúng tôi viết “Nay chúng tôi đã được hiểu rõ thế nào là xã hội chủ nghĩa. Phải, cái thứ “xã hội chủ nghĩa” mà người Sàigòn bảo là “xếp hàng cả ngày, xiết họng công nhân, xạo hết chỗ nói”. Chúng tôi cứ viết vắn tắt với những ý nghĩ thầm kín trong lòng, mà bọn cán bộ thì thấy có đủ các chữ “yên tâm, tin tưởng”. “xã hội chủ nghĩa”... thế là được rồi.
Thỉnh thoảng chúng có cho chúng tôi đọc báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, nghe Đài Phát Thanh Hà-nội. Hồi mới ra Quảng Ninh, cuối năm ’76, đầu năm ’77 thì chúng cho đọc báo rất đều, hầu như ngày nào cũng có. Đến khi nổ ra vụ biên giới Campuchia thì chúng ngừng báo vài tháng. Rồi lâu quá không dấu được, chúng cho cán bộ tiết lộ từ từ, sau mới cho đọc báo lại nhưng rất hạn chế, chúng chọn kỹ từng tờ báo, thường một tuần chỉ được đọc một hai tờ thôi. Kế đó đến tháng 5-1978, chúng lại ngưng báo nữa.
Chúng tôi đã có kinh nghiệm, cứ mỗi lần chúng ngưng không cho đọc báo là có việc quan trọng bất lợi cho chúng đây. Quả vậy, anh em tù hình sự (người địa phương Miền Bắc) tuy bị ngăn cách nhưng cũng có tìm cách thông báo cho chúng tôi một cách vắn tắt, mỗi khi đi lao động bên ngoài, gặp nhau giữa đường:
“Trung quốc sắp đánh rồi”‘
“Chiến tranh đến nơi rồi”.
“Người Hoa quanh vùng nầy (hồi đó chúng tôi ở trại Quảng Ninh) bỏ về Tàu cả rồi….”
Chúng tôi từng nhóm nhỏ tin cẩn nhau, thì thầm bàn tán, cố nhận định tình hình, ước đoán các biến chuyển qua những tin tức vắn tắt hạn chế như thế.
Đến tháng 7-1978 (sau khi nổ ra vụ xích mích với Trung Cộng hai tháng) chúng mới tập họp chúng tôi lại mà phổ biến các sự việc, dĩ nhiên là trình bày theo quan điểm của chúng. Sau đó, trong khi nói chuyện riêng với một vài anh em chúng tôi, một cán bộ Bộ Nội-vụ có tiết lộ rằng, trước khi nổ ra vụ xích mích công khai nầy, Lê Duẫn đã sang Trung quốc ba lần (chúng chỉ công bố có một lần) để cố gắng dàn xếp nhưng thất bại. Bắt đầu từ đấy không bao giờ được nói “Trung quốc vĩ đại”, ‘Trung quốc Việt Nam môi hở răng lạnh, núi liền núi sông liền sông”, “nhân dân Việt Nam đời đời nhớ ơn Trung quốc”…, mà đã xuất hiện những vở kịch chửi bới Mạo Trạch Đông, và khi chửi thì chửi từ cuộc Vạn lý trường chinh chửi đi, chửi từ lý thuyết Mao đến thực tế Trung quốc, chửi cả sự viện trợ của Trung quốc “để cho Việt Nam chống Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”…
Chúng tôi cười với nhau. Không biết tòa soạn báo Nhân Dân khi chửi như thế có giở ra xem lại những số báo cũ trong những năm trước đã ca tụng Mao, ca tụng Trung quốc như thế nào không. Ôi, “ba dòng thác cách mạng” của chúng! Ôi, thế giới ở “thời kỳ sau Việt Nam”! Sau ba dòng thác cách mạng lại có dòng thác một tỉ người chảy đâm họng như thế nầy. Sao “thời kỳ sau Việt Nam”, tưởng đế quốc ”tan rã từng mãng lớn”, mà hóa ra khối xã hội chủ nghĩa lại có một tỉ người nhảy sang làm “Nato phương Đông” thế nầy!
Ở trong tù Cộng sản , đói khát, khổ sai, và không biết bao giờ về, nhưng chúng tôi còn sống được là nhờ ở những tin tức, những lời bàn như thế đấy. Mà những tin tức, lời bàn đó đều rút ra từ báo Nhân Dân chứ không phải chúng tôi phịa ra.
(Trích trong "NHỮNG NĂM “CẢI TẠO” Ở BẮC VIỆT")
(còn tiếp)