Những Năm "Cải Tạo" Ở Bắc Việt (I - III)

Collapse
X

Những Năm "Cải Tạo" Ở Bắc Việt (I - III)

Collapse
 
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts
  • KiwiTeTua
    Moderator

    • Jul 2008
    • 2044

    #1

    Những Năm "Cải Tạo" Ở Bắc Việt (I - III)

    TỰA
    của Mai Thảo

    Từ cuối Thu ’75 đến đầu Xuân ’76, sau khi đã sắp đặt xong guồng máy bạo lực chuyên chính trên toàn lãnh thổ Miền Nam, bầy đao phủ đỏ ở Hà-nội lập tức bắt tay vào thực hiện một loại biện pháp hành hạ và trả thù dân chúng Miền Nam, trong đó lớn lao và thâm độc mọi rợ nhất là cuộc di chuyển hàng trăm ngàn trí thức, chính khách, nghệ sĩ, sĩ quan, công chức quốc gia từ những trại tập trung miền Nam ra những trại tù khổ sai miền Bắc.

    Tàn nhẫn không thua gì vụ đày ải hàng triệu thường dân Nga vô tội tới địa ngục Siberie thời Stalin; thú vật không kém gì vụ lùa đẩy sáu triệu người Do Thái Âu Châu tới những lò nấu xác của phát xít Đức thời Đệ Nhị Thế Chiên, cuộc chuyển tù vĩ đại từ Nam ra Bắc khởi sự từ mùa đông ’75 đen tối ở Việt Nam cũng vô tiền khoáng hậu trong lịch sử tội ác của loài người.

    Không được gặp mặt thân nhân trước phút đội gai đi vào con đường khổ hình thăm thẳm của phát vãng biệt xứ vô thời hạn, hai người một còng, từng đoàn, từng đợt tù nhân của chế độ mới, trong mùa nắng đầy đọa, bị đẩy xếp lên những đoàn công-voa, những xe tải bít bùng, những toa tàu đóng kín, đi suốt đêm ngày, đi suốt miền Trung, tới những đia ngục trần gian miền Bắc, đói khát, ngã bệnh một số tù nhân bỏ mình ở dọc đường. Một số tới nơi ít ngày rồi chết. Với phần còn lại, là những tháng năm khổ hình dằng dặc bắt đầu.

    Thiết lập phần lớn ở những vùng rừng núi hoang dậm lam chướng nhất trong đó có những trại tù đã rùng rợn nổi tiếng của thực dân và đế quốc để lại, mỗi trại “tập trung cải tạo” của Cộng sản ở miền Bắc là một đáy thẳm âm ty tách rời hẳn với thế giới loài người. Ở những cõi âm này không có tự do, không có ánh sáng. Không có hy vọng, không có ngày mai. Ở những công trường của khổ sai lạo động này, “nhân đạo” là một danh từ tối thậm vô nghĩa, nhân phẩm bị nghiền nát, nhân tính là kẻ thù. Và tồn tại và sống sót và trở về được là một phép lạ, một kỳ diệu.

    Loài người sẽ chẳng bao giờ có nổi một ý niệm về những nơi chốn giam cầm khủng khiếp ở “thiên đường Xã Hội chủ nghĩa Liên Xô”, nếu không có Khu Ung Thủ, Quần Đảo Ngục Tù của Soljenetsyne . Cũng vậy, mặc dầu chỉ thu gọn vào hơn 190 trang sách và đó là điều đáng tiếc nhất của thiên hồi ký nầy, chúng ta sẽ chẳng bao giờ thấy được sự thật hãi hùng của những trại tập trung của Cộng sản ở miền Bắc, nếu không có những thiên hồi ký như Những Năm Cải Tạo ở Bắc Việt này của Trần Huỳnh Châu.

    Thời đại chúng ta, nếu thiên đường vẫn chỉ là ảo tưởng và thần thánh đã chết, ngược lại địa ngục lại có thật, lại có thật những thể chế chuyên chính xây cất trên những địa ngục của người mà chuyên chính vô sản ở Việt Nam hiện nay và hệ thống lao tù của nó là hiện thân kinh hoàng nhất.

    Đi theo Trần Huỳnh Châu từng bước một, trên con đường khổ hình của ông, đi theo Trần Huỳnh Châu, từng bước một, từ những trại giam ở Thủ Đức, Long Thành miền Nam tới những trại tù Quảng Ninh, Lý Bá Sơ ở miền Bắc, do đó không chỉ là một chia xẻ đau lòng và phẫn uất với cảnh ngộ tù nhân Trần Huỳnh Châu và hàng trăm ngàn đồng bào ta còn bi đọa đày ở những nơi chốn tác giả thiên hồi ký này vừa may mắn ra thoát, mà còn để thấy được trọn vẹn trong một lần, cái địa ngục Mác-xít vĩ đại chưa triệt hủy được đi trên trái đất này, trong đó có cái địa ngục chủ nghĩa, địa ngục chuyên chính mà năm mươi triệu đồng bào Nam Bắc chúng ta đã bị đọa đầy từ sáu năm nay.


    Mai Thảo
    _________________________________

    Những Năm "Cải Tạo" Ở Bắc Việt
    Trần Huỳnh Châu





    Tháng 5 năm 1975, sau ngày sụp đổ, có mấy tên bộ đội vào chơi nhà một người bà con của tôi ở Sàigòn. Trong câu chuyên huênh hoang của chúng, nhân đề cập đến vấn đề nhà tù, chúng có nói rằng “Miền Bắc không có nhà tù”. Hồi đó mấy nguời bà con của tôi, vốn ở trong Nam, ở thành phố, chưa hề có kinh nghiệm gì về Cộng sản , tin lắm, và phụ họa với chúng “Miền Bắc không có nhà tù…”.

    Tôi được nếm mùi “cải tạo” ở Miền Bắc từ cuối năm 1976 đến đầu năm 1980 (không kể gần một năm rưởi ở trại giam Long Thành và Thủ Đức, miền Nam), và nhận ra rằng quả thật Miền Bắc không có nhà tù, theo nghĩa thông thường của Thế Giới Tự Do, là nơi giữ kẻ có tội, làm người ta mất tự do trong một thời gian có hạn định rõ rằng. Còn các trại “cải tạo” Miền Bắc đều là những trại khổ sai rất đểu cáng, mọi người đều phải làm khổ sai trong khi ăn rất đói. Phải, Miền Bắc không có nhà tù theo tiêu chuẩn thông thường; chỉ có những trại khổ sai. Mà đã vào trại khổ sai đó thì không biết bao giờ ra được, không có thời hạn nào cả. Cái gọi là “tập trung cải tạo 3 năm”, dân Miền Bắc gọi là “tù mù”, nghĩa là ở tù mù mịt, không biết bao giờ về.

    Tôi đã ở 2 trại cải tạo ở Miền Bắc: trại Quảng Ninh (gần Hòn Gay) và trại số 5 Thanh Hóa. Trại Quảng Ninh (xả ThỐng Nhất, huyện Hoành Bồ) tương đối khá hơn. Trại số 5 Thanh Hóa, mà tên Thiếu tá Trại trưởng có nói chính là trại Lý Bá Sơ ngày trước, nay thuộc huyện Thiệu Yên (Thiệu Hóa + Yên Định), trên phần đất Yên Định cũ, tồi tệ hơn trại Quảng Ninh. Nhưng nói chung tất cả các trai cải-tạo Cộng sản đều giống nhau ở nhiều điểm, mà hai điểm nổi bật, đối với tôi, là tình trạng đói, đói về vật chất, đói về tinh thần. Về vật chất, là tình trạng đói ăn. Về tinh thần chúng bưng bít tin tức bên ngòai và tìm đủ mọi cách để ngăn cấm không cho người ta học văn hóa. Tự điển chúng cũng tìm cách tịch thu. Học mấy câu chữ nho để viết mấy câu thơ cổ, cũng bị chúng gọi lên kiểm điểm.

    Tôi may mắn thóat được cảnh ngục tù, tìm được tự do. Nhưng còn biết bao nhiêu bạn bè thân thiết, bao nhiêu người bạn đã từng cùng nhau đổ mồ hôi trên núi đá trong mùa hè nóng bức, từng cùng nhau run lẩy bẩy vì rét, vì đói trong mùa đông lạnh giá, từng cùng nhau thì thầm một vài tin tức lạc quan, từng cùng nhau bỏ ăn để chống đối chế độ trại giam quá khắc nghiệt… Những người bạn bè ấy hiện nay vẫn còn trong các trại khổ sai, có người đã nằm xuống vì không chịu đựng nổi, những người còn sống thì ngày ngày làm khổ sai và ăn đói, và chịu đựng một sự kềm kẹp dã man về tinh thần và vật chất, và không biết đến bao giờ mới thoát được ngục tù.

    Tôi viết những dòng nầy cho những người bạn ấy, với niềm ước mong những người đã định cư được trên phần đất tư do đừng bao giờ quên những người ấy. Họ còn hi vọng là chúng ta, những thân nhân, những bạn bè của họ hiện ở trên phần đất tự do, sẽ làm một cái gì cho họ. Họ còn hi vong là nhân loại sẽ còn tiếp tục đặt vấn đề nhân quyền, vì không phải chỉ nói suông mà sẽ làm một cái gì cụ thể để cứu họ. Ho bị bưng bít, không biết tin tức gì bên ngoài, nhưng họ vẫn tìm một chút ánh sáng để hi vọng, qua những tin tức rất hạn chế mà họ biết được . Họ bám víu lấy hi vọng để chịu đựng đói khổ, nhục nhằn, cố sống để có một ngày mai.

    Ngày mai ấy có đến với họ không? Đó là vấn đề chúng ta sẽ trả lời trong tương lai. Bài này tôi hãy nói về quá khứ. Cơn ác mộng của tôi đã thuộc về quá khứ. Nhưng hàng trăm ngàn người hãy còn sống trong cơn ác mộng ấy. Và không biết cơn ác mộng còn kéo dài bao nhiêu năm nữa. Nhưng với tôi, nó đã là quá khứ mà tôi xin ôn lại nơi đây một cách rất trung thực. Trung thực, nhưng không thể đầy đủ, vì nhiều anh em còn ở trong tù, có nhiều chi tiết tôi chưa tiện nói ra.


    I. TỪ NAM RA BẮC
    Cho đến đầu tháng 10-1976, tôi đã ở trại Long Thành được 16 tháng. Giữa trưa ngày 3-10, tôi đang bửa củi ở nhà bếp, bỗng có tiếng kẻng tập trung. Chúng tôi vội vã tập trung lại trong từng nhà, rồi nghe đọc tên. Chuyến ấy chỉ có 30 người, phần lớn là sĩ quan cấp Tá và một số viên chức hành chánh hàng Phó Tỉnh Trưởng trở lên. Thành phần Cảnh sát, Tình báo, và đảng phái đã được đi trước đó 1 tháng. Chúng cho 30 người chúng tôi đến trại Thủ Đức bằng một chiếc xe ca, xiềng hai người vào một cặp. Đường từ Long Thành về Thủ Đức giữa trưa vắng lặng, mặc dầu là đi trên xa lộ Biên Hòa Saigòn. Vừa đến trại Thủ Đức, chúng tôi nghe ngay tiếng hò hét của một tên cán bộ mà sau nầy chúng tôi mới biết có tên là Sáu Gô. Tên thật anh ta là gì không ai biết. Anh ta tự xưng là anh Sáu. Và anh em gọi là Sáu Gô. Anh em gọi như vậy, vì anh ta chuyên tịch thu các lon guigoz của anh em.

    Chúng tôi xuống xe thì gặp ngay màn xét đồ đạc của Sáu Gô. Tất cả quần áo, đồ đạc, lon thùng, thức ăn… đều phải bày hết cả ra trên sân. Người nào có độ 3,4 lon guigoz trở lên (đây là lon đã hết sữa, dùng đựng các thứ nhà gủi lên như đường, tôm khô, bột vv…) thì thế nào cũng bị mất mấy lon. Sáu Gô trút các thứ đựng bên trong ra rồi tịch thu các lon guigoz, bảo là “cho đồ đạc các anh được gọn gàng vì phòng giam không đủ chỗ”. Một lon guigoz (lon trống, không có sữa) hồi ấy nghe nói bán được chừng 4 hay 5$ tiền mới, tức là 2000$ hay 2500$ tiền cũ. Cho nên Sáu Gô ham lắm. Nhưng màn khám xét này chỉ là sơ khởi. Trước khi ra Bắc, còn khám xét nhiều và còn tịch thu nhiều…

    Chúng tôi vào trại Thủ Đức và ở đó 1 tháng. Chúng tôi gặp lại nhiều bạn bè quen từ Long Thành lên Thủ Đức trước đó. Có nhiều đợt chở ra Bắc trước rồi. Tôi gặp lại người anh ruột của tôi là Trần Ngọc Quế trước là giáo sư trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng, đi cải tạo vì có chân đảng phái. Một người anh ruột nữa là Trần Huỳnh Hội, trước là Trung Tá, thì đã đến Thủ Đức từ cuối năm 1975 và được chở ra Bắc từ tháng 8 năm 76. Về sau, anh Quế ra Bắc sau tôi, ở trại Hoàng Liên Sơn rồi qua đời trong trại tù ở Vĩnh Phú. Anh Hội tôi thì ở trại Hà Nam Ninh.

    Gặp mấy người bạn cũ, trên nguyên tắc thì không được hỏi nhau giữa những người ở khác phòng, nhưng chúng tôi vẫn nháy nhó, hỏi nhau vài câu ngắn.
    – Đi đường có đeo Seiko không?
    – Có! (Đeo Seiko tức là bị xiềng tay).

    – Ở đây, thế nào?
    – Ăn khá hơn Long Thành và không lao động.

    Thủ Đức là trại chuyển tiếp, về tập trung tại đó để chờ ra Bắc. Chúng giữ rất kín chuyện ra Bắc nhưng một vài người được bà con đến thăm có nói riêng cho biết. Tôi gặp những người quen nhưng thuộc nhóm khác không ở Long Thành như nhóm Rạch Giá (chở từ Rạch Giá lên Thủ Đức) có anh Nguyễn Vạng Thọ (trước làm Tổng Thư Ký Bộ Tư Pháp), nhóm Chí Hoà có ông Nguyễn Mậu (Dân Biểu Quảng Tín), Đại Tá Trịnh Tiêu (Trưởng phòng 2 Quân Khu II), v.v…

    Trước khi ra Bắc độ một tuần lễ, chúng khám xét đồ đạc, chuyển phòng lung tung để tịch thu một mớ đồ đạc và làm xáo trộn tất cả các nhóm quen biết, có lẽ để đề phòng những sự liên kết có thể dẫn đến hành động gì trong khi di chuyển. Rồi trước khi ra Bắc độ 3 ngày, chúng cho phép chúng tôi ai có tiền thì được nhờ chúng mua giùm thức ăn ngoài chợ Thủ Đức với giá chợ đen. Tất nhiên những cán bộ đi mua giùm thế nào cũng có khấm khá trong chuyện mua bán nầy. Nhưng chuyện đểu cáng hơn là chúng khuyến khích chúng tôi mua nước mắm, nước tương để dành ăn, rồi 3 ngày sau, khi soạn đồ đạc ra Bắc thì chúng buộc phải bỏ tất cả những thứ ấy lại, viện cớ là đi đường dễ vỡ. Tất nhiên chúng sẽ đem bán tất cả những thứ chúng tôi bỏ lại. Ngòai ra, trước hôm ra Bắc, chúng khám xét đồ đạc chúng tôi hai lần, và tịch thu mọi thứ rất bừa bải để kiếm chác. Những đồ đạc này, trong một năm rưởi, sống ở trại Long Thành, gia đình chúng tôi đã gởi đến trong những đợt chúng cho tiếp tế nhân các ngày lễ như 1-5, 2-9 và dịp Tết. Bây giờ chúng kiếm cớ tịch thu. Chúng tôi ước lượng là trong dịp này, chúng kiếm được khoảng 10 triệu đồng tiền cũ trên số khoảng 800 người cho ra Băc chuyến đó.

    Khuya 30-10-1976, chúng chở chúng tôi bằng xe đến Tân Cảng rồi xuống tàu Hồng Hà. Khi lên xe, chúng tôi bị xiềng tay từng cặp một như thường lệ. Đến bến, lên tàu rồi mới được mở xiềng.

    BỐN NGÀY HÔI THỐI
    Chúng lùa chúng tôi xuống hầm tàu, đúng ra là nơi chứa hàng hoá. Tàu Hồng Hà đã cũ quá, nhiều nơi bị rỉ sét. Tàu có 3 hầm, tôi bị nhốt ở hầm giữa là hầm đông nhất. Ngoài số 800 người chúng tôi đi từ Thủ Đức, có thêm vài trăm người đi thẳng từ Long Thành đến . Những người nầy ở hầm sau đuôi tàu và khi đến Hải Phòng được chở đi Bắc Thái.

    Chúng tôi xuống hầm tàu nằm kề vai nhau không còn một chỗ hở. Chúng để trong hầm tàu hai thùng gỗ nhỏ, là chỗ tiểu tiện cho 600 người trong hầm giữa (còn hầm phía mũi chứa độ 200 người)Vì không có chỗ, nhiều người phải nằm sát chỗ tiểu tiện. Bốn ngày đêm, 600 người tiểu tiện, thùng cứ đầy tràn ra, chảy khắp hầm tàu, thối um lên. Tháng mười biển động, nhiều người say sóng ói mửa. Mùi phân, mùi nước tiểu và mùi ói mửa trộn lẫn với nhau xông lên trong hầm tàu. Có hai lần chúng tôi kêu ca quá, chúng đứng trên boong tàu dòng dây xuống bảo cột thùng phân vào cho chúng kéo lên. Vì thùng quá đầy, khi kéo lên, phân rơi vung vãi , trúng ai nấy chịu, vì không còn chỗ tránh, và cũng vì say sóng quá mệt, cứ nằm mà chịu trận.

    Bốn ngày đêm mà tưởng như 4 năm trong địa ngục. Tôi nằm trong hầm tàu hôi thối, thầm an ủi là mình hãy còn sưóng hơn Tôn Tẩn ngày xưa… Ngày xưa Tôn Tẩn bị Bàng Quyên chặt chân, rồi bị nhốt vào chuồng heo, Tôn Tẩn phải giả điên ăn phân heo, sau mới có cơ hội trốn thoát. Tôi ở trong hầm tàu Hồng Hà, kể ra thì hôi thối hơn trong chuồng heo, lại thêm say sóng nữa, nhưng sướng hơn Tôn Tẩn là chân không bị chặt. Thôi thế nầy cũng hãy còn phúc. Lại sắp có dịp xem tận mặt cái xứ Bắc Việt xã hội chủ nghĩa rồi. Ngày trước ở Miền Nam, nghĩ đến chuyện sống trong xã hội Miền Bắc cũng đã sợ rồi. Nay lại ra Miền Bắc mà ở tù, chứ chẳng phải ở ngoài xã hội.

    TỪ HẢI PHÒNG ĐẾN TRẠI CẢI TẠO QUẢNG NINH
    Đêm chót, khoảng nửa đêm thì tàu vào sông, chúng tôi biết vì thấy tàu êm hẳn, tuy vẫn còn chạy. Rồi tàu đến bến, đậu lại, và chờ đến sáng.
    Trời vừa sáng thì chúng tôi được lệnh xuống tàu.

    Bác sĩ Văn văn Của (trước từng làm Đô trưởng Sai gòn) hỏi chúng tôi có ai không đi nổi, phải khiêng, thì cho biết để sắp xếp. Phần lớn chúng tôi mệt lả vì say sóng 4 ngày đêm không ăn gì được. Nhưng nghĩ đến chuyện bước ra khỏi cái hầm tầu hôi thối nầy thì ai cũng muốn vội vàng, nên ai cũng cố gắng, rồi cũng đi được cả.

    Bước xuống bến Sáu Kho, thở không khí ban mai của một ngày đầu mùa đông Miền Bắc (hôm ấy, trời không lạnh), chúng tôi thấy người dễ chịu hẳn. Đây là một khu bến dường như vừa mới xây thêm, tiện nghi chẳng có gì. Chỉ có cầu tầu trơ ra đấy. Chúng tôi được lệnh ngồi sắp hàng theo từng đội để cán bộ đếm. Đếm đi, đếm lại, rất kỹ. Rồi đến màn “đeo Seiko” (xích tay). Rồi bắt đầu lên xe.

    Xe là xe đò Miền Bắc. Chắc là xe của Công An chẳng có bao nhiêu nên phải thuê xe đò chở chúng tôi. Xe nào cũng cũ kỹ, ọp ep. Chúng ém chúng tôi lên xe, chật qua, nhiều người thở không nổi. Xe lại bị che kín bằng vải để chúng tôi không trông được bên ngoài nên càng bí hơi. Nhưng dù sao thì cũng không hôi thối như dưới hầm tàu. Nội cái màn đếm người và lên xe cũng mất đến 4 giờ đồng hồ. Lên xe xong, ngồi chật không có chỗ cựa, mà trước khi xe chạy còn phải nghe một tên cán bộ Cộng sản , hắn có thể nói hàng giờ về một vấn đề chỉ cần nói vài câu trong vài phút; và có thể nói hàng giờ về một câu chuyện mà ai cũng biết cả rồi. Về sau, càng ngày tôi càng thấm thía thấy chế độ Cộng sản Miền Bắc chẳng coi thời gian ra gì cả. Mặc dầu lúc nào cũng nói sản xuất, nói tiến bộ, nhưng thật ra họ đã mất rất nhiều thì giờ để nói những điều vô ích, và chẳng còn bao nhiêu thì giờ để làm việc. Đó cũng là một trong những nguyên nhân làm trì trệ kinh tế.

    Chúng tôi ngồi trên xe, quá mệt mỏi, bụng đói miệng khát, chỉ mong cho xe chạy đi để đỡ mệt một chút mà cứ phải nghe giảng nội qui đi đường. Nhưng rồi cũng đến lúc xe chạy.
    Xe có chạy ngang một khu phố của Hải Phòng. Mấy tấm vải che trên cửa là vải mỏng, nên chúng tôi cố nhìn ra quan sát, mặc dầu nhìn ra như thế trái nội quy đi đường đấy. Chúng tôi thấy một mớ người đi xe đạp và đi bộ. Có nhiều nhà sụp đổ, có lẽ là sụp đổ trong thời kỳ ném bom, vẫn còn để lôi thôi, chưa dọn dẹp xây dựng lại. Đường phố tồi tàn, người đi quần áo lôi thôi. Nhưng chúng tôi chỉ đi thoáng qua một khu phố của Hải Phòng, nên chưa dám kết luận điều gì. Rồi xe đến một bến phà. Qua phà, chạy một lát, lại đến một bến phà nữa. Trên xe tôi, có mấy anh người Bắc trước 1954 đã ở Hải Phòng, quen thuộc vùng này, cho biết bến phà thứ hai này chính là sông Bạch Đằng và đây là đường đi đến Quảng Yên (nay là Quảng Ninh)

    Tôi nghe nói sông Bạch Đằng thì chợt nhổm dậy. Tay tôi bị xích chung với tay Đỗ Kế Cầu(trước làm Phó Tổng Thư-ký Phủ Thủ tướng) và tôi nhổm dậy, làm giật tay anh Cầu. Tôi nói với anh Cầu: “Này, sông Bạch Đằng!”. Trí óc bỗng miên man về những trang sử ngày xua. Ngô Quyền phá quân Nam Hán, Trần Hưng Đạo dẹp quân Nguyên ở nơi đây. Tôi thàm ca mấy câu trong bài Trên Sông Bạch Đằng của thời trước 1945:

    “… Cờ bay chiêng trống khua quân dần lên
    Làm cho lui tan hết quân Nguyên
    Đến bây giờ mỗi khi đi trên sông Bạch Đằng…”


    Nhưng chiếc xe đã xuống phà. Phà rất tồi, xe cũng tồi. Khi xuống phà, xe nhảy cái rầm, suýt nữa thì tụt xuống sông. Anh em ngồi trên xe hoảng vía vì nếu tụt xuống sông trong tình trạng xe chật và xích xiềng thế này thì chắc chắn chỉ ngồi yên chịu chết thôi. Sinh mạng của chúng tôi nào có ai coi ra gì.

    Nhưng phà đã chạy. Trên dòng sông, gió mát thổi lộng vào xe làm tôi thấy dễ chịu, thấy lòng lại khoan khóai. Và lại lẩm nhẩm hát “Trên sông Bạch Đằng, quân Nam ầm reo…” Và nghĩ đến thân phận của tôi, thân phận một thằng tù, tay bị xiềng, ngồi trên chiế xe bít bùng, vẫn cố nhoài người ra để nhìn cho được dòng sông Bạch Đằng, vẫn tưởng như đâu đây còn vang tiếng loa xưa của vị anh hùng Trần Hưng Đạo, vẫn thấy mình là một người Việt Nam, một người yêu nước, cũng như cha tôi, một đảng viên VN Quốc Dân Đảng, rất yêu nước, và nhất định không chấp nhận chủ nghiã Cộng sản , và cho dù Cộng sản có nói gì, có bảo là chúng tôị bán nước hay có bảo là phải “kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội”, tôi thấy tôi vẫn một lòng yêu nước và yêu tự do, và Hồ Chí Minh là kẻ có tội nặng nhất trong lịch sử nước nhà, và dòng sông Bạch Đằng vẫn làm cho tôi xúc động, và chiếc xiềng trong tay vẫn không làm cho tôi xấu hổ, và tôi vẫn miên man nghĩ đến lịch sử oai hùng của dân tộc và nghĩ đến một tương lai tươi sáng trong tự do.

    Đường đi trải đá, gồ ghề. Nhà cửa hai bên đường thấp thoáng sau làn vải che, trông cũ kỹ. Đến một ngã ba đường, thấy có mũi tên chỉ đường ghi Hồng Gai. Nhưng chúng tôi không đi Hòn Gay. Chúng tôi đi đến trại giam Quảng Ninh, xã Thống Nhất, huyện Hoành Bồ.

    TRẠI QUẢNG NINH TRONG NHỮNG THÁNG ĐẦU
    Tay chúng tôi chỉ được đeo thứ “đồng hồ Seiko Bắc Việt” tức là loại xiềng chung làm bằng dây xích sắt, rồi dùng ống khóa thường mà khóa lại, chứ không được đeo thứ đồng hồ gì khác, vì tất cả các thứ đồng hồ, nhẫn v.v.,. đều phải nộp lưu ký chứ không được giữ, nên chúng tôi không biết là đã di chuyển trên xe trong bao lâu và đến trại Quang Ninh lúc mấy giờ. Trên xe, chúng có phát cho mọi người một mẩu bánh mì và một quả cam nhỏ.

    Khúc bánh mì tròn, không có thịt cá gì hết, nhưng sau mấy ngày nhịn đói, ăn thấy ngon vô kể. Khi đến trại Quảng Ninh, mặt trời đã xế bóng.

    Buổi tiếp xúc đầu tiên với một trại cải tạo Miền Bắc đã được sắp xếp, trình diện để chúng tôi có cảm tưởng tốt. Xe vào sân trại, có ngay cán bộ phụ trách từng đội gọi tên, nhận lãnh, hướng dẫn về phòng giam. Về đến phòng giam là nhà bếp gánh nước uống đến. Phòng giam được sắp xếp sẵn chiếu, mền, màn, trông có vẻ tươm tất. Bữa cơm đầu tiên được kể là “thịnh soạn” so với những bữa cơm tù khác. Cơm ăn dư thừa, với 2 món ăn: một món canh, một món kho. Cả hai món đều là thịt trâu. Thịt trâu cũng dư thừa, nói cho đúng ra là vì thịt trâu quá dai, nhai không nổi. Nhưng sau nầy thì thịt trâu dù dai đến đâu cũng không thể dư được, khi chúng tôi đã ở trong tình trạng quá đói. Còn đây là tuần trăng mật. Còn đang ở giai đoạn trình diện, chúng tôi ăn được hai bữa thịt, thì bắt đầu vào bữa cơm bình thường, tức là cơm độn, ăn với chút canh thôi. Canh rau cải nấu với muối. Nhưng giai đoạn nầy vẫn còn khá. Mỗi tuần có 2 bữa thịt. Mỗi tháng có một bữa ăn chè ngọt. Thỉnh thoảng lại có phát bánh biscuits ăn thêm. Tình trạng nầy kéo dài được vài tháng. Mùa đông năm đó (năm 76) được kể là mùa đông rét nhất trong mấy chục năm. Nhưng dù rét, chúng tôi vẫn thấy đây là “tuần trăng mật” với trại cải tạo Miền Bắc. Chúng tôi chưa phải đi làm lao động. Cán cư xử cũng khá. Mấy anh tù hình sự phụ trách nhà bếp khi đưa cơm nước đến phòng tìm cách nói riêng vài câu: “Mấy chú thế nầy là sướng lắm đấy. Không dễ gì không lao động mà lại được ăn uống khá thế nầy đâu. Tụi cháu thì khổ lắm.”

    Lễ Noël năm đó chúng tôi được ăn một bữa ngon, có thịt trâu. Họ cho ăn vào ngày 25-12 chứ không phải tối 24, chúng tôi chẳng hiểu có phải chúng cho ăn Noël hay không. Chúng tôi lấy làm lạ lắm vì chế độ Cộng sản làm gì có cho ăn Noël. Những năm sau này, năm 1978, 1979, đêm Noël, chúng tìm đủ mọi cách ngăn cản không cho chúng tôi tưởng niệm ngày Chúa Giáng Sinh, có người chỉ hát thánh ca trong đêm 24-12 mà bị cùm chân trong phòng kỷ luật. Vậy không lẽ gì chúng lại cho ăn Noël trong năm 1976. Nhưng điều chắc chắn là tối 25-12-76 chúng tôi có được ăn một bữa ăn ngon, khác ngày thường.

    Môt bữa khác cũng làm chúng tôi ngạc nhiên là bữa ăn ngày 20-1-1977. Bữa ăn này có vừa thịt trâu vừa thịt heo, đó là điều rất đặc biệt. Trong năm, chỉ có những dịp lễ 1-5, 2-9 và Tết Nguyên Đán là có thể có vừa thịt trâu vừa thịt heo. Tôi nói “có thể” thôi, chứ không phải là chắc chắn đâu. Vậy mà ngày 20-1-1977, chúng cho ăn một bữa “thịnh soạn”. Khác với hồi ở trại Long Thành mỗi lần có một chút thịt trong bữa ăn nhân dịp lễ gì đó, là chúng tuyên bố trước, nói dài dòng về ý nghĩa bữa ăn, nhắc đến “ơn Bác ơn Đảng” tùm lum mà chỉ được ăn có tí xíu. Và 20-1-1977, chúng giữ hoàn toàn im lặng, chỉ tự nhiên thấy có bữa ăn đặc biệt thì chúng tôi cứ ăn mà thôi.

    Nhưng ở trong tù, chúng tôi rất nhạy cảm. Một hiện tượng nhỏ gì cũng để ý, phân tích. Và thường thì sự phân tích rất chủ quan. Chẳng hạn, có người lưu ý rằng ngày 20-1-1977 là ngày ông Carter lên nhậm chức Tổng Thống Hoa Kỳ (chính có sự lưu ý nầy mà tôi nhớ bữa ăn 20-1-1977). Chúng tôi có cười nhau về nhận xét nầy. Chẳng lẽ Cộng sản Bắc Việt lại cho,chúng tôi ăn ngon nhân ngày ông Carter nhậm chức. Nhưng mặc kệ, hãy cứ biết được một bữa ngon đã. Ở tù Cộng sản , dễ gì kiếm được một bữa ăn có vừa thịt trâu vừa thịt heo. Những năm sau nầy, chúng tôi mong đỏ mắt, nằm ngủ mơ tưởng miếng thịt trâu thịt heo như thế bao nhiêu lần mà không có đấy. Có lẽ những người ăn uống no đủ nghe nói chuyện nằm mơ tưởng miếng thịt trâu thì lấy làm lạ lắm. Có thể cho là tôi phóng đại câu chuyện, hoặc cho là chúng tôi hèn kém, có đói thì đói chứ lạm gì đến nỗi nằm mơ miếng thịt. Nhưng khi đã đói, đói tháng nầy qua tháng khác, năm nầy qua năm khác, mới có thể hiểu được “tâm sự” nầy.

    Nhưng món ăn vật chất không làm chúng tôi phấn khởi bằng món ăn tinh thần mà sau đó chúng tôi có được. Đó là bài báo trong tờ Nhân Dân chửi bài diễn văn của Tổng Thống Carter, và sau đó, bài báo chống đỡ vấn đề nhân quyền. Hồi đó, vấn đề nhân quyền chưa được rầm rộ như sau này, nhưng với chúng tôi, đó là lần đầu tiên chúng tôi được biết chắc rằng thế giới có nhắc đến chúng tôi, những kẻ ở trong ngục tù Cộng sản . Phải có ở trong hoàn cảnh tăm tối, tin tức bị hạn chế, bưng bít, cuộc sống ngục tù không biết kéo dài đến bao giờ, không biết bên ngoài có chuyện gì xảy ra, không biết có ai còn nhớ đến mình, mà bỗng đọc được trên báọ của chính Cộng sản vì phải chống đỡ dư luận thế giới, hé lộ cho thấy một chút tin tức bên ngoài, khiến chúng tôi như kẻ nằm trong đêm tối chợt nhìn thấy một chút ánh sáng le lói đầu xa. Chắc là Tổng Thống Carter, khi đọc bài diễn văn nhậm chức năm 1977, có vài câu nói về nhân quyền, nói đến những người đang bị áp bức “ở bất cứ nơi đâu”, không ngờ rằng những câu đó lai có tác dụng thắp lên trong lòng những kẻ ở trong ngục tù núi rừng Bắc Việt một tia hi vọng. Mà chúng tôi có được đọc bài diễn văn ấy đâu. Chúng tôi chỉ đựọc đọc vài dòng trích dẫn mà báo Nhân Dân trích ra khi công kích nội dung bài diễn văn ấy mà thôi. Có lẽ khi đọc đến đoạn này nhiều người sẽ cho là chúng tôi ngây thơ . Ai lại nằm trong tù mà tin tưởng vào diễn văn của những ông chính khách! Tất nhiên lúc đó chúng tôi chẳng phải ngây thơ mà cho rằng chúng tôi sẽ được trả tự do khi thế giới đặt vấn đề nhân quyền. Nhưng sống trong tình trạng mù mịt, tối tăm trong ngục tù Cộng sản , chúng tôi cần có những chỗ bám víu về tinh thần, như người sắp chết đuối thấy một mảnh gỗ nhỏ không đủ làm phao cũng cứ bám lấy. Thực ra, trong mấy năm qua, chúng tôi có những hi vọng thật, chứ không phải giả tạo. Chúng tôi đã nhìn thấy sự ruỗng nát và thế bí của Cộng sản Việt Nam, và chúng tôi tin rằng chúng sẽ sụp đổ. Đây là một vấn đề mà chúng tôi sẽ đề cập đến trong những đoạn khác. Dù sao, vấn đề nhân quyền nêu lên đầu năm 1977 là tia sáng đầu tiên trong những ngày ở tù xứ Bắc.

    Trại Quảng Ninh, với bộ mặt trình diện ban đầu không đến nỗi đáng ghét, vốn là một trại nhà binh cũ của Pháp hồi trước 1954. Trại nầy không cách xa Vạt Cháy lắm, có lẽ chỉ chừng năm ba chục cạy số gì đó. Có một số anh từng học khóa Vạt Cháy, từng là quân nhân ngoài Bắc trước 1954 biết vùng nầy. Trại nằm trong một thung lũng nhỏ, chung quanh toàn là núi rừng. Mùa đông năm 76, có lúc trời lạnh đến 4o bách phân mà chúng tôi không có áo ấm, có tất cả baọ nhiêu áo quần đem theo đều mặc hết cả vào, kể cả áo mưa; khăn quàng quấn đầy đầu đầy cổ mà vẫn rét.

    Tết năm đó, chúng tôi ăn Tết cũng khá. Mỗi người được phát 2 cái bánh chưng nhỏ, một ít bánh ngọt và kẹo. Thịt trâu thịt heo trong mấy ngày Tết cũng khá. Trước Tết chúng tôi được phép viết thư về nhà xin quà tiếp tế gửi ra, nhưng được lệnh tuyệt đối không được viết câu gì tỏ ra mình đang ở miền Bắc, nếu trong thư có câu gì lộ ra như thế thì thư sẽ không được chuyển đi. Mùng 2 Tết, chúng tôi nhận được quà gia đình.

    Nhưng đến sau Tết Nguyên Đán, tình hình bắt đầu xuống dần. Mức ăn hạ xuống từ từ. Bắt đầu sắp xếp làm lao động, khởi sự là đập đá. Lúc đó, trên báo Nhân Dân, chúng tôi thấy Cộng sản Việt Nam cứ lải nhải đòi Mỹ thi hành điều 21 hiệp định Paris, đòi 3 tỷ 2 đô la. Một bữa kia có tên cán bộ ngồi nói chuyện với chúng tôi, có nói nếu không có 3 tỷ 2 thì các anh đi “tuốt” hết. Chúng tôi không hiểu việc chúng tôi được cho ăn uống khá khi mới ra Quảng Ninh có liên hệ gì đến việc 3 tỷ 2 đô la không, nhưng quả thật là sau đó, tình trạng chúng tôi ngày càng tồi tệ. Dù thế nào, chúng tôi cũng chẳng muốn Cộng sản Bắc Việt có 3 tỷ 2. Chẳng ai muốn cho kẻ cướp đã xé hiệp định Paris chiếm Sàigon, huênh hoang tuyên bố “chiến thắng hoàn toàn, triệt để, toàn diện và vĩnh viễn” rồi lại được đối phương đưa tiền để tiếp tục đi ăn cướp chỗ khác!

    ____________________



    ỊI. NHỮNG NGƯỜI PHỤC QUỐC BỊ ĐÀY RA BẮC

    Tháng 4 năm 1977 trại chúng tôi đón tiếp một số khách mới, từ Miền Nam ra. Tối hôm ấy, khoảng 8 giờ, chúng tôi thấy khoảng mười chiếc xe đò chạy vào sân trại. Trước đó, một số tù hình sự đã được di chuyển đến nơi khác để có phòng trống.

    Sân trại được thắp đèn sáng lên. Chúng tôi leo lên sập, nhìn qua cửa sổ để quan sát. Nhìn thấy từng cặp đeo “đồng hồ Seiko” từ trên xe bước xuống, chúng tôi biết đây là những người đồng cảnh ngộ với chúng tôi rồi. Ở trong tù, lúc nào chúng tôi cũng muốn gặp người mới đến để hỏi xem có tin tức gì bên ngoài không. Tin tức bên ngoài cũng cần thiết cho chúng tôi sống như là cơm nước. Nhưng tối hôm ấy, chúng tôi không được tin tức gì vì anh em mới đến được dọn vào các buồng khác. Trưa hôm sau, chúng tôi hỏi nhỏ mấy người làm bếp lúc đưa cơm thì được biết đó là những người trong Nam mới ra. Sự ngăn cách các buồng giam làm chúng tôi chưa hỏi gì thêm được. Nhưng đến đêm hôm sau, chúng tôi nghe tiếng hát đồng ca bài “Việt Nam Việt Nam” từ bên phòng giam của những người mới ra, vọng lại. Phía chúng tôi tuy cũng có hát nhạc Miền Nam cũ, nhưng thường chỉ hát nhỏ với nhau thôi, không dám hát lớn. Nay nghe những người mới ra hùng dũng hát lớn như thế, chúng tôi khoái lắm. Nhưng vẫn chưa nói chuyện với nhau được.

    Phải đợi đến một đêm Văn nghệ sau đó vài tuần, mới có cơ hội nói chuyện nhiều. Khi ra sân trại (sân nầy vẫn nằm trong vòng rào), chúng đã ngăn cách từng buồng phải ngồi riêng rẽ, cấm liên lạc nói chuyện với nhau. Nhất là số mới ra, lại ngồi hẳn ra một khu riêng biệt. Nhưng rồi chúng tôi cũng liên lạc với nhau được bằng cách nháy nhau đi tiểu. Vào đi tiểu nói chuyện lâu quá sợ chúng để ý thì kéo nhau về chỗ ngồi, cứ làm như là hai người ở cùng buồng. Nói chuyện đủ rồi thì một người lại đứng lên đi tiểu, khi trở ra về chỗ đúng của mình, là xong. Nhưng cũng không phải dễ. Đêm tối lờ mờ, bọn cán bộ không nhận mặt được nhưng còn bọn ”antenne” (bọn làm tay sai dòm ngó anh em báo cáo với cán bộ). Chúng nó dòm ngó dữ lắm.

    Những tin tức chúng tôi nhận được đêm hôm đó thật vui. Bây giờ nghĩ lại, chúng tôi thấy là mình cũng chỉ lạc quan tếu. Theo những tin tức đêm hôm đó anh em Phục Quốc trong Nam ra nói thì chúng tôi tưởng như có thể chiếm lại Miền Nam trong vòng vài tháng nữa thôi. Anh em say sưa nói về những hoạt động của Phục Quốc ở Miền Tây, ở Nha Trang, ở Sàigòn v.v….. Tôi đã gặp những em học sinh còn trẻ hăng hái nói về phong trào chống Cộng trong học sinh, sinh viên Sàigòn. Tôi nghe các em nói, thấy khí thế hăng hái của các em mà xấu hổ cho đám chúng tôi. Phía chúng tôi đại đa số là công chức, quân đội, cảnh sát, tình báo, là những thành phần đã từng có chức quyền khi trước, vậy mà khi đi ở tù chẳng tỏ ra có chí khí gì, phần lớn vẫn giữ tinh thần công chức thụ động và ngoan ngoãn, một số thì rất tồi bại. Tôi cũng biết là trong trại tù Cộng sản không dễ gì chống đối, nếu chống đối thì cái chết coi như cầm chắc trong tay; tuy nhiên chúng ta vẫn có thể giữ vững tư cách con người, tu luyện ý chí bất khuất mà chúng không thể làm gì được. Hoặc ít ra thì đa số chúng tôi cũng phải có những nhận định sâu sắc về Cộng sản , nuôi ý chí đấu tranh để sẵn sàng hoạt động khi có cơ hội: Nhưng phải nhận rằng đa số chúng tôi không được như vậy đâu.

    Tôi có gặp 2 em học sinh thấy còn ít tuổi quá, tôi hỏi vì sao hai em lại bị bắt và đưa ra đến ngoài nầy. Hai em hãnh diện trả lời: ‘‘Chúng cháu xử tử Hồ Chí Minh”. Tôi hỏi xử tử như thế nào. Hai em kể lại:
    “Hôm đó chúng cháu đang học tại trường, gặp giờ nghỉ vì không có giáo sư, thấy bức ảnh HCM treo trong lớp đáng ghét quá; chúng cháu gỡ ra để trên bàn rồi lập phiên tòa để xử tội. Cháu làm Chánh án, thằng nầy làm Biện lý, một thằng nữa làm Luật sư. Biện lý buộc tội HCM, Luật sư biện hộ. Cuối cùng, cháu tuyên án Hồ Chí Minh phạm tội phản quốc, phải xử tử. Thế là chúng cháu xé nát ảnh Hồ Chí Minh để thi hành án tử hình. Ông Hiệu trưởng nghe chuyện, chạy đi báo Công an đến bắt chúng cháu. Sau một thời gian ở trại Lê Văn Duyệt Gia Định, hai đứa chúng cháu (Chánh án và Biện lý) bị đưa ra Bắc, còn thằng đóng vai Luật sư thì đuợc tiếp tục ở tù trong Nam”.

    Thành phần Phục Quốc đưa ra trại Quảng Ninh chuyến đó gồm, phần lớn là học sinh, sinh viên. Về tôn giáo, tôi biết có 5 Linh mục Công giáo, và một số Thượng toạ, Đại đức Phật giáo. Giới trẻ trong số nầy, dù đang ở trong trại tù Bắc Việt, vẫn giữ được khí thế. Trong phòng giam, anh em vẫn tổ chức các nhóm sinh hoạt mỗi đêm, đàm luận tình hình, giữ vững tư tưởng chống Cộng, ca hát những bản nhạc Miền Nam cũ. Anh em hát ca những bản nhạc chống Cộng như bản Cờ Bay (ca ngợi Quân lực VNCH chiếm lại Cổ thành Quảng Trị), bản Trên Đầu Súng, v.v… Cán bộ trại giam ít khi muốn vào các phòng giam của anh em Phục Quốc vì anh em hay nói xiêng xỏ hoặc hỏi những câu mà cán bộ không trả lời được. Ví dụ trên phòng giam nào cũng có đề “Trật tự, Vệ sinh, Văn minh, Lịch sự”. Khi cán bộ vào, anh em chỉ khẩu hiệu nầy và hỏi cán bộ:

    – Chúng tôi không được cấp phát xà-phòng, bàn chải răng, kem đánh răng, vậy phải làm sao để “Văn minh, Vệ sinh” đây?

    Cán bộ trại giam chỉ còn biết lẩn đi, vì biết rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc cái gì cũng thiếu, trên nguyên tắc thì trại giam có cấp phát những thứ ấy, nhưng trong thực tế thì một ống kem đánh răng nhỏ cả năm mới được phát một lần, làm sao dùng đủ. Anh em Phục Quốc mới được đưa ra Bắc, mấy tháng liền không được cấp phát gì cả, mà chúng không giải quyết được. Anh em cứ làm như ngay tình, thắc mắc:

    – Hồi chúng tôi ở trong Nam, được học tập, được biết qua sách báo, rằng chế độ xã hội chủ nghĩa là ưu việt, là hơn hẳn, và Miền Bắc đã thực hiện chế độ xã hội chủ nghĩa trên 20 năm nay rồi, chắc chắn là kinh tế rất tốt đẹp, cái gì cũng có, đây chắc là cán bộ ăn chận của chúng tôi đấy.

    Người khác giả vờ đả lại:
    – Không đâu, cán bộ là con người xã hội chủ nghĩa, ta là con người ưu việt, đâu có ăn chận bao giờ.
    – Thế thì tại sao xã hội chủ nghĩa là nhân đạo, kinh tế, xã hội chủ nghĩa là tốt đẹp, cán bộ xã hội chủ nghĩa là trong sạch, mà chúng ta lại phải cải tạo một cách đói khổ, dơ bẩn, thiếu thốn thế này?

    – Thội bạn ơi, đừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm.

    Cứ thế, kẻ tung người hứng, cán bộ Cộng sản đành phải lẩn đi vì không sao đối đáp nổi. Nhưng tất nhiên, không phải chúng để yên như thế. Về sau, chúng tách những anh em này ra, đem vào trại Cẩm Thủy (Thanh Hóa), và đàn áp dã man.

    LỄ PHẬT ĐẢN NĂM 1977
    Hồi mới đến trại Quảng Ninh, tôi ở phòng số 3, sau qua, phòng số 6, rồi phòng số 4, cuối cùng là số 2 trước khi chuyển trại vào Thanh Hóa. Ngày Phật Đản năm 1977, tôi ở phòng số 4. Phòng nầy chứa khoảng 70 người, do anh Nguyễn Phi Thăng (trước là Thiếu tá Cảnh sát), làm Buồng trưởng. Kế cận phòng nầy là một phòng nhỏ dùng làm Trạm xá, để cho các người bệnh trong trại đến nằm, dưới sự trông nom của bác sĩ Văn văn Của (cựu Đại tá Đô trưởng Sàigòn ). Tuy là có bác sĩ của ta trông nom nhưng chẳng có thuốc men gì, bác sĩ Của thường chỉ chữa bệnh bằng châm cứu. Phòng nầy chỉ đủ chỗ cho chừng 5 người bệnh.

    Gần ngày Phật Đản có một vị Đại đức sang trạm xá nằm chữa bệnh. Tôi rất tiếc là, qua mấy năm, tôi đã quên tên vị Đại đức nầy, chỉ nhớ là người Miền Trung. Vị Đại đức nầy còn giữ được một bộ áo cà sa, mõ, và một bức ảnh Đức Phật cỡ nhỏ. Trạm xá với phòng số 4 coi như một phòng vì được phát cơm canh chung. Chỉ đến tối mới khóa cửa riêng, không liên lạc được với nhau. Phòng số 4 chúng tôi lúc đó có Bùi Tường Huân và Hoàng Xuân Hào (cựu Nghị sĩ) vốn là Phật giáo, cùng với tôi bàn nhau tổ chức lễ Phật Đản đơn giản trong phòng giam, nhân dịp có vị Đại đức đAng nằm ở Trạm xá. Chúng tôi nói nhỏ với một số người, nhưng phần lớn đều tỏ vẻ ngại ngùng vì sợ bị báo cáo. Nội quy trại giam ghi rõ là cấm sinh hoạt tôn giáo, cấm giảng đạo, cấm tuyên truyên tôn giáo. Đến ngày lễ Phật Đản, ngoài 3 chúng tôi, có được thêm 2 người dự. Tất cả là 5 người, với vị Đại đức là 6. Chúng tôi tổ chức vào buổi trưa, tại phòng ngoài của Trạm xá. Tiếng mõ , tiếng kinh buổi trưa hôm ấy đã ghi vào lòng chúng tôi một kỷ niệm êm đềm. Tôi không hẳn là người Phật giáo – tôi tin có Thượng Đế, thờ cúng ông bà, yêu cảnh chùa và yêu cảnh nhà thờ. Tiếng mõ tiếng kinh trong trại giam Cộng sản quả thật là chuyện hi hữu. Anh Buồng trưởng Nguyễn Phi Thăng nằm trong phòng số 4 chắc có nghe tiếng kinh tiếng mõ, nhưng giả vờ ngủ để khỏi phải báo cáo sự việc cho cán bộ.

    Bác sĩ Của nằm ngay phòng trong của Trạm xá, chắc cũng giả vờ ngủ. Niệm kinh xong, vị Đại đức giảng một bài giảng ngắn cho chúng tôi đại ý cho rằng với quan niệm Sắc – Không của Phật giáo thì dù ở tù hay ở ngoài cũng chẳng có cái gì ràng buộc ta được. Chúng tôi chúc nhau nhân ngày Phật Đản rồi sau đó Đại đức tâm sự với chúng tôi rằng, nếu tình hình thay đổi, Cộng sản sụp đổ, Đại đức ước mong có cơ hội lập một ngôi chùa trên vùng núi đồi nầy để ở laị đây trụ trì cho đến mãn đời. Buổi lễ Phật Đản chỉ đơn sơ có thế. Nhưng đó là buổi lễ Phật Đản ghi khắc sâu đậm nhất trong lòng tôi. Bài kinh, bài kệ đều rất ngắn, không có cơm chay, không có chè, chẳng có trái cây, chỉ có hình Đức Phật, một tấm hình thật nhỏ, ba cành hoa thật nhỏ mà chúng tôi hái được đâu đó phía sau buồng giam cầm, trong một chiếc lọ thật nhỏ nguyên là lọ thuốc Tribevit. Có thế thôi, nhưng trong lòng chúng tôi đều thấy lâng lâng, nhẹ nhàng thanh thóat, và trong cuộc đời sắc sắc không không nầy, lý thuyết Mác Xít và gông cùm Cộng sản như có đấy mà như không có, đã không ràng buộc nổi chúng tôi, không vấn vương nổi chúng tôi, mà ngược lại, còn làm chúng tôi thấy thương hại cho những người Cộng sản mê mụội không sao có thể hiểu được những kẻ đang ở trong trại giam của chúng lại hình dung thấy một kiểng chùa trên núi đồi xã Thống Nhất huyện Hoành Bồ sẽ thay thế trại giam.

    NGÀY QUÂN LỰC 19- 6-1977
    Sáng 19-6-1977, chúng tôi thức dậy, thì nghe từ phía phòng giam Phục Quốc tiếng hô “Nghiêm! Chào cờ!”, rồi nghe hát Quốc ca của chúng ta “Này công dân ơi…”. Tôi cùng anh Nguyễn Ngọc Xuân (trước là Thiếu tá Quận trưởng Hoài An , Bình Định), nhìn nhau bồi hồi cảm động.

    Hôm sau chíng tôi được biết là anh em Phục Quốc đã tổ chúc chào cờ, tưởng niệm chiến sĩ Quân lực VNCH, rồi có một bài nói về ý nghĩa ngày Quân Lực. Theo anh em Phục Quốc nói lại thì ngày Quân Lực được xem như ngày Quốc Khánh, vì lẽ có nhiều nhóm Phục Quốc, nhất là nhóm Công giáo, không đồng ý ngày Quốc Khánh là 1-11.

    Hôm đó nghe bên Phục Quốc hát Quốc ca kỷ niệm ngày Quân Lực, anh em chúng tôi thuộc các phòng số 6, số 5 ném bánh kẹo và thuốc lá sang phòng số 7 là một trong những phòng giam anh em Phục Quốc. Bánh kẹo, và thuốc lá trong trại giam Cộng sản là nhữg thứ còn quý hơn vàng. Ném sang tặng nhau như thế là cử chỉ bày tỏ sự quý mến đến mức tột bực rồi đấy. Phòng số 4 chúng tôi ở xa, không thể ném bánh kẹo sang được, chỉ biết nghe Quốc ca và nhìn nhau bồi hồi cảm động, và khâm phục lòng dũng cảm của anh em Phục Quốc.

    Sau vụ này, Cục Trại Giam (thuộc Bộ Nội Vụ, Hà-nội xuống giải quyết. Chúng chọn lựa một số ít trong hàng ngũ Phục Quốc để lại Quảng Ninh. Còn phần lớn anh em Phục Quốc cùng với một số ít chọn trong thành phần phía chúng tôi, được di chuyển vào Thanh Hóạ, trại Cẩm Thủy, thư từ gọi đề số 90A (về sau chúng tôi cũng vào Thanh Hóa nhưng ở trại số 5, thư từ gởi đề 50A).

    Năm vị Linh mục Công giáo ở lại Quảng Ninh, nhưng ở biệt giam trong phòng kỷ luật. Phòng số 4 chúng tôi hai người ra đi là anh Bùi Tường Huân và anh Trịnh Tiếu. Anh Nguyễn Vạng Thọ cũng ra đi trong đợt nầy .

    Lúc đó là mùa Hè năm 1977.
    Sau nầy, chúng tôi nghe những người đã ở trại Cẩm Thủy kể lại là anh em Phục Quốc vào đến trại nầy vẫn tiếp tục đấu tranh nhưng bị đàn áp dã man, chúng phân tán, giam kỷ luật, cùm chân, bỏ đói. Về sau, anh em đành phải chịu làm khổ sai và kép kín tâm tư để sống còn chờ qua cơn đàn áp.


    ___________________


    III. ĐÓI
    Cái làm chúng tôi khổ cực nhất trong thời gian ở tù là ĐÓI. Đói triền miên. Đói ngày đói đêm. Đói sáng đói chiều. Đói ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. Ăn xong bữa ăn, chúng tôi ngẫm nghĩ không biết đã ăn chưa. Nếu chưa ăn sao mình lại rửa chén. Nếu ăn rồi sao bụng vẫn đói thế này.

    QUY CHẾ
    Theo quy chế, mỗi đầu người chúng tôi được hưởng khẩu phần là 15 ký gạo. Tiền mỗi tháng là 15$ cho lương thực và thực phẩm (tức là gạo cấp phát sẽ tính thành tiền để trừ vào số 15$ nầy). Ngoài ra, mỗi tháng mỗi người còn có 3$ để mua những thứ lặt vặt như khăn mặt, bản chải răng, xà-phòng, kem đánh răng, thuốc lá v.v…

    Cộng sản phân biệt hai chữ Lương Thực và Thực Phẩm : Lương thực là thức ăn chính để ăn cho no (chất bột) như gạo, bắp, khoai, sắn, mạch. Còn thực phẩm là thức ăn trong bữa cơm như thịt, cá, rau…Rau cũng được phân biệt rau thường (như rau muống, rau dền…) và rau cao cấp (như cải bắp, su hào…). Khi ăn độn, các loại lương thực nhu bắp, sắn, khoai, mạch, bột mì…đều được quy ra gạo theo những tiêu chuẩn định sẵn. Lâu quá, nay tôi không còn nhớ rõ các tiêu chuẩn nầy. Trước kia, tôi có ghi chép cả, nhất là trong cuộc đấu tranh cuối năm 1978, nhưng sau đó, các tài liệu đã bị tịch thu, và khi về thì tất cả các tài liệu ghi chép và sách in đều bị tịch thu cả, nên nay không còn nhớ chi tiết. Đại khái, bột mì và mạch chỉ được tính ngang với gạo. Sắn thì theo tiêu chuẩn 1 gạo 3 sắn. Ví dụ, mỗi ngày ăn 500g gạo, nếu hôm nào ăn sắn (khoai mì) thì ăn 1,500g sắn. Nhưng vào chi tiết thì còn nhiều rắc rối. Trong cuộc đấu tranh về vấn đề lương thực tại phân trại B, trại số 5 Thanh Hoá, chúng tôi phải đặt nhiều vấn đề (sẽ nói rõ trong mục nói về cuộc đấu tranh này). Chẳng hạn 1,500g sắn nhưng là sắn như thế nào. Ban đầu chúng cân cả những khúc sắn đã thành rễ , toàn là xơ cứng không thể nào ăn được, và cân xong mới lột vỏ . Ai cũng biết vỏ sắn dầy như thế nào và lột xong thì hao như thế nào. Mức độ nở của gạo khi nấu thành cơm là 2,2 đến 2,5. Nấu hấp kiểu cơm thố có thể lên tới 2,7 (tính trọng lượng, ví dụ nấu 200g gạo thì được 440g đến 500g cơm). Khoai sắn nấu không nở, và chất bổ kém, nên phải tính 1 gạo 3 sắn là vì thế. Hồi mới vào tù, chúng tôi chẳng bao giờ biết đến những con số nầy. Dân miền Nam ra miền Bắc, nghe nói chế độ 13 kí, 15 kí, 18 kí, chẳng biết là thế nào. Ở trong Nam có ai để ý là mỗi tháng đã ăn bao nhiêu ký đâu. Trong gia đình, đến bữa ăn cứ xúc gạo nấu, ăn no thì thôi, chứ có ai để ý gạo nở bao nhiệu, mỗi tháng bao nhiêu kí. Nhưng ra đến ngoài Bắc, trong thời gian đói khổ, ai cũng phải tính toán trong đầu từng hột cơm, từng hột gạo. Toán làm bếp cân đi cân lại để gạo theo nhà nước ấn định là như thế nào. Nhưng đó chỉ là quy chế. Phải nắm quy chế mới có thể đặt vấn đề với cán bộ. Quy chế đã chẳng khá gì, thực tế lại còn thê thảm hơn nhiều.

    LƯƠNG THỰC
    Trong khi các nước đều đã tiến đến chỗ ăn thịt, cá, rau và chỉ ăn rất ít chất bột như cơm, bánh mì, thì Cộng sản Việt Nam vẫn không giải quyết nổi vấn đề gạo, dù phải dùng cả sắn, khoai, bắp để quy ra gạo.

    Trên nguyên tắc, chúng ấn định cho chúng tôi khẩu phần là 15 ký mỗi tháng. Với những người ăn uống đầy đủ hàng ngày có thịt, cá, có bơ sữa, thì 15 ký mỗi tháng thường là đủ rồi. Nhưng với chúng tôi thì khác. Có lúc chúng tôi chỉ ăn sắn với muối. Thông thường thì ăn sắn hoặc mạch với một chén canh nhỏ, canh rau nấu với muối. Bột ngọt cũng không có mà bỏ vào canh – cán bộ Cộng sản cho biết bột ngọt, mà chúng goi là mì chính, là tiêu chuẩn “bồi dưỡng” rồi đấy -, không dám nói đến tôm, cá, thịt. Ăn như vậy, mà đị làm lao động nặng, thì 15 ký mỗi người chẳng thấm vào đâu. Mà nào có phải 15 kí! và nào có phải là gạo!

    Thỉnh thoảng có một bữa cơm. Trong cuộc đấu tranh năm 1978, chúng tôi đem xuống bếp cân thử lại cơm thì tính ra mỗi người, một bữa ăn chính chỉ được từ 350g đến 400g cơm. Mỗi ngày hai bữa ăn chính là 800g. Phần ăn sáng, nếu là ăn cơm, chỉ được nửa chén cơm nhỏ mỗi người, tính ra chỉ độ 50g đến 100g cơm. Trung bình mỗi ngày, nếu là ăn cơm, chúng tôi chỉ được chừng 800g hay khá lắm là 900g cơm, tức là tương ứng với chừng 350g đến 400g gạo. Như vậy tính ra chúng tôi chỉ được ăn khoảng từ 10 đến 12 ký gạo mỗi tháng chứ chẳng bao giờ đủ 15 ký cả.

    Nhưng đây, vẫn còn là những tính toán có tính cách lý thuyết. Thực tế thì có mấy khi chúng tôi được ăn cơm đâu. Thời gian ở trại Quảng Ninh, chúng tôi được phát mỗi ngay hai bữa (không có ăn sáng), thường là bánh mì. Trại Quảng Ninh gần Hòn Gay là khu kỹ nghệ, được ưu tiên tiếp tế. Và năm ’77, ’78 các nước tự do có giúp đỡ nhiều bột mì, nên chúng tôi thường được ăn bột mì. Chúng tôi không biết mỗi chiếc bánh được làm bằng bao nhiêu grammes bột mì, nhung chúng tôi thấy là bữa chúng tôi phải ăn có ba cái bánh mới no được, trong khi chỉ được phát một cái.

    Lúc đầu, trại Quảng Ninh có lò nướng bánh mì nên chúng tôi được ăn bánh mì nướng. Đến cuối năm 1977, lò nướng bánh mì bị hư, nên chỉ làm bánh bao hấp mà thôi (dĩ nhiên là bánh bao không có nhân). Mùa hè năm ’77 ở Quảng Ninh chúng tôi đã thấy là đói lắm rồi, và ai cũng sút ký ghê gớm. Trước khi đi ở tù, tôi cân được 66 ký lô, đến mùa hè năm ’77 ở Quảng Ninh, tôi chỉ còn 45 kí. Vậy mà khi đến vào Thanh Hóa, chúng tôi thấy trại Quảng Ninh hãy còn khá lắm. Trại số 5 Thanh Hóa mới là tồi tệ. Mùa đông năm 78 tại Thanh Hoá, tôi chỉ còn 40 kí. Ngay hồi ở Quảng Ninh, nhờ đợt tiếp tế nhân dịp 2-9-77, chúng cho gia đình chúng tôi gởi quà ra khá nhiều, phần đông nhận được từ 30 đến 50 ký thức ăn khô nên mới gượng lại được qua năm 78. Nếu không có đợt tiếp tế đó thì một số lớn chúng tôi đã qụy ngay từ cuối năm ’77 tại Quảng Ninh.

    Tháng 8 năm 78, sợ Trung Cộng tấn công mà Quảng Ninh là tỉnh biên giới, chúng cho chúng tội vào Thanh Hoá. Mùa đông năm ’78 là thời kỳ đói nhất của chúng tôi. Phân trại B trại số 5 Thanh Hoá là nơi đểu cáng nhất trong vấn đề lương thực. Mấy tháng đầu, còn một ít bột mì, chúng phát cho chúng tôi cục bột luộc. Không có men dậy bột, toán làm bếp chỉ nhồi bột rồi bỏ vào chảo nước sôi mà luộc. Mỗi bữa chúng tôi nhận được cục bột luộc bằng nửa bàn tay, bề dày khoảng hai phân. Đây là khẩu phần bữa ăn chính, ăn để đi làm lao động đấy! Bột mì luộc ăn rất đói nhưng chất bổ còn khá. Hai thứ đáng sợ là sắn (khoai mì) và mạch.

    Mạch là một loại hạt trông giống như bo bo, nhưng thực ra không phải bo bo. Có lẽ ở ngoại quốc người ta dùng cho ngựa ăn. Ở phân tại B trại số 5, mạch không sẩy ra, cứ để nguyên vỏ thế mà nấu. Mấy năm trong tù ăn uống thiếu thốn lại không hề được chữa răng, phần lớn đau răng cả, đến bữa cơm ngồi vừa nhai mạch vừa khóc. Mạch nấu cả vỏ cứng quá, không nhai thì không nuốt được, nhai thì đau răng đau nướu không chịu nổi. Dù có nhai kỷ, ăn vào bao nhiêu cũng đi tiêu cả ra bấy nhiêu, vì toàn là chất bã. Có lẽ dạ dày ngựa thì nó tiêu hóa nổi còn dạ dày người, ăn vào bao nhiêu nó tụt đi cả bấy nhiêu. Đi tiêu rất khoái, rất là thông suốt. Nhưng tiêu xong, trong bụng không còn một chút hơi, người không còn khí lực. Ăn mạch, chúng tôi vẫn nói với nhau “thức ăn dành cho súc vật, chúng đem cho mình ăn mà cho ăn đói chứ có phải đủ no đâu.”

    Sắn thì ăn vừa đói vừa nặng bụng. Vẫn chẳng bao gìờ đủ no. Bữa ăn chính, đem chia ra mỗi người được vài khúc sắn. Có lúc chúng bắt nấu cả vỏ. Vỏ sắn có chất độc, ông bà tổ tiên chúng ta đã biết từ xưa, nên mỗi lần luộc sắn, ông bà chúng ta đều lột sạch vỏ sắn, có khi còn đem ngâm nước mấy tiếng đồng hồ rồi mới đem luộc. Còn bây giờ, với đám Cộng sản mà miệng vẫn nói “cuộc cách mạng kỷ thuật là then chốt” thì chúng để nguyên vỏ sắn mà luộc, luộc xong nước đỏ lòm, nhiều người đói quá ăn luôn cả vỏ, bị ngộ độc, ói mửa tiêu chảy tùm lum. Chúng tôi kêu ca thì chúng cho lột vỏ mới luộc, nhưng là lột vỏ sau khi cân, nên khẩu phần của chúng tôi lại càng thê thảm.

    Mùa thu hoạch sắn, để sắn lâu thì bị hư, nên chúng bắt chúng tôi ăn sắn dài dài. Mùa đông ’78 ở phân trại B trại số 5 Thanh Hóa, thường chúng tôi phải ăn toàn sắn, một tuần chỉ chen vào chừng hai bữa mạch, có khi mười ngày, nửa tháng mới có một bát cơm hoặc bắp.

    Lối ăn độn trong trại giam, không phải là nấu cơm trộn với bắp hay trộn với sắn đâu. Sắn cứ luộc nguyên củ rồi đem cả giỏ lên cho từng đội chúng tôi chia nhau. Bữa nào ăn sắn là toàn sắn, ăn mạch là toàn mạch, ăn bắp là toàn bắp. Lâu lắm mới có một bữa cơm, xúc muỗng cơm cho vào miệng, chưa kịp nhai thì như cơm bị dạ dày ở dưới vốn đói quá, hút tụt xuống cổ họng ngay. Muốn kéo dài bữa cơm, để kéo dài sự sung sướng, mà không kéo dài nổi. Chưa gì đã thấy hết cơm rồi. Và anh em lại bảo nhau: ‘‘Sao dường như cơm nó đi đâu mất rồi, nó không ghé lại dạ dày lâu lâu một chút cho mình có cảm tưởng no. Dường như vừa vào miệng nó đã tụt xuống dạ dày, vừa đến dạ dày, nó lại tan biến đi đâu mất.”

    Chỉ có sắn là có vẻ ghé lại trong ruột khá lâu.

    Ăn sắn cả tuần, dạ dày tuy vẫn đói mà ruột thì lại cứ nằng nặng, trì trì. Đi tiêu xong, thấy ruột vẫn cứ nằng nặng. Nhưng vẫn đói và vẫn mong phát sắn nhiều một chút – đàng nào cũng phải ăn sắn thì vẫn mong cho có sắn đủ no -, nhưng vẫn không bao giờ được phát nhiều, không bao giờ được ăn no, trừ ra ba bữa Tết. Ôi, sao một năm lại chỉ có một lần Tết. Mà Tết Cộng sản nó chỉ cho ăn đến mùng hai thôi. Mùng ba lại phải lao động, và ăn bình thường, nghĩa là ăn đói rồi!

    HỤI CƠM, HỤI SẮN
    Đói quá, chúng tôi cứ loay hoay tính toán cách ăn. Ông bà ta có nói ”khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Vậy phải tìm cách ăn thế nào cho “khéo”.

    Ở Quảng Ninh, chúng phát hai bữa ăn, có người chia làm bốn bữa. Hai cái bánh mì, mỗi lần chỉ ăn nửa cái thôi. Nửa cái lúc sáng thức dậy, nửa cái buổi trưa, nửa cái buổi chiều, nửa cái trước khi đi ngủ. Trước khi đi ngủ, ăn nửa cái bánh mì là để cho bụng đỡ cồn cào, dễ ngủ. Nhưng rồi thấy không ổn, vì lúc ăn đã chẳng ra gì mà rồi lúc nào cũng đói. Bèn thay đổi cách ăn. Mỗi bữa ăn, ăn ba phần tư cái bánh mì. Góp lại hai cái một phần tư mỗi bữa. Thì có được nửa cái bánh mì ăn sáng. Ăn kiểu nầy thì tối đi ngủ rất khó vì chưa ngủ được bụng đã đói cồn cào, nằm trăn trở tưởng tượng củ sắn củ khoai mà thở dài.

    Lại có người chủ trương nó phát lúc nào ăn lúc ấy. Đại diện cho môn phái nầy là anh Trạng Khanh Hưng, trước là Trung tá. Anh Hưng chủ trương rằng lúc nào cũng đói thì bất cứ lúc nào nó phát cái gì là cho hết vào bụng ngay, càng sớm càng tốt, không cần tính toán gì cả. Vì thế khi nó phát canh trước thì anh cầm chén canh húp luôn, hết sạch. Rồi đến khi phát bánh mì, hay cơm, hay mạch, anh chỉ ăn trơn như thế. Anh bảo một chén canh tí-tẻo như thế thì ra cái gì mà đợi ăn với bánh mì. Cứ húp luôn cho nó tiện việc. Đói thế này thì cơm lạt ăn mấy tô cũng hết, cần gì thức ăn. Ăn kiểu này khỏi phải cất để dành nhưng buổi sáng rất đói. Nhất là sáng mùa đông xứ Bắc, trời rét căm căm, thức dậy không ăn sáng đi chân đất làm lao động cho tới trưa. Đó là ở trại Quảng Ninh.

    Trại Thanh Hóa thì có phát ăn sáng nhưng lại trừ vào phần ăn trưa và ăn tối.

    Rốt cuộc ăn kiểu nào cũng đói. Hôm nay đói, ngày mai cũng đói. Tháng giêng đói, tháng hai cũng đói. Năm ’77 đói, ’78 cũng đói. Chao ôi, đói liên miên như thế mới có thể biết được cái đói nó khổ sở như thế nào, nó dằn vặt con người như thế nào.

    Chúng tôi lại “phát huy sáng kiến” về cách ăn. Chúng tôi bày ra trò hụi cơm, hụi sắn. Thời gian sau đợt đấu tranh tại trại số 5 Thanh Hóa, sang đầu năm ’79, có lúc chúng cho ăn liên tiếp được hai tuần lễ cơm trắng, buổi sáng ăn sắn. Tuy khẩu phần không gia tăng, nhưng được ăn cơm liên tiếp hai tuần là chuyện hi hữu ắm. Khẩu phần không gia tăng nên chúng tôi vẫn đói. Để đánh lừa dạ dày, chúng tôi chơi hụi cơm, hụi sắn.

    Nhóm ăn của chúng tôi có năm người. Mỗi bữa, mỗi người xúc một muỗng cơm trong phần cơm của mình để sang phần cơm của người “hốt hụi”. Mỗi bữa có bốn người bớt chút cơm nhưng có một người thêm đưoc bốn muỗng cơm. Chao ôi bốn muỗng, nhìn ca cơm đầy hơn mỗi ngày, trong lòng sung sướng làm sao! Nhưng bữa khác lại phải trả nợ.

    Còn hụi sắn thì thường chơi trong vòng ba người thôi. Một hụi gồm những người láng giềng, nằm kế tôi là nhóm ba người gồm Nguyễn Xuân Liêm (trước từng làm Tổng Giám đốc Công vụ), Trần Ngọc Diên (trước là Sứ thần Ngoại giao ở Washington D.C.), và Khổng Vĩnh Thành (trước là Chủ Tịch Hội đồng Thị xã Đà Lạt). Mỗi người luân phiên nhịn hai bữa sáng thì có một bữa sáng “huy hoàng” ăn cả ba phần. Bữa sáng có ba phần sắn tuy không no, nhung thế cũng sung sướng lắm rồi. Nhưng hai bữa sáng kia thì nằm co nhịn đói, uống nước lã.

    Chao ơi, ông bà ta nói “khéo ăn thì no” mà sao sống với Cộng sản, tính toán trăm phương nghìn cách để thực hiện chữ “‘khéo ăn” vẫn cứ đói. Ông bà ta hồi trưóc có ngờ đâu Cộng sản nó lại ấn định khẩu phần ăn tồi tệ đến thế. Ngày xưa, tuy kinh tế còn lạc hậu, ông bà ta dù có thiếu thốn cũng có thể “khéo ăn thì no”. Đến khi cái thứ Cộng sản nắm chính quyền, miệng nói giải phóng, nói sản xuất, nói tiến bộ, nói của cải dư dùng, mà sao, phải ăn thức ăn của súc vật mà vẫn thiếu, và thiếu quá, thiếu đến nổi chúng tôi có tính toán cách ăn như thế nào thì chung quy vẫn đói, đói triền miên, đói kinh hoàng, nếu không có gia đình gởi thêm thực phẩm thì chắc chắn hầu hết chúng tôi đã gục ngã trong cái trại khổ sai Miền Bắc rồi.

    THỰC PHẨM
    Tôi dùng chữ thực phẩm theo nghĩa Cộng sản dùng, tức là những thức ăn để ăn với cơm (hay với sắn, mạch, bánh mì…)

    Tùy theo mùa rau, có rau gì ăn rau nấy. Mùa hè ăn rau muống, mùa đông ăn rau cải. Khi thiếu hụt thì ăn muối. Canh sắn, canh khoai lang được coi như “huy hoàng” lắm, vì có tác dụng đỡ đói một chút. Canh toàn rau với muối. Sáng rau muống nước muối, chiều nước muối rau muống.

    Rau là của tù nhân trồng. Thu hoạch rau đem về nhà bếp, đem cân rồi tính thành tiền.Tiền ấy là gì? Đó là tiền 15$ hằng tháng của mỗi tù nhân, dùng để trả tiền rau đó. Cho nên nhà nước Cộng sản , tiếng là quy định mỗi tháng chi tiêu cho một tù nhân 15$, nhưng không phải chi tiêu gì. Tiền đó để mua rau, mua sắn. Mà rau, sắn, cả lúa gạo nữa, cũng đều do tù nhân trồng trọt làm ra. Ngoài ra tù nhân lại còn đập đá, sản xuất đá dăm, đá ong, đục gạch, làm lò rèn v.v… Tiền bán những thứ nầy được bao nhiêu, không tên tù nào được biết. Trước kia ngay cả số tiền 15$ hằng tháng, chúng tôi cũng đâu có biết. Đấu tranh, hỏi mãi mới được “bật mí” ra. Thì hóa ra, tiền 15$ chỉ là động tác kế toán mà thôi, chứ không phải nhà nước chi tiêu cho tù nhân. Hơn nữa, nó lại có tác dụng có giới hạn số lượng thực phẩm. Có lúc mấy đội trồng rau trồng có kết quả nhiều, thì trái lại, gọi người ngoài, gọi các đơn vị quân đội đến, bán bớt đi. Cán bộ giải thích rằng tiêu chuẩn chỉ có 15$ mỗi tháng không đủ tiền mua hết số rau về nhà bếp. Ấy thế, mình sản xuất ra là sản xuất cho nhà nước, còn tiêu chuẩn ăn do nhà nước ấn định là việc khác.

    Ăn thì vẫn đói, sản xuất thì phải cho nhiều để ban Giám thị tổng kết, báo cáo lên Cục Trại Giam rằng trại đã làm lợi cho nhà nước bao nhiêu tiền. Một mặt thì nhà nước vẫn kể công rằng phải chi cho mỗi người một tháng 15$! Ơn Bác ơn Đảng mới có mà ăn đấy! Đảng cho ăn mức nào thì ăn mức ấy, chỉ có thể sụt xuống, chứ không thể tăng lên. Khi nào thiếu rau, ăn muối, thì bảo là “tại các anh lao động kém, không đủ rau”. Nhưng khi sản xuất nhiều thì nhà nước đem bán đi, vì “không thể ăn quá tiêu chuẩn được”. Mà tiêu chuẩn có phải nhiều nhặng gì cho cam. Mỗi người chỉ có một chén canh rau với muối.

    Thế mà đói quá, ăn chén canh rau với muối cũng thấy ngon lạ lùng. Ỏ nhà, nếu vợ nấu canh rau muống bỏ muối thôi, không có chút bột ngọt, không có chút thịt cá, và ăn với khoai mì, thì chắc người chồng nào cũng cự nự vợ. Trước ngày sụp đổ 30-4-75, chỗ góc đường Lê Lợi – Nguyễn Huệ, Sàigòn , có người bán khoai mì hấp, rắc dừa, lá dứa thơm phức, mua 50$ (tiền cũ) về ăn no không hết, mà có ai mua đâu. Nay đi ở tù xứ Bắc Việt, Cộng sản nó cho ăn canh rau nấu muối, ăn với khoai mì, mà sao ngồi ăn thấy ngon đến mê mẩn. Ăn cái gì cũng ngon, chỉ có thiếu lượng chứ không ai cần đến phẩm chất. Đọc sách báo của Cộng sản , chúng luôn luôn tự đề cao, rằng chế độ xã hội chủ nghĩa là ưu việt, là hơn hẳn. Quá đúng, chỉ có dưới chế độ xã hội chủ nghĩa Mác Xít – Lê Nin Nít, ăn khoai sắn mới thấy ngon đến thế. Khoai lang, khoai mì, canh rau nấu muối là những thứ mà trong chế độ tự do chẳng ai thèm ăn thì trong chế độ Cộng sản , người ta ăn thấy ngon đến mê mẩn. Hơn hẳn là thế đấy!

    Hồi ở phòng số 4 trại Quảng Ninh, mùa hè năm ’77, chúng tôi có trồng riêng cho đội trên miếng đất nhỏ phía sau phòng giam mấy cây ớt, mấy cây cà chua. Vì canh nhà bếp phát ít quá, thỉnh thoảng có người bứt vài nhánh đọt ớt đem nấu canh, thấy ăn được. Còn mấy cây cà chua, vì không ra trái, đội quyết định nhổ đi để lấy chỗ trồng ớt. Tôi cùng với Lê Thanh Châu (trước là Tổng Giám đốc Khai Hoang Lập Ấp), Tranh Chánh Nhựt (Chủ tịch đảng Dân chủ, quận bộ Bình Chánh) và Nguyễn Ngọc Xuân (Thiếu Tá) bàn nhau lấy lá và đọt cà chua nấu canh. Nấu xong, chúng tôi múc được mỗi người một lon guigoz và hân hoan nói với nhau rằng hôm nay được bữa canh ăn no. Nhưng đến khi ăn được phân nửa, chúng tôi đứa nào cũng thấy buôn nôn, đau đầu. Bèn thôi không dám ăn tiếp. Thế mà cũng khó chịu trong người cả ngày hôm ấy. Sau đọc trong một cuốn sách Đông-y, mới biết rằng lá ớt thì ăn được và có thể trị lải kim, còn lá cà chua thì có chất độc, ăn nhiều bị ngộ độc nguy hiểm.

    Nói cho đúng, lâu lâu cũng có một bữa thịt. Cả trại cả ngàn tù (kể cả tù hình sự), làm một con heo chừng bảy, tám mươi kí. Đó là heo sống. Làm thịt ra thì được chừng 40, 50 ký thịt, tính ra mỗi người được 50 grammes. Xương và lòng bỏ vào nấu canh, thịt thì đem kho. Chao ôi, buổi sáng ra đi làm lao động khổ sai mà thấy nhà bếp đi bắt con lợn về, là cả buổi lao động chỉ mơ tưởng miếng thịt lợn. Mỗi người được một miếng thịt kho nhỏ chụt, ngồi ngậm mãi mới dám cắn một miếng nhỏ, chỉ sợ nó hết. Nhưng cũng như cơm, nó hết quá nhanh chóng. Mới cho vào miệng, nó đã tụt vào cổ họng rồi tan biến mất tiêu. Thế là hết bữa thịt, và lại bắt đầu mơ tưởng thịt.

    Khoảng cách thời gian giữa hai bữa thịt là tùy mỗi giai đoạn. Hồi mới ra Quảng Ninh, tuần nào cũng có. Qua năm ’77, suốt mấy tháng hè, chỉ được ăn bữa thịt 1 tháng 5 (Lễ Lao Động), rồi ăn chay mải cho đến bữa thịt 2 tháng 9 (Quốc khánh Cộng sản Bắc Việt), tính ra đến bốn tháng. Thời gian ở Thanh Hóa thì chừng một tháng một lần, có khi hai tháng một lần. Sau cuộc đấu tranh cuối năm ’78, qua năm ’79 một mặt chúng đàn áp, giam kỷ luật, cùm chân, bắt lao động nặng hơn, nhưng cũng có cho ăn thịt khá hơn, có khi mỗi tháng được hai lần.

    Hơn ba năm trong trại giam ở Bắc Viêt, tôi được ăn trứng bốn lần, mỗi lần mỗi người một quả trứng vịt luộc. Cầm quả trứng vịt luộc trong tay, cứ hít nó mải mà không dám ăn, vì thấy quý quá. Trứng vịt ở Miền Bắc nhỏ hơn trứng gà Mỹ trong Nam. Ở cái xứ đói thì vịt cũng đâu có gì mà ăn, làm sao đẻ trứng lớn cho được.

    Mỗi lần ăn trứng, ăn thịt, số tiền 15$ dành cho lương thực và thực phẩm lại bị hụt đi vì cán bộ bảo là mua ở các hợp tác xã không có, phải mua ngoài theo giá tự do (tức là giá chợ đen). Tiền hụt thì lại phải bớt rau đi, dù có trồng rau được nhiều cũng phải ăn muối để khỏi quá tiêu chuẩn.

    3$ TIÊU VẶT và TIỀN LƯU KÝ
    Mỗi tháng chúng tôi có được ngân khoản 3$ mỗi người để mua những thứ lặt vặt cần dùng. Tuy nhiên không phải ai muốn mua gì thì mua. Tiền do trại quản lý, mỗi tháng trại thấy thứ gì mua được thì mua để cấp phát. Thường được cấp phát nhất là thuốc lào. Người không hút cũng được cấp, như thế gọi là “phân phối công bằng xã hội chủ nghĩa”. Thỉnh thoảng có cấp bột giặt. Lâu lâu có phát mỗi người 200g đường. Tiêu chuẩn đường là mỗi tháng 200g đấy, nhưng không bao giờ chúng tôi được nhận đủ. Hồi ở Quảng Ninh, mỗi tháng có cho ăn một lần chè ngọt, cũng có tháng không có. Và mỗi lần nấu chè, tính theo mức độ ngọt của chè, chúng tôi ước lượng mỗi người chỉ được độ 50 đến 100g đường. Thỉnh thoảng, chúng tôi có nấu chè bằng đường của gia đình gởi ra nên chúng tôi có kinh nghiệm trong việc tính toán số đường. Vào đến Thanh Hóa, không có ăn chè, nhưng vài ba tháng có phát đường một lần. Trước cuộc đấu tranh năm ’78 thì số đường phát ra thiếu rất nhiều, vài ba tháng mới phát mỗi người được 100 đến 150g. Qua năm ’79, sau cuộc đấu tranh, trung bình chừng ba tháng chúng tôi được phát mỗi lần khoảng từ 200 đến 300g mỗi người. Tưởng nên nhắc lại rằng, trước kia, tại các Trung Tâm Cải Huấn của ta, buổi sáng, thường ăn cháo với đường, nên không ai bị thiếu chất ngọt.

    Tiền riêng của chúng tôi do gia đình gởi ra thì chúng tôi không được giữ mà phải nộp lưu ký. Ban Tài chánh của trại có cấp cho mỗi người một phiếu lưu ký có ghi số tiền gởi. Đồng hồ, nhẫn, và các thứ quý vật cũng phải gởi lưu ký. Quần áo riêng của mình cũng phải đóng dấu, sơn chữ vào. Mục đích của các biện pháp nầy là để chúng tôi có trốn trại thì tiền bạc không có, quần áo rõ ràng là thằng tù, không thể giả dạng thường dân mà di chuyển được.

    Trên nguyên tắc, chúng tôi có thể xin rút tiền lưu ký để mua những thứ cần dùng. Nhưng thực tế thì không mấy khi chúng tôi được rút tiền. Một năm chỉ được rút tiền một hai lần. Tất nhiên chúng tôi chỉ được nhận hàng thôi. Chúng tôi luôn luôn xin mua thức ăn: đường, mít, khoai lang, khoai mì, bánh kẹo… mua giùm chúng tôi, vì đi mua như thế (luôn luôn mua gía chợ đen) cũng có được tý chút. Nhưng quả thật Miền Bắc không có gì để mua, mặc dầu chúng tôi sẵn sàng chấp nhận bất cứ giá mua mắc mỏ như thế nào. Và các trại giam dầu ở vùng núi rừng hẻo lánh, xe cộ di chuyển rất là thiếu thốn, nên càng chẳng có gì để mua. Hơn ba năm ở Miền Bắc tôi tiêu chưa đến 100$, đó là đã trả tiền giùm cho nhiều anh em không có tiền trong những đợt cho mua hàng. Tiền riêng cho cá nhân tôi thì chỉ độ $50. Tiền có đấy, mà đành chịu đói khi gia đình không gởi quà ra được .

    Mùa Đông năm ’78, tôi chỉ còn 40 ký, (so với trước khi vào tù là 66 kí) đúng là da bọc xương (tôi cao 1.70 m). Những người nhỏ nhắn, ăn ít thì còn đỡ sụt kí. Những người cao to như anh Nguyễn Đình Xương chẳng hạn (trước là Tổng Quản trị Phủ Tổng Thống), nay chỉ còn da bọc lấy xương, trông thật thê thảm. Nhưng phía chúng tôi vẫn còn khá hơn phía tù hình sự. Tù hình sự, mà gia đình họ cũng đói kém vì đời sống xã hội Miền Bắc là đói kém, chẳng thể nhận được quà của gia đình khá nhiều như chúng tôi, nên hầu hết đều gầy đói thảm thương. Tôi đã thấy trong bệnh xá phân trại B trại số 5 Thanh Hóa những người tù hình sự trông như những bộ xương bò sang khu chúng tôi tìm kiếm vỏ khoai trong các đống rác. Nhưng vỏ khoai cũng chẳng mấy khi kiếm được. Chỉ có những ông già bên phía chúng tôi mà suốt đời chẳng bao giờ ăn khoai cả vỏ, và nhất định “giấy rách vẫn giữ lấy lề” mới có đủ can đảm bóc vỏ khoai cho vào đống rác. Còn hầu hết chúng tôi đều ăn khoai cả vỏ. Bụng không có chút hơi, người không còn khí lực, một chút vỏ khoai cũng qúy giá vô ngần. Cộng sản chê tư bản là dùng tiền bạc để mua chuộc sai khiến con người. Nhưng dù sao thì tư bản có dùng tiền bạc cũng là để dẫn dụ những người đã ăn no rồi mà còn thích rượu ngon gái đẹp nhà lầu xe hơi. Còn Cộng sản thì nắm ngay bao tử con người, để cho người ta đói đến mức cái vỏ khoai cũng qúy, muốn có cái vỏ khoai để ăn cũng phải chịu cho Bác và Đảng sai khiến, và phải luôn miệng “ơn Bác ơn Đảng” để được ăn khoai sắn cả vỏ mà bụng vẫn luôn luôn đói, người vẫn luôn luôn gầy, đời sống vẫn luôn luôn là nô lệ thôi.​


    (còn tiếp)


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...