ĐƯỜNG CHÂN TRỜI ĐÃ MẤT
Tác giả: James Hilton Dịch giả: Nguyễn Văn Sỹ
Công ty phát hành: Hương Giang Nhà xuất bản: Nhà Xuất Bản Văn Học
Số trang: 320 trang Ngày xuất bản: 06-2014 Nguồn: TVE
Công ty phát hành: Hương Giang Nhà xuất bản: Nhà Xuất Bản Văn Học
Số trang: 320 trang Ngày xuất bản: 06-2014 Nguồn: TVE
LỜI GIỚI THIỆU Một câu chuyện đọc xong người đọc phải phân vân suy nghĩ. Một câu chuyện về một chiếc máy bay di tản bị cướp đi đưa bốn người về một tu viện Lama ở vùng núi cao Tây Tạng. Hay đúng hơn câu chuyện về một con người Conway, ba mươi tư tuổi, công tác tại lãnh sự quán Anh ở Baskul (Ấn Độ), một người có sức hấp dẫn kỳ lạ. Ai đã gặp anh một lần cũng phải nhớ mãi. Anh có một thời sinh viên sôi động, đại diện thể thao của Trường Đại học Oxford, đã giành hầu hết các giải của Nhà trường, khiến một giáo sư giàu tình cảm đã tặng anh danh hiệu Vinh quang: Conway Vinh quang. Cuộc chiến tranh 1914-1918 đã chen ngang vào cuộc đời anh. Cũng như hàng triệu người khác, anh bị nó lôi cuốn vào cuộc bắn giết, sợ hãi, điên dại phóng đãng… Anh ra khỏi cuộc chiến tranh không thương tật, nhưng thực tế thương tật ở bên trong. Sau chiến tranh anh trở về giảng dạy ở Trường Đại học Oxford hai năm, rồi đi làm công tác ở Bộ Ngoại giao vì anh biết nhiều ngôn ngữ Đông Phương. Anh là một con người thấy việc cần làm thì đem hết sức mình ra làm, chứ không vì cái tiếng anh hùng. Một con người không chuộng hình thức, người ta thường nghĩ anh biếng nhác, thực ra chỉ vì anh không muốn ganh đua, không muốn xô đẩy người khác để mình tiến lên. Do vậy, trên đường đời không bao giờ anh được món bở mà thường chỉ bị đẩy đi đến những nơi xa xôi hẻo lánh. Tuy nhiên, anh vẫn không thấy buồn, trái lại còn có phần vui vì như vậy đã tránh được cuộc sống đầy cạnh tranh, chen lấn của xã hội đương thời. Chính với tâm trạng trên, khi bị bắt cóc đưa lên một tu viện Lama xây dựng ở lưng chừng trời, bên mép một dãy núi hoang vu ở Tây Tạng, anh đã gặp Lama tu viện trưởng và đã bị ông thuyết phục đến mức muốn ở lại đây để làm tu sĩ. Và chỉ ít lâu sau anh được tu viện trưởng trước khi chết đã cho anh kế vị. Nhưng vì bổn phận đối với Mallinson, viên phó lãnh sự cùng đi, một thanh niên có gia đình thân thuộc, có người yêu ở London, nên anh này nhất thiết đòi về. Và có lẽ còn vì Lo-Tsen, một nữ tu sĩ đã nhiều tuổi lắm rồi, song trông cô vẫn còn trẻ, coi như mới chỉ mười bảy, mười tám tuổi, như lúc cô mới đến tu viện Lama. Conway đã yêu cô, một tình yêu không đòi hỏi được đáp lại, yêu cái thanh tú mảnh mai, và anh không ngờ Mallinson đã thuyết phục được Lo-Tsen thu xếp cùng trở về. Hai người cần có Conway là người có thể giúp đỡ họ vượt qua những khó khăn đầy rẫy trên đường. Vì bổn phận và vì yêu hai người, nên anh đã nhận lời đưa họ trở về… Conway không hề kể lại cho bạn bè nghe về câu chuyện trở về này, nên chỉ biết do ngẫu nhiên mà một người bạn anh đã gặp được anh đang nằm tại một bệnh viện của Hội truyền giáo ở Trùng Khánh: Lúc này anh đã mất hết trí nhớ. Bạn anh đã ở lại chăm sóc cho anh hồi phục được trí nhớ rồi đưa anh về London. Nhưng giữa đường, anh đã lẩn đi, dường như để tìm đường trở lại tu viện Lama, khiến bạn anh đã mất bao công sức đi hàng ngàn dặm đường, đi khắp nơi để tìm anh. Liệu anh có tìm được đường trở về tu viện Shangri-La ở Tây Tạng không? Đó là điều khó hiểu. Gửi thanks Tìm kiếm với từ khoá: Nminhngoc1012↓ Re: [Kinh điển - Phiêu lưu] Đường chân trời đã mất - James Hilton 10.08.2018, 09:25 00:00 00:00 Tốc độ đọc truyện: - 0.90x + (Đóng góp ý kiến về player nghe đọc truyện) MỞ ĐẦU Mấy điếu xì gà cháy đã gần tàn, chúng tôi bắt đầu phần nào cảm thấy nỗi thất vọng, cái cảm giác vẫn thường đến với những người trước kia đều là bạn học, giờ đây đã lớn tuổi gặp lại nhau, và thấy giữa họ không còn nhiều điều chung như họ vẫn tưởng. Rutherford đã trở thành nhà văn chuyên viết tiểu thuyết. Wyland là một Bí thư Sứ quán, anh ta vừa thết đãi chúng tôi một bữa tối tại Tempelhof, bữa ăn chẳng có gì là vui vẻ lắm, tôi nghĩ vậy, nhưng có cái không khí trầm tĩnh vẫn thường thấy ở một nhà ngoại giao vào những dịp như vậy. Dường như chỉ vì chúng tôi là ba chàng trai chưa vợ của nước Anh, lại đang cùng ở tại thủ đô một nước ngoài, nên đã khiến chúng tôi quây lại với nhau mà thôi. Và tôi đã đi đến kết luận rằng, cái vẻ hơi hợm mình ở Wyland Tertius trước kia không hề bớt đi theo năm tháng và với cái chân trong Hội Hoàng gia Victoria; với Rutherford tôi thích hơn. Anh chàng đã trưởng thành từ một chú bé gầy gò, thông minh, chú bé trước kia tôi đã từng trêu chọc, vừa che chở. Có thể vì anh giờ đây kiếm được nhiều tiền hơn và có một cuộc sống thú vị hơn cả hai chúng tôi nên đã khiến Wyland và tôi có một cảm giác chung - cảm giác phần nào ghen tị. Tuy nhiên, buổi tối hôm ấy không hề buồn tẻ. Chúng tôi đã được nhìn thấy quang cảnh nhộn nhịp sôi động của những chiếc máy bay khổng lồ Lufthansa từ khắp các vùng Trung Âu bay tới và đến khoảng nhá nhem tối, những cây đèn cao áp bật sáng, thì quang cảnh trở nên rực sáng, đầy màu sắc của một sân khấu. Một trong số những máy bay ấy là của nước Anh, anh phi công vận trang phục đầy đủ đi sát qua bàn chúng tôi; anh ta chào Wyland, nhưng Wyland thoạt đầu không nhận ra nên đã không chào lại. Khi nhận ra, Wyland liền giới thiệu anh chàng phi công với tất cả chúng tôi, và mời anh cùng ngồi vào bàn. Anh phi công còn trẻ, tính tình vui vẻ hòa nhã, tên anh là Sanders. Wyland xin lỗi anh vì một người khi ăn mặc quần áo đội mũ phi công kín mít thì thực khó nhận ra người đó là ai. Sanders cười rồi đáp lại: “Ồ, tôi biết rõ điều đó. Xin anh nhớ cho là tôi đã từng phục vụ tại Baskul.” Wyland cũng cười, nhưng có phần thiếu tự nhiên và câu chuyện chuyển sang hướng khác. Có thêm Sanders, bàn chúng tôi vui hẳn lên và chúng tôi cùng nhau uống rất nhiều bia. Khoảng mười giờ, Wyland rời sang nói chuyện với một người ở bàn bên, Rutherford nhân đó hỏi Sanders: ” Ồ này, nhân tiện tôi muốn hỏi anh bạn, vừa nãy anh bạn có nói mình đã phục vụ tại Baskul. Nơi đó tôi cũng biết chút ít. Anh vừa nói về việc gì đã xảy ra ở đó nhỉ?”. Sanders mỉm cười, vẻ lúng túng: “Ồ, đây chỉ là một câu chuyện lộn xộn nhỏ tôi đã chúng kiến hồi tôi đang phục vụ ở đó.” Nhưng rồi anh chàng thanh niên không giữ được nổi điều anh muốn giấu kín: “Sự thực là, đã có một anh chàng người Afghanistan hay người Châu Phi hay người nước nào đây đã cuỗm mất một chiếc máy bay của chúng tôi và hậu quả sự việc thực tệ hại, hẳn các ông cũng dễ thấy. Một sự kiện trắng trợn tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. Tên không tặc đã rình anh phi công, đánh anh gục xuống, lột lấy quần áo, mặc vào rồi trèo lên buồng lái mà không một ai nhìn thấy. Nó cũng biết cách ra đúng hiệu cho thợ máy và thế rồi cho máy bay đi rất nhẹ nhàng. Điều rắc rối là hắn đã không hề trở lại.” Rutherford tỏ vẻ quan tâm, sốt sắng hỏi: “Thế việc ấy xảy ra hồi nào?” “Ồ, cách đây có đến đã một năm. Tháng năm, năm ba mươi mốt. Chúng tôi đang làm công việc di tản những dân thường từ Baskul đi Peshawar, do có cuộc Cách mạng nổi lên ở Baskul, có lẽ các ông vẫn còn nhớ sự kiện này. Baskul bị rối loạn chút ít, nếu không thì sự việc đã chẳng có thể xảy ra được. Tuy vậy, sự việc đã xảy ra, điều này phần nào cho thấy quần áo có thể biến đổi con người thành thầy tu được đây, phải không các ông?” Rutherford lại hỏi: ” Tôi nghĩ ở hoàn cảnh như vậy hẳn mỗi máy bay không phải chỉ có một người phụ trách lái?” “Đúng vậy, với tất cả các máy bay thường chở quân lính đều có rất đông người phụ trách. Nhưng chiếc máy bay này là một loại đặc biệt. Được chế tạo riêng cho một tiểu vương Ấn Độ - một loại phi cơ đặc biệt. Nhân viên Cục Đo đạc của Ấn Độ đã có lần dùng nó để bay đi làm việc ở vùng cao xứ Kashmir.” “Và anh nói chiếc phi cơ đó đã không hề tới Peshawar?” “Không hề tới Peshawar và cho đến nay chúng tôi vẫn chưa khám phá ra nó. Điều kỳ quặc của câu chuyện là ở đây. Tất nhiên, nếu không tặc là một người thuộc một bộ lạc nào đó, anh ta hẳn có thể đã bay về một vùng đổi núi với ý nghĩ bắt giữ những người trên máy bay để đòi tiền chuộc, không hiểu sao tôi nghĩ là tất cả họ đều đã chết rồi. Ở vùng biên giới có biết bao nhiêu là những nơi hiểm trở máy bay có thể va vào tan vỡ để rồi không còn tin tức gì về nó nữa.” “Đúng vậy, vùng ấy thì tôi có biết. Thế trên máy bay lúc ấy có mấy người?” “Tôi nghĩ là có bốn. Ba nam giới và một cô truyền giáo.” “Liệu có phải trong số mấy người đàn ông có thể có một người tên là Conway không?” Sanders tỏ vẻ ngạc nhiên: “Ồ, vâng, quả có anh Conway Vinh quang, thế ông biết anh ta à?” “Anh ta và tôi trước đây đã cùng học một trường”, Rutherford nói, hơi lúng túng vì đó là sự thực, nhưng đây là điều mà anh thấy rõ nó không hợp với anh. “Cứ theo như những sự việc anh ta đã làm ở Baskul thì Conway quả là một anh chàng tính tình vui vẻ, tế nhị”, Sanders nói tiếp. Rutherford gật đầu: “Đúng vậy, nhưng rất kỳ quặc… kỳ quặc lắm…”. Anh như tỉnh lại sau một lúc đầu óc lan man lơ đễnh. Rồi anh nói tiếp: “Câu chuyện không hề thấy đăng trên báo, song tôi nghĩ hình như tôi đã đọc được tin này ở đâu đó. Câu chuyện về sau ra sao nhỉ?”. Đột nhiên, Sanders có vẻ lúng túng, thậm chí tôi còn nghĩ anh chàng gần như đỏ mặt lên. “Thú thực với ông”, anh ta đáp lại, “Hình như tôi đã nói xa quá những gì tôi được phép nói. Nhưng có thể giờ đây câu chuyện không có gì là quan trọng nữa, một tin cũ rích, đáng xếp xó, ông thấy đây, tôi muốn nói, câu chuyện xảy ra thế nào, người ta ỉm đi. Câu chuyện có thể chẳng hay ho gì lắm. Quan chức chính phủ chỉ cho biết là họ đã bị một phi cơ và nêu tên những người bị mất tích. Lối công bố không khiến nhiều người ngoài cuộc quan tâm đến.” Vừa lúc đó thì Wyland quay lại ngồi vào bàn với chúng tôi, Sanders quay lại phía anh nửa như xin lỗi: “Này ông Wyland, mấy ông bạn đây vừa nói về anh Conway Vinh quang. Tôi e rằng tôi đã hơi huyên thuyên về câu chuyện Baskul - tôi mong rằng ông bỏ qua vấn đề này cho!.” Wyland nghiêm nét mặt nín lặng một lúc. Rõ ràng anh đang tính cách làm sao cho vừa tỏ ra lịch sự đối với mấy anh bạn đồng hương vừa giữ được nghiêm kỷ luật công tác. Một lát sau, anh nói: “Tôi thật đáng tiếc là đã nghĩ dân hàng không các anh vẫn coi trọng danh dự không bao giờ nói những chuyện huyên thuyên ngoài đường như vậy.” Sau khi chỉnh anh thanh niên, Wyland vui vẻ quay lại nói với Rutherford: “Tất nhiên, với anh, thích nghe những chuyện như thế là đúng, nhưng tôi tin chắc là anh cũng hiểu rằng, ở nơi biên giới đôi khi cũng cần thiết phải ỉm đi những câu chuyện phải giữ bí mật một chút.” “Mặt khác” Rutherford lạnh lùng đáp, ” Người ta vẫn hay tò mò muốn được biết sự thực.” “Với người có lý do chính đáng để muốn biết sự thực thì không có gì phải giấu giếm. Hồi đó tôi đang làm việc tại Peshawar và tôi có thể đoán chắc với anh về điều đó. Anh biết rõ Conway phải không, tôi muốn nói anh biết anh ta từ ngày còn đi học?” ” Biết qua một chút ở Oxford và mấy lần ngẫu nhiên gặp nhau sau đấy. Còn anh, anh có gặp anh ta nhiều không?” “Hồi ở Angora, khi tôi công tác ở đây, hai chúng tôi có gặp nhau một hai lần.” “Thế anh có thích Conway không?” “Tôi nghĩ anh ta là một con người tài ba, có điều hơi phất phơ một chút.” Rutherford mỉm cười. “Con người tài ba thì hẳn đi rồi. Quãng đời sinh viên của anh ta thực hết sức sôi nổi - cho đến lúc chiến tranh bùng nổ. Đại diện của trường Oxford về môn bơi thuyền và là người dẫn đầu hội, anh ta giành được giải thưởng về đủ thứ - và tôi còn cho anh ta là một nghệ sĩ dương cầm nghiệp dư vào bậc nhất mà tôi được biết. Một con người tài ba kỳ lạ về nhiều mặt, một loại người mà dễ được Jowett phong làm thủ tướng. Nhưng thực sự là từ sau những ngày ở Oxford, người ta chưa hề được nghe thấy nói nhiều về anh ta. Tất nhiên chiến tranh đã cắt ngang sự nghiệp của anh ta. Anh ta rất trẻ và theo tôi hiểu, anh ta đã chịu đựng qua nhiều thử thách.” “Anh chàng đâu đã bị khiển trách hoặc gì đó”, Wyland đáp lại, “nhưng không có gì là nghiêm trọng lắm. Sự nghiệp không hề kém, anh ta đã được tặng Huân chương Phục vụ ưu tú của Pháp (D.S.O.)1. Sau đó, tôi tin là anh ta có quay về giảng dạy ở Oxford một thời gian ngắn. Tôi biết là anh ta có đi về Phương Đông năm hai mốt. Nhờ biết nhiều tiếng Phương Đông nên anh ta đã kiếm được việc làm mà không cần qua những thủ tục thông thường. Anh ta đã giữ nhiều chức vụ.” Rutherford mỉm cười vui vẻ hơn. “Tất nhiên, cái đó giải thích tất cả. Lịch sử sẽ chẳng bao giờ nêu ra hết con số những tài năng bị mai một trong cái công việc hàng ngày đọc chép giấy tờ của Bộ Ngoại giao cùng mời các vị cãi vã nhau trong Tòa Công sứ uống trà.” “Conway công tác tại Lãnh sự quán chứ không phải trong Bộ Ngoại giao”, Wyland cao giọng nói. Rõ ràng anh ta không thèm quan tâm đến thứ chuyện vặt ấy, và sau một lát chuyện trò ba láp như vậy, khi Rutherford đứng dậy cáo từ, anh ta cũng không giữ lại. Dù sao thì đã khuya, nên tôi cũng nói xin rút lui. Thái độ của Wyland khi chúng tôi chào từ biệt ra về vẫn có tính chất lặng lẽ chịu đựng của một quan chức, Còn Sanders thì tỏ ra rất thân tình, anh nói anh mong lúc nào đó sẽ được gặp lại chúng tôi. Tôi định đi chuyến xe lửa xuyên lục địa vào cái giờ buồn bã của buổi sáng sớm. Trong lúc cùng nhau đợi tắc xi, Rutherford có mời tôi trong thời gian đợi xe lửa, tạt vào chỗ khách sạn anh đang ở. Anh nói ở đây anh có một phòng khách để hai người có thể ngồi nói chuyện được. Tôi trả lời được như vậy là rất hay. Và anh nói: “Vậy hay nếu anh ưng thì chúng ta sẽ nói chuyện về Conway, còn nếu anh không thích thì thôi.” Tôi nói, mặc dù tôi biết Conway rất ít, tôi vẫn thích được nghe nói về anh. “Anh ta rời khỏi trường vào cuối học kỳ đầu tiên của tôi và sau đó tôi không hề gặp lại anh. Nhưng có một lần anh ta tỏ ra rất tốt đối với tôi. Hồi ấy, tôi chỉ là một học sinh nhỏ mới vào trường, thực không có lý do gì để anh ta tốt với tôi như vậy. Sự việc cũng thường thôi, song tôi cứ nhớ mãi.” Rutherford gật đầu. “Chúng tôi cũng rất thích anh ta mặc dầu tôi cũng chỉ tiếp xúc với anh ta rất ít, nếu tính đo bằng thời gian.” Rồi im lặng, cái im lặng có phần kỳ cục, trong khi đó rõ ràng cả hai chúng tôi đều nghĩ về một người đã tỏ ra quan trọng đối với chúng tôi, điều vượt xa nếu xét đoán dựa trên những lần tình cờ được tiếp xúc với anh ta. Từ đó tôi vẫn thường thấy những ai đã gặp Conway, dù chỉ là hình thức và trong chốc lát, vậy mà họ vẫn cứ nhớ anh ta một cách hết sức sâu sắc. Anh ta đúng là một thanh niên cừ khôi, còn với tôi, người đã biết anh ở tuổi hay sùng bái các vị anh hùng, hình ảnh anh trong đầu óc tôi thực đặc biệt lãng mạn. Anh cao lớn, gương mặt khôi ngô, không những xuất sắc trong các môn thể thao mà còn giành được các thứ giải khác của nhà trường. Vị hiệu trưởng giàu tình cảm có lần nói về những thành tích của Conway đã khen là “vinh quang” và cũng từ đó anh ta có biệt hiệu “Conway Vinh quang”. Có thể chỉ có anh ta là xứng đáng với cái tên đó. Tôi còn nhớ lần anh ta đọc diễn văn bằng tiếng Hy Lạp vào ngày phát phần thưởng của nhà trường; và thường được liệt vào hạng nhất trong các buổi biểu diễn sân khấu của trường. Ở anh ấy có một cái gì đó mang tính cách của con người thuộc triều đại Nữ hoàng Elizabeth, tài linh hoạt rất tự nhiên, vẻ mặt khôi ngô, con người sôi nổi kết hợp cả hoạt động tinh thần lẫn thể chất. Có một chút gì của dân Philip-Sidney. Ngày nay nền văn minh của chúng ta không làm nảy sinh được những con người như vậy. Tôi nói ý kiến đó với Rutherford và anh đáp lại: “Vâng, đúng vậy, và chúng ta có một từ đặc biệt để dè bỉu những con người đó - ta gọi họ là những nhà tài tử. Tôi cho rằng hẳn cũng có những kẻ gọi Conway với cái từ ấy, những người như Wyland chẳng hạn. Tôi không thèm đếm xỉa đến Wyland. Tôi không thể chịu được cái loại người đầy vẻ nghiêm trang và ta đây quan trọng. Và anh có nhận thấy cái đầu óc quan đầu tỉnh của anh ta không? Những câu dạy đời về những con người cần trọng danh dự và nói huyên thuyên chuyện ngoài đường - như thể Cái Đế quốc chết tiệt nọ là lớp Năm ở trường dòng St. Dominic! Song, vậy mà, tôi cứ phải luôn đụng đầu với các vị quan lớn ngoại giao ấy.” Chúng tôi lặng lẽ đi qua mấy khu nhà. Rutherford nói tiếp: “Tuy vậy, tôi cũng không tiếc là đã mất toi buổi chiều hôm nay. Nghe anh chàng Sanders nói về câu chuyện ở Baskul, tôi thấy rất thú vị, một điều đặc biệt. Chuyện này, trước đây tôi đã có nghe nói và không tin lắm. Đây chỉ là một phần của câu chuyện còn ly kỳ hơn nhiều mà tôi thấy chả có lý do gì để tin, hoặc giả nêu có thì cũng là một lý do rất mong manh. Giờ đây thì có hai lý do rất mong manh. Tôi dám nói, hẳn anh cũng thấy đây, tôi không phải là một người cả tin. Tôi đã từng đi đây đi đó nhiều nơi và biết trên đời có những sự việc rất kỳ quặc - nghĩa là những điều chính mắt được nhìn thấy, còn nếu anh chi nghe qua người khác thì thường là không kỳ quặc lắm đâu. Vậy mà…” Thốt nhiên, Rutherford như chợt thấy rõ những điều anh vừa nói chẳng có ý nghĩa gì lắm đối với tôi, nên phá ra cười. “Ồ, có một điều chắc chắn là tôi không thích tâm sự với Wyland. Tâm sự với anh ta chẳng khác nào tìm cách đổi một bản anh hùng ca lấy mấy mẩu thức ăn. Tôi muốn làm điều đó với anh.” “Có lẽ anh làm cho tôi hãnh diện quá đây!” Tôi nói. “Không phải cuốn sách anh viết đã khiến tôi có ý nghĩ ấy.” Tôi chưa hề nói ra tôi đã viết một cuốn sách có phần về chuyên môn, (nói cho cùng, sách của một nhà thần kinh học không phải được ai cũng đọc đến), nên tôi rất ngạc nhiên khi thấy Rutherford đã nghe nói đến nó. Tôi bày tỏ ý này với anh và anh trả lời: “Ồ, anh thấy đây, tôi quan tâm đến nó vì Conway đã một thời bị mắc chứng quên đi mọi sự việc.” Tới khách sạn, Rutherford đến phòng khách lấy chìa khóa. Lúc hai chúng tôi lên tầng năm, anh nói: “Tất cả những cái đó chỉ là nói quanh mà thôi. Sự thật là Conway chưa chết, ít nhất cách đây mấy tháng anh ta còn sống.” Trong thang máy chật hẹp, thời gian cũng chóng nên không ai nói được câu gì. Lát sau khi đi trong hành lang, tôi hỏi anh: “Thế anh có chắc chắn về điều ấy không? Làm sao anh lại biết?” Vừa mở khóa cửa, anh vừa đáp: “Vì tôi đã đi cùng Conway từ Thượng Hải đến Honolulu trên một chuyến máy bay phản lực của hãng hàng không Nhật Bản hồi tháng mười một năm ngoái?” Rồi anh không nói nữa cho đến lúc cả hai chúng tôi đã yên vị ngồi trong chiếc ghế bành uống nước, hút thuốc: “Anh thấy đây, tôi đã đến Trung Quốc trong một dịp nghỉ vào dạo mùa thu. Tôi chả vẫn thường đi đó đi đây luôn. Đã nhiều năm tôi không gặp Conway. Chúng tôi không hề thư từ cho nhau, và cũng không thể nói tôi thường xuyên nghĩ đến anh ấy, mặc dầu hình ảnh của anh vẫn là một trong số ít những hình ảnh mà tôi dễ dàng nhớ lại. Hồi đó tôi có việc đến thăm một người bạn ở Hán Khẩu và đáp xe lửa tốc hành về Bắc Kinh. Trên xe lửa tôi đã có dịp được trò chuyện với một bà xơ Nhất, một bà xơ rất đỗi hấp dẫn trong số mấy bà xơ từ thiện người Pháp. Bà đi Trùng Khánh nơi có tu viện của bà. Vì tôi biết nói một ít tiếng Pháp nên bà xơ xem ra thích thú nói chuyện với tôi về công việc của bà và về các vấn đề nói chung. Thực ra, tôi vốn không có cảm tình lắm đối với các tổ chức truyền giáo thường, nhưng cũng như mọi người ngày nay, tôi sẵn sàng thừa nhận là người La Mã đứng tách ra một tầng lớp riêng, vì họ hoạt động rất tích cực và không hề làm bộ như mấy ngài sĩ quan trong một xã hội đầy rẫy lính thường. Nhưng đó chỉ là nhân tiện mà nói thôi. Vấn đề chính là bà xơ này, khi nói chuyện với tôi về cái bệnh viện của Hội truyền giáo ở Trùng Khánh, có nêu ra một trường hợp đầy xúc động vừa mới đưa đến bệnh viện bà mấy tuần gần đây, bệnh nhân mà người ta nghĩ hẳn là một người châu Âu, tuy anh ta chẳng nói được điều gì về bản thân mà cũng không đem theo một giấy tờ gì hết. Quần áo anh ta mặc là quần áo của người thổ dân, vào loại nghèo khổ nhất; lúc các bà xơ nhận anh vào viện thì anh yếu lắm. Anh ta nói tiếng Trung Quốc rất thạo, nói tiếng Pháp cũng giỏi và bà bạn đồng hành với tôi còn đoán chắc là trước khi chưa được biết các bà xơ là người nước nào, anh ta đã nói với họ bằng tiếng Anh, giọng nói rất thanh nhã. Tôi nói tôi không thể tưởng tượng được trên đời lại có một hiện tượng lạ như vậy và nhẹ nhàng giễu bà là đã phân biệt được giọng nói thanh nhã của một thứ ngôn ngữ mà bà không hề biết. Rồi chúng tôi nói đùa về nhiều vấn đề linh tinh khác. Cuối cùng, bà mời tôi nếu có dịp tới Trùng Khánh, xin đến thăm hội truyền giáo của bà. Điều này, tất nhiên lúc đó, xem ra khó thực hiện, như bảo tôi leo núi Everest, vậy nên khi xe lửa tới Trùng Khánh, tôi bắt tay bà, lòng thực sự luyến tiếc cuộc gặp gỡ may mắn giữa tôi và bà đã kết thúc. Tuy vậy, chỉ sau đây mấy tiếng đồng hồ tôi trở lại Trùng Khánh. Chả là xe lửa đi khỏi đây được một vài dặm thì hỏng máy và thực rất khó khăn người ta mới đẩy được xe chúng tôi quay trở về nhà ga. Đến đây, chúng tôi được biết là mười hai tiếng đồng hồ nữa mới có thể có đầu máy thay thế. Điều này vẫn thường xảy ra với đường sắt của Trung Quốc. Vậy là tôi còn phải ở lại Trùng Khánh một nửa ngày nữa - điều ấy khiến tôi nhớ đến lời mời của bà xơ và tôi đã đến thăm hội truyền giáo của bà.” Đến đây, tôi được tiếp đón thân mật và tất nhiên chủ nhà cũng có phần ngạc nhiên. Tôi cho rằng, điều khó hiểu nhất đối với một người không phải là giáo dân là làm sao mà một giáo dân Thiên Chúa giáo lại có thể phối hợp được một cách dễ dàng cái cứng nhắc của chính quyền với cái rộng lượng hào phóng của dân sự. Cái đó có quá phức tạp không? Nhưng không sao, dù sao thì những người Hội truyền giáo ở đây đã tiếp đón tôi rất vui vẻ. Đến đây chưa được một tiếng đồng hồ, tôi đã có bữa ăn sửa soạn chu đáo, một bác sĩ trẻ người Trung Quốc ngồi tiếp tôi và nói chuyện với tôi nửa bằng tiếng Pháp, nửa tiếng Anh, rất vui. Sau bữa ăn, anh bác sĩ và bà xơ Nhất dẫn tôi đi tham quan bệnh viện mà họ tỏ ra rất lấy làm hãnh diện. Tôi nói với họ tôi làm nghề viết văn, thế là những con người rất chất phác ấy cứ xốn xang với ý nghĩ tôi có thể nêu cả họ trong một cuốn sách. Anh bác sĩ giới thiệu mỗi khi chúng tôi đi qua một giường bệnh. Các phòng được quét dọn hết sức sạch sẽ, tỏ ra việc quản lý ở đây rất thành thạo, chu đáo. Tôi đã quên hẳn cái người bệnh nhân bí ẩn có giọng nói tiếng Anh rất thanh nhã, cho đến lúc bà xơ Nhất nhắc cho tôi biết là đã sắp đến giường con người đó. Tôi chỉ nhìn thấy sau gáy, anh ta hình như đang ngủ. Người ta khuyên tôi nên nói với anh ta bằng tiếng Anh, do vậy tôi cất tiếng chào “Good afternoon”. Đúng thực, giọng anh ta nói là giọng nói của một người có học thức. Nhưng tôi không có thì giờ để tỏ ra ngạc nhiên, vì tôi đã nhận ngay ra anh, mặc dầu bộ râu và dáng vẻ con người anh đã hoàn toàn thay đổi, mặc dầu đã lâu lắm tôi không gặp anh. Anh ấy chính là Conway. Chắc chắn đúng là anh rồi, nhưng nếu tôi mà ngừng để nghĩ lại điều này thì rất có thể sẽ đi đến kết luận đây không thể là Conway được. Cũng may, nhìn anh, tôi nhận ra ngay. Tôi gọi tên anh và nói tên tôi; tuy anh ta cứ nhìn tôi trừng trừng, không tỏ dấu hiệu gì là nhận ra, nhưng tôi vẫn quả quyết là mình đã không lầm. Cái chút tật co giật nhẹ trên gương mặt anh mà tôi đã để ý thấy từ trước kia vẫn còn đây, và vẫn cặp mắt mà hồi ở Balliol chúng tôi thường nói rằng nó có màu xanh Cambridge hơn là màu xanh Oxford. Ngoài tất cả những cái đó ra, anh ta còn là một người mà người ta không thể lầm được - nhìn thấy anh một lần là nhớ mãi. Tất nhiên, anh bác sĩ và bà xơ Nhất tỏ ra hết sức xúc động. Tôi nói với họ là tôi quen biết người này, anh là người Anh và là bạn của tôi; việc anh không nhận ra tôi chỉ có thể là do anh đã hoàn toàn mất đi trí nhớ. Hai người gật đầu và tỏ ra rất lạ, và chúng tôi đã thảo luận rất lâu về trường hợp này. Họ cũng không cho biết được điều gì bằng cách nào mà anh ta trong hoàn cảnh thế này đã đến được Trùng Khánh. “Nói tóm tắt, tôi đã ở lại đây hơn nửa tháng, hy vọng bằng cách nào đó sẽ giúp được Conway nhớ lại mọi sự việc. Điều này tôi không làm được, nhưng sức khỏe anh đã hồi phục và hai chúng tôi nói chuyện với nhau rất nhiều. Khi tôi thẳng thắn nói anh là ai và tôi là ai, thì anh tỏ ra nín nhịn, không tranh cãi gì. Thậm chí, anh còn tỏ ra hết sức vui vẻ, hơi lơ đãng một chút, và dường như có tôi làm bạn anh rất mừng. Khi nghe tôi ngỏ ý muốn mang anh về thì anh chỉ lặng lẽ nói anh không nghĩ đến chuyện đó. Thực hơi bực mình với cái thái độ không thiết tha gì đến một mơ ước cho bản thân. Tôi thu xếp để hai chúng tôi trở về càng sớm càng tốt. Tôi có một người quen vốn là bạn thân làm việc tại cơ quan lãnh sự quán ở Hán Khẩu, do đó hộ chiếu và giấy tờ cần thiết đã được giải quyết nhanh chóng không khó khăn. Thực vậy, tôi thấy vì lợi ích của Conway, công việc cần được giữ kín không cho báo chí biết để đăng tin rộng rãi, và tôi cũng rất vui mừng vì mình đã giữ được kín. Tất nhiên, nếu không, báo chí họ đã xô đến chen lấn để lấy tin.” “Vâng, chúng tôi đi khỏi Trung Quốc một cách bình thường. Chúng tôi đi thuyền xuôi dòng sông Dương Tử đến Nam Kinh, sau đó đáp xe lửa đi Thượng Hải. Ngay đêm hôm ấy có chuyến máy bay Nhật Bản đi Frisco, nên chúng tôi phải hết sức gấp rút và đi được chuyến đó.” “Anh thực đã giúp rất nhiều cho Conway.” Tôi nói Rutherford không phản đối, anh nói: “Tôi nghĩ với người khác có thể tôi đã không giúp đỡ nhiều như với Conway. Nhưng ở Conway có một cái gì đó, và luôn như vậy - thực khó mà giải thích được, chỉ biết cái đây đã khiến người ta cảm thấy vui vẻ khi đem hết sức mình ra giúp anh ta.” “Đúng vậy”, tôi gật đầu. “Anh ấy hấp dẫn một cách đặc biệt, có một sức quyến rũ khiến ngay giờ đây hình dung lại, tôi vẫn thấy vui thích và tất nhiên, tôi vẫn nghĩ anh ta như hồi anh ta còn là một cậu học sinh trong bộ flanels khi chơi cricket.” “Thực đáng tiếc anh không biết Conway hồi anh ta học ở Oxford. Anh ta đúng là xuất sắc, không còn từ nào khác hơn để diễn tả. Người ta nói, sau chiến tranh anh ấy khác đi. Bản thân tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng tôi vẫn không thể không cảm thấy với tất cả những tài năng của mình, Conway hẳn đã làm được những công việc lớn lao hơn. Ý nghĩ của tôi về sự nghiệp của một vĩ nhân không hề vươn tới tất cả cái đám quan chức của Vương Quốc Anh này. Còn Conway thì đúng là hoặc phải là một vĩ nhân. Anh và tôi, chúng ta đều biết Conway, và tôi nghĩ mình đã không phóng đại khi tôi nói đây là một sự kiện mà chúng ta sẽ không bao giờ quên. Ngay khi tôi và anh ta gặp nhau tại giữa đất nước Trung Quốc, lúc ấy đầu óc anh ta rỗng không, cái quá khứ của anh còn là một điều bí ẩn, vậy mà tôi vẫn thấy sức hấp dẫn ở Conway.” Rutherford ngừng lại hồi tưởng rồi nói tiếp: “Như anh có thể hình dung thấy, trên tàu chúng tôi nối lại tình thân bạn bè trước kia. Tôi nói cho Conway rất nhiều những điều tôi biết về anh và Conway lắng nghe với thái độ chăm chú dường như hơi vô lý. Anh nhớ lại rất rõ những gì đã xảy ra với anh từ ngày anh đến Trùng Khánh và có điều này hẳn cũng có thể khiến anh quan tâm là Conway không hề quên ngoại ngữ anh biết. Chẳng hạn, anh bảo tôi rằng, anh biết hẳn anh phải đã có làm một cái gì đó ở Ấn Độ, vì anh có thể nói tiếng Hindu.” “Tại Yokohama, tàu thủy lấy thêm đầy khách; trong số hành khách mới lên có nghệ sĩ dương cầm Sieveking, trên đường đi biểu diễn hòa nhạc tại Hoa Kỳ. Anh ta ngồi chung bàn ăn với chúng tôi và thỉnh thoảng nói chuyện với Conway bằng tiếng Đức. Điều này chứng tỏ bề ngoài Conway rất bình thường. Ngoài cái chứng bệnh quên mà trong lúc trò chuyện thường không thấy, thì anh không có chứng bệnh gì khác.” “Rời Nhật Bản được mấy đêm, người ta mời nghệ sĩ Sieveking biểu diễn độc tấu một buổi trên tàu. Conway cùng tôi đã đi dự nghe. Tất nhiên, Sieveking đã biểu diễn khá giỏi mấy tác phẩm của Brahms mà Scarlatli cùng rất nhiều bản nhạc của Chopin. Một hai lần tôi đưa mắt nhìn Conway và thấy anh nghe rất thích thú, điều này cũng rất tự nhiên vì trước kia anh vốn là người sành âm nhạc. Vào cuối chương trình, buổi biểu diễn kéo dài vì khán giả yêu cầu diễn lại nhiều lần. Sieveking, theo tôi nghĩ, đã nhã nhặn vui vẻ chiều lòng đám người hâm mộ lúc ấy đang quây quanh cấy đàn dương cầm. Anh ta chơi lại hầu hết là những tác phẩm của Chopin, như anh biết đây, Sieveking vốn có phần chuyên về Chopin. Cuối cùng, nghệ sĩ rời cây đàn đi về phía cửa ra vào, một số người hâm mộ vẫn bám theo, nhưng rõ ràng họ cũng cảm thấy nghệ sĩ đã chiều họ đủ lắm rồi. Giữa lúc ấy, một sự việc khá kỳ lạ đã xảy ra. Conway đến ngồi vào trước bàn phím và chơi nhanh mấy bản nhạc rất sôi động mà tôi không nhận ra, còn Sieveking thì rất ngạc nhiên quay lại hỏi Conway đã chơi những bản nhạc gì. Sau một lát yên lặng có phần lạ lùng hơi lâu, Conway chỉ đáp lại được rằng anh cũng không biết nữa. Sieveking la to lên rằng không thể tin được và anh còn bị kích thích hơn. Lúc ấy Conway như hết sức cố gắng cả về thể xác lẫn tinh thần để nhớ lại, và cuối cùng anh nói đây là bản Étude của Chopin. Tôi nghĩ chả chắc đã phải nên tôi cũng không lấy làm ngạc nhiên khi Sieveking kiên quyết nói đây không phải là của Chopin. Tuy nhiên, Conway đột ngột tỏ ra rất phẫn nộ về điều đó, khiến tôi ngạc nhiên vì cho đến lúc này chưa bao giờ tôi thấy Conway tỏ ra một chút xúc động nào trước bất kỳ một sự việc gì. “Ông bạn thân của tôi ơi,” Sieveking nói, “Tôi thuộc lòng các bản nhạc hiện có của Chopin, nên tôi có thể đoán chắc với anh rằng, Chopin không hề sáng tác ra bản nhạc mà anh vừa chơi. Rất có thế nếu Chopin viết thì là như vậy, vì nó đúng phong cách của ông nhưng tôi biết ông không hề sáng tác bản nhạc này. Tôi đố anh chỉ được cho tôi biết tổng phổ của nó ở cuốn sách in nào.” Một lát sau, Conway đáp: “Ồ, vâng, giờ đây tôi nhớ ra rồi, bản nhạc này chưa hề được in ra. Tôi chỉ được biết nó qua lần gặp một người trước kia là học trò của Chopin… Và đây là một bản nhạc khác chưa in ra mà tôi học được ở người đó.” Rutherford đưa mắt để tôi vững tin hơn và nói: “Tôi chả biết anh có phải là nhạc sĩ không, nhưng dù anh không phải đi nữa thì tôi cũng xin nói là hẳn anh hình dung ra được sự ngạc nhiên và xúc động của Sieveking và cả của tôi nữa trong lúc Conway tiếp tục chơi. Với tôi, tất nhiên đây là một thoáng nhìn đột nhiên và thực bí ẩn vào quá khứ của Conway, cái đầu mối đầu tiên thuộc loại nào đó đã thoát mất. Sieveking tất nhiên tỏ ra mải mê với vấn đề âm nhạc, một vấn đề thực phức tạp, như anh thấy đây nếu tôi nhắc để anh biết rằng Chopin mất năm 1849.” “Trên một ý nghĩa nào đó, toàn bộ sự việc thực hết sức khó hiểu và có lẽ tôi cần nói thêm là, lúc ấy có đến ít nhất mười hai người chứng kiến, trong số này có một giáo sư có danh tiếng của trường Đại học California. Tất nhiên, nói lời giải thích của Conway, tính về thời gian thì hoàn toàn không chấp nhận được, hoặc gần như vậy, nhưng còn chính bản nhạc thì giải thích sao đây. Nêu nó không phải như Conway nói thì là thế nào? Sieveking đoán chắc với tôi rằng, nếu hai bản nhạc đó được công bố thì chỉ trong vòng sáu tháng chúng sẽ có mặt trong bảng các tác phẩm để biểu diễn của các nhà nghệ sĩ dương cầm lỗi lạc. Dù cho đây là nói quá phóng đại, thì đó là ý kiến nhận xét của Sieveking. Hồi ấy, sau nhiều lần bàn cãi chúng tôi chẳng khẳng định được điều gì, bởi Conway chi khăng khăng giữ ý kiến của mình, và vì anh đã bắt đầu tỏ vẻ mỏi mệt, nên tôi lo lắng muốn đưa anh về nghỉ. Giai đoạn cuối cùng là bàn về chuyện thu đĩa hát. Sieveking nói anh sẽ thu xếp ngay việc này khi anh tới Mỹ và Conway thì hứa sẽ chơi trước micro. Tôi thường vẫn cảm thấy rất đáng tiếc về mọi phương diện, vì anh đã không thể giữ được lòi hứa.” Rutherford đưa mắt nhìn đồng hồ đeo tay và cho tôi biết tôi còn khối thời gian để đáp xe lửa, bởi câu chuyện anh kể gần như đã xong: “Vì đêm hôm đó - cái đêm sau buổi biểu diễn độc tấu đàn dương cầm ấy - Conway lấy lại được trí nhớ. Chúng tôi đã lên giường để nghỉ, tôi đang nằm và còn thức thì thấy Conway bước vào buồng tôi và nói chuyện với tôi. Gương mặt anh đanh lại với dáng điệu mà tôi chi có thể nói đây là vẻ buồn tràn ngập - nỗi buồn chung của mọi người, nếu anh hiểu ý tôi muốn nói, nó có một cái gì xa xăm hoặc thăm thẳm, như người Đức vẫn gọi là Wehmut hoặc Weltschmerz. Anh nói anh đã nhớ lại được mọi thứ, rằng trí nhớ đã trở lại với anh trong lúc Sieveking chơi đàn, thoạt đầu chỉ từng mảng một. Anh ngồi một lúc lâu trên thành giường; tôi cứ để tùy anh muốn lúc nào nói thì nói và nói theo cách gì cũng được. Tôi nói rằng tôi rất mừng vì thấy trí nhớ anh trở lại, nhưng lấy làm buồn nếu anh đã muốn nó không trở lại nữa. Anh ngước mắt lên nhìn và nói mấy lời mà tôi luôn coi đây là một lời khen ngợi cực kỳ quý báu. “Lạy Chúa, anh Rutherford…”, Conway nói, “anh có khả năng hình dung được sự việc”. Sau đó một lát, tôi mặc quần áo, thuyết phục anh cũng làm như vậy, rồi chúng tôi đi đi lại lại trên boong tàu. Đêm hôm ấy yên tĩnh, trời đây sao, tiết trời ẩm, mặt biển nom tái nhợt, sanh sánh như sữa đông đặc. Nếu không có tiếng động cơ máy kêu vo vo thì có thể nói hai chúng tôi đang dạo chơi hóng mát. Tôi cứ để Conway tùy ý nói theo cách của anh, lúc đầu tôi không hỏi gì hết. Đâu vào khoảng rạng sáng thì anh bắt đầu nói chuyện có mạch lạc, và khi anh nói xong thì trời đã nắng nóng, đến giờ bữa điểm tâm. Khi tôi nói “xong”, tôi không có ý nói rằng anh không còn gì để nói với tôi sau lần tâm sự đầu tiên. Trong hai mươi tư tiếng đồng hồ sau anh đã bổ sung nhiều đoạn hổng quan trọng. Anh tỏ ra rất đau khổ và đã không sao chợp được mắt, vì thế hầu như chúng tôi nói chuyện liên tục. Đến khoảng nửa đêm đêm hôm sau là tàu cập bến Honolulu. Chiều tối hôm trước chúng tôi cùng uống bia trong buồng tôi, khoảng mười giờ đêm, anh cáo từ đi về, và từ đây tôi không còn được gặp lại anh nữa.” “Anh không muốn nói…” Tôi đã hình dung ra một vụ tự tử rất bình tĩnh, có suy nghĩ mà trước đây có lần tôi đã được chứng kiến trên chuyến tàu chở thư từ Holyhead đến Kingstown. Rutherford cười: “Ồ, lạy Chúa, không - Conway không phải loại người như vậy. Anh ta chỉ lẩn tránh tôi mà thôi. Đáp lên bờ thì dễ nhưng hẳn anh ấy thấy khó mà tránh được không bị tôi tìm ra khi tôi cho người đi tìm, và tất nhiên tôi đã làm việc đó. Về sau, tôi được tin anh ấy đã tìm được cách theo đoàn thủy thủ của một tàu chở chuối đi về phía Nam đến Fiji.” “Làm sao anh biết được như vậy?” “Cũng dễ thôi. Ba tháng sau, Conway gửi thư cho tôi từ Bangkok, kèm theo một ngân phiếu trả lại số tiền tôi đã chi phí cho anh. Anh cũng cám ơn tôi và nói anh rất khỏe mạnh. Anh còn nói anh sắp thực hiện một chuyên đi thực xa - về phía Tây Bắc. Có thế thôi.” “Anh ấy định đi đâu?” “Vâng, thật là mơ hồ, phải không anh? Có rất nhiều nơi ở về phía Tây Bắc Bangkok. Ngay kể cả Berlin cũng được.” Rutherford ngừng nói, rót đầy cốc của hai chúng tôi. Một câu chuyện thực ly kỳ - hoặc nếu không thì cũng là do anh kể khiến nó có vẻ như vậy, tôi cũng không rõ nữa. Phần âm nhạc của câu chuyện tuy cũng rắc rối, nhưng không làm tôi quan tâm nhiều bằng cái bí mật về sự kiện Conway tới được bệnh viện của Hội Truyền giáo; và tôi đưa ra ý kiến này. Rutherford đáp sự thực thì hai vấn đề ấy chi là hai mảng của cùng một vấn đề. “Ồ, vậy làm thế nào mà Conway tới được Trùng Khánh?” Tôi hỏi. “Tôi nghĩ hẳn anh ta đã nói hết điều ấy với anh trong đêm hôm ở trên tàu?” “Conway đã nói cho chúng tôi biết một chút về việc ấy, và thực là vô lý nêu đã kể cho anh biết nhiều như vậy, tôi lại giữ kín phần còn lại. Có điều, đây là một câu chuyện khá dài, dù chỉ nói sơ qua thì thời gian từ đây cho đến lúc anh lên xe lửa cũng không đủ. Vả lại, có một cách khác thích hợp hơn. Tôi vốn có phần dè dặt trong việc bộc lộ những mánh khóe nghề nghiệp của mình, nhưng sự thực câu chuyện của Conway, sau khi suy nghĩ kỹ, tôi thấy nó hấp dẫn tôi quá thể. Tôi bắt đầu bằng cách: Sau những lúc trò chuyện với Conway trên tàu, tôi đều ghi chép lại để khỏi quên đi những chi tiết; về sau, vì một số mặt của sự việc bắt đầu cuốn hút tôi, thôi thúc tôi phải làm nhiều hơn nữa, phải đem những điều đã ghi chép được cùng những mẩu nhớ lại đúc thành một câu chuyện mạch lạc. Làm như vậy, tôi không muốn nói là tôi bịa đặt hoặc thay đổi một chút gì. Đã có rất nhiều tư liệu qua những điều Conway kể cho tôi nghe: Anh ta vốn là một người ăn nói lưu loát, có tài truyền cảm khẩu khí của câu chuyện. Và tôi nghĩ tôi cũng bắt đầu cảm thấy mình đã hiểu con người anh ta.” Nói rồi, anh đi lại phía chiếc cặp da, lấy ra một tập bản thảo đã đánh máy. “Này đây, những tài liệu mà anh vừa nói, anh mang về có thể sử dụng theo ý muốn của anh.” “Như vậy, tôi nghĩ là anh cho tôi không tin vào câu chuyện anh đã kể?” “Ồ, không hẳn như vậy, nếu anh tin, thì xin nhớ cho đây sẽ là lý do tuyệt hảo cho Tertullian2, anh nhớ nhé? (Bởi vì nó là không thể có được). Một lý lẽ không tồi, có thể như vậy. Hãy cho tôi biết ý nghĩ của anh nhé!” Tôi cầm tập bản thảo mang về và đọc gần hết nó trên xe lửa. Tôi đã có ý định khi về tới Anh, tôi sẽ gửi trả lại Rutherford, kèm theo một bức thư dài, nhưng chưa kịp gửi nó qua bưu điện thì tôi đã nhận được mấy chữ của anh nói rằng anh đã lại lên đường đi lang thang và trong mấy tháng tới anh sẽ không có địa chỉ nhất định. Anh viết anh sẽ đi Kashmir và từ đây đi về “phía Đông”. Tôi không lấy làm ngạc nhiên.
CHƯƠNG MỘT
Tuần lễ thứ ba của tháng Năm, tình hình ở Baskul trở nên tồi tệ hơn nhiều và ngày 20, máy bay không lực, qua sự thỏa thuận, đã từ Peshawar đến đây để di tản những kiều dân da trắng. Con số này khoảng tám mươi người và hầu hết đã được chuyên chở yên lành qua vùng núi non hiểm trở bằng những máy bay quân sự thông thường. Một số ít những máy bay khác cũng được sử dụng, trong số đó có một chiếc phi cơ đặc biệt của Tiểu vương Chandapore cho mượn. Trên chiếc phi cơ này, vào khoảng mười giờ sáng hôm ấy có bốn hành khách đáp là: Cô Roberta Brinklow của Hội Truyền giáo Phương Đông; Henry D. Barnard, một người Mỹ, Hugh Conway, Lãnh sự của Nữ hoàng Anh, và đại úy Charles Mallinson, Lãnh sự phó. Những tên người kể trên sau này được đăng trên báo chí ở Ấn Độ và ở Anh. Conway ba mươi bảy tuổi. Anh đã công tác ở Baskul hai năm, làm một công việc mà giờ đây qua những sự kiện vừa rồi, có thể coi là bắc yên cho một con ngựa tồi. Một giai đoạn trong cuộc đời anh thể là đã chấm dứt, trong vòng hai tuần lễ nữa, hoặc có thể là sau vài tháng, về phép ở Anh quốc, anh sẽ được cử đến một nơi khác: Tokyo hoặc Tehran, Manila hoặc Muscat; những người làm nghề ngoại giao như anh chẳng bao giờ biết trước cái gì sẽ đến với mình. Anh đã công tác tại Lãnh sự quán suốt mười năm, thời gian khá dài để đánh giá anh sắc sảo, có khả năng hoàn thành những công việc của nhiều người khác. Anh biết rằng, những món bở không bao giờ đến phần mình; nhưng thực cũng có điều để an ủi anh một cách chân thành là không phải chỉ toàn những món cay chua và nghĩ cho cùng, anh cũng không phải con người ham thích những món bở. Anh thích chọn một công việc ít hình thức và khá sinh động, mà thường thì những công việc như vậy không được bở; với con mắt người khác, chắc hẳn họ cho là anh chơi bài quá kém. Sự thực, anh cảm thấy mình đã chơi khá tốt; mười năm qua anh đã làm một công việc đầy những đổi thay và có phần thú vị. Anh vóc người cao to, nước da bánh mật, mái tóc cắt ngắn màu nâu và cặp mắt xanh đen. Trông anh nghiêm khắc, suy tư trừ lúc anh cười (những lúc như thể không có nhiều lắm và những khi ấy, nom anh như đứa trẻ). Ở gần mắt trái anh thường thấy giật giật nhẹ, nhất là khi anh làm việc quá căng hoặc uống rượu nhiều thì càng thấy rõ. Suốt ngày đêm hôm trước ngày di tản, anh đã luôn tay đóng gói và phá hủy các tài liệu, nên chứng giật giật ấy càng thấy rõ khi anh bước lên máy bay. Anh mệt lử nhưng cũng hết sức vui mừng vì đã xoay sở để được đáp chiếc phi cơ sang trọng của tiểu vương chứ không phải đi những máy bay thường. Anh cho phép mình ngả người thoải mái trên chiếc ghế mấy lúc máy bay cất cánh vút lên cao. Anh là con người đã quen chịu đựng gian khổ và ít mong có được những tiện nghi để bù lại. Anh có thể sẽ vui vẻ chịu đựng gian khổ trên đường đi tới Samarkand, nhưng còn từ London đi Paris anh sẽ tiêu món tiền mười bảng cuối cùng để đáp máy bay Mũi Tên Vàng. Máy bay bay được hơn một tiếng đồng hồ thì Mallinson nói anh ta nghĩ anh phi công đã đi chệch đường. Mallinson ngồi ngay phía trước. Anh là một thanh niên khoảng hai mươi lăm tuổi, đôi má đỏ hồng, thông minh, nhưng chưa phải là trí thức, còn nặng những hạn chế cũng như những tốt đẹp của nhà trường. Trượt thi là nguyên nhân chính đã khiến anh bị điều đến Baskul và anh đã cùng làm với Conway được sáu tháng, và Conway đã bắt đầu mến anh. Nhưng Conway ngại mệt vì phải nói chuyện trên máy bay, nên anh chi uể oải mở mắt đáp lại mặc cho máy bay muốn bay theo đường nào thì bay, anh phi công hẳn phải biết rõ việc mình làm hơn ai hết. Nửa giờ sau, khi Conway đã gần thiếp ngủ vì mệt và vì tiếng động cơ máy bay kêu rì rì, Mallinson lại đánh thức anh dậy nói: “Này anh Conway, trước đây tôi cứ nghĩ Fenner lái chuyên bay này?” “Ồ, thế không phải anh ta ư?” “Người lái vừa quay đầu lại thì tôi thấy đúng là không phải Fenner.” “Nhìn qua tấm kính thì khó mà biết rõ được.” “Ồ, vậy thì phải là người khác. Tôi thấy điều đó chẳng có gì quan trọng.” “Nhưng Fenner trước đây có nói chắc chắn với tôi rằng anh ta sẽ lái chuyến này cơ mà?” “Hẳn người ta đã thay đổi ý kiến và thay anh ta bằng một người khác.” “Vậy, người ấy là ai mới được chứ?” “Chú em ơi! Làm sao tôi biết được? Chú nghĩ là tôi nhớ tên tất cả các sĩ quan phi công trong không lực ư?” “Tôi quen rất nhiều người trong bọn họ, mà tôi cũng không nhận ra người này là ai.” “Hẳn người này nằm trong số ít người mà chú không biết đây thôi.” Conway mỉm cười và nói thêm: “Để khi tới Peshawar, chú có thể làm quen với anh ta rồi hỏi anh ta là ai?” “Cứ kiểu này thì chúng ta sẽ không tới được Peshawar. Đích xác là anh này đã đi chệch đường bay. Mà tôi cũng không lấy làm lạ - bay trên độ cao khủng khiếp này thì anh ta nhận sao ra được mình đang ở đâu.” Conway nín thinh. Anh đã quen đi lại bằng đường hàng không nên cho đó là điều tất nhiên. Vả lại, anh cũng chẳng có điều gì riêng mà hăm hở vội vã đến Peshawar; chuyến bay hết bốn giờ hay sáu giờ đối với anh cũng chẳng đáng quan tâm. Anh chưa lập gia đình. Đến Peshawar anh cũng sẽ chẳng có ai thân thiết ra đón chào. Anh có bạn bè ở đây, đến Peshawar, một số họ có thể sẽ kéo anh đến câu lạc bộ để uống bia, cũng vui đây, nhưng không phải vì thế mà anh phải thở dài trước vì chuyên bay chậm trễ. Mà anh cũng không thở dài khi nhìn lại quá khứ; mười năm vừa qua, nhìn lại, anh cũng thấy nó thú vị đây, tuy không phải là một cảnh tượng hoàn toàn thích thú. Thay đổi luôn, có những quãng thời gian khá thú vị, trở nên có phần không ổn định; đây là bản tóm tắt thời tiết của chính anh trong thời gian ấy cũng như của thế giới. Anh nghĩ đến Baskul, đến Bắc Kinh, Macao và nhiều nơi khác - anh thường di chuyển luôn. Xa xôi nhất là Oxford, nơi anh đã làm công tác giảng dạy trong vài năm sau Chiến tranh, giảng dạy về lịch sử Phương Đông, nơi anh đã từng hít bụi trong những thư viện đầy ánh nắng, đã từng tòng teng chiếc xe đạp dạo xuống vùng xuôi. Cái hình ảnh gợi lại đã hấp dẫn anh, nhưng không làm được anh xao động; với một ý nghĩa nào đó, anh cảm thấy mình vẫn là một phần của tất cả những gì anh đã có thể trở thành. Một cảm giác lộn ruột quen thuộc cho anh biết máy bay bắt đầu hạ thấp. Anh định mắng cho Mallinson mấy câu về sự bồn chồn lúc nãy, và có lẽ anh đã mắng rồi nêu anh thanh niên không đột nhiên đứng ngay dậy, đầu chạm vào trần buồng máy bay, lay lay đánh thức anh Barnard, người Mỹ, đang gà gật ngủ ở ghế hàng bên kia lối đi. “Trời ơi!.” Mallinson kêu lên, mắt nhìn qua cửa sổ. “Mọi người hãy nhìn xuống bên dưới xem kìa!” Conway đưa mắt nhìn. Quang cảnh bên dưới không phải là quang cảnh mà anh chờ đợi, nếu như thực sự anh có chờ đợi. Không phải là những doanh trại gọn ghẽ, bố trí vuông vắn với những khu nhà để máy bay hình thuôn; không nhìn thấy gì ngoài một làn sương mù mờ đục che phủ, một vùng hoang vu mênh mông mang màu nâu sẫm. Máy bay tuy đang lao xuống thực nhanh, nhưng vẫn còn ở một độ cao khác với những chuyến bay thường. Nhìn thấy những dãy núi lớp lớp chạy dài, có lẽ gần hơn đường mờ đầy mấy của các khu thung lũng khoảng đến một dặm. Đây là quang cảnh điển hình của một vùng biên giới, tuy Conway chưa hề nhìn thấy bao giờ từ trên một độ cao như vậy. Anh cũng lấy làm lạ nhìn mãi vẫn không thể nhận ra đây là một vùng nào gần Peshawar. “Tôi không nhận ra đây thuộc vùng nào trên thế giới,” anh nói. Rồi kín đáo, vì sợ sẽ làm những người khác hoảng sợ, anh ghé tai Mallinson nói: “Hình như chú nghĩ đúng đây. Anh lái này đã bay lạc đường thì phải.” Chiếc phi cơ lao xuống cực nhanh khiến không khí bốc nóng hơn, vùng đất cháy xém ở dưới như một cái lò khói. Bỗng nhiên cửa mở bật ra. Những đỉnh núi, đỉnh nọ tiếp đỉnh kia nhô lên trên đường chân trời với những hình bóng lởm chởm. Giờ đây máy bay bay dọc theo một thung lũng cong cong, dưới đáy lởm chởm những tảng đá và những mảnh vụn của các con suối đã khô cạn. Nom chẳng khác gì một nền nhà rải rác những vỏ quả hạnh nhân. Máy bay xóc nảy lên trong những túi không khí khiến thấy khó chịu chẳng khác gì con thuyền gặp vùng nước xoáy. Cả bốn người đều phải bám ghì lấy ghế ngồi. “Như họ muốn hạ cánh thì phải!” Anh chàng người Mỹ hét lên giọng khàn khàn. “Không thể được!” Mallinson đáp lại. “Có điên mới tính chuyện hạ cánh. Sẽ va vào núi mà tan xác. Nhưng anh chàng phi công đã hạ cánh thực. Một khoảnh đất nhỏ quang đãng bên cạnh một rãnh sâu, thực khéo léo tuyệt vời mới làm được chiếc phi cơ nảy xóc rồi đứng dừng bặt lại. Nhưng cái gì xảy ra sau đó lại còn rắc rối và đáng lo sợ hơn. Từ bốn phía, một bầy những thổ dân, người nào cũng rậm râu và đội khăn xông ra, vây quanh chiếc máy bay và ngăn không cho một người nào bước chân xuống trừ người lái. Anh phi công nhảy xuống đất và nói chuyện rất sôi nổi với đám người kia. Lúc này mới thấy rõ anh ta không phải là Fenner, càng không phải là một người Anh, thậm chí không phải là một người châu Âu nữa. Rồi những can xăng được lấy từ một nơi nào gần đó đem đến đổ vào những cái két rất to. Bốn người bị cầm tù trên máy bay tha hồ mà la hét, đáp lại chỉ có những cái cười nhe răng ngạo mạn và sự yên lặng không đếm xỉa đến họ. Còn nếu ai hơi có ý định nhảy xuống liền thấy hàng chục họng súng chĩa vào đe dọa. Conway vốn biết một ít tiếng thổ dân Pushtu, cố gắng tìm lời lẽ nói với đám người nọ, nhưng cũng vô hiệu; còn câu trả lời duy nhất của viên phi công với những ý kiến của bất kỳ ai nói bằng bất kỳ ngôn ngữ nào cũng chỉ là mũi súng ngắn hoa lên đầy ý nghĩa. Nắng giữa trưa hun nóc buồng khách chiếc phi cơ, nung đốt không khí bên trong buồng máy bay khiến mấy người khách trong đó muốn xỉu đi vì nóng và vì la hét đã mệt người. Họ đành bất lực bởi điều kiện bắt buộc người di tản không được mang theo vũ khí. Khi cuối cùng, các két xăng đã được vít chặt, một can nước ấm được đưa qua một cửa sổ cabin. Không câu hỏi nào được trả lời, tuy xem ra đám người bên ngoài không có vẻ tỏ ra thù địch đối với mấy người trên máy bay. Sau một hồi thảo luận nữa, viên phi công leo lại lên buồng lái, một người Pathan (Dân tộc Afghanistan ở vùng gần Pakistan) lóng ngóng quay cánh quạt và chuyến bay lại tiếp tục. Việc cất cánh máy bay ở một khu đất hẹp, lại thêm một khối xăng, còn tài tình hơn việc hạ cánh. Máy bay bay vút lên cao và trong một vùng hơi nước mờ mịt quay hướng về phía Đông như đã định được hướng đi. Lúc ấy vào giữa buổi chiều. Một việc làm hết sức lạ lùng và khó hiểu! Tỉnh lại vì không khí mát hơn tất cả bốn người không thể tin được sự việc vừa xảy ra là có thực; đây là một sự vi phạm, một sự xúc phạm trắng trợn mà không một ai thấy xảy ra tương tự từ trước đến nay trong tất cả những sự kiện hỗn loạn ghi được ở vùng biên giới. Thực thế, sự việc vừa xảy ra không thể tin được nêu chính bản thân họ không phải là nạn nhân. Tất nhiên, sau những phút ngỡ ngàng khó tin là sự phẫn nộ cao độ và chỉ khi sự phẫn nộ nguôi đi mới đến chuyện suy đoán trong lo âu. Mallinson đưa ra thuyết cũng dễ chấp nhận nêu không có ai có ý kiến khác: Đây là một vụ bắt cóc để tống tiền. Thủ thuật này không có gì là mới, tuy cách làm phải coi là độc đáo. Phần nào được an ủi khi cảm thấy đây là một câu chuyện không hoàn toàn mới tinh; dù sao thì trước đây cũng đã từng xảy ra nhiều vụ bắt cóc và hầu như đều kết thúc yên lành. Đám thổ dân giữ nhốt anh trong một hang núi nào đó cho đến lúc Chính phủ trả tiền và thế là anh được thả. Anh sẽ được đối xử rất lịch sự vì tiền để trả không phải tiền túi của anh, toàn bộ sự việc chỉ khó chịu trong suốt thời gian nó xảy ra mà thôi. Sau đó, tất nhiên, không quân sẽ cử một phi đội đến thả bom, còn anh có được câu chuyện khá hấp dẫn để kể lại suốt đời. Mallinson đưa ra thuyết của mình với thái độ bực dọc; còn Barnard, anh chàng người Mỹ lại tỏ ra hết sức hài hước. Anh ta nói: “Vâng, thưa các ngài, tôi dám nói đây là một ý kiến ngộ nghĩnh của một kẻ nào đó, nhưng tôi không thể nhận thấy không lực của các ngài đã yểm hộ mình một cách đầy vinh quang. Người Anh các ngài vẫn thường chế giễu các vụ cướp đường ở Chicago cùng nhiều nơi khác bên Mỹ, song tôi không hề thấy có, một tên cướp đường nào đã nẫng đi mất một chiếc máy bay của Chú Sam. Và tôi muốn biết, tên không tặc này đã thực sự làm gì anh phi công. Tôi đoán chắc nó đã đập chết anh ta.” Nói xong, anh chàng ngáp dài. Barnard, vóc người to béo, gương mặt đầy nếp nhăn, mà những nếp vui hài hước không bù đắp lại được những nét bi quan. Không một ai ở Baskul biết rõ anh ta ngoài việc anh ta đã từ Ba Tư tới và đâu như ở đây, anh chàng có dính dáng gì đến công việc dầu khí. Trong lúc ấy, Conway bận bịu với một công việc rất thực tế. Anh đã thu góp tất cả những mẩu giấy mà mấy người có được để viết ra những lời kêu gọi bằng nhiều thứ tiếng thổ dân để quãng quãng lại ném xuống. Cơ may thực cũng mỏng manh vì đây là một vùng rất thưa thớt dân cư, nhưng đó vẫn là một việc đáng làm. Người thứ tư, cô Brinklow, chỉ ngồi mím môi, lưng ưỡn thẳng, rất ít nói và cũng rất ít than phiền. Cô ta người nhỏ nhắn, một phụ nữ khá cứng cỏi, với một vẻ như bị bắt buộc phải tham dự vào một hội nghị mà có những ý kiến cô không thể hoàn toàn tán đồng. Conway nói ít hơn hai người đàn ông kia vì dịch những thông điệp SOS ra tiếng thổ dân là một công việc tinh thần đòi hỏi phải tập trung tư tưởng. Tuy nhiên, khi được hỏi, anh cũng đáp lại và có khuynh hướng đồng ý với Mallinson về thuyết họ bị bắt cóc. Anh phần nào tán đồng những lời chỉ trích của Barnard đối với Không lực Anh quốc. “Mặc dù vậy, sự việc vẫn rất có thể xảy ra. Ở một nơi đang xáo động như thể, người ăn vận quần áo phi công lái máy nom rất giống những người khác. Không ai lại nảy ra ý ngờ vực cái ý tốt của một người ăn vận đúng quần áo phi công, tỏ ra thạo công việc. Và anh chàng này hẳn phải thạo: Biết ra hiệu lệnh,… Và rõ ràng hắn còn biết lái. Tuy nhiên, tôi cũng đồng ý với các bạn đây là một sự việc khiến một anh chàng nào đó sẽ bị phiền nhiễu đây. Và chắc chắn có một anh chàng sẽ phải chịu vạ, dù tôi cho rằng anh ta không đáng tội.” “Vâng, thưa ông,” Barnard đáp, “Tôi rất khâm phục cách nhìn cả hai mặt của vấn đề. Đây đúng là tinh thần người ta cần có ngay cả khi anh bị chế giễu.” Conway nghĩ bụng: Người Mỹ họ có tài khéo nói với vẻ bề trên mà vẫn không làm người nghe phật ý. Anh mỉm cười độ lượng, nhưng không nói tiếp. Cái mệt mỏi nơi anh là thứ mệt mỏi mà không có nguy nan nào làm dẹp đi được. Vào khoảng chiều muộn, khi Barnard và Mallinson vừa đã tranh cãi với nhau, nay định hỏi Conway về một điểm nào đó thì thấy anh đã ngủ thiếp đi rồi. “Anh ấy bị mệt quá đây!” Mallinson nói, “Tôi không lạ gì vì mấy tuần nay anh ấy đã phải làm việc quần quật.” “Anh là bạn của ông ta à!” Barnard hỏi. “Tôi cũng làm việc với anh ấy ở Tòa lãnh sự. Tôi biết suốt bốn đêm cuối cùng vừa qua, anh ấy đã không chợp mắt. Tất nhiên, chúng ta thực may mắn hết sức vì có anh ấy trong lúc khó khăn như hiện nay. Ngoài việc biết nhiều ngoại ngữ, anh ấy còn có tài đối xử với mọi người. Người có thể sẽ gỡ cho chúng ta khỏi khó khăn này hẳn phải là anh ấy. Trong mọi trường hợp, anh ấy đều rất bình tĩnh.” “Ồ, vậy thì cứ để anh ấy ngủ.” Barnard nói. Cô Brinklow lúc này cũng đưa ra một lời nhận xét hiếm hoi: “Tôi thấy trông anh ấy đúng là một con người dũng cảm.” Conway không chắc chắn lắm về điều trước đây mình là một con người rất dũng cảm. Anh nhắm mắt chỉ vì người anh mệt mỏi chứ không thật sự ngủ. Anh vẫn nghe và cảm thấy mọi động tác của chiếc máy bay và anh cũng đã nghe thấy với những cảm xúc lẫn lộn, những điều Mallinson ca ngợi anh. Vừa lúc đó, anh thấy bản thân mình có điều nghi ngờ qua cái cảm giác căng thẳng nơi dạ dày, cái cảm giác phản ứng của cơ thể mỗi khi anh có điều gì không được ổn trong suy nghĩ. Qua kinh nghiệm, anh thấy rõ mình không phải là một con người thích mạo hiểm chỉ vì mạo hiểm. Trong nguy hiểm, có một khía cạnh mà đôi khi anh thích thú đó là sự kích thích, cái cảm giác có tác dụng tẩy rửa đi những xúc cảm ủy mị, yếu ớt, nhưng anh không hề thích thú sự liều lĩnh sinh mạng của mình. Mười hai năm trước đây anh đã lớn lên, biết căm thù những hiểm họa của cuộc chiến tranh trong hào lũy ở Pháp; nhiều lần anh đã tránh được cái chết vì không dại đột làm những việc không thể làm được để tỏ ra dũng cảm. Ngay cái huân chương D.S.O3 anh giành được cũng không phải do can đảm về cơ thể nhiều lắm mà bằng một thứ kỹ thuật mới phát triển là sự chịu đựng. Và từ thời chiến tranh mỗi khi gặp một nguy nan, anh thường đương đầu với nó mỗi ngày một kém thích thú, trừ trường hợp nó hứa hẹn những sự rung động kỳ lạ. Anh vẫn nhắm mắt. Anh cảm động và có phần hơi buồn về những điều anh vừa nghe Mallinson nói. Số phận cuộc đời anh là người ta thường lầm coi thái độ trầm tĩnh của anh là lòng dũng cảm, trong khi thực ra đây chỉ là một cái gì đó thiếu thiết tha nhiều hơn là cương cường gan dạ. Tất cả những khi ấy theo anh, dường như đều là những lúc anh lâm vào một hoàn cảnh khó xử, và không hề có gì là dũng cảm lắm, anh chỉ cảm thấy chủ yếu là ghê tởm những gì có thể còn gây ra phiền nhiễu. Chẳng hạn, có cô Brinklow. Anh nhìn thấy trước trong một số hoàn cảnh nhất định anh sẽ phải hành động với giả thiết cho rằng cô ta là một phụ nữ, nên cô ta còn quan trọng hơn mấy người kia cộng lại, và anh chùn lại trước một hoàn cảnh mà cách xử sự không cân xứng như vậy có thể là không thể tránh được. Tuy nhiên, khi tỏ ra dấu hiệu anh đã thức dậy thì người đầu tiên anh nói chuyện với lại chính là cô Brinklow. Anh biết rằng cô ta không còn trẻ và cũng không xinh đẹp - hai đức tính tiêu cực nhưng cực kỳ hữu ích trong những bước gặp khó khăn như sắp tới đây họ sẽ gặp phải. Anh có phần lấy làm buồn cho cô, vì anh nghĩ cả Mallinson cùng anh chàng người Mỹ nọ đều không ưa thích những nhà truyền giáo, nhất là khi những người ấy lại là phụ nữ. Bản thân anh, anh không có thành kiến, nhưng anh e rằng, cô ta sẽ nhận thấy cái tính tình cởi mở kém thân thiện của anh và thậm chí vì thế coi đây là một hiện tượng khó xử. “Chúng ta dường như đang gặp phải một hoàn cảnh khó khăn kỳ lạ”, anh rướn người về phía trước, ghé vào tai cô Brinklow nói: “Nhưng tôi rất vui mừng vì thấy cô tỏ ra rất bình tĩnh. Tôi thực sự không nghĩ có điều gì đó dễ sợ sắp xảy ra cho chúng ta.” “Tôi tin chắc nó sẽ không xảy ra nếu anh có thể ngăn trước được nó”, cô ta đáp lại, và câu trả lời ấy đã không khiến được anh an tâm. “Cô phải nói cho tôi biết xem chúng tôi có thể làm được điều gì để cô yên tâm hơn.” Barnard nghe được từ “yên tâm” liền lặp lại giọng khàn khàn: “Ồ, tất nhiên, chúng ta đều rất yên tâm. Chúng ta đang tiến hành một cuộc hành trình thú vị. Tiếc là không có một cỗ bài ở đây để chúng ta có thể chơi một ván.” Conway hoan nghênh tinh thần của câu nói, mặc dầu anh không thích chơi bài. “Tôi nghĩ cô Brinklow đây không chơi bài” anh vừa nói vừa mỉm cười. Nhưng nhà truyền giáo nhanh nhẹn quay lại đáp: “Quả thực, tôi vẫn hay chơi bài và tôi không hề thấy có gì hại trong việc làm đó. Trong Kinh Thánh không có ngăn cấm chơi bài.” Tất cả mọi người phá lên cười, dường như để cám ơn cô đã tạo ra cho họ một cái cớ. Conway nghĩ, dù sao thì cô ta cũng không quá cuồng tín. Suốt buổi chiều máy bay đã bay xuyên qua lớp sương mù mỏng của tầng cao khí quyển, ở độ quá cao, khiến không nhìn thấy rõ những gì ở bên dưới. Đôi khi, lâu lâu, lại thấy bức màn sương bị rách một mảng để lộ ra đường nét lởm chởm của một đỉnh núi, hoặc ánh lấp lánh của một dòng nước không quen biết. Chỉ có thể xác định đại khái hướng bay bằng cách nhìn hướng mặt trời; máy bay vẫn bay về hướng Đông, đôi khi quay một chút về hướng Bắc, nhưng còn đi đến đâu thì tùy thuộc vào tốc độ chuyến bay, mà Conway không thể ước tính được chính xác. Tuy nhiên, dường như bay lâu như thể này đã tốn khá nhiều xăng, tuy tốn bao nhiêu lại còn tùy vào nhiều yếu tố không chắc chắn. Conway không biết mấy về kỹ thuật hàng không, nhưng có điều anh biết chắc anh phi công này bất kể là ai, cũng là một tay lái cừ khôi. Cứ xem việc đỗ xuống nghỉ ở chỗ thung lững lởm chởm đầy đá vừa qua là đủ rõ, và còn mấy sự việc khác xảy ra sau đó. Và Conway không thể xua đi được cái cảm giác, ở anh bao giờ cũng vậy, khi anh được chứng kiến một tài năng tuyệt vời không phải bàn cãi. Anh vốn quen ưa thích giúp đỡ người khác nên chỉ biết được một ai đó không hỏi và không cần sự giúp đỡ là anh thấy yên tâm, ngay dù sắp tới có đầy rẫy những tình huống phức tạp. Nhưng anh không nghĩ rằng các bạn cùng đi với anh cũng có cái cảm xúc tế nhị như vậy. Anh thừa nhận họ hẳn có những lý do riêng để lo lắng hơn anh. Mallinson, chẳng hạn, anh ta đã đính hôn với một cô gái tại Anh; Barnard có thể đã có gia đình; cô Brinklow có công việc hoặc thiên hướng của cô. Ngẫu nhiên, Mallinson lại là người ít bình tĩnh nhất; mỗi lúc anh một trở nên bực bội hơn - thậm chí còn bực tức với ngay cả cái vẻ bình tĩnh trên gương mặt Conway, điều mà anh vẫn ca ngợi lúc vắng Conway. Có lần, những lời lẽ tranh cãi nổ ra to đến át cả tiếng động cơ. Mallinson giận dữ hét lên: “Đây, thế chúng ta đành cứ phải khoanh tay trong lúc cái thằng điên kia muốn làm gì thì làm ư? Cái gì đã ngăn chúng ta không đập vỡ kính để quẳng cả cái thằng điên kia đi nhân thế?” “Chẳng có gì ngăn hết,” Conway đáp lại “trừ việc hắn có súng mà chúng ta lại tay không, vả lại, quẳng hắn đi thì sau đó không một ai trong chúng ta biết lái đưa máy bay hạ cánh xuống đất.” “Chắc chắn cũng chẳng khó lắm. Tôi dám nói là anh có thể làm được việc đó.” “Mallinson thân yêu của tôi ơi, tại sao lúc nào chú cũng nghĩ rằng tôi có thể làm được những phép lạ ấy?” “Ồ, dù sao thì việc này cũng khiến tôi bực mình vô cùng. Liệu chúng ta có hạ thủ được hắn không?” “Thế chú bày cho tôi nên làm cách gì bây giờ?” Mỗi lúc Mallinson lại bị kích động hơn. “Này nhé, hắn đang ngồi kia phải không? Cách chúng ta chỉ hơn một mét, mà chúng ta lại có ba người chọi một! Chẳng lẽ cứ chịu giương mắt nhìn thằng điên ấy ư? ít nhất thì cũng bắt được nó khai ra cái trò này là trò gì?” “Được, hãy thử xem.” Conway nói rồi bước mấy bước lại gần tấm chắn giữa buồng khách và buồng lái, buồng lái ở phía trước cao hơn một chút. Tấm kính chắn khoảng sáu inch, vuông và có rãnh để gạt mở, qua đó người lái khi quay đầu và hơi cúi xuống một chút có thể nói chuyện được với hành khách ở buồng dưới. Conway lấy khớp đốt ngón tay gõ vào tấm chắn. Câu trả lời thực nực cười như anh đã nghĩ trước. Tầm kính được gạt sang một bên và một họng súng nhô ra. Không một lời nói, có vậy thôi. Conway lui lại không bàn cãi gì hết và tấm kính lại được gạt trở lại. Mallinson đứng nhìn chỉ phần nào dịu đi. Anh nói: “Tôi cho là nó không dám bắn đâu. Đây có thể chỉ là một mánh khóe lừa bịp.” “Đúng vậy”, Conway nói nhưng mình muốn để chú thử xem cho chắc chắn. “Ồ, tôi nghĩ chúng ta dù sao cũng phải bằng cách nào đó chiến đấu chứ không chịu bó tay ngoan ngoãn như thế này.” Conway thông cảm với anh. Anh biết rõ cái quy ước nọ cùng tất cả những liên quan của nó với anh lính áo đỏ và những cuốn sách lịch sử nhà trường, là người Anh không sợ gì hết, không bao giờ đầu hàng và không bao giờ chịu bị đánh bại. Anh nói: “Xông vào đánh nhau mà không có một chút cơ may nào để thắng thì quả là một trò chơi tồi, tôi không phải là thứ anh hùng như vậy.” “Ngài nói hay lắm!” Barnard vui vẻ nói xen vào. “Khi anh bị một kẻ tóm được gáy thì anh có thể vui vẻ và chịu thua cũng được. Về phần tôi, tôi sẽ cứ vui vẻ với cuộc sống chừng nào nó còn tồn tại và hút xì gà. Tôi hy vọng ông không thấy một sự nguy hiểm thêm nào khiến chúng ta phải quan tâm.” “Với tôi thì không, nhưng nó có thể làm phiền cô Brinklow.” Barnard mau mồm sửa lại, anh nói: “Xin lỗi bà, nhưng bà có lấy làm phiền không nếu tôi hút thuốc ở đây?” “Không hề sao,” cô Brinklow dịu dàng đáp, “Bản thân tôi không hút, nhưng tôi lại ưa ngửi mùi thơm của xì gà.” Conway thấy trong số tất cả những người phụ nữ có thể nói lên được một câu như vậy thì cô Brinklow là người tiêu biểu nhất. Dù sao thì lúc này cơn kích động của Mallinson cũng đã dịu đi một chút, và để tỏ tình thân thiện, anh đưa mời Conway một điếu thuốc lá, tuy anh không châm lửa để mình hút. Conway dịu dàng nói: “Anh biết rõ tình cảm của chú. Chúng ta đang ở vào một hoàn cảnh xấu, và theo một ý nghĩa nào đó, thì hoàn cảnh này thực hết sức tồi tệ, vì chúng ta không còn cách gì có thể làm để tự giải thoát.” “Theo cách khác thì cũng càng tốt,” anh không thể không nói thêm với chính mình, vì anh vẫn còn cực kỳ mệt. Trong bản chất anh cũng có một nét mà một số người có thể gọi đây là lười nhác, tuy không hẳn là như vậy. Không ai có thể làm việc tích cực hơn anh, khi có công việc phải làm và cũng không ai có tính thần trách nhiệm hơn anh; nhưng sự thể vẫn là anh không thiết tha hoạt động cho lắm và cũng không thích thú gánh vác trách nhiệm chút nào. Cả hai thứ ấy đều thể hiện trong việc làm của anh và anh đã hoàn thành tốt nhất cả hai, song anh luôn sẵn sàng nhường chỗ cho ai đó, nếu họ có thể làm được như anh hoặc tốt hơn. Chắc phần nào vì thế mà thành tựu của anh trong những năm làm việc tại Vụ không được nổi bật đáng như nó phải đạt. Anh không phải là con người nhiều tham vọng để xô đẩy vượt người khác, và cũng không phải là con người làm ra vẻ quan trọng, phô trương ta đây không làm gì khi thực sự không có gì để làm. Những công văn giấy tờ anh thảo đôi khi ngắn gọn đến mức cộc lốc, và thái độ bình tĩnh của anh trong những trường hợp khẩn cấp, tuy được nhiều người khen ngợi, nhưng nhiều khi vẫn bị nghi là không thành thực. Quyền lực muốn cảm thấy con người phải tự căng mình ra, và vẻ bề ngoài thờ ơ lạnh nhạt của anh chỉ là một cái áo choàng che kín những xúc cảm bên trong của con người có giáo dục. Với Conway, thường có những kẻ đen tối nghi kỵ cho là anh thực sự thờ ơ với công việc như vẻ bề ngoài, anh vẫn tỏ ra là bất kỳ sự việc gì xảy đến anh cũng kệ thấy. Nhưng những nhận xét này cũng như ý nghĩ cho là anh lười nhác, đều không thật sự đúng. Điều mà hầu hết những người quan sát bề ngoài không nhận thấy ở anh là một cái gì hoàn toàn đơn giản: Đó là anh thích sự yên tĩnh, suy tư và được ở một mình. Giờ đây, vì tính nết anh như vậy và lúc này lại không có việc gì làm, nên anh tựa lưng vào chiếc ghế mây thiêm thiếp ngủ. Khi thức giấc, anh thấy mấy người kia, mặc dầu mỗi người đều có những băn khoăn lo lắng riêng, nhưng vẫn ai nấy đều đã ngủ cả. Cô Brinklow ngồi thẳng người, mắt nhắm lại như một thần tượng lỗi thời và xám xịt; Mallinson thì cúi người về phía trước, một bàn tay chống cằm. Anh chàng người Mỹ thậm chí còn ngáy to. Họ cũng rất biết điều đây, Conway nghĩ bụng, việc gì mà cứ la hét lên để cho mệt người. Nhưng lập tức, trong cơ thể anh, anh cảm thấy hơi chóng mặt, tìm đập hơi mạnh và anh như gắng sức hít vào thực mạnh. Anh nhớ lại đã có lần trước kia anh cũng có những triệu chứng này – hồi ở trên núi Alps bên Thụy Sĩ. Rồi anh quay về phía của sổ nhìn ra ngoài. Bầu trời xung quanh hoàn toàn quang đãng và trong ánh sáng buổi chiều tà, trước mắt anh hiện ra một cảnh tượng mà lúc này đã cuốn cạn đi chút hơi thở còn lại trong phổi anh. Xa từ đằng kia, tại nơi giới hạn của tầm xa, là trùng điệp những dãy núi phủ tuyết với những con sông đóng băng cuốn kết như những tràng hoa, những con sông đóng băng trông như đang bập bềnh nổi trên lớp lớp mây mông mênh. Những lớp mây phủ kín toàn bộ vòng cung của đường tròn hòa lẫn vào nhau về phía Tây nơi đường chân trời là những màu sắc lòe loẹt, chói lọi, chẳng khác gì một tấm phông phong cách ấn tượng, tác phẩm của một thiên tài nửa điên dại. Và trong lúc đó, trên tầng cao kỳ lạ, tiếng động cơ kêu vo vo, chiếc máy bay bay trên một vực thẳm, trước mặt là một bức tường trắng toát, tưởng như một mảng của chính bầu trời cho đến lúc ánh nắng rọi tới. Và khi ấy, giống như hàng chục khu nghỉ Jungfraus4 chồng chất lên nhau nhìn từ Mürren5, bức tường bốc cháy thành một vùng sáng chói hừng vĩ lóa mắt. Conway không phải là con người dễ bị gấy ấn tượng và như một thông lệ, anh không quan tâm đến những “cảnh”, đặc biệt những cảnh nổi tiếng hơn mà nhiều thành phố quan tâm đã tạo ra địa điểm công viên. Đã có một lần anh được người ta đưa lên ngọn đồi Con Hổ, gần Darjeeling6, để ngắm cảnh mặt trời mọc trên ngọn Everest7 và anh đã thất vọng với ngọn núi cao nhất thế giới. Nhưng cái cảnh tượng dễ sợ ở bên kia tấm kính cửa sổ lúc này lại ở cỡ khác; nó không có vẻ được bày đặt ra để chiêm ngưỡng. Những vách băng quyết liệt nọ có một cái gì thô và ghê tởm, và khi tiến lại gần chúng là cả một sự liều lĩnh siêu phàm. Anh ngẫm nghĩ, mường tượng lại những tấm bản đồ, tính khoảng cách, ước lượng thời gian và tốc độ. Rồi anh thấy Mallinson cũng thức giấc. Anh chạm vào tay chàng thanh niên
Comment