Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Truyện Dài * Tình HOÀI HƯƠNG

Collapse
X

Truyện Dài * Tình HOÀI HƯƠNG

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Truyện Dài * Tình HOÀI HƯƠNG

    Photo by Hoài Hương

    Tựa truyện dài:
    Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn

    Phần Thứ Nhứt
    Chương 1


    Đời Lên Hương


    Tết Nguyên Đán lại tưng bừng trở về trên thế trần rồi đó ư? Người ta hân hoan, ríu rít, xôn xao hớn hở hân hoan đầy ân tình gởi cho nhau quà giáng sinh, kế đến là mừng năm mới Dương Lịch với cánh thiệp nồng ấm thắm thiết tình người. Thú vị quá! Đối với Hiếu Hòa thì ngày Thanksgiving, Christmas, Noel… no iết, hay Tết Nguyên Đán nguyên iết gì gì đó... không còn nữa, như Nhất Tuấn với bài thơ: "Mimosa Thôi Nở" mà cô rất thích:
    . . . Mới bốn mùa Thu qua
    Mimosa, Mimosa, vẫn nở...
    Sao mối tình đôi ta,
    Ai làm cho dang dỡ?
    Đêm nay Noel đây,
    Nhưng em không về nữa.
    Ðường khuya mưa bay bay.
    Mimosa, Mimosa, thôi nở…
    Trong hồn anh đêm nầy…

    Tháng ngày thấm thoát trôi qua mau, như bóng chiều câu qua song cửa, cho mình nếm trọn đủ nỗi cay đắng, niềm đớn đau thầm lặng cùng cực buồn nhớ, khiến Hoà chẳng hết ngẩn ngơ lòng! Nỗi buồn xưa quanh quẩn đâu đây... Hồi nhỏ bé, trước thềm năm mới xa xưa ở thành phố khá lạnh xứ Đà Lạt, Hòa ưa theo ba má đi khắp nơi chúc tết chú bác dì dượng họ hàng. Cô nhỏ thích có nhiều tiền lì xì thơm mùi giấy mới, dù không biết xài tiền, nhỏ cất tiền lẽ trong bóp cái đầm màu trắng, có dây quai quàng qua ngực, nhỏ vui mừng khấp khởi tới khoe bạn trẻ, xem ai có nhiều tiền hơn ai thôi. Hiếu Hòa vui vẻ tụm năm tụm ba với bạn, niềm hạnh phúc ấu thơ là xum xoe bộ cánh mới, cổ đeo kiềng vàng chạm trổ hoa mỹ, hai tai bé lủng lẳng bông vàng lắc lư theo từng cử động vui mắt. Đêm đêm nhỏ nằm mơ cô hái hoa bắt bướm lảng vảng bay trên đầu cây ngọn cỏ.


    Rồi tháng năm qua dần... cô em lớn lên với tà áo hoa màu rực rỡ, thời mới lên trung học cùng bạn lượn quanh phố chợ, ánh mắt chan hòa tình mến, lòng bạn với ta phơi phới nét xuân thì. Ôi! Tuổi hoa ngày đó vụt xa bay qua tầm tay quá đỗi là mau. Nay, nắng mùa Đông sót lại nét hoen sầu rả rích từng giọt mưa phùn bay bay trên phố Đà Nẵng, điệu buồn êm nhẹ hẫng trên hàng mai vàng lốm đốm khoe sắc. Hòa thấy nhớ những cánh thiệp tươi màu còn cất ở dưới đáy va ly, cô muốn mở ra xem một lần, một lần rồi thôi. Ở tình bạn cũng như ở tình yêu, có điều gì mong manh, chơi vơi, xa xăm, lẻ loi khôn tả.

    Cuộc đời Hòa như một hoang đảo ngoài khơi chói nắng, quanh năm toàn thấy đại dương mênh mông bao la bát ngát. Còn con tàu, lục địa, bờ biển, thì ở xa -rất xa- Tất cả bạn và người thân từ từ xa (như con tàu chỉ dừng chân lại trước thềm lục địa, tạm nghỉ ngơi, thân ái nồng nhiệt, đôi khi có phần ích kỷ và ganh tị, nhưng họ tươi cười thản nhiên về sự phản bội đó. Rồi con tàu lặng lẽ nhổ neo ra đi). Hòa không giận, vì cho đó là sự kiện không quan trọng. Tình bạn non đời sống có chiều rộng, nhưng chưa có chiều sâu, mà buồn làm chi. Do vậy tình bạn có phần dễ chịu, tình cờ, đơn sơ, như một túp lều cất lên bên sườn đồi, dưới giàn hoa thiên lý kế rặng tre xanh, bên nương sắn, cạnh ao bèo… muốn đặt nơi nào cũng được, không phân biệt giai cấp sang hèn, học thức thấp cao. Chính vì thế, nó mong manh, dễ phai lạt, chẳng mang vết buồn đau thầm nhớ cần thiết!

    Buổi tối cô ở nhà anh Thương, chị Sáu Huyền (vì nhà ba má quê Mỹ Chánh đang lộn xộn, không yên ổn, cô sống nơi đó chẳng tiện). Hòa kinh ngạc khi nhận được thiệp của Phú, Đông, chị Hạc. (Phú giới thiệu Đông gởi thư cho mình theo kiểu bạn bốn phương, vì cô không hề quen biết Đông). Thật quá lạ, Phú nghĩ gì về tôi? Tự thâm tâm cô có nhiều điều đắng cay, đau buồn, đến nỗi Hòa không nhớ mấy về ai, và quên mất mình đã quen thân Phú. Mừng rỡ cầm mấy phong thư vô phòng, Hòa ngồi lên giường mở thư Phú ra đọc trước tiên. Phú cho biết khi đậu tú tài toàn xong, anh đã nhập ngũ, nay làm việc tại ven biên tỉnh Khánh Hòa. Đi nghỉ phép ở Đà Lạt, Phú đến thăm chị Khánh, và xin điạ chỉ Hoà.

    Thoáng thời gian ngắn ngủi qua mau, Phú có biết bao thay đổi, đầy hứa hẹn ở tương lai. Còn ta? Mình không có gì ngoài mớ đau thương chất chồng, bao khốn khó quằn xiết lấy tấm thân mảnh dẻ, hai bàn tay trắng không làm cho đời sống riêng mình tươi hơn. Hòa thấy có cái gì sắt cạnh đâm sâu trong lồng ngực vỡ vụn ra, đau nhói. Một cái gì tê buốt, bàng hoàng. Mà, trước kia Hòa tưởng là không có ai có thể bóp nát trái tim đầy tin yêu nầy. Thuở xa xưa ấy gặp Phú, quen Phú, trái tim cô như cuộn giấy trắng tinh, chưa thâu nhận bóng hình ai. Thấy Phú đẹp trai, phong nhã, đa tình, và sao mà anh lãng mạn, lả lướt quá đi! Hòa sợ. Vã chăng, nói cho cùng thì lúc đó cô đã có cảm tình thân thiết với “cố nhân”. Không! Hòa chẳng muốn nhớ đến “tên ai”, dù kỷ niệm nhỏ nhặt gợi lên hình ảnh đẹp trên đại lộ khuya, làm bừng sống giấc mộng bạc bẽo nơi người con gái trước ngưỡng đời mệt nhoài, hụt hơi đắng cổ đến bây giờ.

    Mùa Đông xưa trôi tuột về dĩ vãng mất rồi, chẳng bao giờ tìm thấy nữa! Thời gian và không gian chìm sâu từng ngày, từng ngày… vào ý niệm. Hòa từ Đà Lạt xuôi qua mọi miền, đi thênh thang giữa lòng đô thị Đà Nẵng, về vùng trời Hội An, Huế, Mỹ Chánh, Quảng Trị, La Vang, ra tới Bến Hải… Có thể suốt đời mình vẫn nhớ nhung, nâng niu, trân trọng giữ gìn kỷ niệm dịu êm một thuở vàng son. Kỷ niệm đó, thoáng mắt nhớ nhung đó, nụ cười đó, không gian và thời gian ngày cũ vẫn theo cô đến chân trời góc bể, nơi Hòa đã sống, vui buồn, mòn mỏi, khát khao nỗi nhớ niềm mong, hay đã quên hết rồi? Hoà âm thầm, nhỏ bé như loài hoa cỏ may mọc bên lề viả hè trong thành phố xa hoa. Bao lo âu, buồn bã, nhớ nhung, làm úa vàng ngăn kéo kỷ niệm một thuở ru tình... Do vậy cô rất yêu bài thơ dài của Triều Hoa Đại trong đó có câu:
    Nửa bước em về chiều nay tư lự.
    Nửa bước em về ngày xưa tháng cũ.
    Bước đi bây giờ làm sao lam lũ!
    Bước đi bây giờ buồn thế sao em!?
    Thơ anh bỗng buồn viết mãi không nên
    Chiều cũ ven mưa phố lạnh lên đèn
    Tình yêu bây giờ làm sao xa cách?
    Tình yêu bây giờ buồn thế sao em?

    Cô Ba Thu năm nay ngoài năm mươi tuổi, sinh tại Hà Đông (miền Bắc) vóc dáng cô Thu mập ơi là mập, lùn xủn; cô siêng năng chăm chỉ lo làm ăn buôn bán, nên cô hái ra tiền. Cô hoạt bát, nếu không muốn nói là hơi quá lanh miệng dẽo mồm. Bạn thân thiết của cô Thu là cô Nga (suýt soát tuổi bạn, cô sinh ở Phát Diệm) thì ốm nhom, cao lêu khêu. Hòa ít khi nghe cô Nga nói cười, cô kín đáo siêng năng mà lặng lẽ. Sáng sớm mỗi người đi bán một ngả, người bán chợ Cồn, người bán chợ Hàn, tối họ về ở chung một phòng chật chội, ngủ cùng một giường. Họ bán những thứ hàng tạp hóa giống nhau. Chẳng bao giờ Hòa nghe họ ồn ào, bực bội nặng nhẹ to tiếng cãi cọ. Hai bạn già (“còn tơ” chưa bao giờ có chồng, nên cả xóm thân thiện gọi họ là cô) họ suýt soát tuổi nhau, thân thiết dịu dàng rất mực, mà thuở ấy Hòa chưa từng nghe người khác gọi họ là “lesbian”, “bóng biết, lại cái” chi cả! Họ là hàng xóm sơ giao của chị Sáu Huyền.
    Hôm nay bỗng nhiên cô Thu qua nhà chơi, cô nói nhiều chuyện vui thật vui, rồi cô vào đề: xin chị Huyền cho Hòa đi phụ cô trông coi cửa tiệm vào tháng Tết. Cô cười:
    - Tiền! Tiền! Có tiền mua tiên cũng được. Hết sẩy! Chị đồng ý cho em Hòa ra ngoài xã hội vui vẻ, thi thố "tài lăng" bé nhỏ mí đời, chị nhé!
    Chị Huyền nhìn em cười nói:
    - Em tôi chưa đi học, nếu giúp cô Thu, cũng hay, em ha.
    Hòa đã ỏn ẻn mỉm cười đồng ý. Đại lộ Hùng Vương ồn ào, nhộn nhịp, tấp nập, đông đúc, người người chen lấn đi mua sắm tết. Cô Thu và Hoà bận rộn suốt từ sáng đến tối bán buôn không ngơi tay, nhưng Hòa cảm thấy vui, không phiền hà‎ khi hoà mình theo lòng phố thị huyên náo. Trong tiệm chỗ tụm năm tụm ba, người mua cái nầy, người mua cái nọ. Hai người lăng xăng rối rít bán hàng không ngừng tay, bận rộn quá chừng. Bốn giờ chiều thì hai chị em mới có thể nghỉ ngơi xí, họ chia phiên nhau vô góc tiệm ăn cơm, chứ đói chịu không nỗi. Nhà hàng mang cơm phần đến từ lúc mười một giờ, thức ăn bây chừ đã nguội, mỡ đóng váng trên mặt. Hòa ăn chẳng thấy ngon lành, vì mệt quá.

    Ngày thứ hai trước khi đi làm, Hòa ghé tiệm ảnh Phụng Ký lấy mấy tấm hình. Ngày thứ ba, hai chị em rảo bước trên phố thật sớm. Hòa mặc áo lạnh lông xù màu cánh sen, cổ quàng khăn voan màu tím hoa sim, quần tây đen, mang giày bít đen. Má đã mua cho con đủ mọi thứ cần thiết từ đồng tiền lao nhọc của mẹ cha. Vui lạ! Có ai từ nhỏ đến lớn không có năm bảy lần được mặc áo mới đẹp nhứt, khi họ đã đi qua hầu hết quãng đời mình, mà không vui thích mỉm cười vu vơ, không nhỉ? Tiệm của cô Thu đông nghẹt khách mua hàng, Hiếu Hòa đứng sau quầy niềm nở cười cười, bán bán, trao trao. Bất ngờ và quả thật rất tình cờ, cô chợt nhìn theo mãi chàng trai ngồi sau chiếc Velosolex do bạn chở. Họ đã chạy vòng lui vòng tới bốn năm lần trước cửa tiệm. Nhìn vô tiệm, họ cười hoài. Hai chàng cứ... “liếc mắt đưa tình” húc cùi chỏ cười đùa với nhau. Họ chưa dám dựng xe để vô trêu ghẹo con bé áo tím. Mặc cô Thu đon đả mời chào, và cô ấy sẽ nói huỵch toẹt ra, nếu ai có ý “lả lơi chọc ghẹo” Hòa, khiến khách đỏ mặt mà xéo bước mau. Tính cô thẳng như ruột ngựa là gì!

    Thanh niên ngồi sau lưng bạn có dáng dấp thư sinh, mày rậm mũi cao, làn da trắng trẻo, đôi mắt anh sáng ngời đẹp như mắt chim phượng, khuôn mặt càng xinh trai hơn với hai má lúm đồng tiền sâu hoắm, chiếc răng khểnh khép nép bên khóe môi phớt hồng, anh có nụ cười tươi mát đến ngã lòng người. Ah! anh có dáng dấp khá giống Phú ở nụ cười có hai lúm đồng tiền! Anh nhìn Hòa đăm đăm và quay lại tươi cười, vẫy tay với mình nữa kìa! Ôi Lạy Chúa! Quả thật họ đã để ý đến con người tội nghiệp nầy rồi! Cuối cùng dựng xe trước cửa tiệm, họ vô mua bốn hộp mứt, hai lố thuốc lá 555 International, hạt dưa, ba chai rượu Martin. Hộp quẹt. Dao cạo râu. Năm dây nịt đủ kiểu. Dép đàn ông mang trong nhà. Mười áo thun trắng, mỗi cặp có màu khác nhau, quần sọt cũng vậy.

    Trong khi Hòa gói hàng, cô Thu loay hoay soạn mấy cái giỏ xách nhựa mới, hào phóng tặng cho họ mang mớ quà cồng kềnh về. Chờ Hòa ngẩng lên, “chàng thư sinh Bắc Kỳ” đẹp trai ấy lại khoe má lúm đồng tiền, chiếc răng khểnh, anh đá lông nheo "kịch kịch" với cô em vài ba cái, anh mới chịu khệ nệ bưng hàng hóa theo bạn ra về. Ơ hay! Anh lại gật gật gù gù nheo nheo mắt ướt vẫy vẫy tay chào thân thiết. Hai chàng to nhỏ điều gì, lại khúc khích cười cười mãi nữa kìa! Hòa mắc cỡ, hai má nóng bừng, cô vội vàng cúi xuống tủ kính, giả vờ xếp lại đồ đạc bên trong. Hòa "không có đồng tiền bát gạo nào" làm sao dám khoe với ai! Hòa thấy vui khi tối hôm ấy cô Thu qua nhà chị đưa tí tiền. Nửa đùa nửa thật, cô nói:
    - Em Hòa giúp tôi mấy hôm nay, thú thật là em đỡ đần tôi rất nhiều. Chị và em đừng ngại gì sớt. Mỗi ngày, tôi sẽ trả em năm chục đồng, còn nửa tháng cuối, thì mỗi ngày một trăm, vì em sẽ thức khuya bán chợ đêm Tết, về nhà rất muộn. Ăn uống tôi lo hết. Vất vả đấy nhá. Ra Giêng, nếu em còn ở nhà, thì giúp tôi bán hàng, tôi đưa em mỗi ngày ba bốn chục thôi, tùy ngày bán được hay không, vì tháng Giêng là tháng “ăn chơi” sẽ ế ẩm mà lị. Chỗ chị em, tôi hay nói thẳng, chị Thương và em Hòa không giận tôi nhá.
    - Em vừa ở quê vô đây... lưng chừng ngày tháng, chưa biết đi học lại ở trường nào, nên giúp cô cho vui, tiền nong gì. Cô Thu.
    - Ấy chết. Ai lại thế bao giờ. Chị biết không? em Hòa có duyên bán hàng ra phết nhé, tiệm tôi đắt hẳn lên. Hôm nay có mấy cậu mua đồ, chả mặc cả kỳ kèo gì sớt. Buôn bán, tôi chỉ trông chờ có khách xộp điệu nghệ thế chứ. Tôi có nhờ hai cậu ấy ra Giêng đến mở hàng khai xuân đầu năm. À, chị nhớ cho em giúp tôi một tay nhá.
    - Tùy em tôi. Đôi khi nó không thích, làm sao tôi dám hứa.
    - Ối dào! Em cứ đi làm cho vui mà có tị tiền còm, chờ tới lúc em đi học lại, không phải tiện và tốt sao?
    - Chị nói có lý. Tôi sẽ nói em suy nghĩ, sẽ trả lời chị sau.

    Liên tiếp mấy hôm sau, hai anh kia vẫn thả bộ trên phố, rồi họ vô tiệm cô Thu mua cái nầy, cái nọ. Có lần “chàng đẹp giai” nhờ Hòa chọn hộ cà vạt. Hòa biết anh ăn mặc lịch sự, tươm tất, lẽ dĩ nhiên sẽ chọn đúng thời trang, chứ mình nào có tài cán gì, mà chọn! Chẳng qua anh muốn gợi chuyện làm quen. Thế thôi. Hòa thấy sợ! Mặc dù quen họ với tính cách là người khách mua bán hàng. Có thể chỉ là bạn, hay là anh trai hơn hẳn mình về tuổi đời, kinh nghiệm sống, không thể đi xa hơn. Hòa như con chim non lìa đàn sớm bị thương, nay đậu cành mềm sợ gãy cánh, sợ cơn đau buồn điếng lặng khác ập đến, thì tình cảm sẽ tổn thương biết mấy.

    Nửa tháng cuối năm, chiều nào cũng thế, chỉ còn một mình anh ấy thơ thẩn solo trên phố, dường như cố ý chờ đợi ai. Sau đó vô tiệm, anh phụ cô Thu treo đồ đạc khách chê, đã vất bừa bãi trong góc phòng. Dù một hai giờ khuya, anh vẫn chờ cô dọn dẹp xong, anh mời hai chị em đi ăn. Gì chứ về cái món ăn uống "chùa" khỏi chi địa, là cô Thu khoái khẩu, vui vẻ nồng nhiệt tươi tắn hân hoan hẳn lên. Chuyện gì cô cũng tốt, nhưng việc tiền nong thì: "tôi là Bắc Kỳ dón, vắt cổ chày ra nước mà lị". Cô Thu vẫn nói thế với ông chủ cho cô thuê nhà mà. Có người khách không mời bỗng dưng đêm đêm đến giúp một tay, cô Thuận khoái tỷ vì chả mất tiền công, anh lại khỏe mạnh, nhanh nhẹn, xốc vác khá được việc.

    “Ảnh” còn hào phóng mời hai chị em nhiều bữa ăn tối, ăn khuya… hậu hĩ quá chừng. Họa có điên hay sao mà cô Thu không nhận lời chứ. Chuyện trò vui vẻ hồn nhiên "thái mái" thế nào ấy. Vui vẻ tử tế quá đi. Đôi khi, cô Thu cũng mời lại "con người tốt bụng ấy" tô bún bò giò heo, tô hoành thánh mì, chén chè, dĩa xôi. Vã chăng, cô Thu nhận thấy nếu cứ làm cái trò tình vờ phớt lờ… muối mặt ăn hoài của người ta, như ngầm ngầm lợi dụng chàng trai “dại gái”, cũng kỳ kỳ, ngượng ngùng bẽn lẽn sao sao ấy! Hiếu Hòa đi theo họ vào tiệm ăn như chiếc bóng âm thầm, chẳng mấy khi thân mật chuyện trò với ai, khiến cô Thu nhăn mặt, ghé miệng qua tai Hòa nói nhỏ:
    - Người đâu mà kém xã giao đến thế. Sao em ngu tệ. Chả biết.

    Vì phép lịch sự, Hòa vờ lắng nghe anh ấy giới thiệu tên, nhưng thật tình nhỏ không nhớ rõ anh tên gì. Hòa nhút nhát rụt rè không dám hỏi lại, e bất lịch sự, sợ anh nghĩ mình điếc, thì buồn năm phút. Trời đất ơi còn cô Thu chê em là con nhà quê vừa thập thò ra ngưỡng cửa thành phố đó sao? Thế, cô tưởng em còn "ngây thơ vô tội" chưa biết trộm yêu, thầm nhớ và đau khổ ấy chắc? Hòa ngập ngừng gượng gạo cười nói, như gã hề đeo mặt nạ méo mó, trông thật kỳ. Lúc còn lại hai người trước cổng nhà, cô Thu ân cần nói:
    - Cậu Toàn Thắng là người khá lịch sự, dễ thương, đứng đắn. Em nên vui tươi nhã nhặn một tị nha. Suốt buổi ăn em cứ xụ mặt xuống, trông thật khó coi, bất lịch sự đấy. Nhớ nhá!

    Hôm sau quên lời cô dặn, Hòa vẫn buồn xo, lặng thinh, nên cô Thu nhích tấm thân phì lũ lết đít gần tới bên Hòa, cô khẽ húc một cái vô hông Hòa. Giật mình, Hòa vội nhăn răng ra cười rõ tươi. Trong khi anh đang bình luận chuyện thời sự, chuyện chính trị đứng đắn, không có gì vui, để cho em cười như reo thế. Ngạc nhiên, anh im bặt nhìn Hòa đăm đăm. Có lẽ anh nghĩ cô nhỏ nầy có dòng máu lãng lãng, khùng khùng, điên điên, chi chi đó nhỉ!? Cô Thu liền quay qua Hòa, lén thò bàn tay mũm mĩm xuống gầm bàn, dùng mấy ngón tay mập ú bấm bấm cào cào vô bên đùi Hòa, khiến em cảm thấy nhột nhột đau đau, nhưng không dám nhúc nhích, hoặc cười ruồi. Cô thì thầm:
    - Đừng có dỡ hơi thế chứ. Im nào!
    - . . .
    Người ta vội vã, hấp tấp quét dọn sạch sẽ những ụ rác to tướng, họ đem đổ trên xe chở rác, ở ngả tư, ngả năm đường phố. Họ lau chùi nhà cửa, bàn ghế tươm tất. Chuẩn bị tiễn đưa năm cũ, hân hoan nồng nhiệt vui vẻ đón chào năm mới cổ truyền khá tưng bừng háo hức, trên những cành mai vàng tứ qúy nở hết cánh đẹp ơi là đẹp. Giao thừa và Tết Nguyên Đán lại đến. Bây giờ là ngày mồng hai tết, Hòa ghi tên dự thi hoa hậu, do Sư Đoàn 2 tổ chức tại hội chợ "Cây Mùa Xuân Chiến Sĩ" bên Sơn Trà. Vì Hoà còn quá nhỏ tuổi, nên anh Thương (chồng chị Huyền) bắt em phải chạy xuống nhà anh Thuận ở đường Đống Đa, để anh trai ký giấy chấp thuận cho phép em đi thi (như ban tổ chức tại Sư Đoàn 2 yêu cầu).

    Đúng tám giờ tối, cuộc thi bắt đầu. Giàn nhạc trỗi dậy âm giai lên bổng xuống trầm tuyệt diệu, khi hùng dũng cuồn cuộn như vũ bão, khi lả lướt êm đềm nhẹ nhàng lâng lâng như mây khói sương lam. Đó là thứ từ trường mãnh liệt, tiết tấu hài hòa đầy rung cảm, tạo thành âm điệu trầm bổng tuyệt vời, do ban văn nghệ Sư Đoàn 2 điều khiển, đã phủ chụp lên tâm hồn cô nhỏ vốn đa cảm, những dòng âm thanh rì rào, lâng lâng, ngất ngây, táo bạo và run rẩy. Sự tưng bừng huyên náo nầy khuấy đảo lên tâm hồn chưa yên tĩnh, khiến Hòa phập phồng bối rối, băn khoăn, âu lo. Tuy vậy, nhờ sự hổ trợ mật thiết, tương đắt của chị Sáu Huyền, các cháu Châu, Trân, Vân, Sơn, còn có năm người bạn mới, cũ, cùng khán giả đông nghẹt nồng nhiệt cổ võ, thì Hòa vững tin cố gắng hết mình.

    Khuôn mặt Hoà để tự nhiên không hề biết dùng chút phấn son trang điểm, xiêm y kín đáo hài hoà, thấm đượm tình cảm thiên nhiên, mang nặng tính cách dân tộc miền núi thượng nguồn Việt Nam, qua vũ khúc Dămbalada. Vũ điệu sôi động, đầy tính chất buôn làng Mnông rừng núi thâm u hiểm bí, đã khích động khán thính giả nhiệt liệt hoan ca rất nhiều. Sau vũ điệu tưng bừng sôi động giật gân, Hòa phải hát một bài tự chọn "Nắng Chiều" của Lê Trọng Nguyễn. Vì khá mệt trong điệu nhảy "hùng hồn" mà hoang dại, nên Hòa vừa ca vừa thở, nghe dỡ ẹc. Đồng thời em phải trả lời năm bảy câu trắc nghiệm vấn đáp hóc búa, cùng các thích ứng thông minh mau lẹ khác. Hiếu Hòa lo mình kém tài, sẽ gây nên cảnh lố bịch đến các bậc đàn anh, đàn chị cười chê, châm chọc, thì thật ngượng ngùng hết chỗ nói; sẽ hổ thẹn với bạn trẻ biết mấy!

    Đứng trên sân khấu có 84 vị xinh như mộng, tươi như hoa đang dự thi. Tất cả chờ đợi ban giám khảo phê duyệt rất lâu. Họ và Hòa đã vượt qua vòng sơ kết. Rồi đợt hai còn bốn mươi cô lọt vô vòng bán kết. Đợt ba có mười lăm người may mắn vô vòng chung kết. Những ai bị loại bỏ thì buồn xo, len lén cúi mặt lủi thủi bẽn lẽn đi xuống. Số người còn nuôi hy vọng được đứng lại trên sân khấu, thì reo hoan tươi cười ôm nhau nhảy tưng tưng, giống trẻ con ghê, mặc dù cô nào cô nấy từ mười lăm đến “hâm” đi hâm lại xấp xỉ tới bâm mí tuổi rồi. Những cô còn đứng trên khán đài đã được ban điều hành mời họ qua đứng hai bên cánh gà tả và hữu. Hòa hồi hộp lo lắng, bẽn lẽn, sợ ngày đầu năm mới mà bị ném cà chua, liệng trứng thối, bị xịt nước dơ đuổi xuống khán đài, thì thật quê một cục, mất mặt, xúi quẫy cả năm chứ chẳng chơi.

    Còn lại hai cô kia và Hòa là người cuối cùng đứng giữa khán đài rộng mênh mông. Giờ phút quyết định quan trọng đã đến. Cuộc đời Hiếu Hòa dường như thăng hoa, từ khi đại diện ban giám khảo đội vương miện lên đầu, cổ quàng hoa tươi, băng trôn đeo hàng chữ Hoa Hậu Cây Muà Xuân Chiến Sĩ. Giải thưởng là chiếc xe đạp đầm Pháp, model mới nhứt, màu xanh. Bó hoa liz cầm tay, năm ngàn đồng tiền mặt, do Đại Tá Lâm Văn Phát trao tận tay. Số tiền khá lớn, (khi lương lính bấy giờ một tháng chỉ có 1.200$).

    Ôi! Tuyệt vời xiết bao! Lòng hân hoan vui vẻ kinh khủng, Hoà mừng rỡ không thể tả nỗi. Mọi người ùa đến chúc mừng, bất kể lạ hay quen, họ chen lấn nhau đứng bên nhỏ xin chụp ảnh chung. Chị Huyền, các cháu và mấy bạn quen phải nhảy lên sân khấu đứng gần Hòa, đưa hai tay ra che chắn bớt số người ngưỡng mộ, chen lấn quá đông. Trái tim cô bừng sống, bay lên tận mây xanh, Hòa cười liên miên, vui mừng, luôn miệng nói cảm ơn mọi người đã gởi đến Hoà lời ưu ái chúc tụng nồng nhiệt. Ồ! Định mệnh đã đưa đến tay mình những cao qúy tươi đẹp nhứt trong đời tưởng không bao giờ với tới, chạm tới đáy hạnh phúc. Không có ngôn ngữ nào có thể diễn đạt hết tâm tư Hoà mừng vui cuống quít kinh khủng. Thì ra ông Trời rất nhân hậu, từ ái, có chừa cho cô một kẽ hở vô cùng niềm nở, tuyệt vời, trân qúy, thân yêu nhứt đó mà. Hoà không biết để tri ân mà tạ ơn Ngài.

    Hòa háo hức nhón gót nhìn quanh, cố ý tìm kiếm xem trong số khán giả đông đúc còn ngồi dưới khán đài, có "ai quen" lẫn lộn ở đó thì... vui vẻ, hãnh diện, tự hào biết bao. Quả thật, “chàng trai sơ giao” ấy đã đến chúc mừng vinh quang “bè bạn”. Lần đầu tiên, bây giờ Hòa mới có dịp nhìn kỹ anh trong bộ quân phục đại lễ mùa Đông oai hùng. Ah! Thì ra anh là lính ở văn phòng, coi anh thật lạ hơn mọi lần, chứ không phải thư sinh bạch diện như cô đã nghĩ lầm! Bảng mica màu xanh gắn trên túi áo, mang tên: Toàn Thắng. Hai bên cầu vai đỏ có một bông mai vàng lấp lánh dưới ánh đèn, tay anh cầm chiếc mũ casket. Bây giờ nhìn anh quân nhân trẻ, mũ mão cân đai chỉnh tề, oai vệ, Thắng đứng nói chuyện bên mấy người quen mặc cevil, Hòa thấy họ khác lạ như hai thái cực tách rời, chênh lệch nhau quá. Thắng gật đầu chào Hoà, cười thân ái:
    - Thân chào Hiếu Hoà. Ngồi làm khán giả, anh nghĩ thể nào em cũng đạt được ngôi vị cao nhất. Anh rất hân hạnh chúc mừng Hòa nha.
    - Cảm ơn anh. Không ngờ anh có mặt ở đây, và là... một sĩ quan.
    - Như anh, có ngờ đâu anh quen biết với một hoa hậu kìa.
    - Ban giám khảo thấy em tội nghiệp, sắp mít ướt tới nơi. Họ cho lầm.
    - Ấy. Ở đời muôn sự đều giả dối, và nhầm lẫn. Chỉ có sự thật mới đáng qúy trọng. Dù ở cảnh ngộ nào, anh cũng thích tôn trọng sự thật hơn.
    - Điều đó quý lắm chớ.
    - Là thế. Mong em giữ mãi niềm vui, hạnh phúc ngọt ngào như hôm nay nha.
    - Hòa cảm ơn anh nhiều.

    Thắng nhìn Hòa cười thân ái. Thoáng giờ phút rực rỡ huy hoàng nhứt đời mình đã để lại trong lòng cô tuyệt phẩm cao đẹp với cuộc đời. Hòa lâng lâng, xúc động, ngất ngây niềm vui bất ngờ khi bỗng nhiên mình được thành công chói sáng, hiển đạt không dám mơ. Tim Hòa rung lên từng hồi theo nhịp đập trong lồng ngực cuồng quay, muốn hụt hơi, khiến cô hoa mắt, môi luôn nở nụ cười toại nguyện. Tạ ơn Chúa! Ngài đã ban cho mình đặc ân tốt lành. Có điều thực tế nhứt là từ nay, cô có thể ngẩng mặt với đời chút xí, phụ chị ít tiền cho gia đình chị bớt khó khăn (sau ngày cháu bé con anh chị vừa mất). Xin cám ơn Đời đãi ngộ. Cám ơn sự ưu ái nồng nhiệt vô vàn của khán giả. Cám ơn ban tổ chức cho mở cuộc thi. Cám ơn ban giám-khảo và Sư-đoàn 2 Bộ Binh. Cám ơn gia đình chị Sáu Huyền, các cháu Châu, Trân, Vân, Sơn, & bạn hữu thân quen rất nhiều.

    Trên đường về, ngoài số khán giả ngưỡng mộ đông đúc, đông rất đông đi theo, còn có anh em Trịnh Trần, Mai Nương, Thu Tuyền, Lan, Ngọc, đã đưa chị em Hiếu Hòa từ bến Sơn Trà, lên phà qua sông về đến tận ngỏ nhà. Đêm bây giờ tuyệt đẹp, đêm không u sầu không hoang liêu, đêm không ủ dột không lo âu, không còn hãi hùng đau thương do chiến tranh tàn phá, không phải đói khát nhường cơm chia áo cho nhau. Đêm không đơn điệu, mà là đêm đầy tuyệt vời. Đại lộ Phan Chu Trinh nở ra dưới đêm đầy sao lấp lánh, huyền diệu trên bến Ngân Hà. Dù không có Thắng tiễn đưa Hòa về nhà như mọi ngày từ tháng Chạp vừa qua. Anh phải ở lại trực trong Sư Đoàn 2. Không có "anh". Nhưng, đêm càng về khuya, càng thơ mộng và tuyệt diệu dường bao! Đúng lúc đời Hoà lên hương, Thắng tới sân khấu ghi tặng Hòa bài thơ:
    “Dạ thưa!” người con gái khá ngoan hiền.
    Tóc thề dáng nhỏ nón lá chao nghiêng.
    Gió sớm khuya chiều viền quanh môi thắm.
    E ấp ngập ngừng đồng tâm bẽn lẽn.

    Khao khát trao em tình mến thầm hẹn.
    Ngày anh đi mây xám lén bên thềm!
    Cung đàn nhè nhẹ sáo diều êm êm.
    Chiều xuống xua bóng đêm vờn quanh núi.

    Tình tha phương với túi thơ ngậm ngùi…
    Bãng lãng gót son bụi bờ tư lự.
    Thơ người lữ thứ trao niềm an thư.
    Dẫu trăm năm xin nồng nhiệt tương tư.

    Mắt em nhìn là rung lên vạn ý,
    Môi chưa hé nhưng đã nói muôn lời.
    Gói tâm tư theo từng áng mây trôi.
    Tha thiết lắm. Ôi! Tình em gái nhỏ... (*)

    - Ố... ồ ô! Thì ra Hòa hân hạnh quen biết với một quân nhân thi sĩ! Vui lắm thay.
    ***


    Tình Hoài Hương
    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
    Trân trọng

    Last edited by Tinh Hoai Huong; 12-15-2020, 10:43 PM.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  • #2


    Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
    Phần Thứ Nhứt
    Chương 2


    Anh “Khanh Tướng Công Hầu” Vui Tính
    Tình Hoài Hương
    *


    Lúc vẩn vơ tần ngần nhìn đám mây trắng lâng lâng trôi trên bầu trời quang rạng, bị ngọn gió vô tình đưa mấy chiếc lá vàng bay về cuối góc đường xa xa, thì Hiếu Hòa quyết định chọn sống ở Đà Nẵng cùng với gia đình anh Thương chị Huyền và các cháu Châu, Trân, Vân, Sơn, Hải... Điều tất yếu là cô cần tìm hiểu sơ sơ qua đôi chút về phong tục tập quán nhân sinh, địa hình nơi ấy, ngỏ hầu hy vọng mình sớm vui vẻ hoà nhập vào một miền đất đối với riêng Hoà vừa lạ vừa mới.

    **Khi xưa “Liên Bang Đông Dương” Pháp ghi tên danh địa nầy là Tourane, thành lập từ năm 1888. Phác thảo sơ lược về Đà Nẵng, thì địa hình đa dạng tự tại an ngự ở trung bộ, hướng Tây và Nam giáp Tỉnh Quảng Nam. Bắc giáp Tỉnh Thừa Thiên, Đông giáp biển Đông. Đà Nẵng có các Quận: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hoành Sơn, Liên Chiểu, Hoà Vang & quần đảo Hoàng Sa. Tuy Đà Nẵng nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa khô và mùa mưa, nhiệt độ trung bình khoảng 30/o – 34o/C, nhưng không mấy oi bức ngột ngạt, vì có con sông Hàn Giang dài khoảng 7,2km chảy từ Nam lên Bắc thành phố, có biển Thanh Bình cách trung tâm thành phố chỉ vài km, & các biển Mỹ Khê, Tiên Sa, Nam, Non Nước, v.v… Thành phố bên nách sông Hàn và các biển không xa, nên Đà Nẵng có phần mát mẻ dịu êm vào mỗi sáng sớm, hoặc chiều về, đêm buông.

    Đà Nẵng thuận lợi về trục giao thông, tiện đường bộ trên quốc lộ 1A & đường xuyên Việt, quốc lộ 14B nối cảng biển với Tây Nguyên: đường biển, đường sắt, đường hàng không… đều là huyết mạch từ Đà Nẵng. Nói nôm na Đà Nẵng có thể coi như là “cái rốn trung độ” của miền Trung (nói riêng) và miền Nam Việt Nam (nói chung), vì nó nằm ở vị thế chính yếu quan trọng khi đối nội, điều phối trung tâm “cái rốn” với miền Trung, Tây Nguyên. v.v… Đối ngoại dễ dàng thiết lập đường bay với Manila, Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Phillippine, Thái Lan, Đài Loan… Đà Nẵng là một thương cảng tốt, là trung tâm có cửa ngỏ thương mại vô cùng quan trọng cho cả nước Việt Nam (lớn vào bậc nhứt ở các vùng Tỉnh phụ cận), cảng biển Tiên Sa sâu, (phi cảng Đà Nẵng đứng sau Tân Sơn Nhứt, vượt trội không thua kém Vũng Tàu, Nha Trang).

    Đà Nẵng là thành phố đẹp oai sang với những ngôi biệt thự xinh lịch & nhiều toà nhà tráng lệ từ thời Pháp thuộc bỏ lại. Ven ranh có đồi dốc quanh co ở Huyện Hòa Vang xen kẽ vùng đồng bằng trù phú. Núi Mang cao 1708m, núi Bà Nà 1487m, đèo Hải Vân cao 500m. Núi Chúa, núi Ngũ Hoành Sơn cao 106m. Núi non phóng khoáng nhìn xuống tứ phương. Biển Nam Ô xa thành phố 17km ở Phường Hoà Hiệp, hướng Tây Bắc. Biển Mỹ Khê xa thành phố 900m, không sâu, có phong cảnh êm đềm tĩnh mịch, cát trắng mịn, nước biển ấm với hàng dừa rũ bóng, đặc biệt nơi đây có nhiều rong câu chỉ vàng, rong câu chân vịt, có loại cá Chuồn làm gỏi trứng cá, thì ngon lắm. Có nhiều san hô đẹp. Biển Tiên Sa có bờ cát mịn ở phía Bắc Sơn Trà. Biển Non Nước bao la mênh mông nằm dọc ven chân núi Ngũ Hoành Sơn, có rặng phi lao ngày đêm lao xao theo tiếng rì rào sóng vỗ bờ trong thiên nhiên hữu tình. Biển Mỹ An xinh xinh nho nhỏ ở Quận Ngũ Hoành Sơn.

    Đà Nẵng có nhiều di tích, cảng sông Hàn Giang, Liên Chiểu, sông Túy Loan, sông Cu Đê… Nhà thờ, chùa chiền, am tự, v.v... di tích lịch sử dân tộc Chăm… (*) Tất cả những gì thuộc về Đà Nẵng đều độc đáo, thi vị, duyên dáng nét đặc thù nên thơ riêng! Nổi bật nhứt là các doanh trại… trong số đó có Sư Đoàn 2 Bộ Binh (2nd Infantry Division) được thành lập vào ngày 03 tháng 11 năm 1953 tại Mỹ Côi, Ninh Bình (là Liên Đoàn 32 lưu động cuả quân đội Liên Hiệp Pháp. Sau đó Pháp bàn giao lại cho ông Tôn Thất Đính, đổi tên thành Sư-đoàn 2 Dã Chiến).

    Khi nền Đệ Nhứt Cộng Hòa thành lập, thì lúc đó ông Tôn Thất Đính (đã thăng lên Đại-tá) bàn giao Sư-đoàn cho Trung-tá Đặng Văn Sơn ngày 22-11-1956. Ngày 1-12-1957 thì Trung-tá Lê Quang Trọng đảm nhiệm Tư Lệnh Sư-đoàn. Ngày 1-12-1958, Bộ-tư-lệnh Sư-đoàn 2 đã chính thức đổi tên thành Sư-đoàn II Bộ Binh VNCH, là một trong ba đơn vị Chủ Lực Quân, trực thuộc Quân-đoàn I và Quân-khu 1 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sư đoàn 2 được tuyên dương công trạng, nhận lãnh giây biểu chương màu tam hợp trên quân kỳ Sư đoàn. Hiện nay Sư-đoàn 2 Bộ-binh đặt bộ chỉ huy chính ở bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Tư-lệnh Sư-đoàn 2 Bộ Binh do Đại-tá Lâm Văn Phát đảm trách từ tháng 6-1961. Tại nơi nầy, Hiếu Hòa hân hạnh quen thêm các anh khác, (bạn của Thắng). Họ đã:
    Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái,
    Cái công danh là cái nợ nần.
    Nặng nề thay hai chữ “quân thân”,
    Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ.
    Cũng rắp điền viên vui tuế nguyệt,
    Trót đem thân thế hẹn tang bồng.
    Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung,
    Hết bốn chữ “trinh trung báo quốc”.
    Nghiêng mình những vì dân vì nước,
    Túi kinh luân từ trước để về sau.
    Nghìn thu một tiếng công hầu. (1)
    ***
    Thắng hiên ngang oai hùng đẹp trai trong bộ quân phục màu vàng ka ki, cà vạt đen, găng tay trắng, mũ két cầm tay, giày đen, dây biểu chương tam hợp móc bên trái, gù vai đỏ. Anh đến nhà đón Hiếu Hòa đi dự lễ mừng Quân Lực VNCH đã chiến thắng, diệt tàn quân việt cộng phương Bắc lẽn vô quậy phá miền Nam, trận đánh diễn ra ác liệt tại vùng Tiên Phước, Trà My. (Đà Nẵng, Quảng Nam). Đây cũng là dịp chào đón các thượng khách. Không phải là chờ xem buổi đại lễ long trọng, mà cô cùng dân chúng dám bất bình la ó om sòm, khi trải qua hơn ba giờ chầu chực mỏi mệt, khó chịu dưới ánh mặt trời nắng chang chang. Thì thật là hỗn láo, kỳ thị và bất công!

    Nhứt là có ông Mỹ tên Timothy làm trưởng đoàn cố vấn, Đại tá Tư Lệnh là cố vấn William làm quan khách ngoại quốc danh dự đầu tiên của phái đoàn ngoại quốc đến Việt Nam, được ông Tỉnh-thị Trưởng kiêm Tiểu-khu Trưởng (lo hành chánh và quân sự), đích thân mời họ tham dự lễ. Sau buổi lễ sẽ thết đãi tiệc tùng ở đại sãnh Tỉnh Trưởng Đà Nẵng. Hầu thực hiện việc yểm trợ, tiếp liệu các nhu yếu của Mỹ Quốc Viện Trợ, trong việc thực hiện chương trình tay bắt tay hoà hảo mật thiết. Cờ Mỹ năm mươi ngôi sao lấp lánh, có mười ba sọc gồm sáu trắng bảy đỏ, nền xanh biển in trên hầu hết các nhu yếu phẩm từ Mỹ chuyển về xứ ta.

    Đó là những kinh viện và quân viện -một nhu cầu chính trị khôn khéo, để thực hiện giai đoạn “hoà hảo thân thiện” then chốt đầu tiên- Mỹ giàu thật! Họ đã bay đi viện trợ khắp bốn phương trời! Kể cả nước nghèo và chậm tiến ở mút bên bờ đại dương xa lắc xa lơ nầy, cũng được Mỹ ưu ái đặt mắt nhìn ngắm đến. Không hiểu họ có muốn từ tâm giúp đỡ, nghiên cứu, dòm ngó đổi chác gì tới xứ Việt Nam, hay không kỳ vọng mơ tưởng mảy may... mà họ chỉ muốn… “bác ái nhân đạo độ lượng” hào phóng cho đi tất cả (?!).

    Tự dưng Thắng cúi xuống gần Hòa, anh thì thầm:
    - Hẳn là em có xem phim “Midway” đang chiếu ở đây rồi, phải không nhỉ? Phim ghi lại cuộc hải chiến giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ ở trận “Battle of Midway” trong Thế Chiến Thứ Hai, thì Đô Đốc Hải Quân (của Nhật Bản Yamamoto), khi đoàn quân thắng trận ở Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), ông phán một câu xanh dờn:
    - Tôi lo sợ những gì chúng ta đã làm, là đánh thức một gã khổng lồ đang ngủ, và trao cho ông ấy một ý chí khủng khiếp. (nguyên nghĩa tiếng Anh: I fear all we have done is to awaken a sleeping giant and fill him with a terrible resolve). (!!!, ???). Có bài thơ rất hay:
    Anh đến nước tôi không có đại bác nổ ì xèo.
    Nhưng lại được lòng dân tôi ngưỡng mộ.
    Người ta hơn thua chính là ở chỗ đó.
    Đâu phải là những lời giả dối tung hô.
    Tôi với huynh cách nhau nữa quả địa cầu.
    Mà khoái nhau, mới… “mời nhau vài xị”.
    . . .
    Người ở lại, người về nước Mỹ.
    Huynh lo chuyện năm châu, tôi vỗ bụng ngang tàn.
    Uống cạn ly nầy cho thỏa tình tri kỷ.
    Dù kẻ uy vũ lệch trời, kẻ áo rách lang thang.
    Rồi huynh về sẽ làm người tử tế.
    Tôi về đâu hoang lạnh nước non hời.
    Huynh vẫn trên môi nụ cười thân ái.
    Tôi có vui buồn... thì cũng thế mà thôi. (2)

    Các vị hành pháp, tư pháp (“mũ mão cân đai” chỉnh tề) đi sau vị chủ toạ, những “ôn” quyền uy bệ vệ đủng đỉnh lên khán đài chính. Quý phu-quân kiêu hùng oai dũng hiên ngang với chiến thắng tài danh lẫy lừng, đã đành thế! Nhưng kèm bên qúy phu nhân thủng thỉnh kiêu sa, đài các qua mái tóc búi quá cao đã làm kỹ ở ngoài tiệm, quần là áo lụa chưng diện sang trọng rực rỡ và thơm tho, theo mốt cổ áo hở toẹt vai, toác hoác xề xệ như mốt bà Nhu, cốt yếu khoe yết hầu đeo kim cương bự sư, cổ xệ xệ tới gần hai đường khe của bộ ngực thổn thện đung đưa, là dịp để quý bà phô trương thân hình úc núc giàu bơ sữa, khoe vòng vàng rườm rà từng xâu, lủng lẳng từng chùm sáng chói.

    Qúy phu nhân không là gì ngoài dựa hơi hám vai vế chồng, một bước bà ta nhảy tót lên sàng danh vọng, bộ mặt họ vênh váo tô trét phấn son diêm dúa dày cui, theo “mốt thời trang giàu có” mấy bả ưỡn cặp vú bơm silicon, có bà sữa mắt hai mí đã lồi và trợn lên như mắt ếch, mũi hếch độn nòng không khéo, nên coi lộ liễu, lại bơm thừ lừ “cằm đôi môi chẽ” trề ra quá lố, mỗi khi họ nói cười hoặc ăn uống thiệt dị hợm. Họ dương dương tự đắt nhoi nhoi lắc lư cái đít sung túc béo bở phì nhiêu lên... coi "khêu gợi, khiêu khích"... sự dật dờ lả lơi thèm khát mấy gã xồn xồn "biết nhiu" mà kể!!! thì bố ai chịu cho nỗi, hỡi quý phu nhân ui! Mặc sức cho đám phu phen, dân ngu khu đen (như Hạnh mà cũng... đứng dưới khán đài nầy há hốc miệng ngẩn ngơ, ngẩn tò te thèm, thộn ra nhìn quý bà chằm chằm; dòm thiệt đã con mắt quá đi).

    Các "ôn thần" dưới nầy chớp chớp mắt lia chia nhìn suốt từ trên xuống bộ quần áo mỏng dính; như kỳ lân đá ngày đêm nhìn trời nhìn hiu quạnh, không chớp mắt. Khán giả đứng chầu tha hồ lỏ trăm ngàn con mắt nhìn lên "quý mệ" xì xào chỉ chỏ. Ôi thôi… họ bàn tán lộ liễu, trắng trợn và bất lịch sự quá chừng, lấn át tiếng người xướng ngôn viên gào lên trong máy phóng thanh 100 watl đặt trên nhiều cột điện cao thế. Hoà cũng không trách đám “phu phen bình dân giáo dục như mình” làm chi, bởi vì ai ai cũng được coi chùa, tội gì không ngó, có mà ngu! Thì cứ tha hồ dòm cho đã... các nơi! Khi quốc thiều và quốc kỳ kéo lên, họ mới chịu im lặng đứng yên.
    Riêng đám dân gian mãi lo đứng thộn ra ngắm cặp vú trái bưởi ưỡn ra trước, cặp mông diêu nhô phía sau như cái thúng úp vô đít, thì dân gian cũng có vài ba nơi vỗ tay vang lên lẻ tẻ đấy, nhưng quá rời rạc, lổng chổng. Họ vỗ tay không nhiệt tình hưởng ứng, mà do “bổn phận, miễn cưỡng” của kẻ thấp cổ bé họng, thì đúng hơn. Buổi lễ long trọng càng kéo dài giống như bất cứ buổi lễ nào khác.

    Gió lộng xô đầu bù tóc rối, áo quần ai nấy đều bám bụi vàng, mặt mày bơ phờ mệt mỏi hốc hác; đồng bào chán ngán thở phào, như trút xong gánh nặng đè vai, họ vội vã về trên các ngả đường nghẹt cứng ứ nghẽn người tất bật lo chạy ngược xuôi kiếm sống. Tiện cùng trên một đường đi, nên Thắng mời Hòa rẽ qua nhà anh cho biết. Thắng ở chung với ba anh bạn độc thân vui tính (và một anh vừa cưới vợ, vợ còn ở xa). Căn nhà thuê bao đủ tiện nghi, vui vẻ đầy tiếng cười rộn rã. Thảo nào ngày cuối năm ngoái hai anh ấy đi sắm đồ dùng cho bạn: thứ gì cũng có năm màu sắc phân biệt khác nhau, (mà lúc ấy Hòa nghĩ là hai ông khách nầy ưa làm đỏm, chải chuốt mà khó tính).

    Họ đang bàn tán về lần đảo chánh thứ nhứt ngày 11-11-1960, do Đại-Tá Nguyễn Chánh Thi, Chỉ-Huy-Trưởng Nhảy Dù + Trung-Tá Nguyễn Triệu Hồng, Vương Văn Đông, các Thiếu-Tá Phan Trọng Chinh, Phạm Văn Liễu, Đại-Úy Phan Lạc Tuyên, Bác-Sĩ Phan Quang Đán... Lần thứ nhì gần nhứt do hai phi công Việt Nam: Trung-úy Phạm Phú Quốc và Thiếu-úy Nguyễn Văn Cử đã ném bom bắn cháy dinh Độc Lập vào hôm 27 tháng 2 năm l962. Một quả bom không nổ rơi trúng phòng đọc sách của Tổng-thống Diệm, khi cụ đang ngồi đọc sách, thế mà tổng thống chả việc gì. Bà Nhu bị gãy một cánh tay. Một quả bom khác rơi ra ngoài sân dinh. Một lúc sau phòng-không mới bắn trả lên. Phi cơ ông Quốc bị trúng đạn, ông nhảy dù ra rớt xuống Nhà Bè. Ông Quốc bị bắt tại trận và vô tù. Còn ông Cử bay mút qua bên Nam Vang, nhưng dân chúng bàn tán: ổng cũng bị chính phủ ở bển bắt nhốt vô tù rùi!

    Chuyện dội bom gây xôn xao, rúng động dư luận trong nước và ngoại quốc, ảnh hưởng khá nhiều về mặt chính trị, ngoại giao, kinh tế, nhứt là đời sống dân cư đang an lành; bỗng chốc ngơ ngáo kinh dị bàng hoàng thêm. Chả hiểu vì sao!? Gia đình Ngô Tổng Thống phải dời sang dinh Gia Long an vị, chờ kiến thiết lại. Bản vẽ dinh Độc Lập sẽ tu chỉnh, do đồ án của kiến trúc sư đô thị gia Ngô Viết Thụ, người đã đoạt giải Khôi Nguyên La Mã đảm nhận. Thắng chua chát nghĩ thầm: “Bại binh chi tướng bất khả ngôn dũng. Vong quốc chi đại phu bất khả ngôn trí”. Có nghĩa là: “Làm tướng mà thua trận, thì đừng nói những câu có vẻ anh dũng. Làm quan mà bị mất nước, thì đừng nói những câu ra vẻ tài trí”.

    Thấy Thắng về với bạn, họ tế nhị chuyển đề tài, niềm nở tiếp chào Hòa. Sau khi giới thiệu cô với bạn hữu ở chung nhà, Thắng tươi cười nói:
    - Mời em ngồi, anh vào thay bộ quần áo nặng nề nầy, rồi ra ngay. Xin lỗi em!
    - Dạ vâng, anh cứ tự nhiên.

    Bốn anh còn độc thân, có anh Lê Tiến là đỉnh đạt về tuổi tác cũng như binh nghiệp: Thiếu tá Nhảy Dù, ba mươi hai tuổi, tuy thế Hòa trông anh còn nét trẻ trung, vui tính. Anh Đào Ngũ Quang, hai mươi bảy tuổi: Thiếu úy Hải-quân. Kế đến là Thiếu úy Đinh Toàn Thắng hai mươi tuổi, Bộ-binh. Anh Vương Quốc Tùng: Trung-úy Y sĩ Quân Y vừa có gia đình. Sau rốt anh Nguyễn Kháng Chiến: Đại úy Biệt Động Quân:
    Anh chỉ là quân nhân Biệt Động
    Đang thi hành "diệt Cộng an dân"
    Nhọc nhằn nguy hiểm bội phần
    Mưa bom lưới đạn xả thân diệt thù (3)

    Anh Tiến nhìn Hòa nháy mắt, để trêu chọc anh Tùng:
    - Hiếu Hòa biết không! Anh thích làm nghề mỗ tim gan phèo phổi. Không phải như bác sĩ Tùng. Mà anh í hả! anh thích mỗ thịt bò, heo, ngựa, thịt dê... cơ!
    - Để làm gì cha nội?
    - Lấy tim, bao tử, ruột non, ruột già làm phá lấu. Ăn ngon nhứt nhĩ à nha.
    - Ngưởi thì hôi, nhìn lại ghê quá.
    - Ấy. Sao toa nóng quá vậy, hở Quang? Để yên moa nói tiếp nào. Chưa gì nó đã nhảy phóc dô miệng mình. Còn hứng thú đâu mà kể chuyện tiếp. Moa không thèm nói, thì Quang có bổn-phận-sự, trách-nhiệm-vụ trình bày cho các bạn nghe: Tại sao toa đi lính!? Sao mỗi lần nhận thư nhà, là toa khóc ré lên thế?

    Quang (Quang là người đã chở Thắng đi mua sắm Tết, mà Hòa biết mặt) pha ly chanh đá bưng ra mời cô. Ngồi trên ghế nệm, anh tủm tỉm cười đùa:
    - Á à a! Chả vì lúc đó tôi lười học, ăn chơi lêu lổng, hoang đàng chi điạ, đếch có tấm bằng nào, dù tuổi mình cao cao, vẫn ưa ở nhà bu theo bố mẹ. Tôi trốn chui trốn nhủi như con dế mèn trong cái lu dấu kín nơi góc phòng tối, để luyện "tịch tà kiếm phổ", coi thật chẳng giống con giáp nào. Bao giờ đói, tôi kêu inh ỏi re re ré… Đã bảo là con dế mèn mà không re ré sao nhỉ? Thế là có người nhà bưng cơm canh hầu tận chỗ. Đã nhe. Ngon lành nhe. Le lói nhe. Mẹ kiếp! Tôi chả trốn được bao lâu, thì cảnh sát đến nhà lục soát. Họ nắm tóc lôi giật lên, mang tôi về đồn bót. Họ hỏi cung tới tấp:
    - Anh có yêu đồng bào, yêu gia đình không?
    - Yêu.
    - Yêu lính tráng không?
    - Có.
    - Anh sẵn sàng đoàn kết, hy sinh không?
    - Rất sẵn sàng.
    - Hãy chuẩn bị đi lính.
    - Không.
    - Tại sao? Anh nói rằng: anh yêu nước. Anh sẵn sàng hy sinh mà?
    - ... Tôi lỡ dại vãi vào đấy bao nhiêu nước ...tiểu, khiến tôi thân bại danh liệt rồi. Ngài coi tôi bước đi nè: có phải một chân là dấu chấm, một chân chấm phết, lê lết, te tua, tàn tạ, tiều tụy, tả tơi thối tha từ tiểu tiện, hay không hì.
    - Đừng có gà mờ, ấm ớ hội tề mí tôi, không được đa. Tôi hỏi anh có yêu "Nước" không?
    - Nước?
    - Chữ Nước viết hoa. Có nghĩa là Tổ Quốc. Đất Nước. Quê Hương, chớ không phải là nước uống hay nước đái. Anh nghe ra chưa?

    Lỡ vênh váo rồi, tôi cho tới luôn, tiến lên, dọt lên, hứng lên, chứ có gì mà sợ! mà rét… mà run hì! Có sức chơi, thì có sức chịu, cứ liệu mà chơi:
    - Ô! Ông nói nghe hay đáo để! Tôi mà không yêu Nước à!
    - Anh nầy giỏi quá ta.
    - Có điều tôi chán ghét gây thù hận, giết chóc, máu huyết thổ ra có vòi, coi chóng mặt kinh hồn lắm. Tôi không thích tham dự. Thế thôi.
    - Bây giờ, tôi mời anh đi.
    - Đi đâu?
    - Đi lính.
    - Đi thì đi. Chứ sợ gì ai!
    - Họ nghĩ tôi ngông cuồng, hay thần kinh bất ổn bấn loạn, khùng điên gì đó, nên anh kia cho ngay con số tám vô hai cườm tay tôi, kêu cái cộp. Ui cha ơi đau điếng thấy tới tổ tiên ông bà vãi, khiến tôi tỉnh hẳn người. Bố kiếp! Thiên la địa võng ơi, phen nầy mình hết giả đò thương tật, chân không cần đi điệu tango, bì bộp, cha cha cha... nhún nhảy nữa rồi. Cũng may là họ chưa tống cổ tôi vô nhà thương Biên Hoà, nếu bị chích vài mũi thuốc, chắc tôi ngoẽo thì chết cha đời trai!

    Lúc ấy tôi hơn cả Đường Minh Hoàng bên Tàu, hơn Gia Long, Tự Đức bên ta. Tại sao nà!? Giờ ăn cơm tù có người đem tận chỗ. Giờ đi cầu có lính ôm súng gác lom lom dòm tôi. Nếu họ không dòm, lỡ tôi trốn chui trốn nhũi như con nòng nọc lặn sâu tít xuống hồ, thì sao! Giờ ngủ có lính đổi canh. Do tôi nghĩ: “The world is a dangerous place to live, not because of the people who are evil but because of the people who don’t do anything about it”. [Thế giới là nơi nguy hiểm để sống, không phải chỉ vì bọn cùng cực hung ác, mà còn vì những người ù lì, không làm bất cứ một điều gì, để trừ khử cái ác ấy. Albert Einstein (1879-1955)]
    - Đó chính là Đào Ngũ Quang, mà bố mẹ ưu ái đặt tên cho ta. Ah! Nè các bạn! “ngũ quang” là có năm con đường tươi sáng rạng rỡ í. Cơ khổ! vì cái họ tôi trót lỡ là “Đào” chả hiểu sao ông cụ lẩm cà lẩm cẩm, đặt ngay tên đệm là “Ngũ”; thành thử vô tình tôi trở thành tên “đào ngũ”. Cha chả! nó ám ảnh tôi triền miên cho tới ngày ra khỏi lu, là tôi ngậm ngùi ca “những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt...” Ấy mà sau nầy tôi đi lính, thì nghiêm trang, đàng hoàng, sự thực “ta” đếch cần đào ngũ nhe, lẽ là tôi rất yêu mến đồng đội, đoàn kết chiến đấu, một lòng trung quân ái quốc. Tôi mong thăng cấp như thằng Chiến, bạn nối khố nè:
    Có những lúc muốn vá trời lấp biển
    Vác kiếm qua sông dựng lại ngọn cờ
    Ngày tháng qua rồi… cả một đời ta
    Nợ áo cơm vướng vai từng thân phận
    Một đời người qua vội có gì đâu?
    Dẫu ngàn năm không vơi được nỗi sầu… (4)

    - Còn về việc khóc hu hu, thì đơn giản thôi, tôi đa tình, lãng mạn, nhớ quê hương, nhớ bố mẹ anh em, và da diết yêu cô bồ nho nhỏ ở phương xa. Tôi không được khóc đấy phổng? Nè bạn, muốn thoát ra khỏi những đau thương dằn vặt dày vò trong quá khứ, khi không có cách nào che chắn lại dĩ vãng buồn đau, thì ta phải cố gắng vượt qua rất nhiều đợt huấn luyện, thế là thân và tình cũng mềm ra, tôi nghiền ngẫm, suy nghĩ, thẩm thấu soi rọi một trong năm ba dữ kiện và sự kiện, mà mình từng nếm trải, cùng những chia sẻ ngọt bùi đắng cay và thân tình ấm áp trong cuộc sống, thì... phải vậy thôi:
    Khi ta đi lật qua trang sử mới
    Đau khổ nhục nhằn trút xuống anh em
    Luận anh hùng đâu dựa theo thành bại
    Sao người về treo kiếm khóc rưng rưng? (4)

    Họ cười ha ha, hả hả, hí hí, khà… Quang muốn nhảy dựng lên chơi giựt nổi với đời, anh muốn mình là cái đinh, là cái rốn của vũ trụ. Anh thích lên mặt lấy hên dợt le xí, phừng phưng nổ những pha mê ly nghe ghê hồn từ Long An tới Long Bình, Long Biên, Long Hải, Long Đất, Long Thành, "Long Cuội ngồi gốc cây đa"... nếu không bùi tai, không đẹp mắt, không lé mắt, không dẹo chân ẹo người mà cười vang, thì không ăn tiền. Quang không nổi, thì đời trai kém vui đi. Lạ lùng thay, đến nay anh Quang: Thiếu úy Hải-quân đã thành nhân chi mỹ, anh đi lính và anh "sống dưới nước non" bồng bềnh nhiều ngày tháng, hơn anh ở trên bờ, (nay chắc anh nhớ cái lu nước, nên có phép về nhà ăn Tết chăng?) điều mà cô rất ngạc nhiên, tưởng anh chỉ lè phè là một võ biền, ai ngờ về mặt tri thức và giao tế, thì anh có miệng mồm nhanh nhẫu “đoãn”, Quang lịch lãm, hóm hỉnh thì khỏi nói rùi.

    Tùng chuyền gói thuốc Quân Tiếp Vụ đến các bạn, anh thở từng hơi thuốc vặt:
    - Quang chọc quê anh đó, khi uống rượu thì phải biết, hắn rất chì. Rượu xịn mà “vô mỏ, vô cơ”, ui đã điếu rồi, hắn nói hết sẫy. Hiếu Hòa, nếu em tin hắn, ắt có ngày em vô “ngũ tử” à nha.
    - Dạ. ảnh có tới "năm cửa tử", ai mà xớ rớ, thì dật dờ tiêu tùng, anh ha! Ảnh lém lắm.

    Trong phòng bỗng chốc lặng như tờ. Quang có cảm tưởng các bạn đang nghĩ về chuyện mình kể nửa đúng nửa sai. Quang biết hối hận về ngày cũ lêu lổng. Lẽ ra bây giờ ít ra anh là Đại-úy rồi. Thời buổi nầy không còn hàn sinh áo mão gánh gạo lên Tỉnh thi Hội, thi Đình. Người trai hôm nay phải có hoài bão, ý chí, lập trường, kiên cường, có lý tưởng cùng vốn kiến thức sâu rộng, để tự vươn lên với đời đích thực hơn. Thắng bước ra phòng trong bộ pirama màu kem viền sọc xanh, Hoà thấy anh trẻ trung tươi mát hơn khi anh mặc bộ quân phục, cô nhìn Thắng lại thấy anh giống một bạch diện thư sinh ngày ngày đi lượn phố Tết hôm nào. Thắng cười:
    - Trời ơi! Đoàn kết... kiểu thằng Quang á hả; đoàn kết là “đết còn” ấy.
    - Đừng có dốc tổ nghe. Ỷ ta đây “đẹp giai, con nhà ràu, học rỏi” ứ hử! Báo cho mà biết: cậu chịu đèn “đằng ấy da diết tới đâu" rồi, thì bảo!

    Ôi! anh Quang mập mờ lơ lửng lí lắc vu vơ… mà ngụ ý muốn “nhắc khéo ai” vậy cà? Những anh lính chiến phong sương nhuốm bụi trần, mỗi anh một cung cách: dí dỏm, duyên dáng, hóm hỉnh riêng… Họ hoan hỉ vui vẻ cười vang, thật trẻ trung hoà ái vô ngần, để tạm lãng quên những trách nhiệm và bổn phận của người lính trước binh đao khói lửa đang chờ đón. Đó là những hiền huynh vui tính trong thời loạn; mà cô có cảm tình nồng hậu & rất hân hạnh khi Hòa đã có một thời vàng son vinh dự từng thân quen quý anh. Dù cho “nếu Anh là...”
    Nếu anh: lính Nhảy-Dù.
    Em cố thành ưu tú.
    Sánh vai ta vui bước.
    Thủy-Quân mình nguyện ước.
    Nếu anh là Binh-Bộ,
    Ngao du giữa sông hồ.
    Ngát hương đời dịu ngọt.
    Pháo-Binh súng đề thơ.
    Trao về nhau tình mơ.
    Nếu anh là cánh buồm.
    Em làm áng mây trôi.
    Thiết Giáp vượt ngàn non.
    Nếu anh là Phi-công.
    Lả lướt trên thinh không.
    Em sẽ là nắng lụa.
    Đàn rung ngân phím loan
    Nếu anh lính Hải Quân.
    Em mơ mình nữ hoàng.
    Nối nhịp cầu tao ngộ.
    Tình yêu xuyên đại dương.
    Nếu anh gieo tình thương.
    Cùng chung một chí hướng.
    Em nguyện làm nữ tì.
    Hương trầm toả khói sương… (5)
    *
    Tình Hoài Hương


    Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.

    (1) Nguyễn Công Trứ
    (2) Phạm Hồng Thước
    (3) Trương Trọng Kiên
    (4) Đông Quyên
    (5) Tình Hoài Hương
    (*) trích đoạn nầy trong “Việt Nam Quê Hương Cẩm Tú" viết về Đà Nẵng, cùng tác giả).
    * Photo by Hoài Hương (cell phone)
    "Vùng núi đẫm sương mù"
    Last edited by Tinh Hoai Huong; 12-30-2020, 04:15 PM.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • #3
      Photo by Hoài Hương


      Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
      Phần Thứ Nhứt
      Chương 3


      Đường Trăng Tố Nữ
      Tình Hoài Hương
      *

      Hơi thuốc thơm thoang thoảng bay bay làn khói mỏng uốn éo vướng lên từ đôi mắt Thắng sáng ngời, khiến phòng khách be bé gọn gàng trong căn nhà nho nhỏ xinh xinh (của anh Thương chị Huyền) có vẻ thanh lịch dễ nhìn hơn. Thắng ngồi bên chiếc đàn guitar ung dung đánh vài điệu, trông anh phong lưu an hòa, khuôn mặt xinh trai bỏ lững tay đàn, Thắng ngẩng mặt liếc mắt nhìn về phiá Hiếu Hòa. Anh đá lông nheo kèm theo nụ cười tinh nghịch, cử chỉ anh hoà ái vui tươi.

      Cô nhìn sững chàng trai mỉm cười như bị thôi miên, cái nhìn không cho Thắng biết là sự vui tính, phong lưu, đẹp trai ấy... khiến cô ngẩn ngơ phút giây hoài cảm, e lệ chớp mắt, dường như Hòa muốn đáp lời thầm lặng và ngưỡng phục.
      - Hiếu Hòa biết bản nhạc nầy chứ?
      Cô giả vờ lắc đầu nhè nhẹ, để nghe anh nói:
      - Là “Thu Quyến Rũ”. Này nhé: Anh mong chờ Hiếu Hoà thương… Ấy chết!
      Thắng cười xinh xinh, anh ca tiếp: “Anh mong chờ mùa Thu. Trời đất kia ngã màu xanh xanh lơ. Đàn bướm kia đùa vui bên muôn hoa. Bên những bông hồng đẹp tươi. Anh mong chờ mùa Thu...” Hòa ơi! em quyến rũ anh rồi…

      Khóe mắt khắc khoải ưu sầu lóe sáng tia chớp, từng phiến u hoài rụng rơi, tim cô bừng lên niềm vui thích dịu dàng, bao tin yêu dấu ái dường như bừng sống dậy trong lòng. Giọng hát của Thắng trầm ấm, thu hút, truyền cảm, dịu vợi, đã khuấy động tâm hồn Hòa đã lắng đọng niềm khát khao nhớ thương, giống như con thiên nga khuấy đảo tưng bừng mặt nước đang yên ắng. Hòa thán phục và rụt rè trước mặt chàng trai, bởi vì anh khả ái, lịch lãm, vui tươi, lúc nào Thắng cũng lộ vẻ hân hoan, khiến anh thêm hồn nhiên vui vẻ, dễ thương lắm.
      - Cảm ơn anh đã gieo cho em niềm tin.
      - Hòa thiếu niềm tin từ buổi em đứng tư lự bên góc nhà thờ kìa.
      - Ồ! Hòa như vậy sao?
      - Bởi lẽ anh có tâm sự đau buồn gần gần như thế, nên thông cảm... do:
      Ta đứng lại moi tìm trong ký ức
      Kỷ niệm xưa dường đã chết trong lòng
      Đường Cổ Ngư những chiều tập xe đạp
      Nắng lung linh hàng cây đứng giao nhau
      Vườn Bách Thảo lang thang ôm cặp sách
      Hồn trắng tinh nào biết đợi ai đâu
      Phố Hàng Bột khu Văn Hương Tiểu-học
      Trái nhót xanh phấn trắng cả áo len
      Mùa Đông cũ run từng hơi gió bấc
      Vẫn còn nguyên sao ta mãi đi tìm (1)

      - Em thấy anh lạc quan, yêu đời quá mà.
      - Ấy! "Cười là tiếng khóc khô không lệ. Người ta cười những lúc quá chua cay", Hòa biết đấy. Có câu danh ngôn: “Giữa quá khứ đã trốn tránh ta. Tương lai mà ta mù tịt. Chỉ có hiện tại gồm các bổn phận của ta”. Thế thì bổn phận ta là vui vẻ, lạc quan, yêu đời, để tự vươn lên chứ em.
      - Dạ phải.
      - Hiếu Hòa ngoan lắm. Nhớ hôm trước đi lễ, anh đứng gần em cuối giáo đường, lo cầu nguyện, em chẳng biết anh nhìn em đăm đăm. Không ngờ em cùng đạo đấy.
      - Anh tếu thật, "tứ hải giai huynh đệ" mà anh.
      - À há! Quả thực anh vô duyên bỏ xừ! Đừng buồn anh, cô bé nha.
      - Ối dào. Hơi đâu buồn anh cho mệt.
      Thắng nghe Hòa nói “hơi đâu buồn anh”, thì đầu cô nghiêng nghiêng, mái tóc dài rung rinh, bờ môi lí lắc cong cong, mím mím, mỉm mỉm đong đưa. Anh thấy dễ mích lòng, dễ hờn nhau, và và... sao mà ngây ngất dễ thương... ghê nơi. Thắng cười:
      - Biết rồi. Chán ơi là chán.
      Tiếng xưa như rót về từng phiến u hoài ngân vang trong lòng Hòa, khi ngọn lửa tình nồng nhiệt cũ còn bí mật âm ỉ cháy; dĩ vãng xa xôi hiện ra như dòng sông phủ lớp sương mờ nhòa, bao chua xót như vỗ sóng âm thầm xô giạt làm nhăn mặt nước.
      - Xị mặt ra rồi hử em! Cấm không buồn à nha.
      - Dạ. Ông tướng ơi.
      Thắng lặng người mất vài giây, anh thân ái mỉm nụ cười có lúm đồng tiền duyên ơi là duyên, chiếc răng khểnh tinh nghịch lú ra khỏi vành môi phớt hồng, như trêu ghẹo cô. Móc đàn trên đinh treo, Thắng quay nhìn đám lá me bay bay ngoài khung cửa sổ hững hờ đáp nhẹ xuống bên bờ giếng. Chào chị em Hòa, Thắng lững thững đi về nhà.

      Sau kỳ thi và trở thành hoa hậu, thì Hiếu Hòa rất hân hoan được Đại-tá Lâm Văn Phát ký giấy mời cô vô làm việc tại Phòng 5, trụ sở tại Sơn Trà, (cùng Sư-đoàn với Thắng). Khi được mời, vì cô quá nhỏ tuổi, Hoà lại phải chạy tới nhà nhờ anh Thuận ở đường Đống Đa ký giấy đồng ý ưng thuận cho em đi làm việc). Trong Sư-đoàn nầy có Ban 1 là ban Quân số. Ban 2 là An-ninh. Ban 3 là Hành-quân. Ban 4 là Tiếp-vụ. Ban 5 là Tâm-lý-chiến. Thắng làm ở ban Quân-số.


      Vốn dĩ Thắng có quen biết sơ giao cô trước khi Hoà được thu nhận vô “đại gia đình huynh đệ chi binh”, do đó thân càng thân, vì đôi khi hai Ban ngành nầy cần bổ sung công việc cho nhau. Trong Ban 5 gồm có những anh, chị: Trung úy Lê Văn Phước làm Trưởng-phòng, quê quán anh Phước ở Huế, là một người hiền lành từ tâm và độ lượng, anh đã có vợ, hai con trai. Thượng-sĩ Cương nói giọng Bắc làm Trưởng-ban văn nghệ, anh có vợ, trai gái năm đứa con. Trung-sĩ Nhứt Thái có vợ đã bảy năm rồi không con, anh là Phó ban Văn-nghệ. Ban văn nghệ còn có sáu nữ và mười Nam.

      Năm cô làm chung với Hòa là: Lan Anh hai mươi ba tuổi, quê ở Tam Kỳ. Thu Hoa, Mai Hồng: hai mươi lăm tuổi, quê ở Quảng Nam. Thu Hương ba mươi bốn tuổi, có gia đình hai con, quê chị ở Đà Nẵng. Tuyết Ngọc nói giọng Bắc ở trong Sài Gòn ra, mười chín tuổi. Ngọc có cảm tình ngay khi thấy Hòa hiền như nai, con bé quá khờ khạo ở nhà quê thò vừa ra Tỉnh. Hiếu Hòa là em út nhỏ nhít của Sư Đoàn có chút xíu kiến thức căn bản, về kinh nghiệm, công việc, tài năng và tuổi đời, Hoà thua hẳn, thua xa đàn anh, đàn chị.

      Cha mẹ sanh thành, nưng niu con từ tấm bé không tiếc công, rứa mà tiếc chi tên cúng cơm của con, cha mẹ đặt tên cho hầu hết các cô cái tên dị hợm, khó nghe vậy hổng biết! Ở trong nhà hay ra ngoài ngỏ họ đã dấu nhẹm tên “Bẹn”, tên “Gái”, tên “Ệp”... tên “Mu”... quê xệ như mèo dấu cứt. Rứa mà mẹ cha vô tình cứ oang oang réo tên con quê mùa mục mịch! (ngoại trừ HH… là tên thật 100% à nhen). Thật khó chịu xấu hổ hết biết, mỗi khi có người nheo nhéo gọi, mắc cỡ muốn độn thổ. Các cô… khi đã ra trường đời thì tự ý cãi lời bố tổ, ông cha “hủ lậu”. Thôi thì ta tự đặt cho mình tên thật kêu, thật đẹp mê ly, thật hách, đầy hoa mỹ, du dương êm ái ngọt ngào, như mật rót vô môi. Lúc ai gọi tên em nghe bàng hoàng, thương nhớ đời ca sĩ đến rụng rời… đứt đuôi con nòng nọc!

      Hòa yêu màu tím, thế nên từ áo dài, áo lạnh, khăn quàng, bít tất, giày, đều tím “tông xuyệt tông”. Lên sân khấu diễn kịch, ca hát, Tuyết Ngọc làm giúp make up cho Hòa tô nhẹ mí mắt màu tim tím, môi son phơn phớt màu tím hoa cà. Trông Hòa lãng mạn, đa tình, mơ màng, và buồn rười rượi. Mọi công việc của Hòa đều do bạn chỉ dẫn giúp. Mặc dù Hòa vẫn biết: “chí lớn trong thiên hạ, không đựng đầy trong bầu rượu qúy. Không đựng đầy trong đôi mắt giai nhân”.


      Anh Thái là người tận tình hướng dẫn dặn dò Hòa:
      - Em nên chọn Tuyết Ngọc làm bạn.

      Ý kiến hay, Hòa suy nghĩ: có lẽ Ngọc sẽ là người bạn tốt: một thiếu nữ xuân-thì khá xinh đẹp, duyên dáng và tài hoa, là cháu họ xa xa xôi xôi của Đại Tá chi chi đó. Ngọc đi làm có tài xế đưa đi đón về, cuộc sống khá thoải mái về vật chất. Tuy về phương diện tinh thần thì Tuyết Ngọc có phần hạn hẹp, muốn bảo vệ uy danh cậu, cô phải đi thưa về trình. Khi cậu đi hành quân vắng nhà, thì Ngọc qua mặt mợ vù vù vì mối đa tình khá sôi nổi, lăng nhăng của cô. Có phải Ngọc là "nữ châm" không, mà cứ như cục “nam châm” hút trai trẻ hằng tá. Ngọc hay nhờ Hòa đến cổng nhà ông Tá bấm chuông, gởi lính mang tờ giấy giả: "giấy ở Phòng 5 mời đi họp khẩn", để Ngọc có cơ hội xin phép mợ cho mình vắng nhà xí. Sổ lồng rồi, Tuyết Ngọc tha hồ tung bay giữa bầu trời tự do, cô hẹn với bồ đi dạo phố, đi chơi, đi du hí thoải mái. Đôi lúc hai cô cậu xin ngồi nhờ ở nhà chị Thương, họ nói chuyện tâm tình suốt cả buổi. Nhờ thân thế cậu, nhờ ưu điểm khá xinh đẹp, hát hay nhứt trong đoàn, nên cô càng ở ngôi vị cao hơn anh chị em cùng phòng.
      Trong Ban 5 muốn chiều ý Ngọc, có thể họ không “khẩu phục tâm phục” về ý kiến ý cò của cô đúng. Nhưng chỉ vì muốn nịnh Ngọc, phòng xa, để họ khỏi bị đổi đi các vùng địa đầu giới tuyến nguy hiểm giữa lằn đạn mũi tên. Họ sợ việc làm của mình sẽ đến tai ông Tá, đôi khi Ngọc thêm mắm dặm muối, thì nguy to. Tuy nhiên Ngọc có tính tốt, cô không rảnh công đi mách chuyện đâu đâu có hại cho đồng nghiệp. Phải nói rằng cô có nhiều ưu điểm nổi bật làm mờ khuyết điểm “lả lướt” mà cô gái đẹp thường có. Để kết thúc bức tranh Tố Nữ, Trời còn ban cho Tuyết Ngọc có giọng ca oanh vàng rất hay, quá tuyệt vời làm say đắm biết bao người.

      Phòng 5 được lịnh đi công tác ngoài Quảng Ngãi xa Đà Nẵng 146km về hướng Bắc trên quốc lộ 1A. Một buổi tối khi trời sao lấp lánh trên không trung mờ mờ, sương núi thấp thoáng bay bay, từ trong khu đồn trú đóng quân chằn chịt hầm hào hố bom lỗ chỗ, các cô gái vô trình giấy xin ra cổng ở bản doanh, họ rủ nhau xuống chân đồi dưới làng ở bên góc cầu, để ăn bún bò Huế tại quán bà Tư. Khi họ đến lưng chừng khu đồi mang bí số 415 (mà Hòa đặt tên là ngọn đồi kia là “T, T2”, (có nghiã là “chị Tuyết, anh Trọng”). Kế sát con đường đất đỏ trong khu đồi nầy, có một nhà hầm to lớn chôn hai phần ba cây nhà ngập xuống lòng đất, một phần tường còn lại vây kín bao cát, chung quanh có vòng kẽm gai chằn chịt, có từng dãy giao thông hào nối với bộ chỉ huy. Hòa thấy người ra kẻ vô vội vàng, coi có vẻ khẩn thiết vội vã và im lặng. Tò mò các cô rủ nhau vô đó coi.

      Dưới ánh đèn điện vàng vọt tù mù hắt ra cửa, một cảnh tượng bi thương hãi hùng phơi bày: Trong phòng mùi hôi thối nồng nặc do máu mủ tanh chưa khô tỏa ra, mùi creostote, alcoln, mùi mồ hôi, mùi cỏ ẩm, mùi thuốc súng đâu đó bay ra khét lẹt, khiến khứu giác Hòa nghẹt thở. Hầm nầy có năm ghế bố, hai thương binh xài chung một ghế bố, người nằm xuôi kẻ nằm ngược. Họ rên xiết, quằn quại, co quắp, quắt queo với những vết thương lầy nhầy máu mủ lở loét. Có người tay chân quờ quạng, đôi mắt mở thao láo. Người băng tay, băng đầu, vân vân... Quá vào trong tí nữa là hai bác sĩ quân y, bốn y tá đang lo cấp cứu cho một thương binh bị đạn ghim vô ruột, thân hình anh ta bê bết máu, mắt lạc thần, mặt xanh lè, anh ta đau đớn gào lên, nghe rùng rợn kinh khủng.

      Hòa thấy Huyền Nữ, (cô y tá Trung-sĩ đã chính thức được áp triện son, con dấu có hàm ý phong cho cô: “ta đã vinh thăng, đừng có xớ rớ, đừng hòng lên mặt dạy đời, ta không chịu nỗi a nha”, mà các anh quân nhân thân ái đã âu yếm gọi ngược Nữ là: “Trung tá y sĩ Nữ quân-y cưng ui là cưng”)! Nữ thản nhiên cầm bàn chân đẫm máu (của một thương binh vừa bị cưa cụt), Nữ bọc cái chân ấy trong túi ni lông, cô liệng nó vô thùng đựng rác bằng sắt, nghe kêu khô khan một tiếng "đùng". Hòa rùng mình, cơn ớn lạnh từ đâu ập vô thân thể, chạy dọc theo sống lưng, vì chứng kiến máu tươi phọt ra, nghe, thấy sự đau đớn, rên siết não nuột của những thương binh như tiếng hú từ âm ty đưa về, rồi thấy Nữ liệng cái chân anh kia, Hòa đồng cảm ghi trọn ý niệm kinh hoàng tột đỉnh về cơn đau đớn kiếp người:
      Tôi trở lại cao nguyên miền sơn cước
      Đường mù sương đẫm ướt nửa tấm thân
      Kẻ một chân, lê nẻo bước phong trần
      Cánh tay phải cũng trọn dâng cho Tổ Quốc.
      Từ dạo ấy nỗi niềm dâng chất ngất
      Tây Nguyên buồn lất phất giọt Thu rơi
      Kiếp lang thang lạnh buốt giữa đất trời (2)

      Đến lúc này thì không thể nào chịu đựng nỗi cảnh khủng khiếp rùng rợn đó, Hòa rệu xuống ngất xỉu như trái mít ướt rụng, cô không còn biết ất giáp gì nữa. Ngọc hoảng hốt la lớn. Bác sĩ Quân-y, y-tá và mấy bạn vội chạy đến bên Hòa vực cô nằm ngay đơ lên một góc ghế bố, (do anh thương binh nhanh nhẹn nhổm dậy nhường chỗ). Bác sĩ khám bệnh cho Hòa xong, ông ta mỉm cười đi rửa tay, cô đã thoát khỏi cơn đột biến, không còn lo ngại về sức khỏe. Nhưng khi trở về lán trại, thì mấy nàng bị anh Phước la cho một tăng, anh cấm mấy cô nhóc không được la cà bén mãng xớ rớ tới những nơi ấy (nếu không có phép).
      * * *
      Đoàn 5 Sư Đoàn 2 đi hành quân một tháng, nay đang đóng quanh vùng Thị-xã Quảng Ngãi, nơi có các Huyện: Đức Phổ, Bình Sơn, Ba Tơ, Lý Sơn, Minh Long, Mộ Đức, Tư Hà, Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn Tây, Sơn Tịnh, Tây Hà, Trà Bồng. Từ Tiểu Khu Quảng Ngãi anh Phước sẽ phân phối đoàn đi công tác thêm mấy vùng lân cận như: Sa Huỳnh nằm ở cực Nam trên quốc lộ 1A, cách thành phố (Quảng Ngãi) 30km. Bờ biển sạch bãi cát thoai thoải mịn màng, nước trong xanh, đẹp, cùng những đụn muối trắng phau in hình trên nền trời xanh bát ngát, mênh mông. Ngày 16 tháng Ba thì nơi đây có Hội lớn ở đền thờ Cá Ông. Đầm nước ngọt trong vắt từ “đầm An Khê, cua Huỳnh Đế” nổi tiếng xứ Quảng.

      Rồi đoàn 5 sẽ đi Mộ Đức nằm ở phía Đông Nam (Quảng Ngãi), Đông giáp biển. Phiá Tây giáp Huyện Nghĩa Hành. Nam giáp Huyện Đức Phổ. Bắc giáp Huyện Tư Nghiã. Mộ Đức nằm kề quốc lộ 1A và 24, & đường xe lửa, đó là một đồng bằng trồng cây trái xanh tươi, ruộng lúa bạt ngàn trù phú, vì có phù sa sông Vệ & chi lưu sông Thoa chảy qua hướng Đông Nam. Mộ Đức có Xã, Thôn, (dễ nhận ra họ hàng, vì nơi nầy mang toàn họ “Đức”), như: Đức Quang, Đức Phụng, Đức Hải, Đức Hoài, Đức Thọ, Đức Lương, Đức Phước, Đức Vinh, Đức Thạch, Đức Sơn, Đức Thuận, Đức Mỹ. Mộ Đức có các núi: Đại Sơn, Văn Bân, Long Hồi, Long Phụng, Ông Đọ, Vom, Thụ, Giảng, Điệp.

      Cuối cùng, đoàn 5 đóng ở cận sông Trà Khúc, không lên Minh Long, các cô có bạn ở chốn giang đầu tha hồ nhớ nhung và bâng khuâng nha. Nhiều buổi tối ở Thị-xã, tất cả anh chị em vô ngủ nhờ trong Tiểu-khu cho an toàn. Hội Trường chứa khoảng vài ngàn người, lính tráng ở đâu về tạm dừng chân qua đêm nay đông kinh khủng. Hội trường có đòn dong, cột, kèo, vân vân... đều làm bằng nhiều cây sắt to, đây là nhà tiền chế Mỹ, rộng lớn, tứ bề che kín bằng những tấm bạt dày to từ trên nóc xuống nền nhà thay tường, bốn bề có lính gác cửa, (cửa ra vô bằng những tấm bạt có dây kéo từ trên xuống), nóc nhà lợp tôn xi măng, trong nhà tiền chế rất rộng lúc nào cũng hầm hập nóng, nên có gắn nhiều máy lạnh mát rượi.

      Những đêm di hành thường ăn bờ ngủ bụi luôn luôn, nay may mắn lắm mới có chỗ ngã lưng tốt thế nầy. Thật qúy hiếm. Mai Hồng, Thu Hương, Lan Anh, đã mau lẹ chiếm cái bàn rộng làm thành giường ngủ, coi thật thoải mái. Ba cô ấy mến thương nhau, giận hờn và xoi tì xoi tướng nhau một cách thân ái; giống như các chấp chính quan thời kỳ La Mã, hay triều đình vua Tự Đức vậy. Giăng mùng xong, Ngọc, Hòa chui vô một giường bố chiếc, đứa nằm xuôi, đứa nằm ngược cho đỡ chật, thì điện cúp. Hòa từ hồi còn nhỏ xíu đã ngủ riêng quen rồi, nay nằm ngủ chung với bạn chật như vậy, cô bị mất ngủ luôn. Hòa nhắm mắt dĩ tưởng về ngày qua, bỗng có ai nhẹ nâng tấm bạt lên, cô ngỡ là bạn nào tìm chỗ ngủ, nên nói:
      - Hết chỗ rồi, bạn ơi!
      Một lúc khá lâu, bàn tay kia nhẹ nhàng rờ xoa nhè nhẹ lên hai đầu gối cô thò ra quá nửa ghế bố. Tưởng con chó Xệ cuả anh Thái nó thích ngoạm mùng mền như mọi khi, cô lấy tay hất ra, liền bị bàn tay khô, sần sùi chai cứng kia chộp lấy, cùng tiếng thở hổn hển, phì phò gần sát bên tai mình, nghe rất dễ sợ. Hòa vùng mạnh tay hắn ra, thất thanh hét tướng lên:
      - Trời ơi! Ai làm cái gì đây?
      Sau tiếng hét kêu rất to nghe thiệt chát chúa ấy, thì bóng đen vén tấm bạt lên, hắn vụt chạy biến vô đêm tối mất dạng. Cả hội trường nhốn nháo vì tiếng la hét rít lên the thé và đột ngột, nghe rợn tóc gáy. Điện vụt sáng. Sau phút kinh ngạc, tiếng ồn ào lẫn trong tiếng cười nói đồng loạt lao nhao khắp nơi. Mấy cô gái sợ quá, nhảy dựng tót lên nơi bàn Thu Hương đã chiếm, họ dồn nhau ngồi chung một chỗ, không dám hó hé.


      Mặt Hòa tái xanh như nhuộm chàm, khiến các anh chị cùng ban ai nấy đã vén mùng lên hạ mùng xuống, không nhịn được cười. Quả thật, cô sợ bị “bắt vô bưng”! Tưởng tượng về bàn tay sần sùi kia, và trước khi ngủ các anh nói chuyện ma, chuyện qủy. Bây giờ bị một vố mất hồn mất vía, Hòa run rẩy sợ điếng người! Sao lại cười nhỉ! Không thể cười đâu. Dù bi chừ ở bốn góc nhà đều mở đèn ngủ mờ mờ, thế mà suốt đêm cô mở mắt tháo láo trừng trừng nhìn nóc mùng, mà run.

      Sáng sớm hôm sau đoàn Quân Tiếp Vụ lên Minh Long. Ngọc gởi theo anh tài xế Bốn mang cho Trọng, (bạn trai): gói trà, cà phê chồn, đường cát, hai cây thuốc lá Ruby Queen, bịch khô nai. Kèm theo mấy lời thăm hỏi viết trong tờ thư xinh xinh, cô gởi đến các anh chiến đấu ngoài sa trường ở chốn giang đầu chút tình người:
      Ai về em gởi bức thơ
      Hỏi người bạn cũ bây giờ ra sao?
      Non kia ai đắp mà cao
      Sông kia biển nọ ai đào mà sâu! (ca dao)

      Ngày thứ Bảy, Hoà & Ngọc đi làm xa, lúc chiều về trại, họ nghe anh Lân nói:
      - Có một thanh niên mặc thường phục đến tìm hai em đó.
      Ban đầu Ngọc nghĩ người đó là Chiêu, bạn trai thân thiết khác của cô, nhưng anh ấy có ra đây, thì phải mặc quân phục, chứ đâu có lè phè mặc đồ cevil? Còn Trọng? Chắc không thể. Vùng đó đang giao tranh dữ dội, làm gì có chuyện người binh thư nhàn nhã về dạo phố phường Quảng Ngãi? Tuyết Ngọc chợt nhớ lạ lùng bài ca: “Biệt Kinh Kỳ” của nhạc sĩ Lê Dinh, mà Đan, Trọng, người chiến sĩ gió sương can trường muôn dặm quan hà, có mái tóc sớm bạc màu nắng mưa khuya sớm. Họ đi giữa hai lằn đạn trong suốt tháng năm qua, trên vùng Mộ Đức, Sa Huỳnh, Nghĩa Phú, Tà Noát, Ba Tơ, có lần Trọng đã hát cho Ngọc nghe say sưa. Phải không hở Trọng: Hẳn anh không muốn làm chàng trai phong trần, vai đeo cung tên ngồi trên mình con tuấn mã, ruỗi dong ngàn dặm, để tìm hương cố nhân. Anh cũng không thích làm Quan Vân Trường râu dài, quắc thước, tính tình cương trực cỡi con xích thố, sử dụng cây thanh long đao tuyệt hảo. Anh càng không là chàng Kim Trọng tình si hào hoa phong nhã, say đắm nhan sắc Thúy Kiều. Mà anh là Trần Trung Trọng ở ngàn chốn sơn khê, nơi cuối núi đầu ghềnh xa tít tắp. Tay bạn luôn cầm súng dài, báng súng carbine M2, lưng cõng đầy đạn, lựu đạn, mặt nạ chống hơi ngạt có mắt kính lồi bằng nhựa đục. Phải không nà?

      Lúc trời dịu mát, năm cô gái rủ nhau đi pát phố Hai Bà Trưng, Phan Đình Phùng và Hai Bà Trưng, rồi đi dạo cảnh đồng quê. Cô nào cô nấy mặt hoa da phấn, môi thắm má hồng, áo quần xum xoe, xức nước hoa thoang thoảng mùi thơm. Các cô như năm con công lạc giữa đám gà vịt bát nháo. Người dân quê lam lũ một nắng hai sương, cần cù cày sâu cuốc bẫm ở đồng áng ruộng vườn, chưa khố rách áo ôm là điều đại phước. Ở đâu ra có thì giờ nhởn nhơ tung tăng trên đường nhựa với quần là áo lụa, nàng thôn nữ mộc mạc áo lận quần xăn bạc phếch màu gian khổ, họ ngại ngần kéo vành nón lá che nghiêng, dân quê chống cuốc ngẩn ngơ thộn ra đứng nhìn. Hai hình ảnh đó đối lập nhau, không phù hợp với thực tế chút nào, chẳng thích ứng với vùng trời nơi chiến tranh gay gắt diễn ra cách đó mươi cây số. Vậy thì các cô gái thị thành ỏng ẹo lượn lui lượn tới, để dợt le, lấy le với ai đây? Sao mà lố bịch quá!

      Các cô vội vàng trở về con phố chính. Ở đó, dẫu sao còn thấp thoáng khuôn mặt cư dân thị thành. Khoan khoái thả bước thong dong trên phố, mấy cô cùng nhau ngắm cửa tiệm chưng bày mỹ phẩm, giày mũ, áo quần, vân vân... Quảng Thành ngày nay đã mất dần dần nét mộc mạc hồn nhiên ngày trước, vì các quán ăn, phòng khiêu vũ đèn mờ, nhạc kích động đã mọc lên như nấm. Các tiệm buôn, nhà hàng, quán bar đều tập trung ở các đường phố: Quang Trung. Phan Bội Châu... Người Mỹ vừa đưa những tên lính Mỹ đến trên quê hương nghèo nàn, mang theo bầu sinh khí sôi nổi, ồn ào sống động, hội hè đình đám, phức tạp nhứt là ở các Snack bar mọc lên luôn náo nhiệt ồn ào tưng bừng trong thành phố.

      Không hiểu người ta đi đâu mà chen lấn chuyển động như kiến trên mặt nhựa nóng? Lòng phố xuất hiện những chàng lính Mỹ trắng, Mỹ đen, Đại Hàn, Tàu… lạ mắt đi lố nhố nghênh ngang trong lòng đại lộ. Tuy vậy, họ chấp hành luật pháp, khá sợ Quân Cảnh Mỹ luôn lái xe jeep đi rà soát quanh vùng. Ít khi Hòa thấy lính Mỹ hung hăng bạo động ở thời điểm nầy. Họ rất thích nói chuyện với trẻ em, dù không ai hiểu ai, họ chỉ ra dấu làm ám hiệu, họ ưa tặng quà bánh coca cola hậu hĩnh, nên trẻ con luôn bu lại bên người lính Mỹ đa dạng rất đông. Nếu có bạo động chẳng qua là... sự thật là có mấy nhúm trai choai choai dé dé ở nước mình, chuyên môn ra tay “sát phạt” họ trước, vì… hổng ưa “bọn kia” đã rầm rộ đến vùng đất chúng ta, vung vít thả tiền hậu hỉ, xã láng ăn uống ồn ào, và ưa cua gái.

      Hiếu Hoà thực sự vào Đời khi tóc vừa chấm ngang lưng, khi đôi mắt xanh hớt hãi vương từng phiến u hoài, cô say mê đi tìm cuộc sống mới dần dần đổi thay hoàn cảnh hiện tại, cô không muốn đầu hàng đau khổ, lao khó. muộn phiền, nghèo đói. Tình yêu là ánh sáng hướng thiện soi dọi đường trăng Tố Nữ trước mặt, để mình khỏi vấp ngã. Hòa sẽ đoạn tuyệt tất cả, sẵn sàng xây dựng viên gạch đầu tiên chân xác chuẩn mực hơn. Mặc dù cô không yêu thích cảnh sống phức tạp hiện tại, nhưng đành phải chấp nhận. Cuộc sống cuộn chặt vô đời Hòa không chỉ chỉ vì miếng cơm manh áo, mà cần phải có tình yêu người.


      Sự thay đổi lối sống đa dạng trong cuộc đời chông gai nầy, có gì đâu! Đơn giản thôi! chỉ cần một động tác nhẹ uốn mình nhảy qua khe suối nhỏ. Giống như chú mèo uyển chuyển, nhẹ nhàng nhảy từ trên mái nhà xuống nền đất. Thế là Hiếu Hòa đã rũ bỏ sau lưng tất cả mật ngọt, hương hoa tình yêu, và hủ mật... đắng, đắng nghét của đời giông bão đang uốn lên uốn xuống... làm kiệt lực con người trong giòng sinh mệnh chiến chinh bùng vỡ trên quê hương. Vì đời em lá bạc, nên quyết chí phen nầy em phải xông xáo đứng lên... từ “Dặm Trường Lặng Lẽ”:
      Trần mây nặng, vì gió lùa rung tiếp.
      Núi đứng nhìn trời biên biếc khói sương.
      Em đi… đem theo luyến tiếc, thương phố phường!
      Anh ở lại, bao đêm trường qua góc phố.
      Kẻ nhớ người chờ, mong hội ngộ.
      Ân tình trọn kiếp tơ tằm vương.
      Bởi ly tan nên tóc ngã màu sương.
      Nay bóng xế dặm trường không hoa nở!
      Đời tang hải mấy ai chưa vàng võ.
      Ít nhiều chi cũng thấm lệ rơi.
      Lẽ nào không có đơn côi?
      Tình đời dâu bể một thời xót thương
      Đôi khi lặng lẽ trên đường…
      (3)
      *
      Tình Hoài Hương


      (1) Lý Thảo Yên
      (2) Nguyên Thạch
      (3) Tình Hoài Hương
      Trân trọng mời quý độc giả xem tiếp chương sau.



      Trân trọng mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
      Last edited by Tinh Hoai Huong; 12-07-2020, 11:59 PM.
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • #4
        Photo by Hoài Hương (cell phone)

        Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
        Phần Thứ Nhứt
        Chương 4


        Trên Đồi TÀ BIÊN
        Tình Hoài Hương
        *

        Hiếu Hòa ngồi trong ca bin xe GMC ngó ra dòng sông Trà Khúc mênh mông: bờ nầy và bờ kia nhìn tưởng là gần, nhưng mà so ra là thật xa, xa mờ xa dưới ánh trăng tàn chênh chếch, bàng bạc, lạnh lẽo bao bọc bởi lớp sương mù và lớp khói xám bốc cao ngùn ngụt ở góc trời lững lờ uốn éo bay bay. Dọc hai bờ quốc lộ và ẩn dưới núi rừng hoang vu cùng bao làng mạc ruộng nương, thì sông Trà Khúc dài 135km, nguồn sông bắt đầu từ núi Đắc Tơ Rôn, do bốn con sông Đắk Xà Lò, Rhe, Tang Ong, Rhinh, nơi ngã tư của bốn hợp lưu sông nầy còn có tên gọi Ly Lang. Sông chảy qua Sơn Trà, Sơn Tịnh, Tư Nghiã, Nghiã Hành và đổ ra cửa biển Đại Cổ Lũy.

        Tỉnh lỵ Quảng Ngãi an ngự tại thị tứ Cẩm Thành, Quảng Ngãi có những nét đặc thù riêng vô cùng độc đáo, thi vị, nồng nàn tình yêu thương chan chứa (mà có lẽ chẳng mấy khi các anh chị bạn chung nhóm và Hòa nghĩ tới). Đó là tên địa danh cuả các Thôn, Xã thường ưu ái đặt theo Huyện lỵ của mình. Ví dụ như: Nghiã Hành, thì có các Xã = Hành Dũng. Hành Đức. Hành Minh. Hành Nhân. Hành Phước. Hành Thiện. Hành Thịnh. Hành Tín Đông. Hành Tín Tây. Ba Tơ = thì có: Ba Bích. Ba Dinh. Ba Điền. Ba Động. Ba Chùa. Ba Cung. Ba Giang. Ba Khâm. Ba Lễ. Ba Liên. Ba Nam. Ba Ngạc. Ba Thành. Ba Trang. Ba Tiêu. Ba Tô. Tư Nghiã= thì có: Nghiã An. Nghĩa Điền. Nghiã Hà. Nghĩa Hoà. Nghĩa Hiệp. Nghĩa Kỳ. Nghiã Lâm. Nghiã Mỹ. Nghiã Phương. Nghĩa Sơn. Nghĩa Thắng. Nghĩa Thọ. Nghĩa Thuận. Nghiã Trung. Nghĩa Phương. Nghĩa Phú... Trà Bồng = thì có: Trà Bình. Trà Bùi. Trà Giang. Trà Hiệp. Trà Lâm. Trà Phú. Trà Trà Sơn. Trà Tân. Trà Thủy... Thật tuyệt vời khi nhận ra nhau là "họ hàng" thân mật.


        Ven bờ có hàng tre lớp lớp nghiêng bóng ẻo lả sà xuống soi mình trên mặt nước, nhiều lũy tre cựa mình kêu kẽo kẹt, lá tre reo vui ca hát khi trăng đã lặn, thì bình minh quang rạng, nắng sớm lấp ló vừa lên trên đầu cây ngọn cỏ, ấy là lúc đoàn xe ba chiếc trong phòng Tâm Lý chiến đã tới nơi cần đến, càng thúc giục “cô nhỏ Hòa” non nớt tuổi đời dạt dào niềm vui, nôn nóng, xôn xao, mong sớm đặt chân lên đường quê thênh thang, dõi bước rộn ràng theo mộng hải hồ vừa ươm.

        Tiểu khu Quảng Ngãi có một phần chi khu của bộ chỉ huy hành quân nơi Sư Đoàn 2 trú đóng. Xe chạy từ dưới Tỉnh Quảng Ngãi lên hướng Huyện Minh Long, bên phía phải nhìn từ xa xa thì đồi Tà Biên giống chiếc đầu trọc khổng lồ úp lên mâm cỏ vàng to tướng, lưng đồi lổm chổm những mảng da đất khô, coi thô kệch, kinh dị như những cục máu bầm nứt nẻ, tạo thành vết thương lồi lõm lở loét. Sau cơn mưa chiều hôm trước, con đường đất đỏ độc nhứt ngoằn ngoèo càng sình lún, nổi bật trên lưng đồi quanh co là những chiếc xe nhà binh lắc lư, xe mệt nhọc chậm rì mò mò bò bò theo vết xe cũ.
        Cũng đứng nhìn từ xa thì con đường đất nầy tạo thành một sợi gân khổng lồ, xù xì, gồ ghề, dày cộm nhô cao, chia ngọn đồi ra hai phần: ở giữa hai lằn xe là đường đất uốn lên uốn xuống, cạ quẹt rột rột rào rạo ràn rạt nơi lườn xe, khiến bùn sền sệt văng tung tóe khi xe rồ máy, mọi sự di chuyển càng ứ nghẽn khó khăn thêm.

        Dưới chân ngọn đồi Tà Biên có nhiều bãi cỏ hôi mọc um tùm, bụi hoa mắc cỡ chằn chịt gai mọc lúp xúp. Chung quanh là công sự phòng thủ giao thông hào bố phòng cẩn mật, chu đáo: Hai cánh cửa cổng gỗ khá lớn, có sợi dây xích dài và to, móc từ bên trạm gác ở phía vào, sợi dây giăng qua tít bên trạm gác ở phía ra. Sau sợi dây xích có thêm một vòng chắn, ấy là nhiều vòng kẽm gai khoanh tròn, dính lòng thòng những lon sữa bò cột rải rác chung quanh doanh trại bao la, thỉnh thoảng khi có gió lùa, thì những chiếc lon kêu leng keng, kêu hoài, cộng thêm những con bọ ngựa gỗ. Tại cổng gác có hai anh lính đứng làm việc trong trạm, và hai anh khác bồng súng gác ngoài cổng. Trạm gác có hệ thống đường dây chôn ngầm dưới đất, máy điện thoại dã chiến reo róc róc ro…óc… hoài. Trưởng trạm ấn ngón tay trên máy truyền tin nhanh chóng kêu tít tít tít, tè tè tè…ti ti… Bên trong doanh trại cũng có hàng hàng lớp lớp kẽm gai bao bọc, từng ụ tháp canh cao vút trên bậc thang đắp đất lắt lẻo, chênh vênh, cheo leo ở bốn mé sườn đồi.

        Dọc theo tứ phía doanh trại là khu đất rộng độ chừng bốn năm hecta, có rào kẽm gai chằn chịt, những giao thông hào cao lút đầu người. Nhiều gian hầm trú ẩn làm bê tông chắn ghi sắt kiên cố dày và to. Chung quanh những hầm chất thêm nhiều hàng bao cát cao, dường như muốn chôn cả những khu nhà hầm xuống lòng đất sâu, chỉ nhô lên khỏi mặt đất bốn lỗ châu mai trông ra tứ phía. Bên mé phải là nơi đặt bộ chỉ huy hành quân. Từ xạ trường nhìn xuống dưới thấp là một vạt đồng trống, nên dễ nhìn thấy mọi thứ dưới tứ phía làng mạc xa gần. Ngọn đồi dựng đứng cao sừng sững là vị trí khá thuận lợi để đặt bộ chỉ huy, quan sát điạ hình và điều quân; thì không thể nào chê. Ngoài ra, có kho đạn và bãi đậu cho các phi cơ tốc hành hạng nhẹ.
        Một máy phát điện khổng lồ thường xuyên ầm ỉ nổ suốt ngày đêm. Bên mé trái ngọn đồi là bệnh viện dã chiến nằm lún một phần tư xuống lòng đất, có vài cửa ra vào ở lưng chừng đồi. Gần tổng hành dinh có một giàn trọng pháo, nơi đây các binh sĩ Pháo-binh làm việc quần quật không ngừng nghỉ, họ luôn tay điều chỉnh tác xạ theo nhu cầu chiến trường: nâng nòng súng lên, khi thì điều chỉnh chính xác phương giác cho đạn đạo.

        Sáu giờ sáng, đoàn xe Phòng 5 gồm hai chiếc xe GMC chất đầy dụng cụ ván gỗ kèo cột loại nặng, giàn trống, các loại đàn, màn, sân khấu, vân vân... để làm một sân khấu lộ thiên khá lớn, & một chiếc xe jeep. Đoàn 5 tiến tới con đường nhỏ độc nhứt chạy một chiều tấp nập đủ thứ loại xe nhà binh chạy lên đồi cao ì ầm. Gò đất đỏ chẹp nhẹp bùn do cơn mưa mấy hôm trước, cũng in nhiều lằn bánh xe loại nặng lún sâu xuống vũng sình lầy, con đường trông như con lươn đất uốn lượn nhô lên cao (con đường nầy giống đúc đường cái mà xe hàng chở hành khách lẫn xe lính vừa đi qua).


        Đoàn xe đậu tại vạt đất trống, để chờ xin lệnh từ Bộ Tổng-Chỉ-Huy Hành-quân, khi nào ban điều-hành cho phép, thì xe mới chở quân nhân vô doanh trại. Các cô gái ưa đùa dai, gọi giỡn là khu “phi phe” quân sự của Sư-đoàn 2 chiến thuật. (“phi phe quân sự” nầy không phải vùng DMZ= de-militarized-zone, nằm ở phía Bắc của Tỉnh Quảng Trị, dọc theo bờ Nam Bến Hải, mà Gio Linh là một quận lỵ đâu). Hai anh lính gác tuần tự kiểm soát rất kỹ tám chiếc xe đậu bên lề đường, (trong đó có ba xe của Phòng 5) thì đoàn xe được phép vô vùng cấm địa khá rộng.

        Từng cơn rung chuyển chạy rần rần, động trời động đất, động suốt dòng sông quê hương, dưới bước chân người lính chiến và cư dân muộn phiền run run, đau đau, buốt buốt, tê tê, lạnh lạnh bên hai bờ thôn xóm quê mình. Đoàn xe từ từ tiến vô khu tổng chỉ huy hành quân. Cùng lúc ấy những tiếng nổ lép tép, đì đùng, xì xèo mùi cây tươi và mỡ khét, thịt cháy bốc lên hừng hực từ đám khói đen nghịt xa xa lùa theo gió ào ạt bay về. Đại bác đặt chênh chếch trên lưng đồi, chĩa thẳng mũi về hướng Tây Bắc, súng giận dữ gào thét ùm ùm, uỳnh uỵch… oằng! như trút cả khối hung tàn đến khu rừng già tận phía chân trời xa. Nhiều loại súng ì oành ì ầm, pằng, pằng, pằng… rít rít, xiu xít… cắc bụp... gay gắt vang trong bầu trời, làm rung chuyển bao căn hầm chắn ghi sắt. Cửa hầm phủ bạc, thỉnh thoảng tủ sắt giật rung kêu ken két. Khu nhà tiền chế rung rinh, khu vách ván lợp tôn đồng loạt nghiêng ngả dữ dội. Khung cửa kêu rè rè, đôi khi không chịu nỗi sức ép tạt đạn bay quá gần, đã bể ra rào rạo, ngổn ngang.

        Chiến cuộc đang hoành hành trong lãnh thổ xứ Quảng Ngãi. Có lẽ do bắn trực xạ dữ dội và gần lắm, nên khu đồi dường như sôi ục ục, rung rinh, nghe thật ớn lạnh. Tiếng súng cối thị uy bắn vô ngọn núi Ô Chai xa xa, đạn gầm rú trong dãy trường sơn, vang vọng lại từ nơi phát xuất từng hồi trầm thống, gầm rú rền rền giống những nhịp sấm dồn. Phía chân trời, các đụn khói đen sì cuồn cuộn bốc cao, bừng bừng khói lửa tỏa rộng ra, đụn khói quyện lửa giống mấy cây lọng che khổng lồ, đùn đùn khói đen xám, rồi lửa vàng đỏ nối tiếp nhau phụt vọt lên lưng trời đỏ rực. Cuộn lửa và khói đen mù mịt lại xoắn xuýt quấn lẫn vô nhau, quay lông lốc, ùn ùn, xoay xoay, lảo đảo dưới trời đất xiên xiên mờ mờ sương lam muối vùng núi, rồi khói đen lửa đỏ phủ chụp xuống ngọn đồi trọc hoang tàn nhanh như chớp. Tiếng súng lẫn lộn vẫn nổ rang, ầm ầm, rúng động cả bầu trời. Tất cả các loại đạn nổ chụp, nổ tạt, delay... cắt bụp xè... thay phiên nhau cày xới đất, xé tan nát những gì nằm trong tầm sát hại.

        Chiếc bà già xập xệ, ì ạch kịp thời bay giữa cơn lốc cuốn cao. Tuyết Ngọc lo sợ nó bị hút xuống vùng trôn ốc, không qua nỗi trận cuồng phong dữ dội xoáy vòng lông lốc quá! Nhưng chiếc phi cơ vẫn bình an vô sự tiếp tục làm nhiệm vụ quan sát cho thật rõ, viên hoa tiêu lượn quanh vùng, máy bay nghiêng ngả trên bầu trời, vòng bay khi hẹp khi rộng, trông thật bay bướm lả lướt ngoạn mục quá chừng! Từ trời cao, khu trục cơ Skyraider bay hợp đoàn bốn chiếc gầm thét chúi mũi vào mục tiêu, động cơ rít trong gió, mỗi chiếc mang khoảng 6 trái bom. Những vật đen nho nhỏ rời cánh lao xuống lòng đất. Quả bom được ném xuống mé núi hướng Tây Bắc ầm ầm… Ùm ùm... Bùm bùm…
        Tiếng pháo nổ như đâm thủng óc
        Gieo kinh hoàng râu tóc phạc phờ
        Tử thần trông đợi từng giờ
        Ai người tới số có ngờ được đâu
        Đạn pháo địch trên đầu rơi xuống
        Hầm dẫu sâu nào luống an toàn
        Một viên rớt trúng là tan
        Ngày về lại thấy bao hàng khăn tang (1)

        Vạn vật bị cày tung cào xới, xé toang hoang, rồi cuồng bạo vất mọi thứ bay ngược lên cao, khi đã hết đà lại rơi lả tả hay lăn lông lốc trên mặt đất. Lửa cuồn cuộn bốc lên theo sau đuôi cũng là lúc phi cơ ngẩng đầu cất vút lên cao. Anh phi công tài hoa dễ thương nào đó (có thể là của Tuyết Ngọc, hi hi hi…) bay lượn vài vòng, phi cơ nghiêng cánh chào bãi, uỷ lạo chiến sĩ, rồi lả lướt rời vùng hành quân bay vút đi mất dạng vào vừng mây trắng xa xa.

        Sau nhiều ngày qua thì pháo kích ngưng bặt, trả sự yên tĩnh đôi chút trên bình nguyên còn thao thức. Ngọc nghĩ: Lính Nghĩa Quân, Điạ Phương Quân, Dân Vệ là những tay súng lặng lẽ âm thầm, có thể tạm gọi là “mai danh ẩn tích” mà rất cừ khôi & chính xác, họ kiên cố giữ lũy thành chắc chắn. Vì, họ thông thạo từng bờ cây bụi cỏ, biết rõ tường tận từng xóm, từng thôn, từng người; ít khi lầm lẫn. Cộng thêm hầm hào kiên cố với trường lũy Ấp Chiến Lược (Strategic Hamlets) sẽ kiểm soát giữ gìn non sông gấm vóc, do ông cha truyền lại từ ngàn xưa thoát khỏi cảnh: “Người tại xứ mình lại xâm lăng đất nước chúng ta” trên chính quê hương chung, chẳng chia sẻ niềm đớn đau thiết thực qua vết thương hoác miệng trầm thống, vì cảnh nồi da xáo thịt cốt nhục tương tàn, cảnh người lừa gạt người. Người bội phản người. Người thù hận người. Và, người phản bội quy ước hiệp định: chúng đã tràn vô Nam thao túng xâm lăng, thẳng tay chém giết sát hại người thân như điên. Người bị chiến tranh hành hạ cưỡng bức tan hoang trên chính đất quê mình!

        Từ vòng đai kiên cố nầy (Strategic Hamlets) là động cơ thúc đẩy “họ” àm cách mạng giật dây, rù quến, hò la kêu gào nhau đứng lên phản đối chính phủ hạn chế quyền tự do đi lại, bị kiểm soát giấy tờ tùy thân chặt chẽ, bị kiểm soát từng Thôn, Ấp, mất tự do vì hàng rào Ấp Chiến Lược. Vâng! Tuy mất thì giờ thật, nhưng xôi đậu không lẫn lộn, an toàn, bảo đảm an ninh và giữ gìn sinh mạng muôn người, kẻ gian ác xớ rớ trong thôn xóm là bị lộ tung tích ngay. Ta tưởng cần nên có vòng đai Ấp Chiến Lược chắc chắn kiên cố nầy lắm thay! (4)
        * * *
        Khi Cộng-quân phóng pháo, độ rung kéo dài từng chuỗi nghe rúng động đảo điên cuồng sát. Từ ngoài bản doanh có một xe cứu thương hú còi inh ỏi, xả hết tốc độ lao vô khu bệnh xá, xe mang theo người ngoài ấp lạc đạn bị trọng thương. Bây giờ Hoà biết tin đích xác, anh Trung-uý Trưởng-phòng Phước thừa lệnh Đại Tá Lâm Văn Phát ra chỉ thị mới:
        - Tất cả anh em Phòng 5 trực tiến không thể lùi, phụ giúp bên quân-y khiêng người bị thương, nhặt xác chết phe ta lẫn địch quân, cấp tốc chở về hậu cứ.

        Trời ơi! Nghe tin đó nhỏ Hoà đứng xớ rớ đằng sau lưng anh Vũ, cô sợ đến bải hoải run rẩy chân tay, căng thẳng trí óc, cô thút thít khóc, rụng rời lệ giọt dài giọt ngắn, hai chân lết lết run run lê lê rã rời, ủ rũ đi từng bước ngập ngừng trên đường đến tụ điểm làm việc. Mấy anh chị tưởng cô em giàu tình cảm xúc động ngậm ngùi trước cảnh thương tâm, đã trào nước mắt. Chứ họ có ngờ đâu con bé chết nhát nầy chả ra cái thể thống gì!

        Ngọc chạy tới xem một hầm lộ thiên khá sâu, nơi nầy dùng nhốt tạm mấy tên (mà phe ta tình nghi chúng nằm vùng vừa tóm được) ban đêm phòng Nhì sẽ điều họ đi nơi khác. Vài xác chết căng phồng chưa biết là ai, (Nghĩa- quân, Dân-vệ hay thường dân, hoặc “vi ci” do máu me bê bết trộn với đất cát, dầu nhớt và khói tèm lem, nên chẳng rõ!?). Giờ phút thập tử nhứt sinh nầy, hơi sức đâu ai có thì giờ mà bới móc lý lịch cá nhân ra cho thêm rầy rà? Họ lo quắn đít chữa trị mọi người ngáp ngáp hy vọng sống còn, xin đừng hộc máu tươi ra thêm mà thôi. Nhân viên cấp cứu cùng nhau đưa gấp các bệnh nhân vô nằm trên chiếc băng ca. Y sĩ, y tá cúi đầu xem xét các vết thương. Cánh tay, bàn chân của một ông tím bầm, sưng húp, lở loét, nặng mùi, chân cụt thò ra run rẩy. Một anh mặt mày xanh méc, (do mất máu), run run lúi húi coi lại vết thương, cuộn băng vải cũ thấm từng chỗ trên đùi loang lỗ máu tươi. Anh Sáu Dương bị thương khá nặng vẫn ăn nói đàng hoàng, tỉnh táo nhếch mép ngóng cổ lên nhìn vết thương ở tay, trên bụng, trên đùi. Anh nhìn ngó lung tung như không có việc gì quan trọng trước khi bất thần "rệu" xuống. Hoà sợ e anh sẽ “đi đon” quá, khi anh:
        Tôi trở lại Cao Nguyên miền sơn cước
        Đường mù sương đẫm ướt nửa tấm thân
        Kẻ một chân, lê nẻo bước phong trần
        Cánh tay phải cũng trọn dâng cho Tổ Quốc. (2)

        Khuôn mặt một người khác còn trẻ coi hớt hãi, da tái vàng bũng, tóc tai lởm chởm, thân hình gầy còm, tiều tụy dưới lần vải đại cán có hai túi, cổ đứng, màu dưa úa, may thô thiển vụng về, quần áo nhàu nát, luộm thuộm khác màu, một chân mang dép râu, một chân đất. Hai cánh tay nổi ốc trâu xù xì dựng đứng những sợi lông tơ, làm xấu xí tuổi đời mới độ mười lăm mười sáu, lớp ghéc đất bẩn thấm mồ hôi vo viên đen đen nhỏ xí vừa rịn ra từ hàng ria mép nõn.

        Khiến Hòa cảm thấy phiền phiền, ngây ngây, đau đau. Quay nhìn quân nhân Cộng Hoà Việt Nam miền Nam, trong lòng cô nẩy nở sự so sánh khó chịu, gớm ghiếc. Nhưng đầy bàng hoàng lo sợ. Hoà muốn đánh bài chuồn, không dám chạm trán với các bác. Gặp “bác” kể như... chào thua. Kể như đi đứt. Kể như héo úa, éo le, tàn phai, nát đời. Chứ không được hay ho, tuyệt vời như nhạc phẩm “Đêm tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước mô nà.

        Cuối góc phòng có xác chết to phình, căng cứng như con vật kỳ lạ, mắt đứng tròng mở thao láo. Bụng căng phồng như chiếc bong bóng da heo. Anh Vị để họ nằm trong poncho, bên trên mé hầm của khu bệnh xá, xác chết chưa kịp chôn, thum thủm thúi. (Ngày xưa, mỗi khi làm thịt heo, ba lấy bóng da heo bơm đầy hơi, cột kỹ phơi ngoài nắng cho anh em Hoà làm trái bóng đá nhăn nhúm chơi đùa).


        Ngọc dám đến cúi sát xuống một anh lật khăn che mặt, tò mò xem từng người chết nhìn rất kinh dị, tay xuôi theo thân hình co quắp. Có người đang mê man giống thân cây chuối bị đốn ngã, róc hết lá vẫn nặng kinh khủng. Những bàn tay tài hoa khí phách nam nhi, bản lĩnh và dũng mãnh ấy không rõ dấu chỉ tận cùng bằng số ở đâu? Ngọc cả gan dám đến bên một anh lính, nàng vén tóc xem trái tai anh ta lớn hay nhỏ, yểu mệnh tới đâu. Ngọc lại cầm bàn tay kia lên, nắn nắn bóp bóp, lật qua lật lại, cô coi đường chỉ thọ của họ ghi đến chỗ nào. Hoà sợ kinh khủng, không dám nắm bàn tay Tuyết Ngọc cả tuần. Những buổi cơm nhìn miếng thịt heo, thịt bò, nhứt là thịt ếch, (con ếch khi ai làm thịt, thì nó luôn chắp hai tay trước lại, van lạy xin tha mạng, nó lỏ hai con mắt trợn trừng tráo trưng, khi lóc hết da con ếch thì Hoà trông sao mà giống... con người)! Thịt ếch bơi bơi trong tô canh chua lá giang. Hoà nghĩ đến con ếch chắp đôi tay, mắt thao láo trợn trừng, nghĩ đến vết thương lở loét, đỏ tím, hoác miệng trên bụng người. Ếch là một loài động vật lưỡng thê, sống dưới nước và trên bờ, cặp mắt ếch chỉ nhìn được những chuyển động mau, những chuyển động chậm thì nó hoàn toàn không thấy. Tự dưng cồn ngực vun tròn nhấp nhô phập phồng theo nhịp thở, Hoà chạy xộc tới cuối vườn, ói mửa ra mật xanh mật vàng. Hoà sợ mâm cơm hơn bất cứ thấy gì.

        Tuần sau lại thấy thân hình anh Nguyễn Văn Ba thi sĩ, lính Bộ Binh Sư Đoàn 2 bị hất tung lên cao, thân xé ra từng mãnh nhỏ, xương thịt rơi phịch xuống đất, giống bịch gạo tung tóe vung vãi ra. Anh Ba chết thảm trước ngưỡng đời vừa độ bừng chớm tuổi hai mươi. Anh chưa vợ chẳng con, chưa một lần hò hẹn, chưa nếm mùi chiến đấu giao tranh thổn thức với đời, Anh chỉ yêu binh nghiệp. Thế mà như một linh cảm vô cùng điếng lặng, đau đớn xót xa, anh đã nhắn nhủ với bạn qua lời di chúc bất ngờ trong bài thơ:
        Xin đừng đem ra biển khi tôi chết.
        Đưa về BỒNG-SƠN, PHÙ-CÁT, CỬA-VIỆT.
        BÌNH-GIÃ, TRÃNG-BOM, PHAN-THIẾT, TÀ-BIÊN.
        Bên mộ cổ nhân ĐỨC XUYÊN bạn hiền.

        Không ra đại dương. MỸ-ĐIỀN, THỪA-THIÊN*
        AN-KHÊ, HỒNG-NGỰ, PHÚ-YÊN, GIỒNG-RIỀNG
        QUY-NHƠN sóng gợn HÀ-TIÊN ta tới.
        Bạn lính VŨNG-TÀU, ĐẦM DƠI đồng đội.

        Tôi chết đừng đem ra biển. ĐẮC-ĐOA
        Quân hành từng đêm VẠN-GIẢ, KHÁNH-HOÀ
        Hải-trình xưa nhớ SƠN-TRÀ, MỘC-HOÁ
        Sương khuya SÔNG-CẦU, ĐỒNG-XOÀI, BÌNH-ĐỊNH.

        Đừng đưa ra biển. LỘC-NINH, VÕ-ĐẮC*.
        SA-HUỲNH xin về ĐÀ-LẠT, ĐỒNG-NAI
        TRÀ-MY, HOÀ-NGHIÃ* GIA-LAI, CẦU-NGANG.
        PLEI-ME, DAK-NÔNG, CHÂU-THÀNH* VẠN-NINH* .

        Khi tôi chết, đi ĐÀ-NẴNG, GIO-LINH
        Tìm tới anh hùng TRÀ-VINH, SUỐI-VÀNG*
        SÔNG-CẦU, VĨNH-LONG, HẬU-GIANG, THÁP-CHÀM.
        Xin gần PHÙ-MỸ, PHAN-RANG, TRÀ-THẠNH*.

        Nhớ bạn ĐẮC-TÔ, HỘI-AN, ĐỊNH-QUÁN.
        Đã chết, không ra biển vắng bạn vàng!
        Về HUẾ, U-MINH, KIÊN-GIANG, TRÃNG-BÀNG.
        ĐẮC-LẮC, GIA-LAI, TAM-QUAN an hưởng

        Tôi chết QUẢNG-TRỊ, BÌNH-SƠN* tôi dừng…
        VŨNG-TÀU ghé qua TÚC-TRƯNG, ĐỊNH-TƯỜNG.
        CẦN-ĐƯỚC gào thét BÌNH-DƯƠNG, ĐẮC-NÔNG.
        Đầm bùn ĐỒNG-ĐẾ, MINH-LONG, ĐỨC-TRỌNG*.

        Khi tôi chết không ra biển. Ước mộng...
        Tình lính ĐÔNG-HÀ, PHƯỚC-LONG, GÒ-CÔNG.
        Linh cửu ghé về CHƯ PRÔNG* LÂM-ĐỒNG.
        SA-ĐÉC, AN-KHÊ, TRÀ-BỒNG sôi động.

        Tôi chết rồi không ra biển... rất mừng!
        ĐỒNG-THÁP thắm thiết TÚC-TRƯNG, BÌNH-DƯƠNG.
        Nghìn năm ôm trọn quê hương nhớ tưởng.
        Tôi ở trong mồ phù trợ an khương... (3)
        ***

        Nỗi u ám đã chín đen như cơn giông sét đánh toé lửa, phủ chụp xuống đời nhau, tưởng chừng một nửa thân Hoà đã móc nối sít-sao, ăn khớp với xác người xa lạ. Như nửa phần thân thể người chết trĩu nặng luôn dùng dằng trì kéo bám túm lấy cô không thể cựa quậy nhúc nhích nỗi. Lòng cô em rớt xuống trũng ưu phiền hố thẳm tăm tối mù mịt phủ đầy lá non, giống nõn trà hong phơi dưới lửa bỗng tàn úa quá nhanh, khiến mình thêm rũ liệt. Hằng ngày, cả nhóm tâm lý chiến đi ủy lạo săn sóc đồng bào và chiến sĩ. Anh chị em hướng dẫn trẻ em đồng bào cách giữ gìn vệ sinh, phòng tránh bệnh truyền nhiễm, phân phát thuốc men, nhu yếu phẩm, quần áo chiếu chăn, sách báo, v.v… phụ giúp đồng bào thu dọn nhà cửa, vườn tượt tan hoang hư nát. Phúng viếng tang gia bối rối. Họ chu đáo lo việc ma chay tươm tất đàng hoàng cho đồng bào.

        Trước cảnh đau thương tàn khốc, dù các cô có đi quyên gom hết tất cả tiền tài, và lòng trắc ẩn mọi người trên quê hương, ngỏ hầu mong bù đắp lại muôn điều đau đớn, mất mác to lớn ở một góc quê nầy. Tưởng vẫn không sao lấp đầy, không thể nào xoa dịu nỗi khổ đau khốn cùng bi đát đầy cay đắng trong lòng họ:
        Không phải vì mình mà tôi nuôi cơn giận
        Nhưng vì bao đồng đội thương phế binh
        Những anh hùng đã dâng hiến thân mình
        Trong bom đạn trong chiến chinh giữ nước
        Những anh hùng không bao giờ khiếp nhược
        Dù phế tàn thân thể vẫn mỉm cười
        Giờ họ đang lây lất giữa cuộc đời
        Đến tuổi già vẫn không nơi nương tựa (1)

        Không hiểu sao bài lịch sử Hoà đã học: Từ trận quyết chiến quyết thắng của Đức Trần Hưng Đạo. Cho đến vụ nước Nhật bị trái bom nguyên tử đầu tiên ném xuống thành phố Hiroshima ngày 06.8.1945, tiêu diệt 66 ngàn người. Rồi trái bom thứ hai thả xuống Nagasaki 09.08.1945 đầy kinh dị, người chết la liệt trên đất Nhật. Tất cả bừng nhớ trong tâm trí Hoà. Cảnh kinh thiên động điạ có thật đã xảy ra từng ngày rùng rợn ấy. Nỗi thống hận, dã man, quằn quại, đau đớn, đói khát, bệnh tật. Lương dân rên siết, mù lòa, cùng khổ, không có tương lai. Kẻ xâm lăng quê mình lạnh lùng thẳng tay cuồng nộ giết hại người thân. Người dân vô tội bị làm mồi cho cường quyền đầy tham vọng thống trị. Dân đen muôn đời thiệt thòi đau đớn với hai bàn tay trắng bị cào xé trần truồng tan hoang. Chiến tranh nguyên tử cuồng nộ hung hăng húc vô muôn dân bên xứ anh đào Phù Tang kia. Và… kẻ về đây tạo ra thảm cảnh chiến tranh Việt Nam, so ra... chưa thua đau khổ Tokyo-Việt Nam là mấy! Nỗi đau khổ của con người trong cảnh chiến tranh tràn đầy trên khắp Bốn Vùng Chiến Thuật. Tin tức nóng bỏng từ truyền thanh, báo chí mỗi ngày một nhiều.

        Cuộc chiến dần dần mở rộng như vết dầu loang, như vòi con bạch tuộc. Từ các nẽo miền quê xa xôi loang mau đến ven biên thị thành, đè nặng lên đầu người. Đến nỗi Hoà không dám ngẩng mặt nhìn lên, chỉ thập thò lấp ló dúm dó co ro nép bên vách hầm hào chắn bao cát, mở to mắt nhìn dáo dác ra ngoài lỗ châu mai. Hoà không khỏi kinh ngạc, khi thấy mặt trời vẫn ưu ái đan chiếc cầu vồng bảy sắc lung linh, vui tươi nhún nhảy hào phóng rót nắng vàng rực rỡ, từ thinh không nắng êm ả chan hoà lên vạn vật, ve vuốt từng phiến lá ru tình đong đưa. Chim chóc lí lí lắc lắc nhảy nhót, ríu rít hót líu lo, hoà ái trữ tình, lảnh lót lơi lả trao duyên.

        Chao ôi! Cảnh quê hương cẩm tú chìm trong chiến tranh nầy, chính là mảnh đời buồn bã trong cuộc sống muôn điều có thật. Dù cho Thu Hoa, Lan Anh, Mai Hồng, Tuyết Ngọc đã xức nước hoa hiệu Charlie, Tabu, hay loại thượng hảo hạng J’adore; vẫn không khỏi ngửi mùi tử khí tanh nồng chát khét quanh quất đâu đây. Vậy mà Lan Anh đã say đắm với… anh lính chi
        ến có bài thơ:

        Tiếng miền Trung cứ nói hoài tiếng "nẫu".
        Vì quê hương, nên cũng rất dễ nghe.
        Lúc em giận nói nhanh như chim hót.
        Nghe kỹ rồi ta cũng phải im re.
        “Mẹ tổ choa cái lâu đoài tình oái"
        Vậy mà nghe, thương đứt ruột cái điệu nầy.
        Vậy mà vài hôm em không gọi lại.
        Lòng ta buồn như rừng lá Thu phai.
        Ta yêu chi cái người Trung xứ "nẫu".
        Mê làm chi mà khổ dữ vậy trời.
        (4)


        Cuộc đời thật chẳng có nghĩa lý gì trước ngày chân không dài vô tận; khi con người ngơ ngáo bàng hoàng ra đi vào vùng tử biệt, súng đạn vèo vèo bay trong đêm, tạo thành một đường sáng loáng vút tới vút lui. Khói lửa chiến tranh còn ở lại: thì đói khát bệnh tật, chết chóc, tan nát, đớn đau mãi cào xé, dày vò tận cùng tơ rung xương tủy huyết mạch con người.
        *
        Tình Hoài Hương
        *
        Mỹ Điền* thuộc Long An
        Đầm Dơi* thuộc Cà Mau.
        Suối Vàng* thắng cảnh ở Đà Lạt
        Châu Thành* Bà Riạ & Tây Ninh & Tiền Giang
        Vạn Ninh* thuộc Vạn Giả, Khánh Hoà.
        Trà Thạnh* thuộc Bình Phước
        Bình Sơn* thuộc Quảng Ngãi.
        Võ Đắc* thuộc Bình Thuận
        Chư Prông* thuộc Gia Rai
        Đức Trọng* thuộc Đà Lạt/Tuyên Đức. (3)
        * * *
        (1) Trương Trọng Kiên
        (2) Nguyen Thạch
        (3) Thơ Tình Hoài Hương

        (4) Phạm Hồng Thước

        Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
        Trân trọng
        ***

        (4) Mãi về thời gian khá dài sau nầy, được vinh dự đọc bài viết cuả ông Trương Văn Vinh, tác giả rất đắc ý về "Quốc Sách Ấp Chiến Lược… vậy xin ông Trương Văn Vinh: cho tôi mạn phép trích dẫn ít trích đoạn, và chân thành cám ơn ông TVV về vấn đề : Quốc Sách Ấp Chiến Lược: Nguyên văn ông Trương Văn Vinh viết:


        Đây là nhu-cầu thiết yếu để chống lại chủ nghĩa Cộng Sản và cũng là sách lược hữu hiệu nhứt của nền Đệ 1 Cộng-Hòa, cần chận đứng cuộc xâm-lăng của Cộng Sản Bắc-Việt. Quốc Sách Ấp Chiến Lược là tách rời du kích quân sự cộng sản ra khỏi nhân dân nông thôn, không cho chúng bám dựa vào nhân dân để xây dựng cơ sở và hoạt động phá hoại, cuối cùng là cô lập hoàn toàn để chúng phải chọn lựa, một là ra hồi chánh, hai là bị tiêu diệt. Nắm vững được sách lược của địch, Chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành Quốc Sách Ấp Chiến Lược, đây quả là một đối sách đúng đắn và vô cùng lợi hại của chính quyền lúc bấy giờ.

        Tất cả các Ấp đều được bảo vệ bởi các rào cản kiên cố bao quanh, các cổng chính ra vào được canh gác đúng mức tùy theo địa thế, mỗi Ấp đều có từ một đến nhiều chòi canh có tầm nhìn xa, ban ngày người dân được tự do ra vào để làm ăn, tuy nhiên người lạ mặt muốn vào Ấp phải qua thủ tục kiểm soát chặt chẽ, ban đêm các cổng chính ra vào được đóng lại, tuy nhiên các trường hợp cấp thiết của dân chúng vẫn được giải quyết. Ngoài ra, các Ấp Chiến Lược đều có thiết lập hệ thống báo động để phát hiện mọi trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp vào Ấp. Việc quản lý Ấp do một Ban trị sự phụ trách, việc phòng thủ bảo vệ Ấp do lực lượng Phòng vệ dân sự phối hợp với các đơn vị Thanh niên, Thanh nữ Cộng Hòa của Ấp sở tại phụ trách. Ấp Chiến Lược được tổ chức theo phương thức tự quản, tự phòng và tự phát triển.

        … Trở ra miền Trung, Chiến dịch hành quân, “Rạng Đông” trải rộng ra suốt Tỉnh Bình Định, hoàn thành 328 Ấp Chiến Lược, rồi cuộc hành quân “Phượng Hoàng” thuộc tỉnh Quảng Ngải có 162 Ấp, và cuộc hành quân “HảiYến” thuộc tỉnh PhúYên thành lập được 281 Ấp. ‘Tất cả cho chương trình Bình định xây dựng nông thôn” Cuối mùa Hè năm 1962, chính phủ Diệm công bố: 3225 Ấp đã hoàn thành, trong kế hoặch phải đạt cho được 11,316 Ấp, như vậy là 33% dân số thôn quê, có nghĩa là 4, 3 triệu dân đã được định cư tại các Ấp Chiến Lược.
        Trương Văn Vinh

        ***
        Last edited by Tinh Hoai Huong; 12-13-2020, 12:58 AM.
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • #5
          Photo by Hoài Hương (cell phone)


          Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
          Phần Thứ Nhứt
          Chương 5


          Đời Lính Chiến


          Hiếu Hoà ráng bện-đơm vô trong tâm chút hương hoa nồng ấm tình quê ở ngay trước mặt, mà xem ra dường như dật dờ, vời vợi, vò võ, lặng lờ, mênh mông, im lắng, bởi mọi thứ đang rời xa khỏi tầm tay mình. Từ nơi đây cảnh vật và con người đã thay đổi khác hơn xưa mất rồi! Hoà như con le le tan tác đàn, chấp chới, chờn vờn lạc lối bay giữa vùng trời bao la, lòng hoang dại với đôi cánh mệt mỏi rã rời…

          Hoà nhìn khu ấp chiến lược dưới chân đồi bây giờ đã khác hẳn, coi thật buồn bã, vô cùng đơn độc khi nắng mới vừa ươm (hay chiều tà phai nắng lả lơi vắt mình trên đọt tre la ngà). Dù rằng quê hương trọn đời thủy chung không bao giờ phản bội con người; mà chính con người ngoảnh mặt quay lưng lìa xa nơi chôn nhau cắt rốn, vì ai đó đành đoạn tập kết ra Bắc, rồi lủi vô Nam, lén gây ra cảnh chinh chiến tang thương khổ sầu trong lòng đất mẹ Việt dấu yêu? Để bây chừ nơi bóng chòi canh gỗ cao chót vót có những người lính phong sương đầu đội nón sắt, họ lo trấn giữ biên cương suốt từ tháng Giêng đến tháng Chạp chẳng hề nghỉ ngơi, bổn phận các anh chia nhau trông coi một vòng cung trách nhiệm. Hòa thấy anh đơn điệu, im lặng, chơ vơ trên vọng gác nơi phòng tuyến lồng lộng gió, tay anh luôn ghìm chặt bá súng, mắt anh chăm chú quan sát tứ phía, anh gìn giữ nhiều chặng đường lầy lội, gập ghềnh, lồi lõm bởi bị gài mìn, đặt chất nổ cày xới, khiến con đường đất tung tóe sình lún. Rồi xe tăng, xe GMC, xe thiết giáp chạy qua, chạy lại dưới những trận mưa, khiến đất đỏ càng lầy lội, khó di chuyển hơn:
          Trong đêm tối ai đang canh bóng giặc.
          Anh có tiếc một thời anh đã mất.
          Xác phượng hồng tơi tả tóc ai bay.
          Cao nguyên đó một chuyện buồn bỏ ngỏ.
          Bom đạn về cày xới cảnh tang thương. (1)

          Bụi cây bờ cỏ bị đốt trụi đen thủi đen thui bên sườn dốc, len lỏi nơi khúc đồi thưa có con lộ với hàng thép gai nhiều lớp bao bọc ngọn đồi, dẫn đến doanh trại bộ chỉ huy của Sư Đoàn 2 chưa chắc hứa hẹn yên ổn, an vui gì. Hoả châu luôn bừng nở trong không gian đẫm sương mù và lạnh giá căm căm. Sau loạt B 40 và bê ta, nhiều hoả tiễn xè xè vút vút bay, từng chuỗi nổ dồn dập rền rền ngân vọng. Kinh khủng và buồn ơi là buồn biết bao! Địa pháo tới tấp rót xuống vùng giao tranh ác liệt, đạn rít bên mang tai, nghe rú rền to hơn trời long đất lở. Ôi điêu tàn đổ nát, mắt các em và anh lính Bộ-binh nhòa đi bởi nhiều khối lửa rạch không khí tiến vun vút về phía nội thù: Xi xì... Tạch tạch… Pằng pằng… Uỳnh. Oằng. Ùm. Đạch đạch… cắc bụp, cắc cắc, bụp xè...

          Sau khi bị pháo kích, thì quân ta đã phản pháo mạnh & khá lâu. Đầu choáng váng đinh tai nhức óc, lừ đừ leo xuống mấy bậc cấp làm bằng bao cát, chui tọt vô hầm, Hoà lấm lét nhướng cổ nhìn ra lổ châu mai: trên trời luôn có những chiếc phi cơ vun vút bay đi bay lại, rồi bay vút vô vùng khói lửa thảm khốc không chút ngại ngần. Theo đà lướt từ mấy chiếc phi cơ có mang theo những quả bom chúi mũi bay xuống tọa độ ấn định khá chính xác. Những cây nấm lửa cuồn cuộn khổng lồ đùn lên, đùn lên cao. Khiến địch im hơi lặng tiếng nhiều giờ. Dưới đất xe tăng ầm ầm hú động quái dị, súng nổ liên tục nghe điếc tai không kém gì tiếng bom nổ xa xa.

          Tàu bay thả lính Dù xuống dưới chân đồi xa tít tắp, cuộc tổng tấn công quy mô của quân-nhân Nhảy Dù do Trung-tá Trần Quốc Lịch đích thân chỉ huy. Chân chưa bén đất, lính Dù đã hét vang, sôi bỏng cơn uất giận bùng vỡ. Dường như bọn Hoà đau ngực tức đến độ muốn ói ra máu. Các anh Bộ-binh mắt nổi đom đóm, những chòm râu tua tủa quanh cằm đựng đứng, hai hàm răng nghiến trèo trẹo, kẽ răng rít lên tiếng thở hổn hển dập dồn. Các anh dưới đất mặc bộ đồ tác chiến màu xanh nai nịt gọn gàng, thân dắt đầy lá, mang giày botte de saut, đầu đội mũ lưới sắt, họ lăm le ghì khẩu súng cổ lỗ sĩ trong tay, từng hàng nịt da đầy băng đạn, vài trái na dắt hai bên mạn sườn, hoặc trên ngực áo thò ra đung đưa lúc lắc. Lưng chiến sĩ cong cong cõng ba lô ghi bài thơ tình nặng trĩu quân hành căng phồng hết cỡ: một tuần lương khô cá nhân gạo sấy mỗi ngày, vài bộ quân phục, chiếu mền, linh tinh... (hoặc anh dùng ba lô để chứa thêm đạn dược? Hoà có bao giờ dám lục lọi đồ dùng cá nhân của ai, nên không rõ). Bổn phận làm trai thời loạn dập vùi men đắng rượu cay đi hái thú đau thương: để trả nợ non sông thật hết sẫy. Họ từng đi tham chiến đó đây:
          Những trận nào Trà Linh qua Đá Dừng, Hòn Dựng
          Dùi Chiên về Phường Rạnh ngược Khe Rinh
          Bao lần anh cùng chúng em lận đận
          Bôn ba băng rú rậm luống rùng mình
          Những bận nào Quế Sơn, Rù Rì con suối ngược
          Nước trôi nguồn nước lũ cuốn phăng phăng
          Những bận nào mịt mùng mưa gió ướt
          Đẫm thân mình co rúm lạnh như băng (2)

          Thân hình cong còng xuống dưới sức nặng kinh khủng của gánh đời nghiệt ngã, họ đang tiến về cuối làng tiếp cận dãy trường sơn (truy tìm địch đang lén lút rình mò về phá hoại an ninh bình yên thôn làng). Chẳng bao giờ lính chịu bó tay chờ chết, cho đến lúc tai tái người gây gây rét từng cơn ớn lạnh luồn vô tủy sống, mà chấp nhận thương đau. Chính nhân quân tử hiên ngang anh dũng đi tiêu diệt địch. Nếu lỡ trên đường sạn đạo có lạc vào cửa tử thần (bao trùm cả vùng chiến sử ca), Hoà thấy họ không tỏ lộ nét sợ hãi, băn khoăn lo lắng trên những khuôn mặt cương nghị đượm phong trần nắng gió mưa sương. Mắt họ bừng bừng đỏ từng đường gân máu co giật tóe lửa, cục xương yết hầu mắc họng oan gia suốt bao kiếp, đưa lên đưa xuống đâm vô cuống cổ khát khô bỏng họng. Họ trợn trừng hai con mắt, hàm răng nghiến chặt, bắp thịt cuồn cuộn, đôi chân dũng mãnh vững chãi đạp trên đất phù sa, đạp lên gai góc, cát đá; cả nơi bì bõm sình lầy đồng chua nước mặn:
          Đã nhiều lần đánh vào tận chiến khu
          Lại nhiều đêm nằm trên đồi nghe gió hú
          Đời chiến binh rất nhiều đêm mất ngủ
          Súng cầm tay trong tư thế sẵn sàng
          Đợi địch quân như ngăn sói cản lang
          Chỉ chập chờn chờ cho trời mau sáng (3)

          Họ chụm đầu cúi mặt chia nhau từng vụn thuốc nhỏ, hít hít hơi thuốc vặt cho bớt lạnh, hai bàn tay khum khum che kín đóm lửa, không cho ánh sáng le lói thoát ra ngoài. Người lính Bô-binh thì luôn nằm gai nếm mật, ăn bờ ngủ bụi. Nếu họ có được cái giao thông hào ẩm ướt tạm trú chân, là may. Tình đồng đội vào những giây phút tột cùng hiểm nguy, thật vô cùng trân quý. Cảm động đến bàng hoàng cúi mặt, che dấu dòng nước mắt mằn mặn cay cay cố nuốt vô trong bụng. Họ cực khổ quá chừng! Ôi! Đời lính xót xa cực nhọc khốn khó xiết bao! Họ luôn bị đời vô tình lãng quên! Cuộc sống người lính chiến nằm gai nếm mật là thế! là những ngọn nến lắt lẻo trong muôn triệu ngọn nến đời, do tự bàn tay người lính âm thầm đốt lên. Và, cuộc sống gian truân phải là sự hy sinh, chấp nhận vẹn toàn gian khổ khi bảo vệ quê hương, tổ quốc, tha nhân. Chấp nhận vẹn toàn, thật vậy:
          Sau những chuyến quân hành rong ruổi
          Sống trở về trong bao nỗi mong chờ
          Đời chiến chinh là thơ hay tiếng khóc?
          Nếu không thì bằng khó nhọc đẫm mồ hôi! (3)

          Có điều gì linh thiêng, thần bí và cường điệu thôi-thúc họ từ bỏ tất cả vinh hoa tuổi trẻ: yêu thương, xa hoa quyến rũ trong cuộc đời phù phiếm? mà họ không chút e ngại rụt rè, do dự? Phải chăng như đó là nghề của chàng mà! Thật cảm động đến bàng hoàng thảng thốt ngẩn ngơ. Tại sao người lính xông vô vùng chiến địa tàn khốc điêu linh nầy làm gì thế hử!? Tại sao!? Nếu không vì các anh thiết tha yêu thân nhân, yêu đồng đội, yêu đồng bào, yêu đất nước quê hương mình??? & họ cầu mong ước ao giữ gìn non sông gấm vóc, và dân tộc an lành trường tồn đến thế? Phải không, thưa qúy anh rất đáng ngưỡng trọng và kính phục!? Cũng có thể do vì có em:
          Em là em anh đợi khắp nẻo đường
          Em có nụ cười buồn mây mọng
          Em có làn mi khép lá cây rung
          Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng
          Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng! (2)

          Có lẽ đang bắn nhau gần khu nầy lắm hay sao, mà cả ngọn đồi kêu ục ục và rung lên dữ dội. Các cô gái của phòng 5 chân ướt chân ráo vừa đứng chưa vững trên sân của bộ chỉ huy hành quân, đã khiếp sợ xính vính lo âu tột cùng. Các cô giật mình quýnh quáng hét to, đồng loạt cúi cong người, tay bịt hai tai, họ vụt chạy vô chui tọt xuống dưới căn hầm trú sâu lút đầu người. Các cô chui mau vào gầm bàn, gầm giường bố, họ bò lê bò la, nằm úp mặt xuống nền đất ẩm lạnh, miệng mếu máo như em bé lên ba không ngớt kêu gào, thảng thốt, rên rỉ. Như có ai vừa thọc con dao găm sâu lút cán ngoáy ngoáy vô bụng mình.

          Trái tim Hoà đập điên loạn trong lồng ngực cuồng quay, đau nhói, co thắt từng hồi muốn nghẹt thở. Dường như có bàn tay vô hình nào đó bấu móng nhọn cắm phụp nơi trái tim mình, buồng phổi bóp chặt, làm ứ nghẹt hơi thở muốn bật máu tươi. Hoà tưởng mình mang trong người cơn bệnh trầm kha thoái hóa thần kinh, tế bào thần kinh tiết ra chất dopamine thành bệnh parkinson, làm cho thân thể co siết, dúm dó, tay chân bủn rủn, run lẩy bẩy, lập cập, run rẩy kinh niên, thật đáng ghê sợ. Hoà đưa mu bàn tay lên quệt những giọt mồ hôi toát ra trên trán. Các cô la ó kêu gào từng hồi thất thanh, giống như con heo bị chọc tiết trong lò sát sinh. Các cô chưa kịp hoàn hồn, đã bị bồi thêm mấy vố nổ kinh dị khác, nhiều đợt chấn động tột cùng khủng khiếp ngân rền. Mặt đất rung rinh chuyển động u u… ục ục… như ở trong cơn động thổ bảy tám chấm.

          Sau loạt đạn chi chi đó xé gió cỡ mươi quả bay đi, súng lớn giới hạn tầm bắn dường như vút bay ngang đầu, xuyên qua tường ghi sắt chắn bao cát nứt nẻ, khiến gạch vôi vữa, đá dăm, bụi hồ cùng mảnh bể trên mái hầm bị sụp một bên, đã rắt đầy lên đầu lên cổ các cô. Cột sắt bị gió thổi vù vù chạm điện kêu lanh canh lách cách, lửa vàng lóe chớp đỏ đỏ kêu xẹt xẹt xẹt, nổ lốp bốp. Bóng đèn bể bụp rơi loảng xoảng. Căn hầm bỗng dưng tối mờ. Gió lùa khói đen cay khét lẹt, quyện lẫn mùi hỗn hợp cuốn thốc bụi đất lẫn lộn tàn tro mù bay tứ phương. Trong bóng tối mờ mờ từ lỗ châu mai dọi xuống, năm cô gái nhìn nhau, ánh mắt xao động hãi hùng, chua cay, lo lắng sợ hãi, xen lẫn chút hào khí đầy phẫn nộ ở lưng tròng mắt. Tự nhiên Hòa cảm thấy phẫn ức giận dữ tột cùng, tấm tức bực bội đau xót mà không hiểu nguyên nhân vì sao!

          Vừa gù gù đáy thắt lưng ong, nhấp nhô đầu nón sắt sụp xuống quá lông mày, mấy cô dùng hai tay vịn lên góc hầm, lò mò bò bò, thụt thụt thò thò, họ nhấp nhổm tính leo ra khỏi miệng hầm đã bị sập một góc to, sẽ chạy đi tìm nơi an toàn khác; thì một tràng đạn lại ria qua. Lạnh buốt xương sống, họ thất thanh kêu rú, hét tướng lên như con bò rống trong ba toa. Mấy cô lại vội vàng xô nhau cúi hụp người ngả ngửa chổng chân lên trời, giống con nhái bén lộn cổ dưới đáy ao. Cả khu đồi sục sôi kêu ục ục, ọc ọc... bụp bụp, ùm ùm, lòng đất nhấp nhô. Nhà tiền chế phía trên hầm dường như động thổ, nhấp nhô rung rinh, nghiêng bên nầy, xiêu bên kia. Thật quá dễ sợ dưới đống mưa chì bão lửa. Bao mái tóc một sớm một chiều đã bạc mau trong giờ phút đẫm máu kinh hoàng!

          Nhiều giờ sau, bình nguyên lắng dịu dần dần, thỉnh thoảng chỉ còn năm ba tiếng súng nổ lẻ tẻ... từ từ nhỏ dần, xa dần rồi im bặt. Gió rì rào rít rít thổi từng luồng qua nóc hầm đã sập, như mũi dao rạch vô từng thớ thịt, khiến họ cảm thấy lo lắng hãi hùng mà run lập cập. Khi tiếng súng hoàn toàn im ắng, nhưng không gian còn bao trùm mùi khét nồng, oi ả, khi khói lửa điêu linh trôi qua khá lâu, các cô mới hoàn hồn uể oải lóp ngóp rều rệu bò dậy, họ đi không nỗi loạng choạng chẳng phải do đói, mà vì còn quá khiếp sợ. Tuyết Ngọc là cô gái ưa quậy tưng trời, mà bây giờ cũng im thin thít, xép re, cô lù đù ngồi bó gối ở một góc! Từng người một rụt rè len lén khum người, chổng mông bò bò bằng hai bàn tay và hai đầu gối… cố leo lên khỏi miệng hầm. Rồi các cô tự động ngồi phệt ngay xuống đất, duỗi đôi chân ra, họ thừ người ngố ngáo, ngơ ngơ ngác ngác lù đù như con cu li (marmotte). Họ chẳng thể cử động trên nền đất khô cứng loang lổ gạch đá bừa bộn, thủy tinh lộn xộn với tro bụi đất cát. Họ không kêu la, không nói, không khóc. Vì sự khiếp sợ hãi hùng đã dâng đầy cổ họng khô bỏng.

          Mặt mày ai nấy đều tái xanh tái xám như nhuộm chàm, mặc dù trước đó cô nào cô nấy ỏn à ỏn ẻn, yểu điệu nhởn nhơ thắt đáy lưng ong, chăm chút tỉa tót tóc tai, họ cẩn thận vẽ lông mày lá liễu, đôi mắt lá răm viền thêm bút chì đen cho có vẻ mơ màng, mặt hoa da phấn, môi trái tim thoa son tía, nụ cười rõ tươi tuyệt đẹp, làm mát lòng người. Giờ phút thập tử nhứt sinh nầy, họ đã chà mặt xuống đất; bây chừ tóc tai bù xù như tổ tò vò, trông “qúy ẻm” mặt mũi lem luốc coi thiệt dị hợm, bộ dạng ai nấy giống như con mèo vá. Mồ hôi, bụi bặm, đất cát, khói khét, đã "trổ đồi mồi" màu da “công nương qúy phái đài các diễm lệ” mất rùi. Mà bọn con gái ni đã "xù lông nhím" không ai thèm nhìn bạn cười nhạo nhau nửa lời.

          Trung Tá Lịch được Đại-tá Phát mời, cùng qúy sĩ quan cao cấp tùy tùng đi thị sát một vòng quanh vùng cấm địa. Tuyết Ngọc nghe cậu nói trong phái đoàn nầy, có mấy quân nhân đã vinh dự theo học khóa Clandistine Operations cuối năm 1960, do Combined Studies tổ chức, qua sự tài trợ của toà Đại Sứ Hoa Kỳ. Dù nhiều đêm thức trắng trong vùng giao tranh không chợp mắt, trông ông có vẻ hơi mệt, do tấm bản đồ hành quân địa phương chằn chịt dấu mực khoanh tròn xanh, đỏ, ghi trục toạ độ và đóng quân. Màu nâu ghi vùng cao độ, điểm chuẩn của trục trung độ và hoành độ: được lấy bí số Phương Dung, Lệ Thu, để gọi chấm trên bản đồ, lên, xuống, phải, trái. Ông vẫn ra khẩu lệnh gọn gàng.

          Tuy mệt thế, ông không mất đi nét rắn rỏi kiên cường, oai nghiêm trên bộ treillis lá cây màu xanh đậm do một anh lính phục vụ hồ ủi thẳng nếp giúp ông. Đôi giày botte de saut cao cổ bóng láng, ôm lấy hai ống quần gọn gàng. Súng lục nhỏ nạm ngà voi xinh xinh, đeo xệ xệ bên hông. Miệng ông ngậm ống pipe, đầu đội nón sắt, tay ông quay quay chiếc ba ton gỗ cẩm lai bịt bạc hai đầu làm gậy chỉ huy. Dù trên cổ áo ông không đeo bông hoa bạc, nhưng có mấy ai mà không biết về vị chỉ huy Sư Đoàn nầy. Ông đậu thủ khoa khoá Sĩ-quan Đông Dương, mang tên Promotion Indochinoise quân đội Pháp. Ông giữ các chức vụ quan trọng như Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Thiết Giáp. Tổng Giám Đốc Bảo An Dân Vệ. Bây giờ là Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh.

          Đại Tá Phát vừa đi thị sát điạ hình, vừa thảo luận về kế hoạch phòng chống, cách tiến hành trận chiến với ông Rufus Phillips, là giám đốc cơ quan Strategic Hamlets (Ấp Chiến Lược, gọi nôm na là Nông-thôn-vụ). Và ông Giám đốc cơ quan viện trợ Mỹ USAID. Cùng tháp tùng có phái bộ kinh tế gọi tắt là USOM, chuyên cung cấp sữa bột có đường, bột mì, dầu bắp, đồ hộp, hàng ngàn bao bố áo quần Mỹ Quốc viện trợ, thuốc lá Salem. Pallmall, vân vân... Phái bộ chỉ huy yểm trợ quân sự, gọi tắt là MACV, và Cố Vấn Mỹ là Trung Úy James Webb trẻ măng, miệng tươi cười ngậm điếu xì gà Schimmelpennick. Hình như anh ta mới tập sự viễn chinh. Có thể những người Mỹ đầu tiên đặt chân lên đất Việt, còn ngỡ ngàng xa lạ về chiến tranh "du kích chiến" chỉ là một khái niệm mơ hồ.

          Ắt hẳn "anh chàng Mỹ" chưa hiểu định chế ấy, chưa có kinh nghiệm, và rút tỉa kinh nghiệm chiến thuật là bao. Không rành hơn, không giỏi hơn quân nhân Việt Nam về chiến thuật, chiến lược nầy. Dù rằng kỹ năng tác chiến, và khả năng toàn diện của lính miền Nam Việt Nam, dựa vào thuật ngữ của súng M-1, súng Garrand cổ lỗ sĩ. Vả chăng "chàng Mẽo" kéo mươi củ súng 105 ly qua Thái Bình Dương, để "mớm mồi" Việt Nam "bắt tay với Mỹ quốc viện trợ"; trong tinh thần nhân chủng, “đề huề” hợp tác chặt chẽ việc bang giao!? Nhưng, ông Tá phe ta sẽ nhờ họ thực hiện tốt việc yểm trợ, tiếp liệu quân viện, kinh viện là trọng yếu. Ông sẽ thảo luận về các mối tương đồng, viện trợ kia: Thực tế nhứt là xin vật liệu làm nhà tiền chế, đào giếng, tráng những con đường đất thành ra đường nhựa. Xin Mỹ cung cấp cho đầy đủ nhiên liệu: xăng, dầu, xi măng, tôn, sắt chữ U, sắt chữ V, làm cầu, xây trường Tiểu-học & nhu yếu phẩm v.v... Cùng các giao hảo tốt đẹp khác. “Anh chàng ta” nói:
          - "Sure". Mấy chuyện lẻ tẻ nầy, nước Mỹ không lo bankcruptcy. OKay!

          Thấy phái đoàn dừng lại trước cửa hầm quá bất ngờ, các nữ quân nhân xộc xệch quần áo đang ngồi soãi chân, giạng háng, họ sửng sốt vội vàng lóp ngóp đứng phắt dậy nghiêm chào. Đại Tá Phát nhìn thần sắc các cô nhợt nhạt, tái xám, lem luốc, đầu bù tóc rối xù to như tò vò ổ rơm, thân thể dúm dó, co ro cúm rúm, run run như người bị bệnh thần kinh ngố ngáo nặng. Thì ông quay sang Trung Tá Lịch và các sĩ quan tùy tùng... Họ nhìn nhau khe khẽ nhún vai, nhích cặp lông mày lên một chút, rồi qúy sỹ quan từng trải giàu kinh nghiệm lừ mắt, mím môi, cái bụng họ rung rinh vì dấu tiếng cười tươi, họ quay lại nhìn nhìn... mấy cô binh nhì dưới quyền non đời, ngây thơ tươi trẻ rất khả ái kia, họ hơi nhếch mép thân mến mỉm mỉm gật gù. Chao ôi! Thật thảm thương cho các em! đâu rồi nữ tướng hào kiệt anh tài (giống như Hoa Mộc Lan thuở xưa!? Có lẽ các nàng lo dông tuốt… chạy bán mạng về bên Tàu mất tiêu). Quê xệ hết sức ha quý anh ui, các em thiệt mắc cỡ co ro cúm rúm như con gà mái mắc mưa.

          Mấy ngày sau vẽ bình tĩnh bàng quan của thôn, xóm, có lẽ vãn hồi, nhưng còn đọng lại trong lòng người bao lo âu, run sợ tai hoạ khác bất ngờ ập đến. Các cô dần dần bình tĩnh đôi chút, nhờ sự lân mẫn tự nhiên, giữa các quân nhân dạn dày sương gió từng xông pha nơi vùng mũi tên đầu đạn ở chiến trường, nhờ sự lặng lẽ thờ ơ của người lính trẻ, nhờ nhiều nụ cười đầy bao dung, khoan thứ của các sĩ quan đã từng trải. Các cô nhận biết, nghe quen tai đã phân biệt tiếng súng bắn đi hoặc câu vào. Tuy đôi lúc bất thần nghe súng nổ, họ giật bắn người, còn run sợ, hai lỗ tai hầu như ù ù, lùng bùng, điếc không nghe gì, riết rồi điếc đặc không sợ súng.


          Riêng Hiếu Hoà điếc thật rồi, nhưng đứng trong khu bộ chỉ huy cô còn thấy đầu đạn bay vun vút trên đầu, cô thập thò lấp ló đi ra, đi vô nơi lều bạt, thấp thỏm run run nhìn về mấy ụ súng sắt đen lạnh khạc ra lằn lửa xi xi xẹt xẹt, viên đạn nhọn hoắt bịt đồng sáng loáng, vút vút xoáy tít vào không trung ùm… Oằng… Pằng… Tạch Tạch Tạch… Bùm! Hoà sợ hãi kinh khủng nấp vô góc nhà, cô rụt cổ co người ngồi hụp xuống, hai tay Hoà bưng lấy đầu, toàn thân run bần bật, tim nhảy thình thịch trong lồng ngực, hơi thở nghẹn cứng, đứt quãng như muốn hụt hơi. Cuộc sống mới dưới sức nặng tột độ kinh khủng của gánh đời nghiệt ngã đón chào Hiếu Hoà “bằng những pha ngoạn mục” đến thế sao!?
          * * *
          Tình Hoài Hương

          *
          (1) Phạm Hồng Thước
          (2) Bùi Giáng
          (3) Trương Trọng Kiên
          (4) Yên Phú–Trần Điềm

          Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
          Trân trọng
          Last edited by Tinh Hoai Huong; 12-25-2020, 06:26 AM.
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • #6
            (cell phone) Photo by Hoài Hương

            Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
            Phần Thứ Nhứt
            Chương 6


            Chi Lạ!
            Tình Hoài Hương
            *


            Dòng sông Vệ xanh biếc êm đềm có một khúc bên lở thì nước đục ngầu phù sa, còn bên bồi nước trong leo lẻo, lâu thật lâu Hiền Hòa thấy một giang đỉnh đi trên sông, cột nước bắn vọt thẳng đứng lên cao, giang đoàn trưởng cho tàu tà tà đi tới, anh chờ đợi khi con nước xuống thấp đến mứt nào tàu có thể chui qua cầu. Trên sông lác đác có năm bảy ghe thuyền nhịp nhàng khua mái chèo lênh đênh theo sóng nước, trên con đường đất đỏ lởm chởm đá dăm, có rặng tre la ngà uốn mình men men theo ven sông. Nắng dắt vàng trên mấy cù lao, mặt trời thắm đỏ lóng lánh to to, tròn tròn như viên hồng ngọc khổng lồ ngời sáng, dần vươn lên cao, lên cao. Hương hoa đâu đó thoang thoảng bay dìu dịu thơm thơm trong ánh nắng ngọt ngào buông tỏa. Xe chở hành khách đi từ Đà Nẵng chạy ngược chiều vừa qua mặt xe GMC, trên xe khách lố nhố người ngồi chật như nêm. Vừa thấy có “mấy hoa hồng biết nói” xinh xinh, đẹp đẹp bên xe kia… thì các anh lính í dà dá da… liền huýt gió, tróc lưỡi, xíp xi, xíp xì... la ó, hớn hở reo vui. Họ chồm người ra vẫy tay lia lịa, tíu tít chào hỏi nhốn nháo (giống như có bà con với nhau từ đời vua Tự Đức, ha qúy anh chị em!). Có anh quay ra đường nhìn các cô ngâm to bài thơ:

            … Em thấy không? mây trời trôi ngang núi
            Như một đời rồi lẫn khuất qua nhanh
            Chuyện trùng-phùng... khi cỏ cây hoá thạch
            Những niềm đau còn lại cả đời nhau (1)

            Các cô gái xuân-thì ngồi khép nép bên xe kia cứ e e, ấp ấp, lí lí, lắc lắc dụi đầu vô vai nhau, họ ríu ra ríu rít nói líu lo, xù xì to nhỏ mí nhau, mà cười khúc khích chỉ chỏ, vẫy vẫy tay lại, họ dấu mặt dưới vành nón lá kéo nghiêng, e e thẹn thẹn. Trông các cô gái hồn nhiên dễ thương ghê nơi, càng ấm áp lòng anh lính chiến với “tình quân dân như cá với nước” biết bao! Con đường nhỏ trong Thôn được toán lính “viễn chinh mũ mão cân đai, gươm giáo” chỉnh tề, tà tà đi tới đi lui, đi dài dài hoài. Khiến bà con sống ở hai bên đường Ấp biết mặt. Dãy phố nhỏ trừ mươi nhà mở rộng cửa buôn bán chụp giựt thời cơ. Còn đa số nhà khác thì đóng cửa cài then cẩn thận, họ ra đồng làm việc, hoặc sợ cảnh Làng, Thôn, Xóm bị lôi giật dậy giấc ngủ muộn phiền, bị dựng đứng lên bởi tiếng nổ đinh tai nhức óc do Việt Cộng chuyên pháo kích bừa bãi, hoặc đắp mô gài mìn, nhứt là họ sợ bọn vici lạnh tanh, không tha ai, chúng nó cứ thích nhòm ngó lôi thôi đến đời dân dã (rất muốn an phận), khi nước mắt đọa đày đớn đau cứ trôi hoài chảy mau theo tháng năm cuồng nộ.

            Tất cả anh em Phòng 5 đứng xớ rớ bên một nhịp cầu đã sập, họ đợi đò ngang rước qua sông Vệ, để đi Ba Tơ, đi Nghĩa Hành. Bao giờ cũng vậy, các anh khinh binh sẽ đi trước dò đường an toàn, lúc đó, Phòng 5 sao y bản chính lọt tọt lẽo đẽo bám riết theo sát đằng sau. Nhóm công tác Trung Đoàn 25 Công-Binh Kiến-Tạo đã đến khai thông hương lộ bên đầu dốc. Chiến sĩ ra trận có áo giáp: thì phần nào yên tâm, phủ quyết bao lo sợ khi lâm chiến, nên Trung nai nịt chỉnh tề, đi thị sát xong, anh vững tin trình báo về bộ chỉ huy kịp thời, hầu chận đứng “con đường lạc lối” của bọn “vici” từ làng ra bưng, và ngược lại.

            Vài ba “ông tướng con” khác lén lén lút lút, xầm xầm xì xì to nhỏ, nháy nhó bấm béo rù quến nhau, lũi đi tìm chút hương hoa phù dung cuộc đời nơi chị em ta, cho đỡ ghiền. Tấm bảng tên dính một đinh khuy lủng lẳng, xệ xuống cửa sổ vỗ lách cách mỗi khi có gió lùa. Anh Phước cấm ngặt, cấm chỉ… anh em không được bén mảng đến gần. Phước ghê rợn gớm ghiết, kỳ thị với cả tấm bảng kinh khủng. Trông nó thật chướng tai gai mắt quá chừng! Đó là Snack Bar dưới sự điều khiển của mụ Chánh (là một quán cà phê lậu kín đáo trá hình). Con ả tô son trét phấn rất diêm dúa, dáng ả đi uốn éo nhảy nhót tước bộ xà hành. Bao phen bị cảnh sát ruồng bắt, ả Chánh cứ trốn chui, trốn nhủi vẫn không chừa cái mặt mo mụ tú bà lì lợm, trơ trẽn, ù lì lẵng lơ thộn chường ra, coi quá dễ ghét. Chỉ có khách quen say sưa bội tình hoan lạc trong bầu không khí sặc sụa rượu nồng, khói bồ đà tàn dư từ thời Pháp-thuộc cay xè, khét lẹt còn lưu lại.


            Từ chỗ đó, thuốc phiện lan đi khắp mọi nơi, loại cây nầy trồng ở vùng cao Lai Châu (xứ Thái), và Vịnh Hạ Long, người ta làm ra thuốc phiện, rồi bán cho lái buôn “Tàu Ô” (black sail pirates) để đổi lấy tiền, vàng, súng đạn. Hoa thuốc phiện nhiều màu, lá so le có khía răng không đều, thân và quả chế ra codein, morphin; quyện lẫn mùi da thịt kẻ ghiền rịn ra khét khét, chua chua, ơn ớn, hôi hôi, nhơm nhớp tanh tanh trên cái giường bóng nhẫy mồ hôi. Ai đã vào cái hang ổ đó rồi, thì... khó tìm thấy lối ra. Bầu trời, sông dài, biển rộng, núi cao hồ thẳm, giờ chỉ thu hẹp trong gang tấc, đẵm trong vò rượu tăm sủi bọt, bên bàn đèn nâu, dưới bàn chân si mê phóng đãng bước thấp bước cao, trôi theo con sóng xô giạt. Thân hình hắn nhấp nhô, nhẹ như bông gòn bay, đẩy đưa phiến lá tội tình. Lưng gù gù, đầu gật gưỡng hắn cúi cúi lắc lắc, bước đi loạng choạng thểu não, bơ phờ, đôi chân bành giạng ra ngượng ngập và nhút nhát. Trông hắn chẳng giống ai, chả giống con giáp nào! Tàn mớ đời trước vận nước điêu linh đang cần sức trai lèo lái con thuyền cỡi sóng ba đào. Kẻ ghiền rồi, hai cánh tay và bàn tay trơn buông thòng không còn sinh khí hào hùng, sáng giá với gót giày botte de saut đập mạnh vô nhau kêu cái cộp. Thật kiêu! Thật hách! Thật oai hùng siêu đẳng! Kẻ hút sẽ không còn bàn tay anh tài vững chắc đưa lên mũ, ngực ưỡn ra, mắt sáng quắc nhìn thẳng phiá trước; họ sẽ tiêu tùng đời trai trẻ. Nếu vào... "cửa mả tam giác tử vong" đó. Còn chết tiệt hơn khu tam giác vàng giáp giới Thái. Miến. Lào. Vì thế, người ta mới đặt cho nó cái tên chết người là: Thuốc phiện.

            Góc đằng kia có bốn anh trải poncho cạnh cây bần, họ ngồi giạng chân với xị rượu và con cá mòi vừa nướng thơm phức. Đa số người lính lúc nào cũng vui nhộn khi có chút men bia, là mấy anh thấy đời tà tà vi vút lên hương. Thống khoái hơi men nếp cẩm xịn mà cho “vô mỏ” mấy anh, thì đã-điếu tuyệt cú mèo hết sẫy, đưa họ ngoắt cần câu lên cơn say khi trống dạ. Họ đang “du ca mùa Xuân” làm bợm nhậu chì nhứt phố núi. He he hi hi:

            Ai nhớ ai quên cuối trời phiêu-lãng
            Mai có về hẹn gặp với anh em
            Miệng vẫn nở nụ cười trăm năm cũ
            Dẫu cho đời thay đổi quá đi thôi
            Tay chuốc rượu, uống buồn đau một kiếp
            Hẹn lần nào mình sẽ ghé thăm nhau
            Mai mốt? ờ..! biết đâu chừng mai mốt
            Nhìn quẩn nhìn quanh dần thiếu... bạn bè
            Người đến rồi đi, mây chiều ngang núi
            Lòng hỏi vì sao? phiêu lãng cuối trời. (1)

            Trong lều bạt, Sĩ gây sòng đen đỏ, năm anh chụm đầu vào con bài “cơ, rô, chuồn, bích” mê đến nỗi nhịn cơm nhịn canh, lên xe GMC anh cũng xòe, ngồi trên giường bố cũng đánh. Chỉ có khi đi làm việc họ mới yên. Túi tiền anh xẹp lép, nhường chỗ cho cỗ bài dày cộm đút trong túi.
            - Mấy anh ơi! ra chiến trận sao anh thích la cà chỗ nầy chỗ nọ linh tinh, xĩn xạc, tháu cáy nhau kinh khiếp vậy? Chắc vợ con anh ở nhà rất lo lắng, thất điên bát đảo đó. Anh ưng lắt léo cuộc đời làm chi! Ba trợn quá! Quỷ thiệt chớ. Dị hợm ghê! Khỉ đột á! Coi chừng bọn em lén đi méc Trưởng-phòng; thì các anh sẽ bị kỷ luật gấp đó nha! Nhưng em nghĩ anh Phước chẳng thèm lưu tâm chuyện riêng tư làm gì, chỉ vì các anh đã “thành nhân chi mỹ” có tự do cá nhân cả rồi. Anh Phước đang điên đầu vì chuyện họp hành và phân công kìa.

            Được thượng cấp chỉ định làm trưởng ban nhạc khi tuổi anh Cương đã xế chiều, ảnh gầy gò, trán hói, gương mặt nghiêm khắc. Ngọc nghe Thu Hoa nói:
            - Lâu lâu ảnh có cảm hứng dồi dào, đã sáng tác chiều tác, hoà âm hòa iếc gì đó. Đối với tôi, nghe ảnh đàn từng tứng tưng, tằng tắng tang, bùm búm bum, bòng bóng bong… giống như đàn gải tai trâu. Tôi coi anh Cương cũng ra trò dị biệt trong phường văn nghệ sĩ miệt vườn. Ưu điểm của ảnh có chừng ấy, nhưng đối với đàn em, ảnh nổi tiếng hách xì xằng, tỏ vẻ ta đây tài ba lỗi lạc hơn bất cứ loại kỳ nhông cắt kè nào, (oai hơn cả anh em thứ thiệt nữa). Khi anh Cương muốn dùng một người nào, anh nâng người đó lên chín tầng mây. Nhưng lúc không cần đến họ, thì anh Cương có cử chỉ kém tế nhị, phun trào những lời cay độc! Có vài ba hạ cấp e ngại anh ta, họ luồn cúi nâng bi, đánh bóng cuộc đời ảnh quá đáng. Thiệt mắc cỡ khi họ trắng trợn "bơm" cho ảnh căng hơi, “thổi” ảnh phồng to hơn quả khinh khí cầu. Thế là ảnh nở mũi, càng dương dương hiu hiu tự đắt, ảnh nổ muốn “vồ” người khác một tí cho oai í mờ.

            Mai Hương chêm vào:
            - Ảnh giữ một "củ súng" mousqueton cổ lỗ sĩ, giống vệt nhăn cày sâu trên trán khổ chủ, khẩu súng lỗi thời Garant M.I, kẹp 8 viên đạn, hay Carbin M.I củ súng giơ lên bắn từng phát một “bụp, bụp…”. Vô duyên òm, y đúc như súng bắn lon trong hội chợ ghê. Sau trận chiến, trong tận cùng tan hoang đổ nát của quê hương đỏ lửa, Cương đi thu lặt chiến lợi phẩm, nào là lựu đạn nội hóa, mìn muỗi, súng AK, mũ nồi tai bèo, dép râu, vân vân... Thành tích đó của mấy anh Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thuỷ Quân Lục Chiến… Sau khi “phe ta uýnh vi ci” te tua chạy có cờ vất bỏ lại. Cương lụt lịt sai lính trơn tà lọt mới nhập gia khệ nệ bưng những thứ đó về, để kê khai làm thành tích riêng “hù” anh em, ảnh khôn mà không ngoan, chỉ muốn ra oai xí, lớn giọng xỉ vã người khác đến khiếp vía.

            Hoà mới “nhập gia” nghe bạn “thâm niên công vụ” kể về Cương, cô le lưỡi, hết hồn! Trong Đoàn 5 nầy có anh Thái vừa bị thượng cấp cạo trọc lóc đầu, cạo râu, cạo cả lông mày, cắt lông mi (thiệt tình là Hoà nhìn anh Thái bị... “trọc lóc cái trốt, tu mi nhẵn thín bóng láng” như vậy, cô tưởng tượng anh giống con khỉ đít đỏ mắt xanh ở trong mấy gánh sơn đông mãi võ, rất dị hợm, mắc cười kinh khủng, cũng ghê ghê dị hợm sao đâu!). Lý do Thái bị kỳ kỳ, dị dạng như thế là: do anh có tới... “thất tình sầu đời”: nồng, chát, đắng, cay, mặn, ngọt, lạt; nên ảnh nhậu say khướt mà quậy, đánh lộn tùm lum. Thái bị gián cấp. Thế là anh bất mãn, bất bình, bất cần, bất chấp, bất định, bất hạnh, bất lợi… đi quậy tưng trời: Ảnh thiệt “sừng sỏ”, ba gai quá chừng. Khi say bí tỉ chân nam đá chân chiêu, Thái dám bố láo bố lếu đứng giạng háng, trợn con ngươi ốc nhồi muốn lòi ra khỏi hai mắt, anh trừng trừng xỉ xỉ vô mặt cấp chỉ huy, láu cá nói:
            - Chỉ là con tắc kè bông ôm đít chạy lông nhông mà thôi.

            Biết là Thái quá say mới dám nói những câu xúc phạm với thượng cấp như vậy, nhưng chỉ huy cần cho anh vô chuồng cọp, trừng trị cái tội anh bất nhã, không đúng quy cách tác phong của con nhà lính, phải có kỷ luật của một quân đội nghiêm minh, để làm gương cho đồng đội, là chí phải. Từ lâu Thái vốn không trọng tài năng Cương, Thái thấy Cương gàn bướng ngu ngu sao ấy. Nói nào ngay Thái khá giỏi về nhiều phương diện, nhưng khổ một điều là anh Thái có tính tự phụ kiêu ngạo, hung hăng, ba gai, bản chất “ta đây” đã ăn sâu vô xương tủy anh rồi. Ẩn nấp đằng sau gương mặt phong trần coi khá đẹp trai qua nụ cười mỉm miệng, lại chứa đựng một tham vọng mê hồn cuốn hút anh phải hiên ngang đứng lên, “chơi” một cái gì cho nổi trội hơn đồng bạn.


            Thái nghĩ: “Anh Thượng-sĩ chỉ hơn anh Trung-sĩ-nhứt có một bậc, thì xêm xêm mém mém, chứ có cao cách gì lắm, mà buộc người dạn dày kinh nghiệm chiến đấu gan lì như ta, việc gì cũng nhứt nhứt phải nghe theo hắn sao”. Nhìn các anh em khác khúm na khúm núm cung kính nâng bi trình bẩm “y”, Thái lại càng khó chịu. Mình xêm xêm nếu không muốn nói là vượt trội hơn Cương chút, vì tài đờn ca hát xướng… là nghề của chàng mà. Cương có giỏi thì hát thử coi, tt nhiên cái giọng ngỗng đực ấy mà cất lên… thì thiên hạ sẽ chạy làng:
            Những ngã rẽ trong đời ai biết được?
            Lòng chẳng vì nhau... thôi thế cũng đành. (1)

            Rồi việc gì đến tất nhiên đã đến, khi Trung-úy Phước đi lên bộ Tổng Chỉ Huy hành quân dự phiên họp, Trung-úy trao quyền điều hành lại cho Cương chỉ huy Phòng 5. Do Cương đã có thành kiến với Thái, cậy ỷ mình có quyền hành trong tay, nên anh Cương lớn lối chỉ tay năm ngón sai hạ cấp Thái không tiếc lời. Nếu anh “Phó chỉ huy Cương” biết dẹp bỏ lòng tự trọng, và anh Thái bớt tự ái một xí, thì trong Phòng 5 sẽ có được những anh lính giỏi, tốt. Thế nhưng rất tiếc… đã có vấn đề không hay xảy ra giữa hai người. Không hiểu vì lý do gì Cương và Thái “gườm” nhau "đậm-đà”, nên đâm ra xích mích, đấu khẩu ác liệt, tay đôi nầy cãi lộn rần trời... khi cơm trưa vừa dọn ra, chưa kịp ăn. Anh em trong đoàn không ai can gián nỗi. Có tỵ hiềm và ghét Cương từ lâu, nay “Thái phong trần” càng tức giận, quê xệ, cảm thấy mất mặt với đàn em quá. Thái phải cay cú lật tẩy quân bài “ngu ngu" kia, nói huỵch toẹt ra những ý nghĩ mình không ngượng mồm. Thái cần tỏ ra ta đây đếch sợ chết, bất quá thì giống như “cổ lai chinh chiến, kỷ nhân hồi”, chứ sợ gì ai mà run, mà rét! Sự “chân thật” quá mức cần thiết cuả Thái, xét ra đôi khi tàn nhẫn, phũ phàng! Thái “hiên ngang” liền móc "trái na sắt" đáng ghét dằn dộng thật mạnh trên bàn cơm: nơi có dĩa rau muống luộc, dĩa cá diêu hồng chiên dòn, tô canh bầu nấu tôm khô lỏng bỏng. Ai nấy đều nghe cái “cộp”. Mấy thức ăn đó tự động lắc lư, văng nước canh tung tóe, những con cá hồng đã chiên xù chết rồi, mà còn nhảy tưng tưng.

            Anh Thái khư khư cầm trái na ấp vô ngực, lăm le chực mở chốt an toàn, hù tự sát. Anh Cương tuy bất bình, mất mặt, cụt hứng, hết hăng tiết vịt, giận run, dù là đàn anh, nhưng anh biết nhẫn nhịn im re, xép ve! Cả hai anh nghẹn đắng cổ họng, không nói thêm tiếng nào, y như con tuấn mã đang phi nước đại, bỗng dưng bị cây đao chặt xuống cái phụp: cụt mất bờm và đuôi. Trông thật thảm thương dị hợm quá chừng. Một lúc thật lâu, anh Long len lén đến bên ngọt ngào năn nỉ Thái bớt giận: “Chuyện đâu còn có đó, ông sẽ được minh oan”. Mấy cô đơ dem cùi bắp thấy vậy la hét rân trời, lo chạy trốn tá lả, sợ “trái na” hơn sợ giặc cộng sản đuổi té re bên đít. Các cô hét tướng lên om sòm, nghe the thé, chát chúa, thiệt điếc con ráy quá đi! Ngọc từ trong xó góc bếp chạy xộc ra, cong cong cái lưng eo ếch cô ôm tay Thái, cô dám cả gan xớ rớ gần bàn ăn có “quả na”, Ngọc vừa khóc hu hu, hic hic… cô dỗ dành anh ta như bà chị dỗ em bé tí nị. Mặc dù Tuyết Ngọc nhỏ hơn anh Thái mười tuổi. Khiến Thái càng mủi lòng khóc rống hụ hụ!

            Mấy anh khác, mỗi người một câu phải trái, ôn tồn phân tích rành mạch, cho hai bên “bất phân thắng bại” nguôi ngoa dần dần xí. Anh Vị “tà lọt” (anh chị trong phòng “thương”, mà “thân” gọi Vị như thế, vì đối với ai ai, thì anh Vị hiền hòa, chí tình, ân cần giúp đỡ bạn ngay khi có ai nhờ vã, anh vui vẻ nhận lời, dễ dãi cười xòa), anh Vị đến bên bạn: gỡ tay Thái, lấy trái na độc hại giết người, Vị lật đật đem dấu ở xó xĩnh nào. Chả biết. Riêng Hoà cảm thấy e dè ơn ớn sợ sợ, ít muốn thân thiện với cấp trên, nhứt là cô có nhận xét riêng về cấp chỉ huy: “nghĩ mà buồn khi anh Cương dùng người “rếch lô” quá, anh Cương không tế nhị ưa chê bai đàn em trước mặt nhiều người, họ mất mặt cũng có tự ái và tự trọng chứ! Anh Cương ngầm ngầm có chút ghim gút “trù dập”, và đa nghi. Hoà tưởng khi anh đa nghi về tài năng ai đó, thì anh không nên giao trọng trách cho người ấy. Càng hơn nữa nếu người ấy đã làm điều gì sai trong quá khứ, hiện tại họ cố gắng không làm sai quấy nữa, thì anh nên dìu dắt nâng vực họ lên! Tất nhiên họ biết điều, sẽ ân hận, dày vò... họ sẽ chia sẻ với mọi người từng bước; giống như đang chia sẻ tính mạng mình nơi chiến trường.

            Anh Phước đi họp về, nhìn mặt mày ai nấy méo xẹo, ủ dột, bàn cơm nguội lạnh, đàn kiến sắp lớp bò bò bu bám hút mấy con cá diêu hồng chiên béo ngậy không nhúc nhích, ruồi bu bay lên đáp xuống ù u... chúng vui say nhậu nhẹt no nê. Anh Phước từ tâm độ lượng khéo léo điều tra. Phước khôn ngoan khiển trách nhẹ nhàng “huynh đệ chi binh như thủ túc”, anh giản hòa hai người ấy rất hợp lý:
            - “Khôn ngoan đối đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. Nếu anh em có “ngắt nhéo cào cấu” chỉ một chút ở bên tay nầy, thì không những tay kia, mà nguyên cả thân thể anh em cũng biết đau. Phải không nà? Nhứt là chuyện tẹp nhẹp riêng tư giữa hai cá nhân, không nên khêu ra thành to tát, để mà xích mích nhau, làm mất danh dự, thể diện anh em quân nhân đồng đội trong Phòng 5 nói riêng, và quân đội nói chung. Ta cần nói với nhau những lời dịu êm, xây dựng tốt đẹp, phải biết đoàn kết, cư xử với nhau thật lòng, tận tình giúp đỡ trong tình mến gia đình quân nhân.

            - … Đây là lần đầu, cũng là lần cuối, tôi không muốn trình việc nầy lên cấp chỉ huy, khẳng định cuối cùng tôi muốn giữ anh em ở lại cùng tôi: đùm bọc, chia sẻ nỗi niềm... Việc lưu lại “người tài” là điều quan trọng, nếu cái tâm cuả anh em trong sáng, chân tình, anh-minh, có lòng tự hào! Thì tôi rất cần anh em! Tuy nhiên, người nào tự ý thích chà đạp nhân cách chính mình, dày vò kẻ khác để đạt tới quyền lực, vu khống người tận trung, thì họ phải trả giá cho hành động và trách nhiệm cuả một quân nhân bất khả tín, vô kỷ luật. Kết quả: họ phải đối mặt với cái nút thắt về sự trắc trở, sự thất bại chua cay, hối tiếc vô vàn về những điều lố bịch do tự mình đã gây ra, thì đã muộn vậy. Trong nguyệt san đã có bài thơ:
            Cho dù ước vọng còn dang dở.

            Thì chữ tình thân chẳng xóa nhòa.
            Bằng hữu chân tình trong biến loạn.
            Chí hùng son sắt giữa phong ba. (2)

            Anh Phước đúng là một vị chỉ huy mẫn tuệ và mẫn tiệp. Phước có tinh thần cộng đồng tha nhân, có lòng hào hiệp, nặng danh dự và trách nhiệm, yêu thương thuộc cấp thật tình như em út. Nhưng, ở chiến trận anh Phước cương quyết, nghiệt ngã với anh em nào ba gai quậy phá và sai trái. Ấy là điều chí phải. Anh Phước cần bảo vệ sinh mạng, tài sản, tình cảm đồng đội từng giây, từng phút. Dù anh Phước không muốn nặng lời quở phạt ai, vì ai ai cũng “thành nhân, thành danh, thành tài” cả rồi.

            Hoà nghĩ thiệt là:

            Đời lắm lúc
            không như mình mong đợi
            Ước mơ nhiều...
            hiện thực được bao nhiêu?!...
            Ta cứ mãi xây lâu đài trên cát
            Rồi rưng rưng...
            những mất mát trong chiều... (3)

            Hai anh ấy cảm thấy ngượng, hổ thẹn, họ biết mình quá đáng nên tự động đứng lên cúi mặt ấp úng xin lỗi mọi người đừng chấp, vì nông nỗi quá nóng giận phi lý, để chuyện không vui xảy ra. Hoà rất cảm phục hai anh có nhân bản, đồng thời mến thích đức tính tự trọng, cũng do:
            Anh với Tôi hai người chung nhịp sống,
            Cùng máu hồng nhịp đập của trái tim
            Cùng một Mẹ giống anh hùng Lạc Việt,
            Của tổ tiên xưa miền đất Văn Lang
            Từ Vua Hùng cho đến Lý Trần Lê ...
            Bao thế hệ đi qua non sử Việt.
            Rồi ngày ấy quê tôi binh lửa khói
            Anh và Tôi thề nguyện bước chân đi...
            Đem tất cả tâm hồn dâng Đất Mẹ,
            Nguyện một lòng, quyết chiến giữ “tự do”.
            Đem thái bình vĩnh cữu đến non sông... (4)

            Mọi người trong đoàn vui vẻ ôm nhau cười ra nước mắt, trưa nay chẳng ai kịp ăn uống gì đói meo, vì đến giờ Phòng 5 phải thu xếp hành trang lên đường đi công tác nơi xa. Mỗi người đi công tác: đều phải cõng trên lưng một lít gạo một ngày, tha đi đây đi đó, ban ngày đi làm đủ thứ việc, ủy lạo quân nhân, đồng bào, anh em chia phiên nhau canh gác, nấu cơm ăn, tối tối lo trình diễn văn nghệ. Ban đầu được phát gạo sấy và đồ hộp, Ngọc khoái chí ăn liền một tuần. Sau đó, thấy đồ hộp Ration C, cô sợ, vì ngán lên tới cần cổ! Anh chị em đã hùn tiền, giao cho nhóm đầu bếp của Phòng 5 là anh A Kíu sanh quán ở Chợ Lớn đi chợ mua rau, thịt, cá tươi, về nấu cho cả phòng cùng ăn, ăn cơm chung nói chuyện rổn rảng như thế thật vui, có tí canh húp rột rột, mà cảm thấy mát ruột mát gan.

            Chợ xóm nhỏ họp thoáng chốc khoảng vài ba giờ, lo chụp giựt mua bán. Hôm nào anh A Kíu & chị em Ngọc lỡ đi chợ trễ, thì kể như không còn gì ngoài mấy bó rau muống bầm dập. Thà có rau ăn, còn hơn ăn lương khô. Ven bờ rau muống phồn thịnh, hào phóng mọc từng bè chạy suốt dòng sông, ăn đọt rau thả gốc già xuống nước có tí bùn đất, ít lâu sau chúng sinh sản ra “cả Làng, cả Tổng”. Ăn rau muống Hòa thấy ngon ngọt mùi vị quê hương, dễ ăn nhứt, hái rau vào, rửa sạch ăn sống, xào, nấu canh, trộn gỏi thịt heo thịt gà, thịt bò, tôm, cua... Hoặc không cần pha trộn thịt thà, để vậy ăn nguyên chất, mà tươi ngon đậm đà hương đồng vị nội.

            Lớp nón sắt bên ngoài nầy được múc thêm lần nước nữa, để dùng làm cái nồi nấu thịt bò kho gừng, sả, ớt, cà ri nị... thì tiện lợi và có thức ăn ngon tuyệt. "Nồi mũ sắt" treo ở cây sào gỗ, lửa đỏ trên đầu nón sắt lật ngửa, coi ngộ ghê. Ngọc lấy nón sắt, gỡ lớp mũ nhựa lót lưới ra, để múc nước sông lên. Cô vén tóc qua một bên uống ừng ực, tỉnh bơ:
            - Coi chừng bị sốt rét đó. Để Hoà lấy nước nấu chín ở trên xe cho uống.
            - Khát quá, lỡ uống rồi. Ớ! Ai vật nỗi mình mà bệnh. Hoà ha.

            Ngọc phụ anh A Kiu làm bếp, cô lấy hộp quẹt zippo, bật lò dầu nấu nước sôi. Chờ nước sôi rồi, cô lấy kéo cắt mấy bọc gạo, Ngọc để bọc gạo sấy cạnh mấy keo ruốc sả xào thịt thiệt khô. Có ngày nào thong thả xí, anh Minh cho lính ăn khô nướng, nấu nồi canh chua lá giang, cá đồng kho tiêu. Món canh rau đạm bạc duy nhứt ăn với rau sống và cơm gạo sấy. Đôi khi chỉ có rau muống luộc, nước luộc rau dằm thêm trái cà chua, củ hành hương, có chút muối, bột ngọt. Thế mà anh em lính ăn, vẫn cảm thấy ngon hết sẫy.
            * * *
            Tình Hoài Hương

            (1) Đông Quyên
            (2) nguyenphi Lan
            (3) Huỳnh Giải
            (4) Ngàn Thông Đà Lạt

            Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
            Trân trọng

            Bút trần nào tả được lưu luyến!
            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
            Tình Hoài Hương

            Comment


            • #7
              (cell phone) Photo by Hoài Hương

              Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
              Phần Thứ Nhứt
              Chương 7


              Người Lính Thầm Lặng Chốn Biên Thùy
              Thân kính tặng qúy quân nhân QLVNCH
              đã có một thời vang bóng trên quê hương Việt Nam…
              Tình Hoài Hương

              **



              Bửu Đan sinh ra và lớn khôn trong dòng tộc vương tôn, anh được dưỡng dục rất mực tôn nghiêm, chu đáo, đầy tình thương yêu nồng ấm của gia đình. Đan đã đi Pháp từ lúc anh tròn mười tuổi. Mỗi năm, anh đều trở về Việt Nam ba bốn lần thăm quê nhà trong dịp lễ, nghỉ hè, Tết, Spring break, v.v… Sống ở xứ người từ thuở nhỏ qua nền giáo dục phương Tây, đã dạy cho anh hấp thụ tính sòng phẳng, công bằng, tổ chức đời sống có khoa học, anh biết phép lịch sự nhã nhặn & đối nhân xử thế tuyệt vời. Đan học xong lớp second = đệ tam, lớp premire= đệ nhị, anh thi Tú Tài I (Baccalauréat Premiere Partie). Đỗ Tú Tài phần I xong, anh chọn Khoa Học Thực Nghiệm (Science Expérimentales) và Toán (Mathématiques Élémentaires). Học hết class terminal, đậu Tú Tài II hạng ưu. Nhứt là vì từ thuở nhỏ anh yêu con đường binh nghiệp, như Nguyễn Công Trứ đã nói: "Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây. Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể". Anh từng tu nghiệp Pháo-binh ở Châlons-sur-Marnes (Pháp) và Fort Sill (Hoa Kỳ). Anh bảo: “nếu anh không cố gắng, kiên trì trong việc học & hành đến khi có kết quả, thì anh sẽ không thể thực hiện được lý tưởng, hoài bão, ước mơ cuả mình”.

              Mặc dù sống trên xứ người văn minh tiện nghi, đầy đủ, sung túc. Nhưng Đan vẫn nhớ thương gia đình, nhứt là Đan thương nhớ me của anh và hoài hương xiết bao! Đan thấy đất nước mình chậm tiến, tuy nền giáo dục tốt hơn về đức dục: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Ông bà ta rất thương con cháu, nhưng không quá cưng chìu con cháu ưa lì lợm vòi vĩnh nầy nọ, nhõng nhẽo. Họ không buông thả cho chúng tự do quá trớn, trẻ con ít “hành” người lớn như lũ con bên Tây. Con cháu ở Việt Nam biết kính trọng thương yêu ông cha, nể sợ họ một phép, chúng không trân trân tráo tráo, còn choai choai dé dé, xíu xíu non dại... mà láu cá eo xèo “đòi hỏi tự do quá mức” như đám Tây con. Biết con hư nhưng cha mẹ lại sợ con “xu; xù” nên họ không dám hó hé!

              Tại viễn xứ xa lắc xa lơ kia trước Noel, tình cờ Đan quen nàng ở cạnh giáo đường Maubert Mutualité, gần tả ngạn sông Seine. Khi ấy trời mưa tầm tả, hai người vô tình đứng đụt mưa, họ vui vẻ trao qua đổi lại từ thời tiết gió mưa, tới chuyện Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của giáo hội Pháp vào cuối thế kỷ 19, thế nầy: một hôm để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh sinh viên bước vô thánh đường cổ ở Paris, anh thấy một người sốt sắng quỳ cầu nguyện nơi dãy ghế đầu. Đến gần, sinh viên mới nhận ra người ấy là nhà bác học Ampère. Khi bác học ra khỏi giáo đường, sinh viên theo gót ông đến phòng làm việc. Thấy thanh niên đứng trước cửa phòng, nhà bác học lên tiếng:
              - Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?
              Thanh niên nhỏ nhẹ:
              - Thưa thầy, con là sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin!
              Nhà bác học mỉm cười khiêm tốn:
              - Anh lầm rồi, đức tin là môn tôi yếu nhứt. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng hân hạnh lắm.
              Sinh viên liền hỏi:
              - Thưa thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?
              Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:
              - Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi nào chúng ta cầu nguyện mà thôi! (2)

              Vui vẻ và khả ái, nàng kể cho anh nghe chuyện bà thánh Jeanne D'Arc, (tên thánh của nàng) bà ta hô hào cư dân Pháp đứng lên lật đổ chống lại sự thống trị cay nghiệt của Hoàng-gia Anh năm 1429 tại thành phố Orléans. Sau đó, bà bị hoàng gia Anh-quốc bắt bỏ tù và thiêu sống. Đan cảm thấy thoải mái, ý nhị, anh hùng hồn kể cho nàng nghe về oai danh bà Triệu, về hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị của nước Việt Nam: vì thù nhà nợ nước, họ đã đứng lên chiêu mộ quân sĩ, đánh đuổi bọn Tàu ra khỏi đất nước được ba năm. Sau đó, Mã Viện đem quân qua Việt Nam xâm chiếm. Thế yếu lương cạn, bị thua trận, hai bà can đảm nhảy xuống sông Hắc Giang tự tử.

              Nghe xong nàng gật gù thú nhận em bội phục phụ nữ Việt tuyệt vời hơn bà thánh của nàng. Đan lại kể danh nhân: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris: Trên tuyến xe lửa đi về Paris, có một thanh niên trẻ ngồi cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt, và chìm đắm trong cầu nguyện. Sinh viên quan sát cử chỉ cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, không thể chịu nổi, anh ta mạnh dạn lên tiếng:
              - Thưa, ông còn tin vô những chuyện nhảm nhí thế à?
              Cụ già thản nhiên trả lời:
              - Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
              Thanh niên xấc xược trả lời:
              - Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ tôi không thể tin chuyện nhảm nhí ấy, bởi vì khoa học đã mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi, hãy học hỏi khám phá mới của khoa học. Rồi ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến nay, đều là những chuyện nhảm nhí.
              Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên:
              - Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học, liệu cậu có thể giúp tôi hiểu được chúng không?
              Sinh viên nhanh nhẩu trả lời:
              - Ông cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi sách đến ông, rồi ông sẽ say mê về thế giới phong phú của khoa học.
              Cụ già từ từ rút trong túi ra một tấm danh thiếp, trao cho sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người ấy tái mặt xấu hổ, lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris. (2)

              Đan đọc câu thơ tiếng Việt phong phú, rồi dịch ra tiếng Pháp cho nàng nghe:
              Mai tôi đi... chẳng có gì quan trọng,
              Lẽ thường tình như lá rụng công viên,
              Như hoa rơi trước gió ở bên thềm,
              Chuyện bé nhỏ giữa giòng đời động loạn... (*)

              Demain j'irai... Ce n'est vraiment pas d'importance.
              Ça arrive normalement comme des feuilles tombant dans le jardin,
              Ou des fleurs détachées au vent sur le chemin,
              Un conte plutôt insignifiant dans le courant turbulent de la vie...

              ... Chỉ ước nguyện tâm hồn luôn thư thả,
              Với hành trang thanh nhẹ bước qua nhanh,
              Quên đàng sau những níu kéo giựt dành,
              Kết thúc cuộc lữ hành trên dương thế (1)

              Je voudrais seulement mon âme toujours bien à l'aise,
              Avec bagage vide, je peux faire un rapide pas,
              Laisser derrière moi toutes les courses "tirer et pousser" en bas,
              Pour achever éternellement mon voyage sur cette planète…

              Thế là từ đấy họ hợp ý nhau... Đan say đắm người con gái dễ thương học tại L’Ecole supérieure des Beaux Arts de Montpellier Aggomération, tức là trường Trang-trí Mỹ-thuật Montpellier. Nàng đã đem lại ngọn lửa tình vút lên từ đôi tay Đan kính cẩn chấp vào, khẩn thiết chân thành kêu xin Thượng Đế. Sau đó hai người hò hẹn đi ăn tối tại Perle-du-Lac trên bờ hồ Leman thơ mộng. Từ nơi quê hương nàng, anh nhớ da diết và yêu đôi mắt xanh lam, mái tóc vàng óng đầy xao xuyến, thân hình nàng rất hấp dẫn, quyến rũ đã khắc sâu vô đời Đan những vết in đậm sâu, đầy yêu thương, quyến luyến và nhớ nhung vô vàn. Tình yêu anh đối với nàng là một tình cảm vô cùng đặc biệt; cho dù nàng khác chủng tộc, màu da, tiếng nói, nàng chưa toàn vẹn hiểu Đan sâu sắc, hoặc hồi đáp lại Đan điều gì khao khát từ trong tư tưởng như anh mong đợi. Nhưng với hai người thì mối tình ấy khá hồn nhiên gắn bó, chân thật, trao nhau hết tình. Bên nhau trong ngôi biệt thự xinh xắn của cha mẹ nàng ở vùng ngoại ô Gif-Sur-Yvette, cách xa kinh thành Ba Lê khoảng hai mươi sáu ki lô mét về hướng Tây Nam. Họ trao nhau tình yêu mặn nồng đầy thắm thiết ái ân…
              Em là gió thổi qua dòng sông lạ
              Và thuyền ta chìm giữa đáy tang thương
              Em là sóng ta bạc đầu trắng xóa
              Bọt bèo ta trôi mãi giữa vô cùng. (3)

              Ấy thế mà cuối cùng trong thành phố Lyon... chàng và nàng cùng cậu con trai tí hon đã đồng thuận chia tay nhau vĩnh viễn ở sân ga Part Dieu. Dù rằng tình yêu ấy đã từ đôi tay nầy ân cần chấp lại khẩn thiết cầu xin ơn trên ban cho anh; thì nay cũng từ đôi tay ấy đã mọc cánh vút xa bay trong nỗi xót thương, tiếc nuối khôn cùng, rồi trở thành đau buốt. Như Verlaine đã nói: "Il pheut sur la ville, comme il pheure dans mon coeur" [mưa ngoài trời (phố) giống như mưa trong lòng tôi]. Mà thôi: xin hãy qua đi! xin hãy quên đi! xin cho bình lặng tâm hồn. Đan không muốn nhắc đến tên nàng, dù vô tình anh đọc trên sách báo có chữ “tên ấy” khiến anh càng đau đớn vậy. Vì Đan yêu me của mình hơn bất cứ ai, anh không muốn mẹ đau khổ buồn phiền, bởi vì me cổ kính đã rớt nước mắt rất nhiều ngày đêm... khi me biết cô sinh viên đoan trang và anh thư ấy là đầm. Rồi có một ngày em & anh sẽ quên. Quên. Có thể. Bao giờ nhớ đến em, từ trong giấc chiêm bao anh sẽ ghé về Paris thăm mẹ con em nhe. Chúng ta hàn huyên tâm sự cho bỏ những ngày trống vắng chia xa, mình sẽ tìm thấy nhau nơi giấc ngủ bình yên muộn màng. Em ơi:
              Mơ ước nhỏ nhưng sao không hề dễ
              Bởi anh đi, đâu hứa hẹn ngày về
              Nghĩ tới em lòng anh lại tái tê
              Vì trách nhiệm nặng nề anh đang gánh
              Giữa đêm khuya trên ngọn đồi cô quạnh
              Nghĩ đến em là hạnh phúc tuyệt vời (4)
              ***
              Sau bao năm học hành rồi thành đạt vinh hoa, Đan trở về quê nhà mong đem chút kinh nghiệm đã học hỏi bấy lâu ra giúp đời. Thế rồi giờ đây… ngày nầy qua ngày khác, Đan vẫn soi chiếc bóng cô độc chao đảo khi tỏ khi mờ trên dòng suối lờ lợ đục:
              Đêm đóng quân trên tiền đồn hẻo lánh
              Sương mịt mù mang hơi lạnh tái tê
              Kỷ niệm xưa ở đâu bỗng chợt về
              Rồi rõ nét với đê mê ngọt lịm
              Tôi thấy em trong áo dài màu tím
              Màu tím hồng của những cánh hoa sim (2)

              Mỗi lần, chỉ cần trông thấy chiều tàn dần vắt qua sườn dốc, khi đám mây trắng bạc bồng bềnh thấp thoáng, âm thầm bay qua bên kia lòng khe, vách đá, nước chảy róc rách trên lưng đồi Minh Long suốt thế kỷ, dội xuống lòng suối lững lờ trôi xa, nghe tiếng đạn đan chéo suốt đêm ngày trên quê hương điêu tàn, đổ nát, là vô tình vết thương đậm sâu không trông thấy vẫn nhói buốt đau đớn trong lòng Đan. Cơn lốc tình cảm thuở Đan còn ở bên Tây, làm nhức nhối tan nát tâm hồn tươi trẻ trước kia, giờ rụng đi từ đôi mắt Đan sáng loáng, ẩn sâu dưới hàng mi cong thấp thoáng ánh chìm đục, say đắm mơ màng. Hạnh phúc xưa bé nhỏ liu riu bất chợt thoáng qua mau, chưa thể làm lòng Đan ấm áp, bình yên, an vui giữa cơn gió xoáy rét mướt nơi sơn khê ngun ngút dặm ngàn. Đan thầm tự hỏi lòng: “Mình có thể thay đổi tình yêu xưa, bằng một tình yêu khác không? Biết đâu nó sẽ dễ thương trùng hợp đáng yêu; như thế, hoặc hơn thế nữa”!? Đan bỗng nhớ một câu của Montamayor viết: "Hỡi ký ức thù nghịch sự yên tĩnh của tôi, sao ngươi không lo giúp tôi quên các khốn nạn hiện tại. Hơn là nhớ đến những nguồn vui thuở xa xưa?".

              Đan đắm mình trong khí ấm đầu mùa Hạ vuốt ve, thu hút ong bướm từ mật ngọt và hương hoa, có tia vui hào quang dọi sáng, có khúc nhạc nên thơ êm mát, gió núi trong lành lao xao nét tình quê xanh thắm thoảng lại. Tiếng nói vô ngôn văng vẵng đâu đây, ngày này qua ngày khác, đêm nầy qua đêm khác thấm vô tâm tư Đan cô lẽ, như những giọt mật tròn, mật đắng, đắng không thể tả. Đan thầm nhũ với lòng mình. Hai mươi lăm tuổi, chưa có gia đình, Đan sống giữa chốn núi rừng Minh Long nầy, tâm tư không phải là không có điều nhớ nhung, yêu thương, băn khoăn, dằn vặt, ưu phiền, buông thả, dày vò, âu lo. Nhưng Đan không tỏ ra yếu mềm, mà chỉ ngồi trầm ngâm, lặng lẽ ngấm ngầm suy tư, nghe:
              Tiếng chim gù gọi trưa hè say nắng
              Em về đâu, chiều rớt lại bên sông
              Tôi ngơ ngác tìm em hoài chẳng thấy
              Vòng đời quay thời khắc cũng bềnh bồng (3)

              Không hiểu ở đâu, nước từ thượng nguồn dội xuống khe suối rộng xuôi chảy, ven bờ dừa nước, lau, sậy, năn, lát gỗ có vân đẹp, gốc bành lớn, hoa màu vàng nhạt, lá kép lông chim đầy duyên dáng mọc chen cánh với rừng bằng lăng hoa tím nở rộ. Ôi! Phong cảnh nơi đây tuyệt diệu… nhưng vô số muỗi, ruồi, vắt, ve, ưa búng mình bò lên hút máu. Một phía bên kia suối nước bỗng trổ màu nâu hồng lờ lợ đục, nước lờ nhờ giống màu đỏ sông Hồng trôi lặng lờ trên xứ Quảng. Thấy mà ghê hồn, cảnh vật nơi đây hoang vắng u buồn, Đan sống những giờ phút xao xuyến, mơ mộng, ưu phiền bên ngọn suối bạc uốn quanh triền núi, gợi lên lòng anh biết bao nhớ nhung, buồn thương da diết vệt nắng rải sau hè rực nét tình xưa.

              Chiến tranh vỡ bung ra nhiều cột khói lửa đỏ rực khắp nơi trên đất nước thuộc lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tuy nhắm mắt lại, Đan vẫn thấy đóm mắt hỏa châu thả xuống đỏ rực góc đồi, giao tranh bi thiết bàng hoàng kinh dị. Nơi nầy cường độ hung hăng chém giết lên tột đỉnh, tàn ác xâu xé cuồng loạn nhứt (ghê gớm hơn cả cảnh Mục Liên Thanh Đề đi thăm điạ ngục). Nhớ một chiều kia Đan chỉ huy mấy quân nhân đào những hố trũng sâu, mỗi hố cách xa nhau hơn 4m, sau đó ngụy trang cẩn thận những cây chà gát trên miệng hố, rải lớp cỏ tranh dày phủ lên những cây chà che hầm hố, để chống chiến xa việt cộng. Vậy mà tiếng mưa trái muà đỗ trên lá rào rào không thể xóa nhòa hình ảnh anh Nguyễn văn Năm, lính Pháo-binh gục xuống hố cá nhân, anh giống thân cây kiền kiền bị đốn ngã, khi đại liên 12 ly 7 quạt rát bỏng ù tai, làm tan nát đớn đau lòng anh.

              Đấy là lần đầu tiên trên đường binh nghiệp Đan giương to đôi mắt kinh hoàng chứng kiến đồng bạn kêu gào, co giật từng cơn hấp hối. Đan cảm thấy toàn thân nóng rang, phừng phưng luồng khí nóng phẫn nộ dồn lên mặt, nước mắt tiếc thương bạn ứa ra khoé mi lúc hai hàm răng Đan nghiến lại. Trước khi chết chẳng hiểu tại sao bạn ấy ngáp rất nhiều, ngáp hoài ngáp mãi, sau đó từ từ ngáp chậm lại, rồi cách năm bảy phút, vài phút ngáp anh ta mới uể oải ngáp một lần, cơn ngáp nấc nấc lên thưa dần, lâu dần rồi tắt lặng, yên ắng hẳn. Bạn ấy đã xuôi tay vĩnh biệt chấm dứt cuộc sống. Ấy là lúc ranh giới thiêng liêng cuả sự sống và cõi chết đã thực sự đối diện, khốc liệt, tàn nhẫn, lạnh lùng chạm trán nhau gay gắt kinh hoàng đau buồn tột độ. Dù ranh giới mỏng như tơ nhện, mà không ai có thể giơ tay ra dùng dằng níu kéo tích tắt thời gian vắn vỏi, ngỏ hầu phân định rõ ràng biên giới âm dương về một mạng người. Hai thế giới & một kiếp người đã hoàn toàn phũ phàng đóng ập lại. Hai phân giới vô hình nhưng minh định rõ ràng không thể va chạm vô nhau, dù chỉ qua một lằn ranh vô cùng mong manh như sợi tóc!

              Hằng ngày Đan chạm trán va mặt với chiến tranh gian nguy, cực nhọc buồn lo thì cường độ đớn đau tăng mãi trong đời, Đan cúi đầu đón nhận tang thương người khác rồi chua xót vò xé, anh nghiền nát cục sạn đắng cay trong hai kẽ răng mà Đan cố nuốt vô lòng. Dần dần cũng quen với bối cảnh tàn khốc ở hiện tại, nhưng cục sạn không trôi xuống bao tử, mà cứ uất nghẹn trên cuống cổ, rồi dội ngược vô tim, chạy lên đầu óc anh đau buốt, đầy thống khổ, như xác định mình hiện hữu. Đan tha thiết mong đóng góp một phần đời bé nhỏ cho người thân quen vui sống chút tháng ngày an thư, chứ anh nào muốn phải làm chứng nhân lù đù chứng kiến cảnh cuồng nộ, thống khổ, bi lụy khốn cùng đang trào máu mắt!

              Trăng lá mít mảnh dẻ nhẹ nhàng trôi giữa muôn cuộn mây xám đục, như con thuyền bồng bềnh, nhấp nhô trong tảng băng nức nẻ trên không trung. Cơn mưa rừng ngày hôm trước ào ạt đổ xuống khu trường sơn rậm rạp, cây lá được thiên nhiên kỳ cọ rửa sạch trơn, đã bóng mướt dưới ánh trăng bàng bạc chiếu lung linh. Tiết trời miền núi vẫn buốt giá do sương muối rơi lộp độp trên ngọn lá lóng lánh ướt sũng ánh trăng. Ai nấy đều bị nứt môi, lạnh nổi da gà, run lập cập, họ xuýt xoa hà hơi chà đôi bàn tay vô nhau cho ấm chút xíu. Từng giờ, từng đêm, họ khều nhau đổi phiên gác canh thâu. Dẫu vậy họ hân hoan, vui vẻ với niềm hãnh diện được làm anh lính miền Nam Việt Nam, thân thể họ rạo rực dưới sức lôi cuốn theo tình đồng đội an hòa. Nhịp bước họ nhún nhảy, coi vô-tư-lự tươi trẻ hồn nhiên như cái resort, dù ba lô trĩu nặng hành trang và đầy bụi đỏ dặm trường. Những người lính trực chiến trên chiến trường không ai khác hơn chính họ trực tiếp đương đầu với chiến cuộc!

              Cho dù danh nghĩa “đơ dem cùi bắp” nghe vừa tức cười trong cái quê mùa cục mịch nông thôn, đồng ruộng, lại càng có vẻ như giễu cợt người lính cà tàng thấp cổ bé họng; thật tội nghiệp làm sao ấy. Họ là những con tốt thí thân trong cuộc cờ chiến tranh nhiễu nhương phức tạp. Cấp trên cũng không thể đoan chắc rằng không có người lính nào bị thương, hoặc tử thương khi xung trận. Vậy thì để bảo vệ chính thân và đồng đội, chính quân đội ấy phải xã thân -vì quê hương và dân tộc- đã hiên ngang oai dũng bước thẳng tới trước. Họ vẫn biết rằng: thân phận một người lính khi trở thành thương phế binh, thì ví như đôi giày đinh bị hư nát mất một chiếc, chiếc giày đinh còn lại người lính ấy phải tiếc nuối vứt đi. Thế là không còn lính hợp quần gây sức mạnh, thì dù danh tướng chỉ huy có tài ba cách mấy, nếu không có quân, chắc chắn ông ta chưa thể làm nên đại sự!

              Cứ hai người đi lui đi tới gác chung ở một phần tư khu doanh trại. Thành ra góc nào cũng có lính bồng súng gác đêm, họ giăng rộng đôi chân ra, giữ thăng bằng thân mình trên đôi giày đinh sờn cũ bám bụi đất. Cấp chỉ huy đối với lính cần có sự dung hoà, tha thứ, yêu thương, tận tình hướng dẫn tỏ tường cho thuộc cấp ôn luyện, học tập hoài gần như nhắc nhở thấu đáo về cơ cấu và thể chế quốc gia. Đồng thời cấp chỉ huy nghiêm minh thi hành quân kỷ, nếu thuộc cấp phạm kỷ luật! Thật vô cùng khổ cho người lính cơ cực. Ngày đi xuyên rừng lội suối, leo đồi, vượt núi. Đêm đêm họ phải chia nhau ra canh gác cẩn mật ít nhứt vài ba giờ. Cơm không kịp ăn, không có nước uống, ngủ không tròn giấc. Khỏi nhìn đồng hồ họ chỉ nhìn trăng lên, trăng lặn, nhìn sao hôm, sao bắc đẩu, sao băng, sao mai.

              Mỗi đêm dài hiu hắt nơi rừng sâu nước độc, Đan rất thương anh em quá gian khổ, "tiền lương lính tính liền" vô tay nầy ra tay kia, quá hạn hẹp! Thật chẳng xứng chút nào so với trách nhiệm nặng nề và bổn phận mà người lính cưu mang. Anh đến với họ lúc người lính cô đơn ôm súng gác giữa khuya muôn trùng lạnh lẽo & u ám. Thỉnh thoảng Đan đưa quà tận tay mấy chú lính, ân cần sẻ chia chút ngọt bùi ấm áp tình người. So ra người lính bên Tây & lính ở Ta - thiệt khác nhau một trời một vực. Vì vậy Đan rất thương người lính trầm lặng tại quê mình biết mấy! Đan cầm những khúc bánh mì kẹp thịt, mấy bi đông nước trà nóng, anh đi một vòng thị sát đến từng điểm gác di động kép. Không phải họ qúy mến anh vì khúc bánh mì, vì ca nước nóng. Mà, do phát xuất tận đáy lòng họ sự kính yêu Đan có tư cách, bao dung, từ tâm, và độ lượng. Do Đan chí tình thương yêu cảm mến lính, anh tự xích lại thân thiết với thuộc quyền, không phân biệt giai cấp. Tạo cho nhau niềm cảm thông sâu sắc, thấu hiểu, gần gũi, gắn bó, chia sẻ, an ủi và thắt chặt tình đồng đội càng thắm thiết hơn.
              *
              Tình Hoài Hương

              (1) Khuyết Danh
              (2) sưu tầm
              (3) Lê Văn Trung
              (4) Trương Trọng Kiên

              (*) Phước Tuyền/Ngô Quang Huynh
              Last edited by Tinh Hoai Huong; 01-15-2021, 07:18 AM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • #8
                (cell phone) Photo by Hoài Hương

                Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
                Phần Thứ Nhứt
                Chương
                8

                Thật Tình Cờ


                Ngày mới chớm vào đầu mùa Hạ sau cơn mưa phùn li ti lất phất bay bay rất nhẹ, rồi đậu trên mái tóc Hiếu Hoà, mà sao phong cảnh nơi núi rừng nầy trông thiệt ảm đạm. Khí lạnh thập thò ngoài khung xe GMC, gió run run ngập ngừng lay động bông hoa lau. Mây xám pha màu lam phơn phớt tím kéo từng bè về bên kia dãy trường sơn. Buổi sáng về rất chậm, kèm theo phiến nắng vàng lợt lạt le lói yếu ớt ẩn sau các bè mây lang thang trôi. Từ cánh bướm chập chờn do dự trên dòng sông rực nét tình xưa, dẫn Hoà quay về bao ngày thuở nhỏ còn hái hoa, bắt bướm... ép khô trong trang sách học trò nơi ngôi nhà cũ. Hoà nhớ những chiều năm nao dọc theo bờ suối, nhớ từng người thân qua mỗi đoá hoa: pensée, violet, coquelico, mimosa, forget me not, kim châm, hoa giấy: trắng, tím, hồng; hoa ngâu, hoa sứ, tường vi, mãn đình hồng, trúc đào, sen địa, vân vân...

                Nay, tại chốn nầy có hoa bằng lăng màu tím rộ nở bên góc hè nhà ai, cánh hoa thiên lý có chú bướm nhởn nhơ bay về, đưa Hoà quay trở lại ngày tháng tha hồ rong chơi bên suối, Hoà ưa vớt lục bình trôi lênh đênh nhấp nhô bên sông Bồ. Nước chảy dưới cầu Thanh Long xuôi về Bao Vinh, (Huế) dẫn Hoà theo dòng lưu thủy tan vào cuối nguồn. Nước luân lưu chảy đến đầu non Minh Long, Tà Noát. Nước từ sông Thạch Hãn, Như Lệ, Phá Tam Giang trôi đi Trà Khúc, sông Vệ, Nghiã Hoà... ưu ái hòa thông nơi nơi, đều nhập hội trùng dương ở biển cả. Rồi cánh bướm vụt bay lên rừng cây kiền kiền thân thẳng gỗ lớn, mặt lá mốc trắng, trước sức gió thổi bỗng nghiêng ngã dồn dập xô về. Bướm không buồn quay lại đoá bằng lăng tím yêu kiều, để Hoà ngồi trơ trọi, liu riu ngu ngơ trông ngóng, bơ vơ một mình trong ca bin xe GMC.
                Ở đây gió núi mưa rừng đổ
                Người đến rồi đi như bóng mây
                Để lại những chiều nơi phố thị
                Thung lũng buồn thung lũng ngóng mây bay (1)

                Hiếu Hoà nghĩ đến tình quê, nghĩ đến điều bất hạnh vong gia thất thổ: xóm, làng nầy gánh chịu đời sống kinh hãi, khổ ải tận cùng trong chiến tranh đau thương, chưa biết có kết thúc hay không nữa!? Nhà nào cũng có bụi chuối gốc cam cây ổi, chen chân với cây cau óng ả quyến luyến bện dây trầu quấn quanh thân. Những chú ve tơ dạm ngỏ duyên tình tán tỉnh ve mái nghe dễ thương, "chàng" khoe bộ cánh mỏng tanh với "cô nàng" ưa làm le, làm dóc, làm bộ ra cái điều ả ỷ mình đang độ thanh xuân xinh đẹp. Chú ve cứ ra rả: "anh... ve ve! anh... ve ve ve”... Trứng ve sống dưới lớp đất dày nhờ ăn nhựa rể cây, từ từ nó lớn lên biến thành con nhộng, ấu trùng kéo dài sự sống từ 15 năm tới 17 năm mới đội đất chui lên. Đây là loại sinh vật có sự sống dai dẵng kinh khủng độc nhứt khi chưa trưởng thành. Thật quá lạ lùng & kỳ diệu! Chỉ con ve đực có cái kèn dưới bụng, nó ung dung thư thái thở ra hít vô, “líu lo thổi kèn suốt” không cần ăn uống. Từ sáu tuần đến tám tuần nó sống thảnh thơi an nhàn sung sướng như “một công tử ve” trên cây, nó chuyên quyến rũ “nhân tình” và làm công việc truyền giống. Khi hết mùa “ân ái”, thì con ve đực xanh xao héo mòn khô đét bấu chặt chân trên cây cao, treo mình mà “qua đời”. Thiệt quá tội! Hèn chi thiên hạ đặt cho nó cái tên “kiếp ve sầu”.

                Hoà nhìn xuyên suốt qua lũy tre xanh ẩn khuất có dòng sông lặng lờ uốn khúc nhấp nhô cánh lục bình, lùm dừa nước tàu lá xoè to đâm đọt lên trời, cô thấy một giang đỉnh chạy trên sông, cột nước vọt thẳng đứng. Giang đoàn Trưởng cho con tàu neo gần bờ chờ đợi khi nước xuống thấp, thì ông cho tàu chui qua gầm cầu Cộng Hoà. Chìm đắm trong sự cô đơn và yên tĩnh như thế không biết bao lâu, từ phía hông xe Thu Hoa mở cửa nhảy lên, với năm sáu chiến lợi phẩm. Thấy bạn, Thu Hoa tươi nét mặt, quay qua phía hai người lính trẻ đứng dưới đất, một anh Pháo-binh, một anh Nhảy Dù. Hoa vui vẻ nói:
                - Em xin giới thiệu với các anh: đây là Hiếu Hoà, cô gái vừa rồi đã ngâm bài thơ “Giếng Mắt Đẫm Giọt Sương”, mà anh Đan hỏi em: "Ai ngâm rứa". Còn đây là anh Văn, anh Đan… đó Hiếu Hoà.

                Hoà mỉm cười gật đầu chào hai chàng trai, họ mặc áo trận bạc màu nắng gió khói sương, quần đầy bụi đỏ, màu đen trên mái tóc ngả bụi vàng đường xa. Đan trầm ngâm hút thuốc lá không đầu lọc, anh đứng chống tay ngang hông nhìn vu vơ lên giàn hoa thiên lý, rồi Đan nhìn qua hàng bằng lăng tim tím, anh lại ngoái nhìn cây bạch đàn phía sau. Họ không mang cấp bậc, huy hiệu, nhưng ai nấy có vẻ dễ nhìn và thanh lịch, khuôn mặt rắn đanh, bất khuất kiên cường ở bờ chiến tuyến. Nhìn ngón tay tháp bút vàng khói thuốc và không đeo nhẫn của Đan, Hoà chợt cảm thấy lòng rộn ràng nao nao, trào dâng niềm vui vui lâng lâng vu vơ kỳ lạ mà… mà thiệt khó tả. Tại sao lòng vội vã dâng ngập niềm vui, khi mình chưa khẳng định Đan còn độc thân, hoặc đã có gia đình, nhưng anh chẳng đeo nhẫn cưới, thì sao!?

                Họ đang hiên ngang đánh chiếm, dành lại, gìn giữ từng Ấp Chiến Lược, gò mối, lũy tre, ao làng, ruộng vườn, nhà cửa dân cư. Lính quý từng mảnh đất thân yêu trên khắp bốn vùng chiến thuật, lính lặn lội qua từng nẽo sơn khê, những dấu giày đinh dẫm lên cùng khắp khi chiến tranh Việt Nam bùng vỡ. Quân nhân miền Nam Việt Nam anh dũng lẫy lừng qua chứng tích đã đạt được, những trận đánh có cường độ tàn khốc, hữu hiệu, chính xác, kèm theo chiến thuật quân sự lẫn chiến lược chiến tranh chính trị. Không cần huân chương, mề đay, hai anh đã tặng cho Thu Hoa, cô đem về nộp những thứ đó làm thành chiến công riêng mình. Văn cầm xâu chìa khóa tung lên trước mặt, rồi đưa tay ra đón bắt, sau đó anh quay qua vỗ vỗ vô vai bạn thân, trêu đùa:
                - Thế nào? Anh bắt tôi lội qua sông Nghĩa Phú cho bằng được, để anh có dịp làm quen, nói chuyện với người em cùng quê hương. Bây giờ, đứng trước mặt cô em rồi... sao anh im lìm như gỗ đá vậy? Anh!

                Đan ngẩng nhìn Hoà qua rèm mi che nửa giếng mắt u buồn, đôi mắt Đan khá đẹp ẩn dưới hàng mi dài dày cong vút, nét mặt anh trông nghiêng đầy vẻ bất khuất, kiên cường rắn đanh như khắc trên tấm phù điêu, mái tóc anh cắt cao coi gọn gàng thanh lịch, chứ không bù xù dài lòng thòng ủy mị & nhớp nhúa. Vầng trán Đan cao rộng biểu lộ con người thông minh, dáng anh hiên ngang oai dũng dưới hai ống quần ướt sũng nước còn lọc ọc bì bọp trong đôi giày đinh, môi Đan thoáng động đường răng trắng bóng, với cái nheo nheo từ đôi mắt hữu tình mà nhìn... nhìn Hoà trìu mến:
                - “Sá chi một kiếp phù du nhỉ. Mà chẳng trao nhau trọn chữ tình”. Nhưng ấy da dà, đứng trước giai nhân thì… bao nhiêu dự tính đã tiêu tùng ráo trọi. Có lội qua sông, tôi mới biết sông sâu, nước lạnh. Khó dò.

                Phút định mệnh thật tình cờ cúi xuống đọng lại qua nụ cười ý nhị, Hoà thấy Đan nhã nhặn quá đỗi, tự dưng cô "vụt cảm thấy" mình có “cảm tình đặc biệt” với anh. Tại sao kỳ vậy, chả biết. Bỏ thói độc hành để song hành cùng người mới gặp, Hoà nhẹ nhàng mỉm cười:
                - Xin phép cho em gọi tên anh Đan, tự xưng là em, nhe anh!
                - Xưng hô là tượng trưng về thân tình quý mến lẫn nhau. Muốn gọi sao thì gọi, có hề chi! Em... Khi:
                Anh gặp em lần đầu tiên kỷ niệm.
                Khó mà quên em ạ! Khó mà quên.
                Em nhỏ tuổi hơn, nên anh gọi là em.
                Em lớn tuổi, chắc anh kêu bằng chị.
                Em áo tím như màu hoa xá lị. (2)

                - Dạ dạ… Anh Đan à! Nguyễn Bá Học nói câu nầy: "đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Theo thiển ý của em, thì anh đã vượt thắng sông núi rồi. Vì, dưới đôi ống quần ướt sũng nước đó, có thể anh đã đạt vài ý nguyện, bằng cách là Hoà đang đối diện, đối thoại với anh nè.
                Văn ngửa người ra cười ha hả, vỗ bôm bốp vô vai bạn:
                - Tuyệt cú mèo chưa! Anh mình?
                - Cả anh Văn nữa! Các anh lội qua sông bị ướt hết quần áo, giày đinh rồi. Coi chừng tránh xa thủy lôi Việt Cộng thả theo giòng nước, nhứt là nguy hiểm đó, hai anh.
                - Em chu đáo quá! Cám ơn em.
                Thu Hoa reo lên như tiếng chim hót:
                - Hoà là cô bé cưng dễ thương! (nhưng thương không dễ á). Có nhiều người trồng cây mơ, cây si, cây mê. Tuy vậy, Hoà còn cô-đơn à nhen.
                - Hai anh đừng nghe Thu Hoa nói xạo, mà bán hết gạo ăn bây giờ.
                - Ê! Bồ tèo. Trưa nay tui cho bồ nhịn đói, hì.
                Văn khoát tay lia liạ:
                - Đừng lo Hoà, mời em dùng cơm từ hôm nay nghe.
                Thu Hoa chúm đôi môi, nguây nguẩy giây lát:
                - Hai anh không mời em há?
                - Dĩ nhiên anh muốn mời cả em nữa. Do nhờ có em chỉ lối đưa đường, chừ anh Đan mới có dịp đứng thộn ra, ngẩn ngơ vì... cảm động nè.
                Màn đấu hót tay đôi giữa Văn và Hoa nghe vui tai. Mặc bạn ríu rít cười nói trêu ghẹo nhau. Đan bắt chuyện:
                - Ở Huế, em ở đường nào vậy?
                - Dạ, nay ba má em dời về ở Mỹ Chánh lập đồn điền. Các anh chị ở An Cựu, và Gia Hội. Còn anh, ở chốn núi rừng, hẳn là anh nhớ nhà. Buồn lắm ha?
                - Quen rồi em. Lâu nay em có về Huế không?
                - Dạ không anh à. Em ở Đà Nẵng.
                - Anh biết.
                Ngạc nhiên, Hoà tròn xoe đôi mắt nhìn Đan:
                - Ố! Anh biết... Hoà?
                - Có gì đâu, ngày đầu tiên anh thấy em leo lên đỉnh núi Thần. Anh nghe bạn nói các em đặt tên núi là “Tê Tê bại bại” gì đó. Anh để ý dò hỏi, mới biết em cùng quê, là cánh hoa rừng biết nói. Anh càng không ngờ em là hoa hậu dễ bị ngất xĩu vì... bệnh tim thời đại. Ha ha...

                À thì ra... hôm ở trong tầng hầm khu tiền chế, Hòa nhìn anh thương binh bị cưa cụt chân xong, thì Nữ bọc chân người lính vất vô ở thùng sắt nghe khô khan tiếng “đùng”, khiến Hoà sợ kinh khủng, đã bị ngất xĩu. Không ngờ chuyện nầy lọt tới tai anh lính Pháo-binh nầy cơ đấy! Thoáng mắt bất ngờ cảm mến giao nhanh, hai người cùng nhìn nhau cười hồn nhiên. Hoà e dè dò hỏi:
                - Hẳn là anh nhớ lắm cô áo trắng, tóc thề bay trong gió, cặp ôm ngang ngực, mong manh bài thơ trên nón lá có quai tơ vàng rồi, há anh?
                - Thời hoa mộng đó đã trôi qua. Giờ đây anh là người lính độc hành lang thang trên ngõ cụt tình yêu.
                - Sao vậy anh?
                - Lính tráng như anh, làm sao có cái nhìn thân mật, ngọt ngào, ấm áp hương vị mùa Xuân. Hở em? Anh đã đánh mất nửa hồn mình trên nẽo đường bơ vơ, lạc loài tìm kiếm. Thật khó bắt gặp nửa hồn ai đồng điệu, hợp tình hợp ý, thấu hiểu, rất mực yêu thương lính. Anh có đôi lần yêu; tuy nhiên muốn tìm bạn đường phù hợp đã khó, anh tìm một bạn đời càng khó hơn. Em ạ!
                - À... ra thế.
                - Cũng có thể do bận bịu chiến chinh. Hẳn nhiên em và anh không thích chiến tranh, nhưng khi chiến tranh xảy ra, bắt buộc ta phải có nghĩa vụ, bổn phận cùng đứng lên chiến đấu, để bảo vệ quê hương, cho dân tộc sinh tồn. Ngoài nghiã vụ, bổn phận và trách nhiệm nặng nề đè trên đôi vai ra, mình có nhớ gì nữa! Phải không nào?
                - Dạ phải.
                Nghe Hoà than bị nhức đầu do ngồi trong xe GMC, vừa nóng lại vừa ngưởi mùi xăng hôi chịu không nỗi. Đan nhìn cô:
                - Em nhảy xuống dưới đất đứng nơi bóng mát đằng kia chút đi. Xe GMC đậu ngoài trời quá nóng, đương nhiên em hít thở nhiều benzen rồi. Nó là một độc tố gây thiếu máu, gây bệnh bạch cầu (leukemia), đầu độc xương, tác hại lên thận, gan. Benzen đã nhập vô cơ thể, khó thải ra ngoài. Rất nguy hiểm.

                Thu Hoa & Hòa nghe lời anh liền nhảy xuống đất đứng chuyện trò thêm một lát nữa. Mấy chiếc phi cơ trực thăng CH vụt bay qua trên không trung, giây lát sau không lâu bên kia sông Hòa thấy mấy anh tiền sát viên Pháo-binh chạy ra ụ súng. Tiếng depart đạn súng cối giới hạn tầm bắn vùn vụt xoáy rít, khô khan sắt lạnh vút bay xa, những tiếng nổ lớn rung chuyển cả bầu trời, do hỏa tập pháo binh nối đuôi thi nhau khạc đạn, nã đạn ùm! ùm! ùm... về cuối ghềnh.
                Đan nói:
                - Đột kích bằng hỏa lực xong, thì sẽ có một đợt bắn tập trung về hướng Bắc vô trong rừng sâu, để chi viện cho đại đội phòng thủ biên thùy. Các em đừng sợ, xa đây lắm. Ui, được nghỉ cũng không xong, lát nữa anh phải đi rồi.

                Hòa nghe đạn bay từ xa giống như tiếng thủy lôi tàu ngầm nổ rầm rầm, hoặc như trận mưa giông sấm sét rất lớn. Hay như người ta giật mìn làm nổ hầm đá, để lấy đá trong núi, làm nghiêng ngả hàng cây bằng lăng, cành cây bạch đàn đã gãy lìa. Hai người lính điềm nhiên ngước nhìn về mấy đụn khói đen mỉm cười, họ không thấy vẻ mặt ngờ nghệch tái xanh, run rẩy của hai cô bé khờ. Câu chuyện đang hào hứng, bỗng khựng lại đến đấy là luyến lưu rời xa. Trước khi chia tay, Đan mỉm cười nhìn Hoà đá nhẹ hàng mi cong vút mà “phán” một câu:
                - Núi non sông biển còn đó, hy vọng anh với em nếu hữu duyên, thì sẽ có ngày vui gặp lại nha.
                - Dạ, à a dạ…

                Đoàn xe của Hoà lên đường trở về ngọn đồi “T T 2”. Đan cùng bạn lại vội vã lội qua sông rộng nước sâu, trở về với doanh trại cuối làng mạc quạnh hiu ở chân núi đầu đèo hoang dã.
                ***
                Ta vẫn nhớ chuyện ngàn năm chốn cũ
                Bạn trông chờ dựng lại ngọn cờ xưa
                Từng ngày tháng vẫn về hoa cỏ lạ
                Bước thăng trầm bụi phủ bóng thời gian
                Cơn mưa bão quay về mây trắng cũ
                Đời quá buồn kể chuyện một... dòng sông (3)

                Anh tự nhũ lòng: … mà nè Đan, biết biễu lộ tình cảm dưới dạng thức nào, cho trung thực đối với cô gái Đà Lạt dễ mến đó, qua bề ngoài câm nín của cái vỏ cuộc sống nầy không? Anh mến Hoà từ lần gặp gỡ đầu tiên tình cờ buổi nọ: Do:
                Đêm xuống tâm tình với chính ta
                Cô đơn chiếc bóng dưới trăng tà
                Nhâm nhi từng giọt trà nghe nhớ
                Tri kỷ giờ đây đã khuất xa
                Trông người về đến để cùng vui
                Chẳng thấy người đâu, lại ngậm ngùi
                Rượu rót thay trà ta uống cạn
                Với buồn… da diết mãi không nguôi (4)

                Thôi thì anh hãy cùng các em chia nhau chút niềm vui với cỏ cây thác ngàn ở chốn sơn lâm cùng cốc nhen:
                Hoàng hôn tỏa những tia nắng nhạt.
                Đường em đi bóng mát cây dài.
                Nắng xiên trên hàng hoa lác đác.
                Mặt hồ xưa lóng lánh mây bay.

                Nỗi niềm riêng xôn xao gợi nhớ.
                Tình yêu đời hoài vọng ước ao.
                Đường em về cỏ đầy lối nhỏ.
                Mùa Đông qua, Xuân mới bước vào.

                Hàng thông xanh im mờ phủ bóng.
                Giữa cuộc đời cảm thấy bơ vơ.
                Giếng mắt đẫm giọt sương mòng mọng.
                Lá sầu đông tê tái phất phơ.

                Thác ven rừng uốn lên chảy xiết.
                Nước rẽ dòng thương kẻ chia ly.
                Đường về quê nhớ phút phân kỳ.
                Mối tình tựa ngấn sương tiễn biệt.

                Mộng đêm dài luyến thương nhánh cỏ.
                Nhạc gieo tình cọng cỏ tơ vương.
                Dưới ánh trăng lá cỏ ngậm sương.
                Sương rụng ướt cỏ đường đêm vắng.

                Cỏ ngậm sương nở hoa trăng trắng.
                Tình thiên nhiên quyện lẫn cỏ cây.
                Nghê Thường hãy tấu khúc đêm nầy.
                Sương tưới cỏ đời thêm tươi mát.
                *
                Tình Hoài Hương

                (1) Trần Ngọc Nguyên Vũ
                (2) Phạm Hồng Thước
                (3) Đông Quyên
                (4) Trương Công Bình
                (5) Tình Hoài Hương


                Mời độc giả xem tiếp chương sau
                Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-04-2021, 02:01 AM.
                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                Tình Hoài Hương

                Comment


                • #9
                  (cell phone) Photo by Hoài Hương
                  "đỉnh núi ngập sương mù"

                  Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn

                  Phần Thứ Nhì
                  Chương 9
                  Đêm Tương Phùng

                  Sau khi Hiền Hoà hát bài “Nha Trang” được khán thính giả vỗ tay khen & "bis, bis", Hòa vui vui ỏn ẻn hát tiếp: “Em đến thăm, áo anh mùi thuốc súng, ngoài mưa khuya lê thê, qua ngàn chốn sơn khê. Non nước ơi, hồn thiêng của núi sông kết trong lòng thế hệ, nghìn sau nối nghìn xưa” … Vui vẻ cúi chào khán thính giả xong, Hòa trở vô hậu trường thay đổi y phục cất vào túi . Cô ôm túi xách vải ra phiá sau hậu trường thì gặp Trúc, Trọng và Đan. Sự có mặt bất ngờ của Đan dần tan biến nỗi u hoài trên sóng mắt cô, như rạng đông làm tan biến chân trời đêm. Đôi mắt anh ấy, nụ cười ấy âm thầm thu hút cô xích lại gần anh hơn, dẫu có chút bỡ ngỡ lạ lùng, nhưng thật êm đềm sâu lắng quyến rũ Hòa ngẩn ngơ lúc nào, chẳng biết. Trong tâm hồn hoang dại, Hoà vui mừng chào đón anh bằng đuôi mắt nheo nheo một đường dài thật lẵng, cô đẩy đưa nụ cười duyên mời gọi thân thiết, làm xinh thêm khuôn mặt rạng rỡ ân tình. Về phần anh thì:
                  Tìm gặp được nhau dẫu đời đã muộn
                  Con nước vô tình cuộn trở bâng khuâng
                  Bóng dáng em nay sóng đời chao lượn
                  Rực rỡ trong chiều nghìn đợt khánh ngân
                  Trăm tiếng reo vui giữa chiều lộng gió
                  Chỉ một tia nhìn đủ ấm đời nhau
                  Môi mắt liêu trai ngập ngừng bỡ ngỡ
                  Từng vạt sóng tình xóa sạch niềm đau (1)

                  Hiếu Hoà tươi nét mặt:
                  - Ô! Em không ngờ gặp anh ở đây.
                  - Biết các em lên đây từ sáng. Anh cứ đi tìm… mà không thấy em đâu.
                  Nhanh nhẹn nhí nhảnh láu táu ngắt lời Đan, Ngọc nắm chặt bàn tay có ngón cái giơ lên, ngón trỏ xỉ xỉ về phiá Hoà, cô ta xí xọn cười cười:
                  - Hoà trốn bên suối Thần ở bản doanh nè. Còn em hi hi... có hẹn.

                  Tuyết Ngọc nói và cười híp mắt, cô đi xuống mấy bậc thang gỗ phía sau sân khấu, đến câu lạc bộ với Trọng. Hoà tần ngần ngồi lại trên góc cầu thang gỗ hẹp, choáng lối đi lên đi xuống sau hậu trường. Đan đứng kề bên, một chân anh gác lên bậc tam cấp, đôi giày botte de saut mờ bụi đỏ. Áo quần treillis màu xanh của lính phong sương bỏ trong thùng nai nịt cẩn thận. Một tay Đan ôm nón sắt, một tay anh chống lên sườn, miệng anh phì phà điếu thuốc lá không đầu lọc. Hoà nhận thấy hầu như ít khi anh bỏ điếu thuốc ra khỏi bờ môi, Đan “ghiền” nó rùi ha. Ngoài ra, anh không mang huy hiệu, cấp bậc gì. Nhìn nhau giây lát, biểu lộ niềm khát vọng kỳ phùng, tình cờ đơn sơ mà chân thật. Hoà mỉm cười nheo nheo mắt ướt trêu ghẹo:
                  - Anh ở đây, coi chừng chết hết “mấy đoá hoa rừng” à nha. Đừng có léng phéng nghen anh. Thần Núi, thần Hồ, sẽ không buông tha anh đâu.
                  Đan tủm tỉm cười cười, nhìn Hòa nhấp nháy hai mắt, dường như anh trêu ghẹo cô gái khôn khéo ngoan hiền có chút tò mò về mình:
                  - Em muốn hỏi anh điều gì nào?
                  - . . .
                  - Mấy bạn nói: “em xinh đẹp, ngoan, hiền”, sao... em dễ thương vậy!?
                  - Bạn anh cho em đi tàu bay giấy í mà.
                  - Anh tin Hoà có đủ thông minh, để lĩnh hội các khía cạnh của nó.

                  Hai tâm hồn nhạy cảm đồng điệu gặp nhau ở tần số cảm thông, thấu hiểu, dễ dàng trở thành đôi bạn thân tình, hầu ngỏ lời tâm sự với nhau. Sau khi biết sơ lượt về Đan, nhìn lại thân phận áo ngắn quần thô vải cứng, giày sờn, Hoà không hơn cô bé lọ lem là mấy. Ngạc nhiên e dè ngẩng nhìn anh, giọng nói Hoà pha chút ái ngại buồn rầu:
                  - Em không ngờ anh là con nhà rất giàu có, ở Huế.
                  - Con của nhà giàu, chứ có phải tự anh giàu đâu em.
                  - Lại không ngờ anh là... sĩ quan thế nầy.
                  - Vậy, em ngỡ anh là gì nào!?
                  - Em thích người lính trẻ có đôi mắt u sầu, đã lội qua sông Nghĩa Phú ngày nọ, trên cầu vai anh ấy không đính cánh mai vàng, mai bạc nào.
                  - Đó là những danh xưng phù du...
                  - Em thích bình dị khi nói chuyện với anh.
                  - Ơ! Anh nói chuyện với em đây, không được bình dị sao?
                  - Em là lính mới tò te lem luốc như lọ lem. Còn anh là sĩ quan đã từng trải. Anh con nhà giàu, anh lại ở Pháp về Việt Nam.
                  - Sĩ quan hay lính mới, ở Pháp về Việt Nam… thì dính dấp gì đến chuyện mình quen nhau nào? Hở em?
                  - …
                  - Có quen biết nhau lâu ngày, em sẽ hiểu anh không thiết tha, trọng vọng điều đó. Một lần nữa anh mời em vô Câu Lạc Bộ gần đây. Tại đó, em có thể hiểu ít nhiều về môi trường các anh đang sống. Nhen em.

                  Hoà rảo bước bên anh bạn tình cờ đã dẫn đến cho mình niềm vui lâng lâng thú vị, cô cố tránh trong lòng mọi huyễn tượng muốn bừng lên, theo ánh mắt ngời sáng của chàng trai phong sương, đầy văn nhã nầy. Một tình bạn dù chưa ủ đúng độ nồng như hủ rượu qúy chôn bách niên. Nhưng đủ ân cần ấm áp nồng say, đủ đánh bóng tình tri kỷ thân thiết nơi biên cương ngàn dặm quan hà. Câu Lạc Bộ vừa đủ rộng, các bàn hầu như kín chỗ. Đan dẫn Hoà vô ngồi bên các bạn. Mấy nữ quân nhân lạ liếc xéo Ngọc và Hoà nửa con ngươi, trề môi dưới ra thật dài, nét mặt “các nàng” hầm hầm, xù xù như con nhím khi gặp đối thủ. Họ vùng vằng, miễn cưỡng, thô thiển kéo chiếc ghế dựa kêu rột rột rột, để né dịch đi chỗ khác xa xa. Đó là mấy cô quân nhân y tá, hay ở ban tiếp liệu: Huyền Nữ, Thúy, Vân, Liên: nhìn bọn xướng ca với… “đôi mắt vô loại” thị dân, miệt đời khinh dể. Hoà không hiểu trong hoàn cảnh hiện tại giống nhau: cùng một lý tưởng, hoài bão, môi trường, quan điểm chung và lập trường & ý chí đó, nhứt là ta có khối óc nghiền ngẫm ưu tư, hai bàn tay có thể làm nên mọi chuyện. Từ “đôi tay tự tin” nầy có thể thành công; và “đôi tay cao cách kia” có thể thất bại! Ai biết đâu! Ta có khác gì nhau, mà "hách xì xằng" quá vậy? Chưa chắc ai có tư cách, đạo đức, tế nhị, khôn ngoan, thấu hiểu, ai hơn thua ai. Có cục ghèn ở ngay mắt mình mà không hề thấy, lại cố ý đi khêu tí ghèn trong mắt người khác! Một con mắt buồn cụp xuống, một con mắt giận hờn vu vơ ngó lên… thành đôi mắt lé!

                  Đừng vì cái lon mới cũ to nhỏ, mà nhìn đời bằng nửa con mắt! Quan trọng nhứt khi “lính cũ chỉ huy lính mới” nên sáng suốt điều nghiên, biết nhận định về một con người, có tri thức và hoài bão, có tấm lòng cao cả, biết hy sinh, nhẫn nhục, chịu đựng gian khổ mà yêu đồng loại. Như bàn tiệc hôm nay đây: có người sảng khoái vui mừng mà uống rượu. Có người vì sự thất bại chua cay trong đời, đau xót trong tình yêu, đắng cay, khổ sở vì đời sống không như ý, vân vân. Họ cũng ngồi hàn huyên tâm sự, nhấp chung rượu, chia sẻ nỗi niềm đấy thôi! Bạn à! Trong buổi tiệc hội nhập nầy, Hoà thấy mấy anh quân nhân coi nhau bình dị, không phân biệt trên dưới to nhỏ sang hèn như mấy bà kia. Dù không có sơn hào hải vị, chẳng nem công chả phượng; nhưng đối với anh em, thì họ trao nhau niền tin yêu vào tình bạn chân thật, tận tình nhứt. Những quý vị do “thời thế tạo anh hùng” như thời Nguyễn Huệ “vào Nam, Nam tĩnh; ra Bắc, Bắc yên” đang ngồi chung đây, không dựa vai dựa vế chú bác ông cha thượng đội hạ đạp, văn dốt võ nhát ưa đội trên đạp dưới.

                  Họ không nghe vợ, bắt lính về nhà cung phụng làm “gia đinh” hầu hạ vợ con không chút ngượng ngùng! Nhìn đi, những kiểu người "bẩm bà vâng" ấy thì không "sống" ở chốn biên cương rừng sâu nước độc hoang vắng tận cùng sơn thủy! “Giả nhân cách” và “thật tình cảm” từ đối xử thế đấy! Bạn hãy xem cái “nợ giả phong cách không bao giờ trả hết” nơi qúy mệnh phụ (“bà đây” sai bảo lính như gia nô, “bả” ỏng ẹo đỏm đáng đi dợt le với mấy bà tay em đi đàng đúm khoe khoang, chưng diện, đấu hót… nhan nhãn trên đời. Nè, lính thường là những anh hùng đi hàng đầu ra trận tuyến diệt giặc, chớ chẳng phải anh em núp ở nhà khom lưng cúi cổ gục mặt "bẩm bà có em hầu hạ... bà"… ngày lau chùi hang hốc, chờ lãnh tiền lương do dân quần quật vất vả làm lụng mà đóng thuế cho chính phủ. “Ông bà” mới có tiền thì lạm dụng bòn rút sức cần lao người khác. Ông bà gián tiếp ăn cắp tiền bạc chính phủ làm tư lợi riêng đó. Biết chưa? Nghĩ cho cùng mấy người lính tới nhà nai lưng làm trâu ngựa, họ có nỗi khổ riêng, vã chăng... chẳng qua họ nễ chồng bà bắt họ “sai đi, khiến tới...”, buộc lòng họ phải vâng lệnh "chủ nhân ông" đó thôi. Họ cũng biết nhục, có đầu óc, có lòng tự tôn và tự trọng. Vì vậy, mấy bà cần biết điều, không nên miệt thị, bóc lột họ làm tôi tớ "thằng sen" như gia nô, nhá.
                  Sống như vậy, xin hãy nhớ cho: "ông, bà" ấy không bao giờ có thể đền trả món nợ:
                  Trong cuộc sống chỉ toàn cay với đắng
                  Gánh trên vai món nợ nặng vô ngần.
                  Những món nợ suốt đời không trả hết
                  Nợ ba sinh nợ những mối chân tình
                  Nợ đại cuộc nợ những lời ủy thác
                  Nợ chất chồng quấn chặt bước điêu linh.
                  Rồi thời gian sẽ nhòa theo năm tháng
                  Sẽ nhạt phai theo với ánh trăng tàn
                  Đời phiêu bạt con tim còn ấp ủ
                  Một khối tình muôn kiếp vẫn không tan. (2)


                  Cái thật nơi anh lính sạm phong sương ngoài chiến điạ, với bộ quần áo tác chiến sờn úa, tay anh lăm le cây súng xông ra ngoài trận tuyến, anh luôn chạy ở hàng đầu! Những anh lính đó sẽ thay đổi giòng xoáy vận mạng ầm vang khói lửa từ chiến trường! Lính “đơ dem cùi bắp” trắng trơn không có một tấm mề đay nào, ấy thế mà họ có tự do lựa chọn (không ưa ở trong xó bếp nhà kẻ khác), họ có trái tim đập mau trong lồng ngực quắt quay thổn thức, biết yêu tha thiết, đau đớn muộn phiền cúi mặt khi xóm làng lâm vô cảnh điêu tàn, như ai vậy. Khi chiến trường sôi sục, có quan, tướng, mà không có binh lính, thì đánh đấm được gì? Có bao giờ vì "chút thương nhớ chồng" mấy bà lặn lội đến đây, vờ thăm viếng ủy lạo binh sĩ, & đồng bào khốn khổ nơi rừng sâu nước độc hun hút ngút ngàn chưa? hay “quý mệ” chỉ ở nhà phè phỡn, ăn, giạnh háng ngủ... đỏm đáng diện, đàng đúm tụm năm tụm bảy xòe tứ sắc, khoe nhau kiếm chát món hời tiền bạc, kim cương? Cứ cho là vô tình, thì “mệ” có biết chăng… người lính ấy đổi mạng sống mình vì ai? hay ít ra họ cũng góp phần với “lũ bội tình” làm thay đổi đời chung:
                  Giặc đến nhà thì ta phải đánh
                  Phải xả thân để bảo vệ dân lành
                  Đâu phải vì cái bả lợi danh
                  Dẫu nguy hiểm cũng phải đành chấp nhận (3)
                  Do:
                  Tình đất nước tình quê hương dân tộc
                  Đã vun bồi ấp ủ tự ngàn xưa
                  Theo tiếng quốc trưa hè vang vọng mãi
                  Cuộc bể dâu trả biết mấy cho vừa. (2)

                  Đổi mạng sống mình, lấy gì đây hử?
                  Một đêm thanh bình cho mẹ cho cha
                  Một ngày yên vui cho bầy em trẻ
                  Một ngày cho phố phường rộn rã thiết tha
                  Ước mơ bọn mình trở thành vô nghĩa
                  Một lũ bội tình đổi trắng thay đen
                  Lời trần tình nào cũng khốn cùng lý lẽ
                  Một trời tang thương… gục xuống căm phiền. (2)

                  Chính vì suy nghĩ thế, nên Hoà rất mến thích & có cảm tình đặc biệt ngay với Đan, khi lần đầu tiên cô thấy Đan cùng bạn lội qua sông Nghĩa Hành tìm đến mình, mà anh không đeo lon ở ngực, hay mang trên ve áo cấp bậc gì! Lúc đó Hiền Hòa cứ nghĩ anh “chỉ là người lính” đơn sơ rất đáng kính trọng… mà em quý mến ngưỡng phục. Nhìn anh, em ngất ngây & khiến Hoà lo sợ tột cùng, vì ngộ lỡ khi “chàng” đau ốm, hay gặp chông gai, hoạn nạn thử thách ở chiến trường sôi động, em sẽ rất buồn và tiếc lắm thay:
                  Chàng từ đi vào nơi gió cát,
                  Đêm trăng này nghỉ mát phương nao?
                  Xưa nay chiến địa dường bao,
                  Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu. (4)

                  Ngồi bên trưởng Phòng 5 Phước bạn đồng khoá, Đan gọi thêm ít món ăn nhẹ hợp khẩu vị, rồi anh nói với bạn:
                  - Ưu Thiên đã nói câu nầy: "Ái ưu, cũng có khi nhàn. Thì tiêu khiển trong tiệc rượu, cung đàn, coi cũng nhã". Có phải không các cậu? Hôm nay, tôi hân hạnh mời cô cậu ngồi chung bàn ở đây một phen. Gọi là có chút tình tri kỷ với bạn bè nơi thâm sơn cùng cốc. Các bạn đồng ý chứ!
                  - Có điên mới không đồng ý.
                  - Gọi chị Sa tính tiền, ghi sổ. Dứt điểm chỗ nầy cái đã.
                  - Ơ! Anh Đan mời bạn bên bàn đó. Chớ tụi em ngồi bên nầy, không được mời sao? Nhứt là có người đẹp Huyền Nữ nè.
                  - Phải quá chớ.
                  - Ây. Các anh chị ơi! tụi mình tự động kéo bàn nầy, nhập chung với bàn bển đi. Bển "dui góa" mà hổng nhập bọn, là cù lần ơi cù lần. Há.
                  - Mau lên, kẽo anh Đan đổi ý, thì buồn năm phút.
                  - Hay. Nam vô tửu như kỳ vô phong!
                  - Tửu nhập tâm như hổ nhập lâm.
                  - Tửu nhập tâm xuất khẩu thành thơ.
                  - Tửu nhập tâm cữu cuồng tạ thị.

                  Các… “quý nương cao sang, đài các, kiêu sa” kia… lại ồn ào lôi bàn kéo ghế rồn rột… mà di dời qua gần sát bàn của Đan. Họ vồn vã tự nhiên ăn uống nói cười vui vẻ. Dường như họ chưa từng có chuyện bĩu môi, phồng má trợn mắt lé, nheo "mắt dẹt" lườm liếc. “Các hạ” coi như chẳng hề có chuyện đã ồn ào vùng vằng kéo mấy cái ghế sột sột, soạt soạt, rạc rạc… xê dịch ra chỗ khác. Hoà thấy tư cách mỗi người đã thể hiện trước đám đông, cô đánh giá họ thuộc về hạng người nào! Hoà tương đắc liếc xéo mấy nàng, lí lí lắc lắc đá lông nheo gật gù, nhếch miệng tủm mỉm... mắc cười thiệt, có lẽ các cô ấy không thể hiểu, chẳng bao giờ hiểu nỗi trong lòng Hoà nghĩ gì, khi ném về họ cái “liếc mắt và nụ cười tình” í hỉ!

                  Hoà quay lại nhìn Đan e dè lơ qua chuyện khác:
                  - Ở đây không bị cấm uống rượu à! Anh?
                  - Không hạn chế, nhưng họ tự biết mình phải thế nào. Khí phách nam nhi không cho phép "tửu nhập tâm như cữu cuồng tạ thị". Em đừng lo! Trong hương hoa đôi khi cũng “có chất” làm cho mình say hơn rượu, đó em. Vài ly bia, hoặc tất cả anh em đây dùng chung một chai rượu Remy Martin Cognac XO (Excellence 750ml) ngon tuyệt vời và hiếm qúy, thì đã sao!

                  Thế là, “các công nương kiêu sa đài các” và qúy anh bạn tự nhiên vui cười ha hả, đùa cợt. Đan liếc thấy Hoà có vẻ nhút nhát e dè, coi bộ em hơi rụt rè khó chịu; do Hoà “nễ hay ớn” mấy cô lạ, há??? Đan trìu mến mỉm cười, giọng nói thì thầm bên tai em có ý thức sâu sắc về nỗi khổ tâm:
                  - Theo anh nghĩ: Vì lý do đặc biệt nào đó, em phải lặn lội với cuộc sống một cách miễn cưỡng. Ở lứa tuổi nầy, lẽ ra em là chim én, nếu không muốn nói em là con sáo lém lĩnh. Nhìn mặt trẻ măng, nhưng tâm tính em so ra lại già quá đỗi, ha.
                  - Cám ơn anh. Ít ra, có anh nghĩ... đôi chút về em.
                  - “Tình yêu & đời sống”: Từ nầy dù khác biệt, nhưng ràng buộc mật thiết với nhau, em à. Em không nên thất vọng, có hy vọng mới nuôi sống mình trên đường đời buồn ít hơn vui. Đó, Hoà thấy không? Anh lạc quan ha! Anh muốn gởi đến em lời chúc thế nầy nhé: Dù trong thách đố, trở ngại nào, em nhớ bình tĩnh, sáng suốt, có nhiều nghị lực để vượt qua. Anh ở phương nầy sẽ cầu nguyện cho em mãi.
                  - Em không nói cảm ơn anh. Có lẽ khách sáo và dư thừa.
                  - ... Tuy anh mới gặp em đôi ba lần, nhưng sao anh cảm thấy thân thiết lắm thay và gần gũi! Anh mong sẽ tâm tình với em ít phút việc anh vừa nói trên kia về rượu: Em à, một chai rượu ngon và qúy hiếm, cũng giống như tình yêu ngọt ngào vậy... Khi rượu biến chất (do khi ta uống còn dư trong bình, nút chai đậy không kỹ, chẳng hạn) thì rượu trở thành dấm, chua lòm, nhạt phèo. Ta có đỗ bỏ, hay đập nát chai rượu, không thể hàn gắn nguyên vẹn trở lại. Nếu sơ ý, thì những mãnh thủy tinh vụn cứa đứt tay, chảy máu, đau ghê lắm, để lại vết sẹo suốt đời. Thế nên mình cẩn trọng giữ gìn... Khi đã mất đi những điều hiếm qúy, ta không nên tiếc nuối làm gì, hãy quên đi và vui sống nha em.
                  - Dạ. Em cảm ơn anh tặng lời khuyên xác thực, sâu sắc và hữu ích.
                  - Không có chi em ạ. Thật tâm anh mong như vậy, em chịu không?
                  - Dạ, phải.

                  Hoà cúi đầu im lặng suy nghĩ câu Đan nói, nụ cười mỉm chi nở trên bờ môi vụng dại. Đan trìu mến trao cho cô đôi mắt mùa Thu êm đềm. Tất cả rời khỏi Câu Lạc Bộ khi kèn vang vọng báo hiệu nửa đêm.
                  ***

                  Tình Hoài Hương

                  (1) Yên Sơn
                  (2) Trần Ngọc Nguyên Vũ
                  (3) Trương Trọng Kiên
                  (4) Trạch Gầm
                  (5) Đặng Trần Côn
                  Bút trần nào tả được lưu luyến!
                  Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                  Tình Hoài Hương

                  Comment


                  • #10
                    (cell phone) Photo by Hoài Hương
                    Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
                    Phần Thứ Nhứt
                    Chương 10

                    Cô Lái Đò & Các Em Thả Diều
                    Tình Hoài Hương
                    *

                    Một buổi kia khi đoàn 5 đã làm xong công tác thiện nguyện ở Huyện Ba Tơ, anh chị em lần lượt leo lên đò, qua sông Vực Hồng gần Xã Nghiã Hoà, để trở về doanh trại chính của bộ chỉ huy hành quân Sư-đoàn 2. Cô lái đò đưa khách sang sông khoảng chừng mười tám đôi mươi, đầu đội nón lá, mái tóc thả dài bay trong gió, khuôn mặt dễ nhìn, mộc mạc, đơn sơ và hồn nhiên. Đối với riêng Hiếu Hoà thì cô lái đò toát lên một sự thu hút lặng lẽ mà dịu dàng. Cô mặc chiếc áo bà ba màu đọt chuối, quần đen. Thấy đoàn lữ hành đến gần, cô nhanh nhẹn vui vẻ chào mời anh chị em. Vừa ngồi trên đò chòng chành trên sóng nước, Hoà thòng hai chân xuống ngoài mạn đò để vọc nước, cô chợt nhớ lại bài thơ:
                    Người con gái lội qua khe
                    Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau
                    Nỗi niềm tưởng lại xưa sâu
                    Bàn chân với nước cùng nhau lại đè (1)

                    Rồi Hoà nghĩ tới cô lái đò:

                    Chòng chành sóng đánh đò đưa,
                    Một đời trải gió dầm mưa với đò...
                    Đi tìm lại những câu hò
                    Mà sao gặp lại nghẹn ngào nhìn nhau!
                    Và rồi hạnh phúc nơi đâu?
                    Chỉ còn đọng lại nỗi đau không lời... (2)

                    Bỗng Hòa văng vẵng nghe người đàn ông (một chiếc đò chèo ngược lại) ở trên sông cất tiếng hò:
                    Em đi đâu đào liễu một mình?
                    Để ai nặng mối chung tình trong tâm.
                    Đêm qua vắng khách tri âm
                    Vắng hoa luống những âm thầm cỏ cây
                    Đêm đêm ngồi tựa cành cây
                    Than thân với bóng, bóng rày chẳng thương
                    Đêm đêm rước bóng lên giường
                    Ngọn đèn thấp thoáng nửa thương nửa sầu (3)

                    Anh chị em trong phòng 5 đang ngoái cổ nhìn qua bên chiếc đò kia, lắng nghe “chàng ca cẩm”. Bỗng mọi người ngẩn ngơ ngước lên nhìn, cô lái đò buông lơi mái chèo, tủm tỉm cười đáp trả lại câu hò, nghe hay đến bất ngờ:
                    Đêm qua đêm lạnh đêm lùng
                    Đêm đắp áo ngắn, đêm chung áo dài.
                    Bây chừ chàng đã nghe ai
                    Áo ngắn chẳng đắp, áo dài không chung
                    Bây chừ sự đã nhạt nhùng
                    Giấm thanh đổ biển mấy thùng cho chua?
                    Cá lên mặt nước cá khô
                    Vì em, anh phải giang hồ tiếng tăm? (3)

                    Thật quá bàng hoàng ngẩn ngơ, Hoà chẳng thấy họ nhìn nhau chào hỏi, nên cô không thể nào đoán biết hai người trên sông nước mênh mông nầy có quen biết, có tình ý với nhau chút gì, hoặc họ đã phải lòng nhau, nhưng đang giận hờn không? Hay ngẩu nhiên tình cờ kẻ xuôi người ngược, mà vô tình đối đáp những câu ca dao đúng âm tần, ăn khớp với “hoàn cảnh của nhau”, nghe sao hay đến thế. Càng hơn nữa Hoà không thể đánh giá những con người chất phác, hiền lành giản dị, chăm chỉ làm lụng sau bộ áo quần đơn bạc kia, lại có cả một tâm hồn dạt dào phong phú thi ca, họ có cảm hứng & mau lẹ đối đáp trôi chảy như vậy!? Thật mến phục.

                    Không riêng gì Hòa, các anh chị lớn đều xuýt xoa khen ngợi cô lái đò, họ xoay qua tíu tít đặt nhiều câu hỏi với nàng. Nhưng cô lái đò chỉ bẽn lẽn cười duyên dưới vành nón lá chao nghiêng. Ui Trời! nếu không nghe và biết chuyện, ta chỉ nhìn bề ngoài đơn sơ bình dị, mà coi thường đánh giá họ thấp kém, thì thiệt lầm to. Bi giờ Hoà thấy cô lái đò càng dễ thương biết bao. Khi nghe những câu hò ấy, đã làm cho lòng Hoà trầm lắng điều muộn phiền âu lo. Hòa muốn ngồi lại trò chuyện với cô giây lát cũng không được, vì đò đã cập bến. Hòa phải đi rồi. Thiệt luyến tiếc vô vàn.

                    Khi dáng chiều tuy thiếu nắng mà còn hơi nóng, dường như muốn đổ thêm lửa, nên sức nóng hừng hực trút xuống góc hầm trên ở núi Thần Phong hầm hập. Tháng năm chất chồng trôi qua, đang đến... từ mưa gió xói mòn đục khoét, núi phơi bày các hốc đá mốc khuyết, giữa kẽ nứt có tí rêu rong ẩm và đôi lúc hôi hôi chút xíu. Tuy vậy Hòa ưa thò mặt nơi kẽ nứt ấy để hưởng tí gió hiu hiu nhè nhẹ phe phẩy thổi vô mặt. Sau những giờ oi ả mặt trời dần dà dịu lại, chiếu tia nắng nhợt nhạt êm êm lả lơi ngả mình về cuối triền dốc nơi vùng núi đồi xa xa. Từng bè mây bay trên nền trời bát ngát bắt đầu vàng óng, thắm hồng pha màu tím lạt, mây lơ lửng uể oải chuẩn bị giã từ vạn vật về mở hội ở phương Tây, thì sương ngập thung lũng buồn.

                    Hai cô đứng lẻ loi, chơ vơ, u hoài nhìn xuống làng mạc, ruộng vườn ẩn hiện dưới áng mây bay bay ngang mặt. Nhiều mái nhà tranh lẫn khuất dưới chân núi, qua vòm cây màu lục đã có những sợi khói lam rụt rè vươn lên, gợi cho Hoà nhớ mà thèm buổi cơm tối sum họp cùng gia đình ấm áp biết chừng nào. Hiếu Hoà thích rủ Ngọc đi ra khỏi lều bạt một xí cho thoáng, hai đứa lò mò leo lên trăm bậc thang ngoằn ngoèo, như con rắn uốn lượn theo sườn đồi quanh giao thông hào đào sâu dưới đất. Hai cô thở hềnh hệch, mệt mỏi đi lên gần nóc chòi canh cao chót vót, nơi có nhiều bụi cỏ hôi, cây mắc cỡ lá kép đầy gai mọc chằn chịt gần những ụ hầm đắp đất cát. Giờ phút như thế, mình cảm thấy đỡ tủi hờn thân phận có đôi vai gầy muốn già trước tuổi! Nhứt là trên triền núi cao, gió thổi mạnh và không khí mát rượi thì vui thích biết bao.

                    Tuyết Ngọc tuy vô-tư-lự không là thi sĩ, chẳng phải là người ưa chuộng văn chương, cô bảo với Hoà: “văn chương thường thêu dệt chuyện tình cảm éo le và lãng mạn, không có thật”. Ngọc sống thực tế, mà khi Ngọc nhìn Hoà ngửa mặt đón gió lạnh lồng lộng thổi, giơ tay ôm ngàn mây bay vô lòng, Ngọc thấy Hoà run run rờ cây rừng sần sùi trơ trụi, khẳng khiu mọc rải rác còn đứng vững trên ngàn, Ngọc nghĩ Hoà cũng có lý ở vài khiá cạnh nào đó, nhứt là từ chốn núi rừng hoang dại, chiến tranh liên miên, thì hầu như mình có thể quên mặt trời xoay xoay trong bầu trời rực lửa, trút bỏ được cảnh đớn đau đắng cay nơi đây. Có lần Tuyết Ngọc đã đọc lá thư của Hiếu Hoà viết cho Thắng (cô chưa kịp gởi anh):

                    … “Hoà cảm thấy bình yên khi đứng bơ vơ lẻ loi trên núi cao, núi khuất núi che bớt dấu vết tang thương tháng ngày điêu linh cơ cực dưới chân. Ở trên cao chót vót nầy, em cảm thấy dường như được xoá bớt chứng tích hận thù, làm con người nghẹt thở, âu lo. Hoà ngỡ rằng dưới xa xôi ở chân đồi kia: là một cảnh đời khác hẳn, hoàn toàn xa lạ. Vì có thể ngày mai Hoà không còn gì để nhớ, không về dưới chân đồi để nhập cuộc với đời, chẳng biết em còn đếm được bao nhiêu tháng năm trên mười ngón tay khi chiến tranh bùng vỡ!?

                    Thế nên Hoà ưu phiền muốn mình biến thành sương mai tí tách rơi, gọi gió lạnh ùa về ngợi ca tình thương, hầu dập bớt cơn nóng bức bùng sôi ở vùng chiến địa. Hoà mong tan biến vô nước mưa đang ào ào trút xuống đất, mưa miệt mài gội sạch trơn bao phiền lụy khổ ải, cuốn trôi mọi ưu tư ra sông biển, mưa xoa dịu núi rừng cho lá xanh tươi từng phiến lá. Hoà xin em như loài hoa lan trìu mến tầm gởi trên nhánh cây cao, hoặc có thể em hóa thành cánh bướm chập chờn nhởn nhơ cùng mây trắng, mây hồng thẩn thờ bay đi tám hướng bốn phương, mây lui về cuối trời, xa thật xa khỏi nơi đau đớn chết chóc đang la liệt giăng mắc đó đây.

                    Hoà khát khao chối bỏ sau lưng cuộc đời đen thui phiền toái chông gai, lọc lừa đầy xót xa, bất nhẫn, cay hơn ớt, đắng hơn ngãi, bạc hơn vôi; mà em đang cố lãng quên theo tháng năm... Nếu có thế, có quyền, và có thể... thì em xin dâng đôi tay thắm thiết chia phần cùng Người bao tình mến vô tận trong đời phù du. Xin ngọn lửa hồng nhen lên từ tâm niềm mến yêu tha nhân, độ lượng, bao dung, nhẫn nhịn nào đó. Hoà hằng ước vọng mong chúng ta tay nắm tay, hân hoan đồng hành giăng rộng vòng ôm nhân ái, chứa chan tình nồng tốt đẹp trong tương lai, chúng ta thong dong đi đến miền đất hứa: ưu ái tìm sự thứ tha, khoan dung, độ lượng, chia sẻ cùng ai mọi đắng cay ngọt bùi. Đời sẽ thăng hoa, xao xuyến, ân cần vui vẻ cho trọn kiếp phù sinh. Anh Thắng nghĩ sao!? …

                    Tuyết Ngọc suy nghĩ: "nhỏ Hiếu Hòa ưa viết tào lao, vớ vẩn, nghe sao lãng mạn quá chừng. Nhưng suy cho cùng: đôi khi sống nơi vùng chiến địa, nếu có chút ước ao, mơ mộng, có thể giải khuây đôi chút, bớt lo sợ, thì Hoà cũng có lý đấy chứ".

                    Đứng trên đỉnh đồi nhìn xuống dưới thung lũng rộng là bãi cỏ lưa thưa, trong chỗ nầy có một khoảng đất nện cứng hình vuông, dành riêng cho trực thăng của bộ chỉ huy. Ngọc thấy làn khói xanh bay lên, báo hiệu bãi đáp an toàn, thì mấy phút sau có chiếc trực thăng đáp xuống, tiếng máy nổ kêu ầm ầm, cánh quạt quay tít mù tung đầy bụi đất, tạo thành luồng gió lốc xoáy tròn dâng tít lên cao, cuốn theo bao nhiêu giấy má rác rưới quay lông lốc hình trôn ốc xoay xoay lên trời.

                    Gió thổi phồng lưng áo trận mấy quân nhân đang cúi rạp người, họ lom khom từ trong chân đồi chạy ra bãi cỏ, để tới cửa phi cơ, đầu họ cúi về phía trước, tay giữ chặt nón. Có người bị hất về phía sau theo chiều gió đẩy. Bầy trẻ trong thôn xóm nheo nhéo kêu réo nhau, các em từ mọi ngỏ ngách trong thôn làng ùa ra đứng trên lộ xem trực thăng đáp. Có một đứa trẻ ốm yếu luống cuống trước sức gió xô, em không biết làm gì, cứ loay hoay bò lui bò tới trên bãi cát, rồi em ngồi phịch xuống, lại lồm cồm bò lết đến gần hàng concertina, bằng tất cả sức mạnh của hai bàn chân bé tí, em đứng lên lẽo đẽo lọt tọt từng bước ngắn bước dài chạy theo anh chị lớn, sau lưng em để lại vệt đất ngoằn ngoèo, dấu chân em bé in lên mặt đất ướt, tạo thành những lỗ trũng, phình to hơn bàn chân em vừa nhấc lên gấp bội.

                    Chiều chiều ở đây có một đám trẻ thả diều rong chơi dưới bãi cỏ hanh vàng, các em ấy là con của gia đình Nghĩa Quân, Dân Vệ, trại Gia Binh, con dân làng trú ngụ trong khu dinh điền, trong rào Ấp Chiến Lược gần khu quân sự. Các em có con diều giấy làm bằng tập học trò thường chao đảo trên không trung. Các em ngửa mặt nhìn lên cao, nhiều bàn tay nho nhỏ cùng nhau giơ ra, cầm chặt sợi cước cố lèo lái con diều xoáy tròn nhiều vòng. Bỗng nhiên một bên đuôi rách toạt rời thân bay lông lốc, đầu diều xoáy tít trong không khí, bay vút lên cao rồi chao xuống thấp, diều uốn lượn trong không gian phơi phới nắng vàng. Hỏng rồi! Con diều lao mạnh xuống góc đồi gần bên chân Ngọc, bụng nó mang theo sợi cước trắng đục, cong queo dài lòng thòng, một đuôi diều còn lại ngóng mình phất phơ bay bay. Các em bé đứng dưới chân đồi ngửa mặt nhìn lên, kêu la ơi ới. Gió bay phồng lưng áo trẻ, tóc các em rối tung giữa bầu trời thênh thang.

                    Hoà nghĩ hình như con diều cũng cố vươn mình lên mà trung thành tìm về cố chủ!? cô nhìn sững con diều giấy. Tần ngần giây lát cô lượm nó lên, nhìn xuống chân đồi tìm kiếm các em. Đám trẻ con đang đứng dậm chân dậm cẳng, chỉ chỏ la ó ơi ới những gì, vì quá xa nên Hoà không thể nghe rõ. Bọn trẻ í dà… tiu nghĩu buồn xo, ngồi phịch xuống đám cỏ ngó lên đồi. Hoà mỉm cười, nói với Tuyết Ngọc:
                    - Mình đem con diều xuống trả, chắc là các em mừng lắm há.
                    - Ừ. Ngọc kéo con diều, còn Hoà cuộn sợi cước. Nghen.
                    - Ừa.
                    Dáng chiều ập mau xuống, bao trùm mảnh đất hoàng hôn đau thương trong ghê rợn và cô tịch đáng sợ. Dưới chân đồi, trên bãi cỏ ươm vàng vắng hoe không một bóng người. Khi chiếc trực thăng có võ trang yểm trợ quân bạn bẻ gãy mũi tấn kích của việt cộng, nghe có tiếng súng từ xa vọng về, đám trẻ con chắc chắn đã dày dạn kinh nghiệm ở vùng lộn xộn, nên chỉ chớp mắt chúng lo chạy thoát thân, lẫn trốn lúc nào thật mau. Đom đóm lúc tắt lúc sáng tủa ra từ các xó xỉnh bay chập chờn nhiều vô số. Ếch nhái uồm uộp kêu inh ỏi dưới ruộng. Dơi chao lượn vun vút phát ra nhiều tiếng dzíu dzít. Vài con chó tru hú từng đợt dài, nghe thật ghê tai.

                    Không gian bỗng rào rạo tiếng đạn ở hướng Đông ngọn đồi, như chấm sáng của vì sao băng. Lửa tóe ra từ đường đạn bay vút vút, kèm theo nhiều tiếng xíu xít, rít rít, vèo vèo, khô khan kéo dài. Nếu không phải ở vùng giao tranh, thì Hòa tưởng như nhìn pháo bông ngày Tết buổi thanh bình. Khi nỗi khiếp sợ tột cùng đã chứng thực len lấn vào lòng, cô không biết gì, ngoài sự sợ hãi kinh khủng dâng lên tột đỉnh. Ngọc sợ toát mồ hôi hột, mặt mày xanh xám, cô vội chạy xuống trăm bậc cấp bằng đất, để về với gia đình quân nhân, cầu mong sự ân cần, an ủi và lân mẫn của con người trong tình đồng đội biết bao!

                    Hoà cũng lo sợ không kém, cô vội vàng cầm con diều chạy ngang qua mấy quân nhân đang dùng dao găm lúi húi đào lỗ, đất núi khô toàn sỏi cát cứng như đá. Công việc làm của họ rất nặng nhọc, cực khổ quá chừng. Dù khả năng và kinh nghiệm quá hạn hẹp, Hoà tần ngần dừng lại, muốn giúp các anh làm một cái gì đó, dù vặt vãnh nhẹ nhàng bé nhỏ, cho người khác vui vui và vơi nỗi đau, cùng sự khổ cực. Thì cô thấy mình có san sẻ chút tình đồng hành an vui mến nhau chút xíu, lòng cô sẽ cảm thấy an thư nhiều, Hoà cũng mong được bù đắp ngược lại. Nhưng anh quân nhân ngẩng lên nhìn, liền chỉ tay xuống khu hành dinh, anh lắc đầu lia lịa bảo:
                    - Ở đây trống trải rất nguy hiểm, cô hãy chạy xuống dưới kia, mau lên, nơi đó có chỗ trú ẩn an toàn hơn. Chạy mau lên!

                    Thiệt là… lính! Anh không lo cho bản thân mình cũng đang có sự lâm nguy tột cùng gần kề, mà anh chỉ lo cho đồng đội, Hòa quá nễ anh ta. Chiều hôm sau khi làm xong công việc, Ngọc đi lên trên đồi nhìn xuống đám cỏ bồng, cô ngồi đó chờ đám trẻ. Đúng như hai cô dự đoán, đám trẻ vẫn tụ tập trên bãi cát, nơi bãi cỏ. Có mấy trẻ em chơi rượt bắt cứu tù, nhảy dây, u mọi, đánh đáo. Năm em ngồi xếp vòng tròn hát đồng dao trên bãi cỏ, các em không thả diều nữa. Bé trai leo lên cây sấu quệt nhựa mít vô thân cây bắt ve sầu. Em khác lui cui đào khoét lỗ đất, em kia múc nước đỗ đầy vô hang bắt dế, dế chưa chui ra, đứa con trai vạch quần đùi đái vô hang. Vài đứa khác cỡi lưng trâu, bầy trâu biết nhớ đường lững thững về chuồng đứng lại ngóng cổ ngơ ngác nhìn lên í ọ... Em nọ đùa với bầy chó sủa vang chạy một quãng đến ngả ba, dừng lại nó co chân sau lên nhỏ vài giọt nước đái vô thân cây, rồi ngoắt đuôi chạy tiếp.

                    Trên lưng đồi thấy rõ phía dưới làng, Ngọc giơ tay ra hiệu cho Hoà đứng ở giữa sân bộ chỉ huy hành quân biết: “bọn trẻ đã có mặt”. Hoà gật đầu vẫy tay chào bạn, cô cầm con diều cụt đuôi, kèm theo ba xấp giấy bóng mới to to: màu đỏ, hồng, xanh lá cây, với ba cuộn cước, hồ dán. Cô vào cổng trạm gát ký vô sổ xin xuất trại, rồi Hoà thủng thẳng đi xuống chân đồi tiến ra bãi cỏ xanh mướt. Đám trẻ không ngờ Hoà đem trả con diều cũ, các em ngẩn ngơ phút chốc thộn ra nhìn. Bỗng cùng ồ lên reo mừng hoan hỉ. Vài em tranh nhau giơ tay cầm, rối rít cám ơn. Có đứa nói:
                    - Cô ơi! Tụi cháu tiếc con diều nầy lắm.
                    - Nó bay cao nhứt Làng cháu đó.
                    - Ai ngờ cô lượm được. Cám ơn cô.
                    Nhìn từng em bé dễ thương, Hòa dịu giọng:
                    - Cô cho các cháu giấy làm diều nè. Đừng xé sách học làm diều nữa nhe.
                    - Dạ... Trời ơi! Giấy bóng đẹp quá! Tốt quá!
                    - Nhứt Làng ta rồi.
                    - Nhứt Xã, chớ nhứt Làng gì, mầy.
                    - Tụi mình sẽ có mấy con diều đẹp, cầu cho nó bay thiệt cao. Hé.
                    - Tụi mình tới nhà thằng Tỵ... làm con điều khác liền hí.

                    Một đứa bé vụt chạy về phiá hàng rào cây, em chui tọt qua kẽ hở giây lát, rồi em trở lại ngay với chiếc rỗ con con, bên trong đựng khoảng mười trái ổi xá lị to to da vàng thoảng mùi thơm thơm. Bé thở hổn hển:
                    - Cái nầy… cho cô.
                    - Không.
                    Đám trẻ nhao nhao lên:
                    - Ủa! Sao cô không nhận? Thì...
                    - Nhà con Tằm có nhiều cây ổi. Nhằm nhò chi chút ni, mà cô lo hè.
                    - Lần sau cô, chú, ai muốn ăn ổi, thì tới nhà nó mua... hí.
                    - Cô lo chi... cô sợ cha mạ hắn lỗ vốn, hỉ.

                    Hoà bật cười, cô xoa đầu từng đám trẻ thảo ăn không suy tính thiệt hơn, "biết điều xử thế khi nhận & trao" cho người lạ hậu hĩ. Hoà cầm ba chùm ổi, nhỏ nhẹ cám ơn các em rồi quay gót. Hoà thấy mình tặng các em mấy xấp giấy đó, thiệt chẳng bỏ bèn gì, so với tấm lòng chân thật bộc phát của các em nhỏ ngây thơ hiền lành! Hòa tiếc cho những em nhỏ kinh khủng! các em xinh đẹp, thông minh, lễ phép, có tình nghĩa xóm làng. Nhứt là khi đi thăm các trường học trong Quận, hoặc Làng, Xã để tặng học sinh món quà: mấy quyển tập, sách hình tranh, bút viết, bút màu, v.v…

                    Hòa thấy đa số học sinh rất kính trọng thầy cô, và thân thiết chia sẻ cùng bạn hữu. Các em sống nơi vùng xôi đậu tranh tối tranh sáng, bị chiến tranh vò xé liên miên. Khổ cực. Nghèo nàn. Thiếu thốn mọi tiện nghi cần thiết. Lo sợ. Rủi nhiều hơn may. Sự sống như chỉ mành treo chuông. Ôi! Biết làm sao được, Hoà thương các em xiết bao!

                    Một tuần sau, chiều chiều khi gió bắt đầu nổi lên, thì dưới dãi nắng vàng hanh nhuộm đầy những mái tóc hoe hoe, hai cô thấy có bốn cánh diều cao bay. Các em bé làm diều quá mau: con màu trắng bị cụt đuôi cũ được ráp nối một đoạn giấy hồng. Thêm con diều mới thân màu đỏ, hai con diều có khúc hồng khúc xanh. Diều cũ và mới đã sánh vai êm đềm bay lượn trên không, trông thật đẹp mắt. Hoà, Ngọc cảm thấy vui vẻ, len lõi chút hạnh phúc ấm lòng yêu thương, nồng ngọt tình tự dân tộc dường bao! Hoà nhìn mãi lên bầu trời cao, thấy những cánh diều chao lượn trên không, cô thầm muốn mình gặp lại các em hết sức! Khi nào xin được phép xuất trại, nhứt định mình sẽ xuống thăm các em bé. Đôi khi cô mở to mắt nhìn đăm đăm về phía trước, mong chờ những hình ảnh trẻ thơ không hẹn. Tự dưng Hòa nghĩ đến:
                    Em đi đâu đào liễu một mình?
                    Để ai nặng khối chung tình trong tâm.
                    Đêm qua vắng khách tri âm
                    Vắng hoa luống những âm thầm cối cây
                    Đêm qua ngồi tựa cành cây
                    Than thân với bóng, bóng rày chẳng thương. (3)

                    Có thể do Hòa quá lo sợ cho kiếp sống thống khổ bi thương của các em nhỏ trong vùng, lúc nào không thấy các em, Hòa bồn chồn lo lắng & cô cảm thương họ chăng? Bao giờ đi qua chốn cũ, thốt nhiên Hoà cũng có những cử chỉ dáo dác kiếm tìm mấy em bé miền quê vừa biết, nhưng cô chưa thể quen mặt. Có nhiều ngày đi qua lại nơi chốn cũ, Hoà không thấy những con diều bay trong gió, Hoà áy náy, bứt rứt, bồn chồn, buồn phiền, lo lắng cho đám trẻ em ở vùng quê lắm. Tuổi thơ của các em chưa có một ngày an vui bình yên đích thực, mà toàn sống trong âu lo, hãi hùng, bữa đói bữa no, ngủ không tròn giấc, sống nay chết mai tại vùng chiến tranh liên miên đã và đang xảy ra kinh khiếp là thường. Hoà đành ngậm miệng không dám hỏi thăm ai về tình hình sức khỏe của đám trẻ, có thể vô tình tai họa đến, thiệt tội nghiệp cho các em vô cùng!
                    ***
                    Tình Hoài Hương

                    (1) Bùi Giáng
                    (2) Kim Chi Nam Mai
                    (3) ca dao
                    Bút trần nào tả được lưu luyến!
                    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                    Tình Hoài Hương

                    Comment


                    • #11
                      Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn
                      Phần thứ Nhứt
                      Chương 11

                      Tiếng Hát Ru Đời Biến Loạn
                      Tình Hoài Hương
                      *

                      Sương rơi lốp đốp trên mui xe, giọt sương to to tròn tròn nằng nặng như hạt mưa, long lanh rung rinh như giọt nước mắt nàng sơn nữ. Kỳ thực đó là sương muối miền núi mòng mọng trắng xóa, (chớ chẳng phải mưa) làm nặng trĩu thêm bầu trời u ám, xóm làng chìm ngập trong đêm sương thiệt ẩm ướt, lạnh lẽo. Con đường cái quan thiếu ánh trăng do mây che lấp nên mờ nhòe, nó giống con bạch xà khổng lồ nằm im ngủ bên bờ đất uốn lượn trong rừng cây lao xao. Trăng lá mít như con thuyền đơn độc méo mó, ẩn hiện bềnh bồng trôi đi trôi về nhấp nhô trong vùng mây đục. Phút chốc vầng mây đen xám phủ trùm góc trời đêm. Cách nhau mươi bước, không ai nhìn thấy vật gì, cây cối đen nghịt chìm trong bóng tối thăm thẳm. Đom đóm chập chờn lúc tắt lúc sáng trên những ụ mối to. Tiếng côn trùng rỉ rã. Quốc gọi hè về. Bầy dơi ăn đêm kêu dzít dzít đập thân vô hông xe bồm bộp. Dế gáy ré ré. Muỗi vo ve nhiều vô số kể. Ếch nhái uồm uộp xa xa. Thỉnh thoảng con cú nấc từng tiếng cụt lũn, nghe ớn lạnh giữa đêm muôn trùng khổ ải, đơn điệu, hoang tàn đầy kinh dị.
                      Qua khỏi bìa rừng âm u thì đoàn xe đến chùa Ông nghi ngút khói hương trang nghiêm và uy linh do người Hoa dày công xây dựng, chùa chạm trổ tinh vi từ lâu đời: tường vách, câu đầu, sà ngang, đòn bẩy, đều chạm hình hoa lá, cây cỏ, hình người và muôn chim, trông hài hoà tuyệt đẹp. Đêm nay anh em trong đoàn Tâm-lý-chiến Sư-đoàn 2 sẽ diễn xuất tại khu vực chùa Ông cho đồng bào cư ngụ trong vùng, và ở các vùng lân cận xa xa như: Nghĩa Hoà, Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Sơn Tịnh, vân vân… đến xem văn nghệ giải trí. Mỗi khi có trình diễn văn nghệ tại các khu công cộng thì: Dân Vệ, Nghĩa Quân, Công An, Cảnh Sát, An ninh Quân Đội, Quân Cảnh họ rất mệt vì có bổn phận lo giữ an ninh trật tự, bảo đảm cho diễn viên cũng như cho đồng bào xem được an toàn và vui vẻ.
                      Người đàn bà già nua hớt hãi tất tả quảy chiếc nôi kẽo kẹt gánh "triêng gióng nợ đời" độc nhứt vô nhị trên vai, bà gầy ốm đong đưa gióng thúng lên xuống kẽo kịt nhịp nhàng theo từng bước bà di chuyển. Lưng bà càng còng xuống dưới sức nặng: phía trước triêng gióng là thằng cháu đích tôn mệt mỏi co ro oằn mình ngủ gật trong thúng. Vòng tay thằng bé vẫn ôm bức tượng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp! Cái thúng sau lưng bà là mớ gia tài lộn xộn: áo quần, túm gạo đựng trong bị cói cũ, tô chén, son nồi đen thui luộm thuộm. Hai bà cháu sống còn dắt díu nhau bò lê trên dòng đời đầy binh lửa. Bà vừa chạy vừa kêu to:
                      - Bà con ơi! Chờ tui đi coi văn nghệ với chớ.
                      Bóng tối ghê rợn buồn bã bao bọc làng quê lập lòe dầy đom đóm lung linh bao điều bí ẩn. Hoà đứng bên góc cánh gà trên sân khấu nhìn xuống khán thính giả: Quần chúng không ngừng đông lên, lớn rộng ra trong sân xem văn nghệ như nước tràn bờ. Vì lâu thật lâu ở nơi xa xôi hẻo lánh nầy, mới có đoàn kịch của Sư-đoàn 2 dám cả gan tới đây trình diễn. Ngoài ra hiếm khi có các môn giải trí lành mạnh khác. Mấy thanh niên thiếu nữ trai trẻ (lanh lẹ hơn các bà già) bắt đầu leo lên chỗ cao, trên bờ tường, gò mối, ụ đất, cành cây. Giờ phút chờ đợi xem văn nghệ khi đôi cánh màn nhung đỏ chưa kịp kéo mở, thì thật mệt mỏi, bực bội, ồn ào. Tiếng la ó chưởi bới, rủa nộp, xô đẩy nhau, tranh giành chỗ ngồi càng lúc càng gây thêm nỗi bất bình.
                      Một vài vụ đánh lộn, ẩu đả đã xảy ra, người Việt Nam vốn dĩ da vàng mũi tẹc, nhân cơ hội nầy mũi sưng tấy lên cao (như vị cố vấn James Webb). Da vàng bủng, trở thành trắng nhợt, hoặc đỏ gay (như ông da đỏ Joe, phụ tá cố vấn Mỹ). Người Việt mình bị "dộng cho lai căng" như rứa, trông thiệt khó chịu. Thật khó coi! Tất cả mọi người ngồi bó gối dưới sân cỏ há hốc miệng nhìn lên nghe ban nhạc của Sư-đoàn 2 hòa tấu những nhạc khúc vui nhộn, trong khi chờ đợi giờ khai mạc. Khán giả đa số là ông bà già, nhiều nhứt là mấy bà xồn xồn, họ lặng lẽ, ánh mắt xa xăm, lớp da dày khô thấm đất bùn, chân không nứt nẻ, sần sùi, từng vết nhăn trên trán trầm tư.
                      Họ ngồi bó gối tại bậc thềm, đôi bàn tay gân guốc gầy trơ xương nhăn nhúm nắm chặt vô nhau, như bóp chết uẩn khúc hờn tủi khổ đau từ kiếp người nghèo nàn vào độ chiến chinh đang vỡ bung ra trong đất nước. Có nhiều trẻ em lớn tồng ngồng cỡ mười hai, mười ba tuổi, lũ trẻ con, đứa chạy, đứa bò, đứa lết đít kéo theo những vệt bùn loang trên mặt đất ẩm ướt. Những đứa trẻ thôn quê lọ lem đen đúa ở trần, hoặc mặc nính áo dài lụng thụng thay quần. Có đứa mặc chiếc quần cháo lòng vá chằn vá đụp, những em bé nhỏ xí đa số hầu như không manh vải che thân, trần truồng như nhộng. Trừ mấy đứa quá lớn thì có quần đùi áo cánh. Đầu tóc các bé bù xù, mặt mũi lem luốc như chú mèo vá, tấm thân èo uột, bụng ỏng đít teo.
                      Hòa hiếm thấy thanh niên nam, nữ, từ hăm mấy ba mươi tuổi ở trong làng. Họ đi đâu hết rồi nhỉ?! Rải rác đó đây có số rất ít thanh thiếu niên lẫn lộn thì chẳng thua gì mấy người lớn, mặt mày hốc hác bơ phờ, trông họ mỏi mệt, già nua trước tuổi, quần áo bạc phếch che thân hình gầy còm xanh xao, in dấu ấn khổ cực triền miên, lam lũ, đói lạnh hằn trên vừng trán, dưới đuôi mắt mệt mỏi lờ đờ, nơi bao mái tóc ngã bạc trước thời gian. Thật xấu hổ! Ôi! Nhưng mà… chao ơi! Giữa cảnh khốn cùng, nghèo đói do chiến tranh liên miên, bệnh tật cùng khắp, thiên tai luôn bám sát người dân dai hơn điả. Nhứt là ở miền quê thì bộ mặt nghèo đói cơ cực thấp hèn càng lồ lộ phơi bày! Còn ai hay biết gì mà xấu với hổ cơ chứ! Hoà thù ghét chiến tranh, nhưng cô rất yêu các em thơ trẻ thật thà, thương những cụ già chân thật hiền hậu, mến từng bạn trẻ cùng trang lứa, tiếc vồng sắn nương khoai nơi cư dân đã nhọc nhằn vất vả, lam lũ tưới từng giọt mồ hôi lên đất khô cằn, để chắc chiu canh tác nghề nông, làm vườn, làm rẫy.
                      Tuyết Ngọc mặc áo mini robe, bên trong soutien có nửa vòng nòng sắt độn khéo nâng bộ ngực nở nang lên cao. Ngọc cùng bạn biểu diễn các điệu: Rumba. Bebop. Boston. Valse. Tango. Cha Cha Cha. Pasodoble... mở đầu chương trình ca nhạc kịch qua bản nhạc đồng ca: “Vó Câu Muôn Dặm” của Văn Phụng: “Một đoàn trai đi khi Xuân tới. Hẹn rằng gieo tình thương khắp nơi. Non nước khi xa vời, ta đã yêu thương đời. Đừng e nắng gió sương bạn ơi”... Đồng bào nồng nhiệt vỗ tay reo hò “Bis” “Bis” “Bis”... Thế là các anh chị em vui vẻ hứng chí đầy nhiệt huyết đồng ca tiếp bản nhạc: “Ngựa phi, ngựa phi đường xa. Tiến trên đường cát trắng trắng xóa. Tiến trên đường nắng chói chói lóa. Trên đồng lúa theo cánh chim trời bay trên cao. Cánh đồng lúa in sắc chân trời mây lan xa”.
                      Tiếp theo liền: “Bánh Xe Lãng Tử” cuả Trọng Khương. “Bánh xe quay nhanh nhanh, chiếc thân xe rung rinh chìm trong làn cát trắng. Xe nhịp nhàng quay bánh lướt. Hình xe mớ khuất trong mênh mông”. Thu Hoa ca bài: “Biệt Kinh Kỳ” của Lê Minh Bằng: “Bạn ơi. Quan hà xin cạn chén ly bôi. Ngày mai tôi đã, đã đi xa rồi...”. Thái Hùng đơn ca “Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay” của Đoàn Chuẩn Từ Linh: “Với bao tà áo xanh, đây mùa Thu. Hoa lá tàn, hang cây đứng hững hờ. Lá vàng từng cánh rơi từng cánh. Rơi xuống âm thầm trên đất xưa…”. An Thi ca: Tình Nghệ Sỹ của Đoàn Chuẩn Từ Linh: ... “mối tình nghệ sỹ như giấc mơ, chóng tàn vì vướng muôn ý thơ...” thật tuyệt vời.
                      Thế rồi màn ảo thuật tuyệt diệu do hai anh Tâm và Vị trình diễn khá độc đáo. Vỡ bi kịch buồn nhưng không kém phần sống động, giữa chương trình có ngâm thơ. Anh Thái muốn thay đổi bầu không khí “bi kịch” vừa rồi, nên anh diễn ngâm bài thơ hài hước tiếu lâm với hoạt cảnh: Tỏ Tình Thầm Thẹn:
                      Tôi thấy thơ thầy trên trường trắng tinh.
                      Trái tim tôi thổn thức, tự tâm tình.
                      Thân trai tứ thời tình thương thiếu thốn…
                      Tại thầy trấn thủ tuốt triền thôn Thượng!
                      Tình ta thật trắng trinh tợ tuyết trong.
                      Tình thương thắm thiết tương tựa trăng tròn.
                      Tôi trao tận tay thầy tình Tò Tí...
                      Thư tình tôi thành thật, thêm thương thầm...
                      Thật thảm thay từ thời trai thiếu thốn!
                      Thế thì thầy thích… “thì thọt thầm thì”…?
                      Thầy thử tìm tòi thi tứ trên trang Thơ.
                      Thấy tôi, thầy tối tăm tâm trí. (3)
                      Tiếp theo là đôi song ca Huy Tuấn và Lan Anh qua bản nhạc: “Gửi Người Em Gái” của Đoàn Chuẩn Từ Linh: “Cành hoa tim tím bé xinh xinh báo xuân nồng. Rừng đào phong kín cánh mong manh hé hoa lòng. Hà Nội chờ đón tết, hoa chen người đi, liễu rũ mà chi…”. Tuyết Ngọc, Hiền Hoà và Thu Hoa trong tam ca: “Ngàn thu Áo Tím” của Hoàng Trọng, Vĩnh Phúc: “Ngày xưa xa xôi em rất yêu mầu tím. Ngày xưa vô tư em sống trong trìu mến…”. Gợi Giấc Mơ Xưa do Lê Hoàng Long được anh Thế Vị ca: “Ngày mai lênh đênh trên sông Hương, theo gió mơ hồ hồn về đâu. Sóng sầu dâng theo bao năm tháng, ngóng về đường lối cũ tìm em.... Thương em thì thương rất nhiều, mà duyên kiếp lỡ làng rồi...” Nghe thật nồng nàn trữ tình nhớ nhung và buồn quá chừng! Những điệu hò câu hát dân ca Nam-bộ. Hò Mái Nhì. Hò dân ca Quan-họ ý nhị súc tích, trữ tình, xen kẽ những vũ khúc xuân tình lả lướt mời mọc, được các anh chị em nhiệt tâm cung hiến cho qúy khán thính giả xem say mê.
                      Tiếp theo là đồng ca bản nhạc “Huynh Đệ Chi Binh” của nhóm AVT - Lữ Liên “Huynh đệ chi binh là gì đó anh Hai? Huynh đệ chi binh là mình cùng chung đời lính, thương nhau khác chi nhân tình”... Trong sân Chùa hầu như được bản nhạc vui nhộn nầy làm cho kích động thêm, đồng bào hâm mộ nồng nhiệt vỗ tay hưởng ứng và hứng khởi hẳn lên. Một màn hài kịch vui tươi lành mạnh, cười ra nước mắt lồng qua bài thơ, vui ơi là vui. Đồng bào hân hoan khi xem các đoạn hài kịch, thích thú vỗ tay qua màn tân cổ nhạc giao duyên. Thế mới biết: từ trong lớp vải sờn rách thô sơ, họ còn một trái tim nóng bỏng cuống quít gọi tình. Họ cưu mang tình tự quê nhà thắm thiết, dạt dào tình yêu thiết tha chân thật như mọi người. Ngọt ngào, vời vợi luyến lưu như men nồng rượu ngon thơm toả nhựa mật từ hương hoa, khiến mình cảm thấy ngây ngây, say say, mê mê.
                      Đám trẻ thả diều hôm trước thấy Hoà đứng ca múa và diễn kịch trên sân khấu, các em ngồi bệt dưới đất vui vẻ say sưa nhìn cô, các em kêu réo nhau nháy nhó xầm xì chỉ chỏ cô hoài. Các em liên tục vỗ tay hoan hô không vì Hoà hát hay, vũ đẹp, làm kịch vui, mà do các em mừng rỡ chân thật tình mến, có hạnh phúc bé nhỏ khi các em hãnh diện được nhìn thấy người quen biết. Hoà càng vui mừng thỉnh thoảng cô nhìn đám trẻ vẫy tay chào và tươi cười với mấy em. Đêm trình diễn văn nghệ nói chung anh chị khác rất thành công, kết thúc tốt đẹp. Tấm màn nhung đỏ khép lại lúc hơn một giờ sáng. Đồng bào vui vẻ ồn ào lần lượt ra về, chừa khoảnh sân chùa Ông trở lại u trầm vắng lặng, buồn bã như cũ. Riêng buổi công tác nầy thì Hoà không đạt kết quả mỹ mãn như ý, bị phê là kém kể từ khi đi làm. Làm sao được!? Khi trong bất cứ hoàn cảnh nào, Hoà muốn vươn lên, cố gắng hết mình dù thật khó khăn. Còn lòng dạ nào mà ca với múa, khi nhìn đồng bào cơ cực lầm than đến vậy?
                      Chợt có tiếng gọi nho nhỏ:
                      - Hiếu Hoà!
                      - Tuyết Ngọc!
                      Ngọc quay đầu lại, reo lên:
                      - Aí chà chà. Anh Đan, anh Đan kìa!
                      Ôi! Đan ngày ấy đã lội qua sông rộng nước lớn, để đi tìm người em nhỏ bên tê bờ đó mà̀. Nay anh vượt biên thùy xa xôi ngàn dặm sơn hà, Đan về đây “tìm gặp nàng”, là điều Hoà chỉ thấy có ở trong mơ. Nghĩ mà thêm trĩu nặng góc hồn... Hoà đã nhận ra Đan thật! Thoáng mắt thân mến lặng lẽ giao nhanh, cô reo vui bằng đuôi mắt và nụ cười mỉm miệng. Thấy Hoà nhìn, khuôn mặt Đan sạm nắng gió phong sương khuya chiều nhuốm vẻ ưu tư kia, đã dịu hẳn đi trong nụ cười ấm nồng, khi lòng anh còn vướng bận bao nỗi băn khoăn và luyến tiếc. Hoà nín lặng nheo nheo mắt kín đáo nhìn Đan đăm đăm, cô cảm thấy lòng thích thích sợi tóc ương ngạnh bỏ mái lòa xoà trên trán Đan không đội chiếc nón sắt (như mấy lần trước). Hoà thương thương viền mi dày dài và cong vút chơm chớp mắt nhìn trìu mến, ưa ưa nụ cười Đan rộng mở để lộ hàm răng trắng đều. Hoà thích từng khóa sol in rải rác trên chiếc áo sơ mi màu vàng nhạt, cà vạt nâu lủng lẳng kẹp cài, quần tây màu đen đậm, đôi giày da thời trang bóng láng.
                      Biết nói thế nào cho trung thực khi lần đầu tiên Hoà thấy Đan mặc thường phục. Dễ thương ư? Hoà không chối cãi điều đó. Tuy nhiên, Hoà nhận thấy hình như Đan mất đi một nửa dáng dấp hùng tráng oai dũng của người lính đượm phong trần rùi. Điều đó cũng đúng thôi: Nếu các anh xông pha ra trận, mà các anh mặc áo sơ mi ca rô hoa hòe, quần nhung dạ hội, mang giày tây, đầu đội nón bành như thời trai tráng dân "Xì hiệp xĩ” xa xưa. Thì các anh có cầm súng cối, súng trường, lưng nịt đầy đạn đi chăng nữa. Coi bộ dạng qúy anh vẫn yếu xìu... lè phè công tử bột! Còn đánh đấm gì ai cơ.
                      Trên tay Đan xách mấy vỏ đít đạn đồng của đại bát 100ly tròn to cao bằng cỡ cái tô ăn phở, (anh đem tặng cho hai cô, do hôm trước Thu Hoa đã xin, để đem về nhà làm lọ cắm hoa bền và rất đẹp). Đan hỏi:
                      - Các em có bận gì không hở?
                      Ngọc mau miệng đáp:
                      - Không anh. Tụi em đi tà tà nè.
                      - Vậy thì tốt. Mời các em vô tiệm ăn tô bún, uống ly nước nhe.
                      Các cô í dà… ỏn ẻn quay người bén gót theo sau lưng Đan vào tiệm ăn cho lẹ lẹ, rủi mà… sợ Đan đổi ý, thì các cô buồn xo trăm phút, chớ hổng chỉ buồn năm phút đâu nà, và xúi quẫy hết biết. Các cô vào trong tiệm, thì thấy có các anh đã ngồi với nhau: Thọ, Văn, Quân, Bảy, Hộ, Tí, Hà. Không hiểu sao hôm nay đã thiếu vắng anh Lê Văn Trọng??? Bữa ăn dẫu tình cờ nhưng đầy đủ các món. Khung cảnh ấm cúng thanh lịch. Nhạc chọn lọc mở nhè nhẹ êm êm, với bình hoa lys cắm trên bàn phủ khăn trắng, thì còn gì tuyệt diệu bằng ở buổi tối trời oi nồng ngoài khung cửa.
                      Sau bữa ăn bất ngờ mà rất vui, hai cô trở về chùa Ông, tất cả qúy anh trong đoàn tâm lý chiến đang hì hục tháo gỡ rạp sân khấu, lụi hụi chất đầy cây gỗ rất nặng lên hai chiếc xe GMC. Những lúc nầy Hoà mới thấy càng thương các anh trong Phòng 5, chẳng những họ phải luyện tập ca hát giúp vui, phải làm những công việc nặng nề, mà còn cầm súng khi có giặc xâm lăng nữa. Mấy cô gái chỉ giúp qúy anh làm những việc nhẹ nhàng như xếp màn, bưng những thứ nho nhỏ không cồng kềnh bỏ gọn vô một chỗ. Anh Thái căn dặn đoàn đi công tác, phải hết sức dè dặt, cẩn thận:
                      - Đi đâu, các anh, các cô nhớ đi chung với nhau nhé, không đi lẻ tẻ. Bị bắn tỉa, bắt cóc bịt mắt, dẫn vô "bưng". Chết đa.
                      - Mình đi làm chuyện giúp ích, hữu dụng cho mọi người mà. Anh nói gì, nghe ghê thấy mồ vậy? Anh Thái!
                      Phòng 5 giữ một khẩu liên thanh nhẹ ba càng, đạn lên nòng phòng hờ khi bất trắc. Thật ra, chưa bao giờ đoàn người nầy phải sử dụng nó. Hoà sợ nhứt là tiếng súng đại bác đặt phía chéo ngọn đồi, nghe chát chúa, lạnh lùng, khô khan, mãnh liệt, chính xác. Mặt đất rung chuyển, gầm rú vang động dữ dội, hung tàn, man rợ. Sức ép của nó khiến ta nghẹt thở, lồng ngực nóng bỏng cào xé đau buốt, nhức nhối vô cùng.
                      ***
                      Đoàn công tác Phòng 5 leo lên ba chiếc xe lính chạy đến vùng Sơn Hà. Qua bao ngày "ác ôn côn đồ" kia, đoàn 5 được trở về hậu cứ, thiệt sung sướng và thoải mái. Việc đầu tiên khi về đến nhà, Hoà vội vàng thay bộ áo quần nặng nề khó chịu (như Thắng đã nói). Hoà đi tắm gội, kỳ cọ sạch sẽ (sợ hơi người chết còn bám riết theo). Sau đó, Hoà cùng Tuyết Ngọc dạo phố, đi ăn phở rồi đi ciné coi phim "Hopy a Writ", do Robert Mitchum thủ vai chính. Hai cô hớn hở vui mừng, cười nói ríu rít huyên thuyên. Y như họ bỏ thành phố nầy từ lâu lắm, nay vui mừng trở lại. Thế mới biết thương người lính Cộng Hòa miền Nam Việt Nam quanh năm suốt tháng trấn giữ nơi ngàn chốn khói lửa ở sơn khê.
                      Tan ciné, Ngọc gặp bồ tèo, hai cô cậu năn nỉ Hoà đi tắm biển Thanh Bình, hay ở Tiên Sa cho vui. Hoà không thích tham dự, người ta có cặp có đôi, mình “tứ cố vô thân” ai lại dị hợm đi rề rề bám theo đuôi họ vậy, coi kỳ quá đi. Hoà lủi thủi về nhà ngủ li bì đến tận chiều. Thức giấc, Hoà nằm vắt tay lên trán nhìn vu vơ ra ngoài khung cửa kính. Gió chiều xô mạnh những cành cây me là sà quật lui quật tới, cành cây cọ xát trên mái nhà tôn nghe rột rột, rào rào, lá me bay bay rơi rụng hoặc dán chặt đầy ô cửa kính. Hoà ngạc nhiên nhìn quanh, vì mùi hoa hồng thoang thoảng thơm đâu đó. À thì ra... mấy nhung hồng đứng trên lọ sứ mỉm cười khoe cánh. Hoà nghĩ: "hẳn là hoa của Thắng mang đến, vì anh ấy biết Hoà thích hoa hồng mà".
                      Quả thực, khi xuống nhà rửa mặt, thì chị bếp vui vẻ nói:
                      - Cô ngủ say quá! Cậu ấy đến đây, ngồi ngoài phòng khách đánh đàn như ong, như ó kêu. Vậy mà cô không nghe gì cả. Tôi nói: “để tôi vô kêu cô dậy”, cậu ấy không cho, nói là: “cô đi làm xa rất khổ cực, mất ngủ luôn”. Cậu Thắng ở Sài Gòn về ba ngày rồi. À, cậu có cho cô con mèo bông gòn, hay bằng thứ gì mà đẹp ghê. Có hộp kẹo. Hai quyển sách gì đó nữa.
                      Hoà cười, "mình mất mươi ngày thức trắng đêm, vì sợ ma, sợ xác chết kinh khủng. Bi giờ không ngủ li bì sao được cà". Cô ra phòng khách ôm con mèo lông xù dễ thương do Thắng dễ ghét tặng, Hoà lấy hai quyển Le Bossu de Notre Dame và Les Miserables của văn hào Victor Hugo. Hòa thích thú lật lật vài trang sách mới thơm mùi giấy. Hoà ngồi xuống sofa, mỉm cười và bắt đầu say mê đọc Les miserables.
                      ***
                      Tình Hoài Hương
                      (*) Thơ Tình Hoài Hương
                      Bút trần nào tả được lưu luyến!
                      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                      Tình Hoài Hương

                      Comment



                      Hội Quán Phi Dũng ©
                      Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                      website hit counter

                      Working...
                      X