Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Nước Làng Việt Nam

Collapse
X

Nước Làng Việt Nam

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Nước Làng Việt Nam

    Nước Làng Việt Nam


    Phạm Văn Bản

    “Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh,
    có sông sâu lơ lững vần quanh
    êm xuôi về nao...
    Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau,
    bóng tre rung bên mấy hàng cau,
    đồng quê mơ màng...
    Nhưng than ơi, có một chiều thu lá thu rơi,
    có một chiều thu lá thu rơi,
    ôm mối tình quê gọi thầm mơ bóng ngày về.
    Mơ trông bóng ngày về...
    Quê tôi chìm chân trời mờ sương.
    Quê tôi là bao nguồn yêu thương.
    Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn,
    là bao vấn vương tâm hồn người bốn phương…”

    Tâm tư của thày Chung Quân Nguyễn Đức Tiến đã rộn ràng vang vọng trong tôi từ thuở thiếu thời. Bài ca mô tả về thể chế dân chủ của Làng Nước Việt Nam mà tôi từng lắng nghe ông bà cha mẹ tôi thuật lại và khiến tôi bàng xúc động mỗi khi suy nghĩ về kiệt tác chính trị của Tổ Tiên.

    Theo lời linh huấn của Tổ Tiên, nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp Hoàn Chỉnh trong Chánh Thuyết Tiên Rồng, đặc biệt rút tỉa nguyên lý và chú trọng hình thành những nguyên tắc áp dụng với công tác xây dựng và phát triển một hệ thống tổ chức làng thôn, lưu truyền trong lịch sử những ngôn ngữ chan chứa tình người: làng tôi, quê tôi, nước tôi, nhà tôi… Với cấu trúc sinh hoạt tự do tự chủ, tự túc tự cường của Làng Xã đã mang lại nếp sống thân thương bình đẳng cho toàn dân trong làng, mà Làng Nước Việt Nam còn là nơi bảo toàn lực lượng dân quân, bảo vệ và nung đúc tinh thần chiến đấu, yêu nước thương dân của mọi người, đồng thời đã bảo tồn nếp sống thuần túy dân tộc ở thời bình cũng như thời chiến.
    Xa xưa cũng như hiện nay, giặc nước đã không chỉ bao gồm các loại giặc quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội luôn muốn xâm chiếm, hoành hành, thống trị làng xã, vì rằng cố gắng nỗ lực chinh phục của giặc luôn gặp lũy tre xanh của làng ngăn cản. Bởi thế làng thôn Việt Nam trở thành tiền đồn chống các loại giặc nước, và cũng khai tử chế độ độc tôn độc tài nội xâm.
    Tổng quan, chỉ với nền tảng thể chế Làng Nước như trong truyền thống của Văn Hóa Việt, thì Dân Tộc ta mới có cơ may thoát khỏi gọng kềm của giặc xâm lăng cướp nước, nhằm mang lại ơn ích cho toàn dân và bảo đảm tương lai đất nước một cách trường tồn, hữu hiệu. Vì vậy, Chính sách dựng Làng Xã của ta sẽ là một đòn chí tử và triệt tiêu tận gốc rễ của mọi chính thể phổ quát, đấu thầu dân chủ, cưỡng bức tự do dân chủ bởi duy vật sử quan của các tà thuyết duy vật duy lợi ngày nay.

    1. Làng Xã Tự Chủ
    Đặc tính nền tảng của Làng Xã Việt là người dân tự ý tới ở, quy tụ thành làng. Tuy cách khởi lập có khác nhau, nhưng điều kiện tiên quyết trong việc Dựng Làng vẫn là lợi ích và sự tự quyết của những người quy tụ, không ai bắt buộc ai, hoàn toàn tự do dân chủ.
    Làng được thành lập không chỉ vì lợi ích vật chất, biến nơi khô cằn hoang vu thành miền phì nhiêu trù phú, mà còn vì lợi ích tinh thần. Làng giúp cho người dân thoát nạn sống cảnh bơ vơ thiếu nơi nương tựa, và khi con người trở thành đơn độc thì dễ trở thành sinh vật kinh tế để phục vụ cho tầng lớp lãnh đạo chủ nhân. Trái lại hệ thống làng xã đã giúp cho toàn dân có cuộc sống xum vầy đầm ấm, hạnh phúc trong một Xã Hội Đồng Bào, không còn cảnh người bóc lột người.
    Nếu chỉ để thu tích của cải lợi lộc, dầu dưới bất cứ hình thức nào, như chủ trương của xâm lăng, của đế quốc, của phong kiến, của duy vật, của duy lợi… thì chẳng những không giúp ích gì cho dân tộc ta, mà còn làm cho toàn dân thêm khốn khổ, biến toàn dân thành nô lệ, thành thú vật lao động hay sinh vật kinh tế để phục vụ cho lớp người cai trị.
    Tụ họp thành làng, mọi người chia sẻ cảnh sống vui buồn sướng khổ có nhau, giúp nhau vượt thắng những khó khăn, cùng nhau gánh vác trách nhiệm, cùng nhau xây đắp cho đời, cho làng cho nước ngày thêm giầu đẹp. Và cũng không một thường dân nào bị bó buộc phải cư trú tại một nơi nhất định; dân chúng có thể tùy thích tới ở hay tự ý bỏ đi, miễn là tự quyết và chấp nhận Lệ Làng là nơi mình muốn gia nhập cư ngụ.
    Khác với tổ chức chính trị của nhiều quốc gia, quyền hạn vua quan Việt Nam chẳng những không can thiệp vào đời sống của từng người dân, mà cũng không xâm phạm vào nếp sống sinh hoạt của các làng thôn. Đối với triều đình, mỗi làng Việt là một quốc gia thu hẹp có chủ quyền và độc lập; việc làng thì dân chúng tự lập và tự quyết.
    Làng tự lập đến nỗi chẳng những có một ban quản trị riêng, do chính dân bầu ra, mà còn có cả những điều lệ riêng cho hệ thống hành chính của làng. Làng có một ngôi đình để thờ vị Thành Hoàng riêng, với những nghi thức do truyền thống riêng. Làng có cả tổ chức trị an riêng, với những tiêu chuẩn thưởng phạt do làng quy định. Dĩ nhiên làng cũng có tài sản riêng, và toàn quyền xử dụng ngân sách tài chánh theo nhu cầu.
    Trong phạm vi làng, cả quyền phép của vua quan cũng kiêng nể những điều lệ riêng này. Phép vua thua lệ làng… Bởi thế không còn có chế độ nào trực tiếp do dân, của dân, vì dân… hơn thể chế dân chủ làng nước Việt.
    Đang khi chế độ duy vật duy lợi coi thường thể chế chính trị dân chủ của làng xã, xem toàn dân là nô lệ, tự do bị tước đoạt, nhân quyền bị chà đạp, truyền thống dân chủ làng thôn bị thủ tiêu. Người dân ngày nay chỉ còn có quyền đi bầu cử theo hình thức dân chủ bịp bợm lòe bịp trong hệ thống đảng phái chính trị mà thôi.
    Tất cả mọi quyền hành, kể cả tuyển chọn người đại diện cho dân, đều nằm trong tay những nhóm đặc quyền. Và nhóm người đặc quyền đặc lợi này tự đặt ra luật pháp, sửa đổi luật pháp, và áp dụng luật pháp để bảo vệ và giúp cho nhóm lợi ích của họ hưởng lợi thêm. Xin hỏi Dân Tộc Việt Nam thực sự được gì? Quốc Gia Việt Nam thực sự là gì? Tất cả, phải chăng chỉ là vết hằn vết thù của một chế độ duy vật duy lợi đã khiếm khuyết và suy thoái về phương diện tư duy con người?

    2. Định chế làng nước
    Khi góp phần vào việc nước, làng là đơn vị đại diện người dân. Trong truyền thống chính trị Việt, người dân không trực tiếp với vua quan mà qua làng. Trong tất cả mọi việc, từ tiếp xúc, lệnh truyền, tới sưu thuế, lính tráng… của nước chỉ cần căn cứ vào làng, liên lạc với làng, và theo khả năng của toàn làng mà định phần đóng góp.
    Do đó, làng là đơn vị nền tảng của cơ cấu chính trị, của chính quyền, của nước. Đang khi gia đình là đơn vị nền tảng của xã hội, của cộng đoàn, của dân tộc.
    Khác biệt với nhiều thể chế chính trị như hiện nay, người dân không phải đơn độc đương đầu trực diện với cơ quan quyền lực, mà còn được bà con thân thuộc của làng nước xóm giềng chia sẻ, trợ giúp, bù đắp, bảo bọc… Miễn là sao mà làng chu toàn được công tác chung, việc nước.
    Đối với người dân, làng trở thành một bước tường che, một mái ấm, một bảo đảm vừa vật chất lại vừa tinh thần, vừa thực tế lại vừa pháp lý.
    Nhìn chung, làng thôn Việt không phải là nếp sống tự phát, mà được Tổ Tiên tạo thành một thể chế chính trị rất độc đáo, nhân bản và tuyệt vời: Định chế làng nước.
    Ông Bà ta cũng phân biệt rõ ràng hai loại công tác chính trị: Việc làng, Việc nước. Và việc làng việc nước khác biệt nhau, từ phần chủ động tới mức độ dấn thân, khả năng tài trí và các vấn đề nhu yếu khác. Bởi thế chúng ta có hai loại công tác làng và công tác nước.
    Người dân ai cũng có thể làm việc làng, và ai cũng có quyền can dự vào việc tổ chức, điều hành, bầu cử, hay quyết định của làng. Nhưng để đủ tầm vóc để làm việc nước thì người đó phải học hành ở trường sở, phải thông thạo khoa chính trị An Dân, và phải thi cử (thi hương, thi hội, thi đình) để xác định khả năng tài trí.
    Vẫn biết bất cứ nơi nào, bất cứ thời nào cũng có những kẻ sẵn có ưu thế và muốn củng cố thêm quyền lực hay địa vị. Nhưng Chánh Thuyết Tiên Rồng luôn quyết tâm sống thực, bảo vệ và kiện toàn định chế tuyệt hảo này qua mấy ngàn năm lịch sử.
    Thể chế làng nước, phép vua thua lệ làng, đã giúp người dân nước ta được hưởng nếp sống tự chủ, đang khi vẫn tích cực đóng góp đầy đủ và hòa điệu với đời sống Quốc Gia. Thể chế làng nước là đặc điểm căn cội, làm cho nền Quân Chủ Việt khác biệt với những nền quân chủ của nhiều quốc gia trên thế giới.
    Nhìn lại trong đời sống và văn hóa Việt, với chủ trương chính đáng về bổn phận của vua quan (người lãnh đạo) và với thể chế làng nước, việc chung được quan niệm và thực sự là việc giúp ích cho mọi người.
    Khi vua quan ta cư xử với dân chúng như phụ mẫu (phụ mẫu chi dân), đem hết tâm hồn và tài trí chăm lo cho người dân được hạnh phúc ấm no, và khi người dân được thực sự sống trong tự do dân chủ đúng nghĩa, thì những đóng góp của họ vào việc chung, việc nước chính là một đồng tâm hiệp lực, một tương trợ cần thiết để bảo đảm cho hạnh phúc chung của nhau. Đi làm việc chung chính là ta đem tài trí ra giúp ích cho đời, cho dân, cho nước.
    Tuy nhiên, nhiều khi việc chung cũng vượt quá nếp sống thường ngày và ít mang lại kết quả lợi lộc trước mắt. Vào thời loạn, gánh vác việc chung còn kèm theo cả nguy hiểm tới tính mạng. Do đó việc chung thường đòi hỏi tầm nhìn xa trông rộng, và cũng thường làm cho nhiều người ái ngại; điển hình công cuộc tranh đấu cho tự do dân chủ và nhân quyền của Dân Tộc và đòi hỏi xây dựng xã hội dân sự ngày nay.
    Thể chế làng nước của Tổ Tiên mà người viết muốn trình bày nơi đây, là một đặc điểm chẳng những đã giúp cho Dân Tộc Việt Nam thoát nạn quân chủ chuyên chế ở thời quá khứ, mà còn là phương thức sẽ giúp cho toàn thể dân ta thoát khỏi ách nô lệ thời đại.
    Từ xưa, các nền văn hóa phương Tây đã luôn bắt từng con người đơn độc phải gánh chịu mọi tai ách do giới quyền thế áp đặt. Từ những thuế khóa, sưu dịch, quân vụ… đều ảnh hưởng trực tiếp tới từng người. Và việc chung, việc làng, việc nước được coi như công tác phục vụ cho giai cấp thống trị mà văn hóa của tà thuyết duy vật duy lợi hằng tuyên truyền rêu rao.
    Hiện nay, chế độ cai trị chẳng những đã biến đổi tổ hợp của người dân thành phương tiện phục vụ giới đặc quyền, mà còn làm mọi cách để phá hủy tổ ấm gia đình, và những cơ chế bảo bọc toàn dân của xã hội đồng bào.
    Khi con người trở thành cô độc lạc lõng, thì những thế lực tiền bạc, quyền chức, luật lệ, chuyên môn, nghiệp đoàn, đảng phái… mặc tình thao túng. Và người dân càng ngày càng trở nên đơn độc, nhỏ bé, bất lực trước một bộ máy quyền thế đảng viên ngày một thêm to lớn, đàn áp bóc lột một cách tinh xảo, vơ vét toàn bộ tài sản quốc dân một cách bất nhân phi nghĩa.

    3. Hệ thống làng nước
    Sống đúng nguyên tắc Giữ Nước Là Việc Của Toàn Dân, Tổ Tiên đã lập hệ thống phòng thủ nơi toàn dân. Làng thôn của dân trở thành một mạng lưới thành lũy và thành một lực lượng trải rộng khắp đất nước.
    Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy rằng vua quan Việt cũng xây thành, nhưng thành thị không phải là nơi tập trung sức nước. Thủ đô và thủ phủ của Việt Nam đã chỉ là những cái làng lớn, có những cơ sở thích ứng cho nhu cầu hành chánh tài chánh, nghi lễ ngoại giao… Khi nguy cấp, vua quan ta đã sẵn sàng bỏ thủ đô mà chạy về làng để chống giặc cứu nước. Từ đó, mất thủ đô đã không có nghĩa là bị mất nước như thời điểm vừa qua của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta.
    Với thể chế làng nước, làng Việt chính là trung tâm sinh hoạt tự lập tự chủ của người dân, mà cũng là sức mạnh của dân tộc.
    Trước mọi cuộc xâm lăng thuộc mọi lãnh vực, trước mọi mưu đồ làm tổn hại cuộc sống hạnh phúc của người dân, hệ thống làng thôn đã luôn luôn là cơ cấu chính yếu giúp dân tộc ta bảo toàn lực lượng, phục hồi sức mạnh, và vùng lên phá tan giặc. Giặc không những chỉ quân xâm lăng cướp nước hay kẻ nổi loạn phá rối, mà còn là những ai, những gì, ở bất cứ phương diện hay mức độ nào, mà làm thiệt hại cuộc sống hạnh phúc của con người, phá hoại nếp sống thanh bình của dân tộc.
    Dưới khía cạnh quân sự làng là nơi huấn luyện mọi người, toàn dân trở thành nghĩa sĩ, chống giặc. Chẳng những có hệ thống canh gác nghiêm nhặt, luôn bảo đảm có lớp người túc trực, mà còn có những lò võ thuật đào tạo ra nhiều bậc anh hùng đánh giặc, nhiều cấp lãnh đạo chỉ huy tài ba. Làng cũng là nơi phát xuất sức mạnh dân tộc về mọi phương diện. Vì vậy trong công cuộc giữ nước, mở nước, cứu nước thì làng đóng vai trò then chốt và quyết định sự thành công của cả dân tộc.
    Ngay nay muốn chiến thắng giặc thì sức dân sức nước phải được phục hồi và phục hoạt bằng thể chế chính trị dân chủ của Làng Nước Việt Nam.

    4. Kết Luận
    "Quê tôi chìm chân trời mờ sương.
    Quê tôi là bao nguồn yêu thương.
    Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn,
    là bao vấn vương tâm hồn
    người bốn phương…”

    Quả thật, chỉ có bình đẳng và thân thương là hai nguyên lý nền tảng của đời sống con người, và được Tổ Tiên ta cơ chế hóa vào trong một hệ thống tổ chức Làng Nước Việt Nam.
    Theo thể chế làng nước, giá trị cuộc sống của Người Dân Việt đã không quy định bằng quyền, bằng chức, bằng giàu sang, uy thế, cũng không bằng tài năng, nghề nghiệp, dòng họ, giai cấp, đảng phái… hay trên bất cứ gì ngoài con người, mà trên việc Người Dân Việt thể hiện chính mình một cách trọn vẹn. Bởi thế trong làng, chúng ta thường kính trọng thiên tước (người có tuổi) hơn nhân tước (người có quyền chức). Vì thiên tước thể hiện việc tạo Hạnh Phúc Làm Người vừa cho chính mình, lại vừa cho những người khác, trong cuộc sống cá nhân cũng như xã hội.
    Vì vậy, giá trị cuộc sống của người dân Việt chính là ảnh hưởng hạnh phúc của con người đó đối với những người xung quanh. Trong cuộc sống, ai càng làm cho nhiều người cùng hưởng hạnh phúc Làm Người với chính mình, qua chính mình, thì người đó càng được quý trọng hơn;
    như thày Chung Quân Nguyễn Đức Tiến, tác gỉa bài Làng Tôi đang sống mãi trong tôi – Quả thật, định chế Nước – Làng của Tổ Tiên là phương cách đoàn kết và thống nhất toàn dân và dựng lại một nước Việt Nam tự do dân chủ, thịnh vượng và hạnh phúc vậy.



Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X