Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Góc... Cafe_Coc

Collapse
X

Góc... Cafe_Coc

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #91
    Mại Dâm...


    Mấy hôm nay đề tài mại dâm đang Hot trên các báo và cả trong dư luận vỉa hè. Sáng ngồi nhẩn nha ly cà phê liếc báo thì mới thấy hôm nay xử em hoa hậu Mỹ Xuân bán dâm. Tối qua thì tv trung ương đưa 1 phóng sự về mại dâm Đồ Sơn, đưa chi tiết, cận cảnh, tuốt tuột, mà người làm phóng sự là một em phóng viên nữ. Mình đã sởn da gà khi xem cái phóng sự ấy. Đến thế là cùng, nhân phẩm của con người...


    Báo Tuổi Trẻ cũng đang chơi Fơi a tông mấy kỳ mại dâm, mà là mại dâm nam, đủ nam phụ lão ấu mua bán trên ấy.

    Dư luận sôi lên là bởi một bác nào đấy ở cái cục có nhiệm vụ chống mại dâm nói rằng ở Đồ Sơn và Quất Lâm không có mại dâm. Báo hại bao nhiêu người cười khẩy, chứng minh cái câu của người Nam "Nói dzậy mà không phải dzậy" là đúng.

    Nó chứng minh một điều rằng: Mại dâm là cái món không thể chống được, kể cả các bác hô hào to nhất là chống thì có khi các bác ấy cũng thừa biết là không thể chống theo kểu hành chính mệnh lệnh cấm đoán được. Nó sinh ra và tồn tại từ khi có loài người. Thời phong kiến thối nát bỏ rọ trôi sông thế mà còn chả chống, chả cấm được, huống gì bây giờ. Nàng Kiều vĩ đại trong văn học Việt đấy, dẫu nàng thốt lên "Thân lươn bao quản lấm đầu/ chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa" thì nàng vẫn 15 năm lưu lạc, nhưng rồi nàng vẫn ngời ngời sáng, vẫn bắt biết bao sĩ tử học trò từ phổ thông tới tiến sĩ phải chứng minh là nàng trong sạch...

    Thế thì hà cớ gì chúng ta bây giờ, cứ bắt chị em làm cái nghề ấy, phải là tội phạm, phải là xấu xa bẩn thỉu.

    Tôi có nghe một vài chị em phụ nữ, có chức hẳn hoi, bảo nếu công nhận mại dâm là 1 nghề là xúc phạm, là hạ cấp nhân cách phụ nữ. Xin thưa chính cái kiểu cấm không xong, bắt không xong, lâu lâu lại lôi ra một ít chị em làm vật tế thần, bêu riếu họ, xỉ nhục họ... mới là xúc phạm, là hạ cấp nhân cách chị em.

    Xưa thời Pháp sài lang đô hộ, nó cho mở nhà Săm, chị em muốn vào đấy phải làm thủ tục rất đàng hoàng, có nhân thân, có phiếu khám sức khỏe, chịu sự quản lý, và như thế tất nhiên có... đóng thuế. Chị em nào không có môn bài đi vạ vật ngoài đường đón khách là a lê hấp, về đồn. Rành mạch và nhân đạo, và an toàn và không xỉ nhục nhau kiểu như tối qua tivi chiếu 2 anh chị ấy ngồi thổn thện trên giường, xấu hổ không chịu được.

    Bây giờ ví dụ nhé, ở mỗi thành phố, chọn chỗ nào khuất khuất tí, cho xây ở đây một khu nhà, màu vàng chẳng hạn. Chị em vào đấy được chăm sóc sức khỏe, được tư vấn, được bảo vệ, được nộp thuế... tôi đố các anh chàng nào ở thành phố ấy dám láng cháng vào đấy, ngược lại, dân nơi khác đến, nếu bí, vào mua vé đàng hoàng, được bảo hộ, ngẩng cao đầu mà vào chứ không phải như bây giờ lén lén lút lút, chỉ béo mấy anh cò chăn dắt...

    Chính khi ấy, chị em được tôn trọng, được bình đẳng, nghề ấy cũng như mọi nghề khác- tất nhiên đấy là nghề có điều kiện.

    Chứ như những gì báo chí nước ta đang đưa, chao ơi, mại dâm cả nam cả nữ, cả nửa nam nửa nữ nó... rầm rộ như hội thế, nhà cầm quyền lâu lâu mở một cú chiến dịch, một vài em lên thớt, nhục nhã ê chề, rồi đâu lại vào đấy.

    Như cô bé Mỹ Xuân đang đứng trước tòa kia, rồi tương lai của cô ấy như thế nào khi thanh thiên bạch nhật xử như thế? Liệu đấy có phải là hành vi nhân đạo... Còn bao nhiêu người chưa bị bắt, chưa bị lộ... mà thực ra, đấy có phải tội không nhỉ?

    Theo như những gì tôi hiểu, và đọc trên báo- như loạt bài trên Tuổi Trẻ chẳng hạn- thì đấy là một nhu cầu- của nhiều người, cả nam và nữ. Cấm nó vẫn xì, mà lại tốn người thực hiện lệnh cấm, mà lại bất ổn xã hội vì không quản lý được, vậy có nên xem lại không?

    Là nhà cháu uống cà phê vào, đọc mấy tờ báo xong gõ chơi vậy, coi như phát chào buổi sáng, nghe thì nghe không nghe thì... thôi,...

    Source: Blog Văn Công Hùng
    SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
    HỒ VI LAO KỲ SINH

    Comment


    • #92
      CHÓ và Những Kẻ TỆ HƠN CHÓ...


      Nếu hiệu ứng vô chính phủ xảy ra, không thể nói khác hơn là tình trạng mất kiểm soát ở Việt Nam có thể trở nên vô phương cứu chữa, rút ngắn tính chính danh của chính thể và ghê gớm hơn nhiều là xâm hại những gì còn lại của một lịch sử văn hóa.

      Tình trạng quá thiếu chính danh của cơ quan bảo vệ luật pháp khiến người dân không khỏi chạnh nhớ vụ việc một nhóm 50 tên côn đồ tấn công dân chúng ở huyện Tiên Lãng, Hải Phòng với mục đích đẩy đuổi dân khỏi mảnh đất chôn rau cắt rốn của họ. Chỉ sau khi nông dân phẫn uất gào thét, cơ quan công an Tiên Lãng mới vào cuộc để làm rõ hành vi một doanh nghiệp thuê mướn đám đầu gấu kia hành hạ dân oan.

      Tiên Lãng lại là vùng đất nơi đã từng xảy ra sự kiện Đoàn Văn Vươn chấn động vào đầu năm 2012, với đồng tác giả của vụ can thiệp cướp đất chính là những lãnh đạo của chính quyền huyện - một đối tượng mà người dân Tiên Lãng không ngại ngần chỉ mặt “còn tệ hơn chó!”.

      Nhưng xem ra, ngay cả nhân dân cũng đã bất công với loài chó - vốn được xem là thú nuôi trung thành nhất với con người. Chỉ có những kẻ trộm chó mới nên được đem ra so sánh với loại người “ăn đất” mất nhân tính.

      Trộm chó lại đang là một mầm mống gây kinh hoàng ở nông thôn miền Bắc. Sự tăng tiến vượt bậc của những tên trộm được thăng hoa bằng thứ súng hoa cải nhập lậu từ đất nước của người bạn có tên “Bốn Tốt”, nay được dùng để bắn trả “người thi hành công vụ”.

      Đã có không ít trường hợp “người thi hành công vụ” phải nhận lãnh thương vong khi đuổi bắt kẻ trộm chó.

      Khi cuộc sống bị đẩy đến đường cùng, ngay cả giai cấp vô sản cũng quay ra cắn xé lẫn nhau.

      Người ta nghe thấy ngày càng nhiều câu chuyện người dân thay thế cho lực lượng chức năng nhà nước để xử tử kẻ trộm chó. Đã có đến hàng chục vụ đồng loại giết nhau như thế trong vài năm qua.

      Đốt xe và đánh hội đồng đến chết - như một đặc trưng ghê sợ của nông thôn hiện đại miền Bắc. Sự mô tả đã lên đến cao độ khi hàng trăm người dân, với gậy gộc và cả dao rựa trong tay, tấn công và giẫm đạp đến chết những kẻ bất lương đang rên rỉ - âm điệu giống hệt những con chó bị chúng bắt cóc.

      Báo chí Việt Nam, sau một thời ngơ ngác, đã chợt bừng tỉnh khỏi cơn mơ màng.
      Nhưng các ban biên tập cũng chỉ đến mức dè dặt nêu câu hỏi: vì sao đám đông lại trở nên hung hãn đến thế?

      Cũng vẫn là những người được gọi là nhân dân đó, cũng vẫn là những người thuộc giai cấp bị trị và một phần trong họ đang chớm có dấu hiệu của kẻ cùng đinh.

      Nhưng những kẻ cùng đinh lại lý giải rằng sự bần hàn của họ được khơi nguồn từ chính thái độ tột cùng của cực quyền: đa số nhân viên công lực là những kẻ vô cảm, chỉ quan tâm những gì có lợi cho mình.

      Thực tế là, đa số vụ trộm chó đã chẳng hề được các nhà chức trách quan tâm. Cũng bởi không ít thành viên trong khối chức trách lại là những tín đồ trung hiếu của một thứ dị đạo mà người dân ví là “vitamin gâu gâu”.

      Trong hai từ “nhân dân” và “quan chức” ấy, ai là kẻ hung hãn và mất nhân tính hơn?
      Nhưng khi sự việc đã bị đẩy đến giới hạn tột cùng, công an và tòa án luôn lập tức xuất hiện nơi công đường, và người ta xử án những kẻ chỉ đi bảo vệ cái mà pháp luật không thể hoặc không muốn bảo vệ.

      Những cái án đã thành hình đối với những người dân thẳng tay với kẻ trộm. Nhưng còn một loại kẻ trộm khác móc của từ túi người dân thì vẫn công nhiên dàn mặt nơi công đường. Phải chăng đó cũng là một thứ luật thổ phỉ, không khác mấy thứ luật rừng mà người dân đang dùng để đối phó với đồng loại cùng cảnh ngộ với họ?

      Xã hội Việt Nam đang manh nha những thứ luật rừng như vậy, từ nông thôn đến thành thị. Nếu trước đây chuyện đánh chết kẻ trộm chó chỉ mới được kể ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, thì sau này nó đã được dân gian hóa ở khá nhiều địa phương như Thanh Hóa và ngay tại thủ đô Hà Nội - nơi được coi là bộ mặt của dân tộc “ngàn năm văn hiến”.

      Hà Nội cũng là nơi có đầy đủ các quan chức cao nhất, những chủ tọa có gương mặt nghiêm khắc với tội danh chính trị nhưng lại dường như bỏ quên thảm cảnh xã hội đang cận kề, tự mang trong mình căn bệnh chủ quan duy ý chí đối với một trong những nguy cơ có thể gây thảm họa cho “sự tồn vong của chế độ” - như cảm thán của Tổng bí thư đảng chỉ cách đây không quá lâu.

      Chính thể mất kiểm soát?

      Mầm mống hỗn loạn xã hội được cảm hứng từ những phản ứng tự phát của hành vi vô chính phủ. Từ ý thức tuân thủ luật pháp vào thời chỉnh chu pháp luật, người dân đang đánh mất dần nhận thức về sự tồn tại của một chế độ và cả về một nền văn hóa lâu đời hơn nhiều so với chế độ đó.

      Trong hơn hai mươi năm qua kể từ khi mở cửa, đất nước này đã chạy theo tăng trưởng kinh tế và vơ vét cá nhân mà gần như lãng quên trách nhiệm bảo tồn bản sắc văn hóa của nó, cho dù các nghị quyết của Đảng vẫn không ngớt nói đến những tính từ “đậm đà” và “tiên tiến”.

      Giáo điều sẽ đẻ ra giả tạo và thái độ bất tuân. Sự bất tuân thủ của người dân giờ đây đã vượt qua ranh giới của tâm lý cam chịu trong bức xúc, khi đang tiến sang lãnh địa gieo mầm của những bức xúc được chuyển hóa thành phản ứng tự phát.

      Tất cả những hệ lụy xã hội lại phát sinh từ tình trạng nền kinh tế bị lạm dụng và phải chịu cảnh bị lợi dụng quá sức chịu đựng. Từ Bắc chí Nam, những tập đoàn lợi ích thay nhau vò xé cơ thể mòn mỏi của dân tộc và khiến cho ngày càng nhiều dân đen trở nên gày giơ xương. Đến khi đó, quy luật tự ứng biến: những kẻ cùng quẫn biến phản ứng tự phát thành lối hành xử bất tuân pháp luật, không cần đến pháp luật.

      Tinh thần bất cần vô chính phủ ấy giờ đây đang có triển vọng lan tràn trong dân chúng và ở nhiều tỉnh thành. Một hậu quả quá nguy hiểm mà chính quyền hình như không thể nhìn thấy là những người dân bị coi là quá khích nhất đang nhìn rõ cái được gọi là “giới hạn sợ hãi” và sẵn lòng “vượt qua sợ hãi”, dù rằng tinh thần sẵn sàng đó chỉ tiềm ẩn nơi vô thức.

      Những dấu hiệu bạo ngược vô chính phủ trở nên lộ thiên một cách ngạo ngược và dường như không thể lý giải trong con mắt vô cảm của chính quyền các địa phương.

      Vô cảm chính quyền lại dẫn đến sự xúc phạm đến giai tầng dân chúng bị cai trị. Quan chức càng tham lam và càng vô cảm thì người dân lại càng có lý do để thể hiện lòng quyết tâm chống trả của mình.

      Không thể nói khác hơn là một nguồn dẫn từ hiện trạng vô chính phủ như thế đã khiến cho tình trạng chống người thi hành công vụ mỗi lúc càng mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Ở nhiều nơi và vào nhiều thời khắc, không thiếu gì cảnh thanh niên tấn công những cảnh sát giao thông chuyên “núp lùm” ăn tiền người đi đường. Nhưng chính danh hơn nhiều là dũng khí dân oan sẵn sàng chống trả lực lượng cưỡng chế đất đai.

      Chỉ có điều, những biểu hiện tự phát và vô chính phủ của người dân đang diễn ra một cách manh mún và tản mát. Câu hỏi còn lại chỉ là đến khi nào những mảnh vỡ ấy sẽ góp nhặt với nhau để trở thành một cái gì đó kinh hoàng hơn - như một sự đối lập có tổ chức đối với các tổ chức thi hành công vụ của chính quyền?

      Nếu tương lai không mong muốn đó xảy ra, không thể nói khác hơn là tình trạng mất kiểm soát ở Việt Nam có thể trở nên vô phương cứu chữa, rút ngắn tính chính danh của chính thể và ghê gớm hơn nhiều là xâm hại những gì còn lại của một lịch sử văn hóa.


      Phạm Chí Dũng (Luật rừng và đám đông hung hãn ở Việt Nam)

      Source: BBC
      SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
      HỒ VI LAO KỲ SINH

      Comment


      • #93
        Từ Những BÀI HỌC ĐẮT GIÁ của Lịch Sử Cận Đại Đến Những Triển Vọng của Tương Lai


        Tháng 8 năm 1945, đệ nhị Thế chiến hoàn toàn chấm dứt từ Âu sang Á. Cuộc chiến ác liệt kéo dài năm năm cùng với những hành động có tính cách diệt chủng đã để lại không kể xiết điêu tàn tang tóc.

        Nhiều đô thị và trung tâm chiến lược ở Đức, Nga Sô và Nhật Bản đã trở thành những bãi chiến trường đổ nát hay những cánh đồng ma quái với cả trăm ngàn người chết cùng lúc dưới bom nguyên tử hay những trận mưa bom. Nhưng rồi hoà bình đã đến. Nhân loại vừa thoát khỏi một cơn ác mộng dài thở phào nhẹ nhỏm. Một bình minh rạng rỡ đang dâng lên chan hòa muôn ánh hào quang và hy vọng như bừng sống lại khắp nơi. Ngoại trừ một chổ: Việt Nam, nơi sự bất hạnh dồn tụ lại như bao nhiêu tảng mây đen cùng nhau kéo đến che phủ một góc trời. Một nước Việt Nam trước đấy gần như đứng ngoài cuộc chiến. Thật vậy, dù ác chiến diễn ra trên Thái Bính Dương giữa Mỹ, Nhật, Đông Dương vẫn tương đối được yên ổn với thỉnh thoảng vài vụ oanh tạc nhỏ của Không lực Hoa Kỳ vào các vị trì và đường giao thông bị nghi ngờ có quân đội Nhật qua lại. Nay, giữa tháng tám 1945, Nhật Bản vừa đầu hàng, chiến tranh thế giới hoàn toàn chấm dứt thì Việt Nam lại lên cơn sốt dữ dội.. Toàn thân rung động vì chưa hồi phục được sau một nạn đói, chết hơn cả triệu người ở Miền Bắc của đất nước. Một cơn sốt chính trị chưa từng xảy ra vì cho đến bấy giờ dân Việt chưa có lúc nào được quyết định số phận của mình trong suốt tám mươi năm dưới sự đô hộ của Pháp. Tháng tám 1945, cuộc nội chiến Việt Nam bắt đầu. Cuộc nội chiến giữa hai phe quốc cọng với cả khối Công sản quốc tế lần lượt đứng sau lưng cộng sản Việt Nam như một hậu cứ vũng chắc và bền bỉ trong lúc vài nước Tây phương đứng đầu là Hoa Kỳ hổ trợ phe quốc gia chiến đấu để bảo vệ tự do cho dân tộc Việt Nam chống lại sự bành trướng của Đế quốc đỏ bằng bạo lực của một cuộc xâm lăng công khai và trực diện. Ba mươi năm sau, đúng ngày 30 tháng tư 1975, cuộc nội chiến chấm dứt trên bình diện quân sự. Cộng sản hoàn tất cuộc xâm lăng Miền Nam, thực hiện mục tiêu bá chủ nước Việt Nam, khống chế cả bán đảo Đông Dương. Cũng đúng ba mươi năm sau ngày thôn tính Miền Nam, cộng sản Việt Nam «trân quý» hơn bao giờ cả những người Việt quốc gia ở hải ngọai, những «khúc ruột ở xa ngàn dặm» đã đổ tiền về để cứu giúp đồng bào và quê hương nghèo khổ, có lúc gần suy sụp dưới sự thống trị của họ. Những Việt kiều ở nước ngoài mà những năm trước đây họ còn xem như thù địch và gán cho đủ mọi danh từ xấu xa nhất trong kho tàng văn chương tuyệt vời của họ.

        Ba mươi năm nội chiến quốc cọng được tiếp tục bởi ba mươi năm của một cuộc đổi đời và cuộc «đại chiến thắng mùa Xuân 1975» đã thành công lớn lao trong sự nghiệp. đào được một cái hố sâu thăm thẳm để chôn vùi tương lai của cả dân tộc. Không thể nào làm khác hơn, năm 1986, cộng sản buộc lòng «đổi mớỉ » để mong thoát cảnh khốn cùng vô phương cứu chủa ngọai trừ một phương độc nhất là chối bỏ chủ nghĩa của họ, một chủ nghĩa mà họ đã thờ phụng và không ngần ngại hy sinh xương máu của đồng bào để phục vụ cho đến khi mộng vỡ tan tành. Phương độc nhất ấy là chạy theo kẻ cựu thù đế quốc tư bản, áp dụng chính sách kinh tế thị trường của chúng nó và van xin đủ mọi thứ, khắp mọi nơi. Không theo không được vì đây là sinh lộ cuối cùng sau khi con đường cách mạng, bạo lực và chiến tranh kéo dài ba mươi năm mà đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra đã rõ ràng là một tử lộ cho toàn dân Việt. Đây là bài học lớn nhất, đắt giá nhất, dành cho người cộng sản Việt Nam bên cạnh những bài học khác mà những người quốc gia chúng ta cần suy nghiệm, và sau cùng, những bài học mà Hoa Kỳ cũng như giới trí thức và ngụy trí thức tả khuynh Tây phương nên thành khẩn và khiêm cung học hỏi để cho lịch sử đừng tái diễn, tránh được phần nào khổ đau cho nhân loại.

        I. NHỮNG BÀI HỌC CỦA LỊCH SỬ CẬN ĐẠI THEO THỨ TỰ THỜI GIAN CỦA CÁC BIẾN CỐ TỪ 1945

        A- Giai Đoạn 1945 – 1954: Từ Độc Lập Đầu Tiên Đến Chia Đôi Đất Nước

        Những Nét Chính Của Tình Hình :

        1- Các Biến Cố Từ gần 9 giờ tối mồng 9 tháng 3, 1945, trên toàn cõi Đông Dương, quân đội Nhật (còn gọi là quân đội Thiên Hoàng) bất ngờ tấn công cùng lúc các cơ quan đầu não của chính quyền Pháp, các cơ sở quân sự, và cuộc kháng cự của quân Pháp không kéo dài quá một ngày ngọai trừ vài cánh quân thoát được sang Trung Hoa. Ngày 10 tháng 3, đại diện Nhật Hoàng, Đặc sứ Yokohama đến loan báo cho Vua Bảo Đại quyết định của Nhật trao hoàn độc lập cho Việt Nam, tạm thời giới hạn ở Bắc và Trung Kỳ, riêng Nam Kỳ thì Nhật tạm thời kiểm soát cho đến khi hết chiến tranh. Ngày 12 tháng 3, Vua Bảo Đại trao cho đặc sứ Nhật bản tuyên cáo độc lập của nước Việt Nam. Nhà Vua nhờ nhà chức trách Nhật tìm ông Ngô Đình Diệm để mời lập chính phủ nhưng sau ba tuần lễ, đặc sứ Nhật cho biết không tìm được. Thực ra, Nhật không muốn ông Diệm làm Thủ tướng vì biết chắc ông Diệm không phải là người dễ nhượng bộ, dễ thỏa hiệp, có thể gây trỏ ngại cho họ sau này. Ngày 17 tháng 4, ông Trần Trọng Kim , thanh tra tiểu học, lập chính phủ. Ông Kim bị Pháp dọa bắt nên được Nhật đưa sang Singapour tạm trú, nay được Nhật mang về giới thiệu với Vua Bảo Đại. Đây là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, qui tụ nhiều nhân vật trí thức khoa bảng như luật sư Trần văn Chương, Bộ trưởng Ngoại giao, luật sư Vũ văn Hiền, Bộ trưởng Tài chánh, luật sư Trịnh đình Thảo, Bộ trưởng Tư pháp, bác sĩ Hồ Tá Khanh, Bộ trưởng Kinh tế, Thạc sĩ Hoàng xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục, luật sư Phan Anh, Bộ trưởng Thanh niên, bác sĩ Vũ Ngọc Anh, Bộ trưởng Y tế và Cứu tế Xã hội, Kỹ sư Lưu văn Lang, Bộ trưởng Công chánh, Giao thông, y sĩ Trần đình Nam, Bộ trưởng Nội vụ, y sĩ Nguyễn hũu Thí, Bộ trưởng Tiếp tế. Ngày 16 tháng 8, đặc sứ Nhật đến loan báo cho Vua Bảo Đại hay Nhật Hoàng vừa ra lệnh ngưng chiến và giao hoàn Nam Kỳ lại cho Nhà Vua. Ngày hôm sau, nhà ái quốc Nguyễn văn Sâm được Nhà Vua bổ nhiệm làm Khâm sai Nam Kỳ nhưng trên đường về Nam nhậm chức, ông đã bị cộng sản sát hại. Ngày 18, Thủ tướng Trần Trọng Kim kêu gọi các đoàn thể chính trị « đoàn kết trong tinh thần thống nhất đoàn kết quốc gia…» trong lúc Nhà Vua gửi điện văn cho các lãnh tụ các nước Đồng Minh Hoa Kỳ, Anh quốc, Pháp và Trung Hoa Dân quốc xin công nhận nước Việt Nam độc lập. Bức điện văn không được hồi âm, có lẽ vì Vua Bảo Đại và chính phủ bị Đồng Minh xem là đã hợp tác với địch (Nhật Bản). Trong suốt mấy tuần lể quyết định này, giữa lúc cộng sản dưới bảng hiệu Việt Minh họat động ráo riết, đặc biệt ở Hà Nội, chính phủ không đưa ra một biện pháp nào cụ thể để trấn an dư luận đang hoang mang tột độ, cũng không tác động tinh thần công chức và các lực lượng quân sự và cảnh sát dưới quyền, dù không hùng hậu nhưng vẫn thừa sức đối phó với tình thế, chưa kể quân đội Nhật được lệnh của Đồng Minh duy trì an ninh trật tự sẵn sàng hợp tác với chính phủ. Không có được một mạng lưới tình báo, không hay biết gì cả về những họat động của Việt Minh, Nhà Vua và chính phủ mất tinh thần một cách dễ dàng trước những tin đồn đại do Việt Minh tung ra, qua những cán bộ « võ trang tuyên truyền », võ trang thô sơ với một ít súng lục, nhiều cái rỉ rét, thỉnh thỏang bị kẹt đan không xử dụng được. Không kiểm soát được, chính phủ « thả nổỉ » tình hình, đất nước như một cánh đồng vô chủ mênh mông! Theo lời của chính cựu Hoàng Bảo Đại kể lại một cách thành thật, thỉnh thoảng rất thật thà, trong cuốn hồi ký của ông, Con Rồng An Nam (Le Dragon d’Annam) xuất bản năm 1979 tại Pháp, ngày 23 tháng 8 (1945), chính phủ biến đâu mất, để Hoàng Đế một mình trong hoàng cung với vài người cộng sự thân tín và một toán lính giữ cổng ra vào. Ngày hôm trước, viên đại tá chỉ huy quân trấn Nhật ở Huế đến báo cho Nhà Vua là y được lệnh của bộ tư lệnh Đồng Minh bảo vệ hoàng cung và « những người ở bên trong » và y đã ban hành những biện pháp an ninh, đặt các rào cản ở cuối cầu trường Tiền (chận một lối đi chính vào cửa Thượng Tứ và Thành Nội, bên trong là hoàng cung). Nhà Vua từ chối sự bảo vệ, yêu cầu tháo gỡ các rào cản và cho mở cửa ra vào Đại Nội như thường ngày, viện cớ không để cho quân đội ngoại quốc can thiệp và để tránh đổ máu của dân. Tối hôm trước, chủ sự Bưu điện Huế đến trình Nhà Vua một bức điện tín từ Hà nội gửi vào, thỉnh cầu ông vui lòng làm một cử chỉ lịch sử bằng cách trao quyền lại cho «nhân dân» nghĩa là cho người gửi điện tín ký tên một cách vô danh «Ủy ban những người yêu nước đại diện tất cả các đảng phái và tầng lớp nhân dân». Nhà Vua cho hoàng thân Vĩnh Cẩn và ông Phạm khắc Hoè đi săn tin trong thành phố, nhưng không thu lượm được tin tức nào chính xác và không biết ủy ban, tác giả của bức điện tín ở đâu ra và gồm những ai. Bơ vơ trong hoàng cung vắng lặng, Nhà Vua kể tiếp, «không biết làm gì hơn, đã vậy, tôi gửi một điệp văn trong khoảng trống như vứt một cái chai xuống biển… Tôi gởi cho Ủy ban những người yêu nước ở Hà Nội lời phúc đáp của tôi, sẵn sàng lùi bước, sẵn sàng hy sinh tất cả để thực hiện sự đoàn kết và yêu cầu các vị lãnh đạo Ủy ban đến Huế càng sớm càng tốt cho việc chuyển giao quyền hành». Cái chai của Hoàng Đế vứt xuống biển đã được vớt lên lẹ làng và chiều ngày 25 tháng 8, hai đại diện của Việt Minh, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận đã có mặt ở hoàng cung. Khoảng vài nghìn người, hầu hết là công chức và học sinh, được triệu tập khẩn cấp đến chứng kiến buổi lê thoái vị và trao quyền của Nhà Vua. Mới mười lăm tuổi, còn là học sinh trung học, gia đình tôi ở trong Thành Nội cách hoàng cung chỉ một trăm mét trên đường Bộ Học, sau này đổi thành Hàn Thuyên, nên tôi sớm có mặt trong đám đông tập họp trên sân cỏ rộng giữa kỳ đài đồ sộ với lá quốc kỳ treo cao lồng lộng trong gió, và cửa Ngọ Môn, cổng chính của hoàng cung, trên đó, chiều nay, một biến cố lịch sử đang xẩy ra, mở màn cho tấn thảm kịch trường thiên của dân tộc. Chít khăn vàng và bận áo vàng, Hoàng Đế Bảo Đại chính thức thoái vị trao quốc ấn tượng trưng quyền hành cho Trần huy Liệu và được Liệu mời ra Hà Nội làm Cố Vấn cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà chính thức ra đời một tuần lể sau, tức ngày 2 tháng 9, 1945. Thật vậy, tấn trường thiên thảm kịch của dân tộc bắt đầu tại cố đô Huế. Hai mặt đông và nam của hoàng cung, hoa phượng vỹ thơ mộng của tuổi học trò nở đầy giữu mùa hè xứ Huế, thơ mộng dịu dàng với mái tóc thề của những đàng nữ sinh nón trắng che mặt thẹn thùng như những đàng bướm trắng tung bay mổi chiều tan học. Màu đỏ thắm của hoa phượng vỹ đã phải nhường chổ cho màu đỏ máu hận thù của những lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở Huế, từ nay mang trổ lại tên Thuận Hóa, cái tên mà Nhà Nguyễn đã đặt cho thành phố này từ mấy thế kỷ và nay như một sự rểu cợt hay thiếu hiểu biết, cộng sản Việt Minh lại mang ra xử dụng khi Nhà Nguyễn vừa tự chấm dứt với sự thoái vị của Nhà Vua cuối cùng, Bảo Đại. Tháng 9, 1945, quân Pháp trổ lại Việt Nam ngay tại Sài Gòn. Chiến cuộc khởi sự. Dù nước Pháp đã công bố một chính sách mới thay thế qui chế thuộc địa (statut de colonie)ở Nam Kỳ và qui chế bảo hộ (statut de protectorat) ở Bắc và Trung Kỳ bằng một qui chế tương đối tiến bộ hơn dành quyền tự trị nội bộ (autonomie interne) – không được trọn vẹn- cho các quốc gia Việt, Căm-bốt và Lào, chính sách mới này vẫn còn lạc hậu trong tình huống mới ở Việt Nam mà chính phủ và hầu hết các giới chính trị Pháp ở thủ đô Paris kể cả phe tả không thẩm định đúng mức được. Từ ngày 9 tháng 3, 1945 khi chính quyền Pháp bị quân Nhật lật đổ, không những uy quyền mà uy tín của nước Pháp cũng tiêu tan luôn. Dân chúng Việt Nam, muôn người như một, trong đầu hôm sớm mai, và nhất là sau khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh , trao trả độc lập và chủ quyền hoàn toàn cho Hoàng Đế và chính phủ Việt Nam như đã kể trước, dân chúng từ Bắc đến Nam đều say sưa với niềm hãnh diện của đất nước mình, của tổ quốc mình từ nay không bị một ngoại bang nào lấn ép và khinh rẽ nữa, một tổ quốc, một quốc gia độc lập,tự chủ. Sự kiện quân đoàn viễn chinh Pháp trổ lại Việt Nam được xem như một mưu toan tái lập nền đô hộ củ. Toàn dân, không còn phân biệt xu hướng chính trị, nhất loạt đứng lên đoàn kết chống xâm lăng. Vừa thành lập xong chính phủ được đúng ba tuần lể, Việt Minh cộng sản đã hưởng được ngay cái khí thế chưa bao giờ có của mọi tầng lớp dân chúng quyết tâm đánh đuổi quân thù. Không ai còn để ý đến những chuyện khác nữa. Cuộc kháng chiến chống Pháp thực dân khởi sự từ Nam Bộ (danh xưng mới thay thế cho Nam Kỳ dưới chế độ mới) khi quân đội Pháp phối hợp với quân đội Anh -đến giải giới quân Nhật ở vùng Nam Đông Dương- bất thần xâm nhập các công sở của Ủy Ban Hành chánh Nam Bộ vào tối 22 rạng ngày 23 tháng 9, 1945. Phản ứng của phía Việt Nam hai ngày sau châm ngòi cho một cuộc chiến không tránh được giữa Pháp và Việt Nam. Đến tối 19 tháng 12 năm sau, chiến tranh lan rộng trên toàn quốc. Chính phủ Hồ Chí Minh rút vào rừng tiếp tục lãnh đạo cuộc chiến đấu. Trước đấy, ông Hồ đã ký Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3, 1946 cho phép quân đội Pháp đóng quân trên nhiều địa điểm ở Miền Bắc, đổi lại Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự do, một thành viên của Liên bang Đông Dương (Fédération Indochinoise) và của Khối Liên Hiệp Pháp (Union Française). Thế nhưng lịch sử của cuộc chiến tranh đầu tiên ở Việt Nam, thường được gọi là Chiến tranh Đông Dương (1945-1954) không đơn giản như nhiều người nhận thấy. Tôi đã ghi chú từ đầu cuộc chiến tranh ba – mươi năm (1945-1975) là một cuộc nội chiến giữ hai phe quốc cọng.Một cuộc nội chiến giữa những người Việt theo chủ nghĩa cộng sản muốn nhuộm đỏ đất nước Việt Nam từ khi đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1930, và những người Việt quốc gia không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, quyết tâm tranh đấu bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc. Sự tham dự của ngoại bang,Pháp,Mỹ,Tàu,Nga v.v….không làm mất tính chất nội chiến này mà chỉ mang thêm, với sự hổ trợ của ngoại bang dành cho mổi phe dài dài theo cuộc chiến, một tính chất chiến lược quốc tế, tóm gọn: cộng sản muốn bành trướng Đế quốc Đỏ xuống miền Đông Nam Á Châu với tên lính tiền phong cộng sản Việt Nam và ngược lại, Thế giới Tự do đứng đầu là Hoa Kỳ muốn ngăn chận làn sóng đỏ ở biên thùy Việt-Hoa sau khi Mao Trạch Đông đã chiếm lĩnh Trung quốc cuối năm 1949. Riêng đối với Pháp, cần phải phân tách cuộc tham chiến ở Việt Nam ra hai giai đoạn. Giai đoạn một , từ lúc trở lại Đông Dương tháng 9, 1945 cho đến giữa năm 1947 họ mong muốn bằng sức mạnh hơn là thuyết phục lôi cuốn Việt Nam vào Liên Bang Đông Dương như một nước tự trị và giai đoạn hai từ 1948 trở đi, càng ngày càng lún sâu vào cuộc chiến họ chỉ còn mong Việt Nam ở lại trong Khối Liên Hiệp Pháp với tư cách một quốc gia liên kết (Etat associé) độc lập, tự do, một công thức tương tự với «Khối thịnh vượng chung» (Commonwealth) qui tụ trên nguyên tắc tự nguyện Anh quốc và những thuộc địa cũ của Đế quốc Anh ngày trước nay đã được trao trả độc lập mà không phải trải qua một cuộc chiến tranh nào cả. Đây là một điểm hết sức quan trọng cần nhấn mạnh trong lịch sử cận đại của thế giới : sau khi Thế chiến thứ hai chấm dứt, hầu hết các nước bị trị của các đế quốc Tây phương đều được lần lượt trao trả độc lập mà không phải phí phạm xương máu, ở Á Châu như Hàn quốc, Nam Dưong, Phi-luật-Tân, Mã Lai, Tân-gia-Ba, Ấn Độ, ở Trung Cận Đông, lần lượt đến các nước Phi Châu ngoại trừ Algérie với những ly do riêng của trường hợp này, nơi mà nhiều thế hệ người Pháp đã định cư, lập nghiệp và từ hơn cả thế kỷ Pháp đã xem như một lãnh thổ, một tỉnh của họ! Đối với Việt Nam, nền độc lập đã được trao trả dù chưa toàn vẹn ngay trước cả khi chiến tranh chấm dứt và giữa tháng 8, 1945 vừa đầu hàng Đồng Minh hôm trước, hôm sau Nhật Bản giao trả nốt Nam Kỳ cho Vua và chính phủ Việt Nam như đã trình bày. Cái gọi là «cách mạng mùa thu 1945» của Cộng sản Việt Nam dưới bảng hiệu Việt Minh chỉ là một vụ đảo chính chính trị dành lấy chính quyền từ một nhà Vua và một chính phủ khiếp nhược Cuộc chiến tranh kế tiếp hoàn toàn không phải là một cuộc chiến tranh dành độc lập vì, như đã trình bày, Việt Nam đã được độc lập rồi và khi quân Pháp trở lại Đông Dương, nếu Vua Bảo Đại và chính phủ của Nhà Vua còn tồn tại, thì chắc chắn sẽ có những cuộc thương nghị rất khó khăn với Pháp nhưng chung cuộc, Việt Nam vẫn duy trì nền độc lập và rất co thể gia nhập Khối Liên Hiệp Pháp lúc bấy giờ.Tiến trìng giải thể các đế quốc Tây phương đã được các nước Đồng Minh chấp nhận trước khi thế chiến chấm dứt và nước đồng minh quan trọng nhất là Hoa Kỳ, đang còn dưới quyền lãnh đạo của Tổng Thống Roosevelt, rất cương quyết trong dự định này, nhất là đối với Đông Dương mà Roosevelt quan tâm đặc biệt và nhiều lúc còn nặng lời nhắc nhỡ nước Pháp. Đây là một trong những nguyên nhân tiềm ẩn của thái độ của nước Pháp, đồng minh nhưng không thân thiện với Hoa Kỳ. Nhưng từ năm 1950, trước làn sóng đỏ đã tràn đến biên giới Việt-Hoa,cuộc chiến hoàn toàn thay đổi tính chất và Hoa Kỳ san sẻ gánh nặng bằng quân cụ, vũ khí đủ loại và tài chánh cho chính phủ Pháp để tăng cường lực lượng chiến đấu chống cộng sản ở Đông Dương trước một kẻ địch bổng nhiên mạnh hẳn lên do sự hổ trợ không giới hạn của Mao trâch Đông. Trung Cọng trở thành một hậu cứ vĩ đại cho Việt Minh. Chiến tranh du kích đã trở thành thứ yếu. Được huấn luyện, trang bị và tiếp liệu đầy đủ, lực lượng quân sự của Việt Minh đã bước vào giai đoạn trận địa chiến đến cấp trung đoàn,tiến lần đến đại đoàn, sư đoàn. Về phía quốc gia, các lực lượng quân sự cũng được tổ chức qui mô. Quân đội quốc gia Việt Nam được thành lập lanh chóng và chiến đấu bên cạnh quân đội Liên Hiệp Pháp ở nhiều mặt trận, đồng thời đảm nhận phần lớn nhiệm vụ bảo vệ diện địa. Cuộc chiến chấm dứt với hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 phân chia tạm thời Việt Nam thành hai miền Bắc Nam như chúng ta đã biết với sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Cộng sản đã chiếm được một nửa đất nước. Dù được tự do lựa chọn, không một thường dân nào ở miền Nam ra miền Bắc trong lúc một triệu đồng bào từ Bắc di cư vào Nam để được sống dưới chế độ tự do, một cuộc di cư lớn lao thực hiện trong vòng mười tháng như chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam. Bức màn sắt đã hạ xuống trên miền Băc thân yêu của tổ quốc.

        Những Bài Học:

        Từ một giai đoạn đầy biến động đưa đến cảnh phân chia đất nước như vừa trải qua, chúng ta có thể rúr ra nhiều bài học vô cùng quan trọng và hửu ích, theo thứ tự thời gian của các biến cố.

        Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim(tháng 3-tháng 8,1945): Làm chính trị,đặc biệt trong cương vị lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo chính phủ,là phải giữ vững lòng can đảm, không lùi bước trước hiểm nguy, không để mất tinh thần trước đe dọa. Lãnh đạo là tiên liệu những biến chuyển có thể xảy ra để ngăn ngừa trước, để chuẩn bị đối phó, làm chủ động tình thế và nắm lấy thời cơ. Khi có chính quyền trong tay, phải liên tục hữu hiệu hóa guồng máy Nhà nước cũng như quân lực, không ngừng cải tiến, không ngừng sửa sai.. Căn bản trí thức là một cái vốn quý nhưng tư tưởng, kiến thức phải đi đôi với hành động có kế hoạch cụ thể nếu không thì e sẽ rơi vào tình trạng của những hủ nho của một thời xưa. Nếu Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim hành sử như vậy, Việt Minh không thể dành được chính quyền và lịch sử cận đại đã có thể theo một chiều hướng khác.

        Các Đảng Phái Quốc Gia: Đã hoạt động từ nhiều năm trước, đáng lẽ các chính đảng quốc gia phải ra tay hành động, liên kết với chính phủ để giữ vững chính quyền, hướng dẫn quần chúng đang hăng say độc lập tự do, ủng hộ chính quyền tại vị. Dù chính phủ có yếu đi nữa – điều khá rõ rệt – các chính đảng phải thúc đẫy chính phủ, dùng mọi áp lực để trấn tỉnh chính phủ và Nhà Vua và cùng nhau làm việc. Chúng ta cũng không quên rằng Viêt Nam Quốc Dân Đảng rất thân gần như đồng chí với Quốc Dân Đảng Trung Hoa đang lãnh đạo và quân đội Trung Hoa của Thống Chế Tưởng Giới Thạch đã được Đồng Minh giao phó trách nhiệm giải giới quân đội Nhật ở Miền Bắc. Một thế lực không thể lớn hơn lúc bấy giờ cũng như trong suốt thời gian quân đội Trung Hoa đóng ở ngay thủ đô Hà Nội. Đảng Đại Việt cũng có tổ chức và hoạt động ở Miền Bắc trong đầu thập niên bốn-mươi. Có lẽ những vấn đề nội bộ của mổi đảng, hợp tác giữa hai đảng, cộng tác với Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim, không được giải quyết lanh chóng kịp thời chăng trong lúc tình thế biến chuyển rất lanh như đã trình bày. Một hành dộng đoàn kết nhất trí giữa những nhà lãnh tụ quốc gia đã không xảy ra trong giờ phút quyết định của lịch sử khiến cho cộng sản thành công dễ dàng, dễ dàng quá hơn họ đã dự liệu. Đây là một bài học lớn cho tất cả chúng ta và đặc biệt cho những người trong chúng ta đang tự gánh giờ đây môt trách nhiệm trước quốc dân.

        Cộng sản Việt Nam: Thành công tranh đoạt được chính quyền tháng 8 năm 1945, Cộng sản Việt Nam bắt đầu dẫn dắt dân tộc vào một cuộc phiêu lưu gần mười năm, hy sinh hàng trăm ngàn sinh linh, tàn phá hơn một nửa đất nước cho đến ngày xứ sở bị chia đôi thành hai miền Nam Bắc tháng 7 năm 1954. Sự tôn thờ mù quáng và áp đặt một chủ nghĩa ngoại lai trên một dân tộc là một điều cần phải tránh vì trước hết, hành động ngang ngược này loại bỏ quyền tự do tư duy và lựa chọn của mổi người dân trong nước. Sự áp đặt chủ nghĩa hay chủ thuyết đã chứng tỏ hậu quả khốc hại của nó với chủ nghĩa quốc-xã của Hitler và chủ nghĩa cộng sản hay xã hội chủ nghĩa dưới thời Lénine và Staline rồi đến các lãnh tụ kế tiếp ở điện Cẩm-linh cho đến khi Gorbatchev lên cầm quyền. Những nước văn minh tiền tiến trong thế giới không làm như vậy mà chỉ đặt định rõ ràng những mục tiêu không thay đổi và có lợi cho tất cả mọi người dân trong nước bất luận thuộc khuynh hướng nào : tự do, dân chủ, công bằng xã hội và phúc lợi của toàn dân. Dân quyền và nhân quyền được cụ thể hóa trong các mục tiêu này. Đế quốc Nga Sô, các nước cộng sản ở Đông Âu và Á Phi ngoại trừ Cuba, Bắc Hàn, Trung Cọng, Việt Nam và Lào đã sụp đổ lanh chóng vì áp dụng một chủ nghĩa sai lầm không phù hợp với nhân tính và đi ngược lại với sự tiến hóa tất yếu của nhân loại. Đây là một bài học lớn cho đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi chắc họ đã hiểu nhưng vì quyền lợi riêng tư của những người lãnh đạo,họ không muốn xét lại toàn bộ chế độ. Sự chần chừ và chậm trể của họ càng làm cho dân uất hận thêm và nguy hiểm cho chính họ khi dân chúng nhất tề theo nhau đứng lên thực hiện lấy sự thay đổi chế độ. Thắng một thời, sai một đời, mang tội muôn đời, những người cầm đầu Cộng đảng Việt Nam cần suy ngẩm đến diễn tiến này của lịch sử.


        B- Giai Đoạn 1954-1975: Từ Di Cư Đến Di Tản

        Những Nét Chính Của Tình Hình :

        Trở về Hà Nội chưa được bao lâu Cộng sản đã chuẩn bị phát động vụ đấu tố «địa chủ,cường hào, ác bá » trên Miền Bắc vừa tiếp thu. Số nạn nhân không thể kiểm kê được rõ nhưng phải kể đến cả trăm ngàn người, một tội ác chống nhân loại đứng hàng đầu. Áp dụng đúng lời dạy của Mao Trạch Đông, mà cuộc đấu tố trên lục địa đã giết hại hàng chục triệu người. Dân chúng ở hai tỉnh Hà Tỉnh, Nghệ An, quê quán của ông Hồ Chí Minh, vốn là lò lửa cách mạng vô sản, đã từng lập sô-viết Nghệ Tỉnh trong các cuộc nổi dậy từ tháng 5, 1930 đến tháng tư 1931, dân Nghệ Tỉnh ấy nổi dậy một lần nữa nhưng lần này, để chống đối dữ dội đến độ cả một sư đoàn quân đội nhân dân phải được phái đến dẹp loạn ! Nhưng rồi đồng bào Miền Bắc cũng không được ở yên trong cảnh khốn cùng. Cuộc xâm lăng Miền Nam được khởi sự chuẩn bị. Gọng kềm của chế độ xiết chặc hơn nữa. Đã không bao giờ được ăn no, dân chúng từ đây còn phải thắt lưng buộc bụng, Cuộc chiến xâm lăng kéo dài mười lăm năm đã gây nhiều tổn phí không kể xiết về nhân mạng cũng như đã làm tiêu tan không kể hết được tài sản của dân và của nước. Hàng triệu người đã nằm xuống vì bom đạn, gươm đao, kẻ sinh Bắc tử Nam vùi thân trong rừng thẳm, ngưởi hy sinh chiến đấu chống xâm lăng bảo vệ Miền Nam tự do, dân chủ. Tại Miền Bắc, dân phải răm rắp tuân lệnh Đảng và nhà Nước, và không có một biến động nào đáng kể, ngay cả cái chết của ông Hồ chí Minh đầu tháng chín 1969 cũng không gây nên xáo trộn đáng kể trong hàng ngủ lãnh đạo. Ngược lại, từ khi đất nước bị phân chia năm 1954, Miền Nam phải trải qua nhiều biến động nội bộ nghiêm trọng, có lúc gần tan rã, trở thành một con mồi dể dàng cho cộng sản xâm lược. Hoa Kỳ phải đổ quân vào để cứu vãn tình hình như chúng ta đã biết. Biến động đáng kể đầu tiên là mưu toan phản loạn của tướng Nguyễn văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng quân đội quốc gia muốn lật đổ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm , hai tháng sau khi ông Diệm về nước lập chính phủ do sắc lệnh của Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm ông làm Thủ Tướng với toàn quyền chính trị, hành chính và quân sự. Dân Tây, vợ Đầm, sĩ quan của quân đội Pháp « biệt phái » qua chỉ huy quân đội quốc gia từ khi mới thành lập, ông Hinh không chịu khép mình trong kỷ luật quân đội và kỷ luật quốc gia để phải làm việc dưới quyền của một ông Thủ Tướng không kiêng nể ông như các Thủ Tướng khác trước đấy, chưa kể ông Diệm vẫn luôn luôn ra mặt chống Tây thực dân từ khi ông Diệm còn làm Thượng Thư trong triều đình Huế thời Pháp thuộc. Thất bại, tướng Hinh được Quốc Trưởng Bảo Đại gọi sang Pháp và ở luôn tại Pháp sau một mưu toan trở về dấy loạn lần thứ hai nhưng thất bại ngay ở biên giới. Biến cố thứ hai cũng lại là một mưu toan lật đổ ông Diệm nhưng lần này ông đã là Tổng Thống nền đệ nhất Cộng Hòa. Cuộc đảo chính hụt này, ngày 11 tháng 11, 1960, lại đưa một số sĩ quan đi tù hay đi ngoại quốc cùng với vài chính trị gia dính líu đến nội vu. Nhưng tục ngữ Pháp có câu «có hai thì phải có ba » (jamais deux sans trois) nên lần này, cuộc đảo chính thành công với sự nhúng tay của chính phủ Mỹ thời Tổng Thống Kennedy và với sự thực hiện của một số tay sai người Việt. Ngày 2 tháng 11, 1963, Tổng Thống Diệm cùng bào đệ, ông Ngô Đình Nhu, Cố Vấn chính trị, bị hạ sát. Hai tuần sau, tại thành phố Dallas, Hoa Kỳ,Tổng Thống Kennedy bị ám sát. Giai đoạn Ngô Đình Diệm chấm dứt. Miền Nam suýt rơi vào vực thẳm. Việt Cọng nổi lên dánh phá nhiều nơi. Hệ thống ấp chiến lược bị phá bỏ bởi chính quyền mới của Hội Đồng quân nhân cách mạng.Nhiều sĩ quan và công chức chống cọng tích cực dưới chính quyền cũ bị bắt bớ giam cầm. Nhiều cán bộ cộng sản quan trọng đang bị giam giữ được thả ra vô điều kiện một cách mờ ám. Nhiều vụ tống tiền và chiếm đoạt tài sản xảy ra ở nhiều nơi mà nạn nhân bị chụp mủ «làm kinh tài cho gia đình họ Ngô». Trước tình trạng suy đồi lanh chóng của Miền Nam và một số tin tức về sự móc nối của vài tướng lãnh trong HĐQNCM với một tổ chức hoạt động cho lá bài trung lập, cũng đại sú Lodge bật đèn xanh cho một nhóm quân nhân khác làm một cuộc đảo chính lật đổ nhóm quân nhân «cách mạng 1 tháng 11 » trước. Cuộc đảo chính chớp nhoáng này được thực hiện trong vòng hai tiếng đồng hồ vào sáng ngày 30 tháng 1, 1964, vỏn vẹn ba tháng sau vụ binh biến lật đổ nền Đệ nhất Cộng hòa. Ba năm tiếp theo, Miền Nam sống trong một tình trạng gần như hổn loạn Trong lúc các chiến sĩ quốc gia đổ máu hy sinh trên các chiến trường lan rộng khắp nơi thì tại thủ đô Sài gòn, một nhóm tướng tá tranh dành miếng đỉnh chung, hết đảo chính đến chỉnh lý, biểu dương lực lượng, thanh toán nhau, bắt bớ nhau, phong chức cho nhau, chia chác quyền lợi và quyền hành với nhau trên cái thân thể càng ngày càng suy nhược héo mòn của đất nước đang bốn bề thọ địch. Vì vậy mà Hoa Kỳ phải mang gấp quân sang để cứu vãn tình thế. Từ khoảng mười ngàn với tư cách cố vấn dưới thời Tổng Thống Diệm, quân số Mỹ càng ngày càng tăng cho đến hơn nửa triệu quân vứa tác chiến,vừa cố vấn, vừa tiếp liệu. Số thương vong tổng cọng gần sáu mươi ngàn người. Chính nghĩa của cuộc chiến đấu của quân dân Miền Nam càng dễ bị hiểu lầm và xuyên tạc. Phong trào phản chiến càng phát triển mạnh đặc biệt ở Hoa Kỳ khiến cho chính phủ và quốc hội phải nhượng bộ trước áp lực của phong trào. Cuối cùng, với chính sách đánh cầm chừng, tự chế , không đánh cho địch ngã gục mà chỉ để mong địch đến bàn hội nghị, Hoa Kỳ chỉ còn một mục tiêu chính: rút quân về nước, đem được hết tù binh về, quân nhân Mỹ mất tích sẽ từ từ tìm kiếm sau. Trong tinh thần bằng mọi giá phải chấm dứt sự có măt của quân đội mình ở Việt Nam, Hoa Kỳ xúc tiến Việt nam hoá chiến tranh để Miền Nam tự lo lấy số phận của mình. Dưới thời Đệ nhị Cộng Hòa, tuy tình hình nội bộ được ổn định nhưng cuộc chiến đấu của quân dân Miền Nam càng ngày càng khó khăn trước sự gia tăng không giới hạn của lực lượng địch được cả Khối Cộng sản quốc tế yểm trợ tối đa và sự suy yếu của lực lượng quốc gia vì Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự đến mức không đủ nhiên liệu, đạn dược, vũ khí để thay thế và các quân cụ khác. Hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 được ký kết trong hoàn cảnh này. Chính phủ VNCH buôc phải ký nếu không thí bị Hoa Kỳ bỏ rơi tức khắc Một hiệp định gián tiếp mở đường cho cộng sản Bắc Việt xâm lăng Miền Nam vì không buộc CSBV rút về Bắc hơn một trăm ngàn quân của chúng đã đột nhập vào Nam. Đúng như vậy, sau khi ký kết, CSBV tấn công khắp nơi xem hiệp định đình chiến Paris như không có, bao nhiêu quân ở Miền Bắc lục tục kéo vào Nam. Những lời khẩn thiết của chính phủ VNCH kêu gọi Hoa Kỳ giữ lời hứa của Tổng Thống Nixon can thiệp nếu CSBV vi phạm hiệp định Paris, đều rơi vào khoảng không. Quốc hội Hoa Kỳ mà đảng Dân Chủ nắm đa số đã ngăn cấm không cho phép Tổng Thống can thiệp bằng quân lực ở nước ngoài và tệ hại nếu không phải là tàn nhẫn hơn nữa, không cho phép tháo khoán số tiền mấy trăm triệu còn lại trong ngân khoản viện trợ quân sự để cho VNCH mua sắm thêm phương tiện chiến đấu trong những trận chiến ác liệt đang diễn ra vào những tháng quyết định đầu năm 1975.

        Những Bài Học:

        Hai thập niên đầy biến động từ 1954 đến 1975 không thể không để lại nhiều bài học cho chúng ta, cho hậu thế, cho bây giờ đây.

        Những Người Quốc Gia: Bài học đầu tiên của giai đoạn lịch sử này nên được để dành cho những người Việt quốc gia chúng ta vì trách nhiệm bảo vệ Miền Nam trước đây trước hết là trách nhiệm của chúng ta, người ít kẻ nhiều với những điều kiện của mổi người lúc bấy giờ.

        -quyền lợi của đất nước phải được đặt trên quyền lợi riêng của mổi người, mổi tập thể. Nói thì dễ nhưng nhiều cá nhân, nhiều tập thể không áp dụng bổn phận căn bản này của người công dân. Chúng ta phải nhìn nhận rằng nếu chúng ta có trước đây những vị lãnh đạo đặt quyền lợi của quốc gia trên tất cả thì Miền Nam chúng ta cũng không thiếu những người có chức quyền xem thường quyền lợi của quốc gia mà chỉ biết đến quyền lợi của cá nhân mình.

        - dân chúng phải chọn những người lãnh đạo và những người đại diện cho mình không những có khả năng mà còn phải có đạo đúc, tư cách ; phải nhìn vào quá khứ để tìm hiểu chứ đừng nghe lời đường mật hứa hẹn hão huyền. Một sự lựa chọn sai lầm sẽ rất tai hại lâu dài cho cộng đồng, cho quốc gia.

        - chúng ta phải tự trang bị tinh thần tự lập, tự cường, phải rửa sạch tinh thần vọng ngọai và ỷ lại. Có một nước bạn giúp đở chúng ta là một điều tốt, nhiều lúc còn cần thiết nữa nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng không ai thương chúng ta, lo cho chúng ta bằng chính chúng ta. Nước nào cũng có quyền lợi riêng của nước ấy. Nếu quyền lợi của nước bạn một lúc nào đấy không phù hợp hay ngược lại với quyền lợi của đất nước chúng ta thì chúng ta phải trả giá đắt sự ỷ lại thiếu sáng suốt của chúng ta.

        - trong thời đại bây giờ, trừ vài nước Phi châu còn lạc hậu, không một ai quan niệm được rằng nền dân chủ của một quốc gia có thể bị hủy hoại vì một biến động quân sự của một nhóm quân nhân. Nguyên tắc cơ bản của tất cả các nước văn minh từ hơn cả thế kỷ hay vài thế kỷ nay là sự phụ thuộc của thẩm quyền quân sự vào chính quyền dân sự (principe de subordination de l’autorité militaire au pouvoir civil) vì chính quyền dân sự đại diện cho toàn dân, thể hiện chủ quyền của toàn dân (souveraineté du peuple).

        Hoa Kỳ: Hoa Kỳ và đặc biệt đảng Dân Chủ cần phải hiểu và chúng ta phải kiên nhẫn làm cho họ hiểu rằng khả năng vô địch của họ về quân sự, khoa học, kỹ thuật, tiềm lực kinh tế dồi dào của họ, tất cả không miễn trừ cho họ những nỗ lực học hỏi cần thiết để thấu hiểu những giá trị, những khát vọng, những nhu cầu, những điều kiện đặc thù của mổi dân tộc trong mổi giai đoạn của lịch sử của dân tộc ấy, biến chuyển không ngừng theo sự chuyển biến của thế giới. Trong sự thi hành sứ mạng mà Hoa Kỳ tự nhận hổ trợ cho các dân tộc tranh đấu cho tự do, dân chủ của họ qua lời tuyên bố công khai và long trọng trước thế giới gần đây của Tổng Thống Georges W. Bush, siêu cường này không thể phạm phải những sai lầm về nhận định, về thiết kế chính sách đối ngoại, về sự phân biệt giữa những đối tượng, thù hay bạn của tự do, dân chủ, của nhân quyền, của sự tiến bộ của nhân loại. Hoa Kỳ không thể hành sử như một quốc gia tầm thường chỉ tính toán cho những quyền lợi trước mắt và ngắn hạn nhiều lúc chưa chắc đã có thực để quên đi sứ mạng cao cả của mình với nhân loại. Những sai lầm của Hoa Kỳ trong những quyết định của họ trong nửa thế kỷ nay, đặc biệt ở Trung Hoa năm 1949 và ở Việt Nam năm 1963 và 1975 đã làm cho bàn cờ thế giới thay đổi một cách tai hại và dài hạn, đặt gần một tỷ rưởi người trong cảnh nghèo khổ và mất tự do dưới sự thống trị của một thiểu số « tư bản đỏ » dẫm lên trên nhân quyền và nhân vị của con người., và đặt các nước trong vùng Á Châu Thái Bình Dương trong tình trạng lo ngại và cảnh giác thường xuyên trước chế độ cộng sản ở Trung Hoa lục địa, hung hản, bá quyền, đe dọa nền an ninh và kinh tế của toàn vùng. Tuy vậy, nhiều chánh khách, nhiều lý thuyết gia, kinh tế gia, nhà nghiên cứu chính trị chiến lược, đủ cỡ đồng thanh tranh nhau ca ngợi hai chế độ cộng sản môn đệ của bạo chúa Staline nói trên bằng cách tuyên dương những thành quả của hai chế dộ này, so với…tình trạng của hai quốc gia này trong thời gian đen tối nhát mà hai chế độ đã tạo nên cách đây ba bốn-mươi năm hơn, khi nhân dân hai nước gần chết khổ tất cả vì bị đem ra làm con vật thí nghiệm cho các chánh sách xã hội chủ nghĩa thuần túy nhất.. Nghĩa là so sánh cái tệ hại nhất của các chế độ này gây nên với cái ít tệ hại hơn bây giờ, thay vì so sánh với các «con rồng vàng» kế cận đã vươn lên như những con rồng trong thần thoại từ hơn hai mươi năm nay! Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu cũng đừng quên rằng 90 phần trăm dân ở Trung Hoa lục địa và ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa giờ đây đang sống xa hẳn dưới mức nghèo khổ nghĩa là không đến một đô la một ngày vì lợi nhuận trung bình từ 400 đến gần 700 đã bị thiểu số 10 phần trăm có lợi nhuận cao chia lấy phần lớn. Quảng đại quần chúng này phải có quyền sống đủ no, đủ ấm, đủ tự do, nhân phẩm được tôn trọng như tất cả mọi người khác trong thế giới văn minh tiến bộ ngày nay. Thế giới Tây phương nói chung, Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu nói riêng cần nhìn xuyên qua cái hình thức phô diễn bề ngoài mỏng manh và phải lắng nghe tiếng kêu gọi xuất phát từ bên trong sâu thẳm của hơn cả tỷ người cần được giải thoát và được hoàn trả lại các dân quyền và nhân quyền của họ mà không một đảng nào, một nhà Nước nào có quyền tước đoạt mãi mãi.

        Thêm Một Bài Học Cho Những Người Cộng Sản Việt Nam: Sau khi bá chủ được tất cả Miền Bắc năm 1954, lẽ đáng công sản phải ngưng nghỉ cho dân hưởng thái bình, xây dựng lại những đổ vỡ của chiến tranh,phát triển kinh tế, nâng cao mức sống, chờ đợi môt ngày thuận tiện hai Miền Nam Bắc nói chuyện với nhau tiến tới việc thống nhất đất nước trong hoà bình, tự do. Không làm như vậy, cộng sản Bắc Việt đã phát động cuộc chiến thứ hai, quyết xâm lăng Miền Nam, khống chế cà Đông Dương như chúng ta đã biết. Thêm hai-mươi năm nội chiến để làm gì ? Để thống nhất đất nước ? Một ngụy biện không chấp nhận được vì, cần phải nhấn mạnh cho những người còn tin ở ngụy biện này, thống nhất chỉ là và phải là kết quả của một tiến trình thương thảo giữa hai Miền Nam Bắc, một công cuộc chính trị, một sự đồng thuận giữa hai bên trong những điều kiện không thiệt hại cho một bên nào để từ đấy thực hiện một công thức quản trị duy nhất cho quốc gia, một chính quyền chung cho cả nước. Không làm như vậy mà dùng vũ lực, gây nên cả một cuộc chiến tranh thì hoàn toàn không phải là một sự thống nhất trong ý nghĩa đúng đắn của sự kiện lịch sử này mà chỉ là một cuộc xâm lăng trắng trợn. Đảng cộng sản Việt Nam đang mang trên mình bản án nặng nề nhất của lịch sử. Họ phải rút ra từ tội lỗi lớn lao của họ một bài học cho chính họ để tạ tội với quốc dân thay vì tiếp tục chính sách dối trá lường gạt đồng bào trong và ngoài nước. Từ bài học quá đắt giá này, tôi mong người cộng sản Việt Nam sẽ biết phục thiện để đi vào con đường chung của dân tộc. Họ cần hiểu rằng quyền hành họ đang nắm giữ chỉ là một quả bóng bay mà một cơn gió thoảng mùa hè có thể tách rời khỏi tay họ.

        C- Từ Đổi Đời Đến Đổi Mới : 1975 – 1986 Và Tiếp Theo

        Từ Đổi Đời Đến Đổi Mới.

        Trưa ba mươi tháng tư 1975, đoàn chiến xa của Hồng quân Nga Sô viện trợ cho cộng sản Bắc Việt tiến vào thủ đô Sài Gòn và chạy thẳng tới dinh Độc Lập tức phủ Tổng Thống của Việt Nam Cộng Hoà. Thủ đô Miền Nam đã bỏ ngõ từ chiều hôm trước. Cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ vừa chấm dứt. Hoà bình trở lại trên một đất nước đuợc sự thương cảm của thế giới bởi những hy sinh không kể xiết của một dân tộc vừa thoát khỏi một cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ : ba- mươi năm. Nhưng thế giới đã không nhìn xa hơn. Ít ai nhận thấy tai ương sắp xảy ra cho dân tộc Việt Nam bất hạnh này. Hầu hết đều muốn ra đi vì họ biết một cuộc đổi đời sắp xảy ra. Đúng vậy, bắt bớ, giam cầm, tù đày, cải tạo, cướp nhà, cướp của đồng loạt và liên tục xảy ra khắp nơi. Miền Nam đã vậy trong lúc dân chúng Miền Bắc thất vọng, bao nhiêu mong ước Miền Nam ra giải thoát cho họ bỗng chốc bốc thành mây khói ! Chỉ trong vòng vài tháng, nửa triệu người bị lùa vào các trại cải tạo, hơn một trăm ngàn người vào các nhà tù, hơn một triệu người « đi » kinh tế mới, bỏ lại cho Đảng cho Nhà Nước nhà cửa, tài sản của mình. Chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa tập trung các phương tiện sản xuất trong tay Nhà Nước, quốc hửu hóa tất cả các xí nghiệp tư doanh trước đây, triệt hạ thành phần « tư sản mại bản »… đã lanh chóng tê liệt hóa nền kinh tế vốn tương đối thịnh vượng của Miền Nam, đến mức mọi người phải ăn đói, bửa có bửa không ! Rõ ràng là một cuộc đổi đời đang được thực hiện. Thế giới bên ngoài đã bắt đầu theo dõi tình hình bi thảm đang diễn ra tại Miền Nam Việt Nam cùng lúc với những vụ vượt biên, vượt bể, vượt cả đại dương của hàng trăm ngàn người mà một số lớn đã tử nạn dọc đường hay bị cướp biển hảm hại. Lương tâm nhân loại bắt đầu xúc động. Một số nhân vật Tây phương đã hết lời ca ngợi cuộc giải phóng Miền Nam, thống nhất nước Việt Nam, đã tỉnh ngộ, bắt đầu hối hận về sự lầm lạc của mình như nhà triết học Jean Paul Sartre. Cuộc trắc nghiệm các chính sách mới của chế độ mới từ 1975 đã hoàn toàn thất bại. Từ Mạc tư Khoa, Gorbatchek đã cho Hà Nội biết Nga Sô không thể tiếp tục viện trợ cho Việt Nam nữa. Tập đoàn lãnh đạo cộng sản hiểu rằng đã đến lúc phải đoạn tuyệt với chủ nghĩa, giáo điều, tất cả, để thoát ra khỏi cái mồ chôn mà họ đã tự đào lên để tự chôn mình và chôn luôn cả dân tộc. Đã đổi đời, bây giờ phải đổi mới! Đại Hội Cộng đảng thứ sáu họp tháng 12,1986 quyết định từ bỏ kinh tế xã hội chủ nghĩa, áp dụng kinh tế thị trường, được ráp thêm cái đuôi « theo định hướng xã hội chủ nghĩa » để níu kéo lại một số đặc quyền của Nhà Nước, duy trì nhiều xí nghiệp quốc doanh và cũng để vớt vát thể diện bị tiêu hao nặng nề bởi sự trở cờ 180 độ. Chính sách đổi mới kéo theo những thay đổi trong các chánh sách áp dụng lân nay trong nông nghiệp, kỹ nghệ, thương mãi, hủy bỏ nhiều sự kiểm soát trong sự lưu thông, phân phối hàng hóa sản xuất, cho phép hưởng lợi cá nhân, phát triển các dịch vụ. Những luật lệ đầu tiên về đầu tư dành cho người ngoại quốc được ban hành lôi cuốn nhiều doanh nhân các nước ngoài đổ tới nghiên cứu thị trường, khởi sự hoạt động. Việt kiều ở hải ngoại bắt đầu về thăm quê hương, và càng ngày càng đông, đem về nhiều ngoại tệ. Nhưng « đổi mới » chỉ giới hạn trong lãnh vực thuần túy kinh tế. Chính trị vẫn như trước nghĩa là vẫn độc đảng, độc trị. Và «đổi mớỉ» tạo nên những vấn đề mới trên phương diện xã hội. Mọi người chen chúc nhau, xô đẩy nhau để làm tiền, để kiếm sống, để làm giàu, bằng mọi cách, không còn phân biệt điều tốt, điều xấu. Một xã hội thả lỏng, các giá trị tinh thần, đạo lý, đạo đức không còn được ai nhắc nhở đến nữa. Từ trên xuống dưới, từ cấp lãnh đạo cao nhất cho đến cán bộ thấp nhất, mọi người thi nhau làm tiền một cách trắng trợn. Tệ nạn tham nhủng được hệ thống hóa, lan tràn khắp nơi, từ trung ưong đến địa phưong, trong chính quyền, trong quân đội, trong các công ty quốc doanh, ở bất cứ nơi nào có thể kiếm ra tiền. Trong lúc nhờ tham nhủng, một giai cấp mới, tư bản đỏ và tư sản đỏ, được thành hình và phát triển lanh chóng thì đại đa số dân chúng ở ngoài vòng ảnh hưởng trực tiếp của « đổi mớỉ » hoặc ở nông thôn xa xôi không tiếp cận với các đô thị, các thành phố, tiếp tục nghèo khổ, một số ít được khá hơn phần nào nhưng số đông không có gì thay đổi, chưa kể nhiều gia đình khốn đốn hơn phải bán con, phải để mẹ hay vợ ra đi lao động ở nước ngoài để chồng con ở lại quê nhà. Tỷ lệ trẻ con suy dinh dưỡng đạt mức báo động, số trẻ em bỏ học đạt mức đáng lo ngại. Chưa bao giờ có trong lịch sử một cảnh tương phản xã hội khiêu khích như vậy giữa những nhà giàu hàng chục, hàng trăm triệu Mỹ kim xây dựng tài sản một cách bất chính và những gia đình không kiếm được cái ăn hằng ngày vì không kiếm được việc làm, không được ai giúp đở kể cả Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa.

        Những Bài Học Cho Ai ?

        Từ đổi đời đến đổi mới, giai đoạn cuối cùng của lịch sử cận đại, chúng ta có thể rút ra vài bài học cụ thể tiếp giáp ngay với hiện tại trước mắt.

        Những người cộng sản trong nước: họ đã tạo nên một cuộc đổi đời, tưởng thực hiện được giấc mơ xã hội chủ nghĩa : một thiên đường ở trần gian. Mười năm sau, họ đã vở mộng. Lãnh đạo một nước không phải là lãnh đạo một cuộc chiến tranh. Xây dựng và kiến tạo không cùng một lãnh vực với xử dụng vũ lực. Một chủ thuyết kinh tế dựa trên sự phủ nhận và bãi bỏ động lực thu lợi cá nhân không thể nào ứng dụng thành công được vì trái với tâm lý tự nhiên của con người luôn luôn muốn làm ra tiền để cải tiến đời sống của mình., một nhu cầu thường xuyên của bất cứ ai. Từ chủ thuyết trên, cộng sản chủ trương làm chung, ăn chung, nghĩa là tập trung các phương tiện sản xuất trong tay tập thể, trong tay Nhà Nước, khiến cho không ai chịu trách nhiệm rõ rệt về thành quả của hoạt động mà ngược lại, ai cũng muốn dành một phần lớn cho mình. Mặt khác, mất quyền sở hửu phương tiện sản xuất của mình, làm việc mà không hưởng được kết quả trọn vẹn của công sức mình, chắc chắn không ai làm việc hết mình. Năng xuất thấp, hiệu quả kém là chuyện không tránh được. Số phận của các xí nghiệp Nhà Nước vì vậy đã được an bài . Với kinh nghiệm đắt giá của nền kinh tế xã hội mác-xít, cộng sản đã ôm chầm lấy kinh tế thị trường nhưng, như đã kể, còn ráp thêm cái đuôi tai hại « theo định hướng xã hội chủ nghĩa », làm hỏng phần lớn hiệu quả của chính sách cứu rỗi này. Tóm lại, cần phải cắt gấp cái đuôi tai hại ấy để loại bỏ những ảnh hưởng xấu của nó. Ngoài ra, phải đổi mới chính trị nghĩa là phải thực hiện tiến trình dân chủ hóa , trả lại cho dân các dân quyền và nhân quyền mà không một quyền lực nào có thể tước đọat mãi mãi đươc. Phải thành hình một Nhà Nước pháp trị, thượng tôn luật pháp, một hệ thống luật pháp đúng với những tiêu chuẩn của luật pháp văn minh hiện hành trong thế giới chứ không phải một mớ luật lệ, nghị quyết, pháp lệnh phản dân chủ, phản nhân quyền, thủ tiêu các quyền tự do căn bản. Đây là bài học tối quan trọng mà các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải rút tỉa từ kinh nghiệm hai-mươi năm qua để áp dụng bây giờ vì lợi ích của quốc gia. dân tộc.

        Đồng Bào Trong Nước: Nạn nhân của cuộc đổi đời, đồng bào trong nước đã thoát chết đói nhờ những người bạn củ trở lại kịp thời. Chính sách kinh tế thị trường đã mở đường cho những nhà kinh doanh Âu Á Mỹ Úc lần lần trở lại làm ăn và dọn đường cho đồng bào ở hải ngoại về thăm quê hương đất nước. Thoát chết đói nhưng chưa phải là sống đủ no, đủ ấm, đủ tự do cho tất cả mọi người từ thôn quê đến thành thị. Dân tộc Việt Nam phải được quyền sống xứng đáng như các dân tộc khác trên thế giới văn minh tiến bộ ngày này.Sự chịu đựng nhẫn nhục chỉ có tác dụng khuyến khích lòng tham quyền cố vị và kéo dài vô hạn định chế độ độc tài đảng trị. Đồng bào phải đứng lên đòi hỏi đảng cộng sản trả lại các quyền tự do, dân chủ cho đồng bào. Dân tộc ta luôn luôn tôn trọng các tín ngưỡng, tôn thờ Thượng Đế, cầu Trời như đấng chí linh, khấn Phật như đấng siêu phàm, tôn kính tổ tiên, ông bà, tạo nên những truyền thống tốt đẹp mà chúng ta có bổn phận gìn giữ và bảo vệ bằng mọi giá. Luật pháp của chế độ cộng sản vô thần duy vật và con đẻ cuối cùng của nền luật pháp rừng rú ấy, Pháp lệnh về tôn giáo, phải được hủy bỏ. Nơi cửa Phật, nơi Thánh đường, nơi Thánh thất, không ai có quyền xâm phạm, kiểm soát, rình mò, phong tỏa. Việc truyền đạo và hành đạo là một hành động tự do của mọi người, nhà tu hành, giáo sĩ các tôn giáo, người thường dân, bất cứ ai, có thể thực hiện bất cứ nơi nào bởi không có một lý do nào để hạn chế. Tài sản của các giáo hội đã có từ xưa phải được hoàn trả lại vô điều kiện,các sự thất thoát hư hỏng phải được đền bù vì một Nhà Nước, một chính quyền bình thường không thể cướp đoạt tài sản của dân, của một tập thể, nhất lại là một tập thể tôn giáo mà đặc tính tuyệt đối là vô vụ lợi và có lợi ích công cọng như cả thế giới đã công nhận từ nhiều thế kỷ. Đồng bào phải muôn người như một đòi hỏi, nếu cần thì mạnh dạn tranh đấu, cho tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoàn toàn như vừa trình bày. Và cũng như đã trình bày, đây là cả một vấn đề bao trùm những truyền thống quý báu và tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam chúng ta, không phân biệt lương giáo, không phân biệt tín ngưỡng. Mùa Xuân 2005 này, cuộc tranh đấu bất bạo động thứ ba trong Cộng đồng các quốc gia độc lập do Nga chủ trì cũng đã thắng lợi nhanh chóng và quá dễ dàng. Dân chúng Kyrgzystan không đến vài ngàn người do đảng đối lập tổ chức để phản đối cuộc bầu cử gian lận đã kéo thêm được người hùa theo ủng hộ la lối,cảnh sát ngăn chận không cho họ kéo đến trụ sở quốc hội nhưng họ vẫn tiến tới. Không thể đẩy lui đoàn người biểu tình và không muốn xử dụng vũ khí, lực lượng cảnh sát đành để cho dân chúng chiếm quốc hội và cứ thế, đoàn người hồ hởi này kéo đến phủ Thủ Tướng, dinh Tổng Thống. Không có một sự kháng cự nào cả của cảnh sát và quân đội, Tổng Thống đã lanh chân qua nước ban trốn luôn. Hai vụ tranh đấu trước của dân Ukraine và Georgia, gọi là cách mạng da cam và cách mạng hoa hồng cũng diễn ra gần giống vậy, người dự biểu tình đông hơn và thời gian tranh đấu dài hơn nhưng trong cả ba vụ vừa kể, không có đổ máu, kết quả tốt đẹp. Tại sao ở Việt Nam lại không thể xảy ra như vậy ? Sự sợ hãi không còn lý do tồn tại nữa vì, rất giản dị, không anh cảnh sát nào, không anh lính nào dại dột xả súng bắn vào dân để, hoặc bị dân nổi giận tràn đến trả thù ngay toi mạng, hoặc mang tội giết người nếu cuộc nổi dậy thành công. Thế giới ngày nay không như thế giới mấy chục năm trước. Không sợ hãi, nhất định thành công.

        Đồng Bào Hải Ngoại: Để tránh một cuộc đổi đời, chúng ta đã phải rời quê hương đi tìm một chân trời tự do. Do cuộc đổi mới, thế cùng lực kiệt, cộng sản Việt Nam đã tự động thay đổi qui chế của chúng ta, từ thù địch bỏ nước ra đi thành khúc ruột ngàn dặm Nghị quyết số 36 của cộng sản hàm chứa một sự biến chuyển tư tưởng tương tự, không hơn, không kém, một sự dối trá tuyệt đối khỏi cần bỏ công phân tách mổ xẻ. Về thăm quê hương, thăm cha mẹ già đang mỏi mắt chờ con, không phải là những chuyện đáng trách nhưng nhất định đừng để cho cộng sản xử dụng như những con tin. Ngược lại, một người về thăm quê phải mang theo một thông điệp đầy đủ ý nghĩa của thế giới bên ngoài và của chính cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Thông điệp ấy là đã đến lúc đồng bào chuẩn bị đứng lên đòi hỏi dân chủ, tự do, no ấm. Đồng bào ở bốn phương trời, thế giới khắp nơi sẽ tiếp tay ủng hộ cuộc tranh đấu của đồng bào quốc nội. Ngọn sóng thần dân chủ, tự do đang lần lượt lôi cuốn những bức màn sắt rét rỉ còn sót lại.

        II- NHỮNG TRIỂN VỌNG CỦA TƯƠNG LAI

        A- Việt Nam Trong Chính Sách Đối Ngoại Của Hoa Kỳ

        Nhiều đồng bào chúng ta ở trong nước cũng như ơ hải ngoại, ngay tại Hoa Kỳ, suy đoán tương lai của quê hương qua nhận thức của mình về thái độ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phương pháp suy đoán này không hẳn là không đúng vì một cách tổng quát, ảnh hưởng của Hoa Kỳ đối với những chuyển biến lớn trên thế giới khá rõ rệt. Nhưng không phải là Hoa Kỳ muốn gì cũng được. Và truớc hết cần phải tìm hiểu thực sự Hoa Kỳ muốn gì ở Việt Nam trong nhiệm kỳ hai của Tổng Thống Georges W. Bush. Như chúng ta đã biết, nhà lãnh đạo Hoa Kỳ có tuyên bố ít lâu sau khi được tái cử là ông sẽ hổ trợ cho các dân tộc đứng lên tranh đấu cho tự do dân chủ của nước họ. Một lời tuyên bố có tính cách chung, không ám chỉ một nước nào nhưng chắc chắn đã làm cho nhiều nước e ngại dù chưa đến nổi lo ngại. Về vấn đề Việt Nam, ngày 21 tháng 3 vừa qua, Đại sứ Mỹ ở Hà Nội, Michael W. Marine, tiếp xúc với cộng đồng người Việt tại San Francisco,. Mục đích, theo tôi nghĩ, vưà là để chuẩn bị cho cuộc viếng thăm trong vài tháng tới của Phan văn Khải, Thủ Tướng của cộng sản Bắc Việt nhưng quan trọng hơn, vừa gián tiếp cho chúng ta biết những nét chính của chính sách của chính phủ Bush hiện thời.Một sự chuẩn bị như vậy, nói chung, trong cách thức làm việc của bộ ngoại giao các nước không có gì lấy làm lạ. Đối với nội vụ ở San Francisco, bộ Ngoai Giao Hoa Kỳ phải lo hơn nữa vì Khải muốn đến thăm toà Tổng lãnh sự của chế độ Hà Nội tại đây. Và ai cũng biết tại đây cũng như ở Vùng Vịnh (Bay area) bao quanh, cũng như ở quận Cam (Orange county) ở Nam California, nơi có người Việt đông nhất ở hải ngoại, nhiều thành phố không tiếp các « nhân vật » của cộng sản Việt Nam và cờ vàng ba sọc đỏ của quốc gia Việt Nam vẫn phất phới bay. Bộ Ngoại Giao dưới thời Colin Powell đã bực mình về chuyện này nhưng không làm gì được bởi tính cách tự trị nội bộ của các thành phố dựa trên nguyên tắc phân quyền rộng rãi của Liên bang Hoa Kỳ. Những rục rịch chuẩn bị của đại sứ Mỹ làm cho nhiều đồng bào ta nghĩ rằng ông Bush đã thiên về phía cộng sản Hà Nội. Sự lo ngại này có phần đúng trong lúc này, không phải vì ông Bush thiên về bên nào nhưng vì ông và chính phủ của ông làm việc theo một chương trình hành động trong đó, bên cạnh những vấn đề ưu tiên của Hoa Kỳ (bình định và tái thiết Irak, chống khủng bố trên nội địa Hoa Kỳ và trên toàn cầu, thực hiện lộ trình hoà bình ỏ Trung Cận Đông, ngăn chận chương trình chế tạo vũ khí nguyên tử của Iran, của Bắc Hàn, đẩy mạnh công cuộc củng cố chính quyền dân cử Afganistan và tái thiết nước này, vụ rút quân của Syrie khỏi Liban v.v.) còn có những vấn đề chiến lược từng vùng (Thái bình Dương, Âu Châu, Trung Cận Đông) hoặc toàn cầu, và cố nhiên trên tất cả, là các vấn đề thiết yếu nội bộ của siêu cường này như năng lượng, an sinh xã hội, thâm thủng ngân sách, thiếu thăng bằng gia tăng của cán cân ngoại thương, tỉ lệ khiếm dụng,nạn chuyển dịch xí nghiệp ra ngoại quốc, tỉ lệ tăng trưởng, tỉ lệ gia tăng vật giá v.v. Trong những vấn đề chiến lược từng vùng của thế giới, nổi bật đặc biệt trong những ngày gần đây là vấn đề Trung quốc, một vấn đề đã được đặt ra từ hơn nửa thế kỷ nay như đã ghi trên chứ không phải mới mẻ gì nhưng thái độ hung hăng của Bắc Kinh đối với Đài Loan vừa rồi tiếp theo những vụ dành đất, tranh dành các đảo ở biển Nam hải,dành hải phận ở Vịnh Bắc Việt, bắn chết ngư phủ Việt Nam làm cho tình hình trong vùng căng thẳng phần nào và đòi hỏi Hoa Kỳ biểu lộ thái độ một cách rõ rệt hơn. Hà Nội chỉ mong có vậy cũng như nhièu quốc gia ở Đông Á , nơi mà an ninh và hoà bình khó bảo đảm được nếu Hoa Kỳ đứng ngoài cuộc trong lúc hai chế độ cộng sãn Trung Hoa và Bắc Hàn đang còn ngự trị trên hai quốc gia này. Từ 1950, một số đầu óc ở Mỹ đã nghĩ đến việc biến ông Hồ Chí Minh thành một Tito ở Á Châu nhưng mọi người đã biết, ông Hồ không bao giờ là Tito mà ngược lại đã nhuộm đỏ cả Đông Dương, thi hành đúng chủ trương bành trướng của quan thầy Staline.. Giờ đây, Hoa Kỳ lại muốn dùng cộng sản Bắc Việt đóng vai trò của Tito một lần nữa, có lẽ vì không có ai khác để làm cái đê ở biên giới phiá Nam của Trung Hoa. Chúng ta phải công nhận và cầu mong Hoa Kỳ thực hiện được và tốt chiến lược bao vây (stratégie d’endiguement) đắp đê phòng lũ lụt này vì quyền lợi tối thượng của nước ta, một quyền lợi vượt lên trên tất cả những quyền lợi khác chừng nào nước láng giềng vĩ đại của chúng ta chưa được quản trị bởi một chế độ dân chủ, sống hoà điệu với cộng đồng thế giới. Vấn đề thực sự đặt ra cho chúng ta là làm sao chứng tỏ cho Hoa Kỳ hiểu rằng những người Việt không cộng sản, những người Việt yêu chuộng tự do, dân chủ, hiện ở trong nước hay ở ngoài nước, có đầy đủ khả năng, có đầy đủ quyết tâm , có đầy đủ lương tâm và đạo đức, có nhiều hơn tầng lớp lãnh đạo cộng sản hiện thời, tất cả những điều kiện cần thiết để xây dựng một vận hội mới dân chủ, tự do, hoà bình, tiến bộ cho nước Việt Nam và từ đấy, góp phần tích cực và hửu hiệu vào công cuộc bảo vệ an ninh và hoà bình cho Đông Nam Á Châu và Thái Bình Dương. Chúng ta phải cùng nhau cố gắng tạo nên một hính ảnh tốt đẹp của cộng đồng người Việt Nam để xóa bỏ một số định kiến không được tốt đẹp mà một phần dư luận ngoại quốc đang còn lưu giử từ trong dĩ vãng của chúng ta. Chúng ta phải tranh thủ không ngùng thiện cảm và lòng tin cậy của thế giới, điều kiện tiên quyết của sự hổ trợ dành cho cuộc tranh đấu cho dân chủ, tự do, cho dân quyền và nhân quyền của dân tộc Việt Nam.

        B- Những Triển Vọng

        Trước hết chúng ta, ở trong nước cũng như ở ngoài nước, cần phải ý thức một cách sâu sắc và rõ rệt rằng số phận của chúng ta, tương lai của đất nước chúng ta, của quê hương chúng ta, do chính chúng ta định đoạt. Sự hổ trợ của bạn bè năm châu bốn bể luôn luôn đến sau, để giúp đở và tiếp tay cho chúng ta chứ hoàn toàn không phải để thay thế chúng ta. Một thái độ ỷ lại vào người ngoài, vào nước ngoài chỉ mang lại sự khinh rẻ và từ chối của chính những người mà chúng ta chờ đợi họ giúp đỡ. Chúng ta cần mọi sự hổ trợ từ bên ngoài và chúng ta phải tỏ rõ xứng đáng với những sự hổ trợ ấy. Triển vọng xấu – Có nghĩa là tình trạng mà chúng ta đang chứng kiến ở quê nhà và tóm lược ở trên sẽ không thuyên giảm và còn có thể tệ hại hơn nữa. Về chính trị, vẫn độc đảng, độc tài, độc trị. Dân quyền và nhân quyền tiếp tục bị tước đoạt. Nạn tham nhũng càng ngày càng tồi tệ hơn. Bất công xã hội, cách biệt giàu nghèo, sẽ không giảm bớt mà còn gia tăng. Việt Nam vẫn ngồi lì ở vị trí áp chót nghèo nhất thế giới. Bức tranh đen tối này sẽ còn mãi nếu không xảy ra một sự thay đổi toàn diện, thể chế chính trị, cơ cấu công quyền, nhân sự lãnh đạo. Chờ đợi sự thức tỉnh của những người lãnh đạo hiện thời để thực hiện một cuộc cải cách sâu rộng sẽ là một mơ ước hão huyền. Đất nước sẽ tuột dần xuống vực thẳm. Nếu đồng bào không đứng lên đòi hỏi dân chủ hóa chế độ, trả lại quyền dân cho dân.

        Triển Vọng Khá Mơ Hồ: một số người trông đợi ở thời gian. Lớp lãnh đạo lớn tuổi hiện thời sẽ qui tiên. Lớp trẻ hay trung niên có tư tưởng rộng rải hơn và có nhiều cơ hội tiếp xúc với thế giới văn minh , có trình độ học vấn cao hơn, sẽ thay thế lớp lãnh đạo cũ và chế độ tự nó sẽ biến đổi. Lý luận này không phải là huyền ảo nhưng gần ba mươi năm nay, rồi hai mươi năm nay, rồi mười năm nay, lãnh đạo qui tiên thì có nhưng chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn ỳ ra đấy, tham nhũng, thối nát càng tiến mạnh, tiến nhanh! Triển Vọng Sáng Sủa: Chúng ta đang có một triển vọng sáng sủa hơn bao giờ cả vì tình hình trong nước cũng như tình hình thế giới đều thuận lợi cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam. Trong nước, thuận lợi vì trước hết, lòng dân đã chán nản ngoai trừ một thiểu số được hưởng đặc quyền, đặc lợi như đã trình bày. Những nhà trí thức, những cựu đảng viên cao cấp, những cựu tướng tá, nhiều nhà văn, nhà báo đến cả nông dân nhiều nơi, thị dân ở ngay Sài Gòn cũ cũng chỉ trích, đẳ kích Đảng, Nhà Nước không tiếc lời, thậm chí tấn công cảnh sát, công an, không còn sợ hải như trước nữa. Vụ cuối cùng,trong tuần vứa qua ngay tại đại lộ Trần Hưng Đạo, giữa Sài Gòn-Chợ Lớn, bốn trăm người qua đường đã tụ họp nhau đánh cảnh sát, đốt xe chỉ vì một vụ bắt phạt lưu thông không đáng kể, chẳng qua chỉ vì sự dồn nén uất hận lâu ngày. Cảnh sát phải rút lui. Tại tỉnh Thái Bình, nông dân cũng nổi lên đánh lại lực lượng công an trong một vụ phản kháng vì bị cướp đoạt đất đai. Vài vụ vừa kể chỉ để nói lên sự thay đổi từ tâm lý sợ hải phục tòng đến tâm lý đề kháng nhiều lúc dến bạo động. Và một khi dân chúng đã phẩn nộ tập họp thành đám đông và nhân viên công lực không giải tán được nữa thì lúc ấy chế độ không còn ai bảo vệ nữa. Các vụ giải thể các chế độ cộng sản từ Nga Sô đến các nước chư hầu ở Đông Âu, các vụ gọi là cách mạng hoa hồng, da cam , hoa tulipe mới đây tại các Cộng Hoà sô viết của Nga Sô cũ đều đã diễn tiến như vậy. Trước khi sụp đổ, Nga Sô, thành trì và mẫu quốc của Khối Cộng Sản quốc tế, hùng mạnh về quân sự tương đương với Hoa Kỳ, dày dặc một mạng lưới mật vụ, công an, cảnh sát bao trùm cả nước, đã tồn tại bảy-mươi-bốn năm và sản xuất ba thế hệ thanh niên quàng khăn đỏ, Nga Sô kiên cố và vĩ đại ấy mà Tây Âu khiếp sợ và Hoa Kỳ không dám thốt một lời cản ngăn khi Hồng quân tràn qua Hung-Gia-Lợi và Tiệp Khắc đè bẹp cuộc nổi dậy của hai dân tộc này, Nga Sô ấy đã tan biến trong khoảnh khắc khi dân chúng ở Moscou đứng lên đòi giải thể chế độ, khi họng súng của một chiến xa đi đầu thay vì nhả đạn vào đám đông, đã được cắm vào một cánh hoa hồng và những người lính tuổi hai mươi non trẻ đã ôm chầm những người phản kháng, nước mắt tự do tuôn rơi trên má. Các chế độ chư hầu đều cùng một số phận và cùng một lộ trình tương tự ngoại trừ ở Roumanie có máu đổ vì lãnh tụ độc tài cưỡng lại lòng dân nên bị xét xử lanh chóng để một trang sử được lật qua.

        Con đường đi tới tự do càng ngày càng mở rộng cho mọi dân tộc. Chỉ cần đứng dậy lên đường !

        LS. LÊ TRỌNG QUÁT
        Source: vietthuc
        SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
        HỒ VI LAO KỲ SINH

        Comment


        • #94
          Cộng Sản và Sự Tha Hóa Về Đạo Đức


          Vợ tôi sinh năm 1973. Hai năm sau thì miền Nam thua cuộc.

          Từ đó dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản, cả một dân tộc “điên cuồng” lao vào cuộc chiến tẩy rửa những tàn tích của phong kiến, thực dân, tư bản… để xây dựng thiên đường xã hội chủ nghĩa.

          Vợ tôi lớn lên cho tới ngày bỏ nước ra đi vào năm 1991 chưa bao giờ nghe được một bản tình ca, chưa bao giờ đọc được một tác phẩm văn chương ngọt ngào tình tự dân tộc, chưa bao giờ được chiêm ngưỡng những bức danh họa của những họa sĩ Việt Nam tài hoa.

          Thay vào đó, cũng như những thanh niên thiếu nữ cùng độ tuổi vợ tôi chỉ được nghe những bài hát cách mạng khát máu, gào thét tranh đấu; đọc toàn những thứ văn chương nồng nặc chủ nghĩa dối trá và chỉ nhìn thấy những tấm pano tuyên truyền với gươm dao, búa liềm, súng ống…

          Trong một môi trường như thế, người ta kỳ vọng gì ở một thế hệ thanh niên như thế hệ của vợ tôi? Chính vì thế tôi phải cám ơn ông anh vợ tôi hết sức vì đã mang vợ tôi từ bỏ quê hương trước khi những chấn thương về tinh thần mãi mãi ghi dấu trong tâm hồn người vợ yêu quý của tôi.

          Khi có điều kiện đọc và hiểu nhiều hơn về những giai đoạn vừa đau thương vừa huy hoàng của dân tộc, vợ tôi ngỡ ngàng nhận ra rằng đã có một nước Việt Nam hoàn toàn khác với cái nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Cái đất nước mà có thời vợ tôi cả tin rằng nó chính là “đỉnh cao của lương tri và trí tuệ của loài người”.

          Có lần vợ tôi bảo với tôi “Em không hiểu tại sao trong những hoàn cảnh đất nước chiến tranh đau thương như thế, đất nước mình lại có thể có những nhà văn, nhà thơ, họa sĩ cho ra đời những tác phẩm nghệ thuật bất hủ. Khi đọc những tác phẩm đó hay khi lắng nghe những bản tình ca trước năm 1975, em có thể thấy rằng tâm hồn con người lúc đó mượt mà, nhân hậu, lãng mạn và cuộc sống lúc đó sao vẫn tràn đầy hy vọng mặc dù chiến tranh khốc liệt. Mà sao bây giờ không thể tìm thấy những điều đó trong xã hội Việt Nam ngày hôm nay?”

          Tôi không biết phải trả lời vợ tôi làm sao. Nhưng tôi tin rằng khi vợ tôi đặt câu hỏi là cô nàng đã có câu trả lời. Ít ra vợ tôi cũng biết rằng đã có một nước Việt Nam hoàn toàn khác…

          Một trong những yếu tố đóng góp vào sự sụp đổ của chế độ cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu đó là sự thoái hóa về nhân tính và quan hệ giữa người với người. Các đảng Cộng sản tin rằng chính quyền phải giám sát và kiểm soát nhằm uốn nắn đạo đức của con người.

          Điều này được thực hiện bằng cách siết chặt việc kiểm duyệt báo chí, can thiệp vào đời sống riêng tư của công dân và dùng biện pháp phê bình trước tập thể để “đập nát” những biểu hiện mà chính quyền cho là tha hóa hay thiếu đạo đức. Sự thể hiện nhân cách có một không hai của từng cá nhân bị chính quyền cho là chủ nghĩa cá nhân và là một biểu hiện của thiếu đạo đức dưới chế độ cộng sản. Chủ nghĩa cá nhân vì thế phải bị chủ nghĩa tập thể tiêu diệt.

          Tuy nhiên khi chủ nghĩa cá nhân bị tiêu diệt thì con người cũng cùng lúc chấm dứt khả năng tư duy độc lập và sáng tạo. Chủ nghĩa tập thể tập trung quyền lực quản lý và kiểm soát vào một thiểu số quyền lực. Do bản chất tự tôn của con người, thiểu số quyền lực này áp đặt suy nghĩ, ý muốn, tư tưởng của mình lên xã hội, tự cho rằng cách hành xử và suy nghỉ của họ là chuẩn mực đạo đức cho tất cả mọi người khác.

          Chủ nghĩa tập thể hướng “tình yêu” của con người trong xã hội vào tập thể. Chính vì thế con người sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa không hướng cảm xúc của mình vào những cá nhân chung quanh, cuối cùng dẫn đến sự lạnh lùng, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại. Cái chết của một cá nhân, hay số phận bi thảm của một con người không có ý nghĩa gì đối với vận mệnh và tương lai chung của số đông. Sự hy sinh của một cá nhân cho lợi ích chung là vấn đề có tính đạo đức căn bản của xã hội xã hội chủ nghĩa. Vấn đề là không phải bao giờ cá nhân cũng bị hy sinh cho lợi ích chung của toàn xã hội.

          Đời sống tinh thần của một xã hội chỉ có thể phong phú, đa dạng nếu sự khác biệt của từng cá nhân được công nhận, được trân trọng và sự sáng tạo của từng cá nhân được khuyến khích. Bên cạnh chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa thực dụng của những người cộng sản đã nhìn đạo đức dưới khía cạnh đạo đức phải phục vụ một mục đích cụ thể của xã hội trong từng giai đoạn nhất định.

          Một phụ nữ Trung Quốc tên là Su Xiuwen, trong cơn giận dữ vì chiếc xe của mình bị đụng trầy sơn, đã lái chiếc xe lao thẳng vào một đám đông, giết chết một người và làm bị thương 12 người. Ông chồng của bà này, một đảng viên có máu mặt, tuyên bố ngay rằng: “Chuyện nhỏ, vứt ra đó 1 triệu đồng là êm hết”. Cha chồng của bà Su, một đảng viên cao cấp đứng hàng thứ 3 trong hệ thống đảng tại địa phương đã làm hết sức mình để bà Su không bị kêu án sát nhân.

          Tại Việt Nam, một nạn nhân bị tai nạn giao thông chưa biết chết sống thế nào không có ai đến giúp đỡ. Trong khi đó những kẻ khác tìm cách cướp tài sản của nạn nhân đang nằm trên vũng máu. Giới tài xế tại Việt Nam kháo với nhau rằng nếu đã đụng ai thì đụng cho chết hẳn đi chứ đừng để nạn nhân sống để khai trình bằng chứng và đòi bồi thường!

          Sống trong những xã hội như tại Trung Quốc và Việt Nam người ta có thể chứng kiến sự tha hóa của đạo đức ngày càng trở nên trầm trọng.

          Sự vô cảm của con người dưới chế độ cộng sản đã đến mức cực đoan khi chỉ cần một câu nói, một nụ cười, một cái đụng chạm trong giao thông cũng có thể làm cho người ta đâm chém nhau đến chết. Người ta cũng thấy rõ đây là những biểu hiện của một xã hội “bức xúc” không có chỗ để trút đi những uất ức, nặng nề của một đời sống bị kiềm kẹp.

          Tình trạng tẩm hóa chất độc vào thực phẩm tiêu thụ trên thị trường, quan chức đảng viên vi phạm nhân quyền, đất đai của nông dân bị cướp trắng trợn, những vụ sát nhân tàn bạo vượt mức tưởng tượng của con người, đều phản ảnh trình trạng coi tính mạng và phúc lợi của cá nhân người khác không có tí giá trị gì. Khi đảng bất ngờ phát động khẩu hiệu “làm giàu là vinh quang”, mọi người hiểu rằng có thể làm bất cứ điều gì để kiếm tiền, kiếm thật nhiều tiền để được xã hội tôn vinh.

          Li Qiming một sinh viên 22 tuổi của đại học Hebei, Trung Quốc lái xe khi đang say rượu và tông chết 1 sinh viên, làm bị thương một sinh viên khác. Li chẳng hề nhìn hai nạn nhân một lần và tỉnh bơ lái xe đến cư xá thăm người yêu.

          Khi cảnh sát và mọi người đến lập biên bản Li hăm dọa: “Bố thằng nào dám bắt tao. Bố tao là Li Gang đó chúng mày có biết không?” Li Gang là một cán bộ công an cao cấp tại địa phương. Li Qiming hiểu rằng cái thẻ đảng của bố hắn chính là giấy bảo chứng cho hắn có thể làm bất cứ điều gì mà không phải bị trừng phạt.

          Ở Việt Nam không hề thiếu những Li Qiming và Li Gang. Những đứa trẻ lớn lên được giáo dục về sự ưu tú của các đảng viên, tận mắt chứng kiến bố mẹ lợi dụng chức quyền để ăn hối lộ, để tham nhũng, để nói dối; tin rằng những chuyện như thế là bình thường, là “đạo đức xã hội chủ nghĩa”, là mọi việc đều có thể mua được bằng quyền lực, bằng tiền bạc, là chỉ có mình mới quan trọng còn tất cả mọi người khác đều không có giá trị gì!

          Sự tha hóa đạo đức của con người dưới chế độ cộng sản một mặt dẫn đến tình trạng trì trệ về sáng tạo trên các phương diện tri thức, nghệ thuật đã đành, mà còn là động lực chính đáng sau những tội ác kinh hoàng như pha bột hóa chất độc vào sữa trẻ em, dùng hóa chất độc để “sáng tạo” thịt heo thối thành thịt bò nhập từ Úc, Nhật, Hoa Kỳ.

          Sự đề cao chủ nghĩa tập thể, càn quét chủ nghĩa cá nhân đã để lại hậu quả là con người sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa tin rằng chính tập thể, chính xã hội là người phải chịu trách nhiệm chứ mỗi cá nhân không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào về hành vi của mình.

          Sự tha hóa đạo đức tại những quốc gia theo Khổng Giáo như Trung Quốc đã lên đến cực điểm khi mọi người không cười nhạo nếu một cô gái làm điếm, nhưng sẽ cười vào mặt cô ta nếu cô ta không làm ra tiền.

          Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa hay cộng sản, tư cách đạo dức của đảng viên được coi là chuẩn mực, hình mẫu để dân chúng theo gương. Cho nên không lấy gì làm lạ về sự vô cảm của dân chúng tại Trung Quốc và Việt Nam, coi tham ô hối lộ là cách kiếm tiền đương nhiên, coi sự lừa trên gạt dưới là tiêu chuẩn giao tiếp, coi pháp luật chỉ là đồ trang sức cho chế độ, coi các bản án hình sự như món hàng mua bán.

          Chính những đảng viên mà đảng Cộng sản kêu gọi mọi người trong xã hội noi gương chính là nguồn gốc của sự tha hóa nhân cách và trí tuệ của con người dưới các chế độ này.

          Cựu chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã từng nói rằng sở dĩ chế độ Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch sụp đổ vì các quan chức của chế độ này tha hóa quá sức. Người dân Trung Quốc vì thế đã quay sang ủng hộ Cộng sản. Ông Hồ Cẩm Đào kêu gọi tiêu diệt tham nhũng, cũng cố tư cách đạo đức đảng viên, để chấm dứt sự tha hóa về đạo đức của xã hội và giữ vững vị trí lãnh đạo của đảng Cộng sản.

          Các vị lãnh đạo đảng Cộng sản tại Việt Nam cũng đang kêu gào với những lời lẽ tương tự. Tuy nhiên lời kêu gọi của những quý vị này không khác gì những con chó sủa trăng.

          Ls Lê Đức Minh

          Tài liệu tham khảo

          - BBC Online, Power, corruption and the Communists

          - The Secret Writers, Corruption of Moral in China Communist

          - Rogue Goverrnment, Collectivism is Moral Decay, 11/11/2010

          - RT Question More,Communists urge revival of moral values in Russia, 25/01/20113

          - Pope Pointedly Blames Castro’s Communism For Cuba’s Moral Decay, Chicago Tribune, 23/01/1998

          Source: vietthuc
          SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
          HỒ VI LAO KỲ SINH

          Comment


          • #95
            Hôn...


            Hôn người nào đó gọi là HÔN NHÂN

            Hôn con vật nào đó gọi là HÔN THÚ

            Hôn Bà xả gọi là HÔN THÊ

            Hôn Ông xả gọi là HÔN PHU

            Hôn có giấy phép gọi là HÔN LỄ

            Mơ hôn được ai đó hôn gọi là HÔN ƯỚC

            Vừa hôn xong gọi là TÂN HÔN

            Hôn thêm cái nữa gọi là TÁI HÔN

            Hôn hai cái một lượt gọi là SONG HÔN

            Vừa hôn vừa quét dọn gọi là TẢO HÔN

            Hôn nhau trên cầu gọi là CẦU HÔN

            Hôn chẳng rời nhau gọi là ĐÍNH HÔN

            Hôn liên tù tì bảy phát gọi là THẤT HÔN

            Vừa hôn vừa ngửi gọi là HÔN HÍT

            Đang hôn nửa chừng bị xô ra gọi là LY HÔN

            Vừa hôn.. bị hôn trả lại cái hôn gọi là THOÁI HÔN

            Không cho hôn mà cứ hôn gọi là CƯỞNG HÔN

            Hôn phớt trên má gọi là hôn NGOẠI HÔN

            Hôn tập thể gọi là HÔN PHỐI

            Hẹn ngày sẽ hôn gọi là HỨA HÔN

            Vua hôn người ta gọi là HOÀNG HÔN

            Hôn từ giã gọi là TỪ HÔN

            Hôn con mà hôn trúng mẹ gọi là HÔN MÁ

            Rình rình hôn một cái gọi là HÔN THẦM

            Hôn ké gọi là PHỤ HÔN

            Chỗ nào cũng hôn gọi là HÔN BẠ

            Hôn anh lính gọi là HÔN QUÂN

            Khoái hôn gọi là HÔN MÊ

            Source:... chỉ là lưng tưng trên mạng...


            SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
            HỒ VI LAO KỲ SINH

            Comment


            • #96
              Tại Sao ĐỪNG NGHE HỌ NÓI MÀ NHÌN HỌ LÀM?...


              Luẩn quẩn nghĩ chơi chơi, tự dưng nghiệm ra câu nói của Tổng thống Thiệu là có tính quy luật (*) chứ chẳng chơi.

              Ổng biểu “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm.“

              Khi câu này có tính quy luật, điều đó có nghĩa là nó áp dụng cho tất mọi người cộng sản, chứ ko riêng gì cộng sản xấu hay cộng sản tốt.

              Nói cách khác, có thể là “bạn A tuy cộng sản nhưng chơi được,” nhưng do tính quy luật của câu nói trên, vẫn cần phải đừng nghe những gì bạn A nói mà hãy nhìn kỹ những gì bạn A làm. (Mở ngoặc là tớ ko đánh động “cộng sản” với “đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam.” Có đảng viên không phải cộng sản và có cộng sản không phải đảng viên.)

              Anyway, thì trở lại với cái chân lý có tính quy luật. Lý do không thể nghe những gì cộng sản nói, mà phải nhìn kỹ những gì cộng sản làm, là vì như vầy:

              _ Cộng sản, mà nói như cộng sản, thì chơi với ai!?!? Cho nên lúc nói thì phải nói như … người bình thường, nghe thì thấy rất cởi mở, rất thoáng, rất hiện đại, rất dân chủ.

              _ Nhưng đến lúc làm, mà làm như người bình thường, thì không đi tù cũng mất chức. Cho nên lúc làm thì phải làm như … cộng sản.

              (*) Biết. Tớ biết cái trò gọi điều này điều kia là “có tính quy luật” là một trò chơi duy vật lịch sử kiểu Mác-xít.

              Source: VQHN blog
              SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
              HỒ VI LAO KỲ SINH

              Comment


              • #97
                Blogger Việt Nam ra tuyên bố chung


                Một nhóm hàng chục blogger Việt Nam ra tuyên bố chung yêu cầu Chính phủ Hà Nội phải sửa đổi pháp luật để chứng minh cam kết về nhân quyền.

                Việt Nam đang ứng cử để vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2014-2016.

                Nhóm tự gọi tên là Mạng lưới blogger Việt Nam trong tuyên bố hôm 18/7 viết với tư cách ứng cử viên, "Việt Nam phải chứng minh các cam kết của mình nhằm hợp tác với Hội đồng Nhân quyền và duy trì những chuẩn mực cao nhất trong việc xúc tiến và bảo vệ nhân quyền”.

                Họ nói rằng các nghĩa vụ về nhân quyền của Việt Nam phải được thực hiện ngay trong nội bộ đất nước và "nhân dân Việt Nam phải có quyền tự do tư tưởng và biểu đạt".

                Tuyên bố chung được những người khởi thảo gọi là Tuyên bố 258, theo Điều 258 Bộ Luật Hình sự, nói về Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

                Đây là tội danh mà Nhà nước Việt Nam đã dùng để điều tra và xét xử nhiều blogger viết bài chống đối chính quyền trong thời gian qua.

                Tuyên bố của các blogger "kêu gọi chính quyền Việt Nam và Hội đồng Nhân quyền xem xét lại Điều 258 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009".

                Nhiều blogger bị bắt

                Các tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế đã lên tiếng chỉ trích rằng Hà Nội đang tăng cường bắt bớ các chỉ trích gia, với con số blogger và nhà hoạt động trên mạng internet bị bắt trong năm nay lên tới hàng chục người.

                Tuyên bố 258 cũng cho biết trong tháng Năm 2013, "hai blogger đã bị tạm giữ ngay sau khi họ phân phát bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền và cảnh sát cáo buộc họ lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước”.

                "Chỉ vài tuần sau đó, hai blogger khác cũng bị tam giữ sau khi tham gia một cuộc dã ngoại để thảo luận về các nội dung của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền."

                "Gần đây nhất, trong tháng Năm và tháng Sáu 2013, Điều 258 đã được sử dụng để bắt blogger Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào và Đinh Nhật Uy vì đã thực hiện quyền tự do biểu đạt bằng các đăng tải các bài viết ôn hòa lên blog của họ."

                Tuyên bố của Mạng lưới blogger Việt Nam cho rằng các hành động trên của chính quyền đã vi phạm Điều 19 của Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền.

                "Để thành công trong việc ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền, chúng tôi tin rằng Việt Nam phải bãi bỏ hoặc sửa đổi điều 258 để đảm bảo rằng nhân dân Việt Nam được tự do để tự học hỏi về nhân quyền cũng như thúc đẩy nhân quyền," Tuyên bố 258 viết.

                Tuyên bố chung của Mạng lưới blogger Việt Nam khi công bố có gần 70 chữ ký, trong đó có những tên tuổi blogger được nhiều người biết đến như Huỳnh Ngọc Chênh, Phạm Đoan Trang, Phạm Toàn, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Huỳnh Thục Vy và J.B Nguyễn Hữu Vinh.

                Những người ký tên nói sẽ tiếp tục "xúc tiến và truyền đạt đến người dân Việt Nam về các quyền của họ bằng cách phân phối công khai bản Tuyên ngôn nhân quyền, tổ chức các diễn đàn công khai để thảo luận về nhân quyền ở Việt Nam và vận động cho những sự cải thiện cần thiết trong việc tôn trọng và bảo vệ nhân quyền".

                Họ cũng cam kết: "Tiếp tục giám sát, báo cáo và bình luận công khai về sự cải thiện, thụt lùi hay vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, tập trung vào vấn đề chính sách và thực thi chính sách ảnh hưởng đến nhân quyền do chính quyền Việt Nam tiến hành".

                Source: BBC
                SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                HỒ VI LAO KỲ SINH

                Comment


                • #98
                  Nói Chó Không Nghe...


                  Còn cả tiếng nữa trận banh Arsenal - VN mới khởi cuộc mà quán đã đủ mặt. Do cô vợ trẻ đã theo Hội Cổ động viên nên ông đại tá hưu cũng rời màn hình khổ lớn có K+ tới quán hò hét cùng bà con cho khí thế . Vui nhất cô Phượng cave, cười nói ríu rít khiến thằng Bảy xe ôm tò mò :

                  “ Ủa , sao hôm nay chị Phượng vui dữ vậy cà ?”


                  Cô Phượng cave dẩu mỏ không trả lời, gã K‎y Quèn đỡ lời :

                  “ Thì sắp coi trận cầu trăm tỷ ai không vui …”

                  Tivi bắt đầu chiếu sân Mỹ Đình dầy đặc người. Từ lúc này mặc mọi người cười nói ào ào, cô Phượng cave cứ dán chặt mắt vào màn hình làm thàng Bảy xe ôm lại thắc mắc :

                  “ Chưa đá mà chị Phượng đã bị hút hồn dữ vậy ?”

                  Cô Phượng cave bực dọc :

                  “ Kệ tao..ai muốn coi gì coi…”

                  Thằng Bảy xe ôm cười ré :

                  “ À phải rồi, chị Phượng tìm ông bồ Hànội ngồi trên khán đài danh dự chứ gì ?”

                  Cô Phượng cave trề môi :

                  “ Đoán vậy cũng đòi đoán…”

                  Lúc này cầu thủ Arsenal vào sân, anh nào anh ấy cao to, trắng trẻo, đẹp trai cô Phượng trợn mắt đến rách cả khóe làm thằng Bảy xe ôm cười ha hả :

                  “ Hiểu rồi…hiểu rồi…hóa ra chị Phượng ngắm mấy anh Asenal mắt xanh mũi lõ…”

                  Cô Phượng cave ngu‎yt dài :

                  “ Bô trai thế kia ai mà không ngắm !”

                  Mọi người bò ra cười . Còi khai cuộc nổi lên, đội VN cứ chạy nhắng, trong khi Arsenal như vừa đá vừa giỡn. Mới hơn 30 phút đội VN đã xơi 3 trứng , bất chợt gã Ky Quèn đứng dậy đi tới gần màn hình chắp tay vái lia lịa :

                  “ Con cắn rơm cắn cỏ lậy trời lậy Phật đại từ đại bi “vọp bẻ” hết mấy thằng Arsenal què lê què liệt cho đội VN thắng một quả lấy thành tích “ lập công dâng đảng”…”

                  Gã Ky Quèn vừa khấn xong, thằng Bảy xe ôm đã nhảy lên la toáng :

                  “ Vào rồi…vào rồi…”

                  Cô Phượng cave cau mày :

                  “ Đã vào đâu mà mày la ầm lên thế thằng xe ôm kia…”

                  Thằng Bảy xe ôm vỗ tay :

                  “ Tôi có nói đội VN đâu, tôi nói đội Petrolimex…”

                  Cô Phượng cave cáu kỉnh :

                  “ Đội Petrolimex là đội quỷ gì …”

                  Thằng Bảy xe ôm cười cùng cục :

                  “ Là đội xăng dầu chứ đội gì, nhân lúc người dân sơ hở mải coi đá banh , cầu thủ RON 92 phối hợp ăn ý với đồng đội RON 95 tăng tốc tung cú sút bất ngờ vào túi tiền người tiêu dùng , xăng mới tăng giá lên trên 25 ngàn/lít kìa…”

                  Ông Tư Gà nướng la lên :

                  “ Ủa sao báo hôm qua mới đăng chữ lớn “ Tạm thời giữ nguyên giá xăng dầu”, hôm nay đã tăng rồi. Sao nói láo dữ vậy ?”

                  Gã Ky‎ Quèn cười hề hề :

                  “ Nói vậy nhằm nhò gì ? Cha Nguyễn Đức Thắng - Vụ trưởng Vụ Thống kê giá còn nói đợt tăng giá xăng này không ảnh hưởng tới túi tiền người dân …he he…”

                  Chị Gái hủ tíu bức xúc :

                  “ Chèn ôi…nói vậy mà nghe được à ?”

                  Thằng Bảy xe ôm cười hô hố :

                  “ Nói vậy vẫn thua ông Thanh tra. Vừa rồi ổng tổng kết Bộ tài nguyên môi trường và Bộ nội vụ không có tham ô, tham nhũng…”

                  Cô Phượng cave vọt miệng chửi :

                  “ Con mẹ nó…thằng tài nguyên môi trường chuyên bán đất, thằng nội vụ chuyên bán chức . Nói tụi nó không tham ô , tham nhũng chó không nghe được…”

                  Ông đại tá hưu đập bàn quát :

                  “ Con Phượng cave láo, mày dám bảo lãnh đạo nói chó không nghe được…”

                  Cô Phượng cave cười ngỏn nghẻn :

                  “ Í chết quên, chó không nghe được, chỉ có chú Ba đại tá hưu nghe được…”

                  Cả quán lăn ra cười đúng vào lúc VN ăn 7 trứng.

                  Source: quechoa (blog nhattuan)
                  SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                  HỒ VI LAO KỲ SINH

                  Comment


                  • #99
                    Về Hưu...


                    Truyện xuất phát từ một buổi họp tổng kết sau 70 năm hoạt động của… cơ thể (chứ không phải của… cơ quan). Các bộ phận trong người lần lượt lên phát biểu.

                    Ðầu tiên là ‘đồng chí’ não bộ: "Tôi được sinh ra cùng lúc với con người và đóng một vai trò quan trọng. Tôi là cơ quan điều hành mọi hoạt động của con người và cho đến bây giờ tôi vẫn hoạt động tốt. Tôi xin được tiếp tục phục vụ cách mạng".

                    Kế đến là ‘đồng chí’ tim: "Tôi cũng được sinh ra cùng lúc với con người, tôi giữ một nhiệm vụ cũng không kém phần quan trọng. Tôi giúp việc tuần hoàn máu để nuôi sống cơ thể và các bộ phận khác. Ðến nay, tôi vẫn hoạt động tốt, tôi xin tiếp tục được cống hiến".

                    Sau khi các bộ phận khác cũng lần lượt lên phát biểu, hội nghị rơi vào yên lặng. Thế rồi có một giọng nói yếu ớt phát ra từ phía bên dưới: "Xin thưa các đồng chí, tôi cũng được sinh ra cùng với con người nhưng tới năm 20 tuổi tôi mới được làm việc. Công việc của tôi rất là vất vả và nặng nhọc, phải làm việc trong đường hầm tăm tối, ẩm ướt và trơn trợt. Cho nên, bây giờ tôi không còn khả năng để phục vụ nữa, tôi xin… VỀ HƯU!”.

                    Các bộ phận khác nghe thế vội phản đối, có đồng chí đập bàn nói: "Ai? Có ngon thì ngóc đầu đứng dậy nói ‘nớn’ xem ‘lào’? ‘Nàm’ việc mới có 20 năm mà đã đòi về hưu? Thế ‘nà’ thế ‘lào’?"

                    Giọng nói yếu ớt ấy lại vang lên: "Xin lỗi các anh, nếu em có thể ngóc lên được thì em xin về hưu để làm gì!"

                    Bộ phận này ngày nay còn được gọi nôm na là… trên bảo dưới không nghe! (Mạn phép trích dẫn lời cựu Thủ tướng Phan Văn Khải khi phê bình nhiều địa phương không tuân theo sự chỉ đạo của trung ương).
                    SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                    HỒ VI LAO KỲ SINH

                    Comment


                    • Di Chúc Của Nhà Triệu Phú


                      Ba mươi năm trước đây tại thủ đô Washington, D.C., vợ của một nhà doanh nhân đã bỏ rơi chiếc ví của cô ấy tại bệnh viện trong một đêm mùa đông. Nhà doanh nhân này rất lo lắng và quay lại bệnh viện để tìm ngay trong đêm đó, bởi vì trong chiếc ví không chỉ chứa $100,000 mà còn có cả các tài liệu marketing rất quan trọng.

                      Khi người doanh nhân vội vã tới bệnh viện, ông ta nhìn thấy một cô gái nhỏ nhắn nằm ngay dưới chân bức tường hành lang, đang run lên vì lạnh, và trong tay cô gái đó có chính xác chiếc ví mà vợ ông đã bị mất.

                      Cô gái tên là Hiada, cô tới bệnh viện để đưa người mẹ đang bị ốm tới khám bác sĩ. Người mẹ và cô con gái, hai người đang dựa vào nhau để sống, họ rất nghèo, họ bán mọi thứ đáng giá và gom góp chỉ vừa đủ số tiền để nhập viện và ở bệnh viện trong một đêm. Không có tiền, họ sẽ bị đuổi ra khỏi bệnh viện vào ngày tiếp theo.

                      Đêm đó, Hiada đã bị bỏ lại bơ vơ trong hành lang của bệnh viện. Cô ấy cầu nguyện xin Chúa nhân từ cứu giúp và hy vọng sẽ gặp được một quý nhân nào đó sẽ cứu giúp được mẹ cô. Đột nhiên, một người phụ nữ đi từ trên hàng lang xuống và đã đánh rơi chiếc ví mà không hề để ý và vội vã đi qua, có lẽ bởi vì cô ấy đang phải mang một thứ gì đó trên tay. Hiada là người duy nhất ở hành lang lúc đó, cô đã tới và nhặt chiếc ví lên. Khi cô chạy tới sau cánh cửa phía sau người đàn bà kia, thì bà ấy đã ở trên ô tô.

                      Hiada quay trở lại phòng bệnh viện. Khi mở chiếc ví ra, cả hai mẹ con đều sock vì số tiền quá lớn. Họ đều ngay lập tức nghĩ rằng số tiền kia sẽ có thể giúp mẹ cô ấy chữa bệnh. Tuy nhiên, người mẹ đã nói với Hiada quay lại hành lang và đợi người đánh rơi kia quay lại để tìm.

                      Bất chấp mọi nỗ lực giúp đỡ cứu chữa của nhà doanh nhân, mẹ của Hiada đã ra đi và để người con gái nhỏ ở lại một mình. Sau đó,nhà doanh nhân đã giúp đỡ cô con gái nhỏ bé kia, người đã mất đi cả gia đình. Người mẹ và cô con gái không chỉ giúp người doanh nhân lấy lại $100,000, mà quan trọng hơn là những tài liệu marketing đã giúp nhà doanh nhân về sau thành công hơn bao giờ hết và trở thành một nhà triệu phú chỉ sau đó không lâu

                      Sau khi tốt nghiệp đại học, Hiada,( với sự giúp đỡ của nhà doanh nhân), cô đã trợ giúp cai quản việc kinh doanh của nhà triệu phú. Mặc dù nhà triệu phú không bao giờ bổ nhiệm cô vào một vị trí nào thực sự, nhưng trải qua rất nhiều thời gian thử thách và học tập, những kinh nghiệm thông thái của nhà triệu phú đã ảnh hưởng tới cô, giúp cô trở thành một nữ doanh nhân thực sự.

                      Vào những năm sau này, ông đã tham vấn Hiada rất nhiều ý kiến giải quyết cho rất nhiều vấn đề gặp phải. Khi mà ông sắp xa rời thế giới, ông đã để lại những dòng đầy từ bi:
                      “Trước khi tôi biết Hiada và mẹ cô ấy tôi đã thực sự mất hết tiền, nhưng khi tôi đứng trước bà mẹ và cô con gái, người đã tìm thấy một số tiền rất lớn của tôi khi mà họ đang trong cảnh bệnh tật và nghèo đói nhưng vẫn không màng tới số tiền của tôi, tôi nhận ra rằng họ mới là những người giàu nhất. Họ đã giữ được những tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của con người mà một người doanh nhân như tôi còn thiếu. Tiền của tôi có được phần lớn là do những trò tiểu xảo và tranh nhau với người khác. Đó là những người mà họ làm cho tôi hiểu được tài sản quan trọng nhất trong cuộc đời là giá trị đạo đức của họ. Tôi cứu giúp Hiada không chỉ vì trả ơn hay vì sự cảm thông. Mà là vì tôi thấy cô ấy như một hình mẫu chuẩn mực của một con người.

                      Khi cô ấy ở bên cạnh tôi, tôi sẽ luôn nhớ rõ rằng tại bất kỳ thời điểm nào cái gì tôi nên làm, cái gì không, tôi nên kiếm tiền thế nào, tôi không nên kiếm thế nào. Đó là lý do cơ bản cho sự thịnh vượng trong kinh doanh của tôi sau này và khi tôi đã trở thành nhà triệu phú. Sau khi tôi chết, hàng triệu đô la của tôi sẽ kế thừa lại hết cho Hiada. Đó không chỉ là để cho mà nó sẽ mang lại thành công hơn và thịnh vượng hơn cho việc kinh doanh sau này. Tôi tin chắc rằng người con trai thông minh của tôi sẽ hiểu được những suy nghĩ của cha mình.”

                      Khi người con trai của nhà triệu phú đi du học trở về, anh đã đọc rất kỹ bức thư của cha và ngay lập tức ký các giấy tờ chuyển nhượng mà không một chút đắn đo gì : “Tôi đồng ý để Hiada thừa kế toàn bộ tài sản của cha tôi. Tôi chỉ có một đề nghị rằng Hiada sẽ trở thành vợ của tôi.”

                      Sau khi đọc xong và nhìn thấy chữ ký của người con trai nhà triệu phú, Hiada đã nghĩ rất nhanh và đã ký vào: “Tôi xin nhận mọi tài sản thừa kế từ thế hệ trước, bao gồm cả người con trai của ông”.

                      Source: chanhkien
                      SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                      HỒ VI LAO KỲ SINH

                      Comment


                      • Giấy Phép... "TỰ THIÊU"


                        Sáng nay tiết trời Sàigòn thật lạ : gió lành lạnh,trời âm u như mùa thu Hànội. Vậy nhưng đừng tưởng cô Phượng cave sẽ hát ư ử :” Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi…trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi…”. Ngược lại cô cười hắc hắc coi thằng Bảy xe ôm diễn tấu hài :
                        “Này bà con ơi…tôi ra đây có phải xưng danh không nhỉ ?”

                        Lập tức gã Ký Quèn lên tiếng :
                        “ Không xưng danh ai biết ai là ai ?”

                        Thằng Bảy xe ôm ỏn ẻn:
                        “ Vậy thì tôi xin thưa…tôi tên Ba, đại tá hưu đây…”

                        Cũng may ông đại tá hưu vắng mặt nên thằng Bảy xe ôm tha hồ bốc phét. Nó kể cách nay 10 năm đại tá hưu mua căn nhà xập xệ trong xóm , bà con qua lại cứ lắc đầu :” rõ khổ, đại tá hưu mà ở cái nhà thua thằng xe ôm”. Ông đại tá hưu thì cứ phân bua :” tôi về với nhân dân…tôi về với nhân dân…”. Thế rồi ông sống khép kín cùng cô vợ trẻ mới ngoài hai mươi, bình dị như bà con lối xóm, chỉ khác cứ vào ngày Quốc khánh , Quốc tế lao động…độc trọi có mỗi nhà ông treo quốc kỳ, còn cả xóm cứ tảng lờ như không. Rồi cũng chỉ được vài năm , thấy “xa rời quần chúng” quá ông cũng dẹp luôn.

                        Thế rồi như có cây đũa thần gõ vào người , chỉ sau bốn năm, ông đại tá hưu bỗng biến thành người khác. Ong nhậu tối ngày, mặt mũi đỏ ké, cười nói oang oang , bặm trợn chứ chẳng khép nép hiền lành . Kỳ lạ hơn, chẳng hiểu tiền đâu ra, ông cho đập nhà cũ, xây lên 4 tầng lầu cao chót vót . Ngày lễ tết không treo cờ thì đã đành, thỉnh thoảng từ đám nhậu ồn ào bên nhà ông vẳng sang, tiếng ông oang oang :

                        "Từ nay tao đéo sợ thằng nào. Bí thơ, Chủ tịch chẳng là con cặc gì , thằng nào cũng “ăn hết”, cứ gì tao …"

                        Thế rồi cất nhà xong, ông khuân về ùn ùn nào ti vi LCD khổ lớn, nào máy lạnh hai cục, nào xa lông, sập gụ, tủ gương…toàn hàng cao cấp , ba thứ đồ second hand, ông bán tuốt luốt. Cô vợ trẻ cũng tân trang triệt để, tóc nhuộm hoe hoe,môi xăm đỏ chót, xe Nouvo trắng đen, đập hộp, Nokia xịn , ví Louis Vuitton, giày Gucci…tóm lại toàn hàng hiệu. Sống thượng lưu vậy nhưng ông rất hoà mình với quần chúng, dàn nhạc Mỹ 15 ngàn USD chơi toàn…cải lương, vọng cổ, dứt khoát không mở ba thứ nhạc tây lai căng, giật cục. Rồi quỹ xoá đói giảm nghèo ông đóng góp gấp chục người thường , giả tỷ hạng nghèo như bà Năm củ cải góp 3 ngàn thì ông xoẹt luôn ra tờ 5 chục, cười hà hà : "Tôi vốn từ nhân dân lao động mà ra, giờ lại về với nhân dân lao động".

                        “Diễn” tới đây, thằng Bảy xe ôm hỏi :
                        “ Đố biết sao ông đại tá hưu giàu nhanh vậy ?”

                        Chị Gái hủ tíu :
                        “ Chắc ổng trúng số quá…”

                        Gã Ký Quèn trề môi :
                        “ Số đâu mà trúng. Chắc chắn hồi đương chức chả “thụt két” gửi nhà băng nước ngoài, mấy năm rồi nghe ngóng, giờ thấy “êm”, hạ cánh an toàn mới rút ra xài.”

                        Mọi người ồn ào cãi nhau bất chợt cô Phượng cave hắng giọng :
                        “ Kìa…chú Ba tới kìa…”

                        Thằng Bảy xe ôm nín bặt, chạy vội về bàn ngoáy ngoáy ly càphê đá vẻ chăm chú lắm làm cả quán cười rộ. Ông đại tá hưu hất hàm :
                        “ Chuyện gì cười dữ vậy…”

                        Cô Phượng cave lấp liếm :
                        “À…chuyện “ngân hàng bò” tối qua tivi mới đưa, giờ chiếu lại kìa…”

                        Ông đại tá hưu gật gật :
                        “ Phải rồi…phải rồi…đó là chủ trương lớn của đảng giúp đồng bào miền núi tiến kịp miền xuôi…”

                        Thằng Bảy xe ôm thắc mắc :
                        “ Miền núi lấy đâu ra ruộng mà tặng bò ?”

                        Gã Ky Quèn chen ngang :
                        “Ơ cái thằng ngu… tặng bò cho bà con không dùng cày thì thịt bán cho nhà hàng chớ sao ?”

                        Ông Tư Gà nướng càm ràm :
                        “Tao thấy miền núi họ nuôi dê nhiều lắm…sao đảng nhà nước không lập “ ngân hàng dê” ?”

                        Thằng Bảy xe ôm cười hô hố :
                        “ Nếu lập ngân hàng dê chị Phượng cúng hẳn một “sư phụ” cỡ cụ …”

                        Cô Phượng cave rút guốc ném vào mặt thằng Bảy xe ôm làm nó la oai oái. Ông đại tá hưu đập bàn :
                        “ Tụi bay toàn bàn chuyện tào lao…”

                        Gã Ky Quèn cao giọng :
                        “ Không bàn chuyện tào lao thì bàn chuyện gì ? À thôi phải rồi bàn chuyện người có công với cách mạng ở Lâm Đồng tự thiêu vì cưỡng chế oan …”

                        Ông đại tá hưu đập bàn :
                        “ Xuyên tạc…người có công với cách mạng là vốn qu‎ý của đảng , được đãi ngộ xứng đáng làm gì có chuyện tự thiêu ?”

                        Gã Ky Quèn cãi :
                        “ Ủa vậy chú Ba không biết, mới sáng nay cô con gái người tự thiêu tên Kiều mang bát nhang và di ảnh cha tới Văn phòng chính phủ khiếu kiện kìa…”


                        Nói rồi gã Ky Quèn rút ngay máy hình chụp trên mạng cô Kiều ôm hình cha làm ông đại tá hưu ắng cổ không cãi , đâm nổi sùng :
                        “ Sao không làm đơn ra xã, ra huyện ? Ai cho phép tự thiêu ?”

                        Cô Phượng cave tròn mắt :
                        “ Ủa ! Tự thiêu cũng phải xin phép hả chú Ba ? Vậy cơ quan nào cấp giấy phép tự thiêu. Chắc đảng bộ xã quá…”

                        Cả quán cười ồ. Ông đại tá hưu mặt đỏ lựng.

                        Source: quechoa (Blog nhattuan)
                        SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                        HỒ VI LAO KỲ SINH

                        Comment


                        • Tội Nghiệp: Cộng Sản Việt Nam Mơ Được Ngang Hàng với Thái Lan!!!


                          Chỉ có cách này thôi!!!
                          SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                          HỒ VI LAO KỲ SINH

                          Comment


                          • Cuộc Thập Tự Chinh Tuyệt Thực Của Một Blogger VN


                            Cuộc đấu tranh trong lao tù của Điếu Cày, vì những bạn tù khác

                            Khi tôi viết câu chuyện này thì đã là ngày thứ 38 Điếu Cày tuyệt thực. Thông tin về việc blogger nổi tiếng nhất Việt Nam đã từ chối đồ ăn kể từ ngày 20-6 đã rò rỉ từ nhà tù nơi ông bị giam giữ, căn cứ vào một bản án được tạo dựng ra là ông tuyên truyền chống phá Nhà nước. Nhà bất đồng chính kiến 61 tuổi này muốn phản đối việc nhà tù ngược đãi những tù nhân không chịu nhận tội.

                            Tôi chưa bao giờ gặp Điếu Cày. Khi ông mới bị bắt đi tù vào năm 2008, tôi vẫn là một phóng viên lớn lên trong những năm tháng Việt Nam tăng trưởng mạnh nhờ đổi mới, và tôi hầu như không quan tâm đến chính trị. Điếu Cày thì ở thế hệ đủ già để nhớ về cuộc chiến tranh chống Mỹ và những ngày gian khó tiếp sau đó.

                            Việc làm của blogger Điếu Cày đã mở ra một cánh cửa cho tôi. Nó cho thấy blog đáp ứng nhu cầu của độc giả – nhu cầu được có thông tin chân thực, tức là không phải thứ thông tin được định hướng và bóp méo bởi hệ thống báo chí quốc doanh phục vụ lợi ích của chế độ và Đảng Cộng sản cầm quyền.

                            Tôi không phải người duy nhất nghĩ như vậy: Cả một thế hệ blogger đã nhìn vào Điếu Cày như một blogger nói lên sự thật trước chính quyền. Những gì tôi biết về ông và kể lại ở dưới đây là tôi được nghe từ các bạn bè của ông.

                            Tên thật của ông là Nguyễn Văn Hải, nhưng dần dần người ta biết đến ông với tên gọi dân dã là Điếu Cày. Ông lớn lên ở Hải Phòng, thành phố cảng cách Hà Nội khoảng 100 km về phía đông, và ông đi bộ đội, chiến đấu ở Sư đoàn 3 Sao Vàng thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tôi đoán chắc Điếu Cày đang ở trong quân ngũ khi kháng chiến chống Mỹ chưa kết thúc. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, ông ở tuổi 22-23.

                            Người lính trẻ hẳn đã thấy đất phương Nam phù hợp với ông hơn. Khi giải ngũ, ông quyết định ở lại miền Nam. Vào những ngày đó người miền Bắc mà đi kinh doanh, buôn bán là chuyện hiếm lắm, nhưng Điếu Cày đã mở quán ở TP.HCM. Ông còn buôn bán thiết bị máy ảnh và cho thuê căn hộ. Ông nhanh chóng khá giả và có quan hệ rộng rãi. Bạn bè của Điếu Cày đánh giá ông là người cởi mở, nhiệt tình, duyên dáng và có sức thu hút, có thể thân thiết gần gũi với giới văn nghệ sĩ, trí thức cũng như tán chuyện với sinh viên hay dân nghèo.

                            Cho đến năm 2005, buổi bình minh của blog ở Việt Nam. Một dịch vụ mạng xã hội mới, Yahoo 360°, đã mang lại một cảm giác hoàn toàn khác. Lần đầu tiên trong lịch sử, bất kỳ ai có kết nối với Internet đều có thể đăng bài lên một diễn đàn, nơi họ có thể tự do trao đổi quan điểm – một sự tự do chưa từng có. Blog bùng nổ. Cho đến năm 2007, có một số blog bàn về các vấn đề chính trị, đặc biệt chú ý đến căng thẳng đang leo thang giữa Việt Nam và Trung Quốc.

                            Điếu Cày nổi lên như là blogger nổi tiếng nhất trong các blogger chính trị. Ông đăng bài và ảnh nói về đời sống người dân. Với một chiếc laptop và máy ảnh, ông đi khắp nơi, trò chuyện với những người nghèo, yếu thế. Ông phỏng vấn nông dân mất đất, phỏng vấn những cô gái làm nghề khâu giày xuất khẩu trong những nhà máy bóc lột, những công nhân sống với mức thu nhập không đầy 4500 VND/ngày. Ông còn điều tra về một thảm hoạ xây dựng, và vạch ra những dấu hiệu tham nhũng mà có thể đã là nguyên nhân đưa đến cái chết của hơn 50 công nhân.

                            Ông đăng trên blog của mình một câu chuyện đầy châm biếm, kể về vụ ông chống lại một đảng viên cộng sản khi người này muốn lấn chiếm một trong các căn hộ của ông. Đơn khiếu nại của ông bị bác. Tệ hơn nữa, ông bị phạt vì tội “gây rối trật tự công cộng”, và bài viết của ông về công bằng xã hội cũng như hệ thống toà án hủ bại đã đưa đến một kết cục đen tối hơn.

                            Khi số người đọc blog của ông tăng dần lên cũng là khi Điếu Cày thu hút sự chú ý của nhà nước. Công an đã bắt đầu để mắt đến ông. Điếu Cày không nản lòng. Ông cùng một vài người bạn lập ra Câu lạc bộ Nhà báo Tự do (CLB NBTD) vào tháng 9/2007. Tất nhiên tổ chức này hoàn toàn không được cấp phép và do đó về mặt kỹ thuật là bất hợp pháp.

                            Ba tháng sau, CLB NBTD đã sẵn sàng, khi mà những cuộc biểu tình chống các yêu sách quá đáng của Trung Quốc trên Biển Đông bắt đầu nổ ra vào ba chủ nhật liên tiếp ở Hà Nội và TP.HCM. Tin ảnh và bài được đăng ra bên ngoài, thông qua báo chí nước ngoài ở Việt Nam. Điếu Cày nổi bật trong các cuộc biểu tình, như là một viên nam châm thu hút những người trẻ tuổi đến gần để nghe ông nói chuyện.

                            Tại cuộc biểu tình thứ hai vào ngày 16/12, khi những người tham gia đã giải tán, blogger nổi tiếng Điếu Cày bị công an chặn lại. “Này”, một người đi ngang qua, trông thấy thế bèn kêu lên, “Sao bắt người ta?”. “Trộm”, một viên công an đáp. “Buôn ma tuý”, một công an khác nói. Điếu Cày bị thẩm vấn vài giờ, không phải về ma tuý hay trộm cắp gì mà về các cuộc biểu tình, sau đó ông được thả.

                            Chủ nhật tiếp sau đó, tuần thứ ba biểu tình chống Trung Quốc trái phép, Điếu Cày bị bắt nhanh chóng. Lần này ông bị giữ tới hai ngày và kể từ đó trở đi, bị công an giám sát chặt chẽ. Chính quyền bắt đầu dùng đến kho vũ khí là trấn áp không ra mặt. Công việc làm ăn của Điếu Cày bị “người lạ” phá phách. Khách tìm đến quán café của ông thường bị xua đi chỗ khác, không cho đậu xe. Khách thuê căn hộ của ông cũng bị sách nhiễu, phải đi. Thanh tra vào cuộc, cán bộ đòi Điếu Cày phải trình ra những hợp đồng cho thuê nhà ký từ 10 năm trước đó.

                            Điếu Cày còn có lần bị tông xe trong một vụ tai nạn đáng ngờ. Ông cũng thường xuyên bị triệu tập lên đồn công an để trả lời thẩm vấn. Có những lần ông bị tra hỏi từ 8h sáng đến khuya về các hoạt động của ông và của bạn bè trong CLB NBTD.

                            Điếu Cày không chịu nhượng bộ. Trên mạng, ông vẫn tiếp tục ghi lại những câu chuyện kiểu Kafka mà cuộc đời ông đã gặp phải. Rồi vào tháng 3/2008, ông nói với bạn bè (nhưng không báo với công an) rằng ông muốn nghỉ ngơi, và ông trốn khỏi TP.HCM. Việc Điếu Cày biến mất đã đưa đến cả một cuộc săn tìm ông cho đến ngày 19/4, khi ông bị “bắt khẩn cấp” (theo thông tin từ phía công an) tại một quán café Internet ở Đà Lạt, thành phố nằm trên núi, ở phía đông bắc TP.HCM.

                            Vài ngày sau, ông bị khám nhà. Công an cố tìm bằng chứng về “các hoạt động chống phá Nhà nước” nhưng không tìm được gì.Tuy nhiên, gia đình và bè bạn ông không thở phào được bao lâu. Điếu Cày bị kết tội trốn thuế. Trong khi đang giam giữ ông, thực ra, công an đã gài sẵn một cái bẫy từ nhiều tháng trước đó khi họ ra lệnh cho cơ quan thuế địa phương không nhận tiền thuế nộp quá hạn, từ chủ cho thuê nhà cũng như từ người thuê nhà.

                            Các luật sư tình nguyện làm đại diện cho Điếu Cày đều không được phép gặp ông, cũng không được biết sớm ngày xét xử ông. Họ không được trưng ra các bằng chứng cho thấy ông đã bị bẫy. Vào tháng 9/2008, blogger chính trị nổi tiếng nhất Việt Nam bị Toà án Nhân dân TP.HCM kết án tù.

                            Tuy nhiên chính quyền chưa dừng ở đó. Một ngày trước khi Điếu Cày mãn hạn tù 2 năm rưỡi vì tội trốn thuế, một thành viên khác của CLB NBTD, AnhBaSG, cũng bị bắt giam. Lệnh tha Điếu Cày bị huỷ. Ông bị giam tiếp dưới một tội danh mới: “tuyên truyền chống nhà nước”. Mãi cho đến gần hai năm sau đó, vào ngày 24/9/2012, ông mới “được” xét xử cùng với AnhBaSG và thành viên thứ ba của CLB NBTD, Tạ Phong Tần.

                            Thời gian trước phiên toà, không gian blog ở Việt Nam ì xèo căm phẫn. Hàng nghìn người ký tên vào một “thư ngỏ” trên mạng, gửi Chủ tịch nước, đòi “trả tự do cho Điếu Cày”. Các tổ chức nhân quyền quốc tế cũng gửi đề nghị của họ. Truyền thông của Đảng Cộng sản đánh lại, tấn công cá nhân Điếu Cày và các “blogger chống phá nhà nước” nói chung. Hàng chục blogger đổ về TP.HCM, có người đi tàu 36 tiếng từ Hà Nội vào.

                            Phiên toà trên danh nghĩa là công khai, như luật pháp Việt Nam đòi hỏi, nhưng phòng xử đầy nghẹt công an. Những người ủng hộ cho bị cáo bị công an đánh rất dữ. Bạn bè, đồng nghiệp và những người yêu mến Điếu Cày tìm cách tham dự phiên toà đều bị chặn và sách nhiễu, áo phông của họ, có dòng chữ “Tự do cho Điếu Cày – Tự do cho người yêu nước” bị lột. Những người chống cự thì bị lôi đến đồn công an khu vực để thẩm vấn. Công an phá sóng điện thoại và quấy nhiễu những người tụ tập gần phiên toà, tịch thu điện thoại cùng máy ảnh của họ. Đến cả vợ cũ và con trai của Điếu Cày cũng không được vào phòng xử.

                            Một bản án được tuyên chỉ sau ba tiếng. AnhBaSG đã xin nhận tội vì hành vi viết blog và hứa cắt đứt mọi quan hệ với các phần tử phản động. Ông bị án bốn năm tù. Điếu Cày bị kết thêm một án tù 12 năm. Tạ Phong Tần cũng không chịu ăn năn như thế. Bà bị kêu án 10 năm tù.

                            Ba tháng sau, phiên toà phúc thẩm đã tuyên y án đối với ba blogger. Tuy nhiên, trái ngược với hy vọng của chế độ, bản án không doạ được các nhà bất đồng chính kiến trên mạng của Việt Nam. Cảm xúc chủ đạo được thể hiện trong các diễn đàn trên mạng là giận dữ, ví dụ người ta nói rằng chính quyền phạt tội tự do ngôn luận còn nặng hơn tội giết người.

                            Các hình phạt mà chính quyền Hà Nội đưa ra và việc thêm một vài blogger nổi bật bị bắt hồi mùa xuân vừa qua đã không ngăn được việc các blogger tiếp tục viết. Ngược lại, với mỗi một blogger bị đàn áp phải im tiếng thì lại có vài người khác đứng lên thế chỗ. Truyền thông của Đảng và Nhà nước cho rằng blogger chính trị là đội quân tiên phong phá hoại, nhằm thực hiện một âm mưu quốc tế chống lại chính quyền – lời buộc tội này nghe ngày càng rỗng tuếch.

                            Hàng nghìn người Việt Nam trẻ tuổi vỡ mộng – những người vẫn đăng bài và bình luận thường xuyên trên các blog và trang Fabebook đối lập – đều tin rằng dân chủ hoá là một quá trình tất yếu. Họ tin là tất cả những gì cần thiết là làm sao để có đủ người nhìn ra sự giả trá của nhà nước độc đảng sau cách mạng. Cuộc chiến sẽ còn tiếp tục.

                            (Tác giả Pham Đoan Trang là phóng viên, blogger ở Việt Nam).

                            Nguồn: Asia Sentinel/ DTD
                            SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                            HỒ VI LAO KỲ SINH

                            Comment


                            • Kệ Cha Con Em Chúng Nó...


                              Sau mấy ngày mưa, hôm nay Sàigòn hửng nắng., ban ngày có hơi nóng nhưng tối đến mát mẻ. Chập tối, ông đại tá hưu bước vào quán vui vẻ :

                              “ Mở tivi …mở tivi coi đồng chí Vương Nghị, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Trung Quốc sang thăm Việt Nam…”

                              Bà con trong quán đang coi phim Hàn quốc đành chuyển sang coi thời sự. Bất thợt thằng Bảy xe ôm la lên :

                              “ Í mèn ôi…đồng chí Bộ trưởng Trung Quốc mặt cứ lầm lầm như…chó ăn vụng bột, còn đồng chí Bộ trưởng ta lại cứ cười nịnh là sao ?”

                              Ông đại tá hưu đập bàn :

                              “ Thằng Bảy xe ôm kia…sao mày dám ví đồng chí Vương Nghị là chó ăn vụng bột hả ? Tao kêu cảnh sát còng tay mày giờ ?”

                              Gã Ký‎ Quèn nhảy vào can :

                              “ Chú Ba chấp làm gì thằng Bảy xe ôm. Nhưng xin hỏi chú Ba tại sao đồng chí Nghị chỉ đến chào Thủ tướng với Tổng Bí thơ thôi, không đến chào Chủ tịch nước ?”

                              Cô Phượng cave cười ngỏn nghẻn :

                              “ Hỏi vậy cũng hỏi. Tôi nghe anh cán bộ Hànội nói ông Trương Tấn Sang sang Mỹ dám bác bỏ đường lưỡi bò chín đoạn nên Tàu nó giận, nó không thèm tới chào chớ sao ?”

                              Gã Ký Quèn reo lên :

                              “ Nó làm vậy khác gì chia rẽ đồng chí Chủ tịch nước với Thủ tướng, Tổng Bí thơ.. Cái này mới đich thực là phân hóa nội bộ theo kiểu đồng chí Nguyễn Minh Triết hồi sang thăm Mỹ đấy ạ ..”

                              Lúc này ông Tư Gà nướng mới lên tiếng :

                              | “ Gái góa lo chuyện trào đình. Tụi bay phó thường dân biết gì xía dzô chuyện đảng, chính phủ. Nói chuyện điện mới tăng giá , xăng đang nhấp nhổm tăng theo kìa…”

                              Thằng Bảy xe ôm cười hề hề :

                              “Mới ngày 30 tháng 7 tivi đưa tin Thủ tướng chỉ đạo minh bạch giá than, điện, xăng dầu vậy mà chỉ hai ngày sau điện tăng lên 1.508đ một chữ rồi . Sao lẹ vậy cà ? Gía chả đừng chỉ đạo có khi chưa tăng ?”

                              Gã K‎y Quèn trợn mắt :

                              “ Mày nói gì kỳ ? Thủ tướng mà không chỉ đạo thì chỉ cái gì ? Chỉ..cu..í lộn…Củ Chi hả ?”

                              Cô Phượng cave cười hắc hắc :

                              “ Anh Ky‎ Quèn nói bậy có ngày công an còng tay . Đồng chí Thủ tướng chỉ đạo chớ không phải chỉ…cu. Như mới rồi tàu chìm ở Cần Giờ chết 6 mống đó, Thủ tướng chỉ đạo phải làm rõ và có biện pháp ngay…”

                              Chị Gái hủ tíu thắc mắc :

                              “ Vậy sao tiêm vắcxin viêm gan B con nít chết quá trời không thấy Thủ tướng chỉ đạo ?”

                              Cô Phượng cave cười cười :

                              “ Thì đã có Bộ Trưởng y tế Nguyễn Kim Tiến đang thắp nhang liệt sĩ ngay gần đó , Thủ tướng đâu cần chỉ đạo ?”

                              Ông Tư Gà nướng càm ràm :

                              “ Con nít mới sanh đâu quan trọng bằng hồn liệt sĩ. Bởi vậy Bộ trưởng Tiến thắp nhang xong không ghé thăm gia đình có con nít chết, phóng vội về Hànội phải rồi…”

                              Thằng Bảy xe ôm vọt miệng chửi :

                              “ ĐKM…con mụ bất nhơn này. Nếu là con cán bộ đảng mà chết vậy thì mụ xắn váy lên mà chạy ngược chạy xuôi cho coi…”

                              Gã K‎ý Quèn cười hơ hớ:

                              “ Ơ cái thằng này chẳng biết con mẹ gì . Khẩu hiệu của đảng là “ tất cả vì con em chúng ta” mà. Bởi vậy Chính phủ vừa ban hành Nghị định con công an được miễn học phí khi học ở các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập, ngoài công lập .”

                              Ông Tư Gà nướng kêu lên :

                              “ ủa…vậy còn con em công nhân và nông dân thì sao ?”

                              Cô Phượng cave cười ré :

                              “ Thì móc túi ra trả chớ sao ? Công an còn đảng còn mình mà ! Bởi vậy mới nói “ vì con em chúng ta…kệ cha con em chúng nó…”

                              Cả quán cười ầm ầm. Ông đại tá hưu chuồn về lúc nào không biết.

                              Source: Blog nhattuan
                              SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                              HỒ VI LAO KỲ SINH

                              Comment


                              • Hải chiến Trung - Nhật: Một cuộc giao tranh giả định


                                Bất luận những gì đang diễn ra trên mặt trận ngoại giao giữa Tokyo và Bắc Kinh, chẳng ai có thể tin rằng, quân đội hai nước đang sống nhàn hạ trong thời bình. Những kịch bản tấn công chắc chắn đã được soạn, những tình huống phản kích đã được bàn và những kế hoạch tác chiến cụ thể đã được duyệt xét…

                                Đầu tháng 2/2013, một khinh hạm lớp Giang Vệ (Jiangwei-II) đã khiêu khích thẳng thừng khi khóa radar nhằm vào khu trục hạm JS Yudachi (thuộc lớp Murasame) của Nhật. Hành động khóa radar tàu đối phương là gì, nếu không phải là một cảnh cáo mang tính đe dọa, rằng Giang Vệ nếu muốn có thể nhấn chìm JS Yudachi bất cứ lúc nào? Giả định rằng một cuộc giao tranh xảy ra giữa hai con tàu, bên nào sẽ thắng?

                                Viết trên chuyên san quân sự Nhật (jsw.newpacificinstitute.org), Kyle Mizokami đã đưa ra loạt tình huống tấn công và cách thức phản đòn giữa Giang Vệ và JS Yudachi để từ đó giúp hiểu rõ hơn, với nhiều chi tiết hơn, về một phần thực lực hải quân hai bên.

                                Do Giang Vệ khóa radar tàu Nhật nên họ sẽ bắn trước, với giả định hai tàu cách nhau 20km. Cần biết, Giang Vệ không phải hạng xoàng. Chiếc tàu chiến này mang theo 8 tên lửa chống hạm YJ-82 (Ưng kích), loại tương đương với tên lửa Exocet của Pháp (xét về kích cỡ, tầm bắn, sức công phá đầu đạn, hiệu năng chiến đấu…). Cần biết, Exocet từng mang lại chiến tích ít nhất hai lần. Lần đầu, trong cuộc chiến giữa Argentina và Anh năm 1982, chiếc máy bay Super Etendard của hải quân Argentina đã xịt một quả Exocet xuống con tàu chiến 4.800 tấn HSM Sheffield của Anh; lần thứ hai, năm 1987, một máy bay Iraq đã bắn hai quả Exocet xuống chiếc tàu chiến USS Stark 4.100 tấn của Mỹ (làm chết 37 thủy thủ). Với 4.500 tấn, JS Yudachi chắc chắn sẽ bị hỏng nặng nếu trúng YJ-82…

                                Đến đây, cần xem thêm một số tài liệu khác để biết thêm về tên lửa Ưng kích. Trình làng lần đầu tiên năm 1989 và được sản xuất bởi Hải Ưng cơ điện kỹ thuật nghiên cứu viện, YJ-82 có khả năng “trượt” sóng radar cùng hệ thống dẫn đường hiện đại. Theo thông tin từ Wikipedia, một quả YJ-82 có thể đạt tỷ lệ trúng mục tiêu đến 98%. Khi tiếp cận gần mục tiêu, hệ thống radar YJ-82 sẽ điều khiển nó bay lạng xuống thấp (cách mặt biển chỉ 5-7m) để hạn chế tối đa khả năng bị bắn chặn...

                                Hiệp một

                                Nếu ra đòn, Giang Vệ sẽ bắn một chùm 8 quả YJ-82 ở cự ly 20km. Bay với vận tốc Mach09 (95,5km/giờ), chùm YJ-82 sẽ đến JS Yudachi trong 65 giây. Giả định loạt YJ-82 được bắn cách nhau mỗi 4 giây thì quả YJ-82 thứ nhất sẽ đến mục tiêu JS Yudachi trong 65 giây và quả cuối cùng trong 97 giây… Trong khi đó, khi phát hiện bị tàu đối phương khóa radar, JS Yudachi lập tức báo động và kích hoạt hệ thống phòng không Evolved Sea Sparrow-ESSM (được trang bị 16 quả). Do Raytheon sản xuất với tư cách thầu chính, giá 800.000 USD/quả, bay với vận tốc Mach 4+ (4.248 km/giờ), 8 quả ESSM - trên lý thuyết - hoàn toàn có thể bắn cháy thành tro loạt YJ-82. Cùng lúc, JS Yudachi cũng xoay ngang để chĩa hai khẩu Phalanx CIWS để tiếp tục bắn chặn các đợt tấn công tiếp theo của Giang Vệ. Mỗi khẩu Phalanx CIWS sẽ có 12 giây để bắn tên lửa Trung Quốc… Vấn đề là bao nhiêu tên lửa Trung Quốc có thể bị bắn hạ?

                                Phỏng đoán một: YJ-82 đạt tỷ lệ thành công 75%. Một quả hỏng và 7 quả còn trên không trung.

                                Hai: Chùm ESSM thứ nhất (4 quả, bắn ra trong 20 giây; khả năng thành công 50%) - tức hạ được hai YJ-82, còn 5 trên không trung.

                                Ba: Chùm ESSM thứ hai (4 quả, bắn ra trong 20 giây; khả năng thành công 50%) - hạ được hai YJ-82, còn 3 trên không trung.

                                Bốn: Hai khẩu Phalanx CIWS mỗi khẩu hạ được một YJ-82. Tên lửa của Trung Quốc chỉ còn lại duy nhất một quả. Và có thể đây là quả trúng mục tiêu, với xác suất 50%...

                                Một lần nữa, cũng cần tham khảo thêm tư liệu để biết thêm về hệ thống phòng thủ Phalanx CIWS. Được trang bị cho hầu như mọi loại tàu chiến của Mỹ cũng như các nước đồng minh, Phalanx CIWS là hệ thống súng máy được điều khiển bằng radar, với hai ăngten dò tìm - xác định mục tiêu được hỗ trợ phân tích bằng máy tính. Có thể nói Phalanx CIWS, trị giá đến 35 triệu USD, là một trong những khẩu súng máy mạnh nhất thế giới hiện nay. Bắn với 3.000-4.500 viên/phút với vận tốc đạn 1.100m/giây (3.860km/giờ), Phalanx CIWS có thể tạo ra một hàng rào hiệu quả chặn đứng tên lửa đối phương, đặc biệt khi đầu đạn Phalanx CIWS, làm bằng tungsten, được thiết kế để chuyên công phá vỏ tên lửa…

                                Hiệp hai

                                Do là tàu mới nên JS Yudachi có thể không bị thiệt hại nặng khi trúng đòn. Giả dụ nó bị “ăn đạn” và 1/2 hệ thống chiến đấu bị hỏng, JS Yudachi chỉ còn 3 tên lửa chống hạm SSM-1B, có thể bay đến Giang Vệ trong 60 giây. Trong khi đó, Giang Vệ không được trang bị hệ thống phòng thủ tốt bằng JS Yudachi. Dàn tên lửa phòng thủ của Giang Vệ là 8 quả HQ-7 – vốn là phiên bản copy tên lửa Crotale của Pháp thời thập niên 60. Giang Vệ cũng không có hệ thống vũ khí giúp đánh “giáp lá cà” ở cự ly gần được điều khiển bằng radar như Phalanx CIWS.

                                Thay vào đó, nó có 4 cặp súng phòng không 37 li được đặt hai bên sườn (phía đầu tàu và cuối tàu). Vì vậy, nếu giáp chiến từ một mạn sườn, Giang Vệ chỉ có thể sử dụng hai khẩu. Với hệ thống phòng thủ như vậy, Giang Vệ có thể bắn hạ mấy tên lửa chống hạm SSM-1B của Nhật?

                                Phỏng đoán một: Giang Vệ sẽ tiếp đón bằng 8 tên lửa HQ-7 và có thể bắn hạ hai SSM-1B trong 40 giây.

                                Hai: Còn một SSM-1B cuối cùng? Nó có thể cũng bị hạ bằng hai khẩu 37 li của Giang Vệ hoặc nó có thể bay trúng mục tiêu.

                                Lúc này, cả hai tàu đều hết sạch tên lửa chống hạm. JS Yudachi bị hỏng nặng nhưng vẫn còn có thể hoạt động. Nếu thật sự quả SSM-1B trúng mục tiêu, chiếc Giang Vệ 2.200 tấn chắc chắn bị diệt. Cần biết, với 270kg, đầu đạn SSM-1B to hơn đầu đạn YJ-82 (lẫn Exocet) đến 50%. Trong khi đó, chiếc HMS Sheffield - to gấp đôi Giang Vệ - đã trở thành tàn phế chỉ với một quả Exocet. Nói cách khác, một quả SSM-1B hoàn toàn có thể biến thủy thủ đoàn Giang Vệ thành mồi cá mập!

                                Gút lại, nếu đụng độ, khó có thể nói JS Yudachi diệt được Giang Vệ hay không. Tuy nhiên, Giang Vệ có thể có một tỷ lệ thành công nhất định, dù không cao, với điều kiện nó buộc phải chiếm tiên cơ ra tay trước. Còn ngược lại, nó khó có thể không bị biến thành đống sắt vụn!

                                Cao Minh
                                Source: Petrotimes
                                SỰ THẾ NHƯỢC ĐẠI MỘNG
                                HỒ VI LAO KỲ SINH

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X