Chính Quyền Của dân, Do Dân, Vì Dân
(Government of the people, by the people, for the people)
(Government of the people, by the people, for the people)

Việt Bào Phạm Văn Bản
Nhớ lại 25 năm trước, khi tôi còn theo học ngành Chính Trị Khoa (Political Science) thuộc trường đại học Hoa Kỳ, và tôi thích đọc bài diễn văn Gettysburg ngắn gọn của ngày 19 tháng 11 năm 1863, trong buổi lễ khánh thành Nghĩa Trang Chiến Sĩ Quốc Gia Gettysburg thuộc Quận Adams ở Tiểu Bang Pennsylvania, của Tổng Thống Cộng Hòa thứ 16, Luật Sư Abraham Lincol (1809 -1865).
Trên bài diễn văn Tổng Thống Hoa Kỳ tuyên bố rằng, “Chính quyền là của dân, do dân và vì dân: - Government of the people, by the peole, for the peole...” là bài nói truyện trong thời Nội Chiến (Civil War) của nhà thiên tài lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ khi vừa xẩy ra trận đánh đẫm máu ở Gettysburg, và quân đội Liên Bang Miền Bắc (Union) đã giành được chiến thắng lừng danh và buộc Liên Minh Miền Nam (Confederacy) phải rút quân về Virginia.
I. Bài Học Chính Trị
Câu châm ngôn của Tổng Thống Abraham Clincol: “Chính quyền là của dân, do dân và vì dân,” và qua nội dung đã xác tín rằng chính quyền không phải là người làm nên lịch sử, mà chính dân tộc đã xây dựng, chiến đấu, bảo vệ đất nước và là người làm nên lịch sử... bởi thế chính quyền sinh ra là để phục vụ cho quê hương dân tộc, chứ không phải để độc tài thống trị, khai thác lợi ích và áp bức bóc lột dân chúng.
Từ đó câu nói của Tổng Thống Abraham Lincol có nhiều điểm tương đồng với câu danh ngôn của Mạnh Tử trong Nho Học mà chúng ta đã học: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh: – Dân là quý báu nhất, đất nước đứng sau, và vua thì xếp hàng cuối cùng,” mà chúng ta thường so sánh “Phép vua thua lệ làng!”
Nguyên văn bài diễn văn Gettysburg này: “Tám mươi bảy năm trước, ông cha ta đã tạo dựng trên lục địa này một quốc gia mới, được thai nghén trong Tự do, được cung hiến cho niềm xác tín rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng.
Ngày nay, chúng ta đang tiến hành một cuộc nội chiến vĩ đại nhằm thử thách quốc gia này, hoặc bất kỳ quốc gia nào khác, xem có đủ quyết tâm theo đuổi lý tưởng mà đất nước ấy đã được thai nghén và cung hiến cho. Chúng ta gặp nhau ở đây, trên bãi chiến trường này. Chúng ta đến đây để cung hiến một phần của mảnh đất, nơi yên nghỉ cuối cùng của những người đã hiến dâng mạng sống mình để tổ quốc được sống. Đó là điều chúng ta cần phải làm.
Song, trong một ý nghĩa lớn lao hơn, chúng ta không thể cung hiến, cũng không thể thánh hóa mảnh đất này. Những con người dũng cảm, đang sống hay đã chết, là những người từng chiến đấu ở đây, đã cung hiến nó, họ đã làm điều mà những con người yếu đuối như chúng ta không thể làm gì thêm hơn nữa. Thế giới sẽ không quan tâm, cũng chẳng nhớ đến những gì chúng ta đang nói ở đây, nhưng thế giới sẽ không bao giờ quên những gì họ đã làm tại đây.
Ấy là cho chúng ta, những người còn sống, cần cống hiến mình cho chính nghĩa vẫn chưa hoàn tất, mà những người từng chiến đấu ở đây đã cống hiến đời mình để sự thành công của chính nghĩa ấy mau đến. Ấy là cho chúng ta, những người đang hiện diện ở đây, tiếp nhận trọng trách đang đặt trước mặt chúng ta – chúng ta tiếp nhận từ những người đã khuất hiện đang được vinh danh lòng tận tuỵ với chính nghĩa mà họ đã cống hiến bằng chính sinh mạng mình – ngay tại đây, chúng ta quyết tâm không để họ chết vô ích – đất nước này, dưới sự quan phòng của Thiên Chúa, sẽ sản sinh một nền tự do mới – và chính quyền này của dân, do dân, vì dân sẽ không lụi tàn khỏi mặt đất”
(Four score and seven years ago our fathers brought forth on this continent, a new nation, conceived in Liberty, and dedicated to the proposition that all men are created equal.
Now we are engaged in a great civil war, testing whether that nation, or any nation so conceived and so dedicated, can long endure. We are met on a great battle-field of that war. We have come to dedicate a portion of that field, as a final resting place for those who here gave their lives that that nation might live. It is altogether fitting and proper that we should do this.
But, in a larger sense, we can not dedicate -- we can not consecrate -- we can not hallow -- this ground. The brave men, living and dead, who struggled here, have consecrated it, far above our poor power to add or detract. The world will little note, nor long remember what we say here, but it can never forget what they did here.
It is for us the living, rather, to be dedicated here to the unfinished work which they who fought here have thus far so nobly advanced. It is rather for us to be here dedicated to the great task remaining before us -- that from these honored dead we take increased devotion to that cause for which they gave the last full measure of devotion -- that we here highly resolve that these dead shall not have died in vain -- that this nation, under God, shall have a new birth of freedom -- and that government of the people, by the people, for the people, shall not perish from the earth).
Nhìn chung về bài diễn văn được viết dày công phu sáng tạo của Tổng Thống Luật Sư Abraham Lincoln được nhìn nhận là một trong những văn kiện hay nhất, thành thật và đạo đức nhất trong lịch sử của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và toàn thể nhân loại. Cũng theo bài diễn văn ngắn gọn này, giúp chúng ta đọc chưa hết ba phút đồng hồ, mà tác giả đã viện dẫn những nguyên tắc về bình đẳng được công bố trong bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, và khẳng định rằng cuộc Nội chiến là một sự đấu tranh không chỉ cho Liên Bang mà để “sản sinh ra một nền tự do dân chủ mới,” mang đến cho toàn dân một nguyên lý tổ chức, bao gồm “Thân Thương và Bình Đẳng” tuyệt vời!
Bắt đầu từ câu nói trở thành khuôn mẫu “Four score and seven years ago: Tám mươi bảy năm trước,” tác giả nơi đây đề cập đến những diễn biến trong công cuộc Cải Hóa Hoa Kỳ (The Reformation of America), và miêu tả buổi lễ tại Gettysburg là một cơ may không chỉ để cung hiến nghĩa trang, mà còn dâng hiến mạng sống cho công cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ tiền đồ “Chính quyền của dân, do dân, vì dân sẽ không tàn lụi khỏi địa cầu: Government of the people, by the people, for the people, shall not perish from the earth”
Cũng trong bài diễn văn lịch sử, tác giả nêu lên tầm quan trọng của cuộc chiến Gettysburg. Với những câu đơn giản, trong sáng, rõ ràng, Tổng Thống không nhắc đến công lao của riêng biệt của bất cứ chiến binh hay tướng lãnh nào, dù ở bên Liên Bang Miền Bắc hay Liên Minh Miền Nam, thắng trận hay thua cuộc... mà Tổng Thống vinh danh chung tất cả lý tưởng của những người hy sinh dù ở phe phái nào, và được kết hợp với các hành động sau đó đã giúp cho sự hàn gắn vết thương, giải quyết chiến tranh và đoàn kết toàn dân.
Người ta nhắc lại tầm nhìn của thiên tài Tổng Thống Cộng Hòa Abraham Lincoln là “một quốc gia mới, được thai nghén trong tự do,” mà quên đi quá khứ đau thương của cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ, và hàn gắn những vết thương chiến tranh, mà tạo dựng ra một quốc gia mới “cho dân và vì dân” để xứng đáng với sự hy sinh của những người đã chết dù trong cả hai bên!
II. Bài Học Đầu Hàng
Trong hàng trăm Viện Bảo Tàng về Nội Chiến Hoa Kỳ, thì Appomattox Court House ở Virginia là nơi nổi tiếng nhất vì dựng lên ngay tại một ngôi nhà mà Tướng Lee đã đến ký văn bản đầu hàng ngày 9 tháng 4 năm 1865.
Tại đây, câu chuyện về vị tướng của phe bại trận Miền Nam được viết ra và hình ảnh của ông được chiêm ngắm nhiều hơn của phe thắng trận Miền Bắc. Lịch sử ghi lại rằng vào sáng ngày 9 tháng 4 năm 1865, thủ đô Miền Nam là Richmond thất thủ, kỵ binh Miền Bắc cùng với 3 quân đoàn bộ binh vây hãm quân đội Miền Nam đang cùng đường tháo lui.
Bộ tham mưu của Tướng Lee đề nghị phân tán để giữ lực lượng đánh du kích, nhưng Tướng Lee quyết định đầu hàng. Vị danh tướng của Hoa Kỳ trải qua bao nhiêu chiến thắng nhưng sau cùng vì quân số và tiếp vận bị giới hạn nên đành bất lực và chấp nhận thua cuộc để đầu hàng. Với lá thư riêng ông gửi cho Tướng Grant Miền Bắc yêu cầu thu xếp một buổi họp mặt.
Ông Grant nhận được thư hết sức vui mừng và bỗng nhiên hết ngay cơn bệnh nhức đầu đã hành hạ ông trong nhiều ngày qua.
Vị tư lệnh Miền Bắc đã hạ lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô lễ với ông tướng tư lệnh và quân đội Miền Nam bại trận.
Trưa ngày lịch sử mồng 9 tháng 4, Tướng Lee và một đại tá tùy tùng cưỡi ngựa vượt qua phòng tuyến đến nơi hẹn ước. Hình ảnh ghi lại hai người đi qua đoàn quân nhạc của lính Miền Bắc thổi kèn chào đón. Các sĩ quan Miền Bắc đưa vị tư lệnh Miền Nam vào phòng họp. Nửa giờ sau Tướng Grant và đoàn tùy tùng Miền Bắc đến tham dự.
Cả hai vị tư lệnh đã biết nhau trong cuộc chiến tranh với Mễ Tây Cơ. Họ đã nhắc lại một thời bên nhau trong quá khứ. Tướng Grant sau này thú nhận là ông rất ngần ngại và thực sự hổ thẹn khi phải hỏi Tướng Lee nói về quyết định đầu hàng.
Theo quy luật chiến tranh thời đó, quân Miền Nam phải giải giới, tước bỏ khí giới quân trang và quân dụng. Tự do trở về quê cũ như các dân thường. Tướng Lee đồng ý nhưng chỉ đòi hỏi một điều sau cùng là yêu cầu cho binh sĩ của ông được giữ lại lừa ngựa, vì lính Miền Nam đem ngựa từ các nông trại của họ đi chiến đấu. Không phải ngựa của chính phủ cấp như lính Miền Bắc.
Tướng Grant thỏa hiệp là sẽ không sửa chữa chính thức trên văn bản, nhưng thực tế ra lệnh để lính Miền Nam đem lừa ngựa và binh khí về nhà mà xây dựng lại nông trại.
Sau này khi viết về văn bản đầu hàng, lịch sử ghi rằng đây là Thỏa Hiệp Của Những Người Quân Tử (The Gentlemen’s Agreement). Trên các Viện Bảo Tàng và đặc biệt là Appomattox Virginia có tranh sơn dầu hình Tướng Lee hiên ngang quắc thước trong bộ quân phục xanh dương, tóc và râu bạc, thể hiện hình ảnh Anh Hùng Hoa Kỳ không bị khuất phục dù thua trận.
Toàn thể Hiệp Chủng Quốc được hiểu rằng khi một người Hoa Kỳ bị sỉ nhục, thì dù là người Miền Nam hay Miền Bắc cũng vẫn là người Hoa Kỳ bị nhục mạ!
Ở đây là nơi lưu giữ hình ảnh của các anh hùng Miền Nam lẫn Miền Bắc. Ðặc biệt là hình ảnh của phe bại trận lại được lưu ý hơn cả phe chiến thắng. Lá cờ rách của miền Nam thua trận treo tại thủ đô Richmond bây giờ lại là bảo vật hào hùng của bảo tàng viện đầu hàng.
Và hình Tướng Lee cưỡi ngựa đi đến nơi họp mặt với đoàn quân nhạc miền Bắc chào đón. Hình Tướng Lee ký tên xong ra đi được sĩ quan và binh sĩ miền Bắc tiễn đưa và vẫy tay chào.
Bây giờ hình tượng của tướng Lee tràn ngập ở Miền Nam Virginia. Câu lạc bộ Lee, bảo tàng viện Lee, Lee High Way, Fort Lee và các doanh trại của quân đội liên bang mang tên vị tướng thua trận như là một biểu tượng anh hùng. Bởi vì người Hoa Kỳ đã thấm nhuần bài học rất Hiệp Chủng. Bài học của người lính dũng cảm cả hai phe trong chiến tranh và là người quân tử (Gentlemen) của thời hậu chiến.
Trong cuộc nội chiến tại Hiệp Chủng Quốc vào thế kỷ 19, sau cùng được thua thì cũng vẫn là nước Hoa Kỳ và người Hoa Kỳ.
Chiến thắng của Miền Bắc đặt dấu chấm hết cho Liên Minh Miền Nam cũng như chế độ nô lệ Hoa Kỳ, và làm tăng cường vai trò của chính phủ liên bang. Các vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế và chủng tộc của cuộc Nội chiến đã có vai trò quyết định trong việc định hình Thời kỳ Tái thiết, kéo dài đến năm 1877.
Sau bản tuyên ngôn giải phóng nô lệ của Lincoln, khoảng 190 nghìn dân nô lệ tình nguyện tòng quân, quân số của Miền Bắc lên gấp bội. Trong khi Miền Nam không dám cho nô lệ nhập ngũ vì sợ đi ngược lại chính sách nô lệ của mình. Quân da đen Miền Bắc chiến đấu anh dũng trong nhiều trận then chốt của cuộc Nội Chiến. Ngoài ra còn có dân di cư từ châu Âu cũng gia nhập quân Miền Bắc. Khoảng 23.4% quân Miền Bắc có gốc Đức, với gần 216 nghìn sinh ra tại Đức Quốc.
III. Bài Học Mộ Phần
Tại Hoa Kỳ có một Nghĩa Trang Quốc Gia nổi tiếng trên thế giới, và đó là Arlington. Ðây là nghĩa trang chính thức của Liên Bang Hoa Kỳ, của người Miền Bắc trong trận chiến Bắc Nam.
Sau cuộc Nội Chiến, các Tiểu Bang Miền Nam có hàng nghìn nghĩa trang lớn bé chôn cất tử sĩ của phe bại trận và trên đó luôn luôn có lá cờ gạch chéo đã một thời tung hoành trên chiến trường.
Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, hoàn toàn không có tù binh, không có học tập cải tạo, và ai về nhà đó, cùng nhau xây dựng lại gia đình và quê hương đất nước.
Nghĩa trang bên nào bên đó tự lo lấy, xấu đẹp tùy ý. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là ngay tại nghĩa trang quốc gia của phe Miền Bắc ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn cũng có một khu chôn cất các tử sĩ Miền Nam với tượng đài gọi là Tưởng Niệm Liên Minh Miền Nam (Confederate Memorial).
Cũng phải nói rằng, thực sự sau Nội Chiến, dư vị cay đắng giữa Nam Bắc Hoa Kỳ vẫn còn nhiều, dễ gì mà trút bỏ hận thù ngay sau khi hai bên chết cả gần một triệu người mà một số lớn đã giết nhau khi giáp mặt bằng súng gươm. Hai phe cùng đốt nhà cướp của, và cùng nhau tàn phá đô thị, làng mạc, ruộng vườn và nông trại... đôi khi có cả những hành động dã man như hãm hiếp phụ nữ và tàn sát trẻ em.
Cuộc chiến nào mà không có những lần quá độ!
Năm 1900 tức là gần 40 năm sau cuộc chiến, mở đầu cho giai đoạn hòa giải dân tộc và năm 1991 thì các liệt sĩ Miền Nam được cải táng đưa vào một khu đặc biệt trong nghĩa trang Arlington gọi là Confederate Section. Tổng cộng gần 500 mộ phần quây tròn chung quanh một tượng đài do nhà tạc tượng danh tiếng là điêu khắc gia Moses Ezekiel thực hiện.
Trên đỉnh của chân bệ hình vòng cung như nóc Tòa Quốc Hội là hình tượng cao 32 feet của một thiếu phụ tượng trưng cho miền Nam. Ðây là hình ảnh bà mẹ của phe bại trận đã có con trai hy sinh cho cuộc chiến. Phía dưới là bài thơ đại ý như sau:
“Ở đây chẳng có vinh quang hay tưởng lệ.
Ở đây chẳng phải binh đoàn hay cấp bậc.
Ở đây chẳng có tham vọng hay mưu cầu.
Ở đây chỉ đơn thuần là nhiệm vụ.
Những người nằm ở đây đã hiểu rõ
là họ trải qua gian khổ, đã hy sinh
đã liều thân và sau cùng đã chết.”
(There is no glory or honor here.
There is no army or rank here.
There is no ambition or pursuit here.
Here is simply duty.
Those who lie here know
that they have suffered, sacrificed
risked their lives and finally died).
Ðó là câu chuyện về các tử sĩ của phe thua trận tại Hoa Kỳ. Xem lại lịch sử, chiến cuộc Nam Bắc Hoa Kỳ trong 4 năm rất khốc liệt, máu lửa và ghê gớm vô cùng.Trong một thời gian ngắn các trận đánh dồn dập, các đô thị bốc cháy lửa cao ngút trời. Cũng tản cư, cũng loạn lạc và chiến tranh để lại các cánh đồng toàn xác chết trong những mặt trận giáp lá cà, đâm chém nhau mặt đối mặt.
Nhưng rồi vết thương nào cũng phải được hàn gắn. Hoa Kỳ đã có những bước ngoạn mục đầy màu sắc văn minh ngay từ khi chiến tranh chấm dứt để chấp nhận và tôn trọng người bại trận như những anh hùng.
VI. Kết Luận
Trong chiến tranh và hậu chiến luôn luôn cần có thiên tài lãnh đạo với các tướng lãnh quân tử. Và nhà lãnh đạo quân tử là phải biết xưng tụng các bậc anh hùng trong hàng ngũ kẻ thù, biết nâng người xuống ngựa và biết tôn trọng các tử sĩ của hàng ngũ đối nghịch, chớ không phải “ngụy quân ngụy quyền!” Và Hoa Kỳ ngày nay còn hùng mạnh bởi vì họ biết tôn trọng giá trị của phe đối nghịch.
Trước khi chết, Tổng Thống Abraham Lincoln đã nói: “Người ta có thể từ bỏ mọi thứ, nhưng không ai từ bỏ được lịch sử. Trước sau gì, lịch sử của bậc anh hùng sẽ phải được dựng lại ở chính nơi mà những con người vĩ đại đã ngã xuống.” (One can give up everything, but no one can give up history. Sooner or later, the history of heroes will have to be rebuilt in the very place where great men have fallen).
Ðó là bài học chiến tranh, giết người, đốt nhà, nồi da xáo thịt... và sau đó là hành sử của người chiến thắng biết tôn trọng giá trị của kẻ thù để đem lại bài học “Chính quyền là của dân, do dân và vì dân” tuyệt vời cho thế hệ tương lai tiếp nối tinh thần nhân bản này.
Việt Bào Phạm Văn Bản

