Tinh Thần Hợp Tác Trong Hợp Tác Xã và Xã Hội Dân Sự

Collapse
X

Tinh Thần Hợp Tác Trong Hợp Tác Xã và Xã Hội Dân Sự

Collapse
 
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts
  • Phạm Văn Bản
    Người Thân

    • May 2010
    • 579

    #1

    Tinh Thần Hợp Tác Trong Hợp Tác Xã và Xã Hội Dân Sự

    Tinh Thần Hợp Tác
    Trong Hợp Tác Xã và Xã Hội Dân Sự



    Việt Bào Phạm Văn Bản

    Con người đã phải trải qua thời đại sống lang thang trên những cánh đồng hoang vắng, hoặc sống cô đơn
    lạnh lẽo trong những hang động tối tăm, sâu thẳm của bao ngàn năm, trước khi loài người biết sống chung, biết lập gia đình, biết kết xã, biết dựng nước. Do đó từ xã hội đơn sơ với dăm ba người lẻ tẻ, cho tới lúc nhân loại đông đúc biết thành lập phố xá với sức chứa cả chục triệu dân, thì “kết xã” đã trở thành một tiến trình phát triển lịch sử con người.


    Như thế chúng ta thử tìm hiểu dân tộc Việt Nam ngày nay đang sống ở đâu, hoặc sống trong giai đoạn nào, để có thể tiến tới công trình xây dựng Xã Hội Dân Sự (Civic Society). Ngõ hầu giúp cho chúng ta thấy con đường đóng góp công đức của mình vào đại cuộc Giúp Dân Dựng Nước, trước thảm họa độc tài và nô lệ của chủ nghĩa Cộng Sản hiện nay.

    Thực tế Kết Xã của nhân loại đã tạo ra hai hệ thống xã hội công quyền và xã hội dân sự. Xã hội dân sự là nơi dưỡng dục nhân quyền, dân quyền và chính quyền để giúp cho mỗi người dân được hưởng sự tự do dân chủ, thịnh vượng phú cường vì con người phải được tự chủ để giúp họ sáng tạo và hợp tác với nhà cầm quyền, như Tự Do Cá Nhân (Personal Freedom).

    “Xã” được hiểu theo nghĩa rộng là tổ chức thân thiện của loài người, và theo nghĩa hẹp là một nhóm người có chung quyền lợi, hoặc đặc tính hợp lại thành một tổ chức được gọi là “Hội.” Cơ cấu xã hội tăng dần, từ tổ chức bộ lạc cho đến toàn cầu như ngày nay.

    Các bộ lạc phát triển thành làng, rồi liên kết các làng nông nghiệp để tạo ra quốc gia nông nghiệp. Và rồi xây dựng và phát triển các nước nông nghiệp trở thành đế quốc nông nghiệp trong Thời Đại Nông Nghiệp (Agricultural Age).

    Rồi khi con người tiến sang Thời Đại Công Nghiệp (Industrial Age), thì các miền hay tỉnh lớn có khả năng “tự trị” biến thành Tiểu Bang như trong Liên Bang Hoa Kỳ hay Úc Ðại Lợi, hoặc Tỉnh Bang ở Gia Nã Ðại, để nhằm mục đích là cùng hợp tác tranh đấu cho quyền lợi của các Công Dân trong Liên Bang hay Tỉnh Bang.

    I. Tiến Trình Xã Hội Dân Sự

    Càng ngày con người có thêm nhiều tổ chức sinh hoạt riêng, tuy nằm trong hệ thống công quyền, nhưng hoạt động lại không bị chính quyền chỉ huy chi phối, và được gọi là Xã Hội Dân Sự (Civic Society). Đang khi các tổ chức này lại bị chính quyền Cộng Sản độc tài chỉ đạo như tại Việt Nam, và đây cũng là sự sai lầm của chủ nghĩa dân túy hiện nay.

    Xã Hội Dân Sự cũng được gọi là xã hội tư, khi một nhóm người không liên quan đến chính quyền thành lập hội đoàn, đoàn thể. Sự hoạt động của “Hội” không gây nguy hại cho chính quyền, không tranh dành chức tước cầm quyền, không có mục đích xâm chiếm chức vụ, hay không điều hành chính quyền.

    Ngày trước, trong xã hội nông nghiệp chỉ có một cơ cấu tổ chức bao gồm cuộc sống của con người từ chính trị, văn hóa, quân sự, tôn giáo, y tế, giáo dục là thuộc triều đình. Nhưng qua thời gian dân số gia tăng, các lãnh vực của cuộc sống con người đã cần phải được chuyên môn hóa, tức là con người làm những nghề nghiệp khác biệt nhau, và những người nầy đã tạo ra những cơ cấu tổ chức – các giới – và trở thành một Xã Hội Dân Sự.

    Theo tiến trình xã hội chúng ta thấy từ thời đại bộ lạc đến nay lần lượt xuất hiện các giới, các xã hội như:

    - Trưởng bộ lạc phát triển thành lãnh chúa. Các lãnh chúa Châu Âu đã tạo ra giới đại diện dân tại Quốc Hội, chính trị gia trong đảng phái chính trị.

    - Tu sĩ, thầy pháp, thày cúng đã phát triển thành tôn giáo, tu hội, giáo hội.

    - Người buôn bán, trao đổi hàng hóa phát triển thành giới thương gia, tài chánh, kinh doanh tạo ra hợp tác xã, hiệp hội, công ty, xí nghiệp.

    - Người có cùng chung sở thích lập hội, câu lạc bộ, đoàn, nhóm và nhiều loại kết hợp mang cả hàng chục từ ngữ khác nhau để phân biệt nghề nghiệp, thể thao, giải trí, hoặc mưu tìm lợi ích chung của giới mình.

    II. Hợp Tác Xã Trên Thế Giới

    Hợp Tác Xã (Co-Operative) là xã hội hợp tác để hoạt động kinh tế, kinh doanh. Đặc điểm của hợp tác xã là không tìm kiếm lợi nhuận. Hoạt động chính của hợp tác xã lúc ban đầu là tiêu thụ.

    Những người tiêu thụ đoàn kết để giảm chi phí, tránh các giai đoạn trung gian, phân phối, hạ giá mua hàng hóa, bằng cách làm chủ cơ sở và hàng hóa do họ chung nhau tạo dựng, mua sắm, như:

    - Năm 1761 một nhóm thợ dệt Anh Quốc hợp nhau để mua chỉ dệt và bột mì. Họ lập bộ phận mua hàng hóa và phân phối đến thành viên.

    - Năm 1795, 1400 người ở Hull, Anh Quốc lập hợp tác xã nhà máy xay bột để đáp ứng nhu cầu của thành viên. Sự lợi ích của hợp tác xã tăng nhanh vào thập niên thứ ba của thế kỷ 19, đặc biệt ở những vùng công nghiệp tại Anh Quốc.

    Hợp tác xã đầu tiên là hợp tác xã tiêu thụ, về sau phát sinh ra hợp tác xã tiêu thụ và sản xuất. Hiện nay chúng ta thấy có nhiều hợp tác xã dịch vụ.

    - Hình thức hợp tác xã được cải tiến vào năm 1844, khi 28 thợ dệt nghèo ở Rochdale, Anh Quốc, thành lập hội tương trợ, được gọi là Hội Công Bằng Tiền Phong Rochdale (Rochdale Society of Equitable Pioneers). Với sáng kiến này hội lập tiệm bán tạp hóa, và mạo hiểm này thành công thịnh vượng.

    - Năm 1863 tại Anh Quốc có hơn 400 hợp tác xã theo kiểu mẫu của Hội Rochdale. Kể từ đó phong trào hợp tác xã tại nước Anh lớn mạnh và trở thành kiểu mẫu cho toàn thế giới.

    Đến giữa thế kỷ 20 đã có 2400 hợp tác xã các loại. Hợp tác xã bán sỉ là cơ quan phân phối lớn nhất ở Anh Quốc.

    - Đặc biệt tại Thụy Điển phong trào hợp tác xã thành công ở lãnh vực tiêu thụ cũng như phân phối sản phẩm công nghiệp, và là động lực của kinh tế nước nầy. Hợp tác xã ở nước này được gọi là Con Đường Trung Dung (The Middle Way) để phân biệt giữa những xí nghiệp do cá nhân làm chủ và các xí nghiệp của chính phủ.

    - Phong trào Hợp Tác Xã Tiêu Thụ (Consumer Cooperative) được thành lập tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 20. Kể từ năm 1920 hợp tác xã được áp dụng vào các lãnh vực như tiệm tạp hóa, bánh mì, tiệm ăn, nhà máy điện, bảo hiểm, ngân hàng và đã cạnh tranh thành công với các cơ sở kinh doanh tư. Hợp tác xã nông dân đã phát triển mạnh nhất trong vùng nông nghiệp của Hoa Kỳ.

    - Ngoài các hợp tác xã tiêu thụ, sản xuất chúng ta thấy hiện nay có các hợp tác tín dụng, hợp tác bảo hiểm, hợp tác y tế, mai táng là những hợp tác xã lớn tại Hoa Kỳ.

    - Liên Minh Hợp Tác Quốc Tế (International Cooperative Alliance, ICA) được thành lập năm 1895. Đến thập niên 1980 tổ chức nầy có 355 triệu thành viên và có tiếng nói ở Liên Hiệp Quốc.

    - Người Trung Hoa khi sang lập nghiệp ở xứ người, họ thành lập các Bang, như Bang Triều Châu, Bang Phúc Kiến... các bang này là “Xã Hội Dân Sự” hoạt động độc lập đối với chính quyền cũng như với dân bản xứ.

    Đọc trong quyển “Wake up and Dream,” xây dựng niềm tin và đạt tới đỉnh cao của danh vọng của một nữ nhân tài/ thiên tài, mà tôi ngưỡng mộ. Chuyện kể rằng Romana Acosta Banuelos lập gia đình năm 16 tuổi ở Mexico, khi được hai con thì cô phải ly dị. Trước nghịch cảnh gia đình tan vỡ, tương lai mờ mịt Romana thu xếp hành trang gia tài vào trong hai gói khăn nhỏ và bồng con vượt biên vào Texas, Hoa Kỳ tỵ nạn.

    Thoạt tiên Romana phải đi làm công cho một tiệm giặt ủi rẻ mạt với mức lương một dollar mỗi giờ. Khi dành dụm được ít mỹ kim, cô di chuyển về Los Angeles và làm đủ mọi thứ nghề.

    Thời gian sau Romana để dành được vài ngàn mỹ kim và hùn vốn với một người cô họ mở ra một tiệm, hai tiệm, ba tiệm… và cứ thế nhiều tiệm “Romana’s Mexican Food: Thực Phẩm Mễ Tây Cơ,” một hệ thống bán sỉ thực phẩm Mễ lớn nhất ở Hoa Kỳ, được điều khiển bởi hai phụ nữ và hàng trăm công nhân.

    Khi thành công về tài chánh và bảo đảm cuộc sống cho hai con, Romana quay về thực hiện giấc mơ của bà, bằng cách bà thành lập ngân hàng mang tên The Pan-American National Bank ở phía đông Los Angeles. Trải qua nhiều thử thách, ngân hàng này đã tích lũy số vốn và có trên 20 triệu Mỹ Kim.

    Romana đã không dừng ở đó, mà từ một chủ ngân hàng bà bước sang giữ chức vụ Tổng Trưởng Ngân Khố thứ 34 của Hoa Kỳ, là chức trách quan trọng của một siêu cường nguyên tử thế giới.

    Các xã hội sắc tộc nầy chú trọng đến buôn bán, do đó họ thành công và có truyền thống thương mãi cao hơn dân bản xứ. Từ đó họ vươn lên nắm quyền kiểm soát kinh tế, tài chánh của một số tỉnh hay quốc gia mà họ cư ngụ.

    III. Hợp Tác Xã Ðối Với Người Đông Dương

    Vào thập niên 1950, những năm đầu của nền Cộng Hòa Việt Nam ở Miền Nam, chính phủ khuyến khích, hỗ trợ việc thành lập các hợp tác xã nông dân.

    - Với truyền thống mỗi người một “con trâu cái cày” của nếp sống văn minh nông nghiệp, nên những người thợ may Đông Dương đã tranh nhau giảm giá công may áo quần tại các nước Tây phương, để xung phong làm việc rẻ hơn, cực nhọc hơn. Giá sinh hoạt càng ngày càng cao, nhưng tiền công may do người Đông Dương nhận may trong nhiều năm qua giảm dần, kể cả mặt hàng thời trang chỉ may trong nước.

    - Số người Đông Dương hành nghề đánh cá cũng đáng kể nhưng chưa xây dựng được hợp tác xã để nâng đỡ nhau.

    - Số người Việt Nam làm nghề móng tay (Nails) tại Hoa Kỳ thật nhiều, nhưng chỉ biết giảm giá để cạnh tranh, để tự giết nhau, chớ chưa biết phải tiến đến việc thành lập hợp tác xã, hay nghiệp đoàn để mà cùng nhau phát triển nghề nghiệp rộng lớn hơn.

    - Các hội nông gia Việt Nam xuất hiện trên đất Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi nhưng từ hiệp hội tương trợ như hiện nay tiến đến hợp tác sản xuất hay tiêu thụ đòi hỏi những người cùng chung nghề phải biết học hỏi các hợp tác xã ra đời gần hai thế kỷ qua, ngõ hầu mang lợi ích cho hội viên nói riêng, và cộng đồng người Việt nói chung.

    - Đối với các cộng đồng người Việt trên thế giới, dưới con mắt chính quyền Hoa Kỳ, Gia Nã Ðại, Úc Ðại Lợi, hay Anh Quốc, Pháp Quốc... thì chúng ta chỉ là những “xã hội dân sự” trong lãnh vực xã hội. Còn đối với chính trị, các cộng đồng sắc tộc chỉ là những nhóm áp lực (Pressure Group).

    Những công dân thuộc nhóm áp lực chỉ thi hành bổn phận chính trị bằng lá phiếu của mình, còn muốn tiến xa hơn thì phải gia nhập và hoạt động trong đảng chính trị (Political Party) của họ. Ngược lại, đối với người Việt Nam tỵ nạn chính trị nói chung thì mỗi người là một chiến sĩ chống cộng, hay là nhà cách mạng chính trị, và từ đó đã nảy sinh ra nhiều lãnh tụ cũng như nhiều tổ chức.

    Mặt khác, người ta lập ra tổ chức mà không cần trách nhiệm nuôi dưỡng mà để giặc tiếp tay tổ chức lãnh đạo giúp dùm.

    - Người Việt Nam đã sanh sống ở Châu Âu từ Đệ Nhất Thế Chiến (1914 - 1918) và được tăng thêm thời Đệ Nhị Thế Chiến (1939 - 1945), phần lớn là du học sinh Việt Nam ở lại Châu Âu lập nghiệp. Sau năm 1975 số người Việt Nam tỵ nạn tăng nhiều.

    Chắc chắn gần một trăm năm sống ở châu Âu người Việt Nam đã học hỏi được tinh thần hợp tác trong các xã hội dân sự và hợp tác xã để tạo thành bản chất. Hiện nay thế giới đã tiến đến công ty liên quốc, hệ thống toàn cầu, chúng ta cần thực tập tinh thần hợp tác qua hợp tác xã và công ty đúng nghĩa.

    Trong bài nhận xét giới đại doanh nhân (entrepreneur) người Úc Ðại Lợi đăng trên tờ The Courier Mail có đoạn kết như sau: “Những người định cư đầu tiên tại Australia đa số là tù nhân, họ không có bản chất (nature) đại doanh nhân, khác với những người da trắng định cư tại Hoa Kỳ, họ có bản chất đại doanh nhân. Và nước Úc Đại Lợi cần nhập cảnh di dân có bản chất đại doanh nhân để phát triển quốc gia: The first settlers in Australia were mostly prisoners, they did not have the nature of big businessmen, unlike the white people who settled in the United States, they had the nature of big businessmen. And Australia needs immigrants with the nature of big businessmen to develop the country.”

    IV. Tinh Thần Bất Hợp Tác

    Ở trong nước Việt Nam, vì kinh tế chỉ huy nên không thể có hợp tác xã, vì hợp tác xã là xã hội dân sự. Muốn thành công về hợp tác xã đòi hỏi dân trí và thể chế chính trị dân chủ, điều mà các nước độc tài cộng sản không có.

    Họ chỉ có khả năng “cộng khổ bất cộng lạc,” tức thời gian khổ sở trong rừng sâu thì “hạt muối cắn làm đôi,” nhưng khi có “chén đường” thì họ lại xơi một mình! Lịch sử của nhân loại và nhiều tổ chức cũng chứng minh điều này, vì thành phần lãnh đạo thiếu nhìn xa trông rộng của tinh thần hợp tác, cho nên đã tạo ra tinh thần bất hợp tác.

    Trong thời kỳ chống Pháp, đảng cộng sản ngoài miệng thì kêu gọi đoàn kết nhưng thực chất là bất hợp tác với các đảng chính trị quốc gia, cho tới sau năm 1975 thì bất hợp tác với người người miền Nam. Năm 1985 với chính sách đổi mới (sửa sai) người cộng sản lại bất hợp tác với các công ty quốc tế.

    Và đến nay sự tan rã trong nội bộ đảng càng ngày càng trầm trọng qua các sự chống đối của các “công thần” qua những vụ ám sát công khai và bí mật các người đang cầm quyền mà giới truyền thông đã phổ biến trong thời gian gần đây. Với truyền thống bất hợp tác, người cộng sản bằng mọi cách bám vào quyền lợi, kể cả việc bán đất bán biển của tổ tiên cho Trung Cộng.

    Họ đang tạo ra tinh trạng bất hợp tác với toàn dân, chia rẽ dân tộc qua danh xưng “Việt kiều” với “nhân dân” trong nước và với bộ máy cầm quyền độc tài hiện nay.

    V. Kết Luận

    Tóm lại, con đường phát triển quốc gia tùy thuộc vào trình độ văn minh, tinh thần hợp tác của dân tộc đó. Chắc chắn người Việt Nam với tinh thần tự do, hợp tác của cha ông như Hội Nghị Diên Hồng, chúng ta ứng dụng tinh thần hợp tác trong mọi lãnh vực để phát triển kinh doanh cũng như chính trị để tiến từ cơ cấu hợp tác làng xã đến hợp tác quốc gia quốc tế. Với tình nghĩa Đồng Bào trong Một Bọc Trăm Con của Học Thuyết Tiên Rồng chúng ta quyết tâm Giúp Dân Dựng Nước.


    Việt Bào Phạm Văn Bản


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...