NGƯỜI MỸ NHÌN LẠI CUỘC CHIẾN TRANH TRƯỚC ĐÂY – Khiet Nguyen

Collapse
X

NGƯỜI MỸ NHÌN LẠI CUỘC CHIẾN TRANH TRƯỚC ĐÂY – Khiet Nguyen

Collapse
 
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts
  • Nguyen Huu Thien
    Moderator

    • Jul 2014
    • 1213

    #1

    NGƯỜI MỸ NHÌN LẠI CUỘC CHIẾN TRANH TRƯỚC ĐÂY – Khiet Nguyen

    NGƯỜI MỸ NHÌN LẠI CUỘC CHIẾN TRANH TRƯỚC ĐÂY– Khiet Nguyen


    [


    (nguồn: FB Khiet Nguyen)

    Nhân ngày giỗ Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu, chúng tôi gửi đến các bạn một bài viết cũ. Chịu khó đọc hết bài này, các bạn sẽ hiểu được phần nào những gì đã xảy ra cách nay hơn 60 năm.

    LỜI MỞ ĐẦU

    Vào Tháng Tư Đen 2020, có một bạn thân người Mỹ gửi cho tôi một hồ sơ rất dài, hơn 80 trang. Đây không phải là một hồ sơ mật nhưng vì chỉ có tính cách nội bộ nên họ không phổ biến rộng rãi. Vì vậy nên mặc dù nó được đúc kết vào năm 2008 nhưng mãi hơn 10 năm sau thì anh bạn của tôi mới có được và chuyển ngay cho tôi.

    Hồ sơ này nói về việc tại sao cuộc chiến tranh chống cộng của họ tại Việt Nam đã không thành công ngay. Họ đã có một số nhận xét rất khách quan về người của họ, tuy không kết tội một ai nhưng có kết luận rằng nhiều người của họ đã có một số sai lầm. Họ cũng có nhắc đến một số nhân vật của Việt Nam Cộng Hoà, nhưng họ chú trọng đến sự việc liên quan chứ không phê bình hay nhận xét, dù tốt hay xấu. Vì thế nên tôi quyết định lược dịch tập hồ sơ này gửi đến các bạn.

    Ngoài ra, để giúp các bạn trẻ hiểu thêm về bối cảnh Việt Nam và Hoa Kỳ lúc bấy giờ, tôi có thêm vào một số dữ kiện mà nhiều hồ sơ khác có nói đến. Như thế, bài viết này không phải chỉ là bản lược dịch của tập hồ sơ mà anh bạn Mỹ nói trên đã chuyển cho tôi.

    PHẦN I

    Trong phần này, chúng tôi tóm lược những diễn biến trước cuộc đảo chánh ngày 1 tháng Mười Một 1963.

    Từ tháng Tám 1963, nói một cách chính xác hơn là vào Thứ Tư, ngày 26 tháng Tám, chính phủ Hoa Kỳ bắt đầu bàn thảo công khai về vai trò của Hoa Kỳ đối với việc nhóm Dương Văn Minh - Trần Văn Đôn - Mai Hữu Xuân âm mưu đảo chánh nhằm lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Các buổi họp này đều được tổ chức tại Toà Bạch Ốc. Lúc đầu, Tổng Thống John Kennedy giữ vị trí trung lập, chỉ có vai trò điều khiển nghị trình và đặt câu hỏi khi thật sự cần thiết. Càng về sau thì càng có nhiều nhân vật trọng yếu của Hoa Kỳ nghiêng về quyết định ủng hộ đám tướng lãnh đảo chánh nên Tổng Thống Kennedy nghiêng theo họ. Kể từ giai đoạn đó trở đi, các buổi họp chú tâm đến việc Hoa Kỳ làm thế nào để ủng hộ đám Minh - Xuân - Đôn đưa đến đảo chánh thành công.

    Mãi cho đến lúc đó, vẫn còn có sáu nhân vật hàng đầu công khai phản đối việc Hoa Kỳ ủng hộ đảo chánh và thậm chí có vị còn kịch liệt phản đối việc Hoa Kỳ không làm điều gì tích cực để phá vỡ âm mưu đảo chánh. Sáu nhân vật đó là Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson, Giám Đốc CIA John McCone, Ngoại Trưởng Dean Rusk, Tổng Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara, Tổng Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy, và Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Hoa Kỳ, Đại Tướng Maxwell Taylor. Trong hồ sơ có ghi rất rõ, xin tóm tắt như sau.

    Phó Tổng Thống Johnson và Tổng Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy cho rằng nên tiếp tục thuyết phục Tổng Thống Ngô Đình Diệm thực hiện cải tổ chính trị. Nếu không có kết quả thì sẽ dùng đến áp lực mà cách hay nhất là loại ông Ngô Đình Nhu khỏi chính trường. Theo họ, ông Nhu luôn chống lại các chủ trương cải tổ của Hoa Kỳ. Thứ Trưởng Ngoại Giao Đặc Trách Viễn Đông Sự Vụ Roger Hilsman ủng hộ ý kiến này.

    Giám Đốc CIA McCone thì căn cứ vào những báo cáo mâu thuẫn nhau của thuộc cấp từ Sài Gòn gửi về, tin rằng tình hình không đến độ cần đến đảo chánh.

    Ngoại Trưởng Rusk một mực quan niệm rằng ủng hộ đảo chánh là một thất sách, nếu có lợi cho Hoa Kỳ tại Việt Nam thì lại bất lợi cho Hoa Kỳ tại nhiều nơi trên thế giới.




    Từ trái, Ngoại trưởng Dean Rusk, TT John Kennedy, Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara

    Tổng Trưởng Quốc Phòng McNamara là người chống đảo chánh gay gắt nhất, và chống việc Hoa Kỳ ủng hộ đảo chánh gay gắt hơn. Ông nói rằng nếu đảo chánh để Hoa Kỳ có thể đẩy mạnh cuộc chiến tranh chống cộng tại Việt Nam thì Ông Diệm là người chống cộng tích cực hơn là đám tướng lãnh muốn lật đổ ông. Vì thế, McNamara chủ trương rằng nên bàn thảo về việc làm thế nào để cuộc chiến tranh chống cộng thành công sớm, thay vì bàn thảo việc làm thế nào để đảo chánh thành công.

    Đại Tướng Taylor trình bày rằng các cố vấn Hoa Kỳ tại Việt Nam vẫn tường trình rằng cuộc chiến tranh chống cộng tại Việt Nam vẫn đi theo chiều hướng tốt. Họ nhận xét rằng các cấp chỉ huy của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà vẫn hoàn thành nhiệm vụ đáng khen. Do đó, một cuộc đảo chánh nếu như xảy ra sẽ làm xáo trộn tình hình hơn là cải thiện tình hình, nói về mặt chiến tranh chống cộng sản.

    Hung hăng nhất trong đám chủ trương đảo chánh là Cố Vấn An Ninh Quốc Gia McGeorge Bundy. Bundy nói rằng "chúng ta không nên xúi người ta đảo chánh rồi lại không giúp sức để người ta đảo chánh thành công". (Như vậy, rõ ràng là Hoa Kỳ đã xúi đám Minh - Xuân - Đôn đảo chánh và Bundy chủ trương rằng Hoa Kỳ phải giúp đám tướng lãnh này đảo chánh thành công.) Hùa với Bundy có Thứ Trưởng Ngoại Giao George Ball, Thứ Trưởng Ngoại Giao Đặc Trách Chính Trị Averell Harriman và một số nhân viên cao cấp bên Ngoại Giao.

    Thấy tình hình như thế. Tổng Thống Kennedy mời Frederick Nolting đến dự một số trong những phiên họp kế tiếp. Ông Nolting trước đó là Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, vừa bị thay thế bởi Henry Cabot Lodge chỉ vì chủ trương chống đảo chánh. Nolting trình bày rất nhiều để đi đến kết luận rằng Hoa Kỳ phản bội Tổng Thống Diệm là một sai lầm lớn.

    Sau mấy phiên họp liên tiếp với những bàn thảo nhiều lúc đưa đến tranh luận, Tổng Thống Kennedy cảm thấy lo ngại về cán cân lực lượng bên Việt Nam. Đám Lodge và nhân viên CIA bên Sài Gòn tuy rằng liên tiếp báo cáo rằng "quân đội Việt Nam rất bất mãn chế độ Diệm" nhưng lại cũng báo cáo rằng hầu hết các tướng lãnh đều trung thành với Ngô Tổng Thống. Lúc đó, giữ chức vụ tư lệnh bốn quân đoàn là Tướng Đỗ Cao Trí, Tướng Nguyễn Khánh, Tướng Tôn Thất Đính, và Tướng Huỳnh Văn Cao. Chưa có một tướng nào tỏ ra thiếu trung thành với chế độ. Đám Bundy thấy vậy, lập mưu với nhau. Bọn họ đề nghị với Tổng Thống Kennedy như sau. Tháng Chín, Tổng Trưởng McNamara và Đại Tướng Taylor sẽ sang Việt Nam xem xét tình hình và kết luận xem Hoa Kỳ nên ủng hộ hay là ngăn cản đảo chánh. Hai vị này đều chống đảo chánh nên Tổng Thống Kennedy tưởng rằng đám Bundy muốn Hoa Kỳ có một cái nhìn khách quan hơn nên đồng ý. Thế nhưng thâm ý của đám Bundy là cuộc viếng thăm của McNamara và Taylor sẽ khiến ông Ngô Đình Nhu tưởng rằng Hoa Kỳ không có ý định ủng hộ đám đảo chánh nên lơ là. Điều này sẽ cho phép đám Lodge giúp Minh - Đôn - Xuân mua chuộc thêm một số tướng lãnh theo phe đảo chánh. Về mặt này, Bundy và Lodge thành công mỹ mãn.

    Trong thời gian ở Việt Nam, Tướng Maxwell đi nhiều nơi, gặp gỡ các cố vấn Hoa Kỳ để hỏi thăm. Hầu hết đều cho biết rằng chiến tranh chống cộng diễn tiến tốt đẹp, không được như ý nhưng có điều gì đáng lo ngại. McNamara thì đi khắp nơi, gặp gỡ các tướng lãnh chỉ huy các đại đơn vị của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà. Ông không chú tâm vào việc thăm dò thái độ của họ nhưng chú tâm vào khả năng chỉ huy của họ. McNamara tin rằng cuộc đảo chánh sẽ không xảy ra vì phe chống đảo chánh tại Việt Nam cũng như tại Hoa Kỳ nhiều hơn, mạnh hơn. McNamara cũng gặp Dương Văn Minh, thấy thái độ của Minh vui vẻ, vô tư, McNamara lại càng tin rằng Minh có lẽ đã nhận ra sự thất thế nên không nghĩ đến việc đảo chánh nữa. Vậy nên McNamara và Tướng Taylor yên tâm về nước, báo cáo tình hình tốt đẹp lên Tổng Thống Kennedy.

    Trong lúc các phiên họp kế tiếp vẫn diễn ra tại Toà Bạch Ốc thì Tổng Thống Pháp Charles De Gaule kêu gọi Việt Nam Cộng Hoà theo lập trường trung lập, giống như Cao Miên và Ai Lao. Đây là một đòn rất độc. Nó khiến cho đám Minh - Đôn - Xuân thêm tin tưởng rằng một khi bọn này đảo chánh và theo trung lập thì sẽ được viện trợ từ cả khối trung lập lẫn khối tự do nên sẽ không cần đến viện trợ của Hoa Kỳ, giống như Cao Miên. Từ đó, đám này quyết định sẽ làm trái ý người Mỹ, tức là thay vì đảo chánh để loại ông Ngô Đình Nhu, bọn họ sẽ giết tất cả những ai cần giết, dù rằng đám nhân viên CIA tại Sài Gòn đã cảnh cáo rằng không được gây đổ máu.

    Đến cuối tháng Mười, các báo cáo từ Sài Gòn gửi về Toà Bạch Ốc cho thấy rằng tình hình chưa đến nỗi nào và Hoa Kỳ có thể bàn về giải pháp cải tổ chính trị theo như Phó Tổng Thống Johnson và Tổng Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy. Ngày 22 tháng Mười, Tổng Thống Kennedy họp riêng với các cố vấn và hai ngày sau, Tổng Thống Kennedy gửi điện văn cho Lodge, chỉ thị rằng nếu như có xảy ra đảo chánh thì người Mỹ ở Sài Gòn không được tiếp tay, dù chỉ một viên đạn.

    Ngày 27, một đơn vị thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh của Việt Nam Cộng Hoà đánh vào một an toàn khu của Việt Cộng tại Quảng Ngãi và thắng lớn, đem về 44 xác chết của cộng quân và nhiều vũ khí. Vụ này được nhiều phóng viên tường trình. Đại Tướng Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam Paul Donald Harkins cũng nhân đó gửi một điện văn về Bộ Tổng Tham Mưu trình bày sự việc và có những nhận xét có thiện chí. Tướng Taylor sau đó đã trình bày việc này với Kennedy kèm theo ý kiến cá nhân rằng Chính Phủ và Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà đã tích cực chống cộng có hiệu quả.



    Ngay sau đó, Kennedy gửi một điện văn sang cho Lodge, chỉ thị cho Lodge tìm đám Minh - Xuân - Đôn và bảo họ tạm thời đình hoãn kế hoạch đảo chánh. Lodge không phúc đáp. Mãi đến ngày 3 tháng Mười Một 1963, Lodge mới báo cáo về Hoa Thịnh Đốn rằng y ta biết chắc chắn Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu đã bị giết chết. Ai giết, ở đâu, lúc nào thì Lodge báo cáo rằng y không biết.

    PHẦN II

    Trong phần này, chúng tôi tóm lược về những nguyên nhân đưa đến cuộc chỉnh lý ngày 30 tháng Giêng 1964.

    Tại Hoa Thịnh Đốn, Tổng Thống Kennedy tỏ ra bàng hoàng về việc Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu bị quân đảo chánh ám sát. Sau đó, ông bối rối về việc phải trình bày ra sao trước công luận thế giới. Ông chưa làm được việc gì đối với một Việt Nam hậu đảo chánh thì chính ông cũng bị thảm sát. Phó Tổng Thống Lyndon Baines Johnson lên thay thế.

    Tổng Thống Johnson triệu tập một phiên họp với các cộng sự viên cao cấp nhất. Ông cay đắng nhận xét như sau.

    Khi người Mỹ chi tiền bạc rất nhiều để đám Minh - Xuân - Đôn làm đảo chánh, họ chỉ mong muốn đám này theo ý họ, tức là loại ông Ngô Đình Nhu mà cùng lắm thì giao cả hai ông cho Mỹ, nhờ đem đi an trí ở Saipan. Thế nhưng đám Minh - Xuân - Đôn đã dùng tiền của Mỹ để thực hiện mưu đồ riêng của bọn họ. Việc bọn họ ám hại Ngô Tổng Thống và bào đệ là bội ước rõ ràng. Sau đó, bọn họ còn lén lút tiếp xúc với Pháp, chuẩn bị trung lập hoá miền Nam Việt Nam. Như thế, bọn này không thể tin tưởng được vì hai lẽ. Thứ nhất, bọn họ bất trung. Thứ hai, bọn họ không thực sự chống cộng. Nếu muốn cuộc chiến tranh chống cộng tại Đông Nam Á tiến nhanh đến thành công, nhất định không thể để bọn này cầm quyền.


    Dương Văn Minh: "Thưa ngài Đại sứ, nhiệm vụ đã hoàn tất"

    Về phía người Mỹ, Tổng Thống Johnson cũng cay đắng không kém. Ông nhắc lại việc đám Lodge quả quyết rằng sẽ kiềm chế được đám Minh - Xuân - Đôn, nhưng chúng đã làm những gì mà Mỹ không ngờ. Như vậy, kể từ nay người Mỹ không thể chủ quan.

    Sau cùng, Tổng Thống Johnson trở lại với nhận xét thứ nhất, tức là không thể trông cậy vào đám tướng đảo chánh, nếu muốn tiếp tục chống cộng cho đến thành công. Vì thế nên khi có âm mưu chỉnh lý để hạ bệ đám Minh - Xuân - Đôn, người Mỹ ủng hộ ngay.

    Mãi cho đến nay, khi nói đến cuộc chỉnh lý ngày 30 tháng Giêng 1964 để lật đổ nhóm Minh - Xuân - Đôn, nhiều người trong chúng ta vẫn còn tin rằng chủ mưu là Tướng Nguyễn Khánh với sự phụ giúp của Đại Tá Nguyễn Chánh Thi. Sự thật thì khác nhiều.

    Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1988, Trung Tướng Trần Văn Đôn có kể lại như sau. Vào đầu năm 1965, sau khi bị lật đổ, Đại Tướng Nguyễn Khánh có nói với ông trước khi đi lên đường lưu vong rằng vụ chỉnh lý không phải do ông ta (Tướng Nguyễn Khánh) chủ mưu. Tướng Đôn đáp lại rằng, "Anh không nói, tôi cũng biết." Như vậy, ai là người chủ mưu cuộc chỉnh lý? Xin mời các bạn nhìn lại vụ đảo chánh để hiểu rõ hơn.

    Khi người Mỹ bắt đầu công khai ủng hộ đảo chánh để lật đổ Chính Phủ Ngô Đình Diệm, họ tiếp xúc với Tướng Trần Thiện Khiêm. Ông này khôn ngoan, đẩy Trung Tướng Dương Văn Minh ra làm thủ lĩnh nhóm chủ mưu đảo chánh. Một thời gian sau đó, Lucien Conein của CIA bắt đầu tiếp xúc trực tiếp với Dương Văn Minh và Đôn, không cần qua Tướng Khiêm nữa.

    Theo hầu hết các hồ sơ giải mật mà chúng tôi được xem, thì Tướng Khiêm cộng tác với CIA từ nhiều năm. Ông này ủng hộ việc đảo chánh nhưng với quyết định ban đầu là sẽ đưa Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu đi an trí ở đảo Saipan. Về sau, khi Dương Văn Minh được làm thủ lãnh thì tên này nham hiểm và hung ác, kéo thêm được những tên hung ác tương tự là Mai Hữu Xuân, Nguyễn Ngọc Lễ. Có hai vị tướng nói rằng trong đám này còn có Tướng Phạm Xuân Chiểu nữa nhưng chúng tôi không chắc có đúng hay không. Những kẻ này chủ trương phải giết chết Ngô Tổng Thống, ông Nhu và bất cứ ai chống đảo chánh. Tuy nhiên, chủ trương đổ máu của mấy tên này chưa để lộ công khai, vì thế nên bọn họ mới kéo theo được Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim. Đến khi Minh và Xuân công khai cho biết chủ trương là phải giết cho bằng được những nhân vật nói trên thì có một số người bày tỏ sự bất mãn. Đó là Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tá Nguyễn Văn Thiện và Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu. Tướng Trần Thiện Khiêm tuy không phải là thủ lãnh nhóm đảo chánh, nhưng vì giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân nên ông đứng ra điều động. Theo lệnh của ông, Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu đem một cánh quân của Sư Đoàn 5 Bộ Binh đến bao vây Dinh Gia Long. Không rõ Tướng Khiêm có bàn bạc riêng tư gì với Đại Tá Thiện hay là không, nhưng với Đại Tá Thiệu thì Tướng Khiêm dặn rằng chỉ báo cáo tình hình trực tiếp với ông mà thôi.

    Chiều ngày 1 tháng Mười Một 1963, quân dảo chánh bao vây và tấn công Dinh Gia Long và Thành Cộng Hoà bị quân trú phòng chống trả dữ dội khiến Đại Uý Bùi Ngươn Ngãi của phe đảo chánh tử thương. Từ đó, quân đảo chánh không dám liều lĩnh nữa, chỉ bắn cầm chừng. Đến gần tối, Đại Tá Thiệu gọi vào Dinh Gia Long và nói chuyện với các sĩ quan tuỳ viên của Ngô Tổng Thống. Đại Tá Thiệu có hỏi rằng "Ông Cụ đâu rồi?" và khi Đại Uý Tuỳ Viên Đỗ Thọ trả lời rằng "Đang ở dưới đó." Đại Tá Thiệu cười cười, hỏi lại "Dưới đó tức là dưới hầm phải không?" Đại Uý Thọ không trả lời. Đại Tá Thiệu nói vài câu vô thưởng vô phạt cho có lệ rồi cắt điện đàm.

    Tối hôm đó, sau khi Ngô Tổng Thống và ông Nhu đã rời Dinh Gia Long lâu lắm rồi thì các sĩ quan tuỳ viên mới bảo nhau gọi ra cho Đại Tá Thiệu báo tin. Mục đích của họ là để cho quân đảo chánh không tấn công nữa, gây đổ máu cho cả hai bên một cách vô ích. Đại Tá Thiệu đợi một lúc lâu rồi mới gọi về Bộ Tổng Tham Mưu báo tin cho Tướng Khiêm. Tướng Khiêm không nói lại cho mấy tướng kia biết. Mãi đến sáng hôm sau, khi Ngô Tổng Thống bảo Đại Uý Đỗ Thọ gọi về nói với đám đảo chánh rằng Cụ đang ở đâu thì đám Minh - Xuân - Đôn mới ngã ngửa. Từ đó, họ và bên Tướng Khiêm chia rẽ rõ rệt. Một hoặc hai ngày sau đó, có một phiên họp và trong đó các tướng cãi nhau về việc Cụ và ông Nhu bị thảm sát. Lẽ đương nhiên, nhóm Tướng Khiêm không tin rằng hai ông tự sát. Cuối cùng, Tướng Khiêm và Đại Tá Thiện đứng dậy ra khỏi phòng họp.

    Ở đây, có một điều rất khó hiểu như sau. Lúc đầu, trước khi người Mỹ bàn thảo về việc nhờ Tướng Khiêm móc nối đảo chánh, họ đã phân vân rất nhiều. Đó là vì Tướng Khiêm xưa nay vẫn được biết là rất trung thành với Ngô Tổng Thống. Tướng Khiêm lại là một người mưu trí, không nói mà làm, nhiều khi dám làm những điều không ai ngờ. Vậy nên người Mỹ rất e dè, thăm dò tới lui rồi mới dám ngỏ lời với Tướng Khiêm về việc đảo chánh. Kể từ đó cho đến lúc có tiếng súng đảo chánh, họ vẫn còn sợ rằng Tướng Khiêm đổi ý hoặc đánh ngược lại. Chính Lodge đã báo cáo về Hoa Thịnh Đốn rằng "Chỉ sợ Khiêm quay lại đánh chúng ta vào giờ thứ 25." Người Mỹ đã biết Tướng Khiêm lợi hại như thế trong khi đám Minh - Xuân - Đôn - Đính lại không biết gì, cứ tưởng rằng Tướng Khiêm chỉ biết vâng lời người Mỹ. Sau đây là hai thí dụ điển hình về sự nông cạn của đám Minh - Xuân - Đôn - Đính.

    Thứ nhất, khi Đại Tá Nguyễn Chánh Thi từ Cao Miên trở về thì Dương Văn Minh muốn cho Đại Tá Thi giữ chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù như trước. Tướng Khiêm cản lại, nói rằng Tướng Thi sẽ ra Huế giữ chức chủ tịch của uỷ ban điều tra tài sản của Ông Ngô Đình Cẩn, vừa mới được thành lập. Chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù vẫn do Đại Tá Cao Văn Viên giữ. Đám Minh - Xuân - Đôn - Đính không hề nghi ngờ gì về việc Tướng Khiêm đã có mưu tính sẵn.

    Thứ hai, sau khi đã đảo chánh xong, Tướng Tôn Thất Đính cũng như như những tướng khác, tự thăng cấp cho mình và rồi Tướng Đính từ bỏ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III Kiêm Tổng Trấn Sài Gòn - Gia Định để giữ chức vụ Tổng Trưởng An Ninh. Thay thế Tướng Đính để giữ chức vụ này là Tướng Khiêm. Tướng Đính biết rằng ai giữ chức vụ này sẽ là người quyết định tình hình một khi có biến động. Thế mà cả đám vì quá nông cạn và quá chủ quan nên đã giao chức vụ đó cho Tướng Khiêm mà họ đã không còn tin tưởng hoàn toàn. Có quyền bính quân sự trong tay và ngay tại thủ đô, Tướng Khiêm làm chỉnh lý không mấy khó khăn.


    Tướng Nguyễn Khánh

    Bây giờ thì chúng ta trở lại với Tướng Nguyễn Khánh. Vào lúc đó, trong đám đảo chánh ai cũng biết rất rõ rằng Tướng Khánh rất bất mãn việc đám Minh - Xuân ra lệnh giết Ngô Tổng Thống và ông Ngô Đình Nhu. Thế nhưng đám này một mực tin rằng Tướng Khánh không dám làm gì họ. Theo họ, Tướng Khánh bốc đồng nhưng vụng về, không mưu trí, do đó có âm mưu chống họ thì cũng lộ tẩy ngay. Về điểm này, đám Minh - Xuân - Đôn - Đính cũng lầm. Thật ra thì Tướng Khánh cũng có ý định làm chỉnh lý để lật đám Minh - Xuân - Đôn - Đính nhưng không làm nổi. Tướng Khánh không phải là một nhân vật có nhiều uy tín nên không lôi kéo được nhiều người nên có làm thì cũng thất bại sớm. Vậy nên Tướng Khánh chỉ ngây thơ trông mong vào người Mỹ.

    Về việc loại bỏ đám Minh - Xuân - Đôn - Đính, người Mỹ bắt đầu chú ý đến Tướng Khánh vào ngày 15 tháng Mười Một 1963, tức là đúng hai tuần sau khi quân đảo chánh nổ phát súng đầu tiên. Tướng Khánh nói với một người bạn thân là Đại Tá Jasper Wilson của Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam rằng chính phủ Pháp liên tiếp cho người đến gặp Mai Hữu Xuân để bàn về âm mưu trung lập hoá Việt Nam Cộng Hoà. Không rõ Đại Tá Wilson báo cáo lại những ai về lời Tướng Khánh, nhưng vài ngày sau thì Trùm CIA tại Viễn Đông là William Colby ra Đà Nẵng gặp Tướng Khánh để bàn một ít việc. Lúc đó, Tướng Khánh là Tư Lệnh Quân Đoàn I. Colby nói với Tướng Khánh rằng người Mỹ biết rất rõ rằng Tướng Mai Hữu Xuân và Tướng Trần Văn Đôn thường xuyên gặp các viên chức Pháp để bàn về việc trung lập hoá Việt Nam Cộng Hoà. Tướng Khánh nhân Colby đề cập đến việc đó, nói với Colby rằng theo ý ông, việc cần làm trước mắt là phải loại Tướng Đính và Tướng Xuân, vì hai tay này đang giữ chức vụ quan trọng về tình báo và an ninh. Nguy hiểm nhất là Xuân, tay sai của Pháp, đã thả gần hết những tên Việt Cộng nguy hiểm nhất mà các đoàn công tác đặc biệt dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bắt được. (Chú thích của người dịch: điều này, Tướng Khánh đã nói rất đúng, không hề nói gian.) Colby hỏi Tướng Khánh về Dương Văn Minh thì Tướng Khánh trả lời rằng Minh to xác nhưng dốt, chẳng biết gì, quyết định và hành động hoàn toàn theo Tướng Lê Văn Kim, Tướng Xuân, Tướng Đôn bày vẽ hay xúi dại.

    Giữa lúc mà các viên chức Hoa Kỳ tại Việt Nam thường xuyên đến gặp gỡ Tướng Nguyễn Khánh thì Tổng Thống Kennedy bị ám sát, ngày 22 tháng Mười Một 1963. Biến cố này khiến các viên chức tại Hoa Kỳ phải chú tâm đến nhiều việc khác, gần như bỏ quên việc Tướng Khánh muốn lật đổ đám Minh - Xuân - Đôn - Đính.


    "Bốn tướng Đà Lạt" (tướng Nguyễn Văn Vỹ là khách đến thăm)

    Đầu tháng Chạp 1963, Giám Đốc CIA John McCone chỉ định Đại Tá Peer de Silva sang Việt Nam giữ chức Trưởng Trạm CIA tại Sài Gòn. Không rõ đây là ý định của McCone hay của Tổng Thống Johnson, nhưng Tổng Thống Johnson có gọi De Silva vào Toà Bạch Ốc bàn bạc rất lâu trước khi De Silva sang Việt Nam nhận nhiệm sở mới. Ngày 7 tháng Chạp, Tổng Thống Johnson gửi một điện thư cho Đại Sứ Lodge, chỉ thị rằng Lodge và De Silva phải cộng tác mật thiết với nhau. Peer de Silva là một nhân vật rất đáng tin cậy của Chính Phủ Hoa Kỳ qua mấy thập niên. Ông từng là Giám Đốc An Ninh trong Dự Án Mã Nhật Tân, tức là chương trình nghiên cứu việc dùng chất Uranium 235 và chất Plutorium để làm bom nguyên tử và rồi Mỹ thả xuống Hiroshima và Nagasaki. Lúc đó, De Silva mới 26 tuổi. Vì thế, việc Hoa Kỳ gửi De Silva sang Việt Nam không phải là vì luân phiên thay đổi nhân viên như thường lệ.

    Sau khi De Silva đã nhận nhiệm sở, Tướng Khánh xin được gặp ông nhưng De Silva từ chối, viện cớ rằng phải đi nhiều nơi xa xăm để quan sát tình hình. Kể từ lúc đó, Tướng Khánh chỉ có thể liên lạc với Lodge qua trung gian Đại Tá Wilson nhưng, cũng như De Silva, Lodge rất lơ là với Tướng Khánh. Lý do là vì về nhiều mặt, Mỹ tin tưởng Tướng Trần Thiện Khiêm hơn.

    Phần III

    Trong phần này, chúng tôi tóm lược về cuộc chỉnh lý và những diễn biến kế tiếp.

    Người Mỹ cho Tướng Trần Thiện Khiêm biết về mưu tính của Tướng Nguyễn Khánh, nhưng lại không cho Tướng Khánh biết về mưu tính của Tướng Khiêm. Vì thế nên khi được Tướng Khiêm mời vào Sài Gòn ngay vào chiều tối 30 tháng Giêng 1964, Tướng Khánh không biết có chuyện gì và hơi lo lắng. Tướng Khiêm nói qua điện thoại với Tướng Khánh rằng hai người sẽ gặp nhau vào sáng hôm sau.

    Lúc bấy giờ, Tướng Dương Văn Minh với tư cách Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ra lệnh về việc chuyển quân như sau. Tất cả các đơn vị trong Đô Thành Sài Gòn, bất cứ cấp nào, muốn di chuyển phải có lệnh của Tư Lệnh Quân Đoàn III. Tương tự, bất cứ một đơn vị nào muốn di chuyển vào Đô Thành Sài Gòn cũng phải có lệnh như thế. Mỉa mai cho đám Minh - Đôn - Xuân - Đính, người giữ chức vụ đó lại chính là Tướng Trần Thiện Khiêm.

    Khuya hôm đó, Đại Tá Cao Văn Viên đem quân đi bắt Tướng Lê Văn Kim và Mai Hữu Xuân. Xong xuôi, Đại Tá Viên đến nhà Dương Văn Minh bắt tên đồ tể Nguyễn Văn Nhung là kẻ đã đâm Ngô Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu. Dương Văn Minh chỉ yếu ớt phản đối vài câu nhưng trước thái độ lạnh lùng của Đại Tá Viên, Minh không dám ngăn cản việc bắt Nhung, cận vệ của Minh. Xong xuôi, Đại Tá Viên đem quân đi bắt cả Tướng Nguyễn Văn Vỹ.

    Cùng một lúc đó, Trung Tá Cổ Tấn Tinh Châu đem một toán quân thuộc Tiểu Đoàn 2 Thuỷ Quân Lục Chiến đi bắt Tướng Tôn Thất Đính, Tướng Trần Văn Đôn.

    Ở đây, chúng ta cũng nên biết tại sao Tướng Vỹ bị bắt mà Tướng Minh thì lại không.

    Vào năm 1955, có nhiều áp lực để Thủ Tướng Ngô Đình Diệm bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Văn Vỹ và chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Việt Nam Quốc Gia. Tướng Vũ thân Pháp, theo phe Tướng Nguyễn Văn Hinh và Bảo Đại, nên các đoàn thể quốc gia lúc bấy giờ nói chung không thích Tướng Vỹ. Nhiều người còn nhớ việc ông Nhị Lang rút súng ra đòi bắn Tướng Vỹ ngay tại Dinh Độc Lập mà nếu Thủ Tướng Ngô Đình Diệm không xuất hiện kịp thời thì không biết Tướng Vỹ có toàn mạng hay không. Sau đó, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm bổ nhiệm Thiếu Tướng Lê Văn Tỵ. Tướng Vỹ sang Pháp sống lưu vong cùng với Tướng Hinh.

    Sau vụ đảo chánh, chính Dương Văn Minh đã mời Tướng Vỹ trở về nước. Tướng Khiêm lấy cớ đám Minh - Đôn - Xuân - Đính chủ trương trung lập nên phải lật đổ. Vì thế nên phải cho bắt luôn Tướng Vỹ cho dư luận thế giới tưởng là thật. Xong việc rồi, Tướng Vỹ được trả tự do.

    Tướng Dương Văn Minh không bị bắt là vì một lý do khác hẳn. Tướng Khiêm biết rất rõ ràng rằng Tướng Minh có Phật Giáo Miền Trung phía sau, hay nói rõ hơn là có nhóm Thích Đôn Hậu - Thích Trí Quang chỉ đạo. Bắt Minh thì sẽ có biểu tình liên miên không có lợi. Mà hơn nữa, những đứa như Minh thì bắt mà làm gì?
    Cũng như Tướng Nguyễn Khánh, Tướng Khiêm biết Tướng Dương Văn Minh rất hèn nhát, không dám làm gì. Hơn nữa, một đám Đôn - Kim - Xuân - Đính bị bắt hết rồi thì Minh chỉ còn là cái xác không hồn. Chúng tôi kể ra đây ba sự việc cho thấy Tướng Minh hèn nhát như thế nào.

    Thứ nhất, sau khi Đại Tá Cao Văn Viên đến tư dinh Tướng Minh bắt Nhung đem đi rồi thì Minh ngồi thừ người như một con bạc vừa bị thua cháy túi. Thấy vậy, Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa, kẻ đã cùng bắn và đâm Ngô Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, nói với Tướng Minh rằng "Mình còn Thiết Giáp, lật ngược thế cờ mấy hồi, thưa trung tướng." Minh uể oải nói, "Giờ thì còn làm được gì nữa. Thôi, đi ngủ." Tướng Minh không hề dám bàn đến việc có thể làm gì được hay không mà chỉ biết bỏ cuộc, bỏ mặc bốn đồng chí bị bắt dẫn đi, không biết tính mạng sẽ ra sao.

    Thứ hai, khi các Tướng Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát làm đảo chánh ngày 13 tháng Chín 1964 thì Tướng Nguyễn Khánh nhanh chân bay lên Đà Lạt. Tướng Khánh gọi Tướng Minh lên đó để cùng bàn việc dẹp đảo chánh. Tướng Minh thở dài não nuột, đáp rằng "Giờ thì tụi nó bao vây, chặn đường khắp mọi nơi rồi, còn đi đâu được nữa?" Sự thật thì không có việc quân đảo chánh bao vây, chặn đường như vậy. Bằng chứng là hôm đó Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu vẫn vào văn phòng làm việc như thường lệ. Đến khi nghe tin đảo chánh, Tướng Thiệu nghe ngóng tình hình, tìm hiểu thêm rồi quyết định bay lên Đà Lạt gặp Tướng Khánh.

    Lúc bấy giờ, Tướng Đôn và Tướng Đính đang bị giam lỏng ngoài đó. Thấy Tướng Đôn, Tướng Thiệu cười cười, nói rằng "Cũng chỉ tại mấy ông mà tụi nhỏ nó làm loạn trong đó." Tướng Thiệu tỏ ra rất bình thản, chứng tỏ tình hình không bi đát như Tướng Minh than thở. Theo các nhân chứng thì sau khi Tướng Lâm Văn Phát lên đài phát thanh Sài Gòn công bố đảo chánh và hiệu triệu quân dân một lúc khá lâu rồi thì Tướng Thiệu mới bay lên Đà Lạt, chứ không phải ngay lúc nghe tin có biến động. Như vậy, Tướng Minh chết nhát, không dám ló mặt ra khỏi nhà và nói bậy về tình hình để thoái thác.


    Thứ ba là trường hợp Tướng Nguyễn Khánh áp lực Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Lúc đó, vì áp lực tứ phía nên Tướng Khánh lập ra chính phủ Tam Đầu Chế có Cụ Phan Khắc Sửu và Tướng Khánh, Tướng Minh. Để loại các đối thủ của mình, Tướng Nguyễn Khánh ép Cụ Phan Khắc Sửu ký sắc lệnh cho giải ngũ tất cả các quân nhân nào đã phục vụ trong quân đội 20 năm và 1 ngày trở lên. Thế là các Tướng Đôn - Kim - Xuân bị giải ngũ. Tướng Minh không dám phản đối để rồi cũng bị giải ngũ luôn.

    Trở lại đêm 30 tháng Giêng 1964 thì sau khi các ông tướng đảo chánh và Tướng Vỹ đã vô hộp hết rồi thì Tướng Trần Thiện Khiêm mời Tướng Nguyễn Khánh đến bàn việc lớn. Sau này, Tướng Khánh có kể lại rằng "Người ta cho tôi chỉ có 5 phút để nhận lời làm quốc trưởng hay là không nên tôi phải nhận lời mà không đủ thời gian cần có để suy nghĩ cho kỹ." Thật ra thì Tướng Khiêm để cho Tướng Khánh suy nghĩ trong 10 phút rồi quyết định, mà cuộc gặp gỡ đó không chỉ có như vậy.

    Tướng Khiêm được phía người Mỹ cho biết rất rõ về những toan tính của Tướng Khánh để lật đổ đám Minh - Đôn - Xuân - Đính vì lý do đám này trung lập nên vừa gặp Tướng Khánh, Tướng Khiêm vô đề luôn. Tướng Khiêm cho Tướng Khánh biết về tình hình và rồi mời Tướng Khánh làm quốc trưởng, từ chối hay nhận lời thì quyết định trong vòng 10 phút. Tướng Khánh nhận lời, và Tướng Khiêm đề nghị những gì nên làm và phải làm ngay. Theo đề nghị của Tướng Khiêm, sáng sớm hôm sau Tướng Nguyễn Khánh tổ chức họp báo, công bố lý do lại sao đám Đôn - Kim - Xuân - Đính bị bắt. Những gì xảy ra kế tiếp thì chúng ta đều đã biết rồi, nên không cần phải nhắc lại ở đây.

    Phía Hoa Kỳ nói chung thì rất hài lòng về cuộc chỉnh lý thành công mà không đổ máu. Tuy nhiên, họ lại thất vọng về việc Tướng Khiêm không đứng ra lãnh đạo đất nước mà đẩy trách nhiệm này sang cho Tướng Khánh. Biết rõ nhất về Tướng Khánh chính là Đại Tướng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Hoa Kỳ Maxwell Taylor và Tổng Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara. Hai ông này đã sang Việt Nam vào tháng Chín 1963 theo lệnh Tổng Thống Kennedy và đã bỏ ra rất nhiều thời gian để tìm hiểu về các tướng lãnh của Việt Nam Cộng Hoà như đã thuật lại ở phần đầu. Tướng Taylor biết Tướng Khánh là một cấp chỉ huy khá, nhưng về chính trị thì ông này rất tệ. McNamara thì cũng có nhận xét tương tự, nhưng ông này tin rằng điều quan trọng hơn là khả năng của các tướng lãnh cầm quân, chứ không phải tài năng lãnh đạo của Tướng Khánh.

    Để thúc đẩy cuộc chiến tranh chống lại cộng sản xâm lăng tại Việt Nam, Chính Phủ Hoa Kỳ thay đổi nhân sự.

    Ngày 1 tháng Sáu 1964, Đại Tướng William Westmoreland, Tư Lệnh Phó Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam thay thế vị tư lệnh của ông là Đại Tướng Paul Donald Harkins. Đại Tướng Harkins là một người bạn rất tốt của Việt Nam Cộng Hoà, một điều không một ai có thể phủ nhận. Trở ngại ở đây là ông cũng như Đại Sứ Frederick Nolting trước đó, một mực trung tín với Chính Phủ Ngô Đình Diệm. Vì vậy nên Đại Tướng Harkins khó lòng làm việc với những ông tướng đảo chánh, hoặc những ông tướng trẻ mà nhờ đảo chánh đã ngoi lên.

    Đại Tướng Moreland được chọn để thay thế vì ông đã làm việc với các giới chức quân sự Việt Nam Cộng Hoà một thời gian, và ông đã trở thành một người bạn tốt của Việt Nam Cộng Hoà nói chung. Lúc bấy giờ, Hoa Kỳ đã rõ về việc Bắc Việt đã xúc tiến việc chuyển quân và chiến cụ từ Bắc vào Nam. Như thế, chiến tranh sắp leo thang mà về giao chiến trên đất liền thì Tướng Moreland xuất sắc. Ông từng là Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Westpoint.

    Cũng trong tháng Sáu đó, ngày 17, Đại Tướng Taylor đến Việt Nam để nhậm chức đại sứ, thay thế Henry Cabot Lodge. Đại Sứ Taylor sẽ hết mình giúp đỡ và hướng dẫn Tướng Khánh trong mọi việc. Đại Sứ Taylor tuy thấy Tướng Khánh không có gì xuất sắc nhưng vì là một công dân Hoa Kỳ rất yêu nước, ông sẽ hết mình để cuộc chiến tranh chống cộng tại Việt Nam sẽ đi đến chiến thắng mà không cần nhiều thời gian. Thế mà chỉ hơn một tháng sau khi nhậm chức, Đại Sứ Taylor bị Tướng Khánh đối xử một cách vô cùng khiếm nhã.

    Năm đó, Tướng Nguyễn Khánh quyết định tổ chức Ngày Quốc Nhục vào ngày 19 tháng Bảy, thay vì ngày 20. Phần nghi lễ đã được tổ chức rất rầm rộ tại Công Trường Lam Sơn. Thế nhưng Tướng Khánh không cho làm một khán đài cho quan khách với ghế ngồi mà bắt tất cả ngồi trên bục trải chiếu, như các bạn thấy trong hình đính kèm. Tất cả các quan khách đều lịch sử, tỏ vẻ không quan tâm. Họ là khách, chủ nhà cho ngồi đâu thì họ ngồi đấy, vui vẻ như thường. Thế nhưng những hình ảnh về buổi lễ này khi được báo chí Hoa Kỳ phổ biến đã khiến công chúng Hoa Kỳ phẫn nộ. Họ đã giúp Việt Nam nhiều và trong nhiều năm, để rồi đại diện của họ tại Việt Nam được đối xử như thế. Thế nhưng không phải chỉ có như vậy mà thôi.

    Trong những lần gặp gỡ sau đó, Tướng Khánh đối xử với Đại Sứ Taylor khác hẳn trước kia. Có lẽ Tướng Khánh muốn nói rằng tôi bây giờ là quốc trưởng, chứ không chỉ là một ông tướng như ông nữa. Có một lần nọ, Đại Sứ Taylor xin gặp Tướng Khánh. Ông than phiền rằng phía Hoa Kỳ muốn thấy một miền Nam ổn định để phát triển kinh tế và đẩy mạnh chiến tranh chống cộng trong khi Tướng Khánh gây hấn ngày này qua ngày khác, hết bắt người này đến cách chức người kia. Một kế hoạch được bàn thảo kỹ càng không thể nào thực hiện được một khi còn những thay đổi và xáo trộn như thế. Tướng Khánh nghe Đại Sứ Taylor trình bày xong, trố mắt lồi ra nhìn. Đại Sứ Taylor thấy vậy, tưởng Tướng Khánh không hiểu nên chuyển sang tiếng Pháp. Tướng Khánh nói rằng "Nói tiếng Anh hay tiếng Pháp tôi cũng hiểu, nhưng tai tôi hơi điếc, ông đại sứ nói lớn lớn giùm."

    Sau đó, Tướng Khánh đi khoe với vài người rằng "Đại Sứ Taylor mới bị tôi quở mắng."

    Đại Sứ Taylor không phải là một người nhỏ mọn, nhưng lẽ đương nhiên là ông phải báo cáo về Hoa Thịnh Đốn tất cả những khó khăn mà ông phải đương đầu. Những gì mà ông tường trình kèm theo phần nhận xét đã khiến Hoa Kỳ có một cái nhìn đưa đến những quyết định không có lợi cho Tướng Nguyễn Khánh và ảnh hưởng đến Việt Nam Cộng Hoà. Tuy nhiên, những tai hại quan trọng hơn mà Tướng Khánh gây ra, phải mấy tháng sau chúng ta mới thấy rõ.

    Phần kết

    Ngày 2 tháng Tám 1964, chiến hạm USS Maddox của Hải Quân Hoa Kỳ bị ba phóng ngư lôi hạm của Bắc Việt tấn công tại Vịnh Bắc Việt, thuộc hải phận quốc tế. Chiếc USS Maddox bắn trả. Hai ngày sau, tàu Bắc Việt tấn công một lần nữa. Sự việc này đưa đến việc Tổng Thống Johnson quyết định oanh tạc Bắc Việt để trả đũa. Quyết định của Tổng Thống Johnson được nhiều người ủng hộ nhưng cũng có nhiều người chống, cho rằng việc Hoa Kỳ oanh tạc Bắc Việt đã khiến cho nhiều quốc gia lầm tưởng rằng Bắc Việt là nạn nhân và phong trào chống Mỹ, phản chiến bắt đầu lan rộng. Bên nào đúng, bên nào sai thì tranh cãi không bao giờ dứt. Điều rõ ràng nhất là Hoa Kỳ đã không oanh tạc Bắc Việt theo cách cần nhất và đúng nhất nếu như họ muốn Bắc Việt phải từ bỏ tham vọng xâm lăng. Đến đây, chúng ta cần biết về một nhân vật mà thần dân Nhật Bản không bao giờ quên: Tướng Curtis Lemay.

    Khi Đệ Nhị Thế Chiến bước vào giai đoạn sau cùng thì Tướng Lemay là Tư Lệnh Không Đoàn 21 của Không Lực Hoa Kỳ. Nhiệm vụ của không đoàn này là đánh sập Nhật Bản. Tướng Lemay chủ trương thiêu huỷ những nơi trọng yếu của Nhật để đế quốc này không còn tinh thần chiến đấu. Một trong những trận oanh tạc điển hình của chủ trương này là Operation Meetinghouse diễn ra khuya ngày 9 rạng sáng ngày 10 tháng Ba 1945. Tướng Lemay ra lệnh cho 325 pháo đài bay B-29 của ông thả toàn bom chùm M-47 gồm có napalm, phosphorous và magnesium. Trận mưa bom này đã khiến cho hơn 100 ngàn dân ở ngoại ô Đông Kinh bị chết cháy hoặc chết ngạt. Đây là trận oanh tạc gây thương vong cao nhất trong lịch sử chiến tranh nhân loại, hơn cả trái bom nguyên tử thả xuống Quảng Đảo (Hiroshima) hay Trường Kỳ (Nagasakhi) gần năm tháng sau đó.

    Khi Mỹ quyết định oanh tạc Bắc Việt thì Tướng Lemay giữ chức Tham Mưu Trưởng Không Lực Hoa Kỳ. Ông đề nghị rằng cùng một lúc, Hoa Kỳ oanh tạc tất cả hải cảng, nhà ga, phi trường cũng như tất cả các địa điểm chiến lược, những trục lộ tiếp tế nào mà Bắc Việt dùng để đón nhận hoặc chuyển quân và chiến cụ. Theo Tướng Lemay thì chỉ cần một tuần lễ, cả Bắc Việt đều kinh hoàng thấy sức mạnh của Hoa Kỳ mà bỏ tham vọng xâm lăng. Tiếc thay, Tổng Trưởng Quốc Phòng McNamara có cái nhìn khác. Ông trình bày rằng oanh tạc các hải cảng, phi trường có thể trúng tàu, phi cơ của Nga, Trung Cộng gây thương vong cho thuỷ thủ đoàn, phi hành đoàn của hai đế quốc này và rồi họ sẽ nhảy vào vòng chiến. Tổng Thống Johnson thuận theo ý của McNamara và chiến dịch dội bom Bắc Việt chỉ giới hạn trong việc làm giảm tiềm năng quân sự của Bắc Việt. Bốn tháng sau, Tướng Lemay bị buộc phải về hưu. Đó là sai lầm thứ nhất của Hoa Kỳ, hay nói đúng hơn là của cá nhân McNamara. Lý do là Nga và Trung Cộng không có cớ để đem quân vào đối đầu với Mỹ một cách công khai thì chúng lén lút, trá hình.Trong khi đó, việc Mỹ oanh tạc Bắt Việt suốt tám năm trời gây thiệt hại cho Mỹ nhiều mặt hơn là cho Bắc Việt.

    Trở lại miền Nam với Việt Nam Cộng Hoà thì tình hình không mấy khả quan. Vào tháng Chín 1963, khi McNamara và Tướng Taylor sang Việt Nam tìm hiểu về tiến triển của cuộc chiến chống cộng sản xâm lăng thì mặc dầu tình hình chính trị không mấy yên ổn, hai ông cũng có lý do để lạc quan khi nhìn thấy hàng tướng lãnh có nhiều vị khá. Ở Sài Gòn thì có Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm mà người Mỹ đã công nhận là xuất sắc ngay từ khi ông là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Ở tuyến đầu, chỉ huy Quân Đoàn I là Thiếu Tướng Đỗ Cao Trí, một quân nhân Nhảy Dù có tài điều quân và hăng say với nhiệm vụ. Quân Đoàn II thì có Thiếu Tướng Nguyễn Khánh, một quân nhân Nhảy Dù khác cũng rất khá. Ngoài ra, tư lệnh các sư đoàn Bộ Binh, các binh chủng thiện chiến cũng đều là các sĩ quan ưu tú. Chưa đầy một năm sau, khi hai ông cùng nhau bàn thảo việc thúc đẩy cuộc chiến chống cộng mạnh hơn và nhanh hơn thì tình hình đã thay đổi nhiều.

    Khi Tướng Taylor nhậm chức Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông thấy trong số các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hoà đang cầm quân chỉ có một vài vị mà ông tin tưởng là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn II, Đại Tá Cao Văn Viên, Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù. Riêng Tư Lệnh Quân Đoàn III là Thiếu Tướng Trần Ngọc Tám thì Mỹ không biết gì nhiều. Một thời gian ngắn sau đó, Ông Cao Văn Viên được thăng cấp thiếu tướng, giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Điều này khiến phía Hoa Kỳ rất an tâm vì Tướng Viên giỏi mà không hề có tham vọng chính trị, nhất định không theo bất cứ một phe phái nào. Tư Lệnh Quân Đoàn IV là Trung Tướng Dương Văn Đức và Tư Lệnh Quân Đoàn I là Thiếu Tướng Tôn Thất Xứng thì người Mỹ cho rằng bảo thủ không thích chiến thuật của Hoa Kỳ. Chưa đâu vào đâu thì xảy ra vụ đảo chánh mà chúng ta sau này gọi là "biểu dương lực lượng" do Tướng Dương Văn Đức chủ xướng. Sau vụ này, lại có hàng loạt thay đổi về nhân sự. Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi ra giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I. McNamara thấy Tướng Thi là một người dám nói dám làm, nhưng làm bậy nhiều hơn là làm đúng. Quả nhiên, vụ "bàn thờ xuống đường" sau đó cho thấy Tướng Thi không sợ chính quyền trung ương mà lại sợ mấy tên trọc như Trí Quang, Đôn Hậu và làm bậy cũng vì nghe mấy tên trọc này xúi dại.

    Vào Quân Đoàn II thì cũng vì vụ biểu dương lực lượng mà Tướng Đỗ Cao Trí bị Tướng Khánh nghi ngờ rồi bị cách chức, cho đi làm đại sứ. Thay thế Tướng Trí là Tướng Nguyễn Hữu Có mà ngay từ thời Đệ Nhất Cộng Hoà Mỹ cho là một người bất trung. Chẳng bao lâu sau đó, chính Tướng Trần Thiện Khiêm cũng bị Tướng Khánh ép đi làm đại sứ. Tướng Khánh lúc đó không chú tâm vào việc nước mà chỉ lo sao để loại những nhân vật mà ông cho là khiến cho ông không ăn ngon ngủ yên. Cuối cùng, McNamara thấy không còn biết tin tưởng những ai, vì những nhân vật mà ông biết rõ là có khả năng quân sự đều không còn cầm quân nữa.

    Đại Tướng William Westmoreland, Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, có cái nhìn khác hẳn với McNamara. Tướng Westmoreland đi thăm cả những làng mạc xa xôi để tìm hiểu tình hình, địa thế. Ông đọc từng báo cáo của các cố vấn các đơn vị gửi về. Qua đó, ông biết khả năng của từng viên quận trưởng, của từng tiểu đoàn trưởng của Việt Nam. Vì thế nên Tướng Westmoreland rất có cảm tình với Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà cũng như đồng bào thôn quê. McNamara thì không được như thế. Là một người chưa bao giờ cầm súng chiến đấu bỗng nhiên trở thành một tổng trưởng, ông chỉ nhìn vào hàng tướng lãnh trở lên, và ông đã đánh giá không đúng những tướng lãnh trẻ của Việt Nam Cộng Hoà mà ông chưa biết rõ. Đến khi Henry Cabot Lodge sang Việt Nam thay thế Tướng Taylor, giữ chức đại sứ một lần nữa thì kể từ đó McNamara không còn quan tâm đến những vị tướng lãnh của Việt Nam Cộng Hoà nữa. Ông chỉ tham khảo với Lodge và riêng đối với Tướng Westmoreland, McNamara cũng bất đồng ý kiến nhiều lần.

    Cuối cùng, hồ sơ nói trên của Hoa Kỳ kết luận rằng cuộc chiến tranh chống cộng tại Việt Nam thất bại từ khi McNamara chán nản, không chịu bàn thảo với các cấp chỉ huy của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Họ dẫn chứng rằng vào Tết Dương Lịch 1968, bốn tuần lễ trước biến cố Mậu Thân, Tướng Moreland đã nêu ra một số chiến thắng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà để kết luận rằng nếu giới truyền thông không muốn, không dám nói tốt cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà thì tốt hơn cả là họ đừng nói về cái quân đội ấy. Với dẫn chứng đó, hồ sơ kết luận rằng cuộc chiến chống cộng tại Việt Nam là của dân Việt Nam, có Hoa Kỳ hậu thuẫn mạnh về mọi mặt. McNamara đã không chịu nhìn vào thực tế đó mà biến nó thành một cuộc chiến tranh độc quyền của Hoa Kỳ nên không phối hợp với Việt Nam mà đơn phương hành động, một sai lầm về cả chính trị lẫn quân sự.

    Đó là kết luận của người Mỹ về sai lầm của người của họ. Về phía người Việt Nam chúng ta, chúng tôi xin đưa ra vài nhận xét cá nhân như sau.

    Thứ nhất là về Tướng Nguyễn Khánh. Ông là người đã gây ra biết bao nhiêu tai hại chỉ trong một năm cầm quyền. Ông đã cách chức bao nhiêu người, và còn giết chết nhiều nhân vật mà chúng tôi thiết nghĩ là không đáng tội chết. Ông đã gây ra biết bao xáo trộn trong thời kỳ đó.

    Thứ hai là về Tướng Trần Thiện Khiêm. Trong bao nhiêu năm qua, chúng tôi chưa bao giờ khen hay chê trách ông này vì nhiều lý do. Ông chủ trương đảo chánh ngay từ đầu, vì ông tin tưởng rằng mục đích của đảo chánh là để loại trừ ông Ngô Đình Nhu. Đến khi thấy đám Minh - Đôn - Xuân - Đính làm quá, lại cũng chính ông đứng ra lật đám này. Nếu Tướng Khiêm không làm như thế, chúng ta có Tháng Tư Đen ngay từ 1964, 1965 chứ không phải 1975.

    Theo Tướng Trần Văn Đôn thì khi còn tam đầu chế Minh - Khánh - Khiêm, thấy Tướng Khánh lộng hành quá, Tướng Khiêm mới nói với Tướng Minh rằng "Anh cứ Ừ một tiếng thôi, tôi làm một cú đẹp lắm. Khánh đi liền!" Tướng Minh chỉ nhép miệng cười chứ không dám "Ừ!" Kể lại việc này, Tướng Đôn nói Tướng Minh quá hèn còn Tướng Khiêm quá trọng nguyên tắc.

    Cái kẹt cho Tướng Khiêm là ông làm việc cho CIA. Vì thế, không tiện cho ông đứng ra giữ trọng trách quốc trưởng mà phải để cho một người như Tướng Nguyễn Khánh. Nếu Tướng Khiêm giữ vai trò quốc trưởng, đừng hòng mà đám sinh viên, đám trọc dám xuống đường làm loạn. Với thiết quân luật, ngay cả ông đô trưởng hoặc tổng trấn cũng có quyền thẳng tay với bọn phá rối trị an. Và, chắc chắn là Tướng Khiêm sẽ khiển trách các vị này nếu như họ không trị bọn xuống đường làm loạn.

    Sau đó, lại cũng vì là người làm việc cho CIA mà Tướng Khiêm đành phải để cho các tướng trẻ đang lên ra nắm giữ trọng trách. Nếu Tướng Khiêm giữ chức Chủ Tịch Uỷ Ban Lãnh Đạo Quốc Gia hoặc Chủ Tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương, đám Trí Quang, Đôn Hậu, Minh Châu tù mục xương lâu rồi. Tướng Khiêm là một người mà ngay cả Mỹ cũng phải e dè, chứ không chủ trương ôn hoà và nương tay trong thời chiến như những vị khác.


    Tháng Tám 1970. Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và phu nhân được Thủ Tướng Nhật Bản
    Eisaku Sato nghênh đón tại Phi Trường Haneda Airport, Đông Kinh
    Last edited by Nguyen Huu Thien; 11-01-2024, 04:55 PM.
  • Nguyen Huu Thien
    Moderator

    • Jul 2014
    • 1213

    #2
    NGÔ ĐÌNH DIỆM (1901-1963)

    St Joseph's Collingwood, Melbourne, Australia, 2/11/2024. Thánh lễ tướng nhớ
    do Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tiểu bang Victoria tổ chức.
    Last edited by Nguyen Huu Thien; 11-02-2024, 09:07 AM.

    Comment

    • Nguyen Huu Thien
      Moderator

      • Jul 2014
      • 1213

      #3
      ĐOÀN CÔNG TÁC ĐẶC BIỆT

      Trong phần II, tác giả viết về Trung tướng Mai Hữu Xuân “...Nguy hiểm nht là Xuân, tay sai ca Pháp, đã th gn hết nhng tên Vit Cng nguy him nht mà các đoàn công tác đặc bit dưới thi Tng Thng Ngô Đình Dim đã bt được.”

      Vì cậu ruột của tôi, Trung úy Vũ Mạnh Hùng (cấp bậc sau cùng Trung tá), xuất thân Khóa 13 VBQG, ngày ấy là Trưởng đoàn Công tác Đặc biệt tại Đà Nẵng, tôi xin trình bày về tổ chức và hoạt động đặc biệt này như sau.

      Trước cuộc đảo chánh năm 1963, VNCH chỉ có Nha Chiến Tranh Tâm Lý thuộc Bộ Quốc Phòng chứ chưa có Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Các Đoàn Công tác Đặc biệt thuộc quân số của Nha Chiến Tranh Tâm Lý nhưng hoạt động dưới sự điều động của Sở Nghiên Cứu Chính Trị của ông Ngô Đình Nhu.

      Hai nhiệm vụ chính của các Đoàn Công tác Đặc biệt là:
      1. Chiêu dụ các cán bộ cộng sản về quy thuận chính phủ quốc gia, sử dụng họ vào công tác địch vận, tức là móc nối kêu gọi những cán bộ khác về quy thuận, và chỉ điểm các thành phần nằm vùng.
      2. Giam giữ, khai thác các cán bộ cộng sản cao cấp bị bắt.
      Vì hoạt động dưới sự điều động của Sở Nghiên Cứu Chính Trị, các Đoàn Công tác Đặc biệt đã bị các thành phần chống chế độ của TT Ngô Đình Diệm chụp mũ là “mật vụ của Diệm Nhu”, khi cuộc đảo chánh năm 1963 xảy ra đã bị truy lùng như những tên tội phạm!

      Riêng cậu tôi may mắn được một số người tốt bụng ở Đà Nẵng giúp đỡ ẩn náu hơn một tháng trời trước khi trốn được về Sài Gòn.

      Cũng sau cuộc đảo chánh 1963, Thiếu tướng Trần Tử Oai lên nắm Nha Chiến Tranh Tâm Lý, với đầu óc thiển cận đã cho giải tán các Đoàn Công tác Đặc biệt.


      Một số sĩ quan trong Đoàn Công tác Đặc biệt (luôn luôn mặc thường phục); cậu tôi đứng mép trái, mất tại
      Hoa Kỳ năm 2022; thứ hai từ phải là Đại úy Tôn Thất Đàm (Khóa 4 Thủ Đức), mới qua đời tại Úc-đại-lợi
      Last edited by Nguyen Huu Thien; 11-04-2024, 02:45 PM.

      Comment



      Hội Quán Phi Dũng ©
      Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




      website hit counter

      Working...