Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Tư Tưởng của Dân Tộc Việt Nam

Collapse
X

Tư Tưởng của Dân Tộc Việt Nam

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Tư Tưởng của Dân Tộc Việt Nam

    Tư Tưởng của Dân Tộc Việt Nam


    Phạm Văn Bản


    Kinh Việt:Sứ Ðiệp Hạnh Phúc của Văn Hóa Việt -- cuốn sách dày 530 trang viết bởi Nam Thiên Nguyễn Ðức Sách, do nhà xuất bản Hoa Tiên Rồng năm 1982, tại Brisbane Úc Ðại Lợi. Chữ Kinh, là người Kinh, một dân tộc chính yếu của đất nước Việt Nam.

    Tác gỉa Nam Thiên công bố rằng: “Kinh Việt là một cố gắng tìm hiểu Văn Hóa Việt qua nếp sống của đại đa số dân chúng Việt.

    Lịch sử minh xác rằng đại đa số dân Việt có một nếp sống riêng, khác biệt với nhiều điều thường thấy trong sách vở. Sở dĩ có tình trạng này, vì xã hội Việt thời trước gồm hai hạng người: hạng biết chữ và hạng không biết chữ.

    Hạng biết chữ là những người đã học chữ nho, đọc nhiều sách vở của Trung Hoa, và theo Khổng học. Hạng không biết chữ là hạng không biết đọc viết, không biết sách vở, mà chỉ biết sống theo truyền thống của Tổ Tiên.

    Với sự phức tạp của chữ nho, hạng không biết chữ chiếm hơn 95% dân số.

    Tuy nhiên, dầu hơn 95% dân chúng sống theo phong tục và niềm tin riêng, họ vẫn không được biết đến bằng hạng 5% biết đọc biết viết, và biết ghi chép thành sách vở.

    Do đó, nếu chỉ căn cứ vào sách vở để tìm hiểu, chúng ta chỉ biết được nếp sống của 5% dân Việt, và sẽ có nhiều nhận định sai lầm về văn hóa Việt,” (Trích phần 1.a. Kinh Việt).

    Sau khi đọc xong bộ sách Kinh Việt, cuốn sách nói về Kinh, là một dân tộc chính yếu của người Việt Nam, tôi không biết lấy gì hơn để cảm tạ tác gỉa Nam Thiên đã dày công nghiên cứu và biên soạn Ðạo Sống Việt. Thứ đến tôi xin có vài lời thô thiển sau đây để trình bày lại cảm nghĩ của mình là độc gỉa, sau khi đọc Kinh Việt thì tổng kết sách và cám ơn tác giả đã giúp mình bình thân, mở tâm, khai trí, thông tuệ nhằm chu toàn bổn phận trách nhiệm của người Con Cháu Tiên Rồng trong thời đại tín nghiệp (Industrial Age) ngày nay.

    Càng ngày càng đọc, tôi lại càng bàng hoàng trước sự thâm thúy diệu vời mà Tổ Tiên mình đã dạy trong Kinh Việt, đã giúp chúng ta sống thật trong Văn Hóa Việt, Nếp Sống Việt và là Con Người Việt.

    Hệ Tiên Rồng - nói theo kiểu Nam Thiên - là hệ thống tư tưởng chỉ đạo sống động và hiện thực, được diễn tả theo ngôn từ hiện đại đặt căn bản trên biểu tượng Kinh Việt và lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam trải qua hơn bốn nghìn năm lịch sử, và hơn năm nghìn năm phát triển trong thời đại nông nghiệp (Agricultural Age) từ thời Hùng Vương.

    Hệ thống tư tưởng này không phải do một người hay một nhóm người “phát minh” hay sáng chế ra, mà là cả một nền văn minh văn hóa đồng bào đang sống trong lòng dân tộc Việt Nam, dù ý thức có khác biệt ít nhiều, tùy người. Nhưng hệ tư tưởng này không còn là học thuyết, lý thuyết, chủ thuyết mà là một sinh thức hệ, Sinh Thức Tiên Rồng.

    Bởi thế, việc tìm hiểu, khảo cứu, áp dụng, sống và nhìn người khác xung quanh đang sống, để thích nghi với hiện cảnh, trọn tâm trọn ý vào Đạo Sống là cả một tiến trình dài, dài như lịch sử của bao ngàn năm, vẫn tiếp diễn cao siêu và hiện thực, và đó là một đặc điểm của người Việt Nam chúng ta, và cũng là con đường cứu nguy nhân loại thiết thực ngày nay.

    Có thể nói mỗi câu, mỗi mệnh đề đang chờ đợi một thiên khảo cứu về lịch sử và văn hóa… cho nên đây cũng là phần chúng ta tìm hiểu thảo luận để nhận thức trách nhiệm và bổn phận Con Cháu Tiên Rồng, và xin bạn đừng quên đóng góp những khám phá mới của bạn về kho tàng văn hóa chính trị của Tổ Tiên chúng ta.

    Kinh Việt - tinh hoa đúc kết lời khuyên ngàn đời của Tổ Tiên… mỗi chi tiết, mỗi câu nói thành bài học thâm thúy mà Tổ Tiên nâng niu trang trọng trao lại cho con cháu… làm thành một hệ thống biểu tượng chỉ đạo.

    Ðiểm đặc biệt là Tổ Tiên để lại một hệ thống biểu tượng, chớ không phải hệ thống ngôn từ hay hệ thống tư tưởng… vì rằng ngôn từ hay tư tưởng có thể theo thời gian hay chế độ mà bị bóp méo, bị làm lệch lạc ý nghĩa. Thí dụ, chữ “tự do” được hiểu theo cách khác biệt trong các chế độ hay đảng phái ngày nay.

    Nhìn lại cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ (American Civil War) thì Đảng Cộng Hòa (Republican Party) chủ đích xây dựng Chủ Nghĩa Tư Bản (Capitalism) và khai trương Thời Đại Công Nghiệp (Industrial Age) nhằm chống Chế Độ Nô Lệ (Slavery) của Thời Đại Nông Nghiệp (Agricultural Age) do Đảng Dân Chủ (Democratic Party) thực hành.

    Sự đối kháng thời đại này đã gây ra cuộc nội chiến giữa 25 Tiểu Bang trong khối Liên Bang Miền Bắc (Union) và 11 Tiểu Bang của khối Liên Minh Miền Nam (Confederate States) kéo dài trong 4 năm từ ngày 12 tháng 4 năm 1861 tới ngày 9 tháng 5 năm 1865 dẫn đến tử vong của 750 nghìn binh sĩ Hoa Kỳ và số lượng thương vong dân sự không thể kiểm chứng.

    Đó là chiến tranh ý thức hệ. Trái lại, biểu tượng thì trước sau vẫn thế, cứ tùy thời mà chúng ta dùng biểu tượng diễn tả theo ngôn từ hiện đại, và thoát ra được những cuộc chiến tranh không cần thiết phải có.

    Trong mỗi phần bài, tác gỉa Nam Thiên nêu ra phần “Chính Kinh” là phần cố gắng ghi chép lại những điểm chính yếu, cưu mang bài học của Tổ Tiên. Dĩ nhiên với thời gian, qua sự phù trợ của Thần Linh Sông Núi chúng ta sẽ nhận được sự đóng góp của nhiều người giúp bản chính kinh ngày thêm phong phú và toàn vẹn.

    “Diễn Kinh,” với tham vọng đào sâu diễn giải biểu tượng đến tận ý nghĩa, chúng tôi cố gắng đạt đến điểm tột cùng. Do đó phần diễn kinh đôi khi trở thành khó hiểu cho một số người.

    Tuy nhiên chúng tôi tin tưởng rằng bạn đọc có thể căn cứ vào lịch sử rút ra những thí dụ, những gương sống thực của các vị Anh Hùng Nữ Kiệt mà giúp nhau tìm hiểu, học hỏi và thông suốt bài học của Tổ Tiên.

    Sau phần diễn kinh là phần Tìm Hiểu về Kinh qua văn hóa dân tộc. Riêng Kinh Tiên Rồng vì là Kinh Nền Tảng, gọi là nền tảng vì trong đó chúng ta có nhận diện, hay định về về Con Người và Xã Hội Con Người một cách hoàn chỉnh, toàn diện, và đúng thực.

    Phần này được coi là đúc kết nét đặc thù của văn hóa Việt, khai thác hết nét đặc thù đó, chúng ta có một hệ thống tư tưởng chỉ đạo sống động và hiện thực, gọi chung là Hệ Tiên Rồng, qua nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp Hoàn Chỉnh để áp dụng vào cơ cấu tổ chức xã hội con người, tức Bọc Mẹ Trăm Con.

    1. Kinh Tiên Rồng: Kinh nền tảng, chúng ta rút ra nguyên lý sinh hóa của vạn vật, đặc biệt căn cứ trên con người, tức nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp Hoàn Chỉnh.

    Với Kinh Tiên Rồng, chúng ta có được định nghĩa về con người hoàn chỉnh toàn diện, đúng thực. Và nhận diện xã hội con người là xã hội đồng bào (Một Bọc Trăm Con), tức xã hội anh em bình đằng và thân thương tột cùng.

    Ngoài ra, chúng ta cũng có thể đem con người thật của văn hóa Việt để nghiệm lại thân phận con người trong nền văn hóa khác như sinh vật kinh tế, hay con thú tiến bộ…

    2. Kinh Trầu Cau: Kinh Trầu Cau chia sẻ với Kinh Tiên Rồng và rút ra từ Bọc Mẹ Trăm Con (từ cái xã hội hai anh em sinh đôi, giống nhau như đúc, thương nhau rất mực, và chưa hề lìa nhau) để áp dụng vào đời sống con người bằng Nếp Sống Tiên (hay Kinh Sống Tiên): Thân Thương Tột Cùng của con người!

    Kinh Trầu Cau đặt nền tảng tương quan giữa người với người. Nghĩa là “thương nhau trọn tình, sẵn sàng chết vì thương, và dẫu có chết cũng vẫn còn thương.”

    Vì là nền tảng tương quan giữa người với người, nên cũng là nền tảng cho xã hội con người, từ tổ chức gia đình, gia tộc, dân tộc và nhân loại.

    Lời linh huấn của Tổ Tiên quá thâm thúy diệu vời, khiến chúng ta nhìn lại xã hội Việt với bao tấm gương sống nào là lòng mẹ bao la như biển Thái Bình, thiếu phụ Nam Xương, Anh phải sống, nuôi chồng tù cải tạo, rồi lo cho chồng vượt biên… thành tín với vợ, chung thủy đợi chờ ngày bảo lãnh đoàn tụ,… tới chết cho gia đình và quê hương: “Tình nhà tình nước chết chưa hết tình.”

    3. Kinh Chữ Ðồng: Nếu như Kinh Trầu Cau rút từ tổ chức “Bọc Mẹ Trăm Con” ra hai anh em, hai con người để áp dụng nguyên lý “Thân Thương Tột Cùng” thì để dạy bài học “Bình Ðẳng Tột Cùng” tức Nếp Sống Rồng (hay Kinh Sống Rồng), Tổ Tiên ta lấy lại hình ảnh Tiên Rồng nơi nàng Công Chúa Tiên Dung (đẹp, sang, giầu, được yêu thương, kính trọng quyền thế cao cả… tột cùng trong xã hội.

    Chúng ta thường nói sướng như tiên, theo chữ nho, chữ nhân ghép với chữ sơn thành chữ tiên, tiên là người ở núi, núi của (vật chất).
    Nàng qủa là nàng tiên giáng trần đang khi chàng rồng Chữ Ðồng đói khổ lang thang bờ sông bãi sú kiếm ăn.

    Chàng có cái khố vì hiếu mà liệm cho cha lúc cha lìa trần… Ông Bà ta dạy gì vậy? Xin thưa, muốn sống với nhau thì phải thấy nhau bằng con người thật, con người tinh tuyền, con người không bị vật chất che phủ… Thật là thâm thúy cho ta nụ cười thi vị của người xưa!

    Chàng là rồng, ẩn mình trong lòng đất (thủy phủ) đang khi công chúa Tiên Dung vây màn tắm gôi... Nàng từ trời xuống, chàng từ đáy huyệt lên... Nàng giầu sang tuyệt thế, chàng tệ hơn khố rách áo ôm! Xin hỏi có hơn công chúa và ai thua không khố homeless, thế mà nên duyên! Song Hiệp… thì xin hỏi xã hội còn kẽ hở nào để mà phân cách, mà phân chia giai cấp?

    Chính nhờ sự Song Hiệp Tiên Rồng đó, con người được hạnh phúc. Tiên Dung Chữ Ðồng đã giúp dân. Họ có cả một chương trình phát triển xã hội: giáo hóa dân chúng (dạy dân phép tiên), phát triển kinh tế (lập phố xá), ngoại thương (ra biển đi buôn), phát triển giao dịch, lưu thông (gậy thần rút đất)… và rồi khi họ Về Trời dân chúng cũng được về theo, nghĩa là chúng ta cũng được thành tiên, đẹp như tiên và sướng như tiên, hạnh phúc, cực lạc.

    Xét tới đây chắc chắn trong số qúy vị cũng đã hiểu ít nhiều hơn cả người viết này rồi, đã nắm vững sự tích các kinh… và còn bao điều muốn nói nhưng mà làm sao nói hết cho được. Vì mỗi con cháu Việt, con cháu Tiên Rồng với tâm hồn, máu huyết là cả một kho tàng tiềm ẩn, vậy xin cứ tự khai thác gia tài tổ tiên trong ta.

    Vấn đề tìm ra nguyên nhân của thảm họa nhân loại hôm nay, đó là vì chủ nghĩa chủ thuyết đã nhận định sai lạc về Con Người, và do đó đặt nền tảng gỉa tạo cho Xã Hội loài người.

    Khi quan niệm con người chỉ là con thú tiến bộ, hay sinh vật tiêu thụ sản xuất, khi chỉ nhìn nhận con người với một số đặc tính mà chối bỏ những đặc tính khác, khi chủ trương con người phải đối xử với nhau bằng hận thù, bằng đấu tranh, bằng mánh khóe… thì làm sao con người có được hạnh phúc, an vui? Ví dụ cuộc nội chiến Hoa Kỳ mà chúng tôi đã dẫn chứng ở phần trên.

    Và rồi những sai lầm nền tảng về con người và xã hội loài người, đã được Tổ Tiên Việt giải quyết thỏa đáng với tinh túy của câu chuyện “Con Rồng Cháu Tiên.” Qua ý nghĩa chuyện kết hiệp giữa hai biểu tượng Tiên Rồng, tương đồng tuyệt đối, 50 theo mẹ 50 theo cha, và cũng qua biểu tượng, mọi người đều từ Một Bọc chứa đựng một trăm anh em ruột thịt.

    Kinh Tiên Rồng qủa là bản văn nhận diện chính xác và trọn vẹn về con người và về xã hội loài người.

    Qua đó, chúng ta có thể nhận ra con người gồm cả thân xác, trí khôn, lẫn tâm tình và thông hiệp với thế giới bên kia (siêu linh). Con người là một hiệp thể toàn nhất, tự tại, bất khả phân, nhưng đồng thời Con Người cũng bẩm sinh là thành phần của xã hội.

    Trong cùng một lúc, khởi sự có Con Người là có luôn 100 người!
    Với Kinh Tiên Rồng, chẳng những chúng ta giải quyết những xung đột giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể, mà còn xác quyết rằng thế giới vận hành không phải do mâu thuẫn nội tại, mà nhờ Song Hiệp Hoàn Chỉnh.

    Ở cấu thành cũng như ở mọi sinh hoạt của con người, luôn luôn phải có sự hòa hiệp đúng đắn và đầy đủ giữa hai cấu tố tương đồng, được biểu trưng qua Tiên và Rồng, như giữa cá nhân và cộng đồng, giữa gia đình và làng nước, giữa vật chất và tinh thần, giữa tình và lý, giữa kinh tế và đời sống.

    Các chủ thuyết hôm nay thất bại trong cố gắng tiêu diệt bất công, vì chúng đã tạo ra những giai cấp mới. Nhưng Kinh Chữ Ðồng của văn hóa Việt, với chàng Chữ Ðồng không khố và nàng công chúa Tiên Dung, đã đưa ra, chẳng những quan niệm mà còn nguyên tắc và phương thức hành động, để xã hội được thực sự bình đẳng, loại trừ giai cấp, đặc quyền, lạm dụng, ỷ lại quyền thế, kỳ thị chủng tộc.

    Ðứng trước cái thế giới băng hoại đầy hận thù, lường gạt, mạnh được yếu thua,… và gia đình suy thoái, tan rã … Con người càng thêm cô độc đơn côi, bơ vơ vất vưởng thì Kinh Trầu Cau lại đặt nền tảng cho sự liên hệ đích thực giữa Người và Người, cũng như cho cách sống thực những mối ràng buộc thiết yếu, thực tại và cao qúy của con Người.

    Không phải chỉ lý thuyết suông, mà còn là những phương thức thực tế, áp dụng từ trong cội nguồn tâm tư đến việc thể hiện nơi cuộc sống hằng ngày và thành quả sinh động trước mắt.

    Sau các kinh nền tảng cho con người và cuộc sống con người trong xã hội, Tổ Tiên Việt dạy về một cơ cấu quan trọng nhất, đã chi phối mạnh mẽ đời sống con người, đó là nước, quốc gia.

    4. Kinh Tiết Liêu: Nếu như Kinh Chữ Ðồng đề ra nguyên tắc phát triển xã hội, thì Kinh Tiết Liêu dạy việc Trị Nước An Dân. Vua Cha muốn truyền ngôi dạy chúng ta dâng lễ vật thờ cúng tổ tiên, trong khi nhiều nền văn hóa khác lại dạy phải kiếm nhiều thủ cấp của dân láng giềng…

    Và Tiết Liêu vì hiếu thà lo cho mẹ hơn làm vua… nên làm bánh dày bánh chưng… và rồi làm vua! Ðó không phải là nền tảng An Dân Trị Nước sao?

    Tiết Liêu có tinh thần dân tộc (thờ cúng Tổ Tiên), hiếu thảo (gia đình là gốc của nước, như trong Kinh Trầu Cau), không màng giầu sang nhưng biết lo cho dân (lấy gạo làm căn bản sống của dân), có sáng kiến, phát triển kinh tế (gạo nấu cơm để lâu dễ bị thiu, nhưng làm thành bánh dày bánh chưng thì để được cả tháng trời)… lại đủ đạo Trời đạo Ðất (tròn, vuông)… Con người như thế không đáng trị nước an dân?

    Nhìn vào đời sống con người trước mặt, chúng ta có kinh nghiệm đắng cay với những thể chế độc tài, đảng trị!

    Mặt khác, lại cũng thấy nhan nhản những tệ đoan trong xã hội dân chủ “đấu thầu,” dựa trên quảng cáo mỵ dân và mỵ cán bộ… thì với hai kinh: Kinh Tiết Liêu và Kinh An Tiêm đã phân định rõ ràng hai hệ thống tổ chức nước làng để định đặt một nếp sống dân chủ đúng nghĩa, trung thực, thực tiễn, bảo đảm hữu hiệu và vững chắc cho cuộc sống tự do hạnh phúc của mọi người.

    5. Kinh An Tiêm: Chuyện qủa dưa đỏ cũng hình thành bài học tương tự! Thà bị Vua Cha đày oan còn hơn phải trốn theo tầu buôn mà về đất liền làm giặc… Nhưng khi có qủa dưa đỏ, dưa hấu, một loại của ngon vật lạ nơi hải đảo đã gởi về dâng vua, biếu nước!

    Và từ đó dân ta, đặc biệt nơi miền khô cháy nóng bỏng, được thêm món ăn tươi mát thơm ngon… Chàng chẳng đáng mặt trị nước an dân?
    Dưới khía cạnh kinh tế, chúng ta có thể nói, Kinh Tiết Liêu phát triển trên đất, nội địa… Kinh An Tiêm phát triển vùng biển, ngoại thương… và đừng quên Kinh Chữ Ðồng!

    6. Kinh Vọng Phu: Chồng ra đi giúp nước, nàng ôm con chờ chồng hóa đá, nghe sao thật đơn sơ! Nhưng biết đến bao giờ ta mới sống trọn vẹn bài học “bổn phận làm dân,” và bài học “người nào việc nấy” của kinh này! Vẫn biết, mọi người bình đẳng, nhưng hễ sinh ra thì mỗi người mỗi khác, và mọi người cũng phải tùy vào tài sức mình mà đóng góp!

    Chàng là rồng thì chàng phải “làm mây làm mưa” với đời. Còn phận thiếp là tiên lý đâu mà đòi làm sấm làm sét? … Bởi biết thế nên ôm con “lo gánh vác giang sơn … nhà chồng!” để giúp chàng an tâm đem tài năng giúp dân cứu nước!

    Và rồi biết bao hình ảnh như “Mẹ gìa cuốc đất trồng khoai, nuôi con đánh giặc,” và Tổ Tiên ta thưởng công nàng cho nàng hóa đá!

    Vạn vật, con người, xã hội, đất nước đều có, nhưng Tổ Tiên vẫn không quên cá nhân từng người.

    7. Kinh Trương Chi: Với Kinh Trương Chi, ông bà ta đã tả thẳng vào nỗi niềm thâm sâu nhất, nơi trái tim con người, căn cội của hạnh phúc cá nhân.

    Chuyện kể chàng lái đò xấu trai Trương Chi với mối tình của người đẹp nhà giầu Mỵ Nương. Nàng tương tư qua tiếng sáo của chàng, để khi gặp nhau nàng bỗng dửng dưng.

    Nhưng tiếng sét ái tình đã làm chàng chết trong tẻ lạnh. Mối tình lãng mạn, đẹp và buồn làm sao!

    Và mối tình tuyệt vời và tuyệt vọng đó đã biến tim chàng thành chén ngọc … và chàng vẫn mãi chèo đò trong chén ngọc, chờ cho được giọt nước mắt người yêu! Chén mới tan, tình mới trọn!

    Ai dám bảo Tổ Tiên ta khô cằn, lìa xa tâm hồn con người?

    8. Kinh Mỵ Châu: là Kinh Giữ Nước! Xây thành làm gì cái Cổ Loa, cậy vào khí giới có ích chi cái nỏ thần, chờ đợi chi người xa lạ thần Kim Quy?… Xây thành cho dân khổ! Phung phí làm dân cùng cực! Ỷ nỏ thần mà quên dân!… Thành cao, khí giới tốt có ích chi khi chính người con gái yêu, con dân cuối cùng Mỵ Châu cũng còn đối nghịch!

    Dùng chuyện thương tâm An Dương Vương Mỵ Châu Trọng Thủy là câu chuyện công chúa làm mất nước, để dạy chúng ta bài học Giữ Nước, tức là phải giữ hồn nước, giữ dân nước, giữ sức nước, và giữ đất nước!

    9. Kinh Phù Ðổng: Là Kinh Cứu Nước. Giặc chiếm đã (ba) năm, và trong ba năm đó, dân chúng đã nằm chỉ như đứa bé: không thể đi, không thể đứng, không thể nói, không thể cười! (cũng như hôm nay, dân tộc ta đã như Phù Ðổng: không thể đi, không thể đứng, không thể nói, không thể cười đã hơn nửa thế kỷ qua, vì chưa thấy Tổ Về!)…

    Nhưng rồi Tộc Tổ hiện về (Cụ Gìa áo đỏ, múa nhảy với bọn trẻ ngoài đầu xóm!) như trong Kinh Tiên Rồng, khi Cha Rồng xác tín: “Khi nào cần thì gọi, ta về ngay!”

    Vâng lời Tổ, Vua Hùng sai sứ đi tìm người cứu nước… và Cậu Bé Phù Ðổng lắng nghe sứ vua… vươn vai thành người cao lớn… nhảy lên ngựa sắt, cầm roi sắt để đánh giặc Ân, … Khi giặc thua thì cậu dùng tre làm roi mà đánh:

    Ôi! Bài học nhân thứ (từ roi sắt cậu chuyển sang roi tre để giặc bớt đau khi đã thua chạy)… Ôi! Toàn dân toàn diện (dân làng mang gạo, áo… giúp cậu ăn mặc, rồi to lớn đến nỗi phải dùng hoa mà kết phủ!)

    Ngựa sắt cũng hét ra lửa! Gốc tre cũng hữu hiệu hơn gươm giáo!… Và rồi lũy tre xanh, hệ thống làng mạc, chẳng những giúp ta thắng giặc cứu nước, mà còn giúp toàn dân Phù Ðổng làm lại cuộc đời! Hạnh phúc như tiên… bay Về Trời!

    Kinh Phù Ðổng chẳng những chỉ phương cách cứu nước cho mỗi người, cho tổ chức, và cho cả một dân tộc, mà đồng thời, lồng trong đó còn có cả một kế hoạch vĩ đại cho việc Cải Hóa Con Người và Cải Hóa Xã Hội!

    Cũng như Vua Hùng, kinh xác định những đức tính thiết yếu của chúng ta là dám nhận thực hiện trạng phũ phàng, dám tin tưởng tuyệt đối vào sức sống, sức mạnh của dân tộc, dám “lột xác” để thích ứng với tình thế mới, dám quyết tâm dấn thân để làm đến thành công.

    Kinh khởi sự với việc nêu rõ những điều kiện, những đức tính cần thiết để cải hóa từng người, rồi từ một người tới một tổ chức, từ một tổ chức đến mọi người khác … Kinh duyệt qua từng giai đoạn, từng công tác, từng hành động… từ việc vận động tinh thần, tới các điều kiện đoàn kết, qua phương thức phát hiện tiềm năng, tới cách thể hiện điều hợp, ứng biến và tập trung sức mạnh.

    Kinh còn nêu rõ vấn đề vai trò của các chủ lực, cả những thái độ và những phương thức để khỏi rơi vào tròng độc tài, áp bức… Tất cả được Tổ Tiên chỉ dẫn từng bước cụ thể, từng giai đoạn thực tế, để từng người, từng nhóm người và toàn thể nhân loại trở về với Con Người đích thực và để Xã Hội cũng trở thành đích thực, trọn vẹn là xã hội của loài người.

    Nhìn lại Kinh Mỵ Châu, Tổ Tiên ta chém chết nàng công chúa làm mất nước. Nàng có tội với nước thì bị xử phạt thích đáng hầu răn dạy người khác tránh tội. Làm mất nước là tội không thể tha thứ!

    Nhưng tình nhà, nàng đã chung thủy với chồng, thương chông và nghe chồng đến nỗi làm mất nước! Tổ Tiên ta xét đoán phân minh: Làm mất nước là tội tử hình! Nhưng trọn tình nhà thì cho nàng thăng hoa “thành ngọc” (Máu Mỵ Châu chảy xuống biển, trai ăn thành ngọc).

    Và ngọc đó chỉ rửa bóng khi lấy nước trong giếng sâu nơi chồng nàng Trọng Thủy tự tử đền tội với vợ! Ðừng quên Kinh Tiên Rồng: Nước và Nhà! Và cũng dừng quên Kinh Trầu Cau: Thương nhau trọn tình, chết vì người mình thương, và dẫu chết cũng vẫn còn thương!

    Ở cấp Nước, những người An Dân Trị Nước như Tiên Dung Chữ Ðồng thành Tiên, Phù Ðổng thành Thần… Tiên, Thần là phần thưởng công, phần thăng hoa hay tinh túy của “linh thiêng.”

    Nhưng ở cấp Tình Nhà, Kinh Trầu Cau qua chuyện người em “hóa đá,” máu Mỵ Châu trọn tín thác chồng thì “hóa ngọc,” trái tim Trương Chi ôm mối tình câm, chỉ vì con người phân chia đẹp xấu, giầu nghèo… thì cũng “hóa ngọc.” Ðá, ngọc là kết tinh, tinh túy của “vật chất!”

    Và nói đến cả hai phần vật chất và tinh thần (siêu linh) trong mỗi Con Người của chúng ta đều được thăng hoa thành đá, thành ngọc, thành Tiên, thành Thần… chúng ta đã trở về với Kinh Tiên Rồng gồm linh thiêng và vật chất của con người.

    Vậy có sự an ủi và niềm hãnh diện nào hơn được làm Con Cháu Tiên Rồng!

    Phạm Văn Bản

  • #2

    Comment



    Hội Quán Phi Dũng ©
    Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




    website hit counter

    Working...
    X