Thông báo

Collapse
No announcement yet.

“việt nam buồn lắm em ơi”

Collapse
X

“việt nam buồn lắm em ơi”

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • “việt nam buồn lắm em ơi”

    “VIỆT NAM BUỒN LẮM EM ƠI”



    Trần Trung Đạo

    Chuyện ca sĩ Tuấn Ngọc sửa lời nhạc của Tình Bơ Vơ qua rồi. Chắc hôm nay ông đang hối hận trong lòng. Trước ông đã có nhiều ca sĩ cùng thời với ông hát bài này trong nước nhưng họ không sửa lời. Âu đó cũng là một bài học cho ông.

    Hát sai lời hay sửa lời không phải chỉ xảy ra lần đầu. Nhiều ca sĩ vô tình hát sai nhưng cũng có ca sĩ cố tình hát sai. Ca sĩ Khánh Ly trong bài Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên của nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn thu lần đầu năm 1979 đã sửa “đâu rộn ràng giọng hát Khánh Ly” thành “đâu rộn ràng giọng hát Thái Thanh” để bày tỏ sự kính trọng dành cho ca sĩ đàn chị của mình. Đó là một cách sửa lời đáng quý.

    Nhưng trường hợp của ca sĩ Tuấn Ngọc thì khác. Trong video, rõ ràng ông đã cố tình sửa hai chữ quan trọng nhất trong bản nhạc từ “Việt Nam” sang “Chiều nay”.

    Ca sĩ Tuấn Ngọc nhìn vào bản nhạc để ngay trước mặt và còn đeo kính lão nữa. Dù sao, để công bằng cho ca sĩ Tuấn Ngọc, người viết ‘google’ câu “chiều nay buồn lắm em ơi“ nhiều lần để biết đâu ai đó đã sửa trước và ông gặp vận xui nên đã dùng bản sai đó. Nhưng không có. Ông cố tình hát “Chiều nay buồn lắm em ơi”.

    Sửa những chữ khác không sao nhưng thay chữ “Việt Nam” bằng “Chiều nay” thì khác. Dư luận khắt khe, có khi nặng lời không cần thiết nhưng họ không có lý do riêng gì để thù hằn ca sĩ Tuấn Ngọc mà chỉ ghét thế lực mà họ nghĩ ca sĩ Tuấn Ngọc vừa thỏa hiệp. Dù ghét bao nhiêu cũng không nên mạt sát vì mạt sát là hành động của những người tuyệt vọng.

    Do đó, trong chiều sâu và thực chất của vấn đề, sự phẫn nộ vừa qua không phải là phẫn nộ giữa người dân với ca sĩ Tuấn Ngọc mà giữa người dân với đảng CS. Những người phê bình ca sĩ Tuấn Ngọc nghĩ rằng ông “mặc áo giấy” để làm vừa lòng "ma". Phê bình ca sĩ Tuấn Ngọc là một cách phê bình đảng mà không sợ bị tù.

    Người viết cũng không nhắm vào cá nhân ca sĩ Tuấn Ngọc mà chỉ mượn câu chuyện thời sự có liên quan đến ông để viết về một quan tâm lớn hơn, đó là tính thỏa hiệp.

    Khái niệm thỏa hiệp (compromise) được dùng trong mọi lãnh vực để chỉ một sự nhân nhượng giữa hai bên tranh chấp mong đạt đến một điểm có thể cùng chấp nhận. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp thỏa hiệp chỉ có tính đơn phương, một chiều, tự khuất phục, tự hạ thấp giá trị của mình để lấy lòng người khác, thế lực khác.

    Nhạc sĩ Vũ Thành An biện hộ cho ca sĩ Tuấn Ngọc: “Các bài hát cũ được truyền từ người nọ qua người kia, không có nguyên bản, không tham khảo Nhạc Sĩ nên sai lời là phổ biến. Ca Sĩ khi hát thường tìm lời trên Internet. Những gì trên Internet cũng là sao chép lại.”


    “Thầy phó tế”, cựu sĩ quan QLVNCH, cựu tù cải tạo Vũ Thành An hồ hởi
    phấn khởi về thành Hồ lên TV ca tụng tình ca của mình!

    Lời biện hộ này không đủ tính thuyết phục. Ít thuộc nhạc và chưa từng hát Tình Bơ Vơ như người viết bài này mà còn biết trong nhạc phẩm đó có câu “Việt Nam buồn lắm em ơi” nói chi là một ca sĩ đã hơn nửa thế kỷ sống bằng nghề ca hát. Ông có thể chưa hát nhưng hẳn đã nghe đồng nghiệp hát không phải một lần mà nhiều lần.

    Một bản nhạc, một bài thơ hay một bài văn đều có tâm hồn và tâm hồn được thể hiện bằng những câu nổi bật làm người đọc sẽ nhớ lâu. Trong nhạc phẩm Tình Bơ Vơ câu nổi bật là “Việt Nam buồn lắm em ơi”.

    Nhạc sĩ nổi tiếng ở miền Bắc là Phú Quang từng bị trù dập suốt 10 năm chỉ vì câu “đâu phải bởi mùa thu” nhưng ông nhất định không thay lời bài hát mà còn chửi đám tuyên huấn là “ấu trĩ”. Nhạc sĩ Phú Quang không thỏa hiệp và đã thắng.

    Các nghệ sĩ Lộc Vàng, Phan Thắng Toán và Văn Thành bị kết án 10 năm tù chỉ vì hát những bản tình ca, đa số là về mùa thu, của Văn Cao, Đoàn Chuẩn, nhưng không ai đọc chuyện các anh sửa lời bài hát dù đang sống trong xích xiềng sắt máu của chế độ CS thập niên 1960. Ba nghệ sĩ trong nhóm Lộc Vàng không thỏa hiệp và bước ra khỏi nhà tù như những người chiến thắng.

    Một ngày khi chế độ CS ra đi, âm nhạc là lãnh vực được thay đổi nhanh chóng và dễ dàng nhất. Ngay hôm nay trên đường phố Sài Gòn, trong những quán nhạc, những quán cà phê đều hát nhạc VNCH và đặc biệt là nhạc lính VNCH. Bên cạnh những Tình Ca, Hướng Về Hà Nội, các nhạc phẩm Những Rừng Lá Thấp, Anh Không Chết Đâu Em, Trăng Tàn Trên Hè Phố v.v... đang được hát. Nhạc VNCH là một phần trong đời sống tinh thần của người dân thuộc nhiều thế hệ khắp ba miền. Các em, các cháu có thể chưa hiểu hết nội dung nhưng chắc chắn biết Việt Nam đã từng có một thời tự do và đáng yêu như thế.

    Có lẽ hôm nay ca sĩ Tuấn Ngọc đang tự trách phải chi mình cứ giữ nguyên và hát một cách tự nhiên. Nhưng giấu đi hai chữ “Việt Nam” làm cho vấn đề không chỉ trở nên trầm trọng mà còn xúc phạm đến mọi người Việt Nam có ý thức và tình cảm dân tộc.

    “Việt Nam” hai tiếng rất thiêng liêng nhưng cũng đầy đau thương và nhức nhối.

    Tiếng súng đã ngưng 47 năm nhưng mỗi người Việt trong cũng như ngoài nước, ở mức độ khác nhau, đều còn mang trong tâm hồn một vết thương chưa lành nằm phía dưới làn da mỏng. Họ sống có vẻ bình thường nhưng một hạt muối, một mũi kim, một cơn gió mạnh có thể sẽ làm vết thương đang mưng mủ vỡ ra.

    “Việt Nam buồn lắm em ơi” không chỉ là câu nhạc của nhạc sĩ Lam Phương mà cả một khung trời, một tâm cảm của con người và một vấn nạn chưa giải quyết xong của đất nước.

    Những kẻ làm cho “Việt Nam buồn lắm em ơi” đang sống trong các biệt thự cao sang, khi chết được chôn trong các nghĩa trang rộng 55 ngàn mét vuông như trường hợp Trần Đại Quang, con cái họ học trung học tư ở Mỹ, học đại học tư ở Mỹ, mua nhà giá hàng triệu dollar bằng tiền mặt ở Mỹ. Tiền đâu nếu không phải tham nhũng từ mồ hôi, nước mắt và cả máu của đại đa số người dân bị trị.

    Sau 47 năm nhưng cuộc chiến vẫn chưa tàn. Các thành phần dân tộc chống độc tài đảng trị cũng đang một lớn dần. Họ không còn cô đơn, lẻ loi, đơn độc nhưng những ngày sau 1975 ở nhà thờ Vinh Sơn, Sài Gòn hay ở chùa Dược Sư, Cần Thơ. Sức mạnh của người dân không thua kém gì sức mạnh của đảng. Họ tận dụng mọi thành quả của cuộc cách mạng tin học và khai thác mọi kẻ hở của bộ máy cai trị để chống lại bạo quyền. Dĩ nhiên trong đó có việc chống lại những kẻ a dua, toa rập và thỏa hiệp với bạo quyền.

    Đảng có nhà tù nhưng người dân có lương tri. Đảng có bộ máy tuyên truyền lừa bịp nhưng người dân có sự thật. Cuộc đấu tranh giữa công lý và bạo lực rất cam go và có thể còn kéo dài khá lâu nhưng đảng cũng biết không nhà tù nào đủ lớn để nhốt hết được lương tri.

    Nhà tù CS có giới hạn không gian trong khi lương tri là cả một dòng sông lịch sử dài mang tâm hồn Việt Nam bao la bát ngát chảy qua nhiều thế hệ. Dòng sông đó vẫn chảy và vẫn đang bồi đắp phù sa khát vọng tự do dân chủ cho hôm nay và mai sau.

    Sau 30 tháng 4, 1975, khi chủ trương đốt sách, đảng nghĩ chỉ cần nửa thế kỷ khi các thế hệ chiến tranh qua đời hết sẽ không còn ai nhắc đến Việt Nam Cộng Hòa, nhắc đến sách vở, âm nhạc, thơ ca được sáng tác trước 1975.

    Nửa thế kỷ sắp qua nhưng Việt Nam Cộng Hòa không chỉ được nhắc nhở mà đang sống hào hùng trong giáo dục, văn học, âm nhạc, thi ca và lý luận chính trị. Sự thật như ánh sáng mặt trời có thể nhất thời bị che khuất bởi đám mây đen nhưng không mất. Tần Thủy Hoàng, Stalin, Hitler đều đốt sách nhưng cũng đều không che giấu được tội ác của mình.

    Chế độ CS tại Việt Nam chỉ là một chế độ tạm thời. Cơn bão sẽ qua đi và những ngọn lúa Việt Nam sẽ đứng dậy. Wojciech Jaruzelski của Ba Lan biết điều đó. Janos Jozsef Kadar của Hungary biết điều đó. Họ là những hung thần của một thời chuyên chính vô sản nhưng cuối cùng đã phải đầu hàng trước lương tri của dân tộc họ và của loài người yêu chuộng tự do. Việt Nam rồi cũng thế.

    “Việt Nam buồn lắm em ơi” là sự thật hôm nay.

    Tùy theo tầm hiểu biết và nhận thức của mỗi người, một chị bán hàng rong hay một nhà nghiên cứu chính trị chiến lược dù không nói ra nhưng đều công nhận “Việt Nam buồn lắm em ơi”.

    Thân phận Việt Nam trong lòng một chị bán hàng rong và một nhà nghiên cứu có một điểm băn khoăn giống nhau là không biết ngày mai sẽ ra sao. Ngày mai gia đình chị sẽ ra sao. Ngày mai đất nước anh sẽ ra sao. Ngày mai dân tộc chúng ta sẽ ra sao.

    Nhà nghiên cứu nhìn sang Cambodia, nhìn sang Philippines, nhìn sang Đài Loan, nhìn ra những dàn hỏa tiễn đặt trên bảy căn cứ quân sự dưới dạng “đảo nhân tạo” của Trung Cộng trên Biển Đông đang chĩa vào Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn và lo cho tương lai dân tộc sẽ về đâu. Việt Nam như con ếch “ổn định” trong nồi nước nóng của Tập Cận Bình đang đun. Lửa mỗi ngày một bốc cao hơn. Nước mỗi ngày một nóng hơn. Với tình cảnh này, sớm hay muộn, nếu không tìm cách nhảy ra, ếch Việt Nam cô đơn sẽ bị luộc chết trong nồi Đại Hán.

    Chị bán hàng rong cũng thế. Chị nhìn đàn con ốm yếu, nhìn bếp lửa tối âm u, nhìn căn nhà tôn dột nát và lo cho gia đình mình, các con rồi sẽ ra sao. Chúng có cơ hội đến trường như bao nhiêu đứa trẻ khác hay không. Cho dù đủ sức học thì tiền đâu để đóng học phí, để ăn, để sống cho tới khi ra trường. Mùa đông nào cũng lạnh nhưng con nhà nghèo sẽ lạnh hơn và đêm nhà nghèo sẽ dài hơn.

    Phân tích từ phạm vi quốc tế cho đến gia đình để thấy Việt Nam cần thay đổi tận căn bản và cần sự góp sức của mọi người còn quan tâm đến vận nước. Thỏa hiệp với chế độ là phản bội lợi ích của đại đa số người dân Việt Nam.

    Dòng văn minh nhân loại đã chảy qua những sa mạc ở Bắc Phi và Trung Đông như Tunisia , Libya, Ai Cập v.v.. và Mùa Xuân Arab (The Arab Spring) đang có ảnh hưởng tích cực tới Việt Nam. Các cuộc cách mạng dân chủ Arab là những cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử loài người được hướng dẫn bằng các mạng tin học. Trong cuộc cách mạng xã hội lần này, không cần ai phải “xếp bút nghiên”, không cần ai phải “biệt kinh kỳ”. Cuộc tranh đấu để bào mòn chế độ, cô lập chế độ và loại bỏ chế độ đang diễn ra ngay trước mắt mọi người dưới nhiều hình thức.

    Vô số việc cần làm và nên làm. Một nhóm bạn mang tình thương đến cho các cháu mồ côi, một nhóm bạn khác quyên góp từng áo mùa đông cho các cháu vùng cao, một nhóm bạn mở trường dạy chữ, mỗi người một việc, đơn giản nhưng tràn đầy ý nghĩa. Một khi nhận thức được nâng cao, tình thương được lan tỏa rộng, hận thù và nghi kỵ sẽ tan dần đi như khói như sương.

    Đảng đang ở trong thế thủ chỉ còn trông cậy vào nhà tù và bộ máy tuyên truyền đang mất dần tác dụng. Các thành phần dân tộc chống thỏa hiệp với chế độ có mặt ở khắp nơi và đang thắng thế.

    “Việt Nam buồn lắm em ơi” nên Việt Nam phải thay đổi để sống còn với thời đại. Mỗi người trong điều kiện và khả năng của mình nên thuận theo đà phát triển của văn minh để góp phần làm thay đổi xã hội Việt Nam thay vì thỏa hiệp với giới cầm quyền để kéo dài chế độ độc tài đảng trị.

    Về nước sống dưới sự cai trị của đảng CS là thỏa hiệp với chế độ dù người đó là ai và nhân danh bất cứ lý do gì. Nhưng trong khi sống và hành nghề trong lòng chế độ cũng nên đặt ra cho chính mình một lằn đỏ tránh vượt qua. Lằn đỏ đó chính là tư cách và trách nhiệm của một người Việt Nam đối với tương lai dân tộc và các thế hệ đi sau.

    Trần Trung Đạo


    Tuấn Ngọc trong buổi ra mắt CD của Trần Long Ẩn tại thành Hồ

    Last edited by Nguyen Huu Thien; 03-13-2023, 06:24 PM.

  • #2
    Trời vào thu, Đại Ngu buồn lắm em ơi ..

    Dương Tự Lập
    2-4-2023

    (Thế hệ một thời đi qua vòm trời vàng son Việt Nam Cộng Hòa)

    Trước đó đã có, nhưng rầm rộ hơn phải được tính từ đầu năm 2004 khi ông cựu Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa bốc đồng Nguyễn Cao Kỳ do được những tay “bác sĩ” Cộng sản tài tình kết nối “khúc ruột dư” của ông trở về Việt Nam thành “khúc ruột Thừa ngàn dặm”.
    Năm kế tiếp 2005 là lão nhạc sỹ Phạm Duy, người có số phận quá tam ba bận. Kháng chiến chống Pháp ông bỏ chiến khu về Thành, chia cắt hai miền ông bỏ Thành Hà vào Nam, Bắc thâu tóm Nam ông bỏ Nam chạy sang Mỹ. Ba mươi năm mang kiếp sống của kẻ lưu vong.
    Từ đó đám chống Cộng xôi thịt bên Mỹ như bọn Nguyễn Ngọc Lập, Hoàng Duy Hùng, Nguyễn Phương Hùng… theo gương ông Kỳ từ Mỹ ào ạt trở về, và cũng đều giống nhau, khi đặt chân xuống sân bay, bọn chúng nước mắt lưng tròng nức nở nghẹn ngào, ân hận, tự nhận đã một thời lầm đường lạc lối, đầy mình tội lỗi đối với đất nước non sông.
    Tiếp nối theo có đám ca sĩ Việt ở Mỹ cũng rầm rộ kéo nhau về “kiếm ăn” bởi ở Mỹ thị trường âm nhạc ấy đã hết… ăn. Kiều bào ta rải rác khắp nước Mỹ thời điểm này khoảng hai triệu người. Thế hệ thích nhạc xưa ngày một thưa thớt, trong khi ở Việt Nam một trăm triệu dân, lượng khán giả háo hức đón nhận dòng nhạc vàng, Bolero này còn thịnh hành, còn đông lắm. Thôi thì sống đâu cũng là sống, cũng vẫn phải làm, vẫn phải tồn tại. Chuyện cơm áo gạo tiền gắn liền sinh mạng.
    Hơi phiền là các ca sĩ này cứ tưởng bở, được hát những bài hát của họ tự chọn thoải mái như trên sân khấu Mỹ, Pháp, Úc… Như trên sân khấu quê nhà của thời vàng son Việt Nam Cộng hòa còn tồn tại. Họ được trở về Việt Nam hành nghề đã là một “đặc ân lớn” của Chính phủ, của Đảng phẩm chất, trí tuệ, cùng lòng bao dung độ lượng nhân ái dành cho dân và vì dân. Nếu không phải Đảng Cộng sản Việt Nam thì chẳng có cái Đảng chó nào trên thế gian này vĩ đại, giầu lòng chắc ẩn hơn.
    Nào là Chế Linh, Thanh Tuyền, nào là Phương Dung, Giao Linh, nào là Hương Lan, Tuấn Vũ, rồi Khánh Ly, Tuấn Ngọc… ùn ùn theo nhau kéo về hát trên sân khấu quê nhà hợp hòa dân tộc. Tất cả các ca sĩ này có một số phận na ná giống nhau, tiền sử của họ đều bị khép tội phản động, bỏ chạy vào ngày “Đất nước trọn niềm vui” 30-4-1975. Họ trở thành thuyền nhân (Boat people) lênh đênh biển cả. Mạng họ đào hoa nên chưa bị sa vào ruột cá. Đến nay tuổi của họ cũng kha khá là cao. Ông Đỗ Phủ cười xếp tất cả loại này vào bọn “người xưa nay hiếm”.
    Chương trình của họ vé đã được bán hết, đang chuẩn bị trình diễn, hoặc diễn hát giữa chừng mà lỡ có bị cúp mất điện, tắt đài thì chỉ là chuyện hài Xã hội chủ nghĩa, chuyện muỗi. Lỗi này nếu truy xét nguyên nhân thì đều do từ dân xướng ca phạm luật chơi, đi sai đường hoặc hát chệch hướng chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương.
    Xin nêu mấy trường hợp mới xẩy ra đối với nhóm ca sĩ đã trải qua chế độ Việt Nam Cộng hòa trở về hát trên quê nhà thời gian gần đây để ta suy ngẫm.
    Chế Linh gốc người Chăm, từng sáng tác và hát cho lính “Ngụy quân, Ngụy quyền”. Tuổi trẻ vô Sài Gòn nói tiếng Việt chưa sõi. Bắt đầu nổi tiếng từ bài hát đầu tiên “Tình bơ vơ” của nhạc sĩ Lam Phương. Từng bị chế độ Cộng sản bỏ tù rồi vượt biên thoát nạn. Ra hải ngoại, đứng trên sân khấu Thúy Nga Paris by night dám đóng vai Vua Champa Chế Bồng Nga, vị vua vĩ đại cuối cùng của Quốc vương Chăm vì sau khi ông tử trận năm 1390 khép lại lịch sử cường hùng, người sau thế ông không ai hơn được. Nước Chăm cũng bị nhà Hồ Đại Ngu đánh chiếm giang sơn dần, mất hết đất đai thịnh vượng và về sau bị xóa sổ hoàn toàn.
    Báo An Ninh Thế giới cuối tháng ngày ấy đã đăng hình ông “Vua Chế Linh” trong bộ áo bào uy nghi lẫm liệt và có hẳn một trang dài luận tội Chế cực kỳ phản động, dám gợi lại một triều đại đã qua. MC Nguyễn Ngọc Ngạn thì đùa tếu, Chế là người vô tổ quốc, người nước ngoài nói hai thứ tiếng. Nay cho về lại Việt Nam hát là hồng phúc rồi, nếu lỡ như có xẩy ra sự cố chi chi đó khi chuẩn bị trình diễn tại Thủ đô Hà Nội như hồi trung tuần tháng 11 năm 2022 thì chỉ là do phúc của Chế hết hồng mà thôi. Dẫu có thế nào thì Chế cũng đừng oán than chế độ ưu việt đãi ngộ cho Chế trở về, bởi kết cục nó tất phải thế.
    Khánh Ly làm cả một chương trình show tại Đà Lạt cuối tháng 6 năm 2022 không sao, ngứa nghề tương thêm bài “Gia tài của mẹ” (Trịnh Công Sơn sáng tác):
    “Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
    Một trăm năm đô hộ giặc Tâу
    Hai mươi năm nội chiến từng ngàу
    Gia tài của mẹ để lại cho con …
    Gia tài của mẹ một rừng xương khô
    Gia tài của mẹ một núi đầу mồ…
    Gia tài của mẹ một nước Việt buồn”…

    Tắt điện. Cấm hát, về nước Mỹ mà hát. Giá như lúc đó nữ ca sĩ này hứng lên hát: “Như có Bác trong ngày vui đại thắng” (Phạm Tuyên), hay “Tiếng hát từ thành phố mang tên Bác” (Cao Việt Bách), hoặc “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người” (Trần Kiết Tường), “Đất nước trọn niềm vui” (Hoàng Hà) … chắc chắn Khánh Ly còn được hát, hát nữa, hát mãi, hát tẹt ga, ca tẹt sức. Thậm chí sẽ được hát khuyến mại, hát dưới ánh điện sáng trưng, hát tưng bừng như chưa bao giờ được hát.
    Hỏng rồi! Giặc Tây thì còn được chớ sao lại có giặc Tàu ở đây? Sao lại nội chiến, bọn chúng ông “đánh cho Mỹ cút đánh Ngụy nhào” kia mà, phải nói ngoại chiến chứ, nội chiến cái con khỉ tiều, chẳng hiểu gì về điện. Xương khô nào đầy mồ. Việt nào là Việt buồn, không thấy chúng ông suốt ngày vui như có Bác, sướng như được sống bên lăng Người đó thây. Tắt, biến.
    Nói vui vậy thôi chứ gì thì gì ca sĩ Khánh Ly vẫn đáng khen bởi bà dũng cảm “Hát trên những xác người” (Trịnh Công Sơn) của một trời tóc tang Mậu Thân Huế 1968 bị Cộng sản tàn sát:

    “Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người
    Tôi đã thấy, tôi đã thấy,
    Trên con đường, người cha già ôm con lạnh giá.
    Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người
    Tôi đã thấy, tôi đã thấy,
    Những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em”.

    Thể hiện nhạc phẩm nào thì Khánh Ly cũng rất tôn trọng tác giả cùng lời ca trong bài hát. Dẫu có bị Ban Tuyên giáo đuổi về lại nước Mỹ thì bà cũng nên vui vẻ. Không vì thế mà danh của bà sứt mẻ mòn hao.
    Khánh Ly có chung số phận đắng cay với hơn một triệu người dân miền Nam đúng ngày “Đất nước trọn niềm vui” ấy, Ly chạy ra biển, Ly biến sang Mỹ. Trên sân khấu tự do thân hình gầy gò khô héo, Ly hát rắt réo : “Đêm chôn dầu vượt biển” (của Châu Đình An) nghe đau nhói:

    Đêm nay anh gánh dầu ra biển anh chôn
    Anh chôn, chôn hết cả những gì của yêu thương
    Anh chôn, chôn mối tình chúng mình
    Gửi lại đây trăm nhớ ngàn thương
    Tạm biệt… nước non!

    Rồi Ly lại hát: “Một chút quà cho quê hương” của (Việt Dzũng) sao tang tóc hãi hung:
    Con gởi về cho cha một manh áo trắng
    Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây
    Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy
    Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình…

    Cả tác giả lẫn người hát đều là nạn nhân, thuyền nhân, chứng nhân trong cuộc chiến cốt nhục tương tàn, tiêu tan đất nước. Nên Ly thả hồn mình vào lời ca thổn thức, nhói nhức tâm can, chứa chan nước mắt, đau thắt con tim.
    Cũng giống Chế Linh, Báo An Ninh Thế giới cuối tháng ngay sau đó có bài viết đầy trang về bà. Vạch trần bộ mặt phản quốc, tiểu sử Lệ Mai (tên thật của Khánh Ly) còn gọi Mai “đen” sinh ra và lớn lên trên phố Hàng Bông – Hà Nội. Đích thị gốc người Tràng An thanh lịch. Theo mẹ di cư vào Nam năm 1954 khi còn tuổi nhỏ lên chín lên mười, rồi trưởng thành người ca sĩ trong chế độ Ngụy Sài Gòn bơ thừa, sữa mứa của Mỹ.
    Lịch sử ở đâu? Lịch sử chính là đây? Trong ca, văn, nhạc, họa chốn này… Thế hệ sau ta có hiểu nổi sao lại phải vượt biển? Sao lại phải chôn dầu mỗi nơi một chút, sao lại phải chôn lén lút giữa đêm đen. Phải gom tới bao nhiêu hộc dầu như thế mới đủ được cho ghe, cho xuồng chạy ra hải phận Việt Nam.
    Sao đất nước văn hiến, văn vật mà cứ tối đen như mực, nào là “Tắt đèn”, tiểu thuyết Ngô tất Tố. Sau “Đêm đông” nhạc phẩm Nguyễn Văn Thương, đến “Đêm hội Long Trì”, tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng, “Đêm chôn dầu vượt biển” ca khúc Châu Đình An, “Cái đêm hôm ấy… đêm gì” bút ký Phùng Gia Lộc, “Đêm giữa ban ngày” hồi ký Vũ Thư Hiên, “Đêm dày lấp lánh” chính luận Nguyễn Thanh Giang… Ôi đất nước tôi, triền miên nghe nỗi đau của mẹ: “Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ”. Ôi đất nước tôi, những kẻ biệt xứ xa xôi, lòng hằng mong giản đơn thôi “Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình”.
    Ngỡ đất nước thanh bình nên bốc đồng Nguyễn Cao Kỳ muốn gửi nắm tro tàn của mình trên quê hương vào cuối đời như mơ ước. Khi cầm quân chống Bắc Việt ông Tướng cao bồi này đã đại bại, lúc nhắm mắt ông Kỳ còn thảm hại hơn. Ông ta phải chết ở nước ngoài. Nghe bảo cô con gái ông ở Mỹ có đi nói khó với mấy chùa người Việt bên đó nhờ ký gửi nắm tro cốt của cha mình họ mới chịu. Còn nhạc sĩ Phạm Duy (Phạm Duy Cẩn), người Hà Nội “xịn” trăm phần trăm luôn, sinh tại phố Hàng Cót, sống chỗ phố Hàng Dầu:

    Nhà tôi ở phố Hàng Dầu
    Số nhà năm bốn (54) đứng đầu… du côn” (Hồi ký)

    Trước khi nhắm mắt, ông lấy làm tiếc là nhiều tác phẩm của mình còn bị cấm. Hai trường ca chưa được cấp phép “Con đường cái quan” và “Mẹ Việt Nam”. Ông nhận thấy hoàn toàn thất bại khi người Việt còn chưa thực sự hòa hợp hòa giải cho dù đất nước đã thống nhất từ lâu.
    Sau năm 1975 các vở kịch “Lá sầu riêng” (Kim Cương), “Đời cô Lựu” (Trần Hữu Trang), “Nửa đời hương phấn” (Hà Triều-Hoa Phượng)… tràn ra, dẹp dần các đoàn kịch Bắc. Gần nửa thế kỷ sau dòng nhạc vàng – Bolero của các nhạc sĩ miền Nam lan tỏa khắp bản làng thôn quê nước Việt. Thậm chí các cuộc thi Bolero bao giờ cũng được đón nhận người thi, người xem đông đảo, hoàn hảo, hào hứng, sôi nổi nhất. “Tình bơ vơ” (Lam Phương), “Xuân này con không về” (Trịnh Lâm Ngân), “Nỗi lòng người đi” (Anh Bằng), “Hai mùa mưa” (Lê Minh Bằng), “Trăng tàn trên hè phố” (Phạm Thế Mỹ), “Hoa trinh nữ” (Trần Thiện Thanh) …
    Người nặng lòng gìn giữ phát huy di sản “tàn dư văn hóa đồi trụy” này ở Hải ngoại, công lớn nhất phải nhắc tới cố Giáo sư Tô Văn Lai (To Lai Peter) 1937 – 2022. Vượt biên sang Pháp cuối năm 1976, từ hai bàn tay trắng sáng lập gây dựng nên hãng băng dĩa Thúy Nga Paris, hãng băng dĩa lớn nhất của người gốc Việt ở hải ngoại, mang tên – Trung tâm Thúy Nga.
    Ngày ông mất báo chí trong nước im hơi lặng tiếng. Nghe nói cô con gái ông là Tô Ngọc Thủy (Marie To) thay cha đem chương trình Thúy Nga về trình diễn lởn vởn mấy quốc gia châu Á sát Việt Nam như Singapore, Bangkok-Thái Lan. Người Việt mua vé bay sang xem đông như ngày hội. “Khúc ruột đặc biệt” ngàn trùng cách trở của dân tộc không được kết nối. Tội.
    Rút ra sự thật bẽ bàng hôm nay và mãi muôn sau lời khẳng định chắc nịch của ông Tuyên giáo mẫn cán Trần Long Ẩn, Ủy viên Thường vụ Hội Nhạc sĩ Việt Nam: “Toàn bộ nền văn hóa nghệ thuật miền Nam trước năm 1975 là độc hại. Cần xóa bỏ hết”. Sặc mùi tanh tưởi, Nhổ rồi Liếm đã thành căn bệnh mãn tính của ban bệ này.



    Dẫu sao mấy ca sĩ trên đây nói gì thì nói vẫn còn tư cách, giấy rách mà giữ được lề chứ cái nhà ông thợ hát Tuấn Ngọc kia tự tiện sửa lời làm ôi mặt làng “xướng ca muôn loài”. Trong ca khúc “Tình bơ vơ” nổi tiếng của cố nhạc sĩ Lam Phương hồi giữa tháng 3 năm 2023 này được tổ chức mở show tại Sài Gòn.
    Nguyên bản “Trời vào thu Việt Nam buồn lắm em ơi”, Tuấn Ngọc hát thành “Trời vào thu chiều nay buồn lắm em ơi”. Phần đông khán thính giả, người xem, người đọc, bức xúc, xô vào bình luận chửi bới phê phán Ban Tuyên giáo quá khắt khe, rồi thì Ban Tuyên giáo hay nhăm nhe soi mói, Ban Tuyên giáo dữ dằn hơn con sói đói mồi, nên Tuấn Ngọc phải sửa lời, vân vân và vân vân…
    Sai, hoàn toàn sai nếu trút hết nỗi căm giận cùng tội lỗi này lên đầu Tuyên giáo quốc gia. Nhiều người còn suy luận hát về mùa Thu Việt Nam thì phải tươi sáng, hào hùng khí thế như mùa thu Cách mạng tháng Tám 1945, Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9. Nếu có đúng chỉ đúng một phần nào đó thôi. Trong khi lỗi đó lại do chính “Ngọc hành” – xử trên sân khấu.
    Cứ cho là Ngọc sợ Tuyên giáo cấm chứ bảo Ngọc quên lời nên hát sai càng không đúng vì đời Ngọc hát bài này có dễ đến trăm lần dư. Nếu còn nhân cách không phải hạng người giẻ rách chiếu manh thì ông ta bỏ hát bài đấy, lấy bài hát khác thế thôi có sao đâu, Tuyên giáo chắc bái chào thua. Cũng không phải vậy, đã lâu rồi trước đó “Tình bơ vơ’ được các ca sĩ hát ở Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội. Các sân khấu diễn tại Sài Gòn, và nhiều nơi khác nữa trên cả nước mà vẫn trung thành với bản gốc, bài hát vẫn thể hiện được đúng lời. Như thế là không có sự cấm đoán ở đây, chí ít đúng bài này.
    Tôi ghép thêm môt kẻ nữa cùng dân sàn diễn thời gian chưa xa, đó là Giám đốc nhà hát kịch, thằng hề láo Xuân Bắc. Vẫn biết nó là thằng hề của Tuyên giáo hay Tuyên giáo đẻ ra thằng hề Xuân Bắc xược láo cũng vậy. Thay vì tiếp thu lời phê bình của khán giả trong chương trình Táo quân trên Đài Truyền hình VTV càng ngày càng nhạt nhẽo, Bắc đã bịa bài viết “Cái tát của mẹ” chửi xéo Sử-tô nghĩa là Tổ-sư khán giả. Vậy nếu có vả thì ta vả gẫy răng vỡ mồm thằng hề láo chứ không thể vả mồm Tuyên giáo Trung ương. Ấy vậy mà ối kẻ vẫn ngu ngơ, bao biện cho Bắc, nghiêm khắc với Ban Tuyên giáo mới hay.
    Quay lại chuyện ca sĩ Tuấn Ngọc, nay ông ta đã ở tuổi 75, đi mấy mươi năm trên con đường ca hát. Ông ta thừa trình độ để hiểu rõ nghệ thuật bao giờ cũng lưu giữ thông tin, ghi lại lịch sử, dấu tích của thời thế. Các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ khi viết họ đã dồn hết tâm huyết vào tác phẩm của mình, mỗi câu mỗi chữ sáng tác ra đầy ắp nỗi niềm trăn trở, chỉ có họ mới có quyền sửa lời họ viết. Ngay cả Ban Biên tập muốn sửa câu chữ cũng phải hỏi ý kiến nếu tác giả còn sống chứ chưa nói thợ hát Tuấn Ngọc dám tự ý thay chữ khi tác giả đó đã khuất.
    Tôi đã từng kể về người hàng xóm nhà tôi, nhạc sĩ Phạm Tuyên, vào dịp kỷ niệm ba mươi năm chiến tranh biên giới phía Bắc, Nhà xuất bản thuộc bên Quân đội yêu cầu ông sửa lại ca từ “quân xâm lược Bành trướng dã man” trong bài hát “Chiến đấu vì độc lập tự do” để đỡ bớt sự hung hãn của giặc Trung Quốc, vì Đảng sợ Bắc Kinh nổi giận. Người ta dự định sẽ cho ra mắt một tuyển tập nhạc đồ sộ: “Những khúc quân hành vượt thời gian”. Ca khúc “Chiến đấu vì độc lập tự do” của nhạc sĩ Phạm Tuyên viết trong đêm 17 sang ngày 18-2-1979 không thể bỏ qua. Nó không chỉ đơn giản là bài hát, mà còn là trang sử bi tráng quý giá sống động, chính xác hơn trăm vạn lần những trang sử dối trá khác của cuộc chiến tranh hào hùng đánh giặc bành trướng xâm lăng dân tộc đã bị tẩy xóa, giấu giếm, cắt xén, cấm đoán, thêm tốt bớt xấu cho Trung Quốc. Phạm Tuyên kiên quyết từ chối và người ta cũng từ chối đưa bài hát của ông vào tuyển tập. Nếu lúc đó ông đồng ý sửa thì nhân cách của ông có còn hay không. Bài hát đó có ai thèm ca nữa hay không.
    Cũng thời gian cả nước dồn hết tổng lực đánh đuổi giặc cướp Trung Quốc trên biên giới phía Bắc năm 1979 đó, có thần đồng thơ Trần Đăng Khoa đang ngồi bó gối ba láp ba la tại nước Nga viết: “Uống rượu với người bạn Nga”
    Nào nâng cốc! Mừng quê tôi
    Quân Tàu bị đánh vỡ mặt. Cút rồi.
    Biên giới mùa này, hoa ban nở
    Loài hoa như trái tim người! (1979)
    Khi lọt đít vừa chiếc ghế Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Khoa sợ “thế lực thù địch” thân bọn Bành trướng ngầm hãm hại, Khoa hãi vãi vứt không thương tiếc những hạt máu chữ lịch sử trên của mình để thay vào:
    Và em gái hái nho ấy
    Mắt em như cốc rượu đầy
    Chỉ nhìn vào mầu mắt ấy
    Là tôi đã ngả nghiêng say.
    Hai khổ thơ hoàn toàn trật lất, không ăn nhập gì với nhau. Thần đồng vớ thần đồng vẩn. Liêm sỉ có hạn, khốn nạn dư thừa. Khoa chưa đủ tầm cỡ “Phong trần, mài một lưỡi gươm” nhưng dứt khoát vào hạng “Những loài giá áo túi cơm sá gì” (Nguyễn Du).
    Hành động sửa lời đổi chữ tùy tiện dại dột dốt nát của bô lão xướng ca Tuấn Ngọc cũng chỉ xếp vào loài giá áo túi cơm như Trần Đăng Khoa vậy thôi. Việc này giúp tôi nhớ lại chương trình Thúy Nga Paris by Night 1994 với chủ đề “Lam Phương 40 năm âm nhạc” và tìm vào trang Web Bolero (chấm) com, đọc được bài viết của MC Nguyễn Ngọc Ngạn, người dẫn dắt chương trình lâu năm nhất cho Trung tâm Thúy Nga này. Ông Ngạn thường thắc mắc tại sao trong nhạc của Lam Phương có nhiều câu từ buồn đến thế. Gần 20 năm sau gặp nhau tại Pháp, Lam Phương mới kể lại cho Ngạn nghe câu chuyện tình đơn phương của chàng nhạc sĩ trẻ quê mùa là ông và cô ca sĩ Sài Thành hoa lệ Bạch Yến, quãng thời gian 1970 – 1972 không thành. Để rồi ca khúc “Tình bơ vơ” lãng mạn của ông ra đời mang giai điệu man mác buồn xuyên hai thế kỷ.
    Lam Phương viết “Tình bơ vơ” một ngày trời Thu Việt Nam khi người mà mình yêu thầm nhớ trộm là Bạch Yến đã qua nước Pháp. “Em khóc cho đời viễn xứ… rồi anh lặng lẽ ra đi. Gom góp yêu thương quê nhà, dâng hết cho người tình xa”. Nếu không ông đã viết trời vào Đông hay trời vào Xuân… Việt Nam buồn lắm. Ý muốn nhắn gửi cô nhân tình của mình biết về địa điểm, không gian, thời gian, vào mùa Thu nay ở hai đầu nỗi buồn, nỗi nhớ từ hai phương trời cách biệt, hai quốc gia Pháp – Việt cách xa.
    Ta e rằng, nếu xướng ca Tuấn Ngọc cứ phát huy “biên tập viên” bừa bãi, ngu xuẩn kiểu này thì có ngày hát về cuộc chiến đánh giặc Trung Quốc bành trướng “Chiến đấu vì độc lập tự do” của nhạc sĩ (Phạm Tuyên), Ngọc ngỏng đầu ngoác mồm: “Quân xâm lược tàn ác dã man” mà vứt mẹ nó đi bốn chữ “bành trướng Bắc Kinh” vì sợ Tuyên giáo khép tội hỗn láo với Thiên triều. Hát “Viếng lăng Bác” của Hoàng Hiệp “Tôi ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Nếu mọi người thắc mắc “Con ở miền Nam” chứ sao lại “Tôi ở miền Nam” thì Ngọc sẽ quắc mắt: Tao là ông hoàng nhạc chữ tình lừng danh Tuấn Ngọc đây, tao đ3o phải “con ở” thuê, đứa ở đợ, ô sin làm mướn coi nhà đuổi gà cho ai cả, hiểu chưa?
    Bị “cái đám quần chúng” chửi nhức óc xóc tim quá, Ngọc xin hát lại: “Tình bơ vơ” của nhạc sĩ Lam Phương thế này để tạ lỗi khán giả cùng tác giả: “Trời vào Thu Đại Ngu buồn lắm em ơi”. Có còn ai dám thắc mắc nữa hay không? Thắc mắc hả, Đại Ngu là tiền thân tên nước Việt Nam xưa. Có thế mà cũng không biết!


    Comment



    Hội Quán Phi Dũng ©
    Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




    website hit counter

    Working...
    X