Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Những Người Mỹ Không Phản Bội Việt Nam Cộng Hoà

Collapse
X

Những Người Mỹ Không Phản Bội Việt Nam Cộng Hoà

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Những Người Mỹ Không Phản Bội Việt Nam Cộng Hoà

    Những Người Mỹ Không Phản Bội Việt Nam Cộng Hoà


    FB Khiet Nguyen

    LỜI MỞ ĐẦU


    Xin kính chào tất cả,
    Cách nay đúng 3 năm, chúng tôi đã đưa lên đây một loạt bài nói về các phiên họp được tổ chức tại Hoa Thịnh Đốn, hầu hết là tại Toà Bạch Ốc, để bàn về giải pháp nhằm chấm dứt cái mà Hoa Kỳ lúc đó xem như một trở ngại trong cuộc chiến chống lại cộng sản tại Đông Nam Á. Các phiên họp này bắt đầu vào ngày 26 tháng Tám 1963 và kéo dài đến ngày 22 tháng Mười 1963.

    Tuy gọi là "để tìm một giải pháp" nhưng vì đám chủ trương lật đổ Chính Phủ Ngô Đình Diệm mạnh hơn, đông hơn và mưu trí hơn nên dần dần mục đích của các buổi họp đó lại có một mục đích khác. Đó là làm thế nào để đảo chánh thành công.

    Lúc đầu, Tổng Thống John Kennedy chủ toạ các phiên họp và giữ vị trí trung lập. Về sau, thấy phe chủ trương đảo chánh mạnh hơn, ông nghiêng theo phe này.

    Để các bạn trẻ có thể nhận định một cách chính xác và phê bình một cách công bằng, chúng tôi tóm lược diễn biến của các phiên họp đó cũng như nói rõ về việc những ai chủ trương đảo chánh và những ai chống lại một cách kịch liệt. Những gì mà chúng tôi tham khảo là các bộ hồ sơ đã được giải mật, và những đoạn băng ghi âm các phiên họp nói trên.



    Tổng Thống Kennedy và Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara

    Ngay sau khi mới được thành lập để thay thế Sở Chiến Lược Vụ (Office of Strategic Services) vào tháng Chín 1947, Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (Central Inteligence Agency) đã gửi nhân viên sang Việt Nam. Sau đó, khi Ông Ngô Đình Diệm nhậm chức Thủ Tướng Quốc Gia Việt Nam, lại có thêm một số nhân viên khác được gửi sang để giúp chính phủ mới. Trong số này, có một số trở thành bạn thân của Ông Ngô Đình Nhu. Nói chung, họ là những người bạn tốt và một số ít tuy không hẳn là bạn tốt những cũng chu toàn trách nhiệm của họ, tức là giúp Quốc Gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng Hoà chống lại mưu đồ xâm lăng của Cộng Sản qua tay Bắc Việt.

    Tuy nhiên, khi chính phủ Hoa Kỳ bắt đầu xen vào tình hình chính trị của Việt Nam Cộng Hoà và cuối cùng áp lực để Tổng Thống Ngô Đình Diệm có những cải tổ theo ý người Mỹ, tức là vào năm 1962, thì có những nhân viên của CIA được gửi sang Sài Gòn. Những người này có lập trường giống như đa số nhân viên cao cấp của bên ngoại giao, tức là chủ trương đảo chánh lật đổ Chính Phủ Ngô Đình Diệm.

    Chúng tôi không có đủ bằng chứng kể kết luận rằng ai đã quyết định đem đám này sang Việt Nam nhưng chắc chắn người đó không phải là Giám Đốc CIA John McCone bởi vì ông này chống lại đảo chánh.

    Bên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì tình cảnh cũng tương tự. Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Dean Rusk kịch liệt chống lại đảo chánh. Cùng có lập trường với ông này là Frederick Nolting, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam. Thế nhưng có nhiều nhân vật quan trọng bên Bộ Ngoại Giao lại chủ trương phải lật đổ Chính Phủ Ngô Đình Diệm cho bằng được.

    Hung hăng nhất trong đám diều hâu này là Roger Hilsman, Thứ Trưởng Ngoại Giao Đặc Trách Viễn Đông Sự Vụ. Tay này nhất quyết rằng Hoa Kỳ phải áp lực để Tổng Thống Ngô Đình Diệm loại Ông Ngô Đình Nhu khỏi chính trường. Còn có ông này bên cạnh thì Ngô Tổng Thống còn cứng rắn trước những đòi hỏi "cải tổ" của Hoa Kỳ. Nếu như đã làm mọi cách mà Ngô Tổng Thống vẫn không chịu loại bỏ Ông Ngô Đình Nhu thì phải đảo chánh.



    Thứ Trưởng Ngoại Giao Averell Harriman và TT Kennedy

    Không hung hăng như Hilsman nhưng lại thâm độc nhất trong đám chủ trương đảo chánh là Averell Harriman, Thứ Trưởng Ngoại Giao Đặc Trách Chính Trị. Tên này từng là đại sứ tại Mạc Tư Khoa, có lập trường thiên tả. Thêm vào đó, tên này từng vận động để Vương Quốc Ai Lao trở thành một quốc gia trung lập nhưng bất thành vì Ngô Tổng Thống phản đối kịch liệt. Từ đó, y ta căm thù Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà. Y ta gay gắt nói rằng "chúng ta sẽ không chiến thắng cộng sản nếu như không có đảo chánh, nhưng chúng ta sẽ mất hẳn Việt Nam nếu như chúng ta để cuộc đảo chánh thất bại."

    Nhân vật thứ ba là Cố Vấn An Ninh Quốc Gia McGeorge Bundy. Bundy cho rằng vì nền an ninh chung, phải lật đổ Chính Phủ Ngô Đình Diệm để có thể đẩy mạnh cuộc chiến tranh chống làn sóng xâm lăng của cộng sản tại Đông Nam Á. Bundy còn xúi giục một số nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao trình bày sao cho Tổng Thống Kennedy chấp thuận việc đảo chánh.

    Nhân vật thứ tư là Michael Forrestal, cánh tay mặt của Bundy. Forrestal chủ trương đảo chánh và kêu gọi Hoa Thịnh Đốn hậu thuẫn mạnh mẽ để đám Dương Văn Minh - Trần Văn Đôn - Mai Hữu Xuân đảo chánh thành công.

    Nhân vật thứ năm là Thứ Trưởng Ngoại Giao George Ball. Ball chủ trương đảo chánh và hơn nữa, Hoa Kỳ phải giúp đám Minh - Đôn - Xuân - Đính hết mình để đảo chánh thành công. Nói tóm lại, Ball có chủ trương giống như Forrestal.

    Người đầu tiên lên tiếng chống lại việc đảo chánh một cách rõ ràng là Bộ Trưởng Ngân Khố Douglas Dillon. Theo ông, cho dù đảo chánh là do đám Minh - Đôn - Xuân - Đính chủ mưu đi chăng nữa, Hoa Kỳ cũng không nên nhúng tay vào. Theo ông, đảo chánh là một hạ sách mà Hoa Kỳ nên ngăn cản hơn là chủ trương, hoặc xúi giục.



    Phó Tổng Thống Lyndon Johnson thăm viếng VN năm 1961

    Chống lại việc đảo chánh ngay từ đầu là Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon Baines Johnson. Johnson nhận định rằng tình hình tại Việt Nam chưa đến nỗi phải cần đến đảo chánh. Ông nói thêm rằng nếu chúng ta không hài lòng với hiện tình thì có thể áp dụng những biện pháp để thay đổi từng bước, và đảo chánh không phải là cách giải quyết đem lại kết quả tốt đẹp. Ông nhắc lại rằng cùng với chương trình Ấp Chiến Lược năm 1962 và chương trình Chiêu Hồi năm 1963 đem lại những thành quả tốt đẹp, Việt Nam Cộng Hoà đang trên đà chiến thắng cộng sản và Hoa Kỳ nên tiếp tục hỗ trợ để có chiến thắng sớm hơn.

    Cũng chống đối đảo chánh một cách kịch liệt là Tổng Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy, bào đệ của Tổng Thống John Kennedy. Ông cho rằng lật đổ chính phủ của một quốc gia khác chỉ vì họ không theo ý của mình thì đó không phải là một việc làm đàng hoàng.

    Chống đối việc đảo chánh gay gắt nhất là Tổng Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara. McNamara nói ngay từ đầu rằng thay vì ngồi bàn thảo xem có nên đảo chánh hay không, và làm thế nào để đảo chánh thành công thì nên tìm cách làm thế nào để cuộc chiến tranh chống cộng tại Việt Nam hữu hiệu hơn.

    Có lập trường và lập luận giống như Tổng Trưởng McNamara là Đại Tướng Maxwell Taylor, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Hoa Kỳ.
    Tướng Taylor nói rằng các lực lượng của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà đang chiến đấu chống cộng có hiệu quả. Nếu Hoa Kỳ viện cớ rằng tình hình chính trị bất ổn mà đảo chánh thì nó sẽ khiến tình thế Việt Nam thêm rối ren, có thể lâm vào khủng hoảng và rồi cuộc chiến đấu chống lại cộng sản sẽ bị trì trệ.

    Ngoại Trưởng Dean Rusk thì cũng chống đảo chánh. Tuy rằng ông không phản đối một cách kịch liệt nhưng chủ trương rằng có thể dùng nhiều cách thức ôn hoà để thay đổi tình hình chính trị tại Việt Nam. Ông nghiêm khắc khuyến cáo Tổng Thống Kennedy rằng cho dù nó có lợi cho Hoa Kỳ tại Việt Nam thì lại bất lợi lớn cho Hoa Kỳ tại nhiều nơi trên toàn thế giới.

    Rất tiếc là đám chủ trương đảo chánh như Hilsman, Harriman và Bundy đã rỉ tai nhiều nhân vật có quyền lực khác. Đám này trình bày lên Tổng Thống Kenney những điều không hề có thực và dựa vào đó để đưa ra những đề nghị theo ý muốn của đám chủ trương đảo chánh. Cuối cùng, Tổng Thống Kennedy thay thế Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Frederick Nolting bằng Henry Cabot Lodge.



    Henry Cabot Lodge và vị Tổng thống bị ông ta lật đổ 2 tháng sau đó

    Sau đó, cựu Đại Sứ Nolting được mời đến tham dự vài phiên họp. Ông nhỏ nhẹ bênh vực Ngô Tổng Thống và trình bày rằng tình hình chính trị tại Việt Nam không đến nỗi đáng lo lắng và can thiệp. Rất tiếc là Lodge và đám nhân viên CIA bất hảo tại Sài Gòn nguỵ tạo những bản báo cáo sai lạc về tình hình khiến cho phe chủ trương đảo chánh thêm lợi thế. Cuối cùng, Tổng Thống Kennedy nghiêng về phe này.

    Trong khi đó, Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam là Đại Tướng Paul Donald Harkins thì lại bên vực Chính Phủ Ngô Đình Diệm một cách hết mình. Ông gửi về Hoa Thịnh Đốn một bản nhận định mà theo đó, các lực lượng của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà vẫn tiếp tục chiến đấu chống cộng sản xâm lăng một cách có hiệu quả. Cũng vào lúc đó, các báo cáo của các cố vấn quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam về kết quả các cuộc hành quân cũng cho thấy như vậy.

    Có thể chính vì vậy mà Tổng Thống Kennedy muốn tìm hiểu tình hình Việt Nam một cách rõ ràng hơn bằng cách cho người sang tìm hiểu một cách cặn kẽ. Tổng Thống Kennedy nói rằng nếu cuộc chiến chống cộng sản xâm lược tại Việt Nam có thể thành công với tình hình chính trị Việt Nam như hiện tại thì đảo chánh là không cần thiết.

    Qua đề nghị của những nhân vật thân cận và có sự tán thành của một số nhân vật khác, Tổng Thống Kennedy cho Tổng Trưởng Quốc Phòng McNamara và Đại Tướng Taylor sang Việt Nam tình hiểu hiện tình vào cuối tháng Chín 1963. Sau khi đến Việt Nam, mỗi người đi một ngả khác nhau.

    Những báo cáo tốt đẹp về tình hình Việt Nam của hai ông đã khiến cho Tổng Thống Kennedy tạm ngưng bàn về việc đảo chánh. Thế nhưng sau đó đám CIA tại Sài Gòn tiếp tục báo cáo sai lạc tình hình khiến Tổng Thống Kennedy lại tiếp tục triệu tập các phiên họp. Đến tháng Mười, ông ra lệnh cho các chiến hạm và hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ sẵn sàng ngoài khơi Việt Nam để di tản người Mỹ tại miền Nam Việt Nam khi cần.

    Đến cuối tháng Mười, báo chí thế giới loan tin nhiều về một chiến thắng lớn của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà tại Quảng Ngãi. Sau đó, dựa vào những báo cáo mới nhất về những chiến thắng khác của một số đơn vị Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà, Tổng Thống Kennedy ra lệnh cho Lodge tạm ngưng xúc tiến đảo chánh. Bất ngờ, Lodge cãi lời, một điều mà Hoa Thịnh Đốn không ngờ đến.



    Dương Văn Minh và “ông vua đảo chánh” Henry Cabot Lodge sau khi "cách mạng 1/11/1963" thành công

    Sau khi được tin Ngô Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu bị thảm sát, Tổng Thống Kennedy vừa giận dữ vừa bối rối. Ông muốn cho điều tra ngay lập tức tại sao sự việc có thể như thế. Thế nhưng đám cận thần của ông bàn rằng cần phải làm ngay một việc quan trọng hơn là giải thích với dư luận thế giới tại sao Hoa Kỳ đã chủ mưu một cuộc đảo chánh đưa đến cái chết đầy bí ẩn của một vị nguyên thủ quốc gia Đồng Minh.

    Tổng Thống Kennedy đã phải bận rộn để giải độc, để nó không ảnh hưởng đến việc tái tranh cử chức vụ tổng thống của ông. Và rồi, chính ông cũng bị ám sát.

    KẾT LUẬN

    Hoa Kỳ đã trả giá như thế nào cho việc ám hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì cả thế giới đều rõ. Ai cũng thấy rằng cái chết của Ngô Tổng Thống ảnh hưởng đến nước Mỹ nhiều hơn cái chết của Tổng Thống Kennedy. Người ta chỉ nhắc nhở đến cái chết của Tổng Thống Kennedy vì không tìm ra thủ phạm, và rồi nó cũng đi vào quên lãng.

    Trái lại, cái chết của Ngô Tổng Thống đã gây chia rẽ chính trường Hoa Kỳ mãi cho đến ngày nay, tức là suốt gần 60 năm. Ngoài ra, hiện nay vẫn còn rất nhiều người tin rằng Hoa Kỳ là một đồng minh không đáng tin cậy, mỗi khi họ nhớ đến vụ đảo chánh 1963.

    Bên cạnh đó, chúng ta cũng nhớ lại một ảnh hưởng xấu khác của vụ đảo chánh này trong cuộc chiến tranh chống cộng sản xâm lược.

    Kể từ khi xảy ra vụ đảo chánh, Tổng Thống Johnson không bao giờ còn tin tưởng vào hàng ngũ tướng lãnh của Việt Nam Cộng Hoà đã tham gia đảo chánh. Ông gọi những kẻ này là "côn đồ" (thugs).

    Điều này rất quan trọng là vì ông vẫn tiếp tục trọng dụng McNamara, mà McNamara thì cũng giống như ông, không còn tin tưởng vào hàng ngũ tướng lãnh nói trên. Vì vậy, McNamara không bao giờ bàn thảo với các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hoà trước khi đưa ra các quyết định quan trọng. Điều này đưa đến hậu quả tai hại như thế nào thì chúng ta đều đã biết.

    Năm 2008, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ xác nhận rằng một trong những nguyên nhân đưa đến việc chiến tranh Việt Nam kéo dài thay vì toàn thắng một cách nhanh chóng là vì các tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã không được tham khảo trước khi có những quyết định được đưa ra.

    Nguyễn Thế Khiết



    Một trong những gì mà người Mỹ gọi là “trở ngại trong cuộc chiến chống lại cộng sản tại Đông Nam Á”
    chính là việc Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm không chấp nhận cho Hoa Kỳ đổ quân vào miền Nam VN.
    Last edited by Nguyen Huu Thien; 11-08-2022, 03:12 PM.

  • #2
    BỌN ÁC ÔN CÔN ĐỒ !!!




    Tú Gàn

    Trong cuốn băng dài 30 tiếng đồng hồ do thư viện Johnson Library ở Austin, Texas, công bố ngày 28.2.2003, Tổng Thống Johnson đã gọi các tướng miền Nam Việt Nam được Hoa Kỳ thuê làm đảo chánh lật đổ và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm là “một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” (a goddam bunch of thugs). Họ là ai và đã làm gì mà bị Tổng Thống Johnson miệt thị như vậy?

    NHẬN DIỆN BỌN ÁC ÔN CÔN ĐỒ

    Tướng Trần Văn Đôn cho biết các sĩ quan sau đây đã nằm trong nhóm đứng ra tổ chức đảo chánh: Trung Tướng Dương Văn Minh, Trung Tướng Trần Văn Đôn, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, Thiếu Tướng Nguyễn Khánh, Thiếu Tướng Lê Văn Kim, Thiếu Tướng Trần Văn Minh, Thiếu Tướng Phạm Xuân Chiểu, Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm, Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, Đại Tá Đỗ Mậu, Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Tá Nguyễn Văn Quan, Đại Tá Nguyễn Hữu Có, Đại Tá Trần Ngọc Huyến, Đại Tá Nguyễn Khương và Đại Tá Đỗ Cao Trí.

    Trong một cuộc phỏng vấn, Tướng Khánh có nói với chúng tôi rằng ông là người được CIA tiếp xúc trước tiên khi muốn làm đảo chánh. Nhưng theo tài liệu, CIA đã cho hai điệp viên khác nhau đến gặp Tướng Khiêm và Tướng Khánh cùng một lúc. Điệp viên Lucien Emile Conein đến gặp Tướng Khiêm, một nhân viên CIA, lúc đó là Tham Mưu Trưởng Liên Quân, và cho biết quyết định của Hoa Kỳ muốn lật đổ Tống Thống Ngô Đình Diệm. Tướng Khiêm đồng ý nhận thực hiện kế hoạch đó, nhưng gợi ý nên đi gặp Tướng Dương Văn Minh và Tướng Trần Văn Đôn. Trong khi đó, một điệp viên khác là Al Spera, cố vấn chính trị Bộ Tổng Tham Mưu, đi Pleiku gặp Tướng Nguyễn Khánh, một cộng tác viên khác của CIA, để thảo luận về việc này. Khi Al Spera hỏi Tướng Khánh về tướng Khiêm, Tướng Khánh đã nắm chặt hai bàn tay của mình lại và nói: “Chúng tôi như thế này”.

    Sau khi Tướng Khiêm và Lucien Conein phác xong họa kế hoạch hành động, ngày 2.10.1963 khi Tướng Đôn lên phi trường đi Nha Trang thì Lucien Conein đến gặp và hẹn sẽ nói chuyện với nhau ở Nha Trang. Tối hôm đó, tại Nha Trang, Lucien Conein thuyết phục Tướng Đôn làm đảo chánh và Tướng Đôn đã đồng ý. Ngày 5.10.1963, Lucien Conein lại đến bàn chuyện này với Tướng Dương Văn Minh. Tướng Minh cũng đồng ý. Tướng Đôn được giao cho phối trí lực lượng, còn Tướng Minh lãnh đạo Hội Đồng Cách Mạng. Tất cả nằm dưới sự chỉ đạo của Lucien Conein và Tướng Khiêm.

    1. Vai trò của Lucien Emile Conein

    Chúng tôi chưa tìm được tài liệu nào nói về điệp viên Al Spera, nhưng chúng tôi có khá nhiều tài liệu về điệp viên Lucien Emile Conein. Ông sinh năm 1919 tại Paris, mồ côi cha sớm, lúc mới 5 tuổi được mẹ gởi sang Hoa Kỳ sống với bà dì tại Kansas City thuộc tiểu bang Kansas, nhưng vẫn giữ quốc tịch Pháp. Ông đã từng làm điệp viên cho OSS (tiền thân của CIA) từ năm 1943 với cấp bậc Trung Úy, hoạt động chống Đức Quốc Xả trong Đệ Nhị Thế Chiến ở Âu Châu, rồi qua Bắc Việt khi chiến tranh chấm dứt. Từ 1954 đến 1956 ông đến Việt Nam hoạt động trong toán đặc nhiệm dưới quyền của Đại Tá Edward Lansdale, người đã giúp Tổng Thống Ngô Đình Diệm chống lại nhóm Bảy Viễn và Tướng Nguyễn Văn Hinh. Sau đó, ông trở về Mỹ và tham gia Lực Lượng Đặc Biệt (Special Force), nhưng vẫn còn làm việc cho CIA.



    Lucien Emile Conein (1981)

    Năm 1961 ông đã xin về hưu, nhưng năm 1962 ông được CIA gọi làm việc trở lại và phong cho chức Trung Tá với bí danh là Lulu hay Black Luigi, rồi gởi qua Sài Gòn làm cố vấn cho Bộ Nội Vụ. Nhưng trong thực tế, Lucien Conein có nhiệm vụ móc nối với các tướng Việt Nam mà ông đã có dịp quen biết khi phục vụ dưới quyền của Đại Tá Lansdale, để chuẩn bị tổ chức đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

    Đại Sứ Henry Cabot Lodge gọi Lucien Conein là “the indispensable man” (con người rất cần thiết). Còn trong cuốn “Vietnam: A History,” sử gia Stanley Karnow nói rằng Lucien Conein là “một người lập dị, một người náo nhiệt, một nhân viên tình báo rất nhạy cảm và hoàn toàn chuyên nghiệp, thường không thể kiểm soát được” Sau này, Everette E. Howard Hunt cũng đã dự tính dùng Lucien Conein trong vụ Watergate.

    Mỗi lần được phỏng vấn, Lucien Conein thường mở đầu câu chuyện bằng câu: “Bây giờ, đây là sự thật hai mặt, là thứ danh dự của hướng đạo sinh, là sự thật hai mặt” hay “Đừng tin bất cứ điều gì tôi nói; tôi là một tên nói dối chuyên nghiệp”.

    Khi cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 xẩy ra, Lucien Conein đến Bộ Tổng Tham Mưu chỉ đạo trực tiếp. Ông ngồi trên ghế của Tướng Lê Văn Tỵ, đặt hai túi bạc dưới ghế, hai chân gác lên bàn, bên cạnh có khẩu 375 Magnum, chỉ huy các tướng Việt Nam thực hiện. Trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng, Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin ông Diệm và ông Nhu đã ra khỏi Dinh Gia Long, Lucien Conein đã hỏi: “Hai ông ấy đi đâu? Phải bắt lại cho kỳ được, vì rất quan trọng”. Lucien Conein đã nói với các tướng đảo chánh bằng tiến Pháp: “On ne fait pas d’omelette sans casser les oeufs.” (Người ta không thể làm món trứng rán mà không đập bể những cái trứng.) (trang 228).

    Khi bước xuống thuyền đài ngày 3.6.1998 tại Virginia, Lucien Conei đã ôm theo khá nhiều bí mật của cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963.

    2. Tướng Trần Thiện Khiêm


    Trong cuốn “Việt Nam nhân chứng”, Tướng Trần Văn Đôn nói rằng trong kế hoạch đảo chánh, ông rất dè dặt với Tướng Khiêm vì tướng này rất được ông Diệm và ông Nhu tin cậy. Vợ ông, bà Đinh Thị Yến, lại có chân trong ban chấp hành Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới Trung Ương của bà Nhu và là dân biểu Quốc Hội, thường đi sát với bà Nhu. Ông nhờ Tướng Minh thăm dò. Qua một người Mỹ “cam kết và tìm hiểu”, Tướng Minh cho biết Tướng Khiêm đồng ý tham gia đảo chánh.


    Hàng đầu, từ trái: các tướng Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Minh, (cựu Phó TT Nguyễn Ngọc Thơ)
    Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính


    Khi viết như vậy, Tướng Đôn không biết gì nhiều về sự sắp xếp của CIA trong cuộc đảo chánh này. Ngay cả khi lệnh giết ông Diệm và ông Nhu được CIA truyền xuống, Tướng Đôn cũng không hề được cho biết. Một vài câu chuyện sau đây do một nhân chứng có mặt tại Bộ Tổng Tham Mưu trong suốt thời gian cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 xẩy ra, cũng đủ cho chúng ta thấy vài trò của Tướng Khiêm quan trọng như thế nào:

    - Khoảng 1 giờ 25 trưa ngày 1.11.1963, Tướng Khiêm bước ra bước vào nơi ông làm việc. Đúng 1 giờ 30, tin đảo chánh được phổ biến, các tướng lãnh liên miên ra vào văn phòng Tướng Khiêm.

    - Sáng 2.11.1963, có người đem bộ complet màu xám sậm đến đứng ở lầu ba chờ. Tuy phái của Tướng Khiêm ra hỏi thì được biết người này được gọi đem áo tới cho Tổng Thống Diệm. Khoảng 9 giờ, một đại tá bước vào phòng Tướng Khiêm. Hai phút sau, đại tá này bước ra và bảo người kia đem bộ đồ complet về, vì Tổng Thống đã chết! Trên lầu, nhiều tướng lãnh ra vào phòng Tướng Khiêm rất nhộn dịp. Buổi tối, sau khi xác ông Diệm và ông Nhu được liệm xong, một báo cáo đã được trình lên cho Tướng Khiêm biết.

    - Khuya 3.11.1963, khi mọi việc đã xong xuôi, Tướng Khiêm cho gọi Đại Tá Trần Văn Trung, Tham Mưu Phó Nhân Viên, và Đại Tá Đặng Văn Quang, Tham Mưu Phó Tiếp Vận, vào văn phòng ông và ra lệnh: “Hai ‘toi’ trực ở đây đêm nay, ‘moi’ về nghỉ.

    - Một tuần lễ sau, Tướng Khiêm bước vào ban văn thư và hỏi Đại Úy Phạm Bá Hoa, chánh văn phòng của ông: “Có cho anh em mỗi người lên một cấp chưa? Nếu có gì xảy ra, ‘moi’ bay đầu thì các anh em cũng không được yên đâu.”.

    Đọc thêm cuốn “Đôi dòng ghi nhớ” của Đại Tá Nguyễn Bá Hoa, đọc giả sẽ thấy rõ hơn quyền hành của Tướng Khiêm trong cuộc đảo chánh này.

    LỆNH HÀNH QUYẾT

    Từ trước đến nay, chúng ta thường tranh luận về ai đã ra lệnh giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Nay cuốn băng của Tổng Thống Johnson đã chính thức xác nhận rằng chính quyền Kennedy (Kennedy administration) đã ra lệnh giết, nên vấn đề này không cần phải tranh luận nữa.

    Lệnh hành quyết do Washington truyền cho Đại Sứ Lodge ở Sài Gòn. Ông này truyền cho Trần Thiện Khiêm và Dương Văn Minh qua Lucien Conein. Tướng Minh giao cho cận vệ của mình là Đại Úy Nguyễn Văn Nhung thi hành dưới sự chỉ đạo của Tướng Mai Hữu Xuân. Các sĩ quan khác, kể cả Tướng Đôn, đều không biết gì hết.

    Như đã nói ở trước, ngoài Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu, Đại Sứ Henry Cabot Lodge đã quyết định giết thêm Ngô Đình Cẩn và Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho Nguyễn Văn Nhung đưa Đại Tá Lê Quang Tung ra nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế phía sau Bộ Tổng Tham Mưu đâm chết và vùi thây ở đó. Muốn giết ông Ngô Đình Cẩn, CIA phải lừa ông vào Tòa Lãnh Sự Mỹ ở Huế, nói rằng sẽ cho đi ngoại quốc, sau đó dùng công điện báo cáo láo về Washington nói rằng trong nhà ông Cẩn có hầm chôn người và súng, dân chúng đang biểu tình, rồi giao ông Cẩn cho Tướng Khánh giết. Trơng cuốn “Việt Nam Nhân Chứng”, Tướng Đôn xác nhận trong nhà ông Cẩn không hề có hầm chôn người hay súng.

    Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng sở dĩ Tổng Thống Johson đã gọi nhóm tướng lãnh được thuê làm đảo chánh là “một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” vì hai lý do: Lý do thứ nhất là cách thức giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Chưa một nhà lãnh đạo nào trên thế giới đã bị bọn tay chân bộ hạ thân tín, được hưởng nhiều ơn mưa móc, giết một cách thê thảm như thế trong một cuộc đảo chánh. Lý do thứ hai là sự tham nhũng và bất tài của nhóm này.


    (trích “Bọn ác ôn côn đồ” của Tú Gàn)
    Last edited by Nguyen Huu Thien; 11-10-2022, 05:02 PM.

    Comment



    Hội Quán Phi Dũng ©
    Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




    website hit counter

    Working...
    X