Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Những Mảnh Đời Rách Nát (1 - 6)

Collapse
X

Những Mảnh Đời Rách Nát (1 - 6)

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Những Mảnh Đời Rách Nát (1 - 6)

    Những Mảnh Đời Rách Nát
    Nguyễn Văn Huy & Phan Minh Hiển




    1. Có Một Niềm Tin
    Sau biến cố 30-4-1975, gia đình và bản thân tôi nói riêng và đại gia đình anh em phế binh nói chung sống những ngày đen tối. Vì bị chế độ mới xếp vào loại "thành phần xấu", chúng tôi bị áp bức đủ điều. Nhà cửa của chúng tôi vốn đã không có gì bị cưỡng đoạt, thân thể không nguyên vẹn của chúng tôi cũng bị cưỡng chế và chịu đựng đủ mọi nhục hình. Một số anh em chúng tôi bị cưỡng bức đưa đi "tập trung cải tạo". Tập trung cải tạo ở đây phải hiểu là đi ở tù, tâm hồn và thể xác bị hành hạ. Nhà tù ở đây cũng không phải là nhà tù trong những thành phố mà là giữa chốn rừng sâu, khỉ ho cò gáy, trong những căn cứ của cộng sản cũ, thiếu thốn trăm bề. Nhiều anh em chúng tôi đã bỏ mình, thân thể nằm lại vĩnh viễn tại những chốn này, mồ hoang cỏ lạnh và bị đời quên lãng.

    Gia đình chúng tôi cũng không thoát nạn. Người ta cưỡng bức gia đình chúng tôi ra khỏi thành phố và đưa vào những vùng kinh tế mới giữa chốn rừng thiêng nước độc. Ông già, bà cả, vợ con tay yếu chân mềm, chưa bao giờ biết chặt cây phá rừng, đào mương phát rẫy, đều phải vật vả làm lụng mới có ăn. Những người bị thương tật như chúng tôi, không đủ sức cày sâu cuốc bẩm, khai phá núi rừng, đã bị chói nước rét rừng ngã bệnh nặng trong các vùng kinh tế mới. Tại những nơi này, người ốm đau không có thuốc men chữa trị, người không có sức lao động không có cơm ăn, trẻ em không biết trường học, ông già bà lão thì thiếu ăn thiếu áo. Sau một thời gian, phần lớn những người đi vùng kinh tế mới đều lén trở về thành phố, trong đó có chúng tôi vì không muốn bỏ mình trong chốn rừng sâu.

    Trở về thành phố (Sài Gòn) thân yêu, dù phải hành khất xin ăn, lượm vỏ ve chai hoặc bọc ny lông cũ, sống trong cảnh đói khổ kiệt cùng chúng tôi cũng cam chịu. Vì nhờ đó chúng tôi có tiền mua gạo nấu cơm ăn cho đỡ đói. Đêm đêm chúng tôi phải ngủ bụi ngủ bờ, đầu đường xó chợ, vì không nhà không cửa và không có người quen thân để có chỗ che mưa trú nắng.

    Ngày ngày chúng tôi chống đôi nạng gỗ lê lết tấm thân tàn đi xin ăn hết nơi này đến nơi khác, gặp gì lượm đó. Cũng nhờ bà con cô bác rủ lòng xót thương, bố thí cho chút tiền mọn hay chén cơm bạc, chúng tôi cũng sống tạm qua ngày. Nhiều lúc quá mỏi mệt, sức lực kiệt cùng, anh em chúng tôi bạ đâu ngủ đó, ngủ thiếp đi lúc nào không biết đến khi bị "người của xã hội này" bao vây tứ phía lúc đó mới tỉnh dậy thì quá muộn màng. Người ta lùa anh em chúng tôi lên xe bít bùng, đánh đập những người chống cự và chở vào trại tập trung. Về đến trại, dù với tấm thân tàn phế, anh em chúng tôi cũng bị đày đọa dầm sương, dãi nắng suốt ngày. Từ sáng sớm, từng tốp người chống nạng lò cò, lọt thọt, bị chia toán đi lao động, nhóm thì cuốc đất trồng khoai, tưới nước ở những miền đất xa, nhóm thì ở lại trại rào kẽm gai, nhổ cỏ. Mỗi ngày người ta chỉ cho ăn tiêu chuẫn mỗi bữa một chén cơm bạc với muối hoặc một củ khoai nướng khét.

    Không chịu nổi cảnh khổ cực, đày ải trong các trại tập trung lao động đó, nhiều anh em đã tìm cách trốn trại về lại thành phố. Những ai không may bị phát hiện thì coi như lúa đời, hình phạt dành cho những người trốn trại rất là tàn ác. Mỗi khi nghe tiếng kêu la thảm thiết vọng về từ phòng tra tấn, chúng tôi ai nấy đều xót thương cho những anh em xấu số. Không hiểu tại sao cũng là người như nhau mà người ta có thể tàn ác với nhau đến như vậy, kinh ngạc hơn nữa là tàn ác với những người tàn tật chỉ vì quá sợ họ mà tìm đường trốn thoát. Trưa hôm sau, một vài anh em chúng tôi được gọi lên văn phòng dìu người bạn xấu số về lại phòng giam. Không ai cầm được nước mắt và căm hận khi thấy dáng người phế binh nằm bất động, máu me be bét, hơi thở khó khăn, mặt mũi sưng vù đầy vết tím đen. Những người quản trại dùng báng súng đánh vào đầu anh, dùng chân đá vào người anh và lấy cây đánh cả vào vết thương đã lành nơi khúc chân bị cưa. Máu từ vết thương cũ ở khúc chân cứ ri rỉ theo tiếng rên. Làm sao với một thân hình ốm yếu, cụt què như anh ta chịu nổi đòn thù. Vài ngày sau, anh bạn xấu số kia lìa đời, xác thân bị chôn vùi nơi chốn trại này. Chúng tôi cúi đầu nhìn người ta mang xác anh Thảy vào một hố đất ở bìa rừng. Xét cho cùng, chúng tôi là những người thất trận và thật bại trước bạo tàn. Chúng tôi đã không bỏ xác trên chiến trường nhưng đã ngả gục nhục nhã nơi đây bởi những con người hèn mọn.

    Thời gian cứ trôi qua. Chúng tôi chứng kiến hàng ngày cảnh đời trái ngang và đau lòng đó. Và chúng tôi là một trong những số ít người may mắn sống sót trong những trường trại đó. Chúng tôi sẽ không ngần ngại làm chứng nhân những điều mắt thấy tai nghe và thét lên tiếng kêu cầu cứu giùm những người không còn tiếng nói. Tưởng nhớ lại những người anh em xấu số bị hành hạ và phải bỏ mạng trong nỗi nhục đó, nước mắt chúng tôi cứ tuôn trào.

    Chúng tôi là những nạn nhân thiệt thòi nhất trong cái xã hội này, một xã hội mang tên xã hội chủ nghĩa nhưng bóc lột không ai bằng. Không những thế nó còn tàn ác hơn cả thú dữ, cảnh đánh đập, chửi bới người cùng khổ xảy ra hàng ngày và công khai. Chính quyền cộng sản đã không làm một cử chỉ gì giúp chúng tôi cải thiện cuộc sống mà còn tìm cách vùi dập, đàn áp không cho chúng tôi xuất hiện trước mắt người khác. Họ chỉ muốn chúng tôi chết đi cho khuất mắt họ, họ không muốn lương tâm họ bị dằn vặt bởi cuộc sống khó khăn do chính họ gây ra. Chúng tôi có làm điều gì ác đức đâu để phải bị hành hạ như vậy, chỉ vì quá nghèo đói chúng tôi phải lang thang cầu thực, chúng tôi có cướp bóc, lường gạt ai đâu mà bị đối xử vô nhân đạo như thế? Những người đại diện chế độ này không có tình người, họ không những ăn sung mặc sướng, ỷ lại chức quyền, cướp của công, ăn hối lộ và làm tiền người khác mà còn ruồng bỏ, hất hủi những người đã bị họ lợi dụng.

    Trên bước đường ăn xin, chúng tôi còn chứng kiến bao cảnh trái ngang của những gia đình "cách mạng", có nhiều "liệt sĩ" bị hất hủi, bị bỏ quên bởi chính đồng đội cũ của con cháu mình. Không những thế những đám thanh niên vừa mới lớn lên, a dua theo chế độ này, còn vênh vặt chửi bới những "bà mẹ chiến sĩ" buôn thúng bán bưng lấn chiếm lòng lề đường. Ôi, cảnh đời thật quá bất công! Chúng tôi chỉ là những kẻ sống bên lề cuộc sống, không có quyền gì cả, kể cả quyền đi ăn xin.

    Những khi bị đời hất hủi, chúng tôi chỉ tìm an ủi khi nhớ lại dĩ vãng xa xưa. Dù sao chúng tôi cũng có một thời oanh liệt và đáng tự hào, chúng tôi là những chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã chiến đấu anh dũng với kẻ thù, trừ gian diệt bạo trên khắp nẻo đường Việt Nam thân yêu, đem lại bình yên cho đất nước, yên bình cho muôn dân. Chẳng may khi bị thương, anh em chúng tôi phải bỏ đi một phần thân thể, giã từ vũ khí trở về đời sống dân sự. Trước kia, chúng tôi được mọi người kính mến, nhân phẩm được tôn trọng, nhưng từ sau 30-4-1975 chúng tôi sống trong hỏa ngục. Làm sao có cuộc sống bình thường khi mỗi ngày phải tìm cách đối phó những nanh vuốt, tránh né những đòn thù của kẻ ác. Vũ khí tự vệ của chúng tôi là chịu đựng và niềm tin.

    *****

    Riêng về cá nhân tôi, thời trai trẻ đã tham gia nhiều cuộc hành quân diệt giặc. Chẳng may năm 1970, trong một trận đánh tôi đã để lại một khúc chân trên rừng núi Tây Ninh. Trở về đời sống dân sự, cuộc sống của tôi cùng với gia đình cũng tạm yên. Nhưng không ngờ đất nước thân yêu rơi vào tay giặc, cuộc sống bình yên bị cướp, chúng tôi trở nên nghèo khổ. Chúng tôi bị phân biệt đối xử, sống trên quê hương tưởng như sống trong vùng đất lạ, chúng tôi không có quyền gì cả, kể cả quyền ăn xin. Chúng tôi sống trong sự kềm kẹp, trên đe dưới búa, và không còn ai nâng đỡ trong quảng đời tàn phế này. Chúng tôi đã gào thét lên đến trời xanh: "Tại sao cuộc đời anh em chúng con quá vô phước, bất hạnh thế này", mà trời cao nào có thấu cảnh đời đen tối mà anh em chúng tôi đang trải qua, một cuộc sống khổ nhục tuyệt vọng không có ngày mai.

    Có lần đi ngang qua cầu Sài Gòn, anh em chúng tôi nắm tay nhau định nhảy xuống sông để tự tử nhưng nghĩ đến mẹ già, vợ dại, đàn con thơ không ai chăm sóc, chúng tôi chỉ biết ôm nhau khóc thương cho số phận. Lúc đó tôi chợt nhớ đến lời người bác tôi nói một câu như thế này: "Con chó nó còn muốn sống để ăn, tại sao tụi mày lại muốn chết? Phải sống đó để nhìn đời. Thà chết trên chiến trường còn hơn chết trên đường người ta đi". Từ đó chúng tôi có lại niềm tin, tin rằng sẽ có một ngày mai tươi sáng, tươi sáng cho chính chúng tôi và tươi sáng cho đất nước này. Chân trời sáng đó đã đến.

    Một hôm đang trên đường khất thực, chúng tôi được một người tốt bụng nói rằng ở hải ngoại có nhiều người giàu lòng nhân ái muốn giúp đỡ anh em phế binh đang sống khổ sở tại quê nhà. Hay được tin này, anh em chúng tôi vui mừng quá cỡ, mừng đến rơi nước mắt, thân thể run rẫy. Một trong những người đó là bác sĩ Phan Minh Hiển, với tấm lòng bao dung bác sĩ Hiển đã lao mình xuống hố sâu kéo anh em phế binh chúng tôi lên bờ danh dự.

    Bác sĩ Hiển đã tặng cho anh em chúng tôi mỗi người tùy theo thương tật một cặp nạng hay một xe lăn, sau đó tùy hoàn cảnh của mỗi người tặng cho chúng tôi tiền. Ôi, còn gì sung sướng cho bằng, sung sướng không những cho anh em phế binh chúng tôi mà sung sướng cho cả gia đình. Chưa bao giờ chúng tôi được nghe lại những tiếng cười rộn rã của gia đình và vợ con đến như vậy. Trong giờ phút lâm nguy, nghĩa cử cao đẹp đó thật là quí.

    Kế là các ký giả Nguyễn văn Huy (báo Ngày Nay và Việt Luận), Yên Mô - Cao Sơn (Thời Báo), Lê Quang Vinh (báo Phổ Thông), Gàn Bát Sách (báo Tiền Phong)... đã liên tục dóng lên những hồi chuông nhân ái, tiếng vang của những bài báo viết từ hải ngoại đã vọng về đến Việt Nam. Nhiều ân nhân và hội đoàn thiện nguyện khác đã tìm cách giúp đỡ anh em phế binh chúng tôi. Ông Lê Đình Vọng, chủ tịch hội Huynh Đệ Chi Binh tại Hoa Kỳ, đã hết lòng cứu giúp anh em phế binh.

    Nhờ quí ân nhân giàu lòng nhân ái ở hải ngoại cho chút ít tiền, nhiều người trong chúng tôi đã tìm lại nhân phẩm, không phải ăn xin ở khắp nẽo đường. Những món tiền tuy nhỏ nhưng đượm biết bao tình, lòng chúng tôi được sưởi ấm trở lại. Chúng tôi tin rằng bên cạnh sự ác độc vẫn có tình yêu, một thứ tình người chân thật, chỉ tiếc rằng ngày nay trở nên hiếm thấy.

    Anh em chúng tôi thành thật cảm ơn, và không biết nói gì hơn là cầu nguyện Thượng Đế ban phước lành cho quí vị ân nhân phương xa vạn dậm được an lành và thành công trên mọi lãnh vực. Chúc quí ân nhân dồi dào sức khỏe và gia đình hạnh phúc. Nhờ số tiền do quí ân nhân ở hải ngoại giúp đỡ, anh em chúng tôi làm vốn mua nhang đi bán dạo trên khắp nẻo đường Việt Nam, từ Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Đà Lạt, Bảo Lộc, Di Linh, Tây Ninh, Sài Gòn xuống đến Long An, Bến Lức, Mỹ Tho, Bắc Mỹ Thuận, Rạch Giá, Bạc Liêu rồi về tận cùng mũi Cà Mau. Không làng xã, chợ búa ở thôn quê nào chúng tôi không đi qua. Nơi đâu chúng tôi cũng chỉ thấy cảnh người nghèo bị bạc đãi, đất nước điêu tàn và lòng người oán hận.

    Những lúc từ thành phố (Sài Gòn) về các địa phương, anh em chúng tôi chứng kiến nhiều cảnh thương tâm: những người bạn phế binh ở những cầu phà, bến xe, chợ búa, tay cầm gậy tay cầm cây đàn dắt nhau vừa xin vừa hát lại những bản nhạc xưa nghe thật nảo lòng. Chúng tôi đã chia sẻ với nhau nỗi bất hạnh và cùng ngậm ngùi cho cảnh ngộ không may.

    Có lần tôi nghe một người anh em hát lên bản nhạc mà tôi nhớ không lầm là bản "Anh đi chiến dịch", trong có đoạn như vầy: "Anh đi chiến dịch xa vời, nòng súng nhân đạo cứu người lầm than". Một bản nữa mang tên "Cho người vào cuộc chiến", anh bạn đó hát: "Anh bỏ trường xưa, bỏ áo thư sinh theo tiếng gọi lên đường, anh đi vì đất nước khổ đau, anh đi anh quên thân mình, dù anh trở về trên đôi nạng gỗ, dù anh trở về bằng chiếc xe lăn". Rồi nào là "Năm cụm núi quê hương", trong đó câu: "Chiều nay có người thương binh không về với bàn tay năm ngón, nhưng về với vạn chiến công, anh mất đi bàn tay".

    Anh em hát trong nghẹn ngào để được bà con cô bác bố thí ít tiền mua cơm. Mỗi lần nghe là mỗi lần buồn tủi. Nòng súng nhân đạo của chúng tôi đã mòn, cò súng nhân đạo chúng tôi đã sét, chúng tôi không cứu được chính chúng tôi thì làm sao cứu được những người lầm than. Anh em chúng tôi chỉ biết đến với nhau chia sẻ nỗi đau trong nước mắt.

    Một hôm đến Bắc Mỹ Thuận, tôi gặp một phế binh cầm chiếc đàn ghi ta cũ nát ngâm bài thơ, nghe thật não lòng. Tôi hỏi xin bài thơ này, anh nói: "Thơ của Khất Vương mà người anh em xin làm gì". Tôi không hiểu, hỏi lại anh: "Khất Vương là gì?". Anh tươi cười trả lời: "Là vua đó, nhưng là vua ăn mày", rồi đưa tay vào bị lôi ra một tờ giấy đưa tôi và nói: "Cho anh bài thơ này đó, về ngâm chơi cho đời bớt khổ".

    Xin gởi tặng lại quí ân nhân bài Mùa xuân chết của Khất Vương để làm chút quà tri ơn:

    Mùa Xuân Chết
    Hai mươi hai năm khắp nẻo non sông
    Tôi là sương gió long đong bể đời
    Trăng Xuân đưa cảnh tuyệt vời
    Gió Xuân mang mác vọng lời âm ba
    Hai mươi hai năm không cửa không nhà
    Bạt màu áo trận nhạt nhòa xác xơ
    Ngồi buồn đưa cảnh vào thơ
    Gối đầu hiện tại tôi mơ thanh bình
    Hai mươi hai năm từ cõi u minh
    Nhớ gì tôi viết vào linh cảm này
    Hai mươi hai năm dài biết bao nhiêu
    Mộng mơ phủ kín sông dài núi cao

    Khất Vương

    Cuộc chiến đã tàn, anh em phế binh chúng tôi sống trong một xã hội đầy bất công và đen tối, nó kéo dài hơn hai mươi bốn năm nay và nó chỉ mang lại cho anh em chúng tôi nói riêng và cho nhân dân nói chung cuộc sống bầm dập, đầy đói rách và đau khổ. Anh em phế binh chúng tôi tin rằng sau cơn mưa trời lại sáng. Chúng tôi cầu mong cộng đồng người Việt hải ngoại sớm mang lại bầu trời tươi sáng đó cho Việt Nam, trong đó sẽ không còn ai thấy cảnh bất công đau khổ trong quảng đời tàn phế còn lại của anh em chúng tôi.

    Mong rằng quí ân nhân cùng các chiến hữu thân thương nơi hải ngoại nghe và hiểu những lời tâm sự này mà những người bạn phế binh Việt Nam Cộng Hòa đã và đang gánh chịu cảnh sống ngục tù trong tủi nhục và nước mắt.

    *****

    Một hôm trên đường khất thực, anh em chúng tôi đi ngang qua Nghĩa Trang Quân Đội cũ ở Thủ Đức. Khi nhìn vào thì thấy một cảnh tượng rất đau lòng, những ngôi mộ của các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đều bị mục nát, rêu phong phủ kín vì thiếu người chăm sóc. Những chiến sĩ này đã nằm xuống, đã hiến dâng cuộc đời mình cho tổ quốc Việt Nam thân yêu, thế mà cũng không được nằm yên. Những người cộng sản đã đập phá mồ mả các anh, dày vò xương cốt các anh.

    Tại nhiều nơi khác, chính quyền cộng sản sang bằng các nghĩa trang để xây nhà cửa, nhà văn hóa hay vườn trẻ. Trong những nghĩa trang quân đội ở các tỉnh nhỏ, phần lớn các bia mộ đều bị đập phá, có ngôi bị cỏ đất lấp vùi bia tự không còn đọc được nữa như những mộ hoang. Các anh đúng là "bạc màu áo trận", hương tàn khói lạnh, nhưng vẫn còn chút an ủi. Nhờ có một số anh em phế binh lớn tuổi ở gần các nghĩa trang hoang vu cô quạnh đó ráng chống nạng gỗ vào nhổ cỏ, dựng lại mộ bia, đắp đất, quét lại vôi... rồi đốt cho các anh vài nén hương xin lỗi thay cho những con người tàn ác và cầu chúc các anh được ấm lòng nơi chín suối.

    Cảm nhận sự an ủi đó, anh em chúng tôi cũng lần vào hỏi thăm, bà con cô bác gần đó cho biết có vài anh em phế binh chế độ cũ đã có lòng từ tâm, thỉnh thoảng lén vào nghĩa trang sửa sang mồ mả những đồng đội cũ đã nằm xuống, tránh những con mắt cú vọ của những đại diện chế độ. Chúng tôi đã gặp lại nhau, hàn huyên trao đổi và giúp đỡ lẫn nhau trong việc chăm lo mộ phần những chiến sĩ vô danh. Mỗi khi thực hiện xong những việc làm nhỏ nhặt này chúng tôi cũng cảm thấy được an ủi phần nào vì chính nhờ họ mà tổ quốc Việt Nam đã tồn tại ít ra cho đến ngày 30-4-1975.

    Mỗi đêm anh em chúng tôi thường nhìn một góc trời xa xôi tự hỏi thiên đàng có thật không mà sao số phận chúng tôi đau thương đến như vậy. Chúng tôi đang sống trong một cơn ác mộng, trong sự nhẫn nhục triền miên. Chúng tôi phải đối phó hàng ngày với một bầy sư tử chỉ chực chờ vồ nuốt mạng sống chúng tôi. Mong rằng sẽ có một ngày anh em chúng tôi cũng như những anh em phế binh may mắn khác được cộng đồng người Việt trong và ngoài nước chiếu cố tới. Đó là những điều mà chúng tôi ước ao: "Mong rằng ai kia ở nơi xa xôi nghe và hiểu được nỗi lòng của anh em chúng tôi", được như thế anh em chúng tôi vô cùng cảm kích.

    Biết rằng ước mơ đó đối với anh em chúng tôi rất là mong manh, nhưng chúng ai cũng hy vọng. Hy vọng rồi sẽ có một ngày chúng tôi có được cuộc sống như mọi người bình thường khác, không phải ăn xin ăn chực nơi cuối đầu đường góc chợ, con cái được đi học hay đi bán vé số mà không phải đi theo cha ăn xin hay lượm bao ny-lông, giấy vụn. Đến đây anh em chúng tôi đã trình bày hết tâm tư đau buồn và nguyện vọng của những người tàn phế, mong được trời xanh thấu cho mà đối với chúng quí vị ân nhân tại hải ngoại là bầu trời xanh.

    Anh em chúng tôi viết ít, ngắn gọn xin quí vị ân nhân hiểu nhiều. Anh em phế binh chúng tôi trước đây chỉ là những chiến sĩ giữ gìn đất nước chớ không biết cầm bút viết văn. Kính xin quí độc giả và ân nhân đọc xong nếu có điều gì sơ sót kính xin được thông cảm mà bỏ qua cho. Đó là những lời nói chân thành xuất phát từ đáy lòng và con tim của anh em phế binh chúng tôi đang sống tại quê nhà. Đối với những anh em thương phế binh như chúng tôi không có gì quí hơn tự do và nhân quyền, sống mà không có tự do và nhân quyền như thể xác mất đi hơi thở.
    Sau đây xin kính tặng quí vị độc giả bài thơ do tôi đột ngẫu sáng tác:

    Người Sống Từ Vực Thẳm
    Nhìn trời nước mắt tuôn rơi,
    Nào ai thấu hiểu cuộc đời phế binh.
    Đêm đêm ngủ bụi ngủ bờ,
    Áo không đủ mặc, cơm thời chẳng no.
    Cơm chang nước mắt nhạt nhòa,
    Dù đời tàn phế nhưng tôi không tàn.
    Tôi đây chịu cảnh lầm than,
    Cuộc đời là thế ai buồn như tôi.
    Mong sao đất nước yên bình,
    Không nghe hành khất bên đường van xin,
    Không còn thấy cảnh tan thương,
    Anh em đoàn tụ huy hoàng vui Xuân.


    2. Những Bóng Ma Trên Hè Phố
    Quê hương, hai tiếng thân thương ai trong chúng ta cũng đã một lần gọi đến. Bình thường hai tiếng gọi thân thương ấy không gợi lên trong ta một cảm xúc nào vì đang sống với nó. Giống như không khí, con người hít thở nó để sống mà không cảm nhận sự hiện hữu của nó trong từng mạch sống. Chỉ đến khi thiếu dưỡng khí chúng ta mới cảm thấy nó là cần thiết. Cũng như thế, chỉ đến khi nào tôn miếu, xã tắc Việt Nam Cộng Hòa bị người cộng sản tiêu hủy, ngôi từ đường thờ kính tổ tiên bị bỏ phế, mồ mả cha mẹ, ông bà bị xúc phạm, khi ấy chúng ta mới cảm thấy thực sự mất mát, hụt hẫng vì quê hương không còn nữa. Chắc không ít ai trong chúng ta đã hơn một lần nhỏ lệ khóc cho quê hương điêu linh, tang tóc này. Vậy thì, các bạn hỡi, từ nỗi đau thương mất nước này hãy cùng chúng tôi lắng nghe tiếng nấc nghẹn ngào của những mảnh đời rách nát.

    Theo những biến đổi của thời cuộc, Hoa Kỳ và đồng minh rút quân ra khỏi chiến trường miền Nam từ sau 1973, Việt Nam Cộng Hòa chao đảo theo từng đợt tấn công ào ạt của cộng quân. Nhà cầm quyền cộng sản miền Bắc nuôi dưỡng âm mưu thôn tính miền Nam từ lâu, họ cho người nằm vùng trong những cơ quan, bộ phận trọng yếu của chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hòa để quấy phá. Bị nội công ngoại kích, miền Nam sụp đổ mau chóng trước đợt tiến công quyết liệt từ đầu tháng 4-1975 của quân đội miền Bắc.

    Kể từ sau ngày 30-4-1975 thủ đô Sài Gòn không còn nữa. Lăng mộ, tôn miếu, sơn hà, xã tắc của Việt Nam Cộng Hòa bị chà đạp. Mồ mả, nghĩa trang của những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, những người đứng ra bảo vệ tổ quốc và đã hy sinh vì chủ nghĩa tự do ở miền Nam, bị đào bới, san bằng trong khi xác của Hồ Chí Minh được long trọng ướp trong hòm kiếng đặt ở quảng trường Ba Đình để được chiêm bái. Có người còn đến đó đùể khóc thương trong khi những nơi tôn nghiêm, thờ phượng ở miền Nam thì bị biến thành những khu "văn hóa" vui chơi tập thể. Ai khóc thương cho những chiến sĩ vô danh này, ai đoái hoài những người bị thương tật vì chiến tranh như chúng tôi chờ ngày tàn của cuộc sống? Bất công này biết bao giờ được gột rửa? Xin mọi người hãy chia sẻ và cố gắng xoa dịu nỗi đau của dân tộc nói chung và của chúng tôi nói riêng.

    Chủ nghĩa cộng sản loang nhanh như vết máu trên mảnh vải trắng tự do. Chủ thuyết vô sản tràn lấp những giá trị xưa, rồi lấn chiếm mọi ngõ ngách tâm hồn, đe dọa mọi suy tư của người dân trong thành phố bị đổi tên, ai phê bình hay chỉ trích chế độ mới đều bị trừng trị. Các lãnh tụ cộng sản Các Mác, Lênin, Mao Trạch Đông được ngợi ca, xác ướp Hồ Chí Minh được tôn thờ. Một phó sản mới được nhào nặn ra, "thành phần 30 tháng 4" ngoan ngoãn vâng lời chủ mới, hống hách với bà con, họ hàng và còn ác độc hơn cả quân "giải phóng".

    Chế độ cộng sản không cần đến tôn giáo đã đành, họ còn phỉ báng thần linh, ngăn cấm nghi thức thờ cúng ông bà, vong hồn người quá cố; tất cả đều là "mê tín dị đoan". Cảm xúc thiêng liêng và tình cảm riêng tư của con người đối với người cộng sản không là gì cả. Không những thế họ còn xúc phạm đến các tôn giáo, Chúa hay Phật, hoặc bất cứ đấng thiêng liêng nào cũng đều bị đem ra "đầu tố", nếu không bị mắng chửi bởi những người cuồng tín thì cũng bị bôi tro trát trấu. Những người lãnh đạo tôn giáo nếu không phải là thành phần "quốc doanh" thì bị liệt vào hàng "phản động", nếu không bị bắt giam thì cũng bị theo dõi, kiểm tra ráo riết. Họ còn cho người len lỏi vào các giáo phái, chia rẽ tín đồ, khai thác ngộ nhận, bẻ cong giáo lý, gài bẫy bắt giam giáo dân, hạn chế nghi thức thờ phượng. Chế độ cộng sản còn hủy diệt tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc Việt Nam, các đình làng đều biến thành khu vui chơi, giải trí.

    Để đạt mục tiêu mong muốn, nghĩa là "xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội" trên khắp cả nước, tập đoàn lãnh đạo cộng sản không ngần ngại chà đạp nhân phẩm con người nhưng khôn khéo che đậy bằng những mỹ từ nhân đạo, nào là thông cảm nỗi khổ của nhân dân, nào là xóa đói giảm nghèo, khiến dư luận quốc tế và cộng đồng người Việt hải ngoại tin lầm. Khi đạt mục tiêu mong muốn, tất cả những thành phần dại dột tin theo đều bị bỏ rơi như những giẻ rách, kể cả những gia đình "liệt sĩ, cách mạng và mẹ chiến sĩ". Người đời có câu: "Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời cộng sản biết thương đồng bào" thật là xác đáng.

    Trong xã hội mới này, đạo đức bị coi thường, khôn sống dại chết, con người tranh nhau từng miếng ăn và nhìn người quen như... kẻ xa lạ. Liên đới xã hội mất dần chỗ đứng, có tiền thì có tất cả, không tiền thì không có gì hết. Quan hệ giữa người với người lần hồi mục rữa, kể cả những người sống ở nấc thang thấp cùng nhất xã hội. Chính quyền nhìn dân như kẻ thù địch và sẵn sàng dùng bạo lực trấn áp những ai tranh đấu đòi quyền sống danh dự. Chủ nghĩa xã hội không phải là chế độ của người nghèo. Quê hương này thật là bất hạnh, không có một tên êm đẹp nào đặt cho lá cờ sặc tanh mùi máu và cũng không tìm một tên nhân từ nào gọi tên những người cộng sản. Màu đỏ không phải là màu của tươi vui trong ngày lễ hội, nó là màu của tang thương và đọa đày bao phủ quê hương. Chủ nghĩa cộng sản gắn liền với sự độc ác.

    *****

    Hạnh phúc không bao giờ có thật trong chế độ này, một chế độ lấy sự ác độc làm phương châm và lường gạt làm kim chỉ nam hành động. Như một kiếp luân hồi không được siêu thoát, các chế độ cộng sản phải là độc ác.

    Sau khi áp đặt bạo lực của kẻ chiến thắng trên người bại trận,các ủy ban quân quản buộc công chức và sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa ra trình diện rồi đưa họ vào những nhà tù tập thể, dưới tên gọi mỹ miều "trường học tập cải tạo". Tiếp theo sau là chính sách quản lý "hộ khẩu" khắc nghiệt, nó là sợi dây thòng lọng thắt cổ nhân dân, chế độ không ưa ai thì người đó phải chết. Để cướp trọn bộ số tiền nằm trong túi dân chúng miền Nam, nhà cầm quyền cộng sản ra lệnh "đổi tiền", 500 đồng cũ ăn một đồng mới, như thế cứ mỗi 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa mới bằng một đồng xã hội chủ nghĩa, thêm vào đó họ còn quy định mỗi hộ khẩu chỉ được đổi 200 đồng mới mà thôi, số tiền còn dư do nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý. Sau hai lần "đổi tiền" như thế, toàn bộ tài sản của dân chúng miền Nam đã lọt vào tay nhà cầm quyền cộng sản. Đúng là quân cướp ngày.

    Xã hội cũng thay ngôi đổi chủ. Những người trước kia thuộc thành phần ăn trên ngồi trước nay bị lọt sổ thành ăn dưới ngồi sau. Cán bộ cộng sản có chức có quyền thì "vinh thân phì gia" trong khi đất nước đã nghèo lại càng nghèo thêm. Nhà nước còn chiếm tất cả các cơ sở sản xuất lớn, "đánh" tư sản mại bản, quản lý tất cả các mặt hàng "nhu yếu" để làm chủ thật sự miền Nam. Bà con nghèo khó buôn bán trên lề đường đều bị xếp vào hàng "bóc lột". Cán bộ hạ tầng và "thành phần 30" hàng ngày săn lùng, bắt bớ, tịch thu hàng hóa của những thành phần "bóc lột", người buôn gánh bán bưng, trên các hè phố để... bán lại cho những thành phần "bóc lột" khác. Chính vì vậy mà không ít cán bộ nhà nước núp dưới danh nghĩa "cách mạng" hà hiếp dân chúng, vơ vét của công cho vào... túi riêng.

    Dân chúng quá sợ hãi đã trở thành ngu dốt và yếu hèn. Người ta không biết phải sống làm sao với hệ thống luật pháp ma quái, nay thế này mai thế khác, của nhà cầm quyền cộng sản. Bị ép vào đường cùng, dân chúng chỉ biết im lặng làm theo. Nhà nước cộng sản hứa cho dân một cuộc sống ấm no trong vùng kinh tế mới, nơi đây người ta chỉ thấy địa ngục trần gian. Không một cây lương thực nào có thể mọc lên ở những vùng đất khổ, biết bao gia đình tan nát và biết bao người âm thầm bỏ nắm xương tàn nơi chốn rừng sâu nước độc. Người dân đói quá phải đào những cây khoai mì mới trồng chưa kịp lớn, củ chỉ bằng ngón tay em bé, để ăn. Ăn càng non thì càng đói nặng. Ai kiên nhẫn chờ đợi những củ khoai mì lớn lên trong lòng đất thì ăn bất cứ vật gì có thể ăn được để cầm cơn đói, từ cóc nhái, ễnh ương, "bù toọt", rắn mối, dế cơm, bò rầy, trứng kiến, chuột rừng, rắn mối con còn đỏ hỏn đến măng non, củ dại, nấm rừng. Tại nhiều nơi, dân kinh tế mới ăn nhằm nấm độc chết hết cả nhà.

    Thiếu ăn, da thịt người kinh tế mới biến sắc, áo quần rách nát, chân tay phù thủng, bệnh sốt rét rừng, dịch tả, kiết lị cướp đi rất nhiều mạng sống, số trẻ em sinh ra trên kinh tế mới không đủ bù lắp số người bị chết vì đói và bệnh tật. Đi hay ở, đó những câu hỏi được lặp đi lặp lại trong lòng mỗi người. Bỏ về thành phố thì không biết sẽ ở nơi đâu, nhà cửa, vốn liếng đã lỡ dồn cả cho chuyến đi "lập nghiệp" trên vùng kinh tế mới rồi. Ở lại thì thần chết sống kề bên hông, luôn luôn đòi mạng. Người dân trên vùng kinh tế mới tự đặt câu hỏi rồi tự tìm câu trả lời. Thói thường vẫn vậy, khi quá cùng khổ người ta thường "đứng núi này trông núi kia". Do nhận thức yếu kém, họ chỉ mơ ước được đi... những vùng kinh tế mới khác với hy vọng sẽ có một cuộc sống khá hơn nơi đang sống.

    Những tin đồn mà dân chúng thành thị nghe được, do những người trốn từ các vùng kinh tế về thành phố kể lại, rất là hãi hùng.

    Trên một vùng kinh tế xa xôi nọ ở tỉnh Sông Bé, có một gia đình gồm có hai vợ chồng và ba đứa con nhỏ. Đứa con gái đầu lòng mới 11 tuổi phải theo cha mẹ vào rừng đào nương phát rẫy trồng khoai mì. Có lúc thiếu ăn cả nhà hái rau cỏ rừng về ăn lót dạ, chính vì thế mà hai đứa em nhỏ (đứa em gái 7 tuổi và đứa em trai 4 tuổi) chỉ lớn hơn con mèo. Người chồng trước kia là cựu quân nhân biệt phái về dạy ở một trường tiểu học nên không thích nghi kịp với nghề tay chân. Người vợ thay chồng làm việc quần quật nhưng cũng không đủ ăn, một hôm bà mắc bệnh kiết lị rồi qua đời vì thiếu thuốc men. Gia đình còn lại trở nên túng thiếu, nhiều bữa không có đủ khoai cho bốn miệng ăn, người cha và đứa con gái lớn phải nhường phần của họ cho hai đứa nhỏ, còn họ thì ăn... lá khoai mì luộc, uống nước lá mì luộc nên bị say nôn. Đêm nằm có nhiều ảo giác ngất ngây, cứ như bị ai đó nắm chân dốc ngược lên trời, oẹ mửa thốc tháo ra tới mật xanh mật vàng, trông thật khủng khiếp.

    Một đêm nọ vì quá đói, hai cha con lén vào rẫy nhà hàng xóm bới trộm khoai mì. Đang lúc hì hụt đào trộm thì cả bị nhóm "dân quân tự quản" đi tuần bắt quả tang. Thế là trong đêm tối, những ánh đuốc trong thôn thắp dọi lên theo tiếng gõ dồn dập của thùng thiếc, dân chúng vây quanh cha con kẻ trộm. Người cha đứng cúi gằm mặt im lặng bên cạnh đứa con gái mặt mày tái xanh, tay còn ôm rỗ khoai mì. Một cán bộ xã, người miền Bắc, dáng vạm vỡ bước xộc đến, vẻ mặt nghiêm nghị chỉ tay vào mặt người cha hống hách nói:
    - Không "nao" động hả, ông thầy? Bắt quả tang đang ăn trộm rồi nhá.

    Rồi quay sang đám dân quân, người cán bộ này ra lệnh:
    - Đưa về huyện nhốt, cho chúng nó bỏ thói "nười"!

    Đang khi ông thầy còn lúng túng thì người cán bộ hùng hổ tiến tới túm lấy đôi vai gầy guộc của ông thầy, kéo xuống rồi lên gối một cái "huỵch" vào ngực. Đứa con gái thấy cha bị đánh liền thét lên: "Cha!", rồi quăng rổ khoai chạy tới nhưng bị hai người đàn ông khác nắm áo đẩy qua một bên té xuống đất. Mặt ông thầy tái lại, mắt mở to, sụm đầu gối, hai tay định ôm lấy ngực thì "bịch", một cú đấm mốc tứ dưới lên tống vào mặt ông thầy làm ông chúi nhủi. Người đàn bà chủ rẫy thấy vậy thét lên: "Ngưng tay, tôi không thưa kiện gì hết". Bao nhiêu căm ghét kẻ trộm nơi bà bay biến đâu mất, bà nói: "Để hai cha con ông thầy mang rổ khoai về nhà". Mặc dù khoai củ ở vùng kinh tế mới trong mùa khô này rất quí, bà còn biếu cha con ông thầy 40 đồng tiền mới (bằng một phần năm số tiền nhà nước quy định đổi cho mỗi gia đình). Hai cha con ông thầy cúi đầu tạ ơn bà hàng xóm rồi lầm lủi đi về.

    Nhưng người cha trở nên quẫn trí, thay vì dùng số tiền đó để mua khoai cho con ăn, ông ra chợ mua hai kí gạo và một con gà mang về nhà nấu một nồi cháo thật to cho con ăn. Đang lúc nấu, đứa con gái thấy cha nó vừa khóc vừa bỏ một thứ bột gì đó vào nồi bốc lên mùi nồng nặc khó ngửi nên nó bỏ chạy ra ngoài không chịu ăn. Nó vừa chạy vừa khóc trong đêm tối, ba cha con ông thầy tiếp tục ngồi ăn ngon lành. Sùáng hôm sau người ta thấy xác ba cha con ông thầy nằm chết bên cạnh nồi cháo. Chính quyền địa phương không cho dân chúng chôn ba cái xác ấy ngay, họ được đắp chiếu để trước cửa 24 tiếng đồng hồ, bên cạnh là bản án có ghi hàng chữ "Tự tử là có tội". Vì chiếc chiếu không đủ che ba cái xác nên đôi chân cứng đờ và tái xanh của ông thầy lòi ra trông rất rùng rợn. Sang ngày hôm sau bà con lối xóm mới được phép chôn cất ba cha con ông thầy, đứa con gái 11 tuổi ấy theo đoàn người bỏ về thành phố rồi mất tích luôn.

    Các vùng kinh tế mới đúng là địa ngục trần gian, con người bị cái đói và bệnh tật dằn vặt hàng ngày, dân chúng trốn về thành phố rất nhiều. Chính quyền địa phương dựng lên nhiều chốt ngăn chặn luồn người trốn về thành phố và tung chiến dịch tuyên truyền hứa "cứu đói". Nhưng không ai nói láo bằng "vẹm", chẳng ai đến cứu đói và dân cứ tiếp tục trốn về. Trong đêm tối, từng đoàn người lũ lượt gánh đồ, vác bị trốn về thành phố. "Về đi thôi, nếu có chết thì chết ở thành phố sướng hơn chết trên rừng", mọi người rỉ tai nhau.

    Về được thành phố, họ ngủ trên các vỉa hè, bến xe, sạp chợ, kể cả trong các nghĩa địa. Họ lấy nền xi măng làm giường, bao ny lông làm chiếu, mùng màn thì không cần vì da thịt họ quá cằn cỗi, ruồi muỗi có viếng thì cũng bỏ đi thôi. Nhiều người còn cảm thấy vui thích được ngủ dưới trăng sao của thành phố; họ nói trăng Sài Gòn đẹp hơn trăng vùng kinh tế mới: "trăng gì mà trắng bệch như... mặt người chết đói, thấy mà ghê". Mọi người sung sướng chia nhau cảm giác về lại quê xưa, dẫu cho thân thể có tồi tàn rách nát trở về sống tại quê nhà vẫn thích thú hơn.

    Họ làm bài thơ sau đây hiến tặng độc giả:

    Về Đi Thôi
    Nhà nước nhà nôi thôi đừng nói nữa!
    Nói đi nói lại cũng chừng đó thôi.
    Nơi đây khốn khổ muôn người thiếu ăn,
    Chỉ mong có gạo có khoai qua ngày.
    Cuốc ngày cuốc tối, cuốc cả trời mưa,
    Bụng thì cứ đói, ruột thì cứ than.
    Tay chân bủn rủn, toàn thân bàng hoàng,
    Đêm về chỉ thấy bầy con khóc rần.
    Ở thì không được chỉ nước về thôi,
    Về thì du kích hung hăn hầm hừ.
    Trốn chui trốn nhủi mới về tới nơi,
    Chẳng may bị bắt, tiêu tan cuộc đời.
    Về lại thành phố có phiền ai đâu,
    Không nhà không cửa, chúng tôi ngủ đường.
    Ngày ngày sớm tối lang thang ngoài đời,
    Đói thì đứng chợ ăn xin của người...

    "Về Đi Thôi", tôi nghe thấy tiếng lòng thôi thúc. Mỗi đêm nhìn bà con lối xóm bỏ về, tôi cũng nôn nao. Được những người quen cho biết tin cha tôi lâm bệnh, tôi càng xót xa. Trước kia ông đi lập nghiệp ở khu kinh tế mới Tây Ninh, cạnh Núi Bà Đen cùng với mẹ và các em tôi. Mẹ tôi chẳng may mắc bệnh sốt rét rừng đã qua đời cách đây sáu tháng, cha tôi cùng các em đã trở về thành phố cách đây bốn tháng. Hiện cha tôi sống bằng nghề xin ăn, mỗi bữa ông đứng chực ở mấy cửa hàng ăn uống quốc doanh, chờ khi thực khách ăn xong, còn sót lại những thức ăn trên tô dĩa, ông vội vàng trút hết vào lon guigoz đem về nhà hâm lại cho các em tôi ăn. Xưa kia ông có lần dạy kèm Pháp văn cho trẻ nhỏ nên hiếm khi ông dám ngước nhìn thực khách hoặc chìa lon xin tiền vì sợ người quen nhận diện, ông chỉ nói lí nhí trong miệng. Tôi cứ lo âu hình dung cha tôi với mái tóc bạc trắng đứng bơ vơ bên đường, lỡ gặp cán bộ vạm vỡ nào đó túm áo mà xô đẩy thì sao. Miên man nghĩ đến cha, rồi nhớ lại câu chuyện ba cha con ông thầy, tôi càng nôn nóng trở về hơn. Càng suy nghĩ, tôi càng thấy nóng nặt, máu dồn lên óc. Cuối cùng thì gia đình tôi cũng chuẩn bị khăn gói lên đường. Thế là chúng tôi bỏ nhà bỏ cửa, bỏ cả mảnh đất đang làm dở dang trên vùng kinh tế mới, theo chân những người đi trước trốn về thành phố.

    Sau gần một tuần lễ lòn lách, trốn tránh các nút chặn trên các con đường rừng, chúng tôi về tới thành phố cũ với tên gọi mới. Sài Gòn vẫn còn đó nhưng đời sống đã khác xưa. Khu nhà tôi còn đây, nhưng căn nhà cũ không còn. Những người dân đi xây dựng vùng kinh tế như gia đình chúng tôi về lại phố cũ đều đau lòng nhìn các gia đình cán bộ tập kết miền Bắc đến xây nhà trên những nền nhà cũ của chúng tôi, họ ăn sung mặc sướng, đời sống sung túc, no đủ trong những căn nhà đep đẽ. Tôi mới chợt hiểu "cách mạng" không có nghĩa là xóa bỏ cái cũ để nâng cao mức sống người dân, mà là "loại bỏ" những người chủ cũ, những người thất trận và người dân nghèo như chúng tôi, ra khỏi thành phố, lùa họ vào những vùng đất chết để cho thiên nhiên, bệnh tật và đói khổ tiêu diệt. Còn tại thành phố, họ nâng cao mức sống cho những công bộc, dành những khu phố đẹp cho cán bộ cao cấp và gia đình họ ở. Trong những khu lao động, người nghèo khổ bị xua đuổi để lấy đất xây thêm những khu nhà mới, gọn đẹp hơn cho những cư dân mới, những người đến từ miền Bắc xa xôi, những gia đình "có công với cách mạng" (nằm vùng cũ) hay thành phần người giàu có mới.

    Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa như vậy chỉ là sự thay ngôi đổi chỗ giữa những thành phần giàu có mới và giàu có cũ. Những người nghèo khổ như chúng tôi không có chỗ đứng trong xã hội này, nếu có chăng thì ở chốn rừng sâu, nước độc. Nhiều người không biết cứ ngỡ rằng chế độ mới đã làm nhiều cố gắng cải thiện đời sống "nhân dân", nhưng nhân dân ở đây là "nhân dân cán bộ", thành phần ăn trên ngồi trước. Những hào nhoáng bên ngoài có mục đích phô trương, khoe mẽ với các quốc gia khác, với Liên Hiệp Quốc rằng nhà cầm quyền cộng sản đang "thay da đổi thịt", lo lắng cho lớp người cùng khổ của xã hội miền Nam xưa kia, nhưng thật ra là gạt chúng tôi ra ngoài rìa xã hội, để phải sống lây lất trên các vỉa hè, nghĩa địa và hành nghề ăn xin. Chúng tôi mới chính là người vô sản, nhưng vì là thành phần vô sản miền Nam nên chỉ hưởng ùđày đọa và hà hiếp. Chúng tôi không còn gì cả ngoài những thân hình ốm yếu, tật nguyền cùng với đàn con rách rưới, sống không có ngày mai và chết không ai thừa nhận. Chúng tôi không buồn vì bệnh tật ốm đau không được chữa trị, đói không được cho ăn, nhưng buồn vì quê hương thiếu vắng tình người. Những người "vô sản" ngày hôm qua đang đày đọa những người "vô sản" hôm nay.

    Không riêng gì dân chúng miền Nam, cả những người vô sản miền Bắc cũng là nạn nhân của nhà cầm quyền cộng sản. Họ được hứa hẹn đủ điều để rồi chỉ toàn bánh vẽ, nhà cầm quyền cộng sản luôn luôn hứa hẹn thực hiện cho cái "sẽ là", và cái "sẽ là" không bao giờ tới. Con cái họ tiếp tục vào Nam làm bia đỡ đạn, lúc chết xác thân không biết chôn vùi ở đâu, hòa bình trở lại họ trở về kiếp sống nông dân, bị bạc đãi và khốn khổ như chúng tôi. Trẻ em cũng bị lợi dụng, các khẩu hiệu ra vẻ yêu thương chăm sóc trẻ em chỉ là bánh vẽ, các em bé miền Bắc cũng như miền Nam ở thôn quê đều suy dinh dưỡng, bụng ỏng da chì trong khi con cái những cán bộ có chức có quyền ăn sung mặc sướng và được đi học. Những đứa trẻ con ông cháu cha này tiếp tục sẽ đè đầu đè cổ con cháu chúng tôi. Cuối cùng sau bao nhiêu năm sống dưới sự ách cai trị của cộng sản, dân chúng miền Bắc rủ nhau từng đoàn vào Nam... ăn xin như những người trốn từ vùng kinh tế mới về vậy.


    Từ vùng kinh tế mới trở về, tôi thấy gì kể đó.
    Vào thời điểm mà ly cà phê đen trộn bắp giá 150 đồng (năm 1981) thì trên các vỉa hè, góc phố bán đầy rẫy những quán hàng bán phở ruột bò 50 đồng một bát. Cứ mỗi buổi sáng, tại chợ Cầu Ông Lãnh những người lao động nghèo sống bằng đủ thứ nghề vặt vãnh, từ những anh em thương phế binh mua bán nhang đèn rong dạo, những quả phụ mua bán áo quần cũ ở những chợ trời, đến những em cô nhi, những người ăn xin và những người làm nghề khuân vác, đạp xe ba bánh, xích lô cùng những phu phụ hồ, v.v... thường xúm quanh những hàng quán phở ấy. Họ xì xụp ăn húp ngon lành những bát phở ruột bò, có người ăn hai ba bát mà vẫn còn thèm. Cơ khổ mới rõ điềm trời, nhiều người vừa mới ăn xong thì ngay lát sau bụng đã kêu đói lại rồi.

    Anh em phế binh chúng tôi chú ý đến các em cô nhi, vì trong lúc mà chúng tôi ăn bát phở giá 50 đồng, có vài lát ruột bò xắt mỏng như giấy, thì các em cô nhi hoặc nhịn đói, hoặc kêu ăn những bát phở giá 30 đồng chỉ có nước lèo mùi ruột bò và bánh phở. Ăn xong, anh em phế binh ngồi trên ghế cóc phì phèo điếu "Hoa Mai" hay "Đà Lạt", thứ thuốc lá đen phế phẩm loại 3, bên ly cà phê đen trộn bắp, định hướng chia nhau khu vực bán nhang. Các em nhỏ cũng ngồi bệt dưới đất chia khu đi... lượm bọc ny lông, ve chai ở các thùng rác chợ và giấy vệ sinh ở những nhà cầu công cộng trên những "ao cá Bác Hồ".

    Thời ấy người ta có phong trào lấy tên vị lãnh tụ "vĩ đại" đặt tên cho các công trình công cộng, những ao cá cũng vậy. Vì lúc ấy cái gì cũng có thể bán được cả, từ những bao ny lông tái sinh đen thủi đen thui đến những loại giấy vệ sinh tái sinh đi tái sinh lại đều có thể cân kí lô bán cho vựa ve chai nên các cán bộ có nhiệm vụ quản lý ao cá cũng tranh thủ làm... kinh tế. Vì thấy nguồn giấy "chùi" đáng kể ở các nhà cầu công cộng nên các em thường ngồi chầu chực đợi người ta vừa "vệ sinh" liền tranh nhau vào nhặt. Giấy vệ sinh vừa "dùng" xong liền đem ra sông giặt sạch, phơi khô, cân ký bán lấy tiền ăn cơm trưa. Nhưng nguồn giấy đó cũng là "tài sản của nhà nước", cán bộ giữ ao dọa nạt ngăn cấm các em không được vào nhặt. Một hôm cán bộ giữ ao túm được một em gái đang vào trộm "tài sản nhà nước xã hội chủ nghĩa" quăng xuống ao, trút sạch bao giấy của em vào giỏ đựng của nhà cầu công cộng "của" ông ta. Lúc bò lên bờ, chân nó bị mẻ chai cắt đứt nhiều chỗ, máu chảy đầm đìa. Người đi "vệ sinh" thường quăng mẻ chai xuống chỗ đi cầu dưới ao vì sợ cá tra tranh nhau ăn cứt, quậy nước dơ bắn lên người, do đó dưới ao toàn là mẻ chai.

    Chiều hôm ấy các em có vẻ buồn buồn, chúng nó lo âu vì không biết làm sao để có tiền ăn cơm. Nếu đi xin thì dễ bị công an bắt và đưa đi "nuôi" ở mấy "trường cải tạo" giáo dục thiếu nhi, huấn luyện cho chúng biết "lao động là vinh quang". Người ta thường bảo "cái khó nó bó cái khôn" nhưng đối với các em trai thì không vậy, "cái khó nó ló cái khôn". Chúng bàn nhau chung sức để dành tiền rồi góp lại mua sắm những bình điện ắc quy loại 6 vôn. Chúng lượm những cái căm xe đạp rồi mài cho thật nhọn, gắn vào những khúc tre, từng cặp một chúng chờ đêm tối xuống cùng nhau mở những nắp cống thoát nước dọc các vệ đường quanh chợ Bến Thành, Cầu Ông Lãnh, An Đông, Hòa Bình và Bình Tây chui xuống rọi đèn đâm chĩa cá.

    Có một thời dân chúng thành phố đổ tội cho những em này ăn cắp những nắp cống bằng gang đem bán. Thật sự thì cũng có chuyện đó, nhưng không phải mấy em này ăn cắp mà là người khác. Vì nắp cống quá nặng các em không khiêng nổi nên chỉ đủ sức nạy lên rồi đẩy qua một bên. Những "bạn hiền" đạp xích lô sáng sớm đi ngang thấy tiện "bợ nhẹ" đi luôn mà không cần biết hậu quả xảy ra cho người đi sau vô ý lọt xuống. Sau khi xảy ra nhiều tai nạn sụp lỗ cống, công an và dân quân canh gác ngày đêm những miệng ống cống, các em buộc phải mở những nắp cống ở xa để tránh dòm ngó, có khi phải khui những miệng cống từ các đường Hai Bà Trưng, Điện Biên Phủ (Phan Thanh Giảng cũ), Hùng Vương, An Bình, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Trãi... Mỗi lần chui xuống, các em cẩn thận đậy nắp miệng cống lại để tránh gây tai nạn. Vào lúc giữa khuya hay tờ mờ sáng, khi muốn lên các em cũng mở he hé miệng cống nhìn dáo dác chung quanh rồi mới vội vàng nhảy lên.

    Đường cống dài, luồn lách quanh co và tối om, nhưng nhờ những cái bóng đèn nhỏ gắn ở trên đầu, ở trước trán, chúng lùng sục, săn tìm được cá. Nguồn cá khá nhiều nên các em nhỏ không những có ăn mà còn dư đem ra chợ bán nên chúng có vẻ rủng rỉnh tiền bạc. Kể từ đó, vào mỗi buổi sáng chúng cũng gọi những bát phở loại 50 đồng ăn đàng hoàng, cũng "bắt chước" những nhà "trí thức" phế binh (chúng gọi chúng tôi như vậy, vì hay hóng nghe những chuyện anh em phế binh kể về cuộc đời lính tráng) ngồi uống cà phê và hút thuốc lá cho đỡ lạnh. Nhờ đồng tiền kiếm được, chị và em gái của chúng cũng sắm thêm vài manh áo mới mua ở các chợ trời bán quần áo cũ, mặt mũi trông sạch sẽ hơn.

    Thằng Nô (12 tuổi) và Phát (14 tuổi) thì không thấy mua sắm gì, các bạn gọi chúng nó là "trùm sô". Cả hai quê ở Long An, là con của tử sĩ Nguyễn Văn Thuận, cùng mẹ đi vùng kinh tế mới ở Cao Lãnh, Đồng Tháp Mười, nhưng đời sống quá cực nhọc và không đủ ăn, bà dẫn hai con về Sài Gòn sống lang thang. Một hôm hay tin mẹ mất, bà gởi hai đứa nhỏ cho một gia đình phế binh rồi về quê luôn, bà sống bằng nghề đi mót lúa và ở tạm nhà người bà con. Nô và Phát thường khoe với chúng tôi rằng cha chúng đi lính mặc áo "hoa rừng" (nhảy dù) chết vào mùa mưa năm 1972. Mẹ chúng đã khóc như mưa lúc nhận xác cha nên mỗi khi thành phố vào mùa mưa, chúng cảm thấy buồn buồn. Gần đến ngày giỗ cha rồi chúng cố "làm ăn" cho có nhiều tiền để về Long An thăm mẹ. Trong khi các bạn đồng lứa bắt đủ cá xong trở lên mặt đường ngủ đêm thì chúng tiếp tục lặn lội dưới các ống cống để tìm thêm cá. Có những buổi sáng chúng tôi thấy hai anh em rét run vì ngâm người dưới nước quá lâu.

    Vào một đêm nọ, chúng tôi sùắp đi ngủ thì thấy hai anh em thằng Phát lặng lẽ mở nắp cống chui xuống. Khoảng vài ba giờ sau thì sấm chớp ầm ầm, chúng tôi choàng thức dậy tìm chỗ trú mưa. Một trận mưa như vũ bão đổ ào xuống thành phố và kéo dài đến sáng sớm. Các ống cống rút nước không kịp làm nước mưa tràn lên các đường phố, ngập gần đến gối những bạn hàng dọn chợ đêm. "Bình thường hai anh em thằng Phát ở lâu hơn bạn bè cùng lứa dưới cống để đâm thêm cá, nhưng giờ này trời đã gần sáng mà sao lạ chúng vẫn chưa lên?", tôi lo âu tự hỏi. Thôi rồi, tôi hốt hoảng chợt hiểu ra mọi sự. Anh em chúng tôi báo động với nhau, kẻ đi tìm người đi hỏi những đám nhỏ còn ngủ gà ngủ gật cạnh những đống rác "giữ chỗ" trước cho buổi sáng hôm sau, nhưng không ai thấy hai anh em thằng Phát đâu cả. Chúng tôi buồn bã bàn tán với nhau, hình dung cảnh tượng nguồn nước mưa tuôn ồng ọc vào các cống rãnh, hai đứa nhỏ mãi mê bắt cá không biết bên ngoài trời mưa lớn, đến khi thấy nước dâng lên quá nhanh thì đã quá muộn, dòng nước đã bít các lối chui lên và cuốn trôi hai xác thân nhỏ bé. Ôi, cuộc đời thật quá mong manh.

    Cho đến một hôm, 33 ngày sau, một em bé trai khác đang lội bì bõm dưới các ống cống gần chợ Cầu Ông Lãnh tìm cá, bất ngờ đụng phải cái gì giống như "trái dừa", nó nhặt lên soi nhìn trước ánh đèn thì liền hét lên bỏ chạy, nó chui đại lên miệng cống ngay gần chợ trước sự kinh ngạc của những bạn hàng, mặt mày tái xanh. Nó vừa lượm một cái đầu lâu. Cả chợ hay tin đó liền kêu đội dân quân gác chợ và ban quản lý cho người mở nắp cống dọi đèn tìm kiếm xác hai đứa nhỏ, nhưng chỉ nhặt được một khúc đùi đã thối rữa và một nửa thân người còn lại. Người ta biết là thân xác còn lại của hai đứa trẻ bất hạnh và bọn trẻ nhận ra cái quần đùi màu đỏ của thằng Phát, bên trong còn ít tiền gài kim băng cẩn thận. Tiền đó thằng Phát để dành về quê giúp mẹ làm đám giỗ cha.

    Kể từ đó bọn trẻ ở các chợ Cầu Ông Lãnh, Bến Thành, An Đông, Hòa Bình, Bình Tây và các chợ nhỏ khác không dám chui xuống những đường cống thoát nước của thành phố để kiếm cá nữa, chúng sợ ma. Từ đó biết bao nhiêu chuyện đồn đại về những xác người bị giết và bí mật quăng xuống cống để phi tang. Không còn em nào dám mạo hiểm xuống các cống nước để kiếm cá dù có đói. Thế là bọn trẻ tiếp tục chia nhau đi lượm bọc ny lông, giấy vệ sinh và xin ăn trên hè phố. Không có ánh sáng ở cuối đường hầm cho những cô nhi.

    *****

    Trong cuộc sống đầy gian khổ, tạm trú ở đầu đường xó chợ hay trên vỉa hè, những anh em phế binh còn độc thân hiếm khi có ý nghĩ tìm người bạn đường. Phế binh Phan Tiến Dũng, Thủy Quân Lục Chiến cụt một chân, cũng vậy. Mặc dù còn trẻ, hiền hậu và đẹp trai nhưng từ sáng đến tối anh vẫn lầm lủi đi đi về về một mình với những bao nhang đèn. Có lẽ vì chọn nơi tạm trú ồn ào bên cạnh chợ An Đông, Tiến Dũng ít khi rãnh rỗi nhìn lên trời cao để biết rằng có một vì sao chiếu mạng. Thật buồn cười, có nhiều người ước ao sống trong hạnh phúc nhưng không bao giờ bắt gặp, nhiều người khác không ao ước gì thì luôn gặp may.

    Trong chợ An Đông, có một phụ nữ người Việt gốc Hoa thích nghe chuyện lính. Cô tên Vòng A Muội, nhưng không hiểu tại sao ở chợ người ta thường gọi là "A Chế", còn anh em chúng tôi thì gọi là "A Phụng". A Muội, A Chế hay A Phụng là một thiếu nữ còn trẻ, duyên dáng và thật thà, cô thường hay giúp Tiến Dũng sửa soạn nhang đèn, thích nghe kể chuyện lính tráng, đánh giặc, bị bắt làm tù binh, v.v... Có lẽ A Chế có cha đi lính đánh giặc và chết trận nên mến Tiến Dũng chăng? Mặc kệ, đó là chuyện đã qua, còn bây giờ A Chế đang hiện diện trong tập thể "gia đình" anh em phế binh chợ An Đông. Nhiều lúc tôi thấy A Chế nhìn Tiến Dũng với ánh mắt đăm chiêu, không nói gì. Anh em chúng tôi thường đùa giỡn, mối mai, khuyến khích Tiến Dũng rủ A Chế đi ăn chè. Cô không những không từ chối mà còn giành trả tiền ăn mì, ăn cháo ban đêm rồi bao Tiến Dũng đi coi cải lương và xem xi nê. Tình cảm của hai người từ đó ngày thêm gắn bó, anh em chúng tôi rất mừng.

    Tuy vậy cuộc sống trên hè phố chợt thoáng rồi tan. Mới hôm qua còn gặp nhau đó ngày mai thì chia tay vĩnh viễn. Có những cuộc gặp gỡ chỉ được một lần rồi không bao giờ xảy ra nữa. Hiểu được những điều ấy, những người sống lang thang trên vỉa hè như chúng tôi lúc nào cũng sẵn sàng chấp nhận mất mát, rủi ro và bất hạnh. Nhưng chính trong cuộc sống vội vã này nảy sinh biết bao tình cảm chân thật, rụt rè khiến cho anh em xúc động và càng muốn vun đắp cho nhau. Huống chi Tiến Dũng là một người bạn tốt, nghèo nhưng sống có tình có nghĩa, anh thường hay giúp đỡ anh em mỗi khi hoạn nạn nên rất được lòng người.

    Anh em để ý thấy Tiến Dũng chăm chỉ đi bán nhanh, lại biết dành dụm tiền bạc. Những buổi trưa, Tiến Dũng chịu khó lê cái chân giả (anh cụt chân trái, xương còn mọc nên hay bị đau, đi lại khó khăn) ra ga xe lửa Sài Gòn. Ở đấy, bên góc đường Hàm Nghi - Phạm Ngũ Lão có những người đàn bà gánh cơm bán dạo, những dĩa cơm ấy rẻ vì có độn bo bo (dành cho súc vật), thức ăn là những con cá lòng tong kho mặn hay những con tép, giá 500 đồng một dĩa, trong khi ở cửa hàng quốc doanh một dĩa cơm bình dân giá rẻ nhất cũng phải từ 2.500 đồng đến 3.000 đồng. Tiến Dũng đã ăn những bữa cơm như thế, anh muốn để dành tiền mua tặng A Chế một cái quần Tây màu cà phê sửa, kiểu điếu thuốc xì gà, bởi vì qua những mẫu chuyện trao đổi, Tiến Dũng khám phá ước mơ thầm kín của người bạn gái.

    Có lần A Chế kể cho Tiến Dũng nghe: "Nhà em ở xóm Gò Vấp gần khu quân sự, những ngày cuối cùng của tháng 4 quân cộng sản pháo kích lung tung, đạn lạc vào nhà dân. Hôm đó, em cùng hai em nhỏ đang ngồi ăn cơm với mẹ thì nghe một tiếng ầm khủng khiếp. Cả xóm kinh hoảng, lao nhao la lên: "Pháo kích, pháo kích, chạy đi bà con ơi!". Em vội thu xếp đồ đạc cùng mẹ dẫn hai em chạy ra ngoài đường theo những người hàng xóm. Chạy ngang nhà con nhỏ bạn định rủ nó cùng chạy giặc như em, nhưng... ôi thật khủng khiếp. Nhà của nó tan hoang, đồ đạc gãy nát, máu thịt văng tứ tung. Đạn pháo kích rớt trúng nhà nó, giết chết cả nhà. Con Hoa nằm ngữa, thân hình phủ đầy bụi đen xì, tóc tai rũ rượi phủ trên gương mặt trắng bệch, trên ngực nó máu me đầm đìa, cơ thịt cánh tay phải của nó còn giựt giựt nhưng bàn tay bay đâu mất rồi. Em nhìn nhỏ bạn nằm im không cục cựa, lòng se thắt lại nhưng cái quần tây màu cà phê sữa của nó vẫn còn "mô đen" quá. Em nghĩ nhỏ Hoa khi chết mà còn mặc cái quần tây như thế chắc cũng được thỏa lòng".

    Thạch Chia, Phế binh Biệt Động Quân cụt chân phải, mặt đen như cột nhà cháy, nghe Tiến Dũng thuật lại liền nhe hàm răng ngựa cười khà khà:
    - Còn chú rể nữa chi, hổng lẽ ngày lễ tuyên bố lại bận xà rong khoe cái giò bằng cây sao?

    Bà Hồng già, ho lao gần chết, phê bình A Chế:
    - Đi lượm bọc ny lông mà bày đặt mặc áo bà ba - rồi bà lại hứa hẹn. Ê, đám cưới tụi bay tao đi nguyên con "dịt" cổ lùn Sa Đéc đó nghe!

    Thạch Chia trề cặp môi dầy thâm xì:
    - Ờ, con "dịt" của bà bằng mủ nhựa hả, ở Chợ Lớn bán thiếu gì. Nếu bà đi con "dịt" thì tui đi con heo Lái Thiêu!

    Anh em cười hể hả. Thạch Chia bình thường ít nói, tính tình cộc cằn, nóng nảy, hôm nay hỗng hiểu sao như con nhồng lột lưỡi. Niềm vui nhẹ nhàng lan tỏa trong anh em như áng mây bay làm dịu ánh nắng gay gắt ban trưa, nó như làn sinh khí thoáng lên bộ mặt xám ngoẹt của người hấp hối trước đi từ trần. Đang lúc những người khốn khổ đang quay quần đóng góp mỗi người một câu cho vui câu chuyện, cho đám cưới "tưởng tượng" ấy, chị Liên (quả phụ) bỗng nhiên lạc "tông", không hiểu sao lại tru tréo lên:
    - Ôi giời ơi, nếu cộng sản đừng đánh vào miền Nam thì con tôi vẫn còn có cha.

    Anh em chúng tôi biết là chị đang nghĩ tới đứa con trai duy nhất 8 tuổi của chị, thằng Đức, đang theo lũ trẻ cùng trang lứa moi móc, lặn lội trong những ống cống ngầm để tìm cá. Bà Hồng nhìn chị:
    - Tháng này cũng bớt mưa rồi, không sao đâu mà! - rồi bỗng dưng bà ấy thở dài nhìn các anh em phế binh nói tiếp. Giá mà tôi được sống lại giờ phút lịch sử ấy nhỉ. Tôi sẽ đến cùng anh em chiến sĩ, được chạm tay vào cò súng một lần thôi rồi lỡ có chết cũng cam lòng. Cứ đánh một trận cho tan tành té bẹ đi, ai xui thì chết, ai may thì sống, biết đâu sẽ hưởng được tự do.

    Thạch Chia cười:
    - Bà già cầm nổi cây M16 không? Nếu nổi thì tui cõng bà nha, nhưng nhớ lỡ quýnh quá đừng có "xả" ướt lưng tui đó nha bà.

    Bà Hồng già giả bộ không nghe trầm tư kể tiếp:
    - Một hôm tui đang đi ăn xin, gặp trúng ngay nhà cán bộ, cha này người miền Nam tập kết ra Bắc hồi còn nhỏ, năm 1954. Tui lỡ bộ tính nói vài câu rồi rút êm, nhưng "ổng" nhìn tui có vẻ thông cảm. Cha này có vẻ "trí thức" chứ không phải bậm trợn dốt đặc cán mai như mấy thằng "cách mạng ăn theo" (còn gọi là bọn "30", hay "30-4"). Ổng kể: "Khi ấy tôi còn ở Tòa Thánh Cao Đài, chiếm được Tây Ninh và thấy cảnh sinh hoạt của dân chúng tại dưới chế độ mới, tôi hiểu là giải phóng rồi đồng bào miền Nam sẽ khổ như đồng bào miền Bắc nên chúng tôi đâu có muốn giải phóng thành phố Sài Gòn làm chi. Không hiểu sao lính miền Nam lại bỏ chạy, đầu hàng. Chỉ cần giữ vững tinh thần, cầm cự hơn tháng nữa thôi thì tụi nó sẽ kiệt quệ thôi, xe tăng hết nhiên liệu, đạn dược không được tiếp tế, tinh thần xuống thấp và nhất là đói". Rồi ổng kêu "bả" (vợ ổng người miền Bắc, còn trẻ) vô lấy cho tui một kí gạo, dặn tôi nhớ né tránh mấy chỗ gác dân quân. Ổng nói: "Tụi nó còn hăng lắm, tập làm cách mạng, muốn lập công với đảng, chúng không ưa mấy người ăn xin bêu xấu chế độ đâu". Còn bả thì ân cần hỏi thăm tui bịnh lâu chưa, trời mưa có lạnh không, bả cho tui bộ quần áo rồi tâm sự: "Khi miền Nam giải phóng xong, tôi bỏ miền Bắc theo ông ấy vào trong này. Vì sau bao năm chịu đựng với nhà nước này, tôi hiểu ra một điều là đừng chờ đợi pháp luật hoàn tất, bởi vì pháp luật của nhà nước lập ra không phải vì nhân dân (mặc dù họ mượn danh nghĩa nhân dân, mà vì quyền lợi của nhà nước). Khi pháp luật chưa hoàn tất thì những người dân (ở trong Nam) hãy còn "kẽ hở" để mà sống, khi đã hoàn tất (như ngoài Bắc) thì chỉ có chết đói mà thôi". Bả còn nói thêm: "Miền Nam vẫn còn sung sướng hơn miền Bắc đấy chị ạ, cố mà sống và đừng nghe chính sách gì cả nhé bởi vì sẽ cứ thế mãi thôi. Họ lừa hết lớp người này xong lại tiếp tục lừa lớp người kế tiếp, ai cũng sợ hãi nên đành im lặng để mà sống". Nghe xong tui nhìn bả ngỡ ngàng, tuyệt vọng. Một cặp vợ chồng được chế độ này ưu đãi đủ thứ mà còn nói như vậy thì kể gì đời sống của tui. Bả tiễn tui ra về: "Thôi, chị đi đi nhé, nói chuyện nhiều không ích lợi gì". Tui bật ra cơn ho rũ rượi, bả nhìn tui thương hại, bả biết là tui sắp "đi" rồi nên dặn nhỏ: "Xin đừng gọi chúng tôi là cách mạng".

    Huệ và Đồng, hai người lính cũ, cùng nói:
    - Té ra là người dân miền Bắc đâu có sướng gì. Họ cũng chỉ là nạn nhân của vụ lừa thế kỷ như miền Nam mà thôi. Trong khi chúng ta lấy ngày 30-4 (1975) là ngày quốc tang thì miền Bắc có ngày 10-10 (1954) làm ngày giỗ quê hương của họ.

    Thạch Chia, vốn là con sâu rượu đế (anh còn có biệt danh "đại ca tiếu ngạo" vì hay cười cợt đời khi có rượu vô), thêm vào:
    - Dzậy là đúng như bà Bình hay nói ở hiệp định Paris: "Bình mới rượu cũ", chẳng có cải cách gì ráo trọi. Ôi, nói ba cái chuyện đó chi nghe bắt mệt. Ê, Lê A, mày tính đi đám cưới tụi nó cái gì đây?

    Lê A, phế binh Dù bị cụt cả hai chân phải gắn chân gỗ bước đi trên cặp nạng lều nghều như con cua, đáp:
    - Tui chỉ cần đi một vòng chợ Hòa Bình, Nguyễn Tri Phương là đem về một bọc ny lông đầy đầu gà, cánh vịt, phao câu, "pê đan" giò dĩa, lòng mề đủ thứ cho anh "nhậm chẩu" mệt nghỉ.

    Lê A triết lý thêm:
    - Cái khổ của chúng ta là biết những cái mà chúng ta không giải quyết được. Khi mà mọi sự đã trở thành vô nghĩa, khi mà chúng ta bị hất ra bên lề đời sống và đã trở thành những bóng ma vật vờ trên những đường phố thì chúng ta hãy sống như những bóng ma, sống như kẻ vắng mặt trong cuộc sống hào nhoáng này, cứ để ngày tháng qua đi rồi cái gì phải tới sẽ tới. Thôi đừng mất thì giờ tìm ánh mặt trời vào giữa đêm khuya, không bao giờ có đâu. Đừng có được voi đòi tiên nữa, anh em hãy nhớ lại lúc ở kinh tế mới chúng ta mơ ước gì, chúng ta có khác gì con vật nay đang hưởng ân huệ của cuộc sống đây nè: được uống nước phông ten, được ăn đầu gà cánh vịt, được ăn "pê đan" giò dĩa, được "nhậm chẩu" còn gì sướng hơn. Hãy vui với những gì đang có.

    Chị Liên thở dài u uất, tiếp tục lạc "tông":
    - Lạy Chúa của con ơi, ngài có nghe không? Người kiên trinh chung thủy sao lại bị bỏ rơi, kẻ man trá phản bội lại cứ được đền bù. Lũ Giuđa thời đại đang đè đầu cổ nhân dân đây này, lạy Chúa của con ơi.

    Chị Liên nghĩ về chồng chị. Lần về phép sau cùng, anh biết cuộc chiến sẽ còn khốc liệt hơn nữa nhưng vẫn quyết chí ra đi bảo vệ đất nước. Giờ đây chung quanh chị bao nhiêu kẻ chạy theo cuộc sống mới, có ai cần gì đến lý tưởng. Kìa nhiều người còn chỉ lối, dẫn đường cho chế độ cộng sản khống chế cuộc sống nhân dân miền Nam, họ được đền bù bằng sự no đủ, ăn sung mặc sướng trong khi con chị, "giời ạ, giờ này đang chui đầu dưới ống cống". Chị nhìn bầu trời một hồi rồi mặc cả:
    - Lạy giời, xin đừng mưa nữa, nhưng không mưa thì làm sao có cá. Thôi xin mưa nho nhỏ thôi, cho con tôi có được miếng ăn.

    Trong lúc những anh em phế binh khốn khổ như Tưởng lù đù, Tài râu, Hùng cụt tay, Long què giò, Bin khờ... cứ chết dần chết mòn vì bệnh hoạn, bị bắt vào "nhà nuôi", thì trên đường phố xuất hiện nhiều gia đình miền Bắc đi ăn xin ở các hàng quán. Họ vào cả cơ quan nhà nước xin tiền tàu, vé xe để về lại quê. Họ không sợ gì cả. Họ đi từng làng, từng xã vào Nam. Họ có lý do để đi vì mất mùa, lũ lụt... Họ là những ngươi đã một thời tuân hành nghiêm chỉnh những chủ trương chính sách nọ kia của nhà nước cộng sản. Bây giờ nhà nước không còn quan tâm đến họ nữa, tất cả chạy theo chỉ tiêu "tưởng tượng", các báo chí, đài cứ lải nhải nói nọ nói kia, ngợi ca những con số, phóng đại những kế hoạch 5 năm, 10 năm, thậm chỉ lập kế hoạch cho nhiều thế hệ đến năm 2020. Nhân dân khốn khổ miền Bắc bị bỏ rơi cho nên bây giờ họ đi xin công khai đấy, nhà nước có giỏi thì cứ bắt đi, họ không đi lẻ tẻ, họ đi từng đoàn, ai mà đụng đến họ thì họ kéo cả bầy tới bao vây làm áp lực. Những cán bộ miền Nam sợ những đám bần này vì hễ gây khó khăn gì thì họ làm đơn khiếu tố, khiếu nại lên các cấp lãnh đạo gốc miền Bắc tại Sài Gòn. Họ dùng luật pháp nhà nước miền Bắc đặt ra để đòi hỏi, yêu sách ngược trở lại nhà nước miền Nam.

    Thạch Chia tức lắm, trong khi anh là người "gương mẫu" tình nguyện đi xây dựng vùng kinh tế mới, thất bại trở về không nhà không cửa, vợ anh bị sốt rét rừng nằm rên ư ử như con chó, con anh 8 tuổi không biết chữ phải đi lượm rác (đi xin sợ bị bắt vào trường "giáo dục thiếu nhi bụi đời"). Anh đã nhìn thấy người ta giựt đứa con nhỏ ra khỏi tay người mẹ đang ngồi xin ăn rồi đưa đi cải tạo lao động, đứa bé 4 tuổi được đưa vào "nhà nuôi", một thời gian sau thì chết vì phổi có nước. Khi cải tạo về, người mẹ đến nhận con mới hay hung tin, từ đó bà trở thành người điên, ăn nói ngớ ngẫn, vô duyên. Biết thưa kiện ai trong xã hội này? Chưa phải hết, Thạch Chia còn buồn phiền cảnh đời thay đổi trắng đen. Có những anh em tàn phế như mình, trong cơn túng quẩn đến van xin anh giúp đỡ, hứa hẹn lung tung, khi được giúp rồi thì ôm tiền trốn luôn. Thật là phiền vì Thạch Chia dẫn những anh em đó đến giới thiệu với "anh Cả", một cựu sĩ quan cụt một chân, để đến chùa lãnh nhang về bán. Bán hết nhang những anh em này lo trả nợ nần riêng rồi đi luôn, ăn luôn cả vốn của mấy ông thầy, rồi ăn luôn cái chân cụt của người giúp đỡ mình. Thạch Chia xấu hổ với người "anh Cả", gầm lên: "Ta là một kẻ cương trường, một lần thất hứa còn gì thanh danh. Thôi lần này ra đi quyết không trở lại". Thế là Thạch Chia bỏ đất Sài Gòn, dẫn đứa con trai 8 tuổi vào Chợ Lớn... ăn xin.

    Bà quản lý Chợ Lớn Mới (chợ An Đông) là một phụ nữ mập ú, thân hình tròn như cái lu, trên khuôn mặt bánh bèo lủng lẳng một cặp má heo, nung núc những thịt và mỡ. Bà ngồi chễm chệ giữa chợ, giương cặp mắt cú vọ quan sát khắp nơi qua cặp kiếng trắng gọng vàng. Cặp mắt kiếng không làm tăng thêm vẻ "trí thức" sỏi đời mà chỉ tạo cho bà nét nghiêm khắc, soi mói lỗi lầm của người khác. Một ngày kia nhìn thấy hai cha con Thạch Chia đang ăn xin ở dãy hàng thịt, bà dẫn hai dân quân cầm AK47 tiến đến, bắt quả tang thằng nhỏ đang chìa nón xin tiền một khách hàng. Thế là... "chách" một cái, bà vả vào mặt thằng nhỏ thật mạnh làm nó khóc rống lên. Nghe tiếng con khóc, Thạch Chia đang khất thực bên dãy kia vội vàng chống nạng lò cò (anh không mang chân giả khi đi xin) nhảy đến cạnh bà quản lý chợ, rồi bất thần khom người xuống... "huỵch" một cái, anh thúc cùi chỏ vào mặt bà quản lý làm bà ngã bệt xuống vũng nước hôi hám ở hàng thịt, áo quần bê bết sình đen, cặp mắt kiếng cũng văng sang một bên. Hai dân quân ngơ ngác, người đi chợ đứng nhìn. Vừa lồm cồm ngồi dậy vừa quơ tay tìm cặp mắt kiếng, bà hầm hầm chỉ tay vào mặt Thạch Chia hét lên:
    - Bớ người ta! Quân ăn cướp! Trời ơi quân ăn cướp đánh người! Ngụy quân, bà con ơi. Ngụy quân làm loạn. Ăn cướp, ăn cướp, bắt nó lại, bớ người ta!

    Thạch Chia quơ nạng trước mặt bà hăm dọa:
    - Đ... mẹ, ăn hiếp con nít hả mậy! Đồ heo nái...

    Chưa nói kịp hết câu thì... "bộp" một cái, báng súng của một dân quân thúc vào miệng của anh, máu tuôn xối xả. Hàm răng đang còn ê ẩm, chưa kịp phản ứng gì thì "bịch" một cái nữa, lưng anh bị dân quân kia nện cho một cây gậy. Sau đó là những tiếng "thình thịch" vang lên, hai dân quân đấm đá loạn xạ vào người anh như đánh trống cúng đình trong ngày giỗ hội. Thạch Chia chỉ biết khom người ngồi xuống, hai tay che mặt, che đầu. Dân chúng hai bên bất mãn đứng nhìn, một ông già la lên:
    - Tụi bây muốn giết người hả? Bộ không thấy nó què giò hay sao mà đánh đập dã man như vậy?
    Thạch Chia nằm lăn lộn giữa vũng sình hôi hám, người ngợm đen sì, hai tay ôm đầu tránh né đòn thù. Đánh đá một hồi, bà quản lý giả bộ đứng ra can và phân trần với bà con:
    - Thằng này là Ngụy quân, nó định giết tôi. Coi nè (bà chỉ vào má bên trái vừa bị Thạch Chia thúc cho một cùi chỏ còn tím bầm), nó tính ám sát tôi đó thấy không.

    Bà con trong chợ nhìn bà quản lý một cách khinh bỉ, nhiều chị phụ nữ còn che miệng cười khúc khích. Một dân quân túm áo lôi cổ anh dậy, dân quân kia trói quặt hai tay anh ra phía sau. Thạch Chia gào lên giữa hai hàm răng loan đầy máu đỏ:
    - Các người biết sống thì cũng để cho người khác sống với chớ. Tui cũng là con người, tôi cũng muốn sống như mọi người chớ có giựt đồ ai đâu?

    Bà quản lý sửa lại cái kính, giả bộ hỏi:
    - Nó nói vậy là sao?

    Một dân quân nét mặt hầm hầm hô lên:
    - Đưa nó về trụ sở, để nó ở đây mất "quan điểm" với nhân dân.

    Thằng con anh may mắn trốn thoát chạy về báo động, ai cũng khuyên nó ngồi yên nghe ngóng. Về tới trụ sở, Thạch Chia chửi bới một hồi thì bị một dân quân khác tát vào mặt mấy cái rồi đá một cú giò lái vào bụng, anh ngã quỵ xuống nằm im bất động. Chiều hôm đó, người ta lôi anh ra xích vào một cây cột giữa trời trong nghĩa địa Triều Châu, nay là Khu Du Lịch Đầm Sen. Cũng may là cây cột bị mục. Trời mát dần, Thạch Chia hồi tỉnh lại, anh đứng một chân chịu đựng từ buổi chiều đến tối. Vào lúc giữa khuya, bọn dân quân ngủ gà ngủ gật, anh lấy tay lay cho cây cột mục ngả xuống rồi từ từ rút tay bị xiềng ra khỏi thân cột. Anh vác sợi dây xích nặng 12 kí lô lên vai, nhảy lo cò ra ngoài lộ đón xe xích lô về gặp lại anh em. Vợ anh sụt sùi khóc và xoa muối ở các chỗ đau bị bầm tím trên thân mình anh. Chưa hả giận, Thạch Chia nói với vợ:
    - Mài cho tui cái rựa, tui không sợ thằng nào hết, phải ăn thua đủ với tụi nó thôi. Ai cũng một lần chết, tui phải chết anh hùng, không chịu nhục được nữa. Tui có trời độ mà đừng lo.

    Mọi người khuyên can mãi Thạch Chia mới nguôi. Rồi những khó khăn thường nhật trong cảnh sống bần cùng cứ bẻ gãy dần ý chí "đứng thẳng người" của anh em phế binh. Làm sao đứng thẳng được khi chỉ còn một chân, một tay chống nạng tay kia phải chìa ra xin tiền bố thí. Làm sao đứng thẳng khi đàn con nheo nhóc kêu khóc vì thiếu ăn, thiếu mặc và thiếu học. Thạch Chia nhìn thẳng vào cuộc đời trước mắt, chịu đựng và nhịn nhục. Ai sống thì cứ sống, ai chết thì cứ chết. Thạch Chia bất lực và tuyệt vọng.

    Bà Hồng già chết rồi. Bà chết khi đang đi xin ở chợ Nguyễn Tri Phương. Bà được một bạn hàng cho một trứng hột vịt lộn, khi đang ăn thì máu từ miệng ộc ra, bà mắc nghẹn ngộp thở chết. Những anh em khác khôn ngoan hơn tìm đường ăn xin ở những vùng xa. Vào những dịp lễ lớn như Tết Nguyên Đán, họ xin ăn ở Thánh Thất Cao Đài Tây Ninh. Công an và cán bộ có trách nhiệm thu gom không bắt họ ngay mà chờ cho họ xin năm ba ngày, khoảng mùng 6 hay 7 gì đó rồi mới ào tới bắt và tiền xin được bị tịch thu sung vào "công quỹ" riêng. Anh em nào có kinh nghiệm, chỉ xin ăn một hai ngày rồi chuồn đi thì thoát nạn, hoặc là ra mấy tiệm vàng ở chợ Long Hoa mua vài ba phân vàng cất vào túi, lỡ khi bị bắt trong các chiến dịch thu gom thì dúi cho nhân viên thi hành số vàng đó để họ ngó lơ rồi trà trộn vào nhà dân tẩu thoát. Nhưng cũng phải cẩn thận vì nhiều khi "tiền mất tật mang", cán bộ thu gom ác ôn vừa lấy tiền vừa bắt giam người.

    Những loại tin như vậy càng làm anh em mệt mỏi và nản lòng vì khi ấy chưa có các hội đoàn nhân đạo và ân nhân tại hải ngoại biết đến hoàn cảnh của anh em phế binh trong nước để mà giúp đỡ. Cuộc sống của người nghèo khổ rất là khắc nghiệt, mọi người cảm thấy như nghẹt thở trong nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa này. Những khẩu hiệu, bích chương, biểu ngữ loại "đánh cho Mỹ cút, đánh Ngụy nhào", không còn gây chú ý cho bất cứ ai trong thành phố. Riêng anh em phế binh, cô nhi, quả phụ chúng tôi thì thấm thía câu "đình đám người, mẹ con ta" vào những ngày lễ mừng "quốc khánh" như ngày 2-9 này. Trong lòng chúng tôi tuy không dám nói ra vì sợ trả thù, khủng bố, tù đày nhưng lúc nào cũng ngầm ngầm "nỗi hờn vong quốc" và những cảm xúc giận hờn không biết phải trút vào đâu.

    *****

    Trở lại cuộc tình giữa Tiến Dũng và A Chế. Thấm thoát đã ba năm hai người hiểu nhau khá lâu và cảm thấy cần phải có nhau trong đời. Anh em cũng mừng vì cuộc đời phế binh vẫn còn có người thương mến và cũng nhân dịp gặp lại nhau, thăm hỏi, vui chơi và ăn uống cho bỏ những ngày cực khổ lang thang đó đây. Vả lại, những dịp lễ "quan trọng" của người cộng sản như thế này, kinh nghiệm cho anh em biết là không nên đi đứng ngoài đường lêu têu dễ bị chiến dịch "làm sạch đẹp tành phố" thu gom lắm. Thế là anh em quyết định chọn một chỗ gần chợ An Đông, nơi "cư ngụ" của Tiến Dũng và A Chế làm lễ cưới.

    Hôm ấy mỗi người một chút tùy theo khả năng mà đóng góp. Chú rể và cô dâu "chịu" năm kí gạo ngon và một kí cá biển, mắm muối, bột ngọt, v.v... Anh em khoảng chừng mười mấy người, toàn là phế binh què cụt, vài bà quả phụ cũng đến chung vui, mỗi người góp thêm vài bó rau sống và những nhúm mì vụn mà các em cô nhi đi xin được. Lê A giữ lời hứa "danh dự" đi bán nhang một vòng đường Nguyễn Tri Phương, vừa mua vừa đổi nhang mang về một bọc gần ba kí đầu gà, cánh vịt, lòng mề, ruột heo và những cái chân vịt quay. Thành và Bé Ba thì đi một vòng chợ ca bài "Qua Cơn Mê" nên cũng đem về đóng góp vài trăm gờ ram chả cá. Chị Mạc vì chồng mới chết nên anh em cảm thông không để chị đóng góp, nhưng chị cũng xà vào phụ với cô dâu và mấy bà quả phụ khác nấu nướng.

    Người vui nhất có lẽ là Thạch Chia, không biết bằng cách nào anh đã mang đến một can mười lít rượu đế, gọi là để "mừng đôi trẻ" nên duyên chồng vợ. Chú rể Tiến Dũng mặc cái áo sơ mi trắng dài tay, cái quần xanh nước biển càng khiến anh ra vẻ học trò. Cô dâu A Phụng thì mặc cái quần tây màu nâu kiểu điếu thuốc xì gà và chiếc áo bà ba cùng màu, theo cách nói của Thạch Chia, ra vẻ "tân cổ giao duyên" nhưng mà "kệ bà nó". Thạch Chia mở đầu buổi lễ:
    - Hôm nay chúng ta đều có mặt đầy đủ, chỉ thiếu bà già Hồng, thôi kệ bả, mình cúng bả một ly khai màn là được rồi.

    Vừa nói anh vừa đổ một chút rượu xuống đất, rồi anh đưa lên môi uống một cái ực chỗ còn lại. Anh thì thầm: "Kính lão đắc thọ". Anh gắp cái mề gà, đôi cẳng vịt quay bỏ vào cái dĩa mời bà Hồng già "về" ăn. Tiếp đó anh em nâng ly chúc cô dâu A Chế và chú rể Tiến Dũng được nhiều may mắn trong cuộc sống, sớm thoát ly cuộc đời nghèo khó, có đàn con đông v.v...

    Thức ăn gồm ba món để trong nồi, ai ăn nấy múc, tô dĩa của khách để dưới nền gạch. Đầu tiên mỗi người làm một tô cơm với cá kho cho chắc bụng, sau đó là cuộc nhậu gồm một món canh hầm bà lằng đủ thứ nấu với xương heo, phổi, huyết, bao tử cùng những thứ rau cải, giá, hẹ, mì vụn... và những con cá nục chiên sốt cà chua. Món đầu gà, cánh vịt của Lê A được chiếu cố kỹ lưỡng vì mùi vị thơm thơm của nó gợi cho anh em cảm giác về những món ăn mà trước kia anh em đã từng được thưởng thức.

    Câu chuyện trở nên rôm rả hơn khi có thêm mấy người anh em từ Thủ Đức cùng đến chung vui. Họ đem theo mười mấy ổ bánh mì, vài bịch huyết luộc và một kí lô ruột bò. Vài người làm nghề bốc vác quanh chợ cũng nhào vô nhập cuộc, đóng góp mười lít bia hơi cùng hai kí phá lấu vụn. Mãi vui, trời đã về chiều, chợ đã dẹp xong, anh em mỗi người góp vui một bài ca nào đó. Thạch Chia lúc này mặt mày đỏ như con tôm luộc, gõ đũa vào dĩa nước chấm, ca bài "Xuân này con không về". Lê A ngâm nga bài "Mẹ ơi, hoa cúc hoa mai nở rồi". Huệ khen cô dâu: "Đẹp ghê nơi đó à nha". Nãy giờ chú rể không uống rượu, bấy giờ "hội đồng" bắt phạt hai người phải hát bản nhạc Tàu "Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài". Đồng hứng quá hát bài "Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi...". Riết rồi mỗi người chêm vào một câu, mạnh ai nấy nói. Tự nhiên giữa lúc mọi người đang chan hòa niềm vui, chị Liên lại lạc "tông":
    - Giời ạ, nước mất nhà tan, gia đình ly tán thế này mà còn vui nỗi gì!

    - Trời đất, đám cưới mà thế này thì xui quá - Thạch Chia sắp sửa rầy chị thì ở góc đường xuất hiện hai dân quân, tay đeo băng đỏ và cầm gậy đi tuần.

    Anh em im bặt vì nhận ra họ là những người có trách nhiệm giữ an ninh ở khu chợ này. Họ bước đến gần, người to lớn vạm vỡ hất mặt hỏi:
    - Này, mấy người làm cái gì ở đây mà ồn ào thế hả? Âm mưu gì đó? Định tụ tập gây rối trị an, làm xáo trộn đời sống của nhân dân hả?

    Vừa hỏi xong, người to lớn thò đầu vào bàn nhậu quan sát. Tiến Dũng còn tỉnh táo, vội phân trần:
    - Dạ, tụi em đâu có làm gì đâu, đồng chí.

    - Câm mồm! - người to lớn nạt nộ. Ai đồng chí với lũ Mỹ Ngụy chúng mày.

    Tiến Dũng vội nói:
    - Dà, anh Hai tha lỗi, bữa nay đám giỗ ông bà, tụi em lỡ vui quá.

    - Im ngay, không thì tao cho một cái tát vào mặt bây giờ. Ăn với nhậu - người to lớn lừ con mắt nghiêm nghị. Ngày xưa tụi tao ở trong rừng, ăn củ năng ấy mà còn đánh giặc, có đâu ăn nhậu lười biếng như chúng mày, không đóng góp gì cho nhân dân, cho cách mạng cả.

    - Còn mày? - người trẻ tuổi dựa hơi "cách mạng" hất hàm hỏi Lê A, lúc đó đang mặc chiếc áo lính màu hoa rừng còn tươm tất. Ngày xưa giết được bao nhiêu Việt Cộng rồi, cấp bậc gì, sĩ quan hả?

    Thạch Chia mặt đỏ gay, ngước mắt nhìn người dân quân trẻ, trả lời thay:
    - Nó ở kinh tế mới về, bị sốt rét rừng, đi bán nhang thấy... mẹ luôn. Vì ít bữa nữa cũng tới lễ quốc khánh 2-9 rồi, nó ghé đây ăn mừng mà. Sĩ quan gì cha nội.

    Người to con bước xấn tới, hất đổ ly rượu trước mặt Thạch Chia:
    - Ai hỏi mày mà thay lay.

    Quá mức chịu đựng rồi, giọt nước đã làm tràn ly. Thạch Chia bật đứng dậy và... trời ơi anh có võ Tàu. Hai ngón tay của Thạch Chia chĩa tới như hai cái dùi đâm vào mắt người to con theo thế "song long sang châu" (con rồng cướp trái châu). Nhưng người to con cũng không phải tay vừa, hắn ngửa mặt ra phía sau né đòn rồi nghiêng người quét ngang chân phải vào cái chân còn lại của Thạch Chia (anh quên mang chân giả vào). Thạch Chia mất thăng bàng té ngồi xuống đất, người to con xông tới, hai người vật nhau lăn lộn dưới đất. Người to con đè đầu Thạch Chia xuống, thét bảo người trẻ tuổi phụ trói Thạch Chia đưa về trụ sở. Lê A nãy giờ cố gắng nhịn nhục, liền lao tới đập cái tô canh vào đầu người trẻ tuổi. Chú rể không uống rượu, bấn loạn tâm thần, cũng bước tới túm tóc người to con lôi dậy, quất cái chân giả vào mặt một cái "bộp", máu rỉ ra nhền nhệt. Say máu vì thấy người to con tay còn nắm tóc Thạch Chia, Tiến Dũng co tay quất thêm một cái nữa vào đầu khiến người to con chúi nhủi về phíỉ trước. Huệ và Đồng nhào tới, chị Liên thét bảo con tìm cục gạch. Những tiếng thoi, đập vang lên liên hồi. Hai dân quân quên cả đau lật đật ngồi dậy, bỏ chạy.

    Chưa đầy mười phút sau, anh em phế binh cùng bạn bè chưa kịp chạy trốn thì một toán dân quân khoảng hơn chục người cầm gậy gộc và súng AK chạy tới bao vây các ngõ chợ. Trời vừa xẩm tối, mạnh ai nấy chạy. Toán dân quân hễ cứ thấy ai mặc áo lính, què cụt, bước chân dậm dệch là nhào tới đánh đập. Thạch Chia bị nện báng súng tới tấp vào mình, Huệ và Đồng bị hai dân quân khi nãy nhận diện nên bị đánh hội đồng, Huệ mềm người gục xuống, máu từ miệng ồng ộc chảy ra... Chủ rể nhờ khuôn mặt hiền hậu, đẹp trai, mặc áo sơ mi trắng, quần xanh dương, dáng học trò nên dân quân sơ ý không nhìn thấy cái chân giả, thoát nạn. Anh cùng cô dâu trốn ra khỏi chợ, ngồi co ro ở một góc đường. Những người dự tiệc bị bắt dẫn đi. Thạch Chia cũng bị lôi theo, hai tay bị trói tay quặt ra đằng sau, nhảy cà nhắc theo toán dân quân. Chú rể thấy người anh của mình bị hành hạ, định bước ra can thiệp, cô dâu A Chế nắm chặt tay Tiến Dũng, nhìn anh với vẻ van nài tha thiết:
    - Không làm được gì nữa đâu, anh!

    Thấy cô dâu chú rể đứng bên kia góc đường lẫn lộn với đám người hiếu kỳ, Thạch Chia mặc dầu bị lôi đi xềnh xệch vẫn tìm cách quay đầu lại nói với đám đông:
    - Đừng làm gì vô ích anh em ơi. Chúc cô dâu chú rể hạnh phúc.

    Tiến Dũng im lặng nhìn những bạn đồng cảnh ngộ bị giải về trụ sở dân quân, lòng đau như cắt. Anh bất lực. Cuộc đời kham khổ của những anh em phế binh trở về những tháng ngày đen tối.

    Đoàn người bị trói tay đi theo toán dân quân đằng đằng sát khí, tay cầm gậy gộc, súng ống, miệng thì chửi bới tục tằn, họ hùng hùng hổ hổ như thể sắp lôi ra pháp trường hành quyết những kẻ thù không đội trời chung.

    Chúng tôi có làm gì để trở thành kẻ thù của ai đâu, chúng tôi chỉ muốn được vui chơi như mọi người khác trong một tiệc cưới mà cũng không yên. Lê A chịu không nổi cảnh kham khổ trong trại cải tạo đã chết một năm sau đó, để lại hai đứa con gái hiện đang hành nghề bia ôm trên các vỉa hè.


    3. Chúng Tôi Phải Sống
    Những năm sau ngày 30-4-1975, các khu vực quanh chợ và bến xe tại Sài Gòn đều bị giải tỏa. Nhà nước cộng sản cho xây dựng lại những khu chợ mới để bộ mặt thành phố đẹp đẽ hơn. Trước khi có chiến dịch bố ráp, bắt bớ qui mô, rầm rộ, những người cùng khổ bị xua đuổi đi nơi khác. Chúng tôi phải tìm nơi cư trú mới nhưng ở cũng không yên, nay lây lất chỗ này vài đêm mai lang thang chỗ nọ vài tuần, rồi lại dời đi nơi khác không có gì ổn định.

    Cuộc sống của những người cùng khổ cũng như loài chim cộng mạng kia.

    "Chuyện xưa kể rằng ở xứ Thiên Trúc xa xôi có một loài chim mang tên cộng mạng chi điùểu. Suốt đêm ngày chúng nối cánh có nhau, nhưng vì chúng có ba cái đầu nên mang ba ý muốn khác nhau. Trong khi cái đầu này đang ngủ, cái đầu nọ muốn ăn và cái đầu kia lại muốn cất cánh bay cao. Những cái đầu nhìn nhau xa lạ và còn thù ghét nhau. Chúng tự cắn mổ lẫn nhau. Nhưng rồi mùa săn đến, những người thợ săn làm ra những cái bẫy để bắt chúng. Chúng sa vào bẫy, vùng vẫy, gào thét trong tuyệt vọng, rồi nhìn lại nhau và chợt hiểu rằng mặc dù chúng có ba cái đầu nhưng chúng chỉ có một thân mình, một quả tim và một nỗi đau khi bị thương tật. Từ đó chúng nguyện rằng khi thoát được cái bẫy ác độc này, chúng sẽ không con nhìn nhau xa lạ nữa và sẽ mãi nối cánh cùng nhau bay hết cuộc đời còn lại".

    Những người cùng khổ tại Việt Nam cũng vậy, họ đã theo đuổi những mục tiêu, những khát vọng, đã khoác lên vai những lý tưởng khác nhau và đã nhìn nhau như thù địch. Tập đoàn lãnh đạo cộng sản hiểu ra điều ấy, đã khôn khéo làm ra những cái bẫy để bẫy dân, và dân chúng hai miền Nam Bắc đã chỉ hiểu ra điều ấy khi đã kiệt lực và đau khổ. Cũng giống như loài chim cộng mạng chi điểu, khi cái đầu này hiểu rằng nỗi đau của cái đầu kia là nỗi đau chung, thì cái bẫy ác độc của chế độ đã giữ chặt đôi chân của chúng mất rồi, chúng ta đã không còn biết xoay sở làm sao để thoát khỏi bàn tay của nhóm thợ săn khôn khéo ấy. Chúng ta phải cầu nguyện ngày nào thoát khỏi ách cộng sản vây trùm, chúng ta sẽ thương yêu nhau, đùm bọc lẫn nhau như người ruột thịt, vì chúng ta có chung một thân phận Việt Nam, thân phận những người cùng khổ trong một nước nghèo khó. Chúng ta đã cấu xé lẫn nhau để cho tập đoàn cộng sản rãnh tay ly tán, chia rẽ để rồi tất cả đều bị triệt hạ.

    Anh Ba Mỵ đã từ miền Bắc vào Nam tìm kiếm người thân, nhưng không gặp. Anh nhìn đứa con trai nằm co quắp ngủ dưới mái che của ngôi mả cổ mà lòng buồn rười rượi. Năm 1954, chủ nghĩa cộng sản đã nhuộm đỏ miền Bắc. Vì gia đình anh ở tận làng quê xa, Lỗ Xá, huyện Kinh Môn, nên đã không chạy thoát ra được Hải Phòng để được chuyến tàu di cư cuối cùng chở những dân tị nạn cộng sản rời Vịnh Hạ Long vào Nam hưởng cuộc sống tự do. Anh đã ở lại để nghe lòng tan nát, ở lại để chứng kiến những cuộc đấu tố kinh hoàng.

    Chế độ cộng sản miền Bắc đã làm áp lực buộc người làm công đấu tố chủ đất, học trò chống lại thầy dạy, bạn bè rình rập nhau như người xa lạ, người có học thức và giàu có bị coi là kẻ thù của "giai cấp". Có nhiều người vợ đầu hôm tay ấp bỗng quay ra tố cáo người chồng. Tệ hại hơn nữa, chính con cái đứng ra tố cáo cả cha mẹ. Họ làm vậy để tỏ ra trung thành với Đảng, nhưng để được cái gì ngoài số phận được làm tôi đòi. Anh Ba Mỵ ngơ ngác nhìn những người thân quen xưa hò hét khản cổ, đi theo đám biểu tình hoan hô những lãnh tụ cộng sản. Tới lượt cha anh bị kết tội là Việt gian hạng nặng vì nói được tiếng Tây, gia đình anh bị tịch thu hết ruộng đất, mà ruộng đất có rộng là bao, vỏn vẹn chỉ ba sào. Thật là buồn, người ta đã không từ bỏ một thủ đoạn nào để triệt tiêu những gia đình bị coi là địa chủ.

    Chủ nghĩa cộng sản không muốn dừng lại trên miền đất Bắc, tập đoàn lãnh đạo cộng sản phát động cuộc xâm chiếm miền Nam. Đã có những năm tháng, quân đội Hoa Kỳ, đồng minh cũ của miền Nam, cho máy bay ra oanh tạc miền Bắc. Tuy không dám nói ra, trong lòng anh mơ hồ nhen nhúm nỗi vui mừng và thỏa mãn. "Máy bay ơi, bỏ bom cho khéo nhé kẻo trúng phải nhà dân. Hãy bỏ cho trúng ổ bọn chọc gậy xuống ao không biết rét". Ấy, lại gặp bọn quỷ quyệt. Chúng núp sau lưng dân, đưa dân ra chịu đựng. Chúng tìm cách kích động nhân dân căm thù "giặc lái" (phi công) để rêu rao trước dư luận quốc tế bị Mỹ ném bom. "Ma Ma, Phật Phật", làm sao dân chúng phân biệt được, ai "giải phóng" ai. Nhưng khổ nỗi, trời đất đã không chiều theo lòng người, kẻ ác lại thắng. Miền Nam chẳng những đã không cứu được miền Bắc ra khỏi cảnh đời lầm than mà lại còn bị miền Bắc choàng lên đầu màn trời đen tối. "Thôi rồi, hỏng cả rồi", anh Ba Mỵ than. Anh cùng Cả Yến, một người bạn chí cốt, rủ nhau vào Nam, trước để tìm người thân đã di cư hồi 1954, sau là tìm cách định cư luôn.

    Nhưng nhà nước cộng sản không muốn người dân nghèo miền Bắc hiểu được đời sống thật sự của dân chúng miền Nam. Họ đã lập ra những chốt gác để ngăn chặn dân ở cầu Bến Hải, vĩ tuyến thứ 17. Dân không qua được cầu thì họ lội sông, nhưng như thế là phạm luật. Mặc kệ, anh Ba Mỵ và anh Cả Yến cùng với đứa bé chờ đêm xuống, tìm khúc sông vắng lội qua bên kia bờ... Việt Nam tươi sáng.

    Vào đến Sài Gòn, hai anh không tìm thấy người thân. Hỏi nhiều chỗ, hai anh mới biết là người thân của hai anh đã vượt biển sang những nước tự do tị nạn cộng sản. Bơ vơ giữa dòng đời, hai anh đứng giữa chợ trời Sài Gòn, góc đường Hàm Nghi, không biết phải làm gì nhưng cả hai không còn tha thiết với quê hương miền Bắc nữa. Hai anh tự hỏi về để làm gì nữa, về để một người làm việc bằng hai, bằng ba mà ăn thì chỉ bằng một nửa. Những món đồ tùy thân cuối cùng của hai anh được đem ra bán. Hai anh tìm đường đi về xóm nghĩa địa.

    Đã từ lâu, nhà cầm quyền cộng sản muốn lập lại trật tự trên đường phố vì những người sống vật vờ đầu đường xó chợ làm "xấu" chế độ xã hội chủ nghĩa nhiều quá. Từ lâu nhà nước muốn làm mạnh tay, loại trừ những thành phần lang thang ngoài đường phố, nhưng họ sợ mang tiếng với dư luận. Nay đất nước mở cửa ra với thế giới bên ngoài, những người không nhà không cửa, sống lang thang gây rối trật tự an ninh, nhà nước càng có thêm lý do chỉnh đốn lại thành phố. Vì vậy việc mua bán, sự đi lại cũng như chỗ ngủ qua đêm của anh em phế binh và người cùng khốn bị để ý, tất cả đều bị xua đuổi và bắt bớ giam cầm với những lý do không rõ rệt. Vào thời ấy chỉ còn một chỗ ở qua đêm ít ai để ý, đó là những nghĩa địa bỏ hoang, nơi bị "đời" bỏ quên. Chính vì đời bỏ quên nên những người bị đời bỏ quên cũng đã tìm về đây xum họp. Không ở yên với người sống thì tạm ở chung với người chết, thế là "cộng đồng nghĩa địa" được thành hình. Nó qui tụ tất cả những người mất nhà mất cửa không nơi cư ngụ, những người từ vùng kinh tế mới trở về, những anh em phế binh, cô nhi, quả phụ, những người sống dở chết dở và những người nghèo khó miền Bắc trốn vào Nam.

    Vào trong nghĩa địa rồi, hai anh mới biết là họ không phải là những người đầu tiên. Nơi đây đã có sẵn một binh đoàn người nghèo khó từ miền Bắc vào Nam trước họ tìm cơ hội sống. Giữa những người cùng khổ, sự chia sẻ dễ dàng hơn vì tất cả đều là nạn nhân của chế độ. Họ sinh con đẻ cái tại chỗ, không có giấy khai sinh. Ai bệnh đau thì chỉ biết nằm rên hừ hự, chẳng may bị chết thì được chôn tại chỗ, bên cạnh một mộ phần nào đó, kể cũng tiện. Bà con rửa ráy, nấu cơm, ăn ngủ và tiểu tiện ngay trên các phần mộ bỏ hoang. Có điều lạ là tỷ lệ sinh sản tại đây hơi cao, bà mẹ nào cũng bồng trên tay một trẻ sơ sinh, có lẽ vì không biết làm gì giữa đêm khuya nên "thú vui" vợ chồng là chuyện gối chăn. Tại đây, anh Ba Mỵ cho "cộng đồng nghĩa địa" biết là anh và đứa con trai quyết định "định cư" tại nghĩa địa này, chờ Cả Yến về Bắc bán nhà xong mang cả gia đình vào Nam tị nạn. Anh nói:
    - Dẫu sao thì đối với miền Nam này nhà nước còn có sự giữ kẽ về chính trị, chưa có thể xiết chặt hơn miền Bắc đâu. Hãy còn kẽ hở để lách vào mà sống.

    Anh bày cho anh em xóm nghĩa địa những cách "làm ăn" qua mặt bọn "nó". Anh đồng ý với cộng đồng đau khổ này là "tất cả chỉ là sự lừa dối kéo dài, không nên nghe theo những gì chính sách nói, phải làm ngược lại".
    - Nếu như thế thì còn gì nữa! - một người đàn bà buồn bả thở dài.

    Mọi người đã ngủ cả rồi, những gì anh Ba Mỵ nói ám ảnh chị mãi. Chồng chị là anh Mạc, phế binh bộ binh Sư Đoàn 25 cụt một chân và bị lao phổi nặng, đi bán nhang chẳng may băng qua đường lúc trời mưa thịì bị trượt té, một chiếc xe hàng chạy ngang thắng không kịp, đầu anh bị cán nát, lòi cả óc ra ngoài. Anh Mạc mới chết cách đây vài tháng. Đứa con gái, 5 tuổi, nằm ngủ vô tư quá. Chị ngước mắt nhìn lên vầng trăng giữa bầu trời đen tối, ánh trăng dẫu sáng cho mấy cũng không át được mây che lấp các vì sao. Biển đêm mênh mông quá, những ánh sao nhấp nháy đưa chị về vùng kỷ niệm của những ngày tuổi thơ. Những đêm trăng rằm Trung Thu, chị và những nhỏ bạn rước đèn. Ờ nhỉ, ngày ấy, đèn lồng của mình hình ngôi sao đẹp quá. Còn ngày nay cũng là ngôi sao nhưng sao nó vàng chóe thế này, lại còn như thỏa mãn "cười" nham nhở giữa mảnh vải màu máu đỏ lòm. Những lá cờ màu đỏ giăng kín các phố phường như chiếm hết không gian của chị và đứa con nhỏ. Chị ho khậm khẹt, không hiểu sao chị quá sợ màu đỏ quá. Nó giống như màu máu hòa trong nước miếng mà chồng chị nhổ ra sau mỗi cơn ho. Một buổi chiều kia, chị Liên ghé qua khu nghĩa địa rủ chị Mạc đi mua củi. Chị Liên nói:
    - Đi buôn như thế lời nhiều lắm, đi xe lửa chui không tốn tiền vé, cứ hễ gần đến ga xe lửa chạy chầm chậm lại thì mình tuôn củi xuống rồi nhảy theo. Công an bảo vệ ga không sao bắt được vì nhiều người cùng làm vậy, nhất là các trẻ em nhanh nhẹn hơn. Dạo này chợ trời Hàm Nghi bị bố ráp dữ quá, nhà nước đang có chiến dịch làm đẹp thành phố, chính tôi đã nhìn thấy một bà già tóc bạc bị "bọn nó" túm lấy bao quần áo quẳng lên xe chở về trụ sở. Bà già hoảng hốt, quẩn cả trí, vội quỳ xuống chắp tay lạy "bọn nó", nhưng "bọn nó" lại hung hăng nhìn bà già bảo là "mỉa mai hả". Bắt giữ, tịch thu đồ đạc có lợi hơn là nhận những lời van xin của mấy bà già, vì hàng hóa sau đó được đem về trụ sở để chúng lục tìm những món gì thích đem về làm của riêng hoặc kêu "tà lọt" mang ra chợ bán lại chia nhau tiền. Bọn chúng cứ lạnh lùng truy bắt tiếp những người mua bán, lấn chiếm long lề đường, mình không còn đường nào khác là phải đi buôn.

    Uống xong ngụm nước lạnh, chị Liên nói tiếp:
    - Nhưng buôn than theo đường xe đò không còn an toàn nữa. Chị Loan và chị Mai vừa bị bắt ở trạm kiểm soát Sông Bé, hai chị tiếc số hàng nên ở lại năn nỉ. Đêm đến, hai chị nằm ngủ, đám dân quân chỉ đáng tuổi em các chị đã mò vào hạnh họe nọ kia, rồi tên "xếp" mặt non choẹt gọi chị Mai bằng "em" và đề nghị "biết điều" thì nó sẽ tha. Hai chị vừa sợ vừa bối rối vì số hàng ở trong tay chúng nên... "chiều" nó. Thỏa mãn xong, nó vừa lui ra thì gần một chục thằng khác nhào vô thay phiên "làm thịt" hai chị. Chúng ra vào quần quật, đùa giỡn thể xác hai chị suốt đêm. Đến tờ mờ sáng, bọn chúng làm bộ tịch thu "lấy lệ" một nửa số hàng rồi cho hai chị đi về không quên gởi kèm theo những lời trêu ghẹo tục tỉu.

    Chị Liên cười cười kể tiếp:
    - Về đến Sài Gòn, chị Mai hồng hộc thở ra: "Tụi nó... tồi quá!". Chị Loan an ủi: "Kệ nó, cái gì kia còn mất nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ", rồi hai chị ra sông Bạch Đằng tắm rửa mình mẫy. Chị Loan nói với bạn: "Tụi nó làm dữ quá, coi nè "của" tui sưng phồng lên đỏ hỏn, rát quá!".

    Kể xong, chị Liên kết luận:
    - Phải làm mau đi thôi, từ từ rồi "chúng nó" sẽ kiểm soát tới đường xe lửa, lúc ấy có muốn đi buôn cũng không được nữa đâu.

    Rồi chị nói nhỏ:
    - Ở ga xe lửa Sài Gòn đó, cứ mỗi chiều tối có mấy thằng cha mua hai ổ bánh mì kẹp thịt và hai bọc trà đá ở nách, kẹp tấm nệm đan bằng cói. Họ nháy nhó, rủ rê mấy người đàn bà không còn làm ăn gì được nữa ngủ qua đêm với họ.

    Nhưng chị dặn thêm:
    - Muốn làm gì thì làm nhưng đừng có ra chỗ đó nghen. Tụi mình phải nương tựa lẫn nhau mà sống. Đi buôn thì cần có bạn, đi bán cần có bè, nhưng nếu không có ai đi chung thì tôi sẽ đi một mình với thằng con trai. Tôi không để cho nó chui xuống cống kiếm cá nữa đâu, hồi hộp lắm!

    Thế là chị Mạc quyết định theo chị Liên và chị Nguyệt lên Long Khánh buôn củi lậu. Mỗi chuyến đi kéo dài ba ngày khiến chị đuối sức, đứa con gái nhỏ 5 tuổi không phụ giúp được gì lại còn vướng bận những lúc nhảy tàu làm chị Nguyệt bực mình. May nhờ đứa con trai của chị Liên phụ giúp nên cũng đỡ được phần nào. Có lần chị Nguyệt bàn với chị Liên đi mua bán riêng, chị sằn sàng bỏ vốn cho chị Liên đi chung:
    - Liên à, con Mạc hình như nó bị ho lao, vợ chồng thì dễ lây lang. Mày có thấy đôi vai của nó bị co rút lên không?
    - Dạ thấy. Tội nghiệp, nó cũng ráng lắm mà.
    - Mày lo cho mày đi. Thời buổi này nhân đạo là tự sát đó. Với lại mày thấy đó, tao đâu có vốn gì nhiều, nếu chậm chạp lỡ bị bảo vệ bắt một cái là hết vốn luôn.

    Chị Liên ngẫm nghĩ: bà Nguyệt này thật ra đâu có tử tế gì, chẳng qua là bả nhờ có thằng Đức (con trai chị Liên) lanh lẹ nên mới chịu bỏ vốn ra đấy chứ, như vậy bà ấy lời thêm một "công". Hình như đoán hiểu suy nghĩ của chị Liên nên bà Nguyệt tỏ vẻ "thương" thằng bé. Bà thường rủ thằng nhỏ: "Đi ăn bún, con!". Đi thêm vài chuyến nữa thì chị Liên và bà Nguyệt buộc chị Mạc phải đi riêng. Chị Liên vỗ về bạn:
    - Có gì thì chị cũng biết cách rồi đó, nếu không vốn nhi)ều thì buôn ít một chút cũng tạm đủ cho hai mẹ con sinh sống. Ráng lên!

    Thấy mặt chị Mạc lộ vẻ lo lắng, chị Liên trấn an:
    - Bà Nguyệt không chịu đi chung, thì chị cứ mua bán riêng cùng với tôi. Nếu như có chận bắt đột xuất cần phải tuôn củi và nhảy tàu thì thằng Đức con tôi dắt con Hoa giùm nhảy cho, đừng có lo.

    Hai người quả phụ hẹn nhau là như thế, nhưng khi có cuộc chận bắt xảy ra thì ở trên các toa xe hỗn loạn lắm. Chị Mạc vừa quăng được hai bó củi xuống đám cỏ thì những bạn hàng khác cũng nhốn nháo cả lên, họ xô đẩy và chen lấn, tranh nhau tuôn củi xuống. Đứa con gái chị bị những bó củi quăng trúng chân khóc ré lên. Chị Mạc lúng túng, vừa sợ mất củi vừa sợ mất con, chị quay lại nhìn những bó củi, rồi quay lại nhìn con. Sao thế nhỉ, cái gì trong lòng chị thế này, ánh mắt con chị như sao trời nhấp nháy, tuổi thơ của chị đây mà. Chị chết điếng trong lòng rồi đưa tay ôm đứa con, nước mắt chị chảy ra, không biết là vì tiếc củi hay vì thương con, có lẽ cả hai. Bà Nguyệt và chị Liên đã nhảy xuống đường rày, nhìn chị Mạc la lên ơi ới:
    - Ném củi xuống mau, bảo vệ tới kìa!

    Đứa con trai chị Liên muốn đu người lên đoàn tàu để phụ chị Mạc ném củi xuống nhưng không kịp nữa, đoàn tàu từ từ đi vào sân ga, đám bảo vệ ùa ra, những con buôn ôm vội mớ hàng hóa bỏ chạy. Chị Mạc ôm con vào lòng nhìn người ta ôm những bó củi của chị chạy đi. Thế là mất hết. Chị bước xuống thềm sân ga, trước mặt là bóng tối.

    Những ngày sau đó, người đàn bà gầy gộc ra đi. Đôi mắt chị Mạc thụt sâu vào hóc mắt, chị không biết làm gì nữa. Chút vốn liếng dành dụm được để đi buôn bay theo mây khói. Những cái quần, cái áo bán dần đi để cầm cự giữa chợ đời không còn nữa.

    Chị Liên và đứa con trai đi theo chị Nguyệt vài chuyến nữa rồi rủ nhau đi Phan Thiết mua cá biển về bán ở Sài Gòn. Mùa cá đến rồi, nếu trời thương thì... cuộc đời đỡ khổ. Nhưng có một dạo bảo vệ xe lửa truy đuổi gắt gao, nhiều bạn hàng bị tịch thu hết cả hàng hóa. Chị Liên và chị Nguyệt nhờ có thằng Đức nhanh nhẹn nên thoát được nhiều chuyến hàng. Một hôm, trời mưa tầm tả, bảo vệ chia nhau ngăn chặn các toa xe. Để cứu lấy món hàng, thằng Đức và lũ nhỏ leo chuyền ra ngoài cửa sổ những toa xe. Một đứa tuột tay bị cuốn vào những bánh xe lửa, thân thể bị nghiền nát trên đường ray. Xe lửa về đến ga Thủ Đức rồi mà chị Liên vẫn chưa thấy đứa con trai đâu. Chị hỏi thăm lũ nhỏ, có đứa thấy thằng Đức leo lên mui xe lửa trốn thoát được bảo vệ. Nhưng đến ngày hôm sau chị Liên mới biết rằng khi xe lửa qua cầu Biên Hòa, con chị đã bị thanh sắt đánh vỡ đầu rớt xuống đường ray, thân xác bây giờ không biết được chôn cất nơi đâu. Chị Liên thơ thẩn, chị Nguyệt mất cả vốn không còn dám đi buôn nữa. Chị Mạc rời khu nghĩa địa ra ngồi ở bùng binh Chợ Sài Gòn đưa mắt nhìn qua bên kia đường.

    Bên kia đường là sân ga. Trời đã tối, cửa hàng ăn uống quốc doanh đã đóng cửa, những sinh hoạt về đêm bắt đầu. Đủ mọi hạng người tụ tập về đây để ngủ qua đêm. Những người tài xế nằm dài trên tấm nệm cói trải trên nền xi măng để cho những người đàn bà tới đấm bóp, giác hơi xoa nắn, thư giãn gân cốt. Tại một góc của nhà ga là chỗ để khách lỡ đường ngủ đêm chờ tàu. Ở đó, có một số phụ nữ vì hoàn cảnh sống khổ sở đến ngồi chờ khách. Họ không biết làm gì vì không có đồng vốn nào cả, nhờ có chút nhan sắc nên khi đêm về họ lấy "thân" làm vốn. Nhưng vào thời buổi khó khăn, những người đàn ông cũng không rộng rãi cho lắm, họ trở nên thô bạo và không còn sòng phẳng như trước. Cái giá để trả cho một cuộc tình qua đêm là một khúc bánh mì, khoảng hơn gang tay, kẹp những lát thịt xắt mỏng (giá 500 đồng, bằng 1/4 dĩa cơm), một bọc ny lông trà đá và một tấm nệm cói để hai người đắp chung. Chỉ người phụ nữ nào may mắn lắm mới được trả bằng tiền mặt, nhưng cũng không là bao.

    Vào mỗi buổi chiều, những người đàn ông ngồi trên băng ghế đá ở công viên, bùng binh, bến xe buýt để lựa chọn bạn... tình qua đêm. Bên cạnh họ để sẵn hai ổ bánh mì, hai bọc trà đá và tấm nệm cói để cho các "bạn tình" biết mà tìm đến. Khi đến với nhau, tuy không nùói ra nhưng họ ngầm hiểu là chỉ có họ với nhau mà thôi, nhưng vào khoảng nửa đêm có khi có thêm dăm ba người đàn ông khác xà vào "ăn ké", dĩ nhiên là miễn phí. Người đàn bà khốn khổ kia chỉ biết im lặng chịu đựng vì có kêu cứu cũng không ai đến can thiệp.

    Có những đêm anh em phế binh chúng tôi nằm ngủ ở một góc nhà ga chờ sáng theo tàu lửa đi bán nhang xa, nhìn những tấm nệm phập phồng dưới ánh đèn vàng vọt, tiếng thở hồng hộc và tiếng cựa quậy lục đục của người đàn ông kèm theo tiếng rên rỉ của người đàn bà, rồi tiếng chửi mắng tục tằn của người đàn ông không thỏa mãn, chúng tôi hiểu rằng trong bước đường cùng những người sống không lý tưởng vùi dập lẫn nhau như những con vật.

    Nhưng cũng có những người đàn bà đem bán "thân xác" mà không có người mua. Đó là những người đánh lỡ mất tuổi thanh xuân, những bà quả phụ cô đơn. Cuộc sống khắc nghiệt ở hè phố làm mất đi chất tươi trẻ trên nét mặt, nụ cười, họ già đi mau chóng, thân hình khô héo quắt queo như trái táo tàu. Dù có xoa lên mặt chút hương phấn nhưng họ cũng không còn hấp dẫn ai. Chị Nguyệt cũng vậy, hết vốn đi buôn chị ra ngồi ở bùng binh cùng với chị Loan. Có những người đàn ông mua bán ở chợ trời, tuổi chỉ đáng con chị, biết chị cần có miếng ăn để sống cũng gọi chị bằng "em". Chị không lấy đó làm giận mà còn "mừng". Mừng là vì chị vẫn còn "giá trị". Đã hai đêm rồi, mặc dầu chị đã xin của chị Loan một chút phấn để xoa lên mặt và cũng đã đi lại mời mọc một số người đàn ông nhưng không ai chịu chia sẻ với chị ổ bánh mì kia.

    Tối nay trời mưa lạnh lẽo, hình như có bão hay sao ấy. Chị Mạc cảm giác như có kim châm ở trong bao tử, sự co thắt của các cơ thịt làm chị run rẩy, xương có vẻ như dòn ra, cử động kêu lụp cà lụp cụp. Cơn đau bao tử làm chị khó chịu, nước lạnh uống vào cứ sôi óc ách. Tay chân chị xê dịch khó khăn. Chị buồn ngủ và ảo giác càng đến với chị nhiều hơn, chị cố xua đuổi mà không được. Chị biết mình sắp mê đi nhưng bản năng sinh tồn thúc chị bước sang bên kia. Bên kia đường là vùng đất cấm, ai sa chân vào rồi thì khó bước ra.

    Cũng ở bên kia đường, xéo góc với nhà ga xe lửa là cửa hàng ăn uống quốc doanh, con gái chị đang chờ chực khách ăn xong, nó chạy vào ăn húp những gì còn sót lại. Chị Mạc mơ màng nghĩ đến những tô hủ tiếu. "Không biết thực khách bên ấy có ăn thêm bánh mì không nhỉ?", chị tự hỏi. Nếu có ăn thêm bánh mì thì nước lèo sẽ chẳng còn lại bao nhiêu, con chị lấy gì mà húp. Phần lớn khách vào cửa hàng ăn uống quốc doanh là giới bình dân, lao động, họ thường chấm bánh mì vào nước hủ tiếu để cho thêm no.

    Nghĩ tới bánh mì, cơn đói thúc hối chị Mạc nhìn vào sân ga. Ở đây có những người đàn ông cặp nách hai ổ bánh mì, tay cầm hai bọc ny lông trà đá và tay kia cầm tấm nệm cói. Tấm nệm cói khiến chị Mạc liên tưởng đến trời đêm, những cơn mưa dai dẵng và mùi vị của khúc bánh mì kẹp những lát thịt ba rọi mới thơm ngon làm sao. Chị không còn quan tâm đến đứa con gái ở bên kia cửa hàng ăn uống nữa, chị nghĩ về mình. Cảm giác xấu hổ chỉ thoáng qua, chị nhớ lại câu nói của chị Loan: "Kệ nó, cái gì kia còn mất, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ". Người ta như thế nào kia mà còn nghĩ đến quyền lợi riêng, phản bội cả quê hương, mình chỉ là một phụ nữ nghèo hèn còn gì nữa đâu để mà gìn giữ. Chị Mạc muốn được sống như những phụ nữ kia, được cho ăn và được cho tình.

    Chị Hạnh cũng vậy, chị đã im lặng. Chị không làm được như chị Loan, mặc dù chị thừa nhận chị Loan nói đúng. "Những người đàn ông thua trận cả rồi", chồng chị là một cựu lính Dù chết trong trại cải tạo. Chị Hạnh không còn vốn liếng để đi buôn than nữa nhưng vẫn không sao bước nổi "sang bên kia đường". Chị vẫn thường hồi tưởng đến anh, những lần về phép trên chiếc jeep, bộ quần áo kaki rằn ri, những đôi giày bốt đờ sô bóng loáng. Cuộc sống của anh thật quá hào hùng. Không, chị không thể bước "sang bên kia đường". Những kỷ niệm xưa giữ chân chị lại bên này đường. Chị Hạnh nói với chị Mạc bên kia đường là những mùi mồ hôi, mùi rượu đế và những lời bỡn cợt sổ sàng của những người quá tầm thường so với chồng chị. Nói xong chị Hạnh buồn bã nhìn xuống lề đường, rồi quay người bước đi.

    "Những kỷ niệm đó là của chị Hạnh, còn mình có còn gì nữa để mà hồi tưởng?", chị Mạc tự biện hộ thầm. Ngoài những mất mát chất chồng, những thiếu thốn thường nhật, những tai họa chờ chực, chị cố nhớ về những buổi chiều anh Mạc đi bán nhang về mang một chút gạo mốc, những khúc mì vụn, những gốc rau muống, một chút bột ngọt, tất cả làm chung thành một món ăn ngon lành. Nhờ vậy mà chị cầm cự cùng với chồng con. Nhưng lúc ấy còn anh kia, còn những lời hứa hẹn tuy tuyệt vọng nhưng đầm ấm ngọt ngào: "Ngày nào đó có chút vốn, mình sẽ về quê". Còn bây giờ thì "còn gì nữa đâu", mắt chị mờ đi, tai mơ hồ nghe thoang thoảng tiếng xe cộ.
    - Má! - tiếng gọi của con gái làm chị Mạc thức giấc. Hóa ra là chị vừa chợp mắt thiếp đi trên băng ghế đá. Đứa con gái nhìn chị, miệng nó nhai nhóp nhép nửa củ khoai luộc. Chị Liên gặp nó ở cửa hàng ăn uống và dắt nó qua với chị. Chị Liên đưa cho chị nửa củ khoai, nói:
    - Hồi này mưa quá nên khoai củ ở mấy vựa bị sùng thối, hư hao nhiều lắm. Mình chịu khó đi vòng vòng ở Chợ Cầu Ông Lãnh là kiếm cả rổ.

    Chị Liên nhìn bạn nhai nuốt cả vỏ khoai, nói tiếp:
    - Mấy chủ vựa sợ những củ khoai sùng lây qua những số khoai còn lại nên đổ bỏ rất nhiều. Mình chịu khó lượm về lựa lại rồi gọt bỏ những chỗ hư đem về luộc, sáng mang ra chợ bán cũng có được cái ăn qua ngày.

    Chị Liên nhìn sang bên kia đường phê bình:
    - Tội gì mà đem thân xác ra để cho chúng dày vò.

    Chị Mạc im lặng, mãi miết ăn ngấu nghiến những củ khoai luộc. Đứa bé gái vô tư ngồi gõ cái lon sữa bò theo điệu nhạc mới: "Đêm qua em mơ gặp bác Hồ, râu bác dài tóc bác bạc phơ...".

    Chị Liên ngồi suy nghĩ vẫn vơ, chị Liên thở dài, đối với chị, không yêu thì... không làm được "chuyện ấy", chị sẽ không bao giờ bước sang bên kia đường. Chị chỉ còn một mình, nhẹ lo hơn chị Mạc. Thằng Đức, kỷ vật cuối cùng, dấu ấn của tình yêu đối với chồng chị, anh Nguyễn Văn Hơn, đã mất. Chị không còn gì nữa ngày hôm nay, nhưng những kỷ niệm thời học trò nhẹ nhàng băng ngang dòng tâm tư của chị. Bảy năm yêu thương, bảy năm hạnh phúc. Những lần chồng về phép, chị rất thích nghe những bản nhạc "Buồn trong kỷ niệm", "Tấm ảnh ngày xưa" với tiếng ca não nùng thấm thía của bà chị Thanh Thúy. Ờ, rồi lại còn "Tàu đêm năm cũ" nữa. "Đem về trả cho tôi người xưa"... chồng chị cười nói: "Cũng là con tàu thôi, khi đem người đi thì buồn, lúc đem người về lại em cảm thấy gì?". Chị nhìn anh lo sợ. "Có khi nào...", chị không dám nói hết ý.

    "Có khi nào con tàu đem người thân đi mãi" hay không? Ngoài đời chị vẫn nhìn thấy những chiếc GMC chở quan tài phủ cờ vàng chảy ba dòng máu đỏ, máu của người chiến binh đã đổ ra cho đất nước, và những chiếc khăn tang chan hòa nước mắt buộc chặt trên đầu các thiếu phụ và những trẻ thơ. Chiến cuộc ngày càng khốc liệt hơn, những lần về phép của anh cũng thưa dần. Chị Liên còn nhớ rõ ánh mắt buồn bã của chồng trong lần chia tay cuối cùng, anh đã đi biền biệt không về. Một ngày kia, người ta báo tin anh tử trận. Chị Liên gia nhập vào đội quân tóc dài mặc áo đen, đầu chích khăn tang khóc chồng, ôi thật buồn bã.

    Mãi miên man suy nghĩ, tưởng nhớ vu vơ, chị Liên giật mình liếc mắt tìm bạn. Chị Mạc không còn ở bên này bùng binh nữa. Vừa ăn xong củ khoai luộc, chị Mạc vội bước sang bên kia đường, biến mình trong khu nhà ga với ánh đèn vàng, những tấm nệm cói phập phồng và những tiếng thở hồng hộc.
    - Trong những tấm nệm cói ấy vang lên tiếng thở, họ thở ấy ra sao nhỉ? - chị Liên nhắm mắt liên tưởng.

    Tưởng tượng những tấm nệm cói phập phồng, chị Liên rùng mình ớn lạnh. Chị cảm thấy cô đơn, chị ao ước: "Phải chi được nghe tiếng thở của anh Hơn trong tấm nệm ấy thì... sung sướng biết bao". Chị mơ tưởng những giây phút êm đềm, ấm áp của ngày xưa. Chị có cảm tưởng như nhìn thấy đôi mắt của anh, đôi mắt sao giống đứa con trai của chị quá. Chị mỉm cười vu vơ. Trong giấc mơ, chị thấy anh trở về trên xe bước xuống cùng những người bạn lính, có cả lá cờ vàng nữa... Nhưng rồi chị hốt hoảng. Người đứng trước mặt không phải là chồng chị, mà là người báo tin anh tử trận. Người ấy nói nhiều lắm, chị ù cả tai không nghe gì cả.
    - Làm gì mà ngồi đây có một mình hả em?

    Chị Liên giật mình mở mắt, trước mặt là một gã đàn ông, tay cầm ổ bánh mì và bọc trà đá.
    - Ăn đi em, anh đã ăn rồi. Đêm nay sao buồn quá.
    - Không, cảm ơn.

    Chị Liên đứng dậy bỏ đi ra bờ sông Bạch Đằng. Gió đêm làm chị cảm thấy lạnh hơn. Dòng sông đen lấp loáng ánh đèn. Chị nhớ đến cái chết của chị Trúc, xác chị nằm ngữa trương phình lên. "Không, mình không được phép tự tử, mình là người Công giáo. Lạy Chúa, xin nâng đỡ con, dẫu cho có thế nào con vẫn tin Chúa, Chúa ơi!", chị Liên khấn thầm mặt hướng lên trời. Mỗi khi nghe tin có vài anh em phế binh thân quen chết đi, chị vẫn thường cầu nguyện. Chị vẫn mong là ngày mai rồi sẽ khác đi.

    Mùa mưa cũng vừa sắp hết, Chị Liên sửa soạn rời khỏi khu vực nhà ga xe lửa Sài Gòn. Chị nói với các chị bạn là cần đi xa để quên những chuyện buồn. Chị muốn về quê nhưng quê hương đâu còn nữa. Chị đi bộ về phía Chợ Lớn, lạc vào giáo xứ Quận 8. Buổi trưa chị ngồi nghỉ chân bên cổng nhà thờ Bình An Thượng. Chị nhìn lên tượng Chúa Giêsu chịu khổ nạn cầu nguyện. Ông cha xứ già, tóc bạc phơ, dáng người mệt mỏi từ trong nhà thờ đi ra nhìn thấy chị. Chị nhìn cha. Hình ảnh ông cha xứ già sao giống đấng Thánh Phêrô quá. Cha hỏi, chị lễ phép trình bày hoàn cảnh của mình. Chị không mong cầu điều gì khi trình bày hoàn cảnh của chị, chị có cảm tưởng như đang xưng tội trước vị cha xứ, lòng chị trở nên nhẹ nhõm hơn. Thế thôi.

    Nghe xong cha xứ bước vào lại giáo đường. Một lúc sau nghe tiếng cha gọi, chị Liên đi vào. Cha mở ngăn kéo, trong có số tiền lùớn nhưng là toàn là tiền giấy nhỏ, chị hiểu đó là tiền ủng hộ của giáo dân dâng hiến trong những ngày lễ. Cha xứ đã cất giữ những món tiền đó trong nhà thờ. Chị ứa nước mắt nhìn cha. Ông cha xứ già cẩn thận gói số tiền ấy vào tờ giấy báo và run run cầm đưa tận tay chị. Nước mắt chị trào ra, ướt cả khuôn mặt. Cha gọi người làm vườn nhờ đưa chị đến bến đò qua bên kia sông để tránh không bị công an làm khó dễ. Chị quay lại nhìn cha chào từ giã. Cha dặn chị: "Con nên rời bỏ cuộc sống vỉa hè ấy đi" và chúc lành: "Chúa nâng đỡ bước chân con. Hãy cầu nguyện thường xuyên".

    Chị Liên quay lại nhà ga xe lửa Sài Gòn, tay chị cầm theo ba ổ bánh mì kẹp thịt ba rọi trông thật ngon lành. Nhưng chị không gặp được chị Mạc và con Hoa. Ở đấy vừa có chiến dịch thu gom những người sống "bụi đời" vô gia cư, vô nghề nghiệp, ăn ngủ ngoài hè phố. Nhà nước cộng sản Việt Nam không bằng lòng để những người trước kia tuân theo lệnh đi xây dựng vùng kinh tế mới nay trở về sống ở hè phố, "bêu xấu chế độ". Lần này tất cả bị đưa đi những nông trường xa xôi khác. Chị Liên mò vào những xóm nghĩa địa hỏi thăm, nhưng không ai biết mẹ con chị Mạc ở đâu. Mãi về sau gặp lại chị Nguyệt "già", chị Liên mới biết là chị Mạc bị đưa đi cải tạo lao động ở "nhà nuôi" Ba Thôn, huyện Hóc Môn.
    - Còn đứa con gái? - chị Liên hỏi.

    Chị Nguyệt nhún vai:
    - Thì họ tách hai mẹ con ra chớ sao, nghe đâu con nhỏ được đưa về cô nhi viện gì đó ở Gò Vấp.

    Chị Liên ngồi thơ thẩn ở bùng binh nhìn qua sân ga, sau đợt truy quét sinh hoạt vẫn y như cũ. Bên kia nhà ga là kiếp người lầm than tủi nhục, những người sống vật vờ đi đi lại lại, họ không còn cách nào để sống khác hơn. Vẫn là những ổ bánh mì, những trả giá, kỳ kèo cho mỗi cuộc tình. Chị nghĩ về chị Mạc và đứa con gái, họ đã sống như những con chó ghẻ, bị rẻ rúng, đuổi xô. Chị nghe phong phanh tình hình có nhiều biến chuyển. Khối cộng sản ở Đông Âu đang bị tan rã, Liên Xô đã có tổng thống. Cộng sản Việt Nam đã bắt chước đưa ra "những việc cần làm ngay" của đảng và nhà nước. Chị đã nhìn thấy những cái quẹt ga thay cho cái quẹt dầu hôi. Đất nước đang đổi mới. Những bộ quần áo từ nước ngoài gởi về đã thấy bày bán ở các chợ trời, nhiều người đã liên lạc được những người thân ở hải ngoại. Đường phố cũng đã khác xưa, những ngôi nhà cao tầng và nhiều khách sạn đang được xây dựng lên. Đêm tối đã thấy những ánh đèn màu xanh đỏ chớp loáng trên những bảng hiệu. Nhà nước đang "mở cửa" đây mà. Sự thay đổi này đâu phải là ... vì dân. Họ thay đổi để tồn tại, để khỏi bị dân chán ngán như Đông Âu, để nuốt trôi miền Nam.

    À, thì ra nhà nước cộng sản đang dùng sự hào nhoáng xa hoa để che đậy những đen tối của sự thật. Họ biết là dư luận các nước bên ngoài đang hướng về Việt Nam, họ đã trả tự do cho những sĩ quan đi học tập cải tạo. Còn ông cha Thủ ở nhà thờ Đồng Công, xã Tam Hà, huyện Thủ Đức thì sao nhỉ? Họ đã thả cha ra hay chưa? Tội nghiệp, cha đã ngoài tám mươi mà không thoát khỏi lao tù. Hòa thượng Thích Trí Thủ nghe nói rằng đã "ức quá" mà chết. Còn hai ông Phạm văn Thương (Tuệ Sỹ) và Lê Mạnh Thát (Trí Siêu) đã bị họ tử hình chưa? Liệu những dư luận của các nước có giúp gì được cho họ hay không?

    Những người bất hạnh sống trên hè phố đang bị bắt nhốt, xua đuổi ra khỏi thành phố, đang âm thầm gục chết ở vỉa hè, góc chợ, công viên có được ai chú ý tới không? Liệu sự "mở cửa" này có làm cho các nước bên ngoài công nhận màu cờ đỏ như máu kia không, có quên đi màu cờ vàng hiền hòa như tấm áo khoác của những nhà sư tu hành theo hạnh khất sĩ hay không?

    Tự nhiên chị Liên cảm thấy quá mệt mỏi. Bộ ngực chị lép xẹp, đôi vai khô gầy, đôi chân chị nặng nề, không còn đủ sức để đi tiếp đoạn đường nữa. Chị nhìn thấy những người đàn bà và trẻ em mời mọc khách qua đường những điếu thuốc lá ngoại. Chị nghe nói ở Củ Chi, những nơi gần cửa khẩu, có những người đi buôn lậu thuốc lá ngoại, sống được lắm. Chị nhìn xuống gói giấy báo bọc số tiền của vị cha xứ già của giáo xứ Bình An Thượng. "Tình thương" của giáo dân đây mà. "Nghị lực" của Thiên Chúa đang tiếp sức cho chị. Ờ, tại sao chị lại không đi về Củ Chi một chuyến xem sao. Ở đấy còn có nhỏ bạn học ngày xưa, ở giáo xứ Bắc Hà, gần căn cứ Đồng Dù có cây phượng vĩ. Năm học cuối của mùa hè xưa, hai đứa đã từ giã nhau, nó đi lấy chồng, còn chị gặp anh Hơn. Hai đứa đã tặng nhau cuốn lưu niệm, trong đó có ghi những dòng lưu bút và ép vào đó những cánh hoa phượng. Cánh phượng ấy bây giờ có lẽ đã khô theo thời gian nhưng những cảm xúc ngày xưa vẫn tươi mãi trong lòng chị. Ngày xưa chị đi xây dựng kinh tế mới theo chủ trương của nhà nước cộng sản, con Hoa ngăn cản:
    - Hãy ở lại thành phố, Liên ơi. Mình không biết nói sao về cái lòng tốt có vẻ như lo cho dân kia. Nó có vẻ tuyên truyền, xảo trá làm sao ầy. Chúa đã dạy "hãy xem trái thì sẽ biết kẻ trồng cây", hãy nhìn xem những gì họ đã làm... Đừng để bị xí gạt.

    Nhưng tiếc thay ngày ấy chị đã không còn cách nào khác, chị bị liệt kê vào thành phần gia đình "Ngụy", có chồng chết trận nên phải đi vùng kinh tế mới để rồi bây giờ... chị ngồi đây, tứ cố vô thân. Chị Liên đứng dậy rời bùng binh chợ Sài Gòn, bỏ nhà ga xe lửa, tìm đường về Củ Chi trên chuyến xe cuối ngày. Xe lăn bánh, chị nhìn lại hè phố Sài Gòn lần nữa và nói với chính mình: "Chúng sẽ không giết chết được anh đâu. Bởi vì anh đang sống trong em và thở bằng hơi thở của em". Chị nguyện sẽ sống xứng đáng với sự hy sinh của anh, người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa của chị. Chi Liên đã ở lại bên này đường vì chị còn giữ vững niềm tin, chị sẽ nối tiếp bước đi của chồng. Bỗng nhiên chị Liên ứa nước mắt: "Nếu như Chúa chưa tuyệt con đường sống của con thì giúp con thức tỉnh các thế hệ mai sau cảnh giác, không để vi khuẩn vô nhân xâm chiếm tâm hồn".

    Tới nơi chị đi bộ về hướng giáo xứ Bắc Hà, về nhà người bạn gái thuở học trò xưa. Trong xóm đạo này có rất nhiều người Bắc di cư năm 1954, không cộng sản. Họ là những người ghê sợ cộng sản như một cơn dịch bệnh.

    *****

    Anh em phế binh, cô nhi, quả phụ và những người lính rã ngũ trong nước không nghe thấy chính phủ Hoa Kỳ và đồng minh nhắc nhở gì đến chúng tôi cả. Không lẽ họ đã quên và không còn trách nhiệm đối với những người bạn chiến đấu năm xưa nữa hay sao? Những con người cùng khốn, đang sống bên lề cuộc sống, nạn nhân của chế độ cộng sản đang trông chờ các bạn. Anh em phế binh luôn hướng về chính phủ Mỹ và các đồng minh cũ bởi vì họ thấy các quốc gia Tây Phương đã giúp đỡ người vượt biên, những người sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào đất nước họ. Còn số phận chúng tôi thì sao?

    Nhưng đã là chiến binh không nên tuyệt vọng. Chúng tôi chỉ cảm thấy cô đơn vì không hòa nhập được vào với xã hội cộng sản. Ý chí ngoan cường, quật khởi sẵn sàng hưởng ứng các cuộc tranh đấu cho tự do, nhân quyền trên quê hương không mất trong lòng chúng tôi. Chúng tôi nhận thấy rõ ăm mưu thâm độc của nhà nước cộng sản khi đày đọa chúng tôi, họ muốn chúng tôi chết lần chết mòn... trong quên lãng và nghèo đói. Nhà nước cộng sản muốn xóa đi một trang sử u buồn, những người như chúng tôi không có quyền sống trong nhân phẩm. Để khỏi mang tiếng với các nước bên ngoài, nhà cầm quyền cộng sản không trực tiếp giết chúng tôi bằng vũ khí, súng đạn, mà lùa chúng tôi vào những chốn rừng thiêng nước độc để cho thiên nhiên, dịch bệnh và đói ăn tiêu diệt chúng tôi. Nhưng chúng tôi đã không chết. Chúng tôi đã sống. Sống để làm nhân chứng cho một thời đại đen tối của đất nước: người cộng sản Việt Nam đang dày vò những người khốn khổ, muốn tiêu diệt những người không còn có lợi ích cho xã hội. Những người vô sản hôm qua đang muốn tiêu diệt những người vô sản hôm nay.

    Anh em chúng tôi đồng tâm nguyện với nhau: "Đừng chết! Không được chết! Ngày xưa chúng ta là những chiến binh tử thủ trước chủ nghĩa cộng sản, ngày nay chúng ta tiếp tục tử thủ trước cái chết đang chờ chực chúng ta, từng ngày, từng bữa. Nếu chúng ta không cố gắng kéo dài cuộc sống thì những lớp người kế tiếp, trong đó có con em chúng ta, sẽ bị nhà cầm quyền cộng sản mặc tình nhồi nhét, tuyên truyền những điều sai sự thật về cuộc chiến đã qua và như thế sự thật sẽ mãi mãi bị chôn vùi. Không còn ai biết chính họ đã xâm chiềm miền Nam, đày đọa và bóc lột nhân dân miền Nam. Như vậy rồi con cháu chúng ta sẽ tiếp tục mãi mãi trở thành nô dịch cho chế độ cộng sản. Chúng ta phải sống để làm nhân chứng, nhân chứng của thời đại Việt Nam, nhân chứng của lương tâm nhân loại!".

    Từ đó, những người cùng khổ như anh em chúng tôi đã cố gắng sống. Là người ai cũng muốn sống, nhưng sống trong chế độ độc tài cộng sản này không phải dễ. Chỉ những ai không có xương sống, đầu óc ù lì không dám bênh vực lẽ phải mới thoi thóp sống được, những người khác không có chỗ đứng. Biết bao nhiêu bạn bè, thân hữu chúng tôi đã nằm xuống vì dám chống lại những người cầm quyền, nhiều người như chúng tôi, ê chề hơn, ngã gục trước bệnh tật, đói ăn và thiếu áo. Nhiều người đang chết dần chết mòn trong nghèo khổ, nhân phẩm bị chà đạp, nhiều người khác đã tự tử để trút gánh đời. Nhưng chúng tôi phải sống, sống để mọi người thấy sự tàn ác của chế độ này, một chế độ không có chỗ đứng cho những người thua cuộc.

    Những khẩu hiệu "xã hội chủ nghĩa đẹp gấp trăm, gấp ngàn lần xã hội tư bản chủ nghĩa" là những ngôn từ rỗng tuếch, tất cả chỉ là sự thay ngôi đổi vị của những thành phần giàu có. Trên đất nước ngày nay, người ta chỉ thấy cán bộ cộng sản sống ung dung, phè phỡn trên sự nghèo khổ của đồng bào. Chúng tôi phải sống, sống để làm nhân chứng. Nếu chúng tôi bị chết hết đi thì sự tàn ác vô nhân của chế độ cộng sản sẽ còn tiếp tục.

    Thành phố đang theo đà "mở cửa" của đất nước. Vào những dịp lễ lớn, sinh hoạt mua bán trở nên nhộn nhịp, tấp nập hơn. Lẽ ra thì những người đi xin cũng có nhiều cơ may hơn, anh em phế binh bán nhang được nhiều hơn, nhưng vì "mở cửa" nên trên đường phố có nhiều khách nước ngoài "du lịch" vào Việt Nam, chính quyền cộng sản muốn "triệt tiêu" nghề ăn xin. Những người ăn xin đang ngồi ủ rũ trong những công viên kia buồn lắm. Những anh em phế binh đi bán nhang cũng không vui sướng gì vì cũng đang bị chiến dịch "làm đẹp thành phố" truy lùng.


    Sống làm sao đây? Đó là một câu hỏi lớn. Mua bán cần có vốn liếng, đi xin thì bị bắt, họ chỉ còn một cách là kéo dài cuộc sống với chính bản thân kiệt quệ của mình. Những phụ nữ còn chút nhan sắc và trẻ trung thì bán thân thể, còn những người cùng khốn chỉ có thể đi bán... máu của mình mà thôi. Bán máu để nuôi bản thân và nuôi gia đình. Anh em phế binh chúng tôi cũng đi bán máu, bán cho những trung tâm tiếp huyết để có chút tiền làm vốn mua nhang.

    Bỗng nhiên bán máu trở thành một phong trào, bán máu là một nguồn lợi. Từ tờ mờ sáng, trước các trung tâm tiếp huyết hàng trăm, hàng ngàn người "tình nguyện" chen chút nhau đứng chờ được lấy máu. Có người đã ngủ đêm tại chỗ để chắc chắn sáng hôm có một chỗ đứng trong hàng để chờ được người ta lấy máu. Khoảng 3 giờ sáng, đoàn người đã đông. Ai đến trễ thì phải chờ ngày hôm sau và gia đình người "tình nguyện" sẽ... đói. Do đó phải có một chỗ đứng.

    Trở về trường hợp của tôi. Một lần nữa, đã lâu rồi, cha tôi nằm phòng cấp cứu bệnh viện lao Hồng Bàng, bây giờ mang tên Phạm Ngọc Thạch. Được đưa vào từ chiều tối hôm trước nhưng ông đã nằm chờ mãi trong một ghế bố kê ở hàng hiên, không thấy ai đến hỏi thăm, chẩn bệnh và cấp thuốc men gì. Đến sáng người vào khám bệnh đông thêm, cái ghế bố của cha tôi được đưa ra gần cổng "nhà vĩnh biệt" (nhà xác). Tôi thấy những người nghèo khốn khác bị thương nặng cũng được đưa ra nằm gần đấy, thân nhân của họ phải chườm nước đá trên những vết thương để cầm không cho máu rỉ ra. Nhưng tuyệt nhiên không thấy vị y sĩ nào đến chẩn bệnh.

    Ngược lại tôi thấy nhiều bệnh nhân thuộc hạng gia đình khá giả được đưa vào trễ hơn thì được cấp tốc đưa lên phòng dưỡng bệnh. Tại đây họ được chăm sóc kỹ lưỡng, được cấp thuốc men thăm hỏi và được ăn uống no đủ. Có người đã nằm ở đó suốt ba tháng trời, có người sau khi xuất viện đã đến tái khám nhiều lần và mỗi lần được cấp phát thuốc men cho đến khi hết hẳn bệnh. Tôi sốt ruột hỏi thăm "người ta", thân nhân của bệnh nhân, thì họ nói nhỏ:
    - Phải biết... sống !.
    - Với ai? - tôi hỏi.

    "Người ta" làm thinh. Gần trưa hôm sau, một nữ cán bộ tên Hồng đến gần hỏi cha tôi:
    - Thân nhân đâu?

    Tôi vội vàng trình bày bệnh tình và hoàn cảnh gia đình tôi, bà Hồng hỏi nhỏ:
    - Có hai chỉ vàng không? Nếu có thì được đưa lên phòng điều trị, trên đó có đủ thuốc và được chữa trong vòng sáu tháng. "Thủ tục" để tôi hỏi cho.

    Tôi ú ớ trong họng. Bà Hồng chợt hiểu, liền thay đổi nét mặt và nhìn tôi dằn mạnh từng chữ:
    - Còn nếu không thì về địa phương, mang hộ khẩu ra các trạm y tế xin khám bệnh, tại đó người ta cấp thuốc miễn phí cho.

    Tôi dạ dạ vâng vâng, rồi bỏ đi ra ngoài. Sáng sớm hôm sau tôi đi tới thẳng trung tâm tiếp huyết và... chen vào sắp hàng với những người "tình nguyện" hiến máu khác. Tại đây tôi mới biết có những người cũng nghèo khổ như chúng tôi làm nghề "xếp hàng mướn". Họ đã ngủ lại đêm để giữ chỗ cho những người "tình nguyện" đến bán máu "mướn" lại. Giá một chỗ đứng bằng 1/10 sồ tiền người bán máu lãnh được. Những người này thường "quảng cáo" là họ có quen biết lớn trong trung tâm. Những ai không đủ tiêu chuẩn để "hiến" máu thì họ sẽ "nói" với cán bộ "lấy máu giùm" cho, giá của sự "nói giùm" này bằng 2/3 số tiền mà người bán máu sẽ nhận được. Sau khi "hiến" máu mỗi người được "bồi dưỡng" một ổ bánh mì nhỏ, một ly sữa cacao, một miếng thịt bò bí tết bằng ba lóng tay và một cái hột gà ốp la. Những người bán máu "không đủ tiêu chuẩn" thì phải biết điều nhường phần này cho người làm "mai mối" và "nhà bếp". Không đủ tiêu chuẩn là những người quá ốm yếu, bị tình nghi ho lao hoặc bệnh lây lang, hoặc cho quá nhiều lần, máu không đủ hồng huyết cầu.

    Tôi lanh lẹ chen lấn nên cũng có một chỗ đứng trong hàng chờ vì những người "tình nguyện" ai cũng sợ, họ không biết tôi là ai, thuộc "phe" nào của trung tâm tiếp huyết. Đúng 8 giờ sáng, các "trật tự" của trung tâm đi nhìn mặt từng người xếp hàng và phân loại, tôi bị vào loại không đủ tiêu chuẩn vì thân thể quá ốm yếu, suy dinh dưỡng. Bực mình trước cảnh bóc lột người cùng khổ, tôi lớn tiếng chửi bới:
    - Tại sao những người khác cũng ốm yếu như tôi được cho xếp hàng còn tôi bị loại? Bộ ăn hối lộ hả? Coi chừng nghe, tôi vào trung tâm báo cáo các người ăn tiền hối lộ cho coi...

    Chưa kịp nói hết câu thì "uých" một cái, tôi bị cùi chỏ của một tên mặt rô giả bộ đứng trong hàng tống mạnh vào ngực. Đang bàng hoàng định la lên kêu cứu thì tôi bị nhiều tên khác xúm lại lôi cổ ra khỏi hàng. Nhiều người khác chỉ chỏ mắng thêm. Một người đứng xếp hàng chỉ mặt tôi chửi:
    - Định phá đám hả mậy? Đ... mẹ xác thân như mày có gì mà cho. Đã không biết thân biết phận còn dám hỗn láo. Đáng kiếp! Đồ phế binh ăn hại.

    Thế là tôi bị hất văng ra ngoài hàng, người đứng trước đứng sau làm ngơ như không có chuyện gì xảy ra, chen mất chỗ đứng của tôi. Bực mình và buồn bã, tôi về lại nhà thương thăm cha tôi, bệnh của ông càng lúc càng nặng mà tôi thì không có tiền chữa chạy. Lần này tôi quyết định phải "biết điều" hơn. Sáng hôm sau tôi ra sớm hơn để xếp hàng và hứa cho một tên mặt rô đứng giữ trật tự số tiền nó muốn để được bán... máu.

    Từ đó tôi có thêm nghề mới, nghề bán máu. Lân la với chốn này, tôi cũng làm quen được nhiều người khác, vui nhất là được gặp lại những anh em phế binh và các quả phụ đã từng một thời quen biết. Phế binh Cận (cụt một tay) ngồi ở công viên với phế binh Độ (mù một mắt và cụt một chân) và Thành (méo miệng và cụt một tay) chờ chị Loan và bà Nguyệt già tới giới thiệu với người "sắp chỗ" cho đứng xếp hàng.

    Bà Nguyệt hồi này tìm được "việc làm" mới ở chợ bán máu nên không phải ra bùng binh chờ... khúc bánh mì nữa. Thật ra thì chẳng có ai mời bà Nguyệt ăn bánh mì cả vì bả quá già, thấy mà ghê. Bả còn có thêm nghề mới là "dẫn mối", nếu "giới thiệu" được nhiều người đến bán máu thì được nhiều ổ bánh mì với hột gà ốp la, ăn không hết thì bán lại nhà bếp. Chị Loan nhờ bà Nguyệt "giới thiệu" nên đã bán được ba lần máu, mà không cần phải đợi từ 3 đến 6 tháng.

    Anh Cận dự tính nếu mà mọi chuyện êm xuôi thì anh và anh Độ, có con đang đau nặng nằm ở bệnh viện Nhi Đồng I, sẽ đi đến Thủ Dầu Một bán máu tiếp. Tại đây thủ tục bán máu dễ hơn nhưng không được bồi dưỡng bằng ở Sài Gòn, và họ sẽ tìm đến những nơi bán máu khác để tiếp tục "hiến" máu lấy tiền. Tại những nơi này không ai có thể biết họ vừa mới bán máu xong vì thiếu phương tiện đo lường hồng huyết cầu. Nhờ bán máu nhiều lần, anh Độ chạy đủ tiền lo thuốc cho con, anh còn dự định nó lành bệnh xong anh sẽ đưa hai đứa con nhỏ ra Nha Trang sống một thời gian, không cho chúng đi mót rau nữa.

    Anh Thành ngồi buồn buồn nhìn Cận và Độ xếp tiền vào túi áo ở ngực. Anh bị lao nhìn thấy rõ quá và thân thể ghẻ lở tùm lum nên bị từ chối "nhận" máu. Anh Cận rủ anh Độ qua bên kia đường làm một tô hủ tiếu "rửa ruột" cho đã. Nhưng chị Ngọc Trai, vợ anh Độ, từ đâu chạy đến hớt hãibáo tin là con họ đã chết, người ta đưa vào nhà xác rồi. Anh Độ nghe tin ngồi thẩn thờ, không nói được gì cả, chỉ biết văng tục một tiếng "Đ... mẹ nó, cuộc đời này thật là chó đẻ", rồi rủ rục xuống mặt bàn. Tô hủ tiếu anh Độ vừa kêu ra ăn không nổi, anh Thành chạy vô ăn thay nhưng không còn thấy ngon, chỉ thấy mùi vị đăng đắng. Chị Ngọc Trai nức nỡ nói tiếp:
    - Người ta nói phải đóng tiền cho bệnh viện mới được đem xác con về. Họ nói là tiền giữ xác trong nhà lạnh, để lâu càng trả thêm tiền. Tiền xương máu của anh vừa bán cho nhà nước xong, không tội gì phải nộp lại cho nhà nước. Đời bây giờ chết là hết. Vô thần mà, không còn tâm linh gì nữa. Thôi để con mình cho người ta đem đi hỏa thiêu, coi như vô thừa nhận.

    Anh Độ cầm số tiền vừa lãnh xong, sau khi đã chia cho người "xếp chỗ" và đưa cho vợ, chống gậy đứng lên, đi qua bên kia đường ngồi xuống ghế đá. Miệng anh đắng nghét, môi khô lại, mắt hoa lên rồi nấc lên: "Con ơi!".

    Chị Loan dạo này cũng hết đi sang bên kia đường kiếm ổ bánh mì thịt, chị gia nhập lực lượng "tình nguyện" hiến máu. Chị có ý định gom số tiền bán máu được khá nhiều rồi sẽ đi buôn lại như xưa vì nghe nói là bây giờ cộng sản không còn ngăn sông cầm chợ nữa. Hôm nọ, gặp lại chị Mai, hai người mừng quá. Chị Mai cho biết là nhờ cặp bồ với một tài xế xe tải, chị thoát được vài chuyến hàng nên có lại mái nhà. Chị Loan nghĩ nếu mình có vốn sẽ nhờ chị Mai chỉ đường, nhưng trong hoàn cảnh này muốn có vốn chỉ còn cách đi bán... máu. Chị Loan đã đi đến các trung tâm tiếp huyết tại Thủ Dầu Một, Bình Dương, lên tuốt tận Lộc Ninh rồi vòng qua Biên Hòa "bán máu". Nhờ "biết điều" và ăn nói giã lã, chị bán được nhiều lần. Nhưng vì muốn mau thoát kiếp sống hè phố, chị Loan đã quên chính mình. Thân xác của chị ngày càng kiệt quệ, mặt chị ngày càng xanh xao, chân đi không vững, chị cứ bị xây xẫm luôn. Một đêm chị nằm ngủ luôn trên ghế đá một công viên tại Chợ Lớn, xác cứng đơ. Sáng sớm hôm sau người ta đến chở xác chị đi, số tiền chị để dành cũng không cánh mà bay... vào túi những người công an đến khám xét.

    Những người sống vất vưỡng trên hè phố, có đó rồi mất đó. Họ sống như những bóng ma, vật vờ bên ngoài cuộc sống, không ai màng đến sự hiện diện của họ. Họ còn sống hay chết đi không thay đổi những sinh hoạt thường ngày. "Không có mợ, chợ vẫn đông".

    Thành phố trong những tháng ngày cận Tết, mọi người vật vã đi tìm miếng sống. Nhà nước công sản tiếp tục bận rộn với những kế hoạch 5 năm, 10 năm, những công trình thế kỷ năm 2000, năm 2020... Họ bận tâm xây dựng những tượng đài kỷ niệm nọ kia, làm những báo cáo vượt chỉ tiêu, soạn diễn văn chúc mừng... Các loa đài phát thanh ra rả những bài ca ngợi thành tích, hứa hẹn thiên đàng, hạnh phúc ấm no, những âm thanh chát chúa vang vọng vào đầu người dân. Nhưng người dân Việt Nam đã điếc, họ chỉ thấy trước mắt là địa ngục trần gian. Người dân sợ hãi mỗi khi nhìn thấy lá cờ có hình ngôi sao vàng chìm ngập trong màu máu đỏ.

    Không! Không thể kéo dài mãi kiếp sống trâu ngựa này mãi trong chế độ này. Những người nghèo khổ đang bơi trong biển tuyệt vọng. Chế độ cộng sản đang hủy hoại con người, kể cả những người bần cùng nhất trong xã hội. Họ đã xúc phạm đến các thần thánh, đã đày đọa quê hương trong đói khổ và duy trì bất công. Họ không ngần ngại sử dụng những thủ đoạn tàn ác để triệt tiêu những người làm vướng chân họ. Họ sẵn sàng đi ngược đạo lý, sống trái tình người miễn sao được tiếp tục đè đầu người khác. Họ không phải là những con người bình thường, họ là loài thú dữ, những con "chó sói", không biết đạo lý, không biết tình người. Họ quay mặt luôn với những người đã từng ủng hộ họ ngày hôm qua, những "bà mẹ chiến sĩ" bây giờ chỉ biết ngồi than thân trách phận vì đã dại khờ bị cộng sản lường gạt, không những lường gạt cảm tình mà còn lường gạt luôn cả mạng sống con mình và tài sản. Chế độ cộng sản chỉ biết lo củng cố chỗ đứng của họ và chỉ bảo vệ quyền lợi của họ. Không còn gì để nói chuyện "phải trái" với những loại người này nữa.

    *****

    Bờ sông Bạch Đằng là chỗ anh em phế binh và những người sống ở hè phố thường ra đó tắm rửa, giặc giũ và nghỉ ngơi. Ngâm mình dưới làn nước mát, chúng tôi tươi tỉnh trở lại, bụi bặm và nỗi nhọc nhằn tan biến hẵn đi. Chúng tôi ngước nhìn tượng Đức Trần Hưng Đạo, tay chỉ xuống dòng sông, mơ tưởng một trận Bạch Đằng Giang. Nhìn dòng nước chảy, chúng tôi mong xảy ra những cơn lốc xoáy cuốn phăng những bất công trong xã hội. Ngước nhìn trời cao, chúng tôi hy vọng có một Thánh Trần ra tay tế nhân độ thế, sớm mang lại cho quê hương tình người. Chúng tôi mong những bàn tay nối dài từ hải ngoại kéo anh em phế binh chúng tôi ra khỏi vùng bóng tối, giúp chúng tôi tạo lại cuộc sống bình thường, tìm lại nhân phẩm đã mất.


    4. Cuộc Đời Tưởng Đẹp Như Bài Thơ
    Theo tiếng còi thúc quân tổ quốc kêu gọi đàn con lên đường bảo vệ đại nghĩa, năm 1960 tôi vào quân ngũ và gia nhập binh chủng Biệt Động Quân. Với tính tình bặt thiệp, nét mặt dễ coi, dáng người cao ráo trong bộ quân phục hoa rừng và chiếc mũ nâu, tôi được tuyển vào đơn vị khánh tiết, chuyên môn đi chào đón các ông lớn và mỗi ngày chỉ đứng thẳng, nghiêm chào, bồng súng, lau súng, giữ thẩng li quần, đánh bóng giày. Nhiều lúc đứng rụng cả chân, mỏi cả người làm dàn chào để các ông lớn, bà lớn đi qua. Cuộc đời quả thật đáng chán!

    Đầu năm 1961, tôi cùng một số bạn bè rủ nhau xin chuyển sang đơn vị tác chiến "Thần Hổ", đơn vị "bách chiến bách thắng", luôn luôn noi gương truyền thống anh hùng áo vải Lam Sơn, góp phần cùng các binh chủng hải lục không quân Việt Nam Cộng Hòa viết lên những trang quân sử oai hùng trên bước đường trừ gian diệt bạo, mang lại no ấm và yên bình cho nhân dân. Cuộc đời lính chiến không gì hãnh diện cho bằng, ngày đêm ta ghì cò súng ngăn chặn cuộc xâm lăng của quân cộng sản từ phương Bắc tràn xuống.

    Chúng tôi có mặt trên hầu hết các chiến trường, tham dự không biết nhiêu trận đánh kinh hồn bạtvía, từ Vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, từ vùng núi đồi hiểm trở Cao Nguyên xuống tận Đồng Bằng sông Cửu Long sình lầy. Đơn vị "Thần Hổ" chúng tôi chưa thất bại trận nào. Những tháng năm trong quân ngũ, tôi đã ba lần bị thương nhẹ nên vẫn tiếp tục đi chiến đấu.

    Một trong những trận đáng ghi nhớ nhất, đẫm máu nhất và cũng có thể nói là lịch sử nhất, đó trận đánh Tết Mậu Thân, năm 1968. Vào đúng lúc nhân dân đang cúng giao thừa, quân cộng sản lợi dụng thời cơ tràn vào các thành phố, chiếm giữ những cao ốc và cứ điểm quan trọng để tạo lợi thế chiến đấu. Chúng bắn phá khắp nơi, tiếng súng và tiếng đại pháo vang rền khắp trời. Tại Sài Gòn, quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải đục tường, khoét vách tiến lên đánh cận chiến, xáp lá cà với quân giặc. Nhiều tên địch bị trúng đạn rớt từ sân thượng xuống đất như những bị thịt, nhiều tên khác chết gục mặt trên những ngã tư đèn xanh đèn đỏ hay dọc các bờ tường. Trận chiến tiếp diễn từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 5 âm lịch, thây giặc nằm la liệt từ thành thị cho đến các vùng ngoại ô. Thảm bại nảo nề, đám tàn quân còn lại chạy sang Cam Bốt qua ngả Tây Ninh, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đuổi theo, tiến vào các sào huyệt mật khu của chúng, phá hủy và đập tan những ổ kháng cự còn lại. Chống cự không lại, quân cộng sản rút về Hạ Lào.

    Vào đầu Hè năm 1972, một lần nữa quân cộng sản bất ngờ vượt sông Bến Hải tiến chiếm Cổ Thành Quảng Trị, nhưng rồi cũng bị quân lực Việt Nam Cộng Hòa đánh bật, xác giặc nằm phơi suốt dọc Đại Lộ Kinh Hoàng trên quốc lộ 1. Đơn vị "Thần Hổ" chúng tôi không những là một trong những đơn vị đầu tiên tái chiếm Cổ Thành mà còn kết hợp với các binh chủng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đẩy lùi địch quân ra khỏi Quảng Trị. Xét về tương quan lực lượng và tinh thần chiến đấu, quân cộng sản dưới cơ thấy rõ, họ tuy có chiếm thế thượng phong lúc ban đầu nhờ lợi dụng yếu tố bất ngờ, nhưng về lâu về dài cán cân nghiêng hẳn về phía quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

    Một hôm nọ, đơn vị chúng tôi được lệnh tiếp viện cho đơn vị bạn tại Chiến Khu Đ trong vùng rừng núi Tây Ninh. Tiểu đoàn tôi được trực thăng vận nhảy vào lòng địch và đổ bộ ngay trên đầu quân giặc, súng gắn lưỡi lê trong tư thế sẵn sàng đánh cận chiến. Chân vừa chạm đất, tôi lăn nhiều vòng nằm rạp mình xuống đám cỏ tranh nghe ngóng, định hướng bạn thù. Tiếng súng và tiếng lựu đạn nổ quanh vang rền, đạn bay cheo chéo trên đầu, khói lửa đen ngòm bốc lên mù mịt. Trong đầu tôi chỉ có một ý nghĩ: bình tĩnh. Những khoảnh khắc như lúc này, chỉ cần hớ hênh một chút là toi mạng ngay và nếu không bình tĩnh có thể lộn bạn ra thù, kinh nghiệm chiến trường dạy tôi như thế. Tôi im lặng bò tới các ổ kháng cự của địch, cẩn thận quan sát từng cọng cỏ, thấy gì khả nghi là bắn hoặc ném lựu đạn vào. Quân cộng sản chống trả mãnh liệt, nhưng sau một hồi bị hỏa lực như vũ bão của chúng tôi trút vào tiếng súng địch quân im bặt. Đơn vị chúng tôi tiến vào lục soát và thu dọn chiến trường, cỏ cây nghiêng ngả, xác quân địch nằm ngỗn ngang. Chung quanh mùi tanh của máu, mùi khét của thịt hòa lẫn mùi thuốc súng bốc lên nồng nặc. Cũng may là tôi đã quen mùi chiến trận nên không bị lợm giọng. Đang lúc đơn vị chúng tôi gọi điện về hậu cứ báo cáo tình hình và kêu trực thăng đến bốc thì bộ chỉ huy tiền phương quân địch từ xa ra lệnh tấn công. Chỉ trong tích tắc, đạn pháo quân địch ào ào chụp xuống. Đang rạp người nghe tiếng đề pa để tránh pháo, thì... "Ầm" một tiếng, tôi bị hất văng lên khỏi mặt đất rồi ngã quỵ xuống, đồ đạc và súng đạn văng tứ tung.

    Một cảm giác kỳ lạ, tôi thấy ran rát ở phần dưới háng. Tôi lật đật chống hai tay ngồi dậy, nhưng không được nữa. Tôi liền nhìn xuống hai chân. Chân phải của tôi đã bay đâu mất, chỉ còn lại mảnh vải quần rằn ri bê bết máu. Chân trái còn lại bị tê không còn cảm giác, tôi chỉ thấy máu chảy dầm dề, một vài mảnh thịt tím bầm cùng một khúc xương trắng lòi ra cùng mấy sợi gân đỏ lòm lòng thòng dính trong ống giày. Thật kỳ lạ, tôi nhìn vết thương một cách thản nhiên, không nghĩ đó là chân của mình và cũng không thấy đau đớn gì. Một vài giây sau, tôi mới hoàng hồn, bản năng sinh tồn nhắc nhở: "không nên để máu ra nhiều quá". Đạn pháo quân thù cứ nổ rền vang. Tôi vội vàng tháo lưỡi lê ra khỏi nòng súng, lạnh lùng cắt những sợi gân dính tòn ten ở chân trái, nhưng chúng dai quá cứa mãi không đứt. Có lẽ cánh tay của tôi trở nên quá yếu, bàn tay của tôi cứ run lên bần bật. Tôi lột nón sắt xuống làm thớt kê mới chặt đứt được mấy sợi gân dính bàn chân còn lại. Lúc đó toàn thân tôi như bị điện giựt, tôi choáng váng mặt mày. Một cái đau xé ruột xuyên ngang lồng ngực, toàn thân run rẩy. Phần dưới háng đau buốt khó chịu. Tôi sắp xỉu thì thấy anh y tá Cảnh bò lại chích cho tôi mũi thuốc cầm máu. Pháo quân thù tiếp tục nổ quanh, đầu óc tôi hoang mang.

    Tôi nhắm mắt để cho anh Cảnh chính thuốc. Thấy kim đâm vào người một hồi mà sao không thấy bơm thuốc, tôi mệt mỏi quay đầu lại nhìn. Thật kinh hồn, anh Cảnh ụp mặt xuống đất chết từ hồi nào. Một mảnh pháo xuyên qua đầu anh, chiếc nón sắt văng qua một bên để lộ một lỗ hỗng đen ngòm cạnh màn tang to bằng ngón tay. Máu và óc cùng vài chùm tóc của anh Cảnh dính đầy bụng tôi. Tôi chỉ kịp tự bơm thuốc vào mình rồi ngất luôn. Cái chết trong lúc này nhẹ như áng mây.

    Mười ngày sau tôi hồi tỉnh lại. Như một đứa bé mới sanh tôi không nhớ gì cả. Nhìn thấy ánh sáng lờ mờ trong khoảng tối, tôi cựa mình ngồi dậy nhưng sao ê ẩm, đau nhức cả người. Nghe tiếng động, một cô y tá mặc bộ đồ trắng bước tới.
    - Anh tỉnh rồi à?

    Tôi lắc đầu không trả lời, môi miệng khô quá. Một lát lâu sau đó tôi mới định thần và hỏi:
    - Đây là đâu vậy?
    - Phòng Hồi Sinh của Tổng Y Viện Cộng Hòa.
    - Tại sao tôi ở đây?
    - Anh bị thương nhẹ, vài hôm nữa vết thương sẽ lành, anh được đi về.
    - Làm ơn cho tôi xin ly nước. Khát quá - tôi thều thào trong cổ họng, cơn khát thật khó chịu.

    Cô y tá lấy miếng bông gòn thấm nước để vào miệng tôi. Tôi bực quá la lên:
    - Tôi xin một ly kia mà - tôi cự nự.
    - Anh không nên uống nước nhiều - cô y tá hiền từ nhìn tôi. Vết thương của anh chưa lành hẳn. Uống nước nhiều máu sẽ chảy ra thêm. Để tôi chích cho anh mũi thuốc khỏe rồi cho anh uống nước sau.

    Thực ra thì cô y tá đã chích cho tôi một mũi morphine, mắt tôi lờ đờ rồi ngủ luôn một giấc cho đến sáng hôm sau. Khi thức dậy tôi nhìn thấy hai tay tôi bị cột vào thành giường và cô y tá đẩy xe tới rửa vết thương. Lúc bấy giờ tôi mới biết mình bị cụt hai chân. Trời đất như quay cuồng, tôi bị hụt hẩng. Mắt tôi hoa lên, những vòng tròn trắng xóa quay nhanh đến chóng mặt. Tôi muốn khóc nhưng không còn nước mắt. Tôi muốn la nhưng tắt tiếng nói. Tôi im lặng nhìn người ta băng bó vết thương, thân thể đau đớn nhưng lòng dửng dưng. Đầu óc tôi trở nên trống rỗng. Thật ra tôi không biết phải nghĩ cái gì. Tất cả đều trở nên xa lạ. Đến 9 giờ sáng, bác sĩ đến khám bệnh nói:
    - Cho anh ra trại. Anh khỏe lại rồi. Thoải mái nghe.

    Khi ra trại, bệnh viện cho tôi một chiếc xe lăn. Tôi được đưa vào trại điều dưỡng của tổng y viện. Buồn quá, đêm đêm tôi lăn xe ra sân cỏ ngồi đếm sao trời, hồi tưởng lại chuyện đã qua. Càng về khuya, tiếng ve sầu càng thảm não. Tôi nhớ lại một bài hát của Phạm Đình Chương có hai câu thơ: "Anh đi chiến dịch xa vời, nòng súng nhân đạo cứu người lầm than". Ôi, mỉa mai thay, vì nòng súng nhân đạo đó tôi lâm vào hoàn cảnh này. Gió cứ thổi, lá cứ rụng. Trời đang vào thu. Đời tôi như thân cây u ám kia. Từng niềm vui, từng mạch sống rơi rụng xuống đời, để rồi không còn gì nữa. Cuộc sống của tôi bị chặt đứt,còn làm được gì với thân hình què cụt này. Tiếng gà đâu đó gáy báo hiệu trời sáng, tôi lăn xe về phòng uống thuốc an thần để tìm giấc ngủ.

    *****

    Ngày qua ngày, tôi quen dần với nếp sống trong viện. Chung quanh tôi không thiếu gì những bạn đồng cảnh ngộ. Mỗi tuần đều có phái đoàn đến viếng thăm và tặng quà cho thương bệnh binh. Một hôm nọ, có phái đoàn của các bà Cao Văn Viên, Nguyễn Ngọc Lễ và ca sĩ Thẩm Thúy Hằng hướng dẫn các nữ sinh trường trung học Gia Long đến thăm và tặng quà cho anh em. Quà thường là bánh kẹo, sách báo và quí nhất là thuốc lá, đôi khi mỗi anh em còn nhận một lá thư an ủi và ngưỡng mộ của một nữ sinh vô danh gởi.

    Đang nằm thoải mái trên giường bóc gỡ tờ giấy bao bọc gói quà mới nhận, trên miệng phì phèo điếu thuốc thơm Président, một cô nữ sinh cùng đi với phái đoàn buổi sáng trở lại phòng tôi. Lúc đó khoảng 11 giờ trưa. Nhìn thấy ba chữ "Nguyễn Thị Hiền" thêu trên áo dài trắng, tôi bạo dạn hỏi:
    - Ủa, trưa rồi mà phái đoàn của cô Hiền chưa về sao?

    Cô nữ sinh giật mình, trố mắt nhìn tôi ngạc nhiên. Nhưng liền sau đó cô cúi xuống nhìn bản tên thêu trên áo dài trắng, e thẹn nói:
    - Cái anh này tò mò quá. Phái đoàn đã về rồi, còn Hiền thì trở lại thăm anh lần nữa. Anh tên gì?
    - Tên tôi dán trên đầu giường đó. Còn bí danh của tôi thì cô y tá chưa ghi.
    - Bí danh của anh là gì?
    - Hàn Mạc Tử! - tôi khôi hài nói.
    - Vậy ai là Mộng Cầm của anh vậy? - Hiền nhanh nhẩu đối lại.
    - Trời ơi, thời buổi này cụt què như tôi ai mà thèm làm Mộng Cầm.
    - Biết đâu đó, nhiều khi anh đã có rồi mà anh không biết hay không muốn hiểu. Ở đời này có cái gì là tuyệt đối đâu. Khi có những người liều mình xả thân cho tổ quốc, cho dân chúng được bình yên thì những người đó phải được kính trọng. Chính vì muốn được sống trong cảnh tự do no ấm đó mà gia đình của Hiền đã di cư vào Nam. Còn chuyện Mộng Cầm thì
    Hiền chỉ nói đùa cho vui thôi, ai cũng có thể là Mộng Cầm hết nếu muốn.

    Tôi chưng hửng, cô bé này coi vậy mà sâu sắc quá. Hiền nhìn tôi nói tiếp:
    - Hiền nói chung chung tâm trạng của người phụ nữ vậy thôi, khi đặt đúng chỗ tình yêu đó không có giới hạn.

    Im lặng. Tự nhiên lưỡi tôi cứng lại, đôi môi khép kín, nụ cười tắt hẳn. Mắt tôi hoa lên, hơi thở dồn dập. Tôi cúi đầu, mặc cảm. Tôi còn gì để đời kính trọng, một thân hình tàn phế. Đời chiến binh tàn tạ trong quân y viện còn gì để cho đời chú ý, trong mười hai con giáp tôi chẳng giống con nào. Tôi muốn tìm một câu trả lời thật cay cú để cho đỡ tức nhưng hàm răng trở nên nặng cứng, đôi môi se lại.

    Để đánh tan không khí nặng nề đó, Hiền nói:
    - Sao anh lặng thinh vậy? Hay là anh kể chuyện chiến trường cho Hiền nghe với.
    Được gãi đúng chỗ ngứa, tôi lấy lại bình tĩnh kể lại những kỷ niệm chiến trường. Đến 4 giờ chiều, Hiền từ giã ra về, tôi vui vẻ lăn xe ra tiễn chân đến tận cổng quân y viện. Bóng Hiền vừa khuất, tôi trở về với nỗi cô đơn thường nhật. Tôi gạt mọi giả thuyết ra khỏi trí óc, tôi không được phép nuôi dưỡng ảo vọng. Hiền đến thăm tôi vì muốn an ủi một thương bệnh binh, chỉ thế thôi. Có lẽ Hiền cũng đã từng làm như vậy đối với nhiều bạn đồng cảnh ngộ khác. Thôi quên đi, tôi dặn lòng mình. Và tôi cố gắng sống bình thường như mọi ngày trước đó. Mặc dù vậy hình ảnh, tiếng nói của cô nữ sinh Gia Long kia thỉnh thoảng vẫn hiện ra trong tâm tưởng tôi mỗi khi được ngồi một mình. Tôi có ý trông mong nhưng không nuôi hy vọng.

    Chủ Nhật tuần sau, Hiền đến thăm tôi và còn mang theo một gà men cơm cùng thức ăn. Thật là bất ngờ và cũng chưa bao giờ tôi được ăn một bữa ăn ngon như thế. Lòng tôi ấm lại lạ lùng, tôi có cảm tưởng như đang chạy nhảy như người bình thường. Ngoài sân tiếng chim nghe sao hay quá và tôi thấy mọi người đều tươi cười.
    - Anh cứ ăn tự nhiên. Kể từ nay, anh đừng ăn cơm nhà thương ngày chủ nhật nữa, Hiền sẽ mang cơm cho anh.

    - Cảm ơn Hiền có lòng tốt đối với tôi. Nhưng đường sá xa xôi quá mà Hiền đi như vậy rất tốn kém. Vả lại Hiền đâu có làm ra tiền và còn phải lo việc học hành nữa chứ.

    - Tiền bạc anh đừng có lo. Mỗi tuần bố mẹ đều cho tiền túi, Hiền không mua sắm gì nên để dành nhiều lắm. Vả lại nhà Hiền ở bên kia cầu Chữ Y không xa bệnh viện là bao, Hiền đi bằng xe đạp đến thăm anh cho đỡ buồn vậy mà.

    - Tôi còn phải nằm lại đây lâu lắm, chờ người ta giải phẫu gấp những mảnh đạn còn dính trong người. Thỉnh thoảng Hiền đến thăm là tôi vui rồi.

    - À, còn gia đình anh ở đâu mà Hiền không thấy đến thăm anh.

    - Cũng ở gần đây thôi, nhưng tôi không muốn báo tin cho gia đình hay chuyện không may này.

    Sáu tháng trôi qua, Hiền đến thăm tôi đều đặn mỗi chủ nhật. Trong thời gian đó, người ta đã làm cho tôi hai khúc chân giả và tập cho tôi đi bằng hai nạng chống. Hiền có giúp tôi đi lại ngoài sân sau khi ăn uống. Chúng tôi trở nên thân thiết. Một vài anh em trong viện nhìn tôi ao ước, chuyện của tôi và Hiền là đề tài để anh em trong viện bàn tán. Tôi rất hãnh diện và chỉ biết hãnh diện. Từ đó tôi không còn tự nhiên khi tham gia những cuộc vui với anh em như trước nữa, tâm hồn tôi đang bay bổng tận nơi đâu ấy.

    Nhưng niềm vui vừa chớm đã sớm vụt tan, cuộc đời trong lúc khốn cùng nhất cũng không được yên. Lần này bố mẹ Hiền xuất hiện, tôi không trách cứ ai cả mà chì buồn cho thân phận. Ai có con gái mà không muốn nó tìm được người bạn đường xứng đáng. Một sáng Chủ Nhật, hai ông bà theo dõi con gái khi dẫn xe đạp ra khỏi nhà. Cả hai gọi xích lô bám sát theo sau mà Hiền không hay biết. Đến quán cơm gần Quân Y Viện, Hiền dừng xe lại, vào mua cơm cùng thức ăn bỏ vào gà men, rồi đạp thẳng vào Tổng Y Viện Cộng Hòa thăm tôi. Bố mẹ của Hiền liền theo vào nhưng chỉ đứng núp ngoài cửa lén nhìn vào. Khám phá ra sự tình hai ông bà lẵng lặng ra về. Sáng hôm sau, hai ông bà trở lại và đến thẳng phòng tôi. Lúc đó tôi đã vào xe lăn ngồi, định ra sân cỏ ngồi hít gió trời thì hai ông bà bước vào. Cả hai đứng nhìn tôi chăm chăm, tôi đang bỡ ngỡ chưa biết là ai thì bố của Hiền lên tiếng trước:
    - Chúng tôi là bố mẹ của Hiền, hôm nay đến đây để nói chuyện với cậu.

    Tôi ngồi lặng người, không biết hôm qua Hiền đi về có gặp chuyện gì không may không. Đang còn thắc mắc lý do hiện diện của hai ông bà thì bố của Hiền nói tiếp:
    - Ngày hôm qua chúng tôi kín đáo đi theo con gái chúng tôi và biết nó đã vào đây thăm cậu. Từ lâu rồi chúng tôi để ý cứ đến Chủ Nhật là nó vắng mặt cả ngày, hỏi mãi nó cứ nói quanh co. Cho đến hôm qua chúng tôi mới biết rõ ngọn ngành. Lẽ ra chúng tôi đã vào gặp cậu và con gái chúng tôi ngay lúc đó, nhưng vì phép lịch sự không làm kinh động nơi này nên chúng tôi đã tế nhị ra về. Hôm nay chúng tôi đến đây gặp cậu để yêu cầu cậu thông cảm và xa lánh con gái chúng tôi. Nó còn nhỏ lắm, hãy để yên cho nó học hành.
    - Thưa bác, Hiền đến đây thăm cháu chỉ vì lòng nhân đạo thôi chứ không vì lý do gì khác - tôi ngạc nhiên đáp lại. Giữa cháu và Hiền đâu có chuyện gì xảy ra.

    - Cậu thì nói như vậy chứ ngày hôm qua khi con gái chúng tôi về đến nhà, chúng tôi gạn hỏi thì nó thú nhận rằng nó đã thương cậu và xin chúng tôi rộng lòng thương cảm.

    Nghe câu này, tôi như bị sét đánh ngang tai. Tôi ngẩn ngơ, bàng hoàng, tâm thần bấn loạn. Sau một hồi im lặng, tôi run run nói:
    - Thưa hai bác, một ngày gần đây cháu sẽ xuất viện. Cháu xin hứa với hai bác là khi rời khỏi nơi đây suốt đời cháu sẽ không bao giờ gặp lại Hiền nữa. Vả lại cháu là người biết tự trọng, với tấm thân tàn phế này cháu cũng biết là không xứng đáng với Hiền đâu. Xin hai bác cứ an tâm.

    Nói xong câu đó tôi nhìn thấy gương mặt của hai ông bà lộ vẻ mừng rỡ. Sau đó hai ông bà hỏi thăm tôi về ngày giờ và lý do bị thương tật, gia đình tôi phản ứng như thế nào rồi vui vẻ từ giả ra về.

    Chủ Nhật tuần sau, cũng là Chủ Nhật cuối cùng, Hiền đến phòng tôi như thường lệ, nét mặt đượm buồn, bước chân nặng nề, dáng đi chậm chạp. Hiền gượng gạo mở nắp gà men mời tôi ăn. Tôi ngốn nghiếng ăn hết cả cơm và thức ăn không nói lời nào. Thấy tôi ăn gần xong, Hiền vội nói:
    - Lần này anh ăn hết gà men cơm như vậy tức là anh sắp bình phục rồi đó, Hiền mừng lắm.
    - Tôi cố ăn cho hết để rồi...

    Tôi giả bộ như đang nuốt cơm để ngưng nói tiếp, dò xét. Sau cùng tôi quyết định hỏi thêm:
    - Hiền ơi, hai đứa mình đã quen biết nhau hơn nửa năm rồi. Ngoài tình bạn ra, Hiền có nghĩ gì khác hơn không?

    Hiền cúi đầu, nét mặt trở nên buồn bã, mắt nhìn xa xăm. Một lúc sau, thay vì trả lời Hiền vân vê tà áo, đọc hai câu thơ:
    - "Y dài lối rẽ chia ba, sóng nước trào dâng rất đậm đà".

    Tôi lúng túng không biết trả lời sao cho hợp ý câu thơ. Ý của Hiền muốn nói trong vế đầu là khi đến thăm tôi Hiền phải đi qua cầu Chữ Y, cầu Chữ Y rất dài và có ba ngã rẽ. Còn vế sau "sóng nước trào dâng rất đậm đà" thì tôi bí. Thật ra tôi cũng đoán là tình cảm của Hiền dành cho tôi rào rạc giống như sóng nước nhưng vì đã hứa với bố mẹ của Hiền, tôi phải giữ lời. Tôi làm bộ như không hiểu:
    - Tôi không biết làm thơ. Vậy tôi đối lại bằng hai câu thơ mà tôi đã học lóm được không?
    - Anh cứ đối lại đi, nhưng phải phù hợp với ý của Hiền.
    - "Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở, tình mất vui khi đã vẹn câu thề".

    Nghe xong Hiền vội vã từ giã ra về, những giọt nước mắt chảy dài trên má.

    Tôi gọi Hiền lại và xin mượn cái gà men, tôi giả vờ nói khi tối đến tôi hay đói bụng và sẽ nhờ anh em ra ngoài mua thức ăn giùm. Thật ra cái gà men này đối với tôi có một giá trị khác. Nó đã đến với tôi hơn nửa năm trời. Tôi giấu Hiền là ba hôm nữa là tôi sẽ xuất viện, tôi muốn đem cái gà men đó theo tôi suốt đời. Đối với tôi nó không những là một vật dụng thiết thân mà còn là một kỷ vật "thủy chung". Những khi buồn bã tôi sẽ mang nó ra nhìn, tôi muốn nó sẽ là người bạn đồng hành tri kỷ nhất suốt cuộc đời còn lại của tôi.

    Ba ngày sau, một ngày thứ tư, tôi ra Hội Đồng Miễn Dịch để được cấp giấy chứng thương rồi sau đó đến Bộ Cựu Chiến Binh làm thủ tục ra trại an dưỡng Vũng Tàu. Trở về trại thu xếp đồ đạc và từ giã anh em. Ra khỏi cửa, tôi quyến luyến quay đầu nhìn lại lần cuối căn phòng đầy kỷ niệm đẹp.

    Tôi được xe Quân Y Viện đưa ra thẳng trại An Dưỡng Vũng Tàu. Tại đây, mỗi buổi chiều tôi thường lăn xe ra bãi biển ngắm nhìn mây nước quên đi những tháng ngày buồn. Cảnh vật thật đẹp và bình yên. Xa xa là những cánh buồm thấp thoáng giữa biển trời bao la, tôi chỉ là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên rộng lớn. Tôi thích nhìn những con dã tràng xe cát. Cuộc đời của chúng thật là phù du, tổ ấm vừa xây xong sóng biển liền phủ lấp. Cuộc đời của tôi không khác gì chúng, một hy vọng vừa lóe lên liền bị thực tại dập tắt. Nhiều du khách tò mò hỏi sao tôi cứ mãi nhìn những con vật đó, tôi làm bộ ú ớ ra dấu bảo họ để tôi yên. Người ta tưởng tôi điên. Thật ra tôi quá chán đời, không muốn trò chuyện với ai.

    *****

    Một năm trời đã trôi qua. Cuộc đời của tôi không có gì thay đổi. Người ta gắn cho tôi chân gỗ để tập đi, nhưng tôi không tha thiết lắm. Thân hình dị hợm, đời tôi nát tan. Mỗi buổi chiều tôi vẫn thường ra bãi biển ngắm nhìn mây nước và những con dã tràng xe cát Biển Đông. Cảnh vật thật đẹp...

    Tôi nhớ Hiền, nói chuyện với Hiền và mơ thấy Hiền. Nhớ quay quắc. Chiếc gà men không giúp tôi vơi bớt nỗi sầu, nhưng tôi vẫn thích ôm nó vào lòng, để tìm về khung trời kỷ niệm rồi ngủ thiếp. Tôi chỉ thức giấc và vội vã lăn xe về phòng khi tiếng đại thần chung từ các chùa trên núi vọng về. Nỗi buồn bã nhớ thương cứ tăng theo năm tháng. Đôi lúc nghe chim kêu gọi bạn, lòng thật tủi hổ. Tôi cứ lặp đi lặp lại điệp khúc "nhớ Hiền, nói chuyện với Hiền và mơ thấy Hiền".... lòng đầy phiền muộn.

    Cứ đến mỗi ba tháng tôi đón xe về Sài Gòn lãnh tiền trợ cấp. Đây là lần thứ tư tôi về lại. Thường thì tôi dậy thật sớm để đón chuyến xe đầu tiên về Sài Gòn và đến ngân khố đường Trương Minh Giảng khoảng 8 giờ sáng. Lãnh tiền xong khoảng 10 giờ thì tôi đón xích lô ra chợ mua vài món đồ cần thiết cho tôi và cho bạn bè rồi ra bến xe về lại Vũng Tàu. Nhưng hôm nay đi gần tới Long Thành thì xe đò bị hư máy, phải đến gần trưa tôi mới đến được. Vừa bước xuống xích lô, tôi giật mình thấy Hiền đứng dựa lưng trước cửa cổng nhìn tôi chăm chăm. Tôi giả bộ như không quen biết, cúi đầu chống nạng vào. Tôi tin rằng Hiền sẽ không nhận ra tôi sau một năm trời xa cách. Da tôi xạm màu nắng cháy, thân hình tôi có mập hơn xưa, thêm vào đó tôi có để cặp ria mép.
    - Anh! - Hiền khẽ gọi.

    Biết không tránh được, tôi cố dằng xúc động, nhìn Hiền không chớp mắt.
    - Có phải là anh đó không? - Hiền tiếp tục hỏi khẽ, giọng xa xăm. Đây là sự thật hay trong mơ, anh là ảo ảnh hay là hiện thực?

    Tôi giả bộ cúi xuống sửa lại ống quần, dựng lại chiếc nạng cho ngay ngắn, rồi thốt lên một câu vô duyên:
    - Hiền mạnh khỏe chứ?

    Hiền lặng người nhìn tôi một lúc, nắm chặt lấy tay tôi, rồi dìu tôi vào cổng. Suốt đoạn đường ngắn ngủi, Hiền hỏi dồn về tôi, về cuộc sống của tôi. Tôi làm như vẻ lì đời, tỉnh bơ nói:
    - Tôi vẫn bình thường. Mình nên tìm chỗ để ngồi nói chuyện cho thoải mái hơn.

    Hai chúng tôi tìm được một chỗ khá yên tịnh giữa những tiếng ồn ào của những người vào lãnh tiền.
    - Hiền vẫn đi học bình thường chứ?
    - Hiền đã nghỉ học từ ngày anh ra đi.
    - Thôi dù sao thì chuyện cũ cũng qua rồi, quên nó thì hay hơn. Tôi cũng thành thật xin Hiền tha lỗi, tôi đã hứa với bố mẹ Hiền là khi rời khỏi bệnh viện tôi sẽ suốt đời không gặp lại Hiền nữa.
    - Hiền đã biết chuyện đó rồi và cũng chính vì vậy đã bỏ học đi tìm anh từ hơn một năm nay. Hiện giờ anh ở đâu?
    - Là cánh chim giang hồ, nay đây mai đó, nơi nào cũng ở được - tôi đánh trống lãng vì không muốn để lộ nơi đang an dưỡng.
    - Hỏi cho vui vậy thôi. Anh ở đâu Hiền cũng không cần biết. Chỉ biết anh còn sống, khỏe mạnh là Hiền vui rồi.

    Nói chuyện suốt hai giờ liền, chúng tôi quên cả thời gian. Sực nhớ mình đến đây để lãnh tiền, tôi vội vàng đến ghi sê nạp sổ nhưng quá trễ. Nhân viên giữ quầy cho biết:
    - Ở đây chỉ thu sổ buổi sáng mà thôi. Sáng mai mời anh đến lại.

    Tôi cự nự vài câu rồi ra nói lại với Hiền.
    - Hôm nay trễ rồi. Hiền về đi, sáng mai anh trở lại nộp sổ.
    - Anh cho Hiền xem quyển sổ coi, anh lãnh bao nhiêu tiền trong ba tháng.

    Tôi hơi ngạc nhiên nhưng cũng đưa cho Hiền coi. Xem xong Hiền xếp lại và nói:
    - Anh đã về đây ba lần rồi nhưng sao Hiền không gặp? Thôi, để quyển sổ này cho Hiền giữ. Tám giờ sáng mai Hiền sẽ đến sớm nộp cho anh.

    Không hiểu sao tôi lại đưa cho Hiền giữ quyển sổ cấp dưỡng rồi chia tay. Tôi đón xe lên Tổng Y Viện Cộng Hòa thăm một vài anh em và ngủ lại đó. Đúng tám giờ, Hiền đến và đưa tôi quyển sổ để nạp lãnh tiền. Sau đó hai chúng tôi ra ngoài cổng ăn sáng. Ăn xong tôi gọi xe xích lô và từ giã Hiền. Anh xích lô hỏi:
    - Anh đi đâu?
    - Cứ chạy đi, tôi sẻ chỉ đường sau.

    Hiền bụm miệng đứng cười. Hiền biết tôi muốn giấu nơi ở và tôi cũng ngây thơ không nghĩ rằng Hiền sẽ đạp xe chạy theo. Tôi nói anh đạp xích lô chạy về hướng bến xe Vũng Tàu. Xuống xe, tôi lật đật mua vé và lên xe đò đi ngay về Vũng Tàu. Trên suốt đường về, lòng vẫn còn xúc động. Tôi chẳng nhớ mình đã làm gì sau đó. Đang nghỉ ngơi suy tưởng lại chuyện vừa xảy ra, vào khoảng giữa chiều anh gác dan chạy vào nói tôi có người nhà đến thăm. "Ủa, tôi có cho gia đình hay biết chỗ này đâu mà đến thăm", tôi thầm hỏi. Chưa kịp thắc mắc xong, Hiền đã xuất hiện ngay trước phòng tôi. Nét mặt rạng rỡ, đôi mắt tò mò. Căn phòng của tôi tự nhiên quá hẹp để đón nhận hạnh phúc này.
    - Hiền xuất hiện như một bóng ma làm tôi sợ quá nên chưa kịp ra đón - tôi nhìn Hiền nụ cười toe toét trên môi.
    - Rất đúng. Hiền sống như một bóng ma từ khi vắng anh. Tìm anh mãi đến bây giờ mới bắt được.

    Tôi chỉ biết mỉm cười, nhìn Hiền chăm chăm lòng vui khó tả.
    - Cánh chim giang hồ làm tổ nơi đây à? - không chờ tôi trả lời, Hiền nghiêm nét mặt hỏi sang chuyện khác. Ơ? đây có câu lạc bộ không anh?

    Tưởng Hiền khát nước hay đói bụng, tôi xăng xít chỉ qua bên kia đường. Hiền liền bước sang mua về hai ly sữa tươi, đặt lên bàn nói:
    - Anh uống đi cho khỏe rồi Hiền nói chuyện này cho anh nghe - nét mặt Hiền khẩn trương.
    - Chuyện gì vậy?

    Hiền liền thọc tay vào túi quần lấy ra hai típ thuốc ngủ.
    - Đây Hiền một típ, anh một típ. Anh không uống thì Hiền sẽ uống một mình.

    Nói xong, Hiền đặt một típ lên bàn đẩy về phía tôi. Tôi chưa kịp phản ứng gì thì Hiền mở nắp đổ nguyên típ thuốc ngủ kia lên bàn tay rồi tay kia cầm ly sửa đưa lên miệng. Tôi kinh hoảng phóng mình tới đánh mạnh vào tay Hiền, những viên thuốc ngủ màu trắng văng tứ tung xuống nền gạch. Hiền bực mình dằn mạnh ly sửa xuống, gục mặt trên bàn khóc rấm rức. Tôi vội vàng ngồi xuống lượm từng viên thuốc trắng bỏ vào típ, đây nắp cẩn thận rồi đem cả hai cất vào tủ khóa lại kỹ lưỡng. Tôi nói:
    - Trên đời này tôi không thích bị làm áp lực, tôi là con người biết giữ tự trọng. Lần thứ nhất, ngoài chiến trường tôi đã cắt bỏ khúc chân trái vì không muốn bị vướng bận và cũng không muốn kêu la khi đồng đội đang trực diện với kẻ thù. Trước khi xuất viện cũng vậy, tôi không muốn làm phiền gia đình của Hiền nên đã hứa với bố mẹ của Hiền không liên lạc nữa. Tôi chấp nhận chịu đau nhưng quyết không để thua cuộc, nhưng có lẽ hôm nay tôi không còn giữ nổi lời hứa đó. Hiền đã thắng, tôi đã thua.

    Nghe nói đến đây, Hiền nhìn tôi mỉm cười, quẹt nước mắt chạy đến ôm chầm lấy tôi. Tôi sung sướng ôm Hiền vào lòng và thay đổi luôn cách xưng hô:
    - Thôi em đừng nghĩ đến cái chết nữa. Cuộc đời này hãy còn quá đẹp để sống. Em nghe kìa, ngoài kia tiếng chim gọi bạn.

    Ngày trước anh cũng thầm gọi tên em như vậy nhưng không dám mơ ước gì hơn, chỉ biết buồn tủi cho thân phận. Hôm nay có em bên cạnh, anh mừng hết lớn.

    Hiền im lặng xiết chặt lấy thân tôi. Hai đứa ôm nhau một hồi lâu tôi mới giật mình lên tiếng:
    - À, Hiền nè, có một vấn đề hơi tế nhị là trại An Dưỡng này không cho phép phụ nữ vào thăm ở lại qua đêm. Trước đây có nhiều anh em dẫn về trại những phụ nữ không được tiếng tốt, từ đó trại hạn chế hẳn việc này. Bây giờ thì em cứ ở lại chơi với anh, khi tối đến anh sẽ dẫn em ra ngoài thuê phòng ở tạm.

    Hiền ngoan ngoãn gật đầu, nét mặt vui sướng. Chúng tôi vui vẻ nói chuyện với nhau thật lâu, nói về chuyện đời, nỗi nhớ mong, nỗi khổ cực và cả chuyện tương lai. Hiền vui vẻ ngồi trong vòng tay của tôi, âu yếm sờ hàm râu lởm chởm của tôi chưa cạo và chỉ biết gật gù. Tôi sung sướng được vuốt và ngửi mái tóc đen huyền của Hiền. Thân hình của Hiền tựa sát vào người tôi khiến tôi có những cảm giác rạo rực. Thời gian trôi qua nhanh quá, chúng tôi dường như không thể rời nhau được nữa. Tôi chợt thắc mắc:
    - Hiền ơi, em đi như thế này ở nhà bố mẹ em biết đâu mà tìm?
    - Anh hãy yên tâm, trước khi đi Hiền có về nhà viết thư để lại cho bố mẹ nói rằng Hiền đã gặp lại anh và cho biết sẽ đi theo anh nhưng chưa biết đi đâu, khi nào ổn định được chỗ ở em sẽ về cho bố mẹ biết.

    - May quá, hiện nay chính phủ đang có chương trình cấp phát nhà ở cho thương phế binh. Anh tưởng mình sẽ ở vậy suốt cuộc đời nên không làm đơn, nay có em đây thì anh sẽ làm. Cũng báo cho em biết để mừng là chính phủ dành ưu tiên cho những người đang còn ở trong những trại an dưỡng như anh. Ngày mai anh sẽ làm đơn, khi được chấp thuận mình sẽ về đó ở thoải mái hơn.

    Cuộc tình đầy gian nan và thử thách đến đây kết thúc. Một tương lai tươi đẹp mở ra, cho tôi và cho Hiền. Chúng tôi liên lạc với bố mẹ Hiền, hai ông bà lúc này cũng đã thay đổi, không những không chống việc Hiền dọn về ở với tôi trong một làng phế binh ở Thủ Đức mà còn giúp chúng tôi mua sắm những vật dụng cần thiết trong nhà, thỉnh thoảng hai ông bà còn đến thăm chúng tôi. Sau đó Hiền hối tôi phải liên lạc lại với gia đình, thông báo về hoàn cảnh thương tật và chuyện lập gia đình của tôi. Lúc đầu cha mẹ tôi khóc lóc thương tiếc cho thân phận tôi, sau thấy tôi có người vợ tận tình chăm sóc hai ông bà cũng yên lòng. Tôi chỉ tiếc là chưa báo hiếu được cha mẹ thì đã bị tàn tật.

    Ăn ở với nhau được vài năm, chúng tôi sinh được hai mụn con, đứa đầu lòng là một bé gái, đẹp và hiền như mẹ của nó. Con cái chúng tôi ngày ngày cắp sách đến trường, học và chơi với những bạn đồng trang lứa, sống thật vô tư. Cuộc sống của chúng tôi không giàu nhưng cũng không nghèo, tôi phụ giúp vợ tôi mua bán ngoài chợ. Chúng tôi sống trong hạnh phúc, tin tưởng vào một ngày mai sáng lạn.

    Ngoài đời cuộc chiến vẫn tiếp diễn. Tin tức chiến trường ngày càng bất lợi. Ban Mê Thuột thất thủ, Đà Nẵng bị bỏ rơi. Rồi Huế, Quảng Ngãi, Bình Định, Pleiku, Kontum, Tuy Hòa, Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết, Đà Lạt... Tôi bực mình vì mất khả năng chiến đấu, nếu không đã ra lại chiến trường cùng các bạn chiến binh bảo vệ đất nước thân yêu.

    Thế là hết. Quân cộng sản đã tiến vào thủ đô. Ngày 30-4-1975, đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh yêu cầu anh em binh sĩ buông súng. Tủi nhục, ôi thật tủi nhục. Làm sao rửa được mối nhục này. Đồng đội của tôi biết bao nhiêu người đã xiết cò tự sát. Một số khác quyết chiến đến cùng, chết bờ chết bụi không có thân nhân.

    Những ngày đầu dưới ách cộng sản, trời sầu đất thảm, mưa gió tơi bời. Tại một số nơi, dân chúng thiếu ăn kéo đến các kho dự trữ lấy gạo, nhiều người bị bắn chết xác nằm la liệt. Bất cứ hành động nào tình nghi đe dọa chính quyền mới đều bị tuyên án tử hình, nhiều án được thi hành vội vã ngay giữa đường phố hay bùng binh chợ.

    Có một lần tại chợ Bình Tây, dưới chân tượng ông Quách Đàm, người cán bộ đầu đội nón cối, chân đi dép râu trắng, dáng người ốm đói dẫn tử tội ra giữa đám đông cho dân chúng nhìn. Tử tội tay chân bị trói ngoặc, đi đứng khó khăn, mắt thì bịt kín, miệng dán băng keo, trước ngực đeo bản án. Tay phải người cán bộ cầm khẩu K54 đã lên đạn sẵn, tay trái béo lỗ tai tử tội lên phía trên, rồi dí nóng súng vào phía sau lỗ tai bóp cò. Một tiếng "chát" vang lên, người tử tội ngã xuống. Thân hình co quắp, giật giật mấy cái rồi nằm im, óc và máu phun ra từ phía lỗ hỗng bên kia màng tai. Chưa hết, người cán bộ còn kê súng vào màn tang tử tội bắn phát "ân huệ", đầu tử tội bật sang một bên, da và vài mảnh sọ bung lên, óc và máu tuôn ra ri rỉ. Dân chúng sợ hãi bỏ đi không dám nhìn lại. Một toán bộ đội từ trên một chiếc xe Molotova đậu sẵn nơi đó, nhảy xuống kéo xác tử tội quăng lên xe chở đi đâu mất.

    Trong thời Quân quản, không một chợ nào, bùng binh nào, ngã Năm ngã Sáu nào không xảy ra những cảnh máu chảy đầu rơi.

    *****

    Riêng về tập thể Thương phế Binh Việt Nam Cộng Hòa, sự trả thù của chế độ mới không kém phần ác độc. Tất cả các làng phế binh tại các tỉnh thành đều bị giải tán, gia đình phế binh bị đuổi khẩn cấp ra khỏi nhà, mỗi người chỉ có một bộ đồ che thân, không một vật dụng nào được mang theo dù là một cái chén. Tại Sài Gòn, ban quân quản ra khẩu lệnh cho chính quyền địa phương giải tỏa bốn làng phế binh. Riêng làng phế binh Thủ Đức, lớn nhất, có bốn ngàn gia đình đang sinh sống trong đó có gia đình tôi, tất cả phải dọn đi trong vòng một tháng. Những gia đình nào không chịu đăng ký đi về quê hay vùng kinh tế mới, đám du kích "30" đến làm áp lực buộc phải dọn đi, cuối cùng chỉ còn khoảng một phần mười gia đình ở lại. Đối với những người này, chính quyền địa phương dùng mọi thủ đoạn để xiết bao tử, không cho làm bất cứ điều gì để rồi đói quá cũng phải dọn đi. Chế độ cộng sản muốn tiêu diệt luôn cả những người đã từng đối địch với họ, dù cho thân thể có bị tàn phế.

    Lúc bấy giờ tôi chợt nhớ có một người bạn cùng đơn vị tên là Sum Ri, người Thượng, ở gần Tháp Chàm Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận. Tôi cùng đứa con gái lớn tên Diệu Hiền đón xe lên nhà anh Sum Ri nhờ giúp tìm một miếng đất để trồng khoai bắp sinh sống, tránh cảnh áp bức tại Sài Gòn. Tôi ở nhà anh một đêm, nghe ngóng tình hình. Sáng hôm sau, anh Sum Ri dẫn chúng tôi đến một địa điểm cỏ cây um tùm, anh nói:
    - Cách đây không xa có một cái đồn cũ của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đất ở đó tốt lắm.

    Tôi cùng con gái đi với anh Sum Ri tới đó. Chúng tôi thấy một cái đồn nhỏ nằm trên ngọn đồi cô quạnh, cỏ hoang mọc lấp cả lối đi. Sau một hồi vạch cỏ tìm đường, cuối cùng anh Sum Ri cũng dìu tôi lên tới đỉnh đồi. Đến nơi mới thấy mái đồn đã bị đổ sụp, tường vách đen ngòm rêu phong bám đầy. Các vách tường lỗ chỗ hghim đầy vết đạn, có lẽ đồn đã bị sụp trong những ngày cuối tháng 4-75. Anh Sum Ri chỉ vào nói:
    - Anh chỉ cần vào rừng đốn vài cây tre làm đòn dông thả ngang trên nóc rồi cắt cỏ tranh phơi khô lợp lại mái nhà là ở được rồi đó vì mấy vách tường còn nguyên vẹn.

    Tôi mừng quá tiến tới nhìn vào. Thật là khủng khiếp. Một cảnh tượng ghê rợn hiện ra. Tôi thấy trên nền đất rêu đen mấy cái đầu lâu trắng hếu, bên cạnh là những mẫu xương trắng lòi ra dưới lớp áo quần mục nát bị cỏ che khuất nhiều phần. Mùi ẩm mốc bốc lên nồng nặc. Tôi rùn mình lùi lại. Anh Sum Ri im lặng. Con gái tôi mặt trắng bệt, thân hình rung lẩy bẩy.
    Một hồi sau nó mới nói nên lời.
    - Về đi ba, con sợ quá!

    Bên ngoài bầu trời nắng ấm, người tôi cứ thấy lạnh. Chim rừng tiếp tục ca hát líu lo, tôi sao chỉ nghe toàn lời ai oán. Hai chúng tôi lịm người đứng im. Một lúc sau định thần trở lại, tôi chắp hai tay cầu nguyện: "Lạy Thượng đế, xin Ngài che chở cho những linh hồn này, những người chiến sĩ vô danh không ai hay biết này". Nhìn anh Sum Ri, tôi chán nản:
    - Đời là bễ khổ. Anh thấy không, những chiếc đầu lâu nằm ngổn ngang với lóng xương khô là hồn thiêng sông núi đó. Hận thù này bất diệt, bất khả tiêu. Thôi gặp Sum Ri lần này, tôi về lại Sài Gòn kể như mình vĩnh biệt. Cảm ơn Sum Ri đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi. Sống trong hang cọp, may rủi là định mệnh của con người không ai tránh khỏi, anh hãy cẩn thận.
    - Anh về rồi họ đuổi nhà, gia đình anh ở đâu?

    - Kể từ nay, đời tôi kể như bèo dạt mây trôi, sống ở đâu cũng được, không có nơi nào nhứt định. Nhưng tôi quyết ở lại Sài Gòn.

    Sau hai ngày đi tìm đất sống mới vô vọng, tôi cùng con gái đón xe về lại Sài Gòn. Đường dài và bụi bặm, con gái tôi dựa đầu nằm ngủ trên vai tôi. Nhìn cảnh vật hai bên đường, lòng tôi đau xót. Đất nước thật đẹp mà sao lại đào tạo ra một giống người độc ác, chỉ biết hung hăn giết hại đồng bào. Chúng tôi ngồi kế bên một bà cụ và anh bộ đội, cuộc đối thoại của hai người làm tôi chú ý.
    - Ở ngoài Bắc gọi là kiểm kê, tịch thu, còn trong Nam gọi bằng gì hở cụ? - anh bộ đội lễ phép hỏi.
    - Ở trong Nam gọi là ăn cướp - bà cụ không ngần ngại trả lời và còn nói tiếp:

    - Tao đã bỏ xứ chạy vào Nam mấy chục năm trời nhưng giờ đây lại gặp chúng mày nữa.
    - Không đâu cụ ạ - anh bộ đội thật thà giải thích. Chúng cháu cũng chỉ là nạn nhân của chế độ mà thôi. Chúng cháu mặc bộ đồ này cũng tủi nhục lắm cụ ạ. Trên đường số 1 tiến về Sài Gòn, bộ đội chúng cháu khi lỡ đường khát nước vào nhà dân xin nước uống, họ bảo chúng cháu đứng ngoài sân chờ họ đem nước ra chứ không cho vào nhà. Thưa cụ, chính vì thế chúng cháu mới biết chế độ này không được lòng nhân dân. Rồi khi vào Nam thì sự thực không đúng như người ta đã bảo với chúng cháu. Nơi đây không bị kềm kẹp và cũng không bị thiếu đói. Mọi người còn tỏ ra yêu thích "Mỹ Ngụy" và chê cười chúng cháu là quê mùa.

    Tôi đang buồn rã ruột nhưng khi nghe hai người đối thoại cũng phải phì cười. Về đến nhà, vợ con chạy ra mừng đón.
    - Thế nào, ở trên đó có thể sống được không? - vợ tôi hỏi.
    - Ghê lắm má ơi - con gái tôi vội cướp lời. Bác Sum Ri dẫn ba đến chỗ gì mà con thấy hàng chục cái sọ người nằm ngổn ngang dưới đất. Thà ở lại đây chết sướng hơn. Con không đi nữa đâu.

    - Thôi, mình cứ liều mạng ở lại đây - tôi an ủi vợ tôi. Bầu trời đã đen tối, đi đâu cũng chỉ là bóng tối mà thôi. Không làm gì có mặt trời ở giữa đêm. Nếu kẹt quá thì mình về lại nhà cha mẹ ăn nhờ ở đậu.

    Sau ba tháng cầm cự với những "hàng xóm" mới, toàn là bộ đội từ miền Bắc vào, gia đình chúng tôi cũng bị "mời" đi nơi khác. Cũng may lần này chúng tôi được mang theo tất cả đồ đạc. Cha mẹ của Hiền cũng tử tế, đã cho chúng tôi sang sẻ căn nhà chật hẹp trong một hẻm nhỏ ở đường Dương Bá Trạc, quận 6. Hiền sáng sớm ra chợ Rạch Ông buôn bán với mẹ già, còn tôi học thêm nghề vá bánh xe đạp và xe gắn máy, con cái chúng tôi cũng được cho ghi tên đi học lại.

    Tháng ngày lại lặng lẽ trôi qua. Trên vùng kinh tế mới cuộc sống thiếu thốn trăm bề, dân chúng thiếu ăn, trẻ con không có trường học, bệnh tật không có thuốc chữa, mạng người như cỏ rác. Những người sống sót, không chịu đựng nổi cảnh rừng sâu nước độc và thiếu đói, đã lần lượt mò về thành phố. Mất nhà mất cửa, họ làm những túp liều tranh vách giấy sống tạm trong các nghĩa địa chung quanh thành phố và vùng ngoại ô, đời sống thật là lầm than. Trẻ em chực chờ ở các quán cơm xin thức ăn thừa, chút canh cặn khi khách vừa đi. Nhiều em đã bị "quản lý" chợ đánh đập tàn nhẫn, các em van khóc: "Bác ơi, đừng đánh tụi con nữa. Tụi con đói quá". Cha của các em phần lớn là thương phế binh còn khốn khổ hơn nhiều, thân xác đã mỏi mòn, tinh thần còn bị tủi nhục. Sống kiếp ăn xin, nào ai có hãnh diện gì.

    Nhìn hoàn cảnh sinh sống của anh em phế binh tôi như người mất trí, đầu óc rối loạn. Cũng may nhờ có Hiền luôn ở bên cạnh giúp đỡ, an ủi.
    - Mỗi ngày ra chợ buôn bán, em thấy đời sống anh em phế binh khổ sở quá. Anh thử nghiên cứu, suy nghĩ tìm ra một giải pháp nào có thể giúp anh em phế binh thoát cảnh sống lầm than, không phải đi ăn xin và sống trong danh dự xem. Em nghĩ nếu mọi người cùng suy nghĩ và tìm ra được giải pháp thì đó cũng là một cách đền bù sự hy sinh không riêng gì cho cá nhân anh mà còn cho cả tập thể phế binh.
    - Trời ơi, đầu óc anh đang cơn điên loạn, còn tỉnh táo gì đâu mà nghiên với cứu.

    - Thôi, anh đừng quá bi quan, dầu sao thì cũng còn có em đây. Em có sáng kiến này không biết có làm anh vừa lòng và có mang lại kết quả nào không. Em nhận thấy từ ngày thay đổi chế độ, dân chúng trở nên sùng đạo, không nhà nào không dùng nhang đèn cho những nhu cầu thường ngày. Nhiều người quá chán cuộc sống đi chùa, đi miếu và đi tu rất nhiều. Thờ cúng thì phải đốt nhang. Số lượng nhang đèn tiêu thụ rất là lớn, do đó phải có nơi sản xuất. Hiện nay, theo chỗ em biết, chỉ có các chùa mới làm nhang đèn. Vậy anh thử đi dò hỏi xem chùa nào sản xuất nhang, đến thương lượng với các thầy mua lại nhang đèn với giá sỉ rồi đem về đưa anh em phế binh đi bán lại thử xem. Em và mẹ em sẵn sàng xuất vốn trước anh em chỉ cần trả lại vốn, còn tiền lời để họ chi tiêu cho gia đình. Được như vậy, cuộc sống của anh em phế binh chúng ta bớt phần nhục nhã.

    Trời ơi! Vợ tôi, cô Nguyễn Thị Hiền này, thật là có lý. Ngày hôm sau, tôi chống nạng lộc cộc tìm đến các chùa sản xuất nhang, mua thử một ít về giao lại cho những anh em phế binh gần nơi cư ngụ mang đi bán. Cũng may số lượng nhang mang đi bán không nặng lắm nên anh em có thể mang đi xa để bán. Kết quả không ngờ, thành công tuyệt đối. Tôi cùng một vài anh em khác đi đến các chùa thương lượng các nhà sư bán nhang thiếu đem về cho anh em phế binh đi bán dạo kiếm sống.

    Kể từ đó phong trào phế binh đi bán nhang tại thành phố Sài Gòn trở nên rầm rộ. Tôi rủ một vài anh em đi xuống các tỉnh bán, tại đây chúng tôi gặp một số anh em phế binh cũng đang sống kiếp ăn xin. Chúng tôi họp lại và phổ biến ý kiến đi mua nhang ở các chùa về bán lại, anh em phế binh tại những nơi này hoan nghênh nhiệt liệt. Cũng nhờ đi bán nhang anh em chúng tôi cảm thấy cuộc sống đỡ tủi nhục và tấm lòng của nhân dân. Tưởng đã bị đời từ lâu quên lãng, nhưng không. Bà con cô bác không những mua nhang đèn cho nhu cầu thường ngày mà còn khuyến khích, ủng hộ tinh thần chịu khó của anh em. Sự trao đổi giữa người và người trở nên bình đẳng.

    *****

    Công việc tiến hành đều đặn, chỉ những anh em phế binh nào quá khó khăn mới tiếp tục ăn xin. Tôi muốn nhân dịp tìm hiểu thêm dân tình. Tôi thử trắc nghiệm hai nơi nổi tiếng là thành trì của "cách mạng", một là Bến Tre, "quê hương đồng khởi", và Củ Chi, "thành đồng đất thép".

    Năm 1990, tôi rủ năm anh em đi xuống tỉnh Bến Tre bán nhang. Riêng tôi thì giả mặc quần áo bộ đội, đầu độ nón cối, hai khúc chân gỗ cho mang dép râu, lưng đeo bị nhang, chống nạng đi trước. Bốn anh em kia thì mặc đồ Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến lục tục đi sau. Tôi đi từ sáng đến trưa mà chẳng bán được một thẻ nào hết, nhà nào tôi vào mời cũng lắc đầu từ chối và còn nhìn tôi với ánh mắt khó chịu như muốn xua đuổi. Tôi có cảm tưởng dân chúng tại "quê hương đồng khởi" này trở nên vô thần, không ai nghĩ đến chuyện thờ cúng. Buổi chiều họp nhau lại kiểm điểm thành tích, tôi mới thấy mình sai: chỉ có tôi chẳng bán được thẻ nhang nào, còn bốn anh em kia được dân chúng rủ nhau mua hết.

    Lần thứ hai, tôi hướng dẫn năm anh em khác đi xuống bán nhang tại Củ Chi. Tôi cũng mặc lại bộ đồ bộ đội đi trước. Năm anh em kia mặc đồ các binh chủng cũ đi sau, mỗi người đi một nẻo. Tôi đi từ sáng đến trưa, nói khan cả cổ chỉ bán được bốn thẻ nhang. Đến một gốc cây trước căn nhà lợp ngói cổ, tôi ngồi xuống nghỉ mệt vì không còn đủ sức để đi tiếp. Một ông cũ khoảng 80 hoặc 90 tuổi từ bên trong chống gậy đi ra, nhìn tôi từ đầu đến chân rồi cất tiếng hỏi:
    - Câu là thương binh mà cũng đi bán nhang nữa à?
    - Dạ để phụ giúp thêm cho gia đình nên con phải đi bán.

    Thấy mặt tôi nhễ nhại mồ hôi, ông cụ mời:
    - Mời cậu vào nhà uống nước.

    Ông cụ đi trước, tôi ngồi dậy chống nạng theo sau. Vào nhà ông cụ chỉ cho tôi một ghế ngồi rồi hỏi:
    - Chắc cậu cũng đi kháng chiến lâu năm rồi phải không?
    - Dạ cũng hơi lâu lâu - tôi ngập ngừng.

    Ông cụ chỉ tay lên bàn thờ và nói:
    - Con tôi cũng đi như cậu, bây giờ nó đã lên bàn thờ kia ngồi từ Tết Mậu Thân.

    Thấy tôi không góp ý gì thêm, ông cụ nhìn tôi quan sát:
    - Cậu đi từ bao lâu mà túi nhang còn nguyên vậy, chưa bán được gì sao?
    - Thưa cụ, con đi bán từ sáng sớm nhưng mời không ai mua.

    - Nếu không ai mua thì tôi chỉ cho cậu một chỗ này đến đó thì bán hết liền.
    - Bán ở đâu vậy cụ, nhờ cụ chỉ giùm - tôi mừng rỡ hỏi.

    Ông cụ đột nhiên trở giọng, nhìn tôi trừng trừng quát lên:
    - Mày đem ra gò mả mà bán, cứ một cái mả mày đốt một bó nhang rồi cặm xuống đó. Nếu họ mua chịu, bao giờ mày chết xuống dưới âm phủ họ sẽ trả cho. Tổ mẹ tụi mày. Cái thứ quân ăn cướp như mày mà cũng đi bán nhang, tao đã nuôi tụi mày hết nửa đời người, con tao chết không thằng nào nhớ tới, thân tao già không thằng nào hỏi thăm. Quân cách mạng như tụi mày là đồ vô ơn bạc nghĩa. Đúng là dưỡng hổ di họa.

    Ông già đứng dậy, quăng cái ly xuống nền gạch bể tan, chỉ vào tôi thét lên:
    - Đi! Đi ra khỏi nhà tao ngay lập tức.

    Sợ quá, tôi quơ cặp nạng khập khiểng đứng dậy lùi ra phía cửa. Ra khỏi nhà, tôi đi một mạch tới một gốc cây khác thở mệt nhọc. Thật là buồn. Những người đã hy sinh trong chiến đấu, dù ở bên này hay bên kia chiến tuyến đều bị những cấp lãnh đạo của họ bỏ rơi.

    Tôi không trách cụ già đã chửi tôi, người cha nào mất con mà không đau đớn. Tội nghiệp cho những người đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua, trong đó có anh em chúng tôi và cả những người bên kia. Anh em chúng tôi thì không nói gì, miền Nam thua trận không ai chăm sóc chúng tôi thì còn giải thích được. Còn phe thắng trận thì không hiểu nổi. Chiếm xong miền Nam họ có dư quyền lực và tiền của để chăm sóc những gia đình "cách mạng" đã vì họ hy sinh, nhưng tất cả đều bị bỏ rơi. Điều này cho thấy sự giả dối của người cộng sản, chỉ những ai đã từng nghe theo sự tuyên truyền của phe cộng sản mới thấm thía sự lường gạt này. Tự nhiên tôi cảm thấy không có gì quan trọng trên đời này cả, tất cả chỉ là sự lường gạt. Lường gạt tình cảm và lường gạt cả mạng sống của người dân. Tôi và những bạn bè phế binh què cụt đang lang thang trên các đường phố bán nhang hay ăn xin trên các vỉa hè kia đều là nạn nhân của sự lường gạt đó.

    Chán quá, tôi lột bỏ bộ đồ "ác ôn" kia ra và bỏ luôn bị nhang lại gốc cây, thay bộ quần áo dân sự rồi đi ra bến xe chờ "đồng đội". Ra tới bến xe khí trời trở nên nóng gắt, tôi cởi phăng những nút áo cho dễ thở, mặt đỏ gay, mồ hôi thấm ướt cả áo quần. Các anh em khác từ đằng xa tiến tới, người thì chống nạn, kẻ đi cà nhắc, cười nói huyên thuyên, nhìn họ tôi mỉm cười. Trong khốn khó, người ta dễ có những niềm vui thật bình thường như sung sướng được hít một không khí trong lành, uống một ly nước đá lạnh hay bán được một thẻ nhang. Đời lính tráng nhiều lúc cũng thật vô tư. Tất cả nhìn tôi cười toe toét:
    - Bang chủ cái bang hôm nay bán hết sớm quá há. Ua, cái bị nhang của bang chủ đâu rồi, bộ bán luôn rồi hả?
    - Bán cái con mẹ gì. Đ... mẹ, đi mệt đờ người, vừa ngồi nghỉ tạm dưới gốc cây thì một già mời vô uống nước. Tao tưởng trúng số. Nào ngờ gặp trúng ông già ó đâm, ổng tưởng tao là Việt cộng nên chửi cho tao một trận, đuổi ra khỏi cửa. Buồn quá nên tao bỏ hết đi mình không ra đây.

    - Ổng chửi Việt cộng chứ có chửi anh đâu mà buồn.
    - Biết rồi, nhưng kẹt một cái là tao không giải thích được thì kể như ổng đã chửi tao. Ổng có thằng con theo Việt cộng bị chết năm Tết Mậu Thân, ổng tức vì thằng đó chết cho Việt cộng mà khi chiem quyền xong không thằng Việt cộng nào mò tới thăm gia đình ổng. Thằng con bây giờ ngồi trên bàn thờ, hương tàn khói lạnh. Nói thì nói vậy thôi, cuộc thử nghiệm này như vậy là thành công, có thử lửa mới biết vàng thau. Chế độ này trước sau gì cũng tàn, mình ráng sống để mà xem chính nội bộ tụi nó sẽ tự làm thịt lẫn nhau cho mà coi. Thôi anh em mình về lại Sài Gòn.

    *****

    Hơn tám ngàn ngày đã trôi qua, chúng tôi sống lê thê theo ngày tháng, lê bước chân trên khắp nẻo đường của đất nước, từ cố đô Huế cho đến tận mũi Cà Mau. Tôi thường đi bán ở những vùng duyên hải, với hy vọng có dịp nào đó "tìm đường" thoát thân. Có một lần đi ra mũi Né, khi xe đến eo biển thì dừng lại, nơi đây "lầu của nhà thơ Hàn Mạc Tử". Nhớ lại câu chuyện trao đổi với Hiền, người nữ sinh Gia Long cách đây hơn hai mươi năm, tôi quyết định ở tạm lại đây một buổi chiều.

    Khoảng ba giờ chiều, trời mưa lất phất. Tôi bước vào quán cơm, ăn vội vã một món gì đó rồi đi vào núi ông Hoàng. Tôi muốn lên đó xem cảnh vật nhưng cụt hai chân thì làm sao leo núi. Ngồi suy nghĩ một lát, tôi đã có cách, phải lột hai chân giả ra rồi từ từ bò lên. Phải mất hai giờ tôi bò đến nơi, mồ hôi ướt đẫm. Nằm trên một bệ đá bên đường nghỉ một lát, tôi từ từ hồi sức, gắn lại chân giả và chống nạng đi về phía lầu ông Hoàng. Cảnh vật nơi đây xinh đẹp, cỏ cây hoa lá đủ màu đủ sắc.

    Từ lầu ông Hoàng, tôi nhìn ra bãi biển, nhìn về phía xa xăm và không nghĩ được gì. Lạ thật, có những lúc cần phải mơ mông, tôi không thể mơ. Tôi cố hình dung cuộc sống tốt đẹp tại nơi xứ người nhưng đầu óc mù tối, chỉ thấy trời xanh mây nước chập chờn, chỉ nghe tiếng sóng vập vờ trên bãi cát. Tôi chỉ biết mỗi một điều là bên kia bờ đại dương, người ta được sống trong tự do, bình đẳng và tình người, còn bên này là địa ngục trần gian, ít ra là đối với tôi. Đời tôi không có lối thoát, gia đình và con cái tôi không có ngày mai.

    Tôi tự an ủi nhủ thầm có lẽ ngày xưa Hàn Mặc Tử cũng ra đây nhìn trời nhìn nước như tôi, ông có cái tài làm thơ, còn tôi chẳng có gì hết. Cả hai chúng tôi đều tật nguyền, nhưng tôi còn có vợ con, bạn bè bên cạnh, yêu thương và chia sẻ với tôi nỗi bất hạnh, còn ông thì sống cô đơn một mình, bị đời hắt hủi. Chính vì bị đời hắt hủi ông mới làm được những áng thơ hay, đóng góp cho văn học nước nhà. Đêm nay bầu trời lại có trăng, tôi nhớ lõm bõm vài câu thơ: "Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu, đợi gió đồng về để lã lơi..." hay "Không gian dầy dặc toàn trăng cả, tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng, mỗi ảnh mỗi hình thêm phiếu diểu, nàng xa xôi quá nói nghe chăng?".

    Trăng của Hàn Mạc Tử là trăng thơ mộng, trăng của tôi ngày nay u ám, trăng không còn sáng vì đám mây "hồng" che khuất, che phủ cả đời tôi, che kín tương lai con cái chúng tôi. Tôi vô vọng như ông đã tuyệt vọng. Ngày xưa Hàn Mạc Tử rao bán trăng, ngày nay tôi rao bán nhang. Trăng của ông chẳng ai mua, nhang của tôi cũng không bán được. Một phút yếu lòng, tôi định gieo mình xuống núi, muốn được chết để không còn phải khổ. Hình ảnh của Hiền và đàn con hiện ra, tất cả nhìn tôi âu yếm, không nói gì. Một hơi ấm chợt dâng trong tôi, tôi cúi đầu hổ thẹn. Hàn Mạc Tử chỉ có một mình mà vẫn sống, vẫn làm thơ, còn tôi có cả một gia đình yêu thương, đùm bọc, tại sao lại muốn chết? Không, tôi phải sống. Sống để nhìn sự biến chuyển của thời cuộc. Mệt quá, tôi ngủ thiếp đi và thức dậy trong nắng ấm và tiếng chim ca.

    Sáng hôm sau tôi lần về phía chợ mũi Né bán hết những thẻ nhang trên vai và đón xe về Sài Gòn. Nằm nhà dưỡng sức một tuần, tôi tiếp tục vác bị đi về miền Tây bán nhang. Bắc Mỹ Thuận lúc nào cũng tấp nập người đi, đò qua sông Tiền Giang ngày đêm không ngừng nghỉ. Nơi đây trước kia cũng là địa bàn hoạt động của phe cộng sản, biết bao gia đình đã theo họ chống lại chính quyền miền Nam, giờ đây cũng đang khổ cực kiếm cơm kiếm áo như chúng tôi.

    Ngày xưa người ta theo phe cộng sản chỉ vì ước mong xây dựng một chế độ đẹp hơn cái họ đang sống, nhưng tất cả đều lầm. Xã hội ngày nay là một xã hội không có tự do, nó là chế độ độc tài cộng sản. Hitler đã từng nói với Goebels, Bộ Trưởng Thông Tin, nói mãi một điều sai thì nó sẽ thành sự thật. Cộng sản nói mãi về cái xấu xã hội miền Nam, riết rồi nhân dân cũng tin và nghe theo họ. Khi biết rõ sự thật thì tất cả đều đã muộn.

    Càng xuống đến miền tận cùng đất nước, mũi Cà Mau, đời sống càng cùng cực hơn. Nơi đây trước kia là chiến khu cộng sản, giờ đây cũng không thoát đai nạn, thậm chí còn nghèo khổ hơn những nơi khác. Bán nhang ở đây thật khó, không phải người dân không muốn mua nhưng vì không có tiền để mua. Ưu tư của họ là được sống sót qua cơn khó này, họ không còn trông mong gì nơi chính quyền này cả. Bán không được gì và muỗi nhiều quá, tôi ra đón xe về lại Sài Gòn. Tôi dừng lại ở chợ Mỹ Tho bán cho hết các thẻ nhang mới đón xe trở về. Đến thành phố trời đã 10 giờ tối, không còn xe về nhà nên tôi ngủ lại tại bến xe Chợ Lớn.

    Đêm hôm đó là đêm kinh hoàng. Khoảng một giờ khuya, công an ùa vào bến xe bắt khoảng 350 người. Họ không cần hỏi giấy tờ gì cả, cứ thấy người ngủ bờ ngủ bụi là bắt. Thanh niên và phụ nữ sau đó bị đưa về trại giam Bố Lá lao động, người già cả và tàn tật thì đưa về "nhà nuôi Thị Nghè". Trong số đó có hai người vợ của phế binh mới chết nên phải vào bến xe làm nghề giác hơi cho khách để kiếm tiền nuôi con. Hai chị quả phụ này, người thứ nhất có ba đứa con nhỏ, có đứa mới sanh được hai tháng, hai đứa còn lại mới 7 và 8 tuổi; chị thứ hai cũng có hai đứa con, một đứa 9 tuổi đứa kia 10. Công an bảo hai chị phải giao mấy đứa con cho "nhà nước" nuôi còn hai chị phải đi lao động, hai chị này nhất định không giao, cố ẵm con giữ chặt vào lòng. Toán công an nhào tới gỡ tay hai chị ra, giựt mấy đứa nhỏ đưa vội lên xe chở về "nhà nuôi" Gò Vấp. Hai chị bất lực chỉ biết khóc, chửi bới một hồi rồi cũng bị tống lên xe. Thấy cảnh bất công và đau lòng này, tôi liền ngồi dậy chống nạng bước ra:
    - Tụi mày là quỷ hay sao mà ác quá vậy? Không biết thương người hả? Tụi mày không thấy người ta là đàn bà có con mọn sao mà tàn nhẫn quá vậy? Đúng là đồ súc vật!

    Đám công an sừng sộ nhìn tôi, một thằng nhào tới đá vào hông tôi một cái, nhiều tên nhảy tới đánh hôi, tôi bị té sấp xuống đất. Không biết một thằng nào đó chạy tới cầm cây quất vào đầu tôi mấy cái, tét cả da đầu, máu tuôn xối xả. Tất cả những người bị bắt bị đưa về "nhà nuôi" Thị Nghè. Những anh em phế binh bị nhốt trong phòng giam tập thể. Còn tôi thì bị biệt giam, căn phòng nhỏ hẹp, chật chội và hôi thối. Tôi bị cụt hai chân mà còn phải khòm lưng để ngồi và nằm cũng khó khăn. Nói là nhà nuôi nhưng thực tế là nhà giam, chung quanh là hàng rào kẽm gai, có công an gác cửa. Mỗi ngày họ cho ăn hai chén cơm nhỏ và một ly nước uống. Sau hai tuần lễ biệt giam tôi bị kiệt sức, không còn ăn uống được gì nữa nên quản giáo mới đưa tôi ra phòng tập thể, tại đây tôi được anh em chăm sóc tôi nên từ từ tỉnh lại.

    Khi vào phòng tập thể, tôi mới biết có khoảng hai trăm thương phế binh bị giam tại đây. Phòng giam quá nhỏ nếu nằm hết thì không có chỗ, do đó ngày cũng như đêm anh em thay phiên nhau đứng, nằm. Về thức ăn thì mỗi ngày quản giáo trại cho ăn cơm với khô mực sình thúi, đáng cho heo ăn, và ăn cũng chẳng no. Các anh em phải uống thêm nhiều nước để bớt đói, nhiều người đã chết vì bệnh kiết lị. Thêm vào đó, phòng giam quá hẹp và bít bùng, lỗ thông hơi quá nhỏ thiếu dưỡng khí, nên mỗi đêm có một vài người quá yếu sức bị chết ngộp. Xác những người bất hạnh được bó trong mảnh chiếu rồi chôn vội vàng ở phía sau trại.

    Trường hợp bị bắt của mỗi anh em phế binh cũng rất khác nhau. Một anh kể rằng một đêm nọ ba anh em phế binh đang ngủ trong nghĩa địa Phú Lâm, trời mưa gió suốt đêm, tấm bạt nylon mong manh che không nổi sức gió, một anh đã chết vì lạnh. Sáng hôm sau, hai anh em còn lại ra phường báo cáo sự kiện rồi phường bắt đưa vào đây luôn. Một trường hợp tương tự do một anh khác kể lại là một sáng đang đi bán nhang cùng với một người bạn, anh này bị chóng mặt nên phải ngồi dựa gốc cây nghỉ và nói sẽ đi sau, anh kia đi bán đến 2 giờ chiều trở lại gốc cây tìm bạn, thấy bạn mình vẫn còn nằm ngủ, anh nắm vai lắc mạnh thì anh kia đã tắt thở từ hồi nào, xác cứng đờ. Anh ta vội vàng ra phường báo cáo thì bị người ta bắt đưa luôn vào đây, anh đã ở trại giam này hơn mười tháng nay.

    ****

    Tôi bị giam tại đây đã năm tháng, gia đình tôi không có tin tức gì của tôi, tưởng tôi mất tích nên đã đi tìm khắp nơi, hỏi thăm các bạn bè không ai biết tôi ở đâu. Một hôm tôi nghĩ ra cách liên lạc với gia đình bằng cách nhờ một anh bạn cũng là phế binh có gia đình thăm nuôi mua cho một tờ giấy carô gói vào thức ăn cho anh, tôi xin tờ giấy đó để viết thư báo tin cho gia đình. Anh này nói:
    - Ở đây họ cấm viết thư thì làm sao gia đình tôi đem viết vào được?
    - Khỏi cần có viết, anh cứ nói gia đình gói tờ giấy carô trắng vào thức ăn mang vào cho anh là được rồi. Chuyện viết cách nào thì anh khỏi lo.

    Tuần sau, vợ anh bạn này đến thăm nuôi, có mua một ổ bánh mì gói giấy carô đem cho anh ta ăn và cho tôi tờ giấy đó. Nhận được giấy, tôi giấu trong lưng quần rồi xin đi vệ sinh, trong nhà cầu tôi lấy một cây kim chích vào ngón tay cho chảy máu rồi kim chấm vào máu đó viết vội vài chữ. Sau đó tôi xếp nhỏ tờ giấy lại, nhờ anh bạn kia đưa cho vợ mang về cho gia đình tôi. Tuần sau, vợ tôi vào thăm và mua cho tôi năm nải chuối cùng mấy cục đường táng, tôi chia cho anh em mỗi người một cục đường và một trái chuối cho đã thèm, có người đói quá ăn luôn cả vỏ chuối. Tuần lễ tiếp theo, vợ tôi vào làm giấy bảo lãnh nói rằng tôi đi mua bán làm ăn chứ không phải là thành phần "tệ nạn xã hội". Giám thị nhà giam nói với vợ tôi rằng không thể cho tôi về được vì tôi đã đánh công an "trọng thương" khi thi hành nhiệm vụ. Thật là láo lếu, chính công an đánh tôi trọng thương chứ tôi làm gì có sức đánh công an, họ đánh tôi tét đầu, tôi chỉ vết thẹo còn đỏ hỏn vừa mới lành cho vợ tôi coi. Vợ tôi chỉ biết buồn bã đi về.

    Trở về trường hợp hai chị quả phụ phế binh. Hai chị bị ngất xỉu trên xe nhưng rồi cũng bị đưa về trại Ba Thôn, huyện Hóc Môn, đi lao động. Sau khi bị giam sáu tháng không biết vì tội gì, hai chị được thả về. Họ đến nhà nuôi Gò Vấp lãnh con thì người ta nói đứa nhỏ mới sanh bốn tháng đã chết cách đây hai tháng. Hai người chết lặng một hồi rồi lạnh lùng dẫn bốn đứa còn lại đi về, một đứa bị phong giựt bị liệt suốt đời. Họ không còn nước mắt để khóc.

    Riêng về phần tôi, tôi bị giám thị trại giam Thị Nghè đưa về trại giam Sông Bé. Đây là một trại giam tù hình sự nằm giữa chốn rừng sâu, tất cả tù nhân tại đây đều phải đi lao động, cuốc đất trồng khoai, bất kể là người tàn phế hay già yếu. Tôi đi một vòng tìm hiểu thời gian giam giữ của những anh em ở đây. Người thì nói đã bị giam từ 8, 9 năm nay, người khác thì 10 năm, nhưng chưa thấy trại thả ai về hết, có người nằm lại mãi mãi. Anh em chỉ cho tôi nơi ở cuối cùng của những người xấu số, đó là những mô đất cỏ mọc xanh rì, trên đó có mấy cây cọc cắm để làm dấu. Thật là vô nhân đạo.

    Tôi lo lắng lo cho thân mình. Không, tôi không muốn chấm dứt cuộc đời tôi tại nơi đây. Tôi đã không bỏ xác trên chiến trường thì không có lý do gì phải bỏ xác tại nơi đây. Nơi đây đúng là địa ngục, con người đối xử với con người thật là tàn độc. Nơi đây cũng có mây xanh, có tiếng chim hót nhưng không thể sánh với xã hội mà con người có được tự do. Mây nơi đây lạnh lùng, trời nơi đây lạnh lẻo, gió nơi đây độc địa. Đêm đêm lén nhìn ra lên trên trời, sao tôi chỉ thấy có một ngôi sao nhuộm màu máu đỏ. Ôi, ghê rợn. Không, tôi không thể bỏ xác tại nơi đây.

    Loay hoay suy nghĩ lung tung, tôi cũng đã ở nơi đây hơn bốn tháng, sống sót trong những điều kiện này thật là khó. Thời gian đó cũng đủ cho tôi tìm đường thoát hiểm. Tôi quan sát tìm hiểu một số người, thật ra là muốn tìm bạn "đường rừng". Trong chế độ giam cầm của cộng sản, người ta thường dùng mồi nhữ là cơm gạo để mua chuộc những người nhẹ dạ làm ăn ten báo cáo ban quản giáo trại về những "âm mưu" trốn trại. Rất tiếc là cũng có nhiều người trong hoàn cảnh khốn cùng như nhau lại cam tâm làm những điều hèn hạ đó, nhưng phần lớn những thành phần này là đám thanh niên trẻ can tội hình sự, cướp của giết người. Họ được ban quản giáo trại ưu đãi giao cho những chức vụ trật tự trong các phòng giam và thường xuyên báo cáo lên ban quản giáo những người họ không ưa.

    Sau một thời gian nghiên cứu, tôi tìm được Mạnh, một phế binh Biệt Kích Dù mù hai mắt, lớn con, khỏe mạnh. Tôi mở đầu câu chuyện.
    - Tôi đến gặp anh để tìm cách trốn khỏi nơi này.
    - Tôi thì mù hai mắt, anh thì cụt hai chân, làm sao trốn trại được. Nghe anh nói tôi cũng muốn lắm, nhưng sao giống chuyện thần thoại. Vả lại trại này ở sâu trong rừng, phải đi hơn 20 cây số mới ra đường lộ. Chưa phải hết, ra đến lộ còn phải qua ít nhứt ba trạm kiểm soát mới tới con lộ cái.

    - Việc đó thì tôi đã biết rồi. Vấn đề tôi muốn đề cập với anh là mình phải quyết tâm, phải hy sinh nếu cần. Nếu anh đồng ý thì mình xúc tiến ngay.
    - Tôi cũng có ý này từ lâu. Tôi cũng để ý tìm người để nói về chuyện này nhưng chưa dám thổ lộ cùng ai. Ỏ đây ăn ten nhiều lắm, tôi không tin ai cả. Tôi cũng đã chú ý tới anh nhưng chưa dám thố lộ. Bây giờ thì mình cùng chung ý hướng, tôi yên tâm. Nếu anh phản tôi mà báo cáo lên quản giáo trại thì tôi cũng đành cam chịu. Nhưng trong anh em mình ai mà làm vậy, mình tuy là phế binh nhưng cũng phải có tự hào chớ. Ai thèm cúi đầu trước kẻ thù. Tôi đồng ý. Anh biểu gì tôi cũng nghe.

    - Tốt. Bây giờ tôi chỉ cần anh giúp tôi kiếm một sợi dây mây dài khoảng 20 mét và một cái hộp quẹt là đủ rồi.
    - Hộp quẹt thì tôi có, nhưng sợi dây mây để làm gì?

    - Nơi này trước năm 1975 tôi thường đi hành quân qua đây, có sợi dây mới vượt qua suối được.

    Anh làm ở tổ đan mây, có thể giấu giếm mỗi ngày một ít rồi đan thành một sợi dây thừng. Anh ráng giấu một nơi nào đó, khi nào sợi dây đủ dài thì hai đứa mình chờ trời tối sẽ trốn trại ra đi. Anh còn khỏe mạnh có thể cỏng tôi, thân tôi nhẹ chắc anh không mệt lắm đâu. Còn tôi thì mắt sáng, làm bánh lái chỉ đường anh đi, tôi bẻ đầu anh đi hướng nào thì anh đi hướng đó. Nhớ là khi đi đường mình không được nói chuyện với nhau. Tai vách mạch rừng khó mà đề phòng. Anh có cần gì thì ra hiệu cho tôi cúi đầu xuống nói nhỏ vào lỗ tai.

    Thế là Mạnh đồng ý, chúng tôi lén lút chuẩn bị, không dám báo tin một người nào khác, sợ bị lộ. Một đêm nọ, sợi dây mây đã đủ dài để hai chúng tôi lén từ từ bò ra ngoài vòng rào, rồi anh Mạnh cỏng tôi đi. Hai chúng tôi đi trong im lặng. Đi được một ngày, đến chiều thì đói quá nên tôi nhổ trộm khoai mì rồi vào rừng sâu tìm củi nướng khoai. Tối hôm đó tôi bảo Mạnh leo lên cây ngủ vì đây là Chiến Khu Đ, cọp nhiều lắm. Chúng tôi tiếp tục đi, đi suốt hai tuần rồi mà vẫn chưa tìm được con lộ đất đỏ dẫn ra đường cái. Ngày đi đêm nghỉ, gặp gì ăn đó, củ rừng uống nước suối, bạ đâu ngủ đó. Một sáng nọ, chúng tôi gặp một ông già đang đánh xe bò chở cây trên một con đường đất trong rừng. Chúng tôi sửa lại áo quần ngay ngắn, giả bộ tới hỏi.
    - Thưa bác, chúng cháu muốn ra đường lộ đón xe về Sài Gòn.

    Ông già nhìn Mạnh cỏng tôi một cách thương hại rồi cũng chỉ đường.
    - Các chú ở trong trại kia trốn ra phải không. Các chú đi lạc đường rồi, phải quành ngược lại. Cứ đi theo hướng Nam, khoảng 12 cây số nữa mới ra đến lộ. Cẩn thận đó nghe không.

    Mừng quá, ông già còn móc trong bị cho hai chúng tôi mỗi người một khúc bánh chuối. Chúng tôi cảm ơn rối rít rồi quay trở lại, theo hướng mà ông già vừa chỉ. Chúng tôi đi cả ngày lẫn đêm, dưới ánh trăng và trong ánh nắng. Ngày hôm sau, khoảng 3 giờ chiều, nghe tiếng xe chạy chúng tôi tiến thẳng về hướng đó. Lúc này Mạnh đã yên tâm nên không còn dè dặt nói lớn tiếng:
    - Anh bẻ lái cẩn thận một chút. Hồi hôm anh gấp quá bẻ bậy bạ làm tôi húc vào cành cây, đầu sưng mấy cục rồi nè.

    Tôi ừ à cho qua chuyện, đầu óc chỉ nghĩ làm sao ra đến đường lộ đón xe về nhà mà không bị bắt trở lại. Chúng tôi ra được con lộ cái, nằm sát người xuống đám cỏ rậm bên bờ đường. Thỉnh thoảng nghe tiếng xe từ xa chạy tới, tôi ngóc đầu lên nhìn. Cuối cùng chúng tôi cũng đón được chiếc xe đò đang chạy tới. Gặp bà chủ xe tốt bụng, tôi kể lại chuyện "đường rừng" và hoàn cảnh chúng tôi, bà ta không những thông cảm mà còn dặn lơ xe ghé mua cho chúng tôi mỗi đứa một ổ bánh mì ở một chợ bên đường. Hành khách trên xe ai nghe cũng thương, mỗi người gom góp một ít tiền cho chúng tôi để khi về đến Sài Gòn có tiền đón xe về nhà. Chuyện kinh hoàng trong trại tù của tôi tới đây tạm chấm dứt.

    *****

    Chiến hữu cùng các ân nhân ơi,
    Con tàu định mệnh năm xưa đã lướt sóng vượt trùng dương, qua muôn trùng bất hạnh, đã đưa các chiến hữu cùng ân nhân đến bến bờ hạnh phúc. Cũng rất nhiều người không may đã để lại thân xác trong lòng biển cả. Thử thách nào trong đời ai cũng một lần đi qua, các chiến hữu cùng quí ân nhân đã may mắn vượt qua còn chúng tôi vẫn ì ạch ở lại. Tôi tin rằng các chiến hữu cùng quí ân nhân không quên quá khứ và nhất là không quên những đồng đội cũ chẳng may bị thương tật. Anh em thương phế binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, sống sót sau cơn đại họa, ngày đêm sống trong hang cọp, đối phó từng phút từng giây trước nanh vuốt của kẻ thù, cuộc sống không phải dễ dàng. Mong rằng các chiến hữu cùng quí ân nhân tiếp tục nới rộng vòng tay kéo chúng tôi ra khỏi hố sâu vực thẳm, nhất là giúp chúng tôi tìm lại một chút nhân phẩm trong cuộc sống. Cầu chúc các chiến hữu cùng quí ân nhân muôn vàn hạnh phúc.
    Viết lại theo lời kể của Lưu Tử


    5. Nỗi Đau Vẫn Còn Đây
    Cuộc chiến đã kết thúc cách đây đã gần một phần tư thế kỷ rồi, tiếng súng đã thực sự chấm dứt nhưng thanh bình vẫn chưa trở về trên quê hương. Màu xanh của lá phủ lại núi rừng, hố bom biến thành ao cá, bông lúa trổ đầy ruộng nương nhưng cuộc sống người dân vẫn còn tăm tối. Hình ảnh cuộc chiến vẫn còn lai vãng nơi đây mặc dù tên những trận địa nổi tiếng không ai buồn nhắc tới. Đáng lẽ mọi người phải mừng rỡ khi không còn cảnh bồng bế dẫn nhau đi chạy giặc, không ai còn hồi hộp hay lo âu đạn pháo lạc vào nhà nhưng thực tế đã không phải vậy, lòng người vẫn chưa bình yên và mỗi ngày là một cuộc chiến mới... trên mặt trận cơm áo. Trong bối cảnh này, tập thể thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa chịu nhiều bất hạnh nhất, đau thương nhất. Cuộc đời của những anh em này mất mát nhiều quá. Mỗi người nếu không cụt cả hai chân, mất cả hai tay hay mù cả hai mắt thì cũng mất một khúc chân, một khúc tay hay một con mắt, đó là chưa kể những mảnh đạn bom ghim đầy trong người giấu dưới những vết sẹo. Phải làm gì với tấm thân tàn phế này trong cuộc sống mà ngay chính những người có đầy đủ cả tứ chi, còn có cả gia đình đứng sau lưng làm hậu thuẫn, vẫn không sống nổi.

    Thêm vào đó là nỗi khổ tinh thần. Bị gia đình bỏ rơi, xã hội ruồng rẫy, phải có một ý chí sắt đá lắm mới kéo dài cuộc sống cho tới ngày nay. Sắt đá thì lòng dạ có sắt đá nhưng tập thể anh em phế binh không chống chọi nổi với thời gian khi gia đình và con cái thiếu ăn, thiếu mặc và thiếu học. Thân xác các anh bệ rạc, tinh thần các anh hao mòn, mặc cảm thua thiệt và bị bỏ rơi chiếm ngự mọi suy nghĩ của các anh. Hình ảnh tiều tụy, đau thương và đói khổ của các anh em thương phế binh không được chế độ này thương xót. Không những không được cứu giúp, những người của chế độ này còn muốn xóa sổ luôn những người lính tàn phế đã một thời dám chống lại họ. Đời sống của các anh em thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa do đó cần được nhiều người biết tới, biết để đánh giá mức độ nhân đạo mà chế độ này thường rêu rao và biết để đừng quên những người đã từng cống hiến xương máu để xã hội miền Nam được bình yên.

    Sở dĩ phải nhắc lại quá khứ đau buồn này chỉ vì muốn kêu gọi lòng từ tâm của những người Việt Nam, những người có thể đã trải qua những tháng ngày gian khổ trong nước nhưng đã vượt thoát ra được và hiện nay đang ở hải ngoại, thương cảm và đoái hoài đến hoàn cảnh và nỗi lòng của những anh em thương phế binh trong nước. Ở đây tôi chỉ mạn phép kể lại một vài cuộc sống mà tôi có cơ hội gần gũi và chứng kiến. Những hình ảnh tuy nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa, mà ý nghĩa lớn nhất là sức sống mãnh liệt của những con người đã mất tất cả và không còn gì để mất nữa. Sống để làm gì? Đó là câu hỏi mà các anh em thương phế binh thường tự đặt ra cho mình. Có người tìm được câu trả lời bằng cách tự sát, treo cổ, nhảy xuống sông hay uống thuốc ngủ. Người khác thì muốn tiếp tục sống để nhìn ánh sáng của thông điệp tình yêu một ngày nào đó soi sáng khắp mọi miền đất nước. Những người còn lại chỉ muốn sống để làm chứng nhân, chứng nhân cho chính mình và chứng nhân cho một cách đối xử. Hình ảnh của những người què cụt, đui mù dắt díu nhau đi khắp nẻo đường bán từng bó nhang, van xin từng chén cơm bị hành hạ chỉ vì mang tội tàn phế, không đủ sức lao động. Ghi lại những hình ảnh này để các thế hệ mai sau đừng quên rằng đất nước Việt Nam đã có một thời con người đã quá tàn ác đối với con người, đó là dưới chế độ cộng sản hiện nay.

    Cũng nên nhắc lại là trước tháng 4-1975, nơi qui tụ đông đảo nhất gia đình các anh em thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa là "Làng thương phế binh Thủ Đức". Gọi là làng vì lối tổ chức nơi này không khác gì một làng xã bình thường, chỉ khác một điều là dân làng chỉ toàn thương phế binh. Cũng có trường học, chợ búa, nhà thờ, chùa chiền như mọi nơi khác. Làng này chỉ khác với các ghetto thời Đức Quốc Xã là mọi người đều sống tự do, ai muốn đi đâu cũng được và muốn làm gì thì làm. Hai điều kiện này hiện nay không còn hiện thực nữa vì "Làng thương phế binh Thủ Đức" đã bị chính quyền cộng sản xóa bỏ ngay khi vừa tiến chiếm Sài Gòn. Những kỷ vật của một thời chinh chiến đã qua đều bị đập phá như bức tượng Thương Tiếc, kể cả mộ phần những người đã vì tổ quốc hy sinh.

    Mức sống người dân trong "Làng thương phế binh Thủ Đức" trước kia sung túc là nhờ tiền trợ cấp của chính phủ, mỗi anh em thương phế binh đều có sổ cấp dưỡng và cứ đến kỳ lãnh tiền thì lên Sài Gòn vào ngân khố lãnh tiền. Nhiều người gọi đây là tiền lương vì được trả đều mỗi tháng hay mỗi Tam cá Nguyệt. Tùy theo quyết định của hội đồng giám định y khoa, số tiền lãnh được thường cao hơn mức tiền đã lãnh khi còn ở trong quân ngũ, do đó đời sống vật chất của các anh em thương phế binh trong "Làng thương phế binh Thủ Đức" không có gì đáng để phàn nàn. Vào giữa tháng 5-1975, chính quyền cộng sản ra lệnh giải tán "Làng thương phế binh Thủ Đức" và đưa bộ đội vào chiếm đóng. Các gia đình thương phế binh một số di tản về quê, số còn lại đi vùng kinh tế mới. Gọi là vùng kinh tế mới nhưng chẳng có gì là kinh tế, nơi đây đúng là địa ngục trần gian, không có nhà cửa, điện nước, nhà thương hay trường học, chỉ toàn là rừng với cỏ. Những tấm thân què cụt không thể chặt cây phá rừng, vợ con của họ cũng không thành thạo công việc làm rẫy. Miếng ăn trở nên quí hiếm, con người trở thành ích kỷ. Nhiều người đã chết vì bệnh sốt rét rừng, vì dẫm phải mìn bom còn sót lại hay vì suy dinh dưỡng. Không sống được nơi chốn rừng sâu, từng đoàn người đã kéo nhau trở về thành phố.

    Vì bản năng sinh tồn, tất cả phải tìm một nghề gì đó sinh sống. Những người may mắn, thân thể còn nguyên vẹn thì làm những nghề khuân vác hay đạp xích lô còn những anh em thương phế binh? Người nào may mắn tìm được gia đình tại thành phố thì được nuôi ăn, những anh em còn lại phải lê lết xin ăn, thật là nhục nhã. Nếu có đầy đủ chân tay bình thường, cho dù có nghèo khổ đến đâu ai cũng muốn xoay sở để có miếng ăn qua ngày, nhưng với tấm thân què cụt không còn giải pháp nào khác ngoài đi xin. Nhiều anh em còn cố làm ra vẻ thảm thương để người ta thương hại cho tiền.

    Nhưng anh Thương, phế binh cụt hai chân, không muốn làm vậy. Anh có niềm tự hào của anh. Ngày trước anh là con một gia đình tương đối khá, khi còn ở "Làng phế binh Thủ Đức" gia đình anh không muốn xuống thăm anh, lâu rồi không còn ai trong gia đình anh biết anh đang ở đó. Chính gia đình anh đã quên anh. Những ngày đầu tháng 4-1975, anh về Sài Gòn thăm nhà trách móc không ai còn nhớ đến anh, cha mẹ anh giả lã nói đường sá bây giờ nguy hiểm thấy anh về là vui mừng rồi, cuộc sống bây giờ quá khó nên ít có thì giờ. Khi bị đuổi ra khỏi làng anh về lại Sài Gòn tìm gia đình thì mới biết nhà anh đã bị ủy ban quân quản chiếm đóng, nói là nhà vô chủ. Gia đình anh đã đi di tản từ hồi nào, bỏ lại anh ở đây. Lần này anh về lại Sài Gòn nhưng từ vùng kinh tế mới và sống kiếp ăn xin. Anh Thương rất ngượng ngùng khi lần đầu chìa tay xin tiền một phụ nữ ngoài chợ Vườn Chuối. Anh sửa lại áo quần rồi cúi đầu nói lí rí trong miệng, tay chìa nón ra xin, cũng may người phụ nữ tốt bụng đã cho anh một ít tiền. Lâu dần thành quen, anh ít ngại ngùng hơn nhưng vẫn không dám có những hành vi "khó coi" như những anh bạn đồng cảnh ngộ.

    Những lúc ngồi một mình ăn một gói xôi trong công viên buổi trưa, anh Thương xót xa nhớ về những ngày tháng cũ, lúc còn cắp sách đến trường... rồi khi vào trong quân ngũ. Anh tình nguyện ghi tên binh chủng Nhảy Dù, một binh chủng đã từng một thời oanh liệt. Cũng chính vì quá oanh liệt nên binh chủng Dù làm tăng mật độ trong các nghĩa trang và cung cấp nhiều thương binh nhất, anh Thương chẳng may có tên trong số người đó. Có lúc chán đời, anh tự an ủi bằng cách tựa lưng vào một góc tường, châm một điếu thuốc thơm lim dim nhớ nếp sống hùng của thời trai trẻ và đôi khi... mơ thấy một tương lai đầy sáng lạng. Giấc mộng nào cũng sớm tàn, khi tỉnh lại anh Thương thấy mắt mình cay cay. Thì ra anh đã khóc, khóc cho thân phận và khóc cho hoàn cảnh của những bạn phế binh. Hôm nay anh chỉ trơ trọi một mình, một khách độc hành trên con đường không có đích tới. Từ nay mỗi ngày anh phải lê lết tấm thân tàn tạ trên khắp nẻo đường mà có một thời anh đã hiên ngang, hùng dũng đi qua...

    Anh Qườn thì khá hơn. Vì chỉ cụt một chân, anh sắm một ít đồ nghề, ra vỉa hè sửa và vá ruột xe đạp. Tuy là một nghề bất đắc dĩ nhưng ít ra anh không phải sống kiếp ăn xin như phần lớn những bạn bè khác. Anh Quờn có cái may là tìm được một người thân, anh còn ông chú ở Khánh Hội, nên khi vừa từ kinh tế mới trở về anh tìm đến nhà và được chú anh nhận lại. Vì cha anh mất lúc anh còn ở trong quân ngũ, chú anh Quờn thương anh nhiệt tình. Chính ông chú này chỉ cho anh nghề sửa và vá ruột xe đạp. Những đứa em con người chú đôi khi còn ra ngoài đường phụ giúp anh, đứa cháu gái thì ra ngồi bán thuốc lá lẻ bên cạnh chỗ anh sửa xe đạp cho vui.

    Những khi vắng khách, anh Quờn trải chiếu ra nằm nghỉ và nhớ lại chuyện ngày xưa lúc còn đi học. Anh muốn trở thành giáo sư hay kỹ sư nên đã cố gắng học tập nhưng lệnh tổng động viên năm 1972, mặc dù học khá nhưng vì đi học trễ anh đã quá tuổi để học tiếp lớp mười hai, anh vào quân đội học khóa Hạ sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức. Khi ra trường anh được đưa về Sư Đoàn 23 Bộ Binh đóng ở An Khê. Trong một trận đánh anh bị trúng đạn bễ đầu gối phải cưa chân phải và được giải ngũ sau đó. Giờ đây với khúc chân cụt này anh ngồi bơm bánh xe đạp. Anh loay hoay với công việc hoàn toàn xa lạ và khó khăn. Khi thì ngồi xuống, khi thì đứng lên, khi phải vặn hết sức mình một con ốc, nhiều lúc mệt lã anh ngồi lết luôn dưới đất. Công việc này một người bình thường chỉ mất từ năm đến mười phút là xong, nhưng với anh phải mất gấp đôi thì giờ. Vừa làm để kiếm cơm vừa học thêm nghề, đây cũng là một cố gắng phi thường.

    Rồi nghề dạy nghề, anh Quờn quen dần với công việc và có một cuộc sống tương đối khá. Nhiều người thương mến anh đề cập đến chuyện vợ con, anh chỉ ngao ngán lắc đầu. Nhớ lại chuyện tình năm xưa, anh có quen một người con gái tên là Hạnh Thảo. Hai đứa yêu nhau, thề non hẹn biển, gia đình hai bên đã gặp mặt nhau bàn bạc chuyện cưới xin, có thể gọi Hạnh Thảo là vợ chưa cưới cũng được. Nhưng ngày anh bị thương cũng là ngày hai đưa chia tay. Hạnh Thảo chỉ đến thăm anh một lần tại Quân y Viện rồi ra đi vĩnh biệt. Lần gặp đó, Hạnh Thảo đã khóc rất nhiều và anh Quờn cũng nước mắt không thua. Anh nằm ở quân y viện một mình, buồn cho thân phận. Từ đó lòng trở nên chai đá, anh càng thấm thía khi nghe bản nhạc "Kỷ vật cho em": Đây kỷ vật, viên đạn đồng đen, em sang sông mang làm kỷ niệm..., bên người yêu tật nguyền chai đá..., cố quên đi một lần dang dối...

    Nghe đâu Hạnh Thảo đã lấy chồng, một công chức nhỏ ở nha thuế vụ, bây giờ đã bốn mặt con. Sau 30-4-1975, chồng Hạnh Thảo không bị đi học tập và ra buôn bán chợ trời, nghe nói khá lắm trong khi anh Qườn vẫn ngồi đây hẫm hiu một mình. Nhiều lúc nghĩ về "hậu tự", anh ngậm ngùi chua xót cho đời trai. "Thân mình lo còn chưa xong, nghĩ gì đến gia đình". Năm này qua năm nọ, tuổi đời chồng chất, anh Qườn chỉ biết nhìn người đời vui vẻ đi qua nỗi đau của mình. Anh không dám nghĩ ngợi xa xôi mặc dù cũng có nhiều cô gái có ý trêu chọc anh. Có cô giả bộ xì bánh xe rồi tới nhờ anh bơm hộ, có cô đến nhờ anh giữ hộ xe đạp đễ đi chợ rồi mua bánh trái và thuốc lá mang đến tặng anh. Anh Quờn tuy có thích thú nhưng không dám tiến xa hơn, chẳng hạn như rủ đi coi hát hay ăn chè, v.v... Anh biết thân phận mình, cho dù các cô gái đó có chịu đi chơi với anh nhưng gia đình các cô chắn chắn sẽ không tán đồng. Cuộc đời đã dạy anh một bài học cay đắng, không nên mơ tưởng những chuyện quá tầm tay. Các cháu của anh lớn dần theo thời gian, đến tuổi cập kê rồi lập gia đình, không còn đứa nào ra ngồi với anh cho ngày tháng bớt dài. Thời gian càng tiến tới, thân xác anh cứ lụn dần, lụn đến mức không thể trở về lứa tuổi thanh xuân. Tuổi 20 của anh đã bị bức tử trong Quân Y Viện, năm nay đã ngoài 40, bệnh lao đang hành hạ, bệnh sốt rét rừng ăn cơm tháng trong thân hình tiều tụy, anh Quờn buông xuôi tất cả chờ ngày đi vào lòng đất.

    Cảm động nhất là những anh bị mù lòa, suốt ngày ngo ngoe chiếc gậy đi trong tăm tối. Anh Thông không chịu đầu hàng số mệnh, suốt ngày anh dọ dẫm từ đầu đường này đến phố chợ khác để bán từng tờ vé số, tối về thì ngủ nhờ vỉa hè nhà người ta. Thật sự thì đời anh lúc nào cũng tối. Đời anh Thông là cả một thảm kịch, người vợ thân thương nhất cũng đã qua đời khi hai vợ chồng vừa rời vùng kinh tế mới trở về lại Sài Gòn. Không biết chị đã ăn và uống thứ gì ngoài chợ, anh chỉ nghe vợ mình rên siết, tiêu chảy suốt hai ngày đêm rồi chết. Người ta nói chị chết vì bệnh kiết lị, anh Thông buồn bã nghe tiếng xe của sở vệ sinh đến chở xác chị đi, thế là hết. Cũng may hai vợ chồng anh không có con, nhưng đó cũng là niềm bất hạnh. Kể từ nay anh Thông trở thành "tứ cố vô thân", không người thân thích và chẳng ai đỡ đần. Lắm lúc anh muốn đi ăn xin qua ngày nhưng vì lòng tự trọng và cái "chất lính" hào hùng vẫn còn mãnh liệt nên anh đã không làm thế. Anh Thông gom góp vốn liếng còn lại kinh doanh, anh mua vé số ở các ty tài chánh rồi đi bán dạo. Anh bán sự may mắn cho người ta trong khi chính anh rất cần may mắn. Từ đó anh không quản nắng ngại mưa, sớm tối tự mình chiến đấu với "mặt trận cơm áo". Sáng gói xôi, trưa cơm chợ, chiều về tìm quên trong chút mùi men.

    Tôi tình cờ gặp lại anh Thông đang bán vé số dạo trên đường Nguyễn Tri Phương. Hai anh em tay bắt mặt mừng, tôi mời anh vào một quán cóc. Hai chúng tôi mỗi người ăn vài trứng vịt lộn, húp một tô cháo lòng và "độp" một xị đế. Thật là vui sướng. Ăn uống xong xuôi, tôi hỏi anh:
    - Anh có nghĩ gì về tương lai anh không?
    - Có chứ anh. Chỉ có buồn thôi anh ạ, lắm lúc tôi đã khóc cho thân phận không may của mình. Năm nay cũng năm mươi mấy rồi, không vợ không con, không nhà không cửa. Tối ngày cứ đi lang thang kiếm sống, nếu chẳng may bị bệnh đau thì ráng mà chịu, tứ cố vô thân mà. Do đó còn sức "cày" được ngày nào thì hay ngày đó, cày không nổi thì chịu chết chứ biết sao bây giờ.

    Tương lai là nỗi ám ảnh kinh khiếp đối với các anh em thương phế binh trên vỉa hè. Ai cũng muốn được ăn no, mặc ấm nhưng không phải ai cũng có may mắn đó. Đối với những người sống thường trực trên các lề đường, hàng ngày đối diện với cái đói cái lạnh, cuộc sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Ai cũng muống sống trong danh dự, kể cả những người đang ăn xin ngoài đường, nhưng vì thân thể tật nguyền không cạnh tranh với những người khỏe mạnh hơn, họ đành bỏ rơi danh dự. Đói quá thì phải ăn xin. Ăn xin thì bữa no bữa đói, tất cả bị suy dinh dưỡng rồi sinh ra bệnh tật. Mang bệnh mắc tật lại không tiền mua thuốc, mạng sống của những người sống trên vỉa hè thành phố như chỉ mành treo chuông, chỉ một cơn gió nhỏ là tiêu tan cuộc đời. Không ai trông mong tìm được ánh sáng trong một đường hầm không có lối ra. Đối với họ, tương lai đồng nghĩa với bóng đêm và ngỏ cụt.Ý thức được sự mong manh của cuộc đời, nhiều anh em tìm quên trong men rượu. Men rượu có giúp quên đi thực tại khó khăn nhưng cũng cướp đi nhiều cuộc đời. Đồng tiền khó nhọc kiếm được đều trút vào men rượu, mặc cho vợ khóc con than. Nhiều gia đình vốn đã tan nát lại càng nát tan thêm. Tất cả chỉ vì nghèo khổ, càng khổ các anh càng muốn tìm quên, cái vòng lẫn quẫn đó đã lôi kéo nhiều gia đình xuống hố sâu vực thẳm... nếu không có một phép lạ.

    Để biện minh cho sự hư thân của mình, anh Sơn thường ngâm các bài thơ say của Vũ Hoàng Chương hay của Trần Tế Xương cho tôi nghe:

    Say sưa nghĩ cũng hư đời,
    Hư thời hư vậy ta thời cứ say.
    Đất say đất cũng lăn quay.
    Trời say trời cũng đỏ gay ai cười.

    Hoặc thơ của Nguyễn Tất Nhiên lúc còn ở Biên Hòa:

    Tình cũng khó theo thời cơm áo khó,
    Ta dìu nhau đi dưới bóng nợ nần.
    Em bắt đầu ân hận chưa em?
    Vì đã trót yêu anh, cái thằng quanh năm túng thiếu,
    Ân hận đó em cũng đành cam chịu.
    Cứ xem như sự kiện đã lâu ngày,
    Như địa cầu không thể ngược vòng quay.

    Anh Sơn thích nhất là bài "Ta đội nón mời em uống rượu" của Cao Thoại Châu, người Quảng Nam:

    Ta đội nón mời em đi uống rượu,
    Cuộc tình sầu xin tạm gác qua bên,
    Vì lát nữa đây mặt trời sẽ chết.
    Mùa Đông về không có chỗ dung thân,

    Ta đứng run trong giá lạnh.
    Dáng bơ vơ như một kẻ thất tình,
    Để ta trông thấy em như một bờ dốc đứng.
    Còn ta là chiếc xe đò nổ lốp đứng chơ vơ!

    Vậy thì xin em hãy uống,
    Uống cho tàn, cho mạt kiếp nhân sinh.
    Em không uống nên ta lẻ bạn,
    Ta tủi hờn bóp nát chiếc ly không...!

    Bài thơ của Cao Thoại Châu còn rất dài, nhưng anh Sơn chỉ chép lại cho tôi tới đây vì bài thơ đó đã lâu ngày và nhất là sau những cơn say đầu óc anh lú lẫn, không còn minh mẫn như ngày xưa. Vợ con anh Sơn tuy rất thông cảm hoàn cảnh và tinh thần của anh nhưng điều đó lại chính là nỗi lo của gia đình.

    Anh Sơn bị cụt hai chân, thân hình ốm yếu giờ thêm men rượu tàn phá nên đã trút nợ đời sau một đêm bí tỉ. Trước khi lâm chung, anh trăn trối: "Thế là thoát được nợ đời, thoát cảnh tật nguyền, thoát hết nợ nần và thoát sự nghèo đói". Anh dặn vợ hãy gắng sức nuôi hai đứa con. Chị vợ chỉ biết khóc lóc và ôm hai con vào lòng. Con không cha như nhà không nóc, trước kia mặc dù chồng bị tật nguyền nhưng luôn luôn ở bên cạnh nên chị Sơn cảm thấy yên tâm, nay không có anh chị phải xoay sở ra sao giữa dòng đời nghiệt ngã? Anh Sơn ra đi cũng không giải quyết việc gì, anh chỉ giải thoát cho riêng bản thân anh, còn vợ con anh thì vẫn đối diện cái nghèo muôn thuở. Tội nghiệp nhất là con cái của họ, đứa thì ở đợ, đứa thì làm thuê, có đứa ra chợ móc túi giựt dây chuyền rồi vào tù ra khám, nhiều đứa con gái thì đêm đêm rủ nhau đứng đường tìm khách mua hoa.

    Có chuyện trớ trêu như sau. Phế binh Long, cụt một chân, thường đứng bán nhang trước một tiệm vàng ở chợ Bàn Cờ. Ngày nào cũng thế, ông chủ tiệm vàng thường ra đuổi anh Long đi nơi khác vì sợ sự hiện diện của anh sẽ làm mất khách. Anh Long cố gắng kỳ kèo để ông này mua nhang mới chịu đi nơi khác, nhưng không những không được mua nhang mà còn bị chửi bới tục tằng. Một hôm cô con gái của phế binh Long, lúc đó 17 tuổi rất xinh đẹp, thay cha vào chợ bán nhang tình cờ gặp ông chủ tiệm vàng. Ông này liền nổi máu "dê", không những đã mua hết nhang mà còn mời cô ta đi ăn cơm tối. Đêm hôm đó, ông dẫn cô con gái "đi lạc" vào khách sạn rồi muốn giữ luôn làm vợ... bé. Cô này có hiếu, bắt ông chủ tiệm vàng phải làm lễ ra mắt cha mẹ mới chịu. Ông chủ tiệm vàng mới giật mình vỡ lẽ cô này là con của phế binh Long. Lúc đầu ông có hơi ngỡ ngàng và bối rối nhưng vì siêu lòng bởi cô con gái xinh đẹp đã gọi anh Long bằng "ba" ngọt sớt, mặc dù lớn hơn anh Long đến 10 tuổi rồi còn tặng thêm hai chỉ vàng 24 cara để được phép đưa cô con gái lên Đà Lạt hưởng tuần trăng mật.

    Đó là số phận của những anh em mà tôi cho là còn nhiều may mắn. Trong thực tế, còn nhiều hoàn cảnh nghiệt ngã hơn nhiều, phần lớn là những anh em bị thương tật nặng không thể tự mình làm những động tác bình thường nhất. Các anh luôn phải có người đứng bên phục vụ, từ việc ăn uống cho đến phần vệ sinh. Đời các anh em này gắn liền với chiếc xe lăn hay trên giường bố. Có anh không những bị mất hai chân lại còn mất luôn cả một cánh tay. Riêng hoàn cảnh của anh Trần Văn Xuyên là thê thảm nhất. Anh Xuyên bị mù hai mắt, cụt hai chân và cả hai tay nữa. Ôi không còn nỗi bất hạnh nào đau đớn hơn hoàn cảnh này. Nhưng trong nỗi đau ông trời vẫn còn có mắt. Anh Xuyên thật là có phước, anh may mắn có người vợ thương anh nhiệt tình, hai đứa con anh luôn hãnh diện có người cha bị thương tật. Bất cứ nơi đâu hai em nhỏ này cũng nhắc đến cha, nào là cha hai em đã anh dũng chiến đấu trước kẻ thù cho đến khi không còn chiến đấu được nữa, nào là cha hai em can đảm chịu đựng nỗi đau tàn phế mà không than van lời nào. Cũng hiếm hoi có được người đàn bà chịu thương, chịu khó và thủy chung đến như vậy. Mặc dầu họ ăn bữa đói bữa no nhờ sự bố thí của thiên hạ nhưng không bao giờ trong gia đình có sự xào xáo, hai vợ chồng ăn ở thuận hòa và hai đứa con một lòng hiếu thảo. Kể cũng tội nghiệp, họ sống để mà sống vì không thể chết được.

    Ôi, kể sao cho hết những những mảnh đời đau thương rách nát cùng cực này, những mảnh đời của những thương phế binh và cô nhi quả phụ trong cuộc sống hiện nay. Họ bị liệt vào hàng cặn bã xã hội, sự hiện diện của họ trong cuộc sống này không cần thiết. Những người của bộ máy cầm quyền cộng sản đã muốn những người này chết đi để thưởng thức trọn vẹn chiến thắng, họ không muốn nhìn thấy vết thương do chính họ gây ra trong thời chiến tranh. Những kẻ chiến bại không có quyền tồn tại trong chế độ này. Chính sách "tập trung cải tạo" dầu sao cũng thể hiện được tính chất trả thù, như đưa người lên vùng kinh tế mới để họ chết dần chết mòn trong chốn rừng sâu là một chính sách thâm độc loại trừ những người mà chế độ này không muốn nhìn thấy. Nhiều người lãnh đạo cộng sản còn rêu rao tha cho được sống là nhân đạo lắm rồi.

    Ai có quyền tha ai và nhân đạo chỗ nào? Làm người ai không muốn được sống bình yên, người cộng sản lấy quyền gì tước bỏ đời sống người khác. Hơn nữa đất nước đã thống nhất mọi người Việt đều là công dân Việt Nam, người cộng sản lấy quyền gì để cho người này được ở, người kia đuổi đi. Cho dù miền Nam có bị thua trận nhưng đất nước này vẫn là của chung, mọi người Việt Nam đều có quyền sinh sống và góp phần xây dựng đất nước. Người lành lặn góp phần theo kiểu người lành lặn, người tàn tật góp phần theo kiểu người tàn tật, ai có phận sự nấy. Dân tộc Việt Nam đau khổ quá nhiều rồi, ai cũng muốn được sống yên ấm tự do.

    Tại sao lại có công dân hạng một và công dân hạng hai? Tại sao chỉ những người cúc cung phụng sự chế độ thì được quyền đè đầu đè cổ nhân dân, còn những người khác chỉ có nhiệm vụ cúi đầu? Không, không thể chấp nhận được. Chế độ này nuôi dưỡng quá nhiều bất công, chỉ cần một tia lửa nhỏ đám rơm thịnh nộ sẽ bốc bùng lên, lúc đó thì đã quá muộn. Không ai muốn tình trạng này xảy ra trên đất nước. Nếu có tình trạng hỗn loạn xảy ra lỗi đó không phải là phía nhân dân, những người gieo ác sẽ gặt quả ác, luật bù trừ của đấng tạo hóa muôn đời bất diệt. Tập thể anh em thương phế binh và cô nhi quả phụ trong nước hiểu rất rõ điều đó nên cố gắng chịu đựng, sống sót chờ ngày quê hương bừng sáng.

    *****

    Sau đây tôi xin được bộc bạch về cuộc đời của tôi, cuộc đời trôi giạt lang thang, từ Sài Gòn ra miền Trung, rồi từ miền Trung phiêu bạt về Sài Gòn. Trên những đoạn đường đi qua, những cảnh mắt thấy tai nghe khiến tôi trở thành chứng nhân của thời đại. Những điều nghe thấy đó đã ghi đậm vào tâm trí tôi nên thường toát ra trong mọi diễn giải. Tôi thấy cái chết nhiều hơn sự sống, nỗi khổ nhiều hơn niềm vui, nước mắt nhiều hơn nụ cười và bất công nhiều hơn hạnh phúc. Tôi khổ vì những điều đã nghe và thấy đó.

    Khắp nơi trên toàn cõi miền Nam sau ngày 30-4-1975 đều trở thành hỏa ngục. Hỏa ngục cho những người như chúng tôi, những người bại trận. Thật vậy, không có chỗ đứng cho những người thua trậnn. Mọi tội lỗi xấu xa đều trút đổ lên đầu chúng tôi. Những người còn lành lặn thì bị đưa đi "học tập cải tạo", những người tàn phế hay có dính líu đến chế độ cũ thì bị đưa lên "vùng kinh tế mới". Tuy là hai danh xưng nhưng chỉ một mục đích, loại trừ những thành phần "nguy hiểm" và "cặn bã" ra khỏi cuộc sống. Nguy hiểm được gán cho những thành phần quân nhân công chức của chế độ cũ, cặn bã là những thương phế binh, cô nhi quả phụ nghèo khó, vô gia cư và vô nghề nghiệp.

    Tôi chẳng may bị xếp vào thành phần cặn bã của xã hội vì là một thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Cuộc sống của chúng tôi không có giá trị, chỉ cần một cái lắc đầu nhẹ của bất cứ người nào trong chính quyền, từ công an khu vực đến anh quản lý chợ, là cuộc đời chúng tôi thay đổi ngay. Không bị đuổi ra khỏi khu vực buôn bán thì cũng bị đẩy lên xe đưa vào "nhà nuôi". Gọi là "nhà nuôi" nhưng chính là "nhà tù" vì trại viên tại đây bị giam giữ và hành hạ như những tội phạm.

    May mắn duy nhất trong đời tôi là giữ được mạng sống cho đến ngày nay. Trong suốt thời gian qua, từ lúc thiếu thời cho đến tuổi trung niên, tôi đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh chết. Cha tôi mất sớm lúc tôi vừa tròn 8 tuổi, tôi đã đứng khóc bên quan tài tài cha tôi hai ngày đêm liền. Mẹ tôi một mình thức khuya dậy sớm nuôi tôi ăn học nên người. Sống tại miền quê Quảng Ngãi, vào tuổi thiếu thời tôi đã thấy gia đình cậu mợ tôi, cô chú tôi khóc cậu, khóc cậu chú tôi bị sát hại dã man. Trong đêm tối, quân du kích cộng sản vào làng bắt cóc cậu chú tôi dẫn vào rừng, sáng hôm sau dân làng thấy xác hai người nằm ở bìa rừng, ngực bị đâm lũng nát, lòi ruột ra ngoài với bản án ghim trên ngực: "thành phần ác ôn gây tội ác với nhân dân".

    Cậu chú tôi nào có gây nên tội tình gì, chẳng qua được dân chúng bầu làm ấp trưởng, xã trưởng chuyên lo việc giấy tờ cho dân mà cũng bị sát hại. Căm tức và muốn trả thù cho cậu chú tôi nên vừa tới tuổi trưởng thành, tôi xin phép mẹ tôi đi vào quân đội. Tôi quyết cầm súng bảo vệ quê hương, bảo vệ gia đình vì các em mợ cô tôi còn quá nhỏ để có thể trả thù cho cha.

    Trong một trận đánh ngày 20-2-1975 trên Quốc Lộ 14 gần Buôn Hô, tôi đạp phải mìn bị thương nặng, phải cưa hai chân. Lúc đầu tôi được đưa về quân y viện Nha Trang, sau về Tổng Y Viện Cộng Hòa. Chiều ngày 30-4-1975, bộ đội cộng sản vào quân y viện đuổi hết nhân viên quân sự và dân sự ra khỏi viện. Anh em thương phế binh chúng tôi nhận được lệnh xuất viện ngày hôm sau, 1-5. Vết thương tuy chưa lành hẳn, hai khúc chân còn quấn trong băng, hai tay, đầu và một mắt cũng bị băng, tôi cố chống lết ra được ngoài cổng Tổng Y Viện đón xe cùng với anh lính nuôi tôi và anh Nhơn, người quê Bình Định, bị cụt hai giò như tôi. Chờ từ 7 giờ đến 9 giờ sáng mới đón được một chiếc xe xích lô máy chở chúng tôi về địa chỉ 112/12 Lê Văn Duyệt, Gia Định (nay là Đinh Tiên Hoàng, trên Lăng Ông Lê Văn Duyệt một đoạn), nơi mẹ tôi ở trọ. Trên đường đi là một rừng người tấp nập, hỗn độn, bát nháo.

    Về tới nhà nhà mẹ tôi mừng rỡ. Tôi được mẹ già ẵm vào nhà, còn người lính nuôi tôi, tôi để nó phụ giúp anh Nhơn vì anh bị đệ tử ôm tiền trốn biệt mấy ngày trước đó nên rất bơ vơ, đúng là nước có loạn mới biết tôi trung. Ở được mấy hôm, vết thương của tôi và của anh Nhơn làm mủ, mẹ tôi đi tìm y tá về chích thuốc và băng bó vết thương. Đến ngày 6-5 chúng tôi được lệnh gọi ra trình diện xã Bình Hòa, Ấp I. Nơi đây, ban quân quản đề nghị chúng tôi trở về nguyên quán. Quê tôi ở Quảng Ngãi thì phải trở về Quảng Ngãi, anh Nhơn quê ở Bình Định thì phải về Bình Định, thật là giản dị. Tối hôm đó, mẹ tôi đi quyên góp lối xóm được một ít tiền và quần áo chia cho anh Nhơn. Thật là tội nghiệp, anh lính mà tôi nhường để giúp anh Nhơn quê ở Vĩnh Long, không thể theo anh Nhơn về Bình Định được nên chỉ đưa anh ra bến xe mà thôi, vì anh này cũng muốn về lại quê nhà ở xã Tân Long. Cảnh chia tay thật là buồn bã, tôi bắt tay anh Nhơn và anh lính phục dịch nước mắt lưng tròng. Cụt hai chân, vết thương chưa lành đã phải tự túc về quê, tôi chỉ biết thương xót cho anh Nhơn mà không làm gì hơn được. Anh Nhơn đi ngày mùng 6-5, còn tôi và mẹ tôi ngày mùng 7.

    Sau một ngày chật vật đón xe trên xa lộ Biên Hòa, hai mẹ con tôi được một chiếc xe tải chở hàng ra miền Trung chịu chở về quê. Mẹ tôi phải nhờ những người hành khách phụ đỡ tôi lên xe, hai bên ván gỗ bít bùng và một tấm bạt che ở phía sau. Trên xe tôi thấy có sẵn một đám người đã ngồi trong đó từ hồi nào, khó khăn lắm hai mẹ con tôi mới tìm được chỗ ngồi trên những gói hàng trên sàn xe. Tôi có cảm tưởng đây là xe áp tải tù nhân vì chật chội, hôi thối và ngộp thở. Nhưng chính vì điều này cũng đỡ đi phần nào, du kích không dám leo vào trong xe xét hỏi giấy tờ. Đến chỗ cầu gãy, xe phải chạy băng qua những khúc sông cạn rồi đi tiếp. Thỉnh thoảng đi ngang qua những dãy nhà cháy, mùi khét bay vào xe nồng nặc. Có lúc ngộp quá, một vài hành khách tháo tấm bạt che phía sau xe để hít không khí, chúng tôi mới nhìn thấy cảnh tang thương đổ nát hai bên đường, nhà cửa loang lỗ đầy những vết đạn. Nhiều đoạn đường bị cấm, xe phải đi lòng vòng qua các ruộng hoang hay các thôn xóm. Tất cả đều hoang vắng đến rợn người, cả tiếng chim kêu cũng không có. Xe càng lúc lắc, vết thương tôi bị động, máu cứ ri rỉ chảy ra, tôi mệt lã người.

    Bình thường xe chỉ đi mất hai ngày một đêm, nhưng chuyến đi này mất một tuần lễ. Một tuần lễ mệt nhọc, mẹ tôi phải bồng ẵm, đút cho tôi từng muỗng cháo, muỗng nước, đỡ tôi đi cầu, đi tiểu. Xe tải thì cao mẹ già thì yếu nên có lúc tôi phải nhờ một số khách đồng hành phụ giúp đỡ tôi lên xuống xe. Nhớ mãi là thịnh tình của chị Bùi Thị Cẩm, người đã đắc lực giúp mẹ tôi chăm sóc tôi suốt đoạn đường dài. Lúc này toàn thân tôi hoàn toàn bị băng bó, trông giống như một xác chết đã lịm rồi. Sau chuyến đi này tôi không gặp lại chị Cẩm nữa, không biết bây giờ chị ở đâu. Tôi nguyện nếu ngày nào gặp lại chị Cẩm tôi sẽ làm hết sức để tạ ơn chị những ngày đã qua. Tôi chỉ biết chị quê ở Quảng Ngãi về tìm cha là một quân nhân như tôi.

    Vừa đặt chân đến làng quê là bà con lối xóm giúp tôi đi trình diện ủy ban quân quản địa phương ngay. Người ta cho tôi về nhà điều trị vết thương nhưng mỗi sáng thứ bảy phải đến trình diện một lần. Độ hai tuần sau, tôi được lệnh tập trung "học tập cải tạo" tại chỗ trong thời gian 17 ngày. Tội nghiệp cho thân già mẹ tôi, suốt đời tần tảo nuôi con ăn học những mong lớn khôn đặng nhờ tuổi già. Nào ngờ giờ đây bà phải tất bật sớm hôm gánh gồng đôi thúng ra chợ bán buôn nuôi con tật nguyền. Thấm thoát một tháng trôi qua, vết thương tôi cũng khô lành dần. Hai tay tôi lành trước, kế là đầu và mắt, tiếp theo là khúc chân trái và sau cùng khúc chân phải. Quả mìn thật quái ác, nó không sát hại mạng người mà chỉ gây thương tật. Ai may mắn lắm khi đạp phải nó chỉ bị cụt một chân, thường thì cụt cả hai chân. Sức ép của nó không mạnh lắm, chỉ những ai không may bị va vào vách đá hay thân cây thì mới bị chết. Nhiều lúc tôi ước ao có lại đôi chân để ra đồng ngắm nhìn ruộng nương, hoặc dạo mát trên những bờ đê như những ngày thơ ấu. Ước ao này không bao giờ đến.

    Bức xúc với hoàn cảnh mới, tôi mở lớp dạy kèm và dạy vẽ chân dung cho trẻ em trong xóm để phụ giúp mẹ tôi. Nhưng dạy kèm trong thời buổi này thật là khó khăn, không phải vì thiếu vắng học trò mà là phải có giấy phép của ty thông tin văn hóa. Tôi bị mời lên, mời xuống nhiều lần về việc này. Cuối cùng tôi phải nghỉ dạy chữ mà chỉ dạy vẽ chân dung và nhận hình họa, cuộc sống cũng tạm ổn định.

    Thấy tôi bị thương tật mà vẫn còn minh mẫn, một gia đình hàng xóm có người con gái muốn gả cho tôi. Thế là tôi lập gia đình năm 1977, đó không những là niềm mơ ước của riêng tôi mà còn là ước muốn của mẹ tôi nữa, vì tôi là con trai độc nhất. Quan niệm phong kiến mà. Tôi là con một, nhưng bà lại thích con đàn cháu đống. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ tôi vui sướng như lúc này, điều này càng làm hai vợ chồng tôi thêm hạnh phúc nên sinh cho bà bốn trai, một gái. Nhưng chính con đàn cháu đống này đã làm hại tôi, thân tàn ma dại mà con đông quá chỉ có nghèo nàn và dốt nát. Biết suy nghĩ thì việc đã rồi. Đến năm 1987, vợ tôi phải triệt sản gấp. Cuộc sống trở nên khó khăn, chỗ vợ tôi bán chè bị cấm, mẹ tôi lại đau ốm thường xuyên. Đã thiếu ăn còn lo chạy thuốc, nợ nần mỗi ngày mỗi chồng chất. Thế là cuộc đời đi vào bế tắc.

    Năm 1989, vì kế mưu sinh cho gia đình, tôi phải liều mạng đưa cả nhà vào Nam sinh sống. Sài Gòn đúng là miền Đất Hứa. Thuê được nhà xong, vợ và các con tôi đi bán vé số, còn tôi ở nhà lo cơm nước, giặt giũ áo quần. Lạ đất lạ người, vợ và các con bị người ta lừa hết vé số, mất hết vốn. Không đủ tiền trả tiền thuê nhà, tiền điện tiền nước, gia đình tôi đành phải tạm ra sống bụi đời ở bến xe Gia Định (nay là Văn Thánh). Cả nhà che tấm ny lông ra ngủ ban đêm, ban ngày phải cất xuống nếu không thì sẽ bị phạt về tội làm mất mỹ quan thành phố. Tôi tìm được một chỗ che dù bán trà đá, còn vợ và các con vẫn tiếp tục đi bán "may rủi". Con cái đều thất học, chúng không những đói cơm mà còn đói cả chữ. Sống chung với bọn du thủ du thực, cướp bóc tại bến xe lòng tôi không yên chút nào. Nhiều đêm cả nhà phải ngồi bó gối chờ trời dứt cơn mưa, những trận mưa xối xả hất tung cả lều, ướt cả chỗ nằm... Lắm khi sáng ra, quần áo, đồ đạc, nồi niêu bị chúng nó "cuổm" đi mất. Nhiều lúc nghĩ lại giai đoạn ấy thấy kinh hồn khiếp vía.

    Thời gian sau tôi lại đi xin được một chỗ ở tạm dưới mái hiên một người mới quen. Người này giới thiệu cho tôi đi dạy kèm. Vợ tôi thì mở quán cốc bán thức ăn bên đường. Dần dà cuộc sống tạm ổn định lại, tôi cho hai đứa nhỏ đi học. Nhưng rồi thành phố phát triển theo nhu cầu đổi mới, chỗ tôi ở bị chủ nhà đòi lại để xây dựng thêm. Thật là gian nan, tôi đâu có tiền để thuê nhà khác. Cả nhà lại rời đi nơi khác, cuộc đời chúng tôi không khác gì dân Do Thái, cứ bị xua đuổi liên miên, không biết đâu là nhà.

    Năm 1994, gia đình tôi lại trôi giạt từ Sài Gòn về làng Phước Bình vì có người giới thiệu bán cho một căn nhà lá rẻ tiền trên nghĩa địa, giá 12 chỉ vàng cho trả góp. Vì quá sốt ruột tìm chỗ che mưa trú nắng cho vợ cho con, "một liều ba bảy cũng liều cầm bằng như trẻ chơi diều đứt dây" tôi tự nhủ với lòng mình như vậy, tôi nhắm mắt đưa chân về khu nghĩa địa này. Vợ con tôi không đi bán vé số dạo nữa vì dân cư nơi đây quá nghèo, lại thưa thớt nên bắt đầu làm quen với môi trường sống mới. Hàng ngày cả nhà đi làm mướn, kể cả ở đợ, bưng phở cho quán ăn, tối về nhà ngủ. Tôi cố gắng đi xin việc làm. Thật là đau đớn, nhiều chỗ nói thẳng vào mặt tôi: "Què cụt mà làm được gì?". Tôi cảm thấy tủi thân, mắt lại cay cay, vội quay mặt trốn đi.

    Mãi mấy tháng sau tôi được vào làm ở một sở sản xuất hàng gỗ mỹ nghệ xuất khẩu, khâu chà nhám và pha màu. Trong thời gian làm việc tôi mắc bệnh trỉ, sa hậu môn nặng, ra máu nhiều nên phải nghỉ làm. Chẳng bao lâu sau, cơ sở này cũng đóng cửa vì không có hợp đồng. Sống ở khu nghĩa địa này, ngoài cái lo đói rét, bệnh tật, còn nỗi kinh hoàng khác là vợ và các con tôi luôn luôn sợ hãi, vì nhìn đâu cũng thấy mồ mả. Đúng là người sống ở chung với người chết. Những đêm mưa sấm lập lòe, những trưa nắng gắt, khu nghĩa địa này bốc lên một mùi hôi thối lợm người. Nếu ở mãi với cảnh này, tâm sinh lý các con tôi sẽ bị khủng hoảng nặng. Biết vậy nhưng biết làm sao hơn, "lực bất tùng tâm" là vậy. Có người hỏi tôi sao giỏi chịu đựng vậy? Phi thường quá, bản lãnh quá. Xin thưa là "quân tử cố cùng".

    Rồi tai họa gián xuống cho tôi. Mẹ tôi ngoài quê qua đời. Khi tôi đi, bà chị tôi xin nhận phụng dưỡng mẹ già. Nhận được điện tín mẹ mất mà không có tiền mua vé xe về quê chịu tang mẹ, thật là buồn tủi. Vợ tôi thương tình đã phải chạy vại tìm người quen vay. Năm lần, bảy lượt mới vay được một ít tiền làm lộ phí. Đau khổ làm sao, đường sá xa xôi ba ngày sau tôi mới về tới. Ngoài quê nghèo khó quá nên xác mẹ tôi không để lâu nên tôi không được nhìn mặt mẹ lần cuối cùng. Mẹ tôi đã mất một phần vì sức yếu, bệnh đau không có thuốc, một phần vì đói nghèo và thương con tật nguyền nên đã sớm tắt.

    Hình như bất hạnh chưa buông tha tôi. Khu nghĩa địa nơi chúng tôi cư trú được lệnh giải tỏa. Ruột gan tôi rối bời. Buồn quá, biết ở đâu bây giờ, tiền nhà ở đây cũng chưa trả hết. Công ăn việc làm của vợ con ngày càng bấp bênh, ban quản lý chợ và đội truy quét đường phố đuổi chạy suốt ngày, không bị tịch thu bàn ghế, nồi niêu chén bát là may rồi. May thì có may nhưng đói thì vẫn đói. Quán cơm bình dân đó đã nuôi sống gia đình tôi từ bấy lâu nay, bây giờ cứ lo chạy trốn thì cả nhà lấy gì mà ăn. Thêm vào đó, chúng tôi còn phải lo nuôi mẹ vợ hay bị đau ốm và em trai vợ bị bệnh tâm thần. Gánh gia đình đã nặng nay càng nặng thêm. Lúc này tôi khủng hoảng vô cùng. Rồi một phép lạ chợt đến.

    Tôi được bạn bè, cũng là thương phế binh cho biết hiện nay ở hải ngoại có nhiều mạnh thường quân đang phát động chương trình cứu trợ thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Tôi liền kính thư gởi đi khắp nơi. Thật là may mắn, đúng như lời thánh kinh: tìm thì gặp, xin thì cho, gõ thì mở. Một số mạnh thường quân đã nghe tiếng gõ, mở rộng cửa lòng ban cho chúng tôi quà tiền. Nhờ vậy, tinh thần tôi đỡ căng thẳng, nhất là có người thương tình bán cho một chỗ đất trả góp. Tôi cảm thấy lòng mình thật bình an và tràn đầy hạnh phước. Đến cuối năm 1996, tôi được một số anh em bạn bè cho vay không phải trả lãi nên đã hoàn tất được một căn nhà nhỏ đủ che mưa trú nắng cho cả gia đình gồm 9 người. Tôi đã dọn về đây từ đầu năm 1997.

    Mặc dầu nỗi đau vẫn còn đây, gia đình chúng tôi và tập thể anh em thương phế binh thành kính cảm tạ thịnh tình của những hội cứu trợ, hội thiện nguyện, hội nhân đạo, hội cựu quân nhân, những mạnh thường quân, những con người luôn sống theo mệnh lệnh của trái tim tại Pháp, Mỹ, Úc, Canada, Tân Tay Lan, Đức... Để tỏ lòng tri ân đối với những con người có tấm lòng vàng này, tôi xin đại diện tập thể anh em thương phế binh trân trọng cảm ơn những tập thể, những cá nhân, những chiến hữu vô danh (dấu tên) đã hy sinh tiền của, công sức, tâm huyết mình trong thời gian qua, ngay trong hiện tại và cả tương lai nữa cho tập thể thương phế binh ở quê nhà.

    *****

    Sau đây là danh sách tham khảo của đa số anh em thương phế binh đã nhận tiền và phẩm vật trong suốt thời gian qua. Cá nhân tôi vì không thể gom nhặt đầy đủ những tư liệu nên có thể thiếu sót, kính mong quí vị mạnh thường quân, vốn đã giàu lòng từ ái, niệm tình tha thứ cho. Chúng tôi xin ghi ân quí vị ân nhân ở khắp năm châu bốn bể như sau:

    Ở Pháp:
    - Bác sĩ Phan Minh Hiển, người đã năng nổ đóng góp trong công tác thiện nguyện rất nhiều. Năm 1986, ông đã thành lập Hội Médecins du Vietnam cùng với một số bác sĩ Việt Nam thiện chí để giúp các thuyền nhân trên Biển Đông. Từ năm 1992, hội hoạt động thêm ở quốc nội: mở một số chẩn y viện, cấp học bổng cho các em học sinh nghèo, mở nhiều lớp học tình thương cho trẻ em mồ côi, bụi đời, giúp nạng và xe lăn cho người tàn tật, phong cùi. Năm 1994, ông thành lập lập Hội Giúp Đỡ Những Người Tàn Tật Vì Chiến Tranh để đánh động dư luận cộng đồng Việt Nam hải ngoại về thảm trạng của những phế binh không nuôi sống được bản thân và gia đình. Anh em thương phế binh ở đây hầu như ai cũng nhận được tiền cứu giúp của bác sĩ Hiển từ năm 1994 đến 1997. Có anh mỗi năm nhận được hai lần, mỗi lần ít nhất 300 ngàn đến một triệu đồng Việt Nam.

    Về sau, bác sĩ Hiển đã giúp chúng tôi bằng cách giới thiệu cho các nhà mạnh thường quân có lòng từ tâm trực tiếp gởi cho từng cá nhân thương phế binh và hiện nay ông cũng đang vận động gây quỹ để tiếp tục giúp đỡ những anh em thương phế binh chưa được trợ cấp bên nhà. Lúc trước cùng cộng tác với ông có bác sĩ Trần Quang Lộc và ông Nguyễn Quang Hạnh.

    - Giáo sư Lương Thị Nga, người đã đứng ra vận động bênh vực cho quyền lợi anh em thương phế binh ở Việt Nam rất lớn. Bà đã cưu mang, giúp đỡ tiền bạc cho nhiều thương phế binh.

    Nhưng người chúng tôi mang ơn nhiều nhất là nhà báo Nguyễn Văn Huy ở Paris, mặc dù chưa bao giờ được dịp liên lạc trực tiếp với anh. Những bài viết của anh đã gây xúc động lòng người và làm phong trào cứu trợ thương phế binh trong nước có được tầm vóc như ngày nay. Ơn này chúng tôi không bao giờ quên.

    Ở Mỹ:
    - Hội Huynh Đệ Chi Binh của ông Lê Đình Vọng ở San José. Ông cũng đã giúp đỡ cho một số anh em thương phế binh ở Sài Gòn mỗi người 50 USD. Hiện nay ông vẫn tiếp tục công tác từ thiện này. Anh em chúng tôi cũng đang trông chờ ở ông lắm đấy.

    - Ngoài ra, còn có một hội - tên gì anh em chúng tôi không rõ lắm, có lúc ghi là bác Tổng, có lúc là bác Cả tặng - nhưng cứ mỗi năm một lần gởi tặng một số anh em mỗi người 50 USD, mỗi lần giúp chừng 20-30 người. Xin có lời chân thành cảm tạ.
    (Ghi chú: đây là Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức và Nam Định ở San José do cựu Đại Tá Ngô Thế Linh và ông Cao Thiện Chánh điều hành)

    - Gia đình Mũ Đỏ ở San José, tổng thư ký Hải Âu và mạnh thường quân giúp đỡ.
    - Bà Hoàng Minh Thúy (tạp chí Xây Dựng, Texas). Bà đã giúp đỡ các anh em thương phế binh thuộc miền Nam, Sài Gòn. Mỗi anh em tệ nhất cũng nhận được của bà một hai đợt tiền, mỗi đợt là 50 USD từ năm 1994 đến nay. Bây giờ chương trình trợ giúp của bà vẫn còn tiếp tục.
    - Ông Ngô Văn Tuyên, thành viên ban chấp hành Hội thiện nguyện HO (New Orleans, Mỹ), đã giúp đỡ cho mỗi anh em 50 USD vào năm 1995.
    - Ông Nguyễn Văn Quởn ở Houston đã giúp cho một số anh em thương phế binh mỗi người 50 USD.
    - Ông Vũ Trọng Mục, hội trưởng Hội Cứu Trợ Thương Phế Binh và Cô Nhi Quả Phụ, bà Hạnh Nhân, hội phó (Santa Clara) đã và đang vận động cứu giúp cho anh em thương phế binh và cô nhi quả phụ mỗi người 50 USD.
    - Hai bà Bích Huyền - Quỳnh Lưu (chồng là Phó Thịnh Việt) và quí ông Chu Tất Tiến, ông Toàn, những con người thường xuyên quan tâm đến đời sống anh em thương phế binh ở quê nhà bằng cách vận động trong chương trình phát thanh "Tâm tình bạn gái" ở California, những tấm lòng vàng có tâm tình nhường cơm xẻ áo cho anh em thương phế binh. Chính hai bà đã tiên phong trong cuộc vận động này. Hai bà đã giúp cho một số thương phế binh mỗi người 50 USD và có gởi tặng băng cassette "Tâm tình bạn gái".

    Trong chương trình này, phải nhắc đến bà Thủy ở Costa Mesa đã âm thầm giúp cho một số anh em thương phế binh và số anh em này cũng đã kính thư cảm tạ tấm lòng vàng của bà.

    - Cô Võ Thị Mỹ Lan (Santa Clara) có giúp cho một số anh em ở Sài Gòn - Thủ Đức mỗi người từ 50 đến 100 USD vào các dịp lễ lạc và ngày Tết.
    - Bà Trần Thị Mận ở Westminster có giúp cho một số anh em thương phế binh mỗi người 30 USD vào dịp Tết qua.

    Ở Úc:
    - Đại Tá Vũ Ngọc Hướng, hội Cựu Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Trung Ương. Ông đã thực hiện chuyến đi quanh Châu Âu và Hoa Kỳ đến ba tháng, mục đích vận động các nước thành lập hội cựu quân nhân ngõ hầu có điều kiện giúp đỡ các anh em thương phế binh ở quê nhà và tìm gặp các chiến hữu cũ và các hội đoàn thiện nguyện vào năm 1996.

    Hiện nay, ông Phạm Văn Quát thay ông vì năm nay sức khỏe của ông có phần sa sút. Tuy thế ông Hướng vẫn hết mình vận động bênh vực quyền lợi, giúp đỡ anh em thương phế binh trong nước. Ngoài ra trong ban chấp hành hội gồm có ông Nguyễn Dân Cường, phó chủ tịch nội vụ, chiến hữu Lê Văn Thắng phó chủ tịch, Tạ Quang Hải, phó chủ tịch nguyên vụ kiêm chủ tịch chi hội KSL.

    - Các anh Nguyễn Cảnh Tân, Đặng Văn Đạt cùng các anh trong Gia Đình Mũ Đỏ ở Úc. Anh Lê Minh Phó, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Văn Rạng, Phùng Hoàng Tuyết, Trương Đăng Sĩ, Trần Văn Đức, đã giúp cho một số anh em thương phế binh mỗi người 100 Úc kim.

    Ở Canada:
    - Ông Dương Ngọc Hướng (Ottawa) thành lập Quỹ Yểm Trợ Người Khuyết Tật có giúp cho anh em thương phế binh mỗi người từ 50 USD đến 100 USD. Ông cũng giúp đỡ xe lăn và tiền bạc ở khu vực miền Trung: Quảng Nam- Đà Nẵng.

    Xin có lời cảm tạ Gia Đình Mũ Đỏ Canada.
    - Hội Viet Can Philanthropy Foundation do ông Nguyễn Cao Cảo, Phạm Kim Hưng, Đỗ Quang Trọng (đại diện), cùng các bác sĩ, kỹ sư, nhà doanh nghiệp, thương gia, nhà hảo tâm, những vị mạnh thường quân giúp cho một số thương phế binh nặng mỗi người 300 CAD. Hiện nay hội vẫn tiếp tục làm việc để tiếp tục giải quyết số hồ sơ của thương phế binh chưa được giúp.
    - Ông Nguyễn Hữu Lương (Québec) có giúp cho một số anh em thương phế binh ở Sài Gòn mỗi người 50 USD.

    Ở Đức:
    Có bác sĩ Bùi Văn Nghiệm. Vào cuối năm 1995 ông có giúp cho một số thương phế binh mỗi người 50 DEM. Ông có nhã ý giúp cho anh em thương phế binh tự tạo cuộc sống lâu dài.

    Ở Tân Tây Lan (New Zealand), vào tháng 5-1997 anh Lê Quang Long đại diện có giúp cho một số thương phế binh ở Sài Gòn và Thủ Đức mỗi người 500 ngàn đồng Việt Nam (50 USD). Ngoài ra tôi có ba vị ân nhân tôi không thể nào quên đó là ông Bách, bà Hồ Bích Vân và ông Nguyễn Công Thành ở Mỹ. Xin chân thành ghi lòng tạc dạ quí vị ân nhân kính ái.

    Theo lời bác sĩ Phan Minh Hiển, cộng đồng người Việt hải ngoại đã quyên góp hơn 500 ngàn USD gởi về giúp thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa trong suốt 5 năm qua.

    *****

    Tôi còn biết, ngoài việc cứu trợ các anh em thương phế binh như chúng tôi, quí ân nhân và hội đoàn thiện người Việt hải ngoại còn ưu ái giúp đỡ một số đồng bào bất hạnh khác trong nước nhà qua các tu sĩ hai tôn giáo lớn tại Việt Nam, Công giáo và Phật giáo. Công đức này Trời cao sẽ đền đáp xứng đáng. Chúng tôi, những con người trần thế không toàn vẹn thân thể, chỉ ghi nhận nơi tấm lòng vàng của quí ân nhân và cầu nguyện cho chương trình cứu trợ được lâu bền.

    Chính việc làm bằng con tim và khối óc nhân ái của tất cả quí vị ở hải ngoại đó đã đem đến cho tất cả tập thể thương phế binh chúng tôi hơi thở của sự sống, hàn gắn được nhiều rạn nứt, đổ vỡ, cứu được nhiều gia đình có cơm ăn, áo mặc, con cái học hành và có cơ hội chữa lành được bệnh tật và nhất là đã an ủi, khích lệ chúng tôi về đời sống tinh thần rất lớn lao và đầy ý nghĩa, khiến anh em chúng tôi sống cuộc sống vui thỏa, bình an và quên đi phần nào nỗi đơn độc trong cuộc sống đầy đau thương và bất hạnh này.

    Mong ngày càng có nhiều hơn những con người, những tấm lòng nhân hậu, biết thương xót anh em, đồng loại, đang vô cùng cơ cực, chết dở sống dở, chờ mong sự giúp đỡ của tất cả quí vị từng ngày từng giờ hầu sống nốt những ngày của quảng đời còn lại. Chúng tôi nguyện ghi lòng tạc dạ.
    Dẫu mai đây có qua đời, chúng tôi cũng lấy làm mãn nguyện mà ngậm cười nơi chín suối. Xin mượn những trang giấy này làm bia lòng, bia miệng ghi tạc những quả tim nhân ái luôn tha thiết hướng về những nỗi đau thương của đồng loại, trên tinh thần "lá lành đùm lá rách", "thương người như thể thương thân".

    Hy vọng sợi dây thân ái giữa trong và ngoài nước ngày càng thắt chặt và đất nước này sẽ vươn lên. Hy vọng quê hương rộn lại tiếng chim, nụ cười nở rộ trên môi trẻ thơ và các cụ già vui sướng nhìn đàn con cháu khôn ngoan nên người. Hy vọng mọi người chia sẻ niềm hãnh diện là người Việt Nam.


    6. Không Còn Nước Mắt Để Khóc
    Thật là vui mừng khi gặp lại Nam, người bạn phế binh đồng thời cũng là bạn học cũ năm xưa. Lúc này gương mặt của Nam sạm nắng đầy vẻ phong trần, tóc của Nam cũng đã bạc màu, ngã sang màu trắng. Cách ăn mặc của Nam cũng đã thay đổi, tươm tất hơn và không còn luộm thuộm như xưa. Đêm nay khí trời mát mẽ, biết Nam thích uống trà tôi đã pha trà đặc biệt mời Nam uống. Hai chúng tôi ngồi trước hàng hiên nhà miên man nói chuyện, nói đến quá nửa khuya vẫn chưa ai cảm thấy buồn ngủ. Nam kể lại những chuyện trong hiện tại, tôi nhắc đến những chuyện ngày xưa, chuyện mấy chục năm về trước mà hai chúng tôi đã trải qua.

    *****

    Vào giữa thập niên 60, chiến tranh lan rộng khắp lãnh thổ. Báo chí loan tin quân cộng sản miền Bắc đã xâm nhập vào Nam càng ngày càng nhiều, nhiều trận đánh lớn đã xảy ra ác liệt từ các vùng đồi núi trên cao nguyên xuống tận các tỉnh duyên hải và đồng bằng sông Cửu Long. Thành thị và nông thôn không còn nơi nào yên bình được nữa. Lúc đó Nam và tôi đang còn là học sinh trường trung học công lập, hai chúng tôi học chung lớp với nhau từ năm đệ thất. Bạn học của tôi nhiều đứa đã nhận được lệnh động viên lên đường nhập ngũ, riêng Nam cùng với Minh Tề và Vượng thì làm đơn tình nguyện.

    Chỉ còn vài ngày nữa là Nam lên đường và cho chúng tôi biết sẽ vào Trại Nhập Ngũ số 3. Tôi cùng vài bạn thân tiễn Nam bằng một chầu cà phê ở quán Năm Dưỡng. Mấy tháng sau tôi nhận được thơ của Nam cho hay đã được đổi về miền giới tuyến Quảng Trị. Năm sau, tôi cũng nối tiếp bước chân Nam vào Trại Nhập Ngũ số 3. Ra trường, tôi được thuyên chuyển về vùng Bạc Liêu. Ở đó hơn một tháng, tôi được lệnh hoán chuyển về bộ tư lệnh sư đoàn đóng quân tại Cà Mau. Từ ấy chúng tôi không còn liên lạc với nhau nữa vì mỗi đứa ở một nơi, xa cách ngàn trùng.

    Vào một ngày âm u của tháng Bảy năm 1962 ở miền cực Nam, trời mưa lất phất khí trời se lạnh, đại đội chúng tôi được lệnh hành quân tảo trừ cộng quân trong rừng U Minh. Tin tức tình báo cho biết Tiểu Đoàn U Minh 1 của cộng quân đang hoạt động ráo riết tại đây. Đơn vị chúng tôi được chia ra làm hai cánh, mỗi cánh đi về một hướng và sẽ gặp nhau tại tiểu khu Năm Căn năm ngày sau đó. Tiểu đội của tôi vượt qua mấy cánh đồng mênh mông nước, lội qua mương rạch tiến vào một xóm nhỏ lác đác vài căn nhà lá. Nơi đây vắng bóng đàn ông, chỉ thấy toàn ông già bà cả, đàn bà và con nít ngồi đứng trước nhà, ngoài sân hay trên bờ ruộng. Chúng tôi hỏi đàn ông đi đâu hết rồi, họ chỉ về phía bàn thờ trong nhà rồi im lặng.

    Trời vẫn mưa lất phất, mọi người chúng tôi ai nấy đều ướt sũng. Tiểu đội của tôi dừng chân được một lúc đã nhận lệnh của đại đội trưởng tiếp tục hành quân, có người chỉ kịp ngồi uống một ngụm nước, người khác đốt một điếu thuốc đã vội vã đeo ba lô lên vai cầm súng đi tiếp. Chúng tôi rời thôn xóm nhỏ tiếp tục lên đường truy lùng địch vì cách đây vài hôm một chiếc xe đò bị giựt mìn trên con lộ dẫn về Năm Căn, làm nhiều thường dân bị thiệt mạng và bị thương. Chúng tôi đi hàng một, mon theo con đường mòn nhỏ dẫn vào khu rừng tràm gần đó, cò súng lúc nào cũng sẵn sàng. Tôi đi giữa đoàn người và bám sát gót người đi trước. Thật là an toàn, tôi thầm nghĩ. Kinh nghiệm này tôi học ở những đàn anh đi trước. Mắt tôi chỉ nhìn một phía bên đường và các lùm cây ở phía xa xa, phía bên kia thì có đồng đội khác nhìn.

    Chúng tôi đi như vậy gần hai tiếng đồng hồ liền, chỉ thấy hai bên bờ ruộng cỏ mọc vô tri và những đám mạ xanh chạy dài trước mắt. Thình lình, từ trong các bụi rậm phía trước có tiếng súng nổ, đạn bay cheo chéo ngang tai. Những người đi đầu tức tốc nhảy xuống núp hai bên bờ ruộng bắn trả lại. Tôi cũng vội vàng nhảy đại xuống ruộng thì... "Ình" một tiếng, tôi bị hất tung lên khỏi mặt đất rồi rớt xuống một cái "chạch" trong vũng nước. Tôi vừa đạp phải mìn. Trái mìn định mạng được ngụy trang kín đáo dưới bờ ruộng xé nát đôi chân của tôi. Hai tai bị ù, thân mình ê ẩm. Phản ứng đầu tiên của tôi là quơ tìm cây súng định bắn trả lại nhưng... ôi, sao đau buốt quá ở hai chân!

    Tinh thần tôi dao động, hoang mang. Thân thể tôi lem luốt bùn sình, cái ba lô nặng nề trên vai càng làm tôi khó chịu, tôi muốn cởi nó ra nhưng không còn sức. Một anh bạn bò tới chích cho tôi một mũi thuốc cầm máu, rửa ráy qua loa và băng bó hai khúc chân của tôi. Tôi còn nghe loáng thoáng tiếng tiểu đội trưởng gọi pháo binh và trực thăng đến tiếp viện. Vài phút sau đó, tiếng đạn pháo từ tiểu khu Cà Mau tới tấp rót xuống bìa rừng và tiếng súng của đồng đội tôi bắn về phía các bụi cây đằng trước làm tôi hồi tỉnh trở lại. Độ mười lăm phút sau, trực thăng bay tới và hạ xuống một bãi đáp nhỏ cạnh bờ ruộng. Hai thằng bạn phụ khiêng tôi lên băng ca do hai y tá từ trực thăng mang tới. Tôi còn tỉnh táo trăn trối cùng thằng em kết nghĩa khi nó dìu tôi đến bãi đáp an toàn. Trực thăng tải thương chuyển tôi về Quân Y Viện Cần Thơ. Từ đó tôi bị bất tỉnh nhân sự, không còn biết gì nữa.

    Tôi tỉnh dậy trong phòng hồi sức, tinh thần còn bàng hoàng ngơ ngác trước quang cảnh khác lạ. Mùi ê te nồng nặc quanh phòng làm tôi lo sợ. Nhớ lại chuyện vừa xảy ra, tôi liền nhìn xuống phía dưới thì... trời ơi, hai khúc chân của tôi đâu mất rồi. Người ta đã cưa mất hai chân của tôi lên tới gối. Tôi buồn tủi khóc thầm trong dạ, cha mẹ đã sinh ra, nuôi nấng cho con nên vóc nên người và ngày hôm nay thân hình không còn trọn vẹn. Phải nói gì đây với người thân về nỗi bất hạnh này. Trái mìn ác nghiệt kia đã hủy hoại thân thể tôi, biến tôi thành kẻ tật nguyền. Tôi căm thù nó, thù những người đã dùng nó để hãm hại tôi. Lúc đó tôi chỉ thấy hận thù và căm ghét tất cả mọi người, ghét luôn những ông bác sĩ, bà y tá đến chăm sóc cho tôi, và cũng sẵn sàng thù ghét những người nào tỏ ra ghê sợ hay tránh né tôi. Cuộc đời tôi từ nay sang một ngã rẽ mới, ngã rẽ của thua thiệt và mặc cảm. Buồn nhất là thua kém với chính những người mình từng quen biết, gia đình, bạn bè và nhất là với những bạn gái. Một thử thách đầy cay nghiệt mới trong đó tôi phải làm nhiều cố gắng để ít chịu phần thua thiệt nhất. Cơn khát nước dữ dội làm tôi khó chịu vô cùng. Tôi bị mất quá nhiều máu nên thiêm thiếp mê đi.

    Vài ngày sau, tình trạng hiểm nguy thực sự qua đi, người ta chuyển tôi lên Trại 1 điều trị. Thấy tôi thương tích quá nặng, thường vụ đại đội cử anh Nhàn binh nhất ở luôn trong trại để săn sóc tôi. Anh Nhàn mỗi ngày giúp tôi đi tiểu tiện và lo cơm nước, tôi cũng viết thư báo tin cho gia đình. Lần hồi nỗi sầu của tôi cũng nguôi ngoa vì chung quanh nhiều người còn khổ sở hơn tôi, có người chỉ còn khúc thân, tất cả đều bị mất. Tôi tự an ủi dầu sao mình vẫn còn hai tay và mắt mũi. Tôi bán sợi dây chuyền đeo ở cổ để tiêu xài vì tiền lương chưa chuyển tới và gia đình chưa ai hay biết.

    Những ngày đầu ở Trại 1 thật là khủng khiếp. Hai chân tôi bị nhiễm trùng nặng vì dính bùn sình và sắt rỉ sét của trái mìn nên da thịt hai đùi tôi có mủ và bốc mùi hôi thối. Mỗi lần y tá đến rửa vết thương là mỗi lần kinh khiếp, tim tôi co thắt lại. Tôi không đủ can đảm nhìn anh y tá thay từng miếng băng ở hai đùi, anh có hơi mạnh tay vì máu khô và mủ bám chặt vào các miếng băng côm prết mặc dù đã xịt rất nhiều nước ốc xi. Mỗi lần như thế tôi chỉ biết nắm chặt hai tay vào song giường, hơi thở khó khăn và cắn răng lại chịu đựng. Tôi cố đè nén cơn đau để tiếng rên không vuột ra khỏi miệng nhưng nước mắt và nước mũi cứ chảy ra dầm dề. Tôi ít biết chửi thề, văng tục nhưng nhiều lúc đau quá cũng thốt lên vài tiếng, sau đó lại mắc cở với chính mình. Cực hình đã xong, tôi xót xa nhìn xuống từng mảng da thịt của tôi dính đầy các băng trắng lạnh lùng nằm trong cái xô hôi hám phía dưới chân giường.

    Hơn một tuần sau, cô chú tôi, mẹ tôi, chị hai tôi từ Chợ Lớn xuống Cần Thơ vào trại thăm tôi. Lòng tôi buồn bã khi gặp lại người thân. Cả nhà chỉ biết ôm tôi vào lòng rồi khóc nức nỡ. Tôi chỉ im lặng khóc và không nói lời nào, dòng lệ tôi cứ tuôn trào khi cô chú, mẹ, chị hỏi thăm. Được gia đình vào thăm lòng được an ủi nhưng tâm trạng luôn cảm thấy có lỗi với người thân, tôi đã không giữ được thân hình được toàn vẹn như mọi người khác. Tôi không còn bình thường nữa!
    Bất hạnh lớn nhất của đời lính là bị cụt chân, cụt tay nên không ai muốn nghĩ đến. Chẳng thà chết trên chiến trường hay trong quân y viện, gia đình thân nhân có buồn nhưng rồi cũng qua đi, nhưng phải kéo dài tấm thân tàn phế suốt những ngày còn lại không gì khùổ sở cho bằng. Nếu được chết ngay lúc này có lẽ tôi rất lấy làm mãn nguyện vì dầu sao cũng đã gặp lại tất cả mọi người thân trong gia đình. Nhưng tôi đã không chết.

    Mặc dù không muốn nghĩ đến sự tật nguyền nhưng cái rủi không ai tránh được. Điều trớ trêu là cái rủi đó đã xảy đến với tôi, thật là buồn. Mấy ngày qua tôi cứ trông ngóng, lòng dạ xốn xang chờ đợi người thân, nay gặp được lòng dạ hả hê. Tôi cứ sợ gia đình tôi trách móc nhưng không, mọi người đều tỏ ra thương yêu tôi hơn bao giờ hết. Tôi không những được an ủi mà còn được cho tiền, quà cáp và sách báo để đọc.

    Gần một tháng sau tôi được chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hòa bằng trực thăng và được phân phối về Trại Ngoại Thuơng 4. Gia đình, bà con, bạn bè khắp nơi nghe tin tôi được chuyển về Tổng Y Viện đến thăm tôi đều đặn, do đó cũng cảm thấy đôi phần an ủi, nỗi đau buồn dần dà vơi đi. Với thời gian nhịp độ đến thăm không đều như trước, có lẽ mọi người bị bận rộn công việc làm ăn. Thời buổi này rất khó khăn nên tôi cũng thông cảm. Mặc dầu vậy cứ mỗi buổi chiều, tại khu Ngoại Thương 4 bà con thân nhân thương bệnh binh đến thăm nuôi đông đảo, ăn nói ồn ào, tôi ngồi trên chiếc xe lăn nhìn thiên hạ mà không khỏi buồn lòng. Tôi thường tìm một góc hành lang đầu trại lặng nhìn người qua kẻ lại, không muốn làm quen với ai. Tôi là kẻ cô đơn, lòng đầy mặc cảm. Nếu giờ này tôi còn đủ hai chân có lẽ tôi còn đang hành quân đâu đó hay về phép dạo phố như mọi người.

    Trong Quân Y Viện Cộng Hòa, những thương binh được chia ra điều trị tại nhiều khu vực khác nhau, chúng tôi những người bị cụt hai chân ở khu ngoại thương 4, những khu khác dành cho người bị cụt hai tay, cụt một chân, cụt một tay, mù mắt... Những người bị mất cả tứ chi hay bị liệt thì ở chung một khu, nơi đây họ được chăm sóc tận tình và chu đáo hơn. Ơ? trại 4, tôi có thêm hai thằng bạn mới. Thấy tôi ngồi ủ rủ một mình, thằng Quí thường đến an ủi tôi, còn thằng Lô thì hay kéo tôi nhập vào những cuộc vui do anh em phế binh trong trại tổ chức để quên ưu phiền. Cả hai thằng Quí và Lô đó đều bị cụt hai chân như tôi. Những cuộc vui thường là những buổi họp mặt cùng nhau ca hát tân nhạc hay cải lương, nhiều thằng kể chuyện tếu lâm để cùng nhau cười. Những anh em nào được gia đình đến thăm nuôi thường kêu các bạn bè ngồi lại ăn uống, nhậu nhẹt cho hết ngày giờ. Vui nhất là được các phái đoàn đến thăm, chúng tôi thường được tặng quà và còn được những cô học sinh sinh viên xinh đẹp đến hoi han an ui.

    Tháng ngày cứ thầm lặng trôi qua, tâm hồn tôi cũng bớt phần cay đắng. Tôi không còn nghĩ nhiều đến sự tàn phế của mình và cũng không còn thu mình trong vỏ ốc cô đơn, mặc cảm. Tôi hòa nhập vào cuộc sống với anh em trong trại. Thời gian sau đó, tôi và Lô cùng ngồi trên chiếc xe lăn, vui vẻ dạo phố Sài Gòn. Chúng tôi làm ngơ không để ý đến những cái nhìn tò mò của nhiều người khác. Nhiều lúc bất mãn, anh em chúng tôi vào một vài quán nước bày tỏ sự bất bình về sự đối đãi không lịch sự của các nhân viên phục vụ, đó là vào thời điểm đầu thập niên 70. Sau này chính phủ có ra nhiều biện pháp nâng đỡ phế binh nên anh em chúng tôi vui vẻ trở về đời sống bình thường trong những khu vực định sẵn.

    Riêng tôi thì trở về nhà sống với mẹ và với chị hai tại Chợ Lớn. Ở được hơn nửa năm trong tình gia đình đầm ấm, tôi vẫn thấy nỗi buồn xâm chiếm. Tôi xin phép gia đình cho vào an dưỡng tại Trung Tâm Hồi Lực vì chỉ ở nơi đây tôi mới thực sự tìm được chỗ đứng của mình. Tại đây, thật là bất ngờ. Tôi gặp lại Nam, người bạn học năm xưa, sau bao năm xa cách không đứa nào thư từ cho nhau, định mệnh đã dung rủi cho hai đứa tôi gặp lại nơi đây.

    Buổi sáng hôm ấy, trong Trại B Hồi Lực anh em trong trại truyền tai nhau sẽ tiếp nhận hai bệnh nhân mới từ miền Trung chuyển vào, đặc biệt có một anh mù mắt dẫn theo một đứa con nhỏ. Vừa từ phòng bác sĩ về nghe nói có bạn mới, tôi đẩy lần xe lăn vào dãy có giường ở giữa trại, nơi hai người bạn mới vừa được chuyển tới nằm để xem có quen hay không? Thật ra thì ở trại hồi lực này, ngoài chuyện chờ đợi thân nhân tới thăm và đàm tiếu với nhau, chúng tôi không có việc gì khác để tiêu khiển ngày giờ là chờ có thêm thương binh mới để đến hỏi thăm. Người thì chỉ vẻ cách sống trong trại, người thì hỏi thăm thương tật, nói chung chỉ vẻ đủ thứ chuyện để thấy ngày tháng đỡ nhàm chán.

    Một trong hai người mới tới ngồi trên giường, mặt quay vào phía trong. Tôi đẩy xe tới bên cạnh khẽ gọi: "Chào anh!". Người vừa mới tới quay về phía tôi, mặt ngước lên trời. Tôi giật mình kêu lên "Nam!".

    Trời ơi, đúng là thằng Nam, bạn học cũ của tôi ngày nào đây mà. Gương mặt của Nam sao dị hợm quá, một bên mặt bị nám đen, con mắt trủng sâu trong vết sẹo đen thâm xì, con mắt còn lại chớp chớp nhưng tinh thể đã bị đục thũng.

    Khuôn mặt tuy đã biến dạng nhưng tôi vẫn nhìn ra Nam, thằng bạn học cũ. Nam vẫn ngồi bất động. Tôi đẩy xe chồm người tới nắm lấy tay Nam, tiếng nấc mắc nghẹn ở trong họng. Nam cũng tò mò nắm lấy bàn tay tôi nhưng ngẩn ngơ không biết là ai. Tôi xưng tên thì Nam giật mình sờ soạn rờ vào đầu tôi, kéo tôi thật mạnh vào lòng. Hai đứa ôm nhau, thân hình Nam run run xúc động, còn tôi thì khóc nức nở như một trẻ thơ. Ôi, thằng bạn thân nhất thời xưa giờ đây còn tàn phế hơn tôi. Không những Nam bị mù hai mắt mà còn bị cụt mất một chân dưới gối. Sau giây phút xúc động, hai đứa tôi ngồi cạnh bên nhau nói chuyện thật lâu.

    Cuộc đời thật trớ trêu, cả hai đứa năm xưa chơi thân với nhau, giờ đây mỗi đứa mang một thương tật nặng nề, hình hài không còn nguyên vẹn. Anh em trong trại tôn trọng sự xúc động của chúng tôi nên đã tự động tản đi nơi khác. Thế là Nam cùng đứa con trai trở thành những người bạn thân tình trong gia đình mới của chúng tôi.

    Phía trước Trại B có một sân cỏ thật thoáng rộng. Những lúc trời chiều gió thoảng, anh em trong trại thường ra nơi đây tụm năm tụm ba ngồi hóng mát. Tôi cùng Nam thường ra ngồi trên đệm cỏ nói chuyện, thằng con nhỏ của Nam vần vô tư tung tăng chạy nhảy, hồn nhiên đi bắt cào cào rồi chạy đền khoe. Nam kể cho tôi nghe những năm tháng thăng trầm của đời lính chiến.

    Sau khi mãn khóa huấn luyện quân sự, Nam được chuyển ra đơn vị mới, Sư Đoàn 1 ở Huế. Đời lính có lúc lên lúc xuống nhưng rồi cũng qua đi. Sau nhiều chiến công rực rỡ, Nam được thăng chức trung đội trưởng. Những lần về bộ tư lệnh họp, Nam có dịp làm quen với một người con gái xứ Huế học trường Đồng Khánh. Hai người qua lại thân mật với nhau và sau hơn một năm đã cùng nhau lập gia đình. Hai vợ chồng sống những ngày tháng thật êm đềm, đứa con đầu lòng được sinh ra trong tình yêu thương nồng cháy. Nam và vợ thuê một căn nhà nhỏ gần chợ Đông Ba, vợ Nam bán vải, cuộc sống tràn trề hạnh phúc.

    Đầu năm 1970, chiến cuộc gia tăng cường độ, khu vực giới tuyến được giao cho các binh chủng tinh nhuệ trấn giữ, Sư Đoàn 1 rút về tăng cường các tỉnh phía Nam Quân Khu 1. Trong một cuộc hành quân tại khu vực đồi núi phía Tây tỉnh Quảng Ngãi, trung đoàn của Nam đụng mạnh với Lữ Đoàn 52 chủ lực của quân cộng sản từ miền Bắc xâm nhập vào vùng Ba Tơ - Minh Long. Không may trong một trận đánh cánh quân của Nam bị lọt vào ổ phục kích, đại đội của Nam bị thiệt hại nặng, hơn phân nửa binh sĩ bị thương hay bị thiệt mạng, trong đó có Nam.

    Khi tiến vào khu vực Minh Long, nghe tiếng pháo lệnh của địch quân phía trước, đại đội của Nam phân tán ra hai bên nằm rạp xuống đám cỏ tranh trong rừng quan sát. Chỉ trong tích tắc sau đạn pháo và đạn cối của địch quân ào ạt rót xuống cánh quân của Nam đang nằm. Anhnào lanh chân thì nhảy vào các hố đạn pháo vừa nổ ẩn nấp, những anh em khác thì đành chịu trận. Khói bụi bay mù mịt, không ai thấy gì cả, mùi thuốc súng và mùi tanh của máu bốc lên khó chịu. Tiếng la ơi ới. Pháo kích xong vừa xong, cộng quân liền tổ chức xung phong, chúng la hét vang trời. Chốt kháng cự nơi Nam trú ẩn bị trúng một quả B40, hai đồng đội bị chết liền tại chỗ. Nam chỉ thấy một vệt lửa chóa lên trước mắt rồi nằm im bất động.

    Khi tỉnh lại tại Quân Y Viện Qui Nhơn, Nam mới biết mình bị mù hai mắt và cụt một chân dưới gối. Những ngày đầu buồn bã vô hạn, ý định tự tử len lỏi vào đầu của Nam nhưng nghĩ đến vợ con, Nam hy vọng các bác sĩ sẽ chữa lành con mắt còn lại. Mỗi tuần vợ Nam đón xe từ Huế vào Qui Nhơn thăm anh một lần. Khi thì đi một mình, khi thì dẫn đứa con trai theo, Nam cũng cảm thấy đôi phần an ủi. Không lúc nào như lúc này, tình thương yêu của vợ con đối với Nam thật là cần thiết. Mỗi lần được vợ con đến thăm, Nam cứ muốn giữ lại bên mình vĩnh viễn. Nam chỉ tiếc là không còn nhìn được diện mạo của mình để biết mình bị thương phế đến mức nào, Nam chỉ biết mình bị mù cả hai và mất một chân.

    Hơn một tháng nằm điều trị, vết thương trên người của Nam đã bình phục, người ta làm chân giả cho Nam tập đi và còn được hướng dẫn cách đi của người mù. Cuối cùng bác sĩ cho Nam xuất viện trở về Huế. Nam trở về đời sống thường dân với những bước chân chập chững của người tàn phế. Sau một thời gian, Nam không hòa nhập với cuộc sống mới, Nam bị mặc cảm và thường hay gắt gỏng với vợ với con vì những chuyện không đâu. Thêm vào đó, vì chuyện sinh kế vợ của Nam thỉnh thoảng phải đi vắng nhà mua hàng ở Đà Nẵng, giao con lại cho Nam chăm sóc. Vợ của Nam làm sẵn thức ăn sẵn, dặn Nam tắm rửa và cho con ăn cho đúng giờ đúng lúc. Cuộc sống càng lúc càng khó khăn, vợ của Nam vắng mặt luôn làm Nam ghen tức, hay nổi giận bất tử và có lúc đã vung vài cử chỉ thô bạo với vợ. Quan hệ vợ chồng từ đó trở nên lạnh nhạt, hai người không còn ngủ chung giường và không ai nói với ai lời nào. Giận vợ và bất mãn với chính mình, Nam không đi đâu hết, cứ ngồi lì ở nhà và cũng không muốn tiếp một ai, bạn bè họa hoằn lắm cũng chỉ một hai người đến thăm. Cảm thấy không thể hội nhập vào cuộc sống bình thường và không khí trong nhà khó thở, Nam xin vào Trại Hồi Lực để tìm quên với những người bạn cùng cảnh ngộ.

    Một buổi chiều kia, vợ Nam dẫn con vào Trung Tâm Hồi Lực 2 thăm Nam như thường lệ. Hôm đó Nam linh tính như có một chuyện gì xảy ra mà chưa đoán ra được. Vợ Nam ít nói hơn, không ở lâu như mọi khi và bảo đứa con ở chơi với cha để ra ngoài mua thuốc hút. Dạo sau này vợ Nam bắt đầu hút thuốc lá. Thấy lâu rồi mà vợ chưa trở lại, Nam dẫn con ra ngoài cổng hỏi thăm thì người lính gác cho biết thấy vợ của Nam vừa ra khỏi cổng liền đón chuyến xe đò vừa chạy tới. "Như vậy là vợ tôi đã bỏ cha con tôi rồi", Nam bần thần than thở với người lính gác và thầm trách người bạn đời. Nam dẫn con trở về phòng, ngôi yên thật lâu không nói lời nào. Thằng con chạy nhảy chung quanh một hồi rồi kêu đói, Nam tìm cho nó mấy miếng bánh bích qui cho nó ăn đỡ. Nam vẫn ngồi lặng thinh bất động hàng giờ trên giường, suy nghĩ cách nào nuôi con. Đứa trẻ ăn xong, chạy tới chạy lui khóc lóc tìm mẹ, sau cùng mệt quá nó ngủ vùi trong vòng tay của cha.

    Từ đó hai cha con sống chung với nhau trong căn phòng nhỏ bé của trại hồi lực. Ban giám đốc trại hay biết chuyện này cũng làm ngơ để cho đứa bé ở lại với người cha tàn tật và còn cho tăng thêm phần ăn. Mỗi khi có phái đoàn nào đến thăm, đứa con của Nam được mọi người chiếu cố tặng cho nhiều bánh kẹo và áo quần mới. Hoàn cảnh của Nam được nhiều người thương cảm, anh em trong trại mỗi khi có thân nhân vào thăm đều dành một ít bánh quà tặng lại cho cha con.

    Nam không còn tinh thần để trò chuyện với anh em trong trại như trước nữa. Mỗi khi chiều về, đứa con chạy về phòng ngủ, Nam ngồi lặng hằng giờ vuốt lưng cho con ngủ mà nước mắt cứ chảy dài trên gương mặt xấu xí. Cảm thấy không khí tại đây buồn bã, thương cho thằng con sớm bơ vơ vì không có mẹ cận kề chăm sóc, Nam xin chuyển về Trung Tâm 3 Hồi Lực ở Sài Gòn và tình cờ gặp lại tôi.

    Năm 1972, chị Kiều Mỹ Duyên, phóng viên nhật báo Hòa Bình do một linh mục làm chủ nhiệm, đã viết nhiều bài phóng sự về cuộc đời của anh em thương bệnh binh ở Tổng Y Viện Cộng Hòa rất hay, trong đó có câu chuyện đầy thương tâm của Nam, để vận động sự giúp đỡ. Nam được chính phủ cấp cho một căn nhà trong Làng phế binh Thủ Đức, cạnh Nghĩa Trang Quân Đội. Hai cha con, nhờ tiền cấp dưỡng, tạm sống qua ngày. Tôi thì vẫn ở lại với anh em trong trung tâm vì vẫn còn độc thân.

    Năm 1975, trời tháng tư trở nên nóng bức, không có gió. Ngày thì rực lửa, đêm thì khó chịu. Tin tức chiến cuộc ngày càng lo âu. Phan Thiết bị thất thủ, ông tướng này bị bắt, ông tá kia bị quản thúc. Quân cộng sản đã vào đến Long Khánh và Lái Thiêu nhưng bị chặng lại vì sự chống trả mãnh liệt của các Sư Đoàn 5, 18 và 25 bộ binh quyết giữ ải địa đầu của Sài Gòn. Nhưng rồi họ cũng tiến quân vào đến Biên Hòa, thủ đô Sài Gòn chỉ còn trong gang tấc, một sớm một chiều sẽ lọt vào tay quân cộng sản mà thôi. Tôi được một số bạn bè cho biết tình hình không còn sáng sũa chút nào, nhưng tất cả đều phó mặc cho số phận. Ý tưởng chính phủ Mỹ không bỏ rơi miền Nam vẫn còn được nhiều người hy vọng. Một số người khác còn nhắc đến những điều khoản vừa mới ký kết trong Hiệp Định Paris hồi đầu năm 1973, v.v...

    Nhưng chế độ miền Nam đã bị lung lay nhưng không ai biết. Vài ba thằng bạn được gia đình tới rước về vội vã đến từ giã tôi. Mấy người hàng xóm gần quân y viện cũng lo thu xếp đồ đạc, giao nhà giao cửa cho người khác trông nom rồi dẫn cả gia đình ra phi trường chờ được di tản sang Mỹ. Nhiều người khác còn lưỡng lự giữa đi hay ở vì còn bận cha, vướng mẹ già, con dại không ai nuôi dưỡng. Hàng ngày, những chuyện này xảy ra trước mắt và nơi trang nhất báo chí đăng những tin tức và hình ảnh dòng người di tản trong hỗn loạn làm cho anh em trong trại càng thêm hoang mang.

    Còn ba ngày nữa là hết tháng 4. Vào hồi giữa khuya, tiếng còi báo động của nhà máy xi-măng Hà Tiên phát ra liên hồi. Trong làng phế binh nơi Nam ở, mọi nhà đều thức dậy, nhốn nháo. Có nhà mở hé cửa ra nhìn ra đêm tối, có nhà bật đèn sáng trưng để xem động tỉnh thế nào. Tiếng còi báo hiệu trận đánh Sài Gòn bắt đầu. Từ trong đêm tối quân cộng sản dùng xe tăng và xe tải tiến sát vào các vùng ven đô. Tiếng đại pháo và tiếng súng nhỏ nổ lách tách suốt dọc xa lộ Biên Hòa và sông Sài Gòn. Một số anh em chạy ra ngoài lắng nghe và bình luận tiếng súng của hai bên, anh em phân biệt tiếng súng AK và M16, tiếng đạn phóng hỏa tiễn M72 và B40 để biết địch quân đang tiến tới đâu và phe ta đã kháng cự như thế nào. Từ xa vang rền tiếng nổ máy rầm rầm của các loại xe tăng, xe vận tải, cộng thêm tiếng "đề ba" đại pháo của hai bên, tiếp theo sau là những tiếng nổ ầm ầm, nhiều đốm sáng đỏ rực chiếu lên ở một góc trời. Phi trường Tân Sơn Nhứt và Bộ Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam đang bị pháo kích. Trên trời những tia lửa do trực thăng bắn rốc kết xẹt lên lia lịa, thêm vào đó là tiếng đạn đại liên như bò rống từ trực thăng bắn xuống những vùng địch đóng. Bầu trời cứ chiếu sáng liên hồi những đốm lửa rực đỏ. Chiến tranh đang về đến Sài Gòn, có lẽ lần này là lần quyết định.

    Tại Trung Tâm Hồi Lực 3, chúng tôi cũng rất hoang mang. Các dãy nhà đều tắt đèn. Nằm trên giường, tôi lắng tai nghe tiếng "đề ba" của pháo từ các tiểu khu Gò Vấp, Thủ Đức bắn yểm trợ các đơn vị bạn. Tiếng đạn đại pháo bay rít trong đêm tối nổ ầm ầm dọc theo sông Rạch Cát, Rạch Chiếc và xa lộ Biên Hòa. Lòng tôi lo lắng, tôi thao thức luôn đến sáng. Sáng sớm hôm đó, một vài người trong làng phế binh Thủ Đức chạy vào trại cho biết mọi người trong làng đều xôn xao, nhiều người đã chuẩn bị hành trang sẵn sàng ra đi nếu xảy ra trận chiến cận kề. Dân trong làng có những kẻ hiếu kỳ lấy xe đạp, xe Honda chạy vòng qua ngã chợ Thủ Đức để coi và quan sát tình hình như thế nào. Những tin tức sốt dẻo từ những người này mang lại càng cho dân làng thêm lo lắng. Đường xa lộ từ ngã tư Bình Thới hướng Sài Gòn đã bị cô lập, cấm đi từ rạng sáng. Một vài cây cầu bị giựt sập, nhiều đường khác bị tắt nghẽn vì bị xe tăng M40 và thiết giáp M113 cản đường. Chỉ tiếc là những người chạy vào trại báo tin không ai biết hiện giờ cha con của Nam ở nơi đâu và đang làm gì.

    Nỗi bàng hoàng và thất vọng càng lớn khi sáng ngày 30-4-1975 nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh. Thu mình trên chiếc xe lăn, tôi ngồi bên cửa sổ ở hàng hiên, suy nghĩ miên man từ chuyện này sang chuyện nọ. Tôi không còn nước mắt để khóc cho quê hương và cho chính tôi. Mọi chuyện rồi cũng có ngày kết thúc, nhưng lần này chúng kết thúc trong bi thương. Anh em phế binh chỉ buồn cho thân phận không may của mình. Thôi, đã mất tất cả rồi. Quốc gia này còn mất sá gì thân phận hèn mọn của mình, tôi gượng gạo mỉm cười khi bất chợt gặp một vài người thân quen. Anh em trong trại không ai buồn nói với ai lời nào, mỗi người đều có những ưu tư riêng. Phải sống như thế nào đây trong những ngày sắp tới? Đó là câu hỏi mà mọi anh em chúng tôi đều đặt ra cho chính mình.

    "Hòa bình" đã đến rồi. Thật là cay đắng. Ngoài đường, người ta qua lại bàn tán huyên thuyên không như những ngày bình thường khác. Tiếng xe cộ, tiếng cười, tiếng nói nổi lên ồn ào giữa những đoàn quân xa của bộ đội cộng sản. Tôi thấy cuộc chiến này sao thật vô nghĩa. Không biết bao nhiêu người đã ngã gục trên chiến trường, hy sinh xương máu cho chính nghĩa tự do bỗng chốc phải cúi đầu nhường chỗ cho quân địch bước qua. Sự thực đã rõ ràng, miền Nam đã mất và lịch sử đã sang trang. Thật là lạ khi gặp lại một số bạn bè thân quen đồng cảnh ngộ, họ vui mừng cười nói huyên thuyên vì cuộc chiến đã chấm dứt, họ tin rằng hòa bình sẽ trở lại vĩnh viễn và đất nước sẽ không còn những thảm cảnh đau buồn. Cho dù đó là sự thật đi, thân hình tàn phế của họ có gì khá hơn hay cũng chỉ là những kẻ thừa thải đứng hờ bên lề cuộc sống.

    Vui mừng chưa được bao lâu, một đoàn xe Molotova chạy thẳng vào trại. Viên sĩ quan chỉ huy bộ đội kêu gọi tất cả anh em trong trại ra trình diện. Anh em phế binh kẻ chống nạn, người đẩy xe lăn, người thì được thân nhân dìu ra bãi cỏ trước trại ngồi nghe "huấn lệnh". Viên sĩ quan này cho biết anh em chỉ có 24 giờ để rời khỏi nơi đây, ai ở quê nào thì trở về quê đó, ủy ban quân quản sẽ trưng dụng trung tâm này làm căn cứ quân sự. Nói xong, bộ đội miền Bắc chiếm đóng tất cả các ngõ ngách, kiểm soát mọi người. Thế là mạnh ai nấy tìm đường rời khỏi nơi đây. Tôi đón xe Honda ôm về làng phế binh cạnh cầu Rạch Chiếc ở tạm với gia đình thằng bạn thân. Tôi cứ thắc mắc là tại sao gia đình tôi không ai vào đây đón tôi về nhà và cũng rất buồn vì không có tin tức của Nam. Nhưng rồi những biến cố dồn dập vừa mới xảy ra làm tôi quên bẵng.

    Ngày đầu tháng 5-1975, giông tố nổi lên dữ dội. Lợi dụng khí trời mát mẽ, tôi rủ thằng bạn thân lấy chiếc xe đạp chở tôi về Sài Gòn, trước hết là để xem sự tình, sau là tôi về thăm mẹ tôi. Chắc là mẹ tôi đang mong chờ tôi trở về lắm. Trước đó hơn hai tuần, mẹ tôi cho người nhắn bảo tôi về nhà ở lại với mẹ vìà không an lòng chút nào khi thấy tôi sống ở đây một mình. Nhưng lúc đó tôi hy vọng sẽ được chính phủ đưa đi nơi khá an toàn hơn vì chúng tôi là những người tàn phế phải được ưu tiên giúp đỡ. Tất cả chỉ là viễn mơ, trong lúc loạn lạc mạnh ai nấy lo, cụt què như chúng tôi chỉ có thua thiệt.

    Thằng bạn bị cụt một tay, hai chân còn nguyên vẹn. Nó đạp, tôi lái. Xa lộ Biên Hòa giờ này không đông người qua lại. Tôi thấy rơi vãi đó đây những bộ quần áo lính đủ loại binh chủng. Những cái nón sắt, những cây súng, băng đạn cùng những quân trang, quân dụng, thuốc men và giấy tờ vung vãi trên đường. Những chiếc giày vải, giày bốt, ba lô, bao bị văng tứ tung trên mặt đất. Trong những giây phút hốt hoảng tinh thần khi nghe tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh kêu gọi anh em binh sĩ buông súng, chắc những người này sợ bị bắt làm tù binh và sẽ chịu những cuộc trả thù đẫm máu nên đã vứt bỏ những vật dụng liên quan tới cuộc đời chiến binh. Tôi thấy từng đoàn người đàn ông ăn mặc lếch thếch đi dọc hai bên xa lộ, có người chỉ mặc chiếc áo bên dưới là quần thun ngắn, có người đi chân đất và nhiều người chỉ mặc cái quần dân sự đi mình trần. Có lẽ họ đã vào nhà dân xin đại một bộ áo quần nào đó để mặc rồi đi bộ về Sài Gòn. Thật là buồn, một quân đội hùng mạnh được xếp vào hàng thứ năm trên thế giới nay ra nông nỗi này. Thất bại nào nhục nhã hơn.

    Đi lần về phía nhà máy xi-măng Hà Tiên, tôi thấy xác một chiến xa M48 bị bắn cháy đen thùi, hai khẩu pháo 105 ly nằm trước sân nhà máy, nòng súng hướng thẳng lên trời, vỏ đạn lăn lóc đầy mặt đất. Xác nhiều chiến sĩ Địa Phương Quân nằm rải rác đó đây, ruồi bu đen kịt. Bên kia xa lộ, dưới bờ mương và trong bụi dừa nước cạnh bờ sông Rạch Chiếc, xác một vài chiến binh nằm chết úp mặt. Tiếng súng cuối cùng vừa chấm dứt, trận chiến đã kết liễu, xác thân các chiến sĩ hai bên thù địch nằm phơi ra đó không ai buồn đến nhận diện, thật là đau xót. Chết trong giờ thứ 25 này không gì bất hạnh cho bằng. Giờ này đây chắc mẹ cha, vợ con, anh em các anh đang ở nhà trông ngóng, mong các anh đoàn tụ gia đình.

    Đứng trước thảm cảnh này, tôi không ngăn được xúc động, xót thương cho kiếp người phù du, ngắn ngủi. Tôi chỉ biết thầm cầu nguyện và thúc bạn tôi đạp xe nhanh hơn. Lòng mong muốn được gặp mẹ càng nung nấu trong tôi. Càng đi về gần Sài Gòn, xác các đoàn quân xa choáng cả đường đi, súng đạn, áo quần và đồ đạc nằm la liệt trên mặt đường.

    Cuối cùng chúng tôi cũng vào đến Sài Gòn. Trên đường xe cộ qua lại đông đúc hơn bình thường, không còn ai tôn trọng luật đi đường gì nữa. Từng toán bộ đội thân hình gầy gò, đầu đội nón cối, mặc áo quần màu xanh lá rộng thụng thịnh mang dép râu vác súng đi tuần ở khắp các nẻo đường. Xe tăng, xe Molotova đậu ngổn ngang hai bên lề đường. Một không khí ngột ngạt bao trùm Sài Gòn. Chúng tôi đi về phía Chợ Lớn. Vào con hẻm cũ, mẹ tôi đã đi vắng từ hồi nào. Hỏi thăm bà con lối xóm, họ cho biết vào những ngày cuối tháng tư chị hai tôi xuống dẫn mẹ tôi đi. Đi đâu thì không ai biết. Đứng trước căn nhà đóng kín cửa, tôi buồn bã rủ anh bạn ra ngoài quán cóc uống một ly cà phê, ăn qua loa một tô mì rồi đạp xe về lại làng phế binh. Tôi nhớ thương mẹ già nhưng cũng lo lắng cho cuộc sống của tôi trong những ngày sắp tới. Ai trả tiền cấp dưỡng cho tôi và ở nơi đâu, đó là hai câu hỏi luôn luôn ám ảnh tôi khi rời khỏi con hẻm. Cũng may, vì ở trong trung tâm tôi ít tiêu xài nên cũng dành dụm được chút đỉnh nên cũng đủ để tiêu xài ít ra trong một vài tháng.

    *****

    Giữa tháng 6-1975, dân chúng trong làng phế binh Rạch Chiếc lại một phen kinh hoàng. Tin đồn ủy ban quân quản sẽ đuổi tất cả dân cư ở tại đây ra đi và bộ đội cộng sản vào chiếm giữ khu cư xá này làm tinh thần mọi người dao động mạnh. Làm sao không tin được, những người từ các tỉnh đã mắc kẹt trong các ngày cuối cùng về đây cho biết làng phế binh tại các tỉnh đều đã bị bộ đội cộng sản chiếm đóng. Dân chúng bàn tán xôn xao. Cũng nên nhắc lại là dân cư trong làng là những người phế binh từ khắp nơi đã về đây sinh cơ lập nghiệp. Sau những tranh đấu chính đáng, chính quyền miền Nam đã cho xây dựng ngôi làng này và cấp phát miễn phí cho phế binh. Tùy theo hoàn cảnh, mỗi người làm chủ một căn nhà lớn nhỏ để an tâm vui hưởng số ngày còn lại của đời phế binh.

    Giờ đây trong tình cảnh này, ai nấy đều bồn chồn lo lắng, ít nhiều chán nản trước những loại tin đồn như thế. Người này hỏi người kia, chừng nào về quê hay dọn đi nơi khác. Phước Thợ Hàn nắm tay tôi thân mật giã từ, anh vừa mướn được xe chở đồ đạc về quê. "Tôi về chợ Thầy Phó Vĩnh Long, khi nào có dịp về Sài Gòn tôi sẽ ghé thăm anh". Anh Ba Hải Quân thì không muốn đi đâu cả nhưng bà vợ cứ cằn nhằn hoài anh phải nghe theo, gia đình anh đi về quê ở Bến Lức. Dù muốn dù không thằng Năm Què cũng phải về ở với cha mẹ. Năm là con trai một, cha mẹ tuổi già trên bảy mươi, gia đình có bảy mẫu ruộng nếu nó không về thì nhà nước sẽ tịch thu hết ruộng. Riêng anh Chín Lắc thì không còn quê để về, chính phủ cấp phát cho anh một căn nhà tại làng này thì chính nơi này là quê hương. Anh nói phải quyết giữ lấy, không đi đâu cả, dù có bị bắt buộc, chết thì thôi. Anh Sáu Lưu là cựu sĩ quan, đã di tản từ miền Trung về đây hồi tháng 3-1975 cùng với gia đình và vợ con, ở chưa được bao lâu thì đã chuẩn bị lên đường vào trại tập trung học tập cải tạo mười ngày. Sự thực thì anh bị tập trung cải tạo gần mười năm mới được thả về mặc dù là phế binh bị cụt một chân. Mọi người trong lúc này, tùy hoàn cảnh, tùy cuộc sống mà quyết định đi hay ở lại trong làng.

    Cuối cùng tin đồn bị đuổi ra khỏi làng phế binh trở thành sự thật. Khoảng cuối tháng sáu, ủy ban quân quản huyện Thủ Đức cử một toán bộ đội và du kích vào đây triệu tập bà con ra giữa sân rồi tuyên bố mọi người phải dọn ra khỏi nơi này trong vòng một tuần lễ. Trong thời gian đó, ủy ban quân quản dành ưu tiên cho những gia đình tình nguyện đi lập nghiệp trên vùng kinh tế mới ở Sông Bé.

    Đầu tháng 7-1975, khoảng 3 giờ khuya, dân chúng trong làng đã tụ tập trước sân cùng với đồ đạc để chờ đoàn xe vận tải chở đi lên vùng kinh tế. Quang cảnh thật ồn ào, nhộn nhịp. Chẳng ai ngủ được bao nhiêu kể cả con nít, mọi người đều lo lắng cho tương lai với cuộc sống mới. Kinh tế mới là gì, chẳng ai biết cả. Nhà nước biểu đi thì đi. Người ta đi thì mình cũng đi. Một số gia đình nghèo đã bán hết đồ gia dụng, bàn ghế, tủ giường... với giá rẻ để có tiền dằn túi khi đến nơi mà tiêu xài.

    Những cái bắt tay, những câu giã từ cùng những lời nói vội vàng của các bạn bè, hàng xóm để bước lên xe cùng với gia đình đi vùng kinh tế mới vang lên liên tục. Đoàn xe lăn bánh. Chiếc xe cuối cùng vừa khuất nẽo, tôi miên man liên tưởng khi đến nơi các bạn tôi sẽ làm việc gì để sinh sống với tấm thân què cụt. Trong khi đó, có anh bạn bị mù hai mắt, có anh bị cụt hai tay cũng xin đi vùng kinh tế mới, các anh có cày cuốc được gì đâu mà cũng xin đi về vùng đất chết. Họ tình nguyện đi vì không muốn sống chung với kẻ thù hay vì hy vọng có một cuộc sống khá hơn?

    Những người còn ở lại trong làng phế binh phải đương đầu với hoàn cảnh mới. Gia đình anh Bảy Ca, người cho tôi tạm trú đã giao hẳn căn nhà cho tôi cùng với giấy tờ, đã đăng ký đi vùng kinh tế mới hồi sáng nay. Anh Bảy dặn là tôi cứ ở lại giữ nhà, khi nào yên thì anh sẽ về lại đây, tôi ừ à cho qua chuyện. Thật ra tôi cũng chẳng thiết giữ căn nhà này làm gì vì không đủ sức trang trải những chi phí điện nước và ăn uống hằng ngày. Tôi có ý định rủ Nam cùng đứa con về đây ở chung, nhưng Nam cũng đã được cấp một căn nhà ở làng phế binh lớn nhất trên Thủ Đức rồi. Tôi chỉ biết thở dài lo âu.

    Tin đồn nhà nước cộng sản lấy hết nhà trong làng trở thành sự thực, ủy ban quân quản huyện Thủ Đức đã chính thức vào tiếp thu và chia khu vực, lấy những khu nhà vắng chủ cấp phát cho một số đơn vị bộ đội vào ở. Dân cư lại một lần nữa phải sắp xếp đồ đạc dọn nhà. Những gia đình ở trong khu vực bị lấy nhà được hoán đổi sang những căn nhà bỏ trống ở các con đường khác. Có người phải đổi nhà, dọn nhà tới hai lần. Trong làng, không khí im lìm vắng vẻ. Chỉ còn một vài gia đình quyết định ở lì trong làng phế binh, trong đó có tôi vì không có thân nhân. Mẹ và chị hai tôi giờ này không biết ở đâu.

    Cuộc sống trở nên khó khăn. Một hôm Nam cùng thằng con nhỏ từ Làng Phế Binh Thủ Đức tìm đến thăm tôi, cùng sống chung với tôi mấy ngày. Làng phế binh nơi Nam ở cũng đang bị giải tỏa, Nam cho biết sẽ về lại quê cũ ở nhờ nhà người chị thứ ba, người thương Nam nhất. Mặc dù không thấy đường, Nam kể lại cho tôi nghe những mẫu chuyện thương tâm mà Nam đã nghe và chứng kiến.

    Ngày sau khi tôi rời Trại B Trung Tâm 3 Hồi Lực, Nam vào lại trại thăm tôi cùng bạn bè và định ở lại chơi vài hôm. Nhưng bộ đội gác cửa không cho ai vô, Nam đành dẫn con ra ngoài quán nước bên cạnh ngồi nghỉ. Tại đây Nam được một anh bạn phế binh cũ đến chào hỏi thăm. Anh bạn này bị cụt một tay không có thân nhân nên được gia đình chủ quán tốt bụng cho ở tạm, hằng ngày anh ra đây phụ lau chùi bàn ghế và phụ bếp. Nam hỏi thăm thì biết tôi đã về làng phế binh Rạch Chiếc và hôm nay đến thăm tôi.

    Theo lời Nam kể lại, vào xế chiều ngày 1-5-1975, sau khi những người cuối cùng trong trại thu xếp đồ đạc chuẩn bị về nhà, một tiếng nổ vang ầm từ ngoài sân vọng vào, ai nấy đều giật mình. Một phế binh mếu máo chạy vào báo tin hai anh bạn cụt hai chân ngồi chung trong chiếc xe lăn đã ôm một trái lựu đạn tự sát. Lúc đó Nam có nghe người bạn phế binh nhắc đến tên hai anh đó nhưng vì tâm thần bất an nên đã quên tên. Có người nghe lời trăn trối cuối cùng của hai anh trước khi tự sát kể lại rằng các anh quá thất vọng và chán chường vì đã mất tất cả, các anh không muốn sống chung với cộng sản nên đã quyết định bung chốt lựu đạn cùng nhau đi vào cõi chết. Nam nói họ đúng là những con người đầy nghĩa khí, bất khuất không muốn đầu hàng quân địch. Toán bộ đội gác cửa chạy vào, mắng chửi những anh em còn lại và xô đẩy tất cả mọi người ra ngoài để lục soát, truy tìm vũ khí. Từ đó phòng nào cũng có một bộ đội đứng gác và thúc dục những người còn lại thu dọn đồ ra đi.

    Nam cũng cho tôi biết ca sĩ Vân Sơn đã tự sát. Trước đó tôi đã có nghe nhiều tin đồn về anh, mỗi người thêu dệt một cách, có người nói lộn cả tên anh. Thực là ca sĩ Vân Sơn trong ban nhạc AVT đã nhảy xuống sông Thị Nghè tự vẫn. Ban nhạc AVT gồm có ba người là Vân Sơn, Tuấn Đăng, Lữ Liên, đó là ban tam ca nổi tiếng về những ca khúc châm biếm sâu sắc nhẹ nhàng.

    Sau vài ngày ở chơi với tôi, Nam và đứa con trai giã từ tôi về lại quê cũ sống nhờ người chị thứ ba chờ thời. Đời sống vùng quê Nam lúc ấy còn thấp kém lắm. Tất cả ruộng rẫy đều phải vào hợp tác xã, làm ăn tập thể chứ không được làm cá nhân. Gia đình chị Ba của Nam cũng như bao gia đình nghèo khó khác lâm vào hoàn cảnh khó khăn, phải ăn độn. Cả nhà làm quần quật suốt ngày mới có miếng ăn. Nam cảm thấy không khí ở đây ngột ngất khó chịu vô cùng. Mặc dù là người tàn tật, Nam vẫn không được chính quyền cho mua gạo giá chính thức, phải mua gạo giá chợ đen. Biết ở nơi này khó sống, không thích hợp với hoàn cảnh của mình, Nam xin phép chị dẫn con trở về thành phố sinh sống.

    Ban đầu Nam có ý định điđi lậu vé để đỡ tốn tiền, bớt đồng nào hay đồng nấy. Trong túi Nam chỉ còn chút ít tiền, không đủ chi dụng khi vào đến Sài Gòn. Hàng ngày, thằng con nhỏ dẫn Năm đi xin ăn từ làng này sang làng nọ dọc theo quốc lộ. Cứ như thế, ban ngày đi ăn xin, chiều về hai cha con kiếm các sạp chợ, hoặc các hàng hiên tạm ngủ qua đêm. Đi đường mệt nhọc, Nam dừng lại ở một vùng nào đó để nghỉ ngơi, có khi kéo dài khoảng một tuần lễ, vì vậy ròng rã hơn cả hai tháng Nam cùng con mới về đến Sài Gòn.

    Trở về căn nhà cũ ở làng phế binh, bộ đội gác cửa đuổi hai cha con đi. Nam sực nhớ tới một người bạn ở một xóm nhỏ trong khu ổ chuột gần cầu Chữ Y, quận 8. Gặp lại bạn cũ, gia đình anh vui vẻ chia sẻ với Nam căn nhà chật hẹp. Đời sống dân chúng ngày càng khó khăn, một số dân trong xóm đã đi vùng kinh tế mới, những người còn lại sống khắc khoải trong cảnh nghèo khó, ngày hai bữa ăn độn bobo. Mặc dù thiếu thốn, tinh thần đùm bọc chòm xóm vẫn mặn mà.

    Với thân phận mù lòa và con còn nhỏ dại, Nam phải làm nghề gì đây để mưu cầu cuộc sống, trong khi đó ngoài xã hội biết bao nhiêu người lành lặn kiếm việc không ra. Tiền cấp đưỡng phế binh đã bị cúp từ lâu, Nam đành chấp nhận số kiếp ăn xin. Mỗi lần đi xin là mỗi lần tủi hổ, sáng sáng hai cha con lê lết từ quận này sang quận nọ, từ ngày này sang tháng nọ, van xin người dưng bố thí. Ròng rã hơn mười năm đi ăn xin cùng với cha, vui buồn lẫn lộn có nhau, thằng con Nam nay đã lớn. Tội nghiệp cho nó, vừa mới ra đời chưa được bao lâu thì bị mẹ bỏ rơi, cha thì tàn phế. Đáng lẽ nó phải được hưởng sự hồn nhiên, vô tư của tuổi học trò, hăng hái chạy nhảy tung tăng vui đùa cùng chúng bạn bè đồng trang lứa, nhưng nó không có may mắn đó. Tuổi thơ của nó chỉ biết nghèo hèn và tủi nhục, cuộc đời trẻ thơ đã sớm trải qua gió bụi phong trần, chưa bao giờ biết đến mộng mơ. Cũng chính nhờ đó đứa con của Nam đã hiểu cuộc đời sớm hơn những đứa trẻ cùng trang lứa.

    Thấy con nhiều lần biết ngập ngừng trong lời ăn tiếng nói khi gặp người quen thấy nó dẫn cha đi ăn xin, Nam biết con mình đã lớn. Không thể dẫn con đi theo mình như vậy được nữa, chỉ làm cho nó thêm mặc cảm, Nam gởi con vào nhà người anh họ, nhờ giúp tìm cho nó học một nghề để tự lập tiến thân. Hàng ngày Nam dong ruỗi một mình, cầm gậy đi qua các đường phố rao bán vé số để dành tiền cho con học nghề. Nam chỉ mong sao cho tương lai của con được tốt đẹp vinh hiển để bù đắp những ngày thơ ấu, xa mẹ, thiếu thốn và khổ nhọc, và nhất là không phải sống tủi nhục như cha nó.

    Về phần tôi, hơn hai năm qua vì mãi bận rộn với miếng cơm manh áo, tôi chưa có dịp vào thăm anh Nhứt Mù, nhà ở Thủ Đức cách nơi tôi ở không xa. Một ngày nọ nắng trời dịu xuống, tôi rủ thằng bạn cùng vào thăm anh Nhứt Mù. Anh Nhứt là bạn thân của Nam cùng nằm chung phòng trong bệnh viện ở miền Trung và cũng là thân quen với tôi từ nhiều năm qua. Trong lần từ giã trước biến cố 30-4-1975, Nam chí tình dặn bảo tôi thỉnh thoảng phải tới thăm anh Nhứt cùng gia đình, nếu giúp được gì thì cứ giúp, đời sống gia đình anh rất khó khăn. Đón xe Lam tới nhà anh, chúng tôi mất hơn nửa tiếng. Tới đầu con xóm nhỏ hỏi thăm gia đình anh Nhứt Mù ai cũng biết. Nhà của anh cách nghĩa địa không xa bao nhiêu, đứng ngoài đường cái nhìn vào những chòm mả thấy được căn nhà của anh thấp thoáng sau mấy hàng cây khuynh diệp.

    Đường đi vào nhà anh Nhứt Mù quanh co, gập ghềnh mô đất và ổ gà. Vào những ngày trời mưa, đường đi càng trơn trợt, lầy lội và bùn sình. Chúng tôi đi lần vào tới trước nhà, cỏ mọc hoang dại, tràn lan ở phía ngoài sân vì không có ai phát cỏ. Căn nhà của anh Nhứt từ lâu lắm rồi không được tu sửa nên có phần xiêu vẹo. Vách nhà bằng lá đã mục nát, mấy miếng nẹp cây cột bị lệch lạc vì sút dây kẽm. Mái nhà lợp bằng tôn thiếc, nhiều tấm đã rỉ sét, có tấm lũng lỗ chỗ. Mỗi khi trời mưa, căn nhà bị ngập ướt nước. Nhà anh Nhứt bây giờ trống trước trống sau, không có tủ thờ, bàn ghế và bộ ván ngựa như năm xưa. Anh đã bán lần hồi những đồ đạc có giá để lấy tiền mua gạo nuôi đàn con thơ dại. Hai ba chiếc ghế sút gọng, gãy chân được chấp vá bằng mảnh cây tạp nhạp, đặt dựa vách nhà. Một cái giường cũ kỹ, giát giường kêu cọt kẹt lúc lắc mỗi khi ngồi lên, được để nằm sát cửa sổ, đây là nơi duy nhất để đón tiếp khách, bè bạn. Ngoài ra căn nhà không còn một vật dụng gì nữa. Đỡ một chút là nền nhà được tô láng bằng xi-măng, tối đến cả nhà trải chiếu trên nền nằm lăn ra ngủ.

    Anh Nhứt là lính Sư Đoàn 25 Bộ Binh, bị mù hai mắt vì mảnh đạn B40. Sau khi giải ngũ, anh được chính phủ cấp dưỡng chu đáo, về sau có người bà con cảm thương tình cảnh bảo anh về đây cất nhà mà ở thay vì vào làng phế binh. Từ đó gia đình anh về trong căn nhà vách lá, mái tôn trong mảnh đất đầy ao vũng. Dân cư trong xóm lúc đó còn thưa thớt, nhà ở cách khoảng, mọi người đều thương mến gia đình anh vì anh ăn ở hết lòng với họ. Anh Nhứt trước khi bị trọng thương có ba đứa con được sinh ra trong một trại gia binh, khi giải ngũ về xóm này ở thì sinh thêm ba đứa khác, như vậy anh có cả thảy sáu đứa con.

    Nghe tiếng tôi gọi oang oang ngoài cửa, anh Nhứt lăng xăng bước ra ngoài cửa mà không cần ai dẫn dắt, y như một người sáng mắt. Anh mừng rỡ, nói năng liền miệng, tay dẫn tôi vào nhà, sai con nấu nước rồi tự tay pha trà, rót ra chén một cách thành thạo, vừa đủ không tràn nước. Bạn tôi khẽ mỉm cười rồi ngó tôi gật đầu tỏ ý phục. Anh Nhứt nói từ lâu không có ai vô thăm nên có hơi buồn, nay có chúng tôi đến lòng anh vui lắm, quyết giữ chúng tôi ở lại chơi thật lâu không cho về sớm. Nét mặt anh rạng rỡ, cười nói nhiều hơn mọi ngày.

    Mái tóc anh Nhứt Mù đã trỗ màu muối tiêu, gương mặt anh sạm đen vì nắng gió, vầng trán in hằn nhiều nếp nhăn, cuộc đời khổ cực lam lũ đã làm anh già trước tuổi. Từ bao năm qua anh không đầu hàng hoàn cảnh, đã làm đủ mọi việc để có tiền nuôi sống vợ con, mặc dù bản thân bị mù lòa. Anh vói lấy cái túi để sẵn trên đầu giường, bóc mở mấy lớp bao ny lông, đưa cho tôi cuộn giấy mà anh cất giữ. Anh cầm khoe với tôi xấp giấy màu trắng đục bằng giọng tự hào: "Nè, coi đi. Giấy tờ chứng thương của tui vẫn còn nguyên đây nè". Anh kể có lần chính quyền xã bảo anh là lính chế độ ngụy phải nộp tất cả giấy tờ liên hệ, anh khước từ khéo léo và lờ đi nên bây giờ mới còn đầy đủ giấy tờ: nào là giấy giãi ngũ, giấy cáo tri, giấy khen thưởng, bằng Anh Dũng Bội Tinh ngôi sao đồng, anh còn giữ cả sổ cấp dưỡng phế binh nữa. Tôi có biết một số anh ở những vùng xa đã bị bắt buộc nộp các loại giấy tờ lính tráng, phế binh ngày xưa và tất cả đã bị thiêu hủy.

    Anh Nhứt bùi ngùi kể lại cuộc đời của anh, về những năm tháng nhọc nhằn lao khổ trong chế độ mới cho chúng tôi nghe. Vào những ngày mùng một và ngày rằm, anh được một anh bạn tốt bụng hướng dẫn anh cùng thằng con nhỏ đến trước các cổng chùa, cổng đình bày nhang đèn để bán cho khách thập phương vào chiêm bái. Những ngày còn lại thì anh đi tha phương cầu thực, hay cùng một số anh em mang bao nhang đèn trên vai đến từng nhà ở các làng, các quận mời mọc người mua ủng hộ. Đi như vậy chừng vài ba hôm anh mới về nhà. Có những hôm đi mỏi cả chân, bán chưa được đồng nào, bụng thì đói các anh đánh liều vào chùa xin cơm lạt mà ăn. Anh Nhứt đi bán nhang như vậy đã hơn ba năm.

    Vợ anh Nhứt cũng bận rộn suốt ngày, buổi chiều lội xuống ao cắt rau muống mướn để sáng sớm hôm sau chị gánh rau muống đi bán dạo dọc đường. Vợ chồng anh cần cù bận rộn suốt ngày mới đủ tiền nuôi đàn con còn thơ dại. Con cái anh Nhứt chẳng có đứa nào được đi đến trường, đến lớp học hành như con người khác. Hai đứa lớn chỉ cắp sách đến lớp hai thì đã ngưng học ở nhà phụ giúp mẹ cha. Vợ chồng anh bận suốt ngày nên giao cho đứa con gái kế trông chừng các em nhỏ. Mãi mê lo chụm lửa nấu cơm, nó quên phứt đứa em út. Thằng nhỏ này chạy ra nhà sân để lén chị đi chơi, chẳng may té nhào xuống ao mà không ai hay biết. Đến lúc chợt nhớ đến em, đứa con gái chạy đi tìm khắp nơi không thấy, mới tri hô lên cho mọi người hàng xóm biết. Được tin, có vài người vội vàng lội xuống ao gần nhà, mò một hồi mới vớt được đứa nhỏ đem lên bờ, mặt mày nhợt nhạt, nó đã tắt thở từ lâu. Buồn vì đứa con trai ba tuổi mà anh thương nhất đã chết, anh Nhứt nghĩ ở nhà cả tuần lễ, suốt ngày thơ thẩn buồn nhớ đứa con. Thấy vậy bạn bè rủ anh đi buôn củi.

    Lúc đó thành phố đang khan hiếm củi, than, chất đốt, đi buôn củi dễ kiếm lời. Thế là anh đi buôn củi. Sáng sớm anh đi cùng thằng con lớn đi ra ga xe lửa Thủ Đức chờ đón chuyến xe lửa địa phương và không quên mang theo hai bình dầu hôi khoảng ba, bốn chục lít làm hàng trao đổi. Từng bó củi, từng thước củi được bày bán khắp nơi dọc các ga xe lửa. Đến các ga Xuân Lộc và Trảng Bom, hai cha con xuống xe đi dọ hỏi, ngã giá củi xong, cha con anh bỏ củi vào bao bố rồi vác ra ngồi chờ cách ga xe lửa độ vài trăm mét, khi xe lửa bắt đầu khởi hành hai cha con cùng nhiều người khác vội vàng quăng hàng và nhảy lên toa xe. Lượt đi đem bán dầu hôi, lượt về đem củi bán cho bọn đầu mối, như vậy lợi cả hai đầu. Bảy tám tháng trời đi buôn củi kiếm được chút đỉnh tiền, anh Nhứt được hai người bạn rủ đi buôn khô mực, cá khô ở Bình Tuy. Khô mực, cá khô bán có lời nhiều hơn củi, nhưng cũng đòi hỏi một số vốn lớn. Thấy có lời nhiều, anh Nhứt cũng ham nhưng anh không có vốn nhiều nên đóng vai người chở hàng. Bạn anh đi xuống tận chợ La Gì, lựa mua khô mực, cá khô, bỏ vô túi xách, hoặc bao cát nhỏ, cột chặt cẩn thận để đeo trên vai. Bận về bạn anh luồn lách tránh né, đi theo con đường tắt để tránh kiểm soát kinh tế, công an. Khi ấy khô mực, cá khô còn là mặt hàng quốc cấm, nên bị bắt hàng sẽ bị tịch thâu tức khắc và còn bị làm khó dễ. Tránh được các chốt kiểm tra, bạn anh đi về phía nhà dân cạnh sân ga, nơi đã có anh Nhứt chực sẵn trong nhà một người quen. Sau đó hai người men theo con đường tắt vào sân ga, mua vé chợ đen của một viên kiểm soát xe lửa rồi lên toa.

    Khi xe lửa chạy chầm chậm về gần tới ga Sóng Thần, Thủ Đức, đây là thời điểm để những người đi buôn tuông hàng xuống. Sau khi quăng xong các bao khô mực, cá khô xuống đường, bạn anh ôm xốc một bên vai anh Nhứt rồi cả hai cùng nhảy một lượt xuống bãi cỏ ở đường rày trong lúc xe vẫn còn chạy thật chậm. Có lần cả hai nhảy xuống xe an toàn êm thấm, cũng có lúc lật đật nhảy xuống đụng nhầm đá xanh làm hai anh bị bong gân, trầy xước cả chân tay và mặt mũi.

    Ba chuyến trôi qua êm thấm, kiếm lời cũng khá, hai anh hăng hái tính làm một chuyến nữa rồi nghỉ xả hơi. Chuyến đi lần sau cũng là chuyến đi cuối cùng của cuộc đời đi buôn nhảy xe lửa của anh Nhứt Mù. Hôm đó, xe lửa đang từ hướng Dầu Giây chạy về Sài Gòn, bạn anh Nhứt được tin báo cho biết ga Sóng Thần bị động, công an lập nút chận kiểm soát một số nơi. Liền tức thì một số tay buôn ôm hàng nhảy xuống ga Trảng Bom trốn tránh. Anh Nhứt cùng bạn bàn tán và quyết định sẽ nhảy xuống ga Dĩ An. Nhưng xui cho hai anh, ga Dĩ An cũng đang bị công an bao vây kiểm soát, một chốt phục kích được thành lập vài trăm thước trước khi đoàn xe vào bến. Đoàn xe chay chậm lại, anh Nhứt và bạn cùng một số con buôn còn lại nhảy xuống bãi cỏ nhưng... lại rơi đúng ngay vào chốt phục kích. Tiếng hô "Đứng lại!" của toán công an phục kích làm mọi người chạy tán loạn, các bao hàng hóa bị vứt bỏ lung tung. Công an rượt nã, anh Nhứt cùng anh bạn bỏ hàng chạy thoát thân, cả hai hớt ha hớt hãi chạy vào những lùm cây hai bên đường trốn. Thế là mất hết cả chài lẫn chì, hai anh về lại Thủ Đức, hai bàn tay trắng.

    Anh Nhứt buồn quá định nghỉ ở nhà chừng năm, mười ngày rồi tìm việc mới. Vợ anh Nhứt, người bạn đường chung thủy đã theo anh trong suốt tháng năm, chịu bao nỗi đắng cay nhọc nhằn, đã tắt thở trên tay anh Nhứt. Suốt cuộc đời, chị vợ anh Nhứt đã dày nắng dầm sương lo cho chồng, cho con có cơm ăn, áo mặc mà không một lời than van hay nghĩ đến thân mình. Chị đã chết có lẽ do suy dinh dưỡng và không có thuốc men chữa trị. Chị đã ngã bệnh trong lúc anh Nhứt chưa có việc làm, anh phải đi vay mượn tiền bạc khắp nơi, chạy chữa thuốc men cho chị nhưng cũng đành bất lực. Đau buồn tột độ, anh Nhứt như kẻ mất hồn, tối ngày cứ ngồi thơ thẩn than thân trách phận, làm sao nuôi năm đứa con còn nhỏ dại. Anh cứ bán lần hồi những đồ đạc có giá trong nhà. Giờ đây căn nhà của anh Nhứt Mù trống trơn. Mấy đứa con trai lớn ngày ngày đón xe lửa vào Sài Gòn lượm rác, bao ny lông giặt rửa lại cho sạch bán lại cho các vựa ve chai. Những đứa con gái vừa mới phải đi ở đợ cho những nhà khác để được nuôi ăn. Mỗi khi nghĩ tới số phận bạc bẽo của mình, anh Nhứt buồn muốn đứt ruột, anh không còn nước mắt để khóc nữa.


    *****

    - Chán quá, cuộc đời này ôi thật là đáng chán! - Nam ngẫn mặt lên trời thở dài. Cuộc đời của anh chỉ toàn màu đen tối.
    - Thôi, tụi mình đi nghỉ đi Nam - tôi nhìn bạn lòng đầy phiền muộn.

    Đêm đã gần tàn, tiếng gà xóm trên đang rộn tiếng gáy. Hai chúng tôi đi vào nhà trong cảnh tối tăm. Ngày hôm đó tôi mơ thấy một bình minh tươi sáng cho mọi người, trong đó có chúng tôi. Chúng tôi muốn thấy cuộc đời không còn những người phải sống trong nỗi đau thương chồng chất.

    (còn tiếp)


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X