Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Giữ gìn ngôn ngữ Việt trong sáng - Trang Anh Thạc

Collapse
X

Giữ gìn ngôn ngữ Việt trong sáng - Trang Anh Thạc

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Giữ gìn ngôn ngữ Việt trong sáng - Trang Anh Thạc

    GIỮ GÌN NGÔN NGỮ VIỆT TRONG SÁNG

    NHỮNG TỪ NGỮ DỄ LẦM LẪN TRONG TIẾNG VIỆT

    Bài 1:
    S hay X

    Trang Anh Thạc


    (nguồn: FB Quốc Ngữ Việt Nam Văn Hiến)

    Các bạn trang Quốc Ngữ thân mến,

    Trang Anh Thạc xin viết về đề tài chánh tả những từ ngữ dễ lầm và dễ viết sai trong tiếng Việt. Bài đầu tiên tôi xin trình bày những chữ có hai phụ âm đầu là S và X. Đây là những chữ mang lỗi sai phụ âm nhiều nhứt trong tiếng Việt cả ba miền.


    Nói về những chữ có phụ âm S và X, chúng ta thấy từ năm 1975 đến nay người miền Nam, do ảnh hưởng của tiếng Bắc xâm nhập, mà dần dần viết sai rất nhiều những chữ có S và X. Sai hơn nhiều lắm so với thời Việt Nam Cộng Hòa.

    Ngày nay người Việt ta viết sai những chữ có S và X này nặng đến nỗi chữ XÀI nghĩa là "dùng" trong "tiêu xài", "xài tiền", "xài sang", ..., chữ mọi người đều dùng hàng ngày cũng viết sai tràn lan thành "tiêu sài", "sài tiền", "sài sang". Nhất là những người dịch truyện Tàu không rành tiếng Việt.

    Người Bắc thường viết sai chánh tả những chữ có S và X là bởi vì tiếng Bắc không có âm S mà chỉ có âm X, dù rằng bộ mẫu tự tiếng Việt chung đều có cả hai phụ âm S và X, thậm chí chữ có S còn nhiều hơn chữ có X. Xin nêu ra một số từ như sau:


    SUM SÊ hay XUM XUÊ: tĩnh từ miêu tả cây cối xanh tốt, rậm rạp nhiều cành lá này phải viết cả hai chữ đều S là SUM SÊ, và không có U trong chữ sau. Viết “sum suê”, “xum xuê”, hay “sum xuê” đều sai chánh tả.

    SUẤT hay XUẤT: tất cả những chữ sau đây chánh tả đúng đều là chữ SUẤT viết S:

    Đúng: sơ suất, khinh suất, công suất, phần suất, xác suất, hiệu suất, hối suất, lãi suất, suất lĩnh, suất đinh, suất thuế, ...

    Sai: sơ xuất, khinh xuất, công xuất, phần xuất, xác xuất, hiệu xuất, hối xuất, lãi xuất, xuất lĩnh, xuất đinh, xuất thuế, ...


    Chữ XUẤT viết X nghĩa là “ra”, chỉ phối hợp với những chữ khác: xuất nhập, xuất hiện, xuất hành, xuất phát, xuất bôn, xuất giá, xuất huyết, xuất chiến, xuất cảnh, xuất bản, v.v.

    SỚN SÁC hay XỚN XÁC: “sớn sác” với cả hai chữ đều viết S mới đúng, còn “xớn xác” hay “sớn xác” đều sai. Chúng ta cũng viết “ba sớn ba sác”, không phải “ba xớn ba xác”.

    SĂM SOI hay XĂM XOI, XĂM SOI: hai chữ “xăm” và “xoi” tuy có nghĩa (xăm là châm, xoi là đâm lỗ) và có thể ghép lại với nhau, nhưng “săm soi” (săm là nhìn chăm chăm, soi là rọi vào), cả hai chữ đều dùng S mới đúng chánh tả. “xăm xoi” và “xăm soi” đều sai.

    XOI MÓI hay SOI MÓI: gần nghĩa trừu tượng giống như “săm soi” ở trên, nhưng chữ “xoi” trong “xoi mói” phải viết X, không phải “soi” là rọi, vì “xoi mói” là tiếng nói trại từ “xoi bói” mà ra, với chữ “xoi” viết X nghĩa là “chọc vào”, “bói” hay “mói” là “bới móc”.

    NÓI SUÔNG, SUÔN ĐUỘT hay NÓI XUÔNG, XUÔN ĐUỘT: “nói suông” và “suôn đuột” đúng, những chữ “xuông” và “xuôn” đều sai.

    SUÔN SẺ hay SUÔNG SẺ, XUÔN XẺ: không có “suông sẻ” hay “xuôn xẻ”, chỉ có “suôn sẻ” với cả hai chữ đều viết S và “suôn” không có G mới đúng chánh tả. Chúng ta cũng không nên viết lầm chữ “suôn” không G này với “suông” có G trong “nói suông” ở trên.


    ĐƯỜNG SÁ hay ĐƯỜNG XÁ, PHỐ XÁ hay PHỐ SÁ: chúng ta cần phân biệt nghĩa của hai chữ “sá” và “xá”.

    “sá” cũng nghĩa là” đường”, dùng bổ trợ nghĩa cho “đường”, nên viết ĐƯỜNG SÁ mới đúng, còn “đường xá” sai chánh tả vì “xá” là “nhà”.

    Vì “xá” nghĩa là “nhà”, nên đi với chữ “phố” chúng ta phải viết PHỐ XÁ mới đúng, không phải “phố sá”. Chữ XÁ viết X nghĩa là “nhà” này chúng ta còn dùng trong: quán xá, thương xá, cư xá, ký túc xá, bệnh xá, trạm xá, hàn xá (nhà nghèo), tệ xá (tiếng khiêm tốn chỉ nhà mình đơn sơ, nhỏ bé), thảo xá (nhà cỏ, nhà tranh), v.v.

    SIẾT và XIẾT: hai chữ này có rất nhiều người viết sai. Chúng ta cần phân biệt qua từ loại:

    SIẾT là động từ: siết mạnh, siết chặt tay, ôm siết, rên siết, siết cổ, siết dây, siết bù lon, siết thắng, siết chặt hàng ngũ, siết chặt tình đoàn kết, siết chặt vòng vây, siết nợ, siết nhà, ...

    XIẾT là trạng từ: xiết bao, xiết chi, xiết kể, không tả xiết, xiết nỗi đau lòng, vui mừng khôn xiết, nước chảy xiết, ...


    SUÝT và XUÝT: Có tự điển chỉ ghi chữ XUÝT mà không có chữ SUÝT. Nhưng chúng ta thấy đại chúng xưa nay dùng cả hai chữ như sau và tôi cho là rất nên, vì nghĩa khác nhau thì chữ viết phải khác để làm cho từ vựng được phong phú:

    SUÝT: suýt nữa (xém chút, tí nữa là), suýt soát (gần bằng nhau).

    XUÝT: xuýt xoa, xoắn xuýt.

    SUỴT hay XUỴT: “suỵt” là tiếng bảo im lặng, viết S, không phải "xuỵt”.


    SẤN SỔ hay XẤN XỔ: “sấn sổ” đúng, “xấn xổ” sai.

    SÙI, SỦI hay XÙI, XỦI: chỉ có “sùi bọt”, “sùi bọt mép”, “sủi bọt”, “sủi tăm”. Còn “xùi bọt”, “xủi tăm” đều sai.

    SÚP hay XÚP, NƯỚC SỐT hay NƯỚC XỐT: đây là hai chữ phiên âm từ tiếng Anh và tiếng Pháp “soup”, “sauce”. Tuy cách ký âm đúng sang tiếng Việt phải là “xúp” và “xốt” với âm chữ X mới đúng, nhưng lâu nay chúng ta, người miền Nam, đã quen viết SÚP và SỐT với S rồi, không cần phải sửa lại chữ X thành không được thuận mắt.

    SUM HỌP, SUM VẦY hay XUM HỌP, XUM VẦY: “sum họp”, “sum vầy” là chữ đúng, “xum họp”, “xum vầy” sai.

    SÌ SỤP hay XÌ XỤP: ăn canh “sì sụp”, “sì sụp” lạy, đều viết S, không phải X.

    SUY SUYỂN hay XUY XUYỂN: chỉ có “suy suyển” viết S, không có “xuy xuyển” viết X.

    SẮC SẢO hay SẮC XẢO: nhiều người viết lầm tĩnh từ “sắc sảo” thành “sắc xảo” vì liên tưởng chữ “xảo” là khéo léo, đẹp đẽ trong “kỹ xảo”, nhưng thật ra “sắc sảo”, cả hai chữ đều viết S mới đúng chánh tả.


    SÚC TÍCH, HÀM SÚC hay XÚC TÍCH, HÀM XÚC: “súc” là đựng, “tích” là chứa, nên “súc tích” và “hàm súc” là chữ đúng. Còn “xúc” là chạm, không có nghĩa tương ứng với “tích” và “hàm” nên “xúc tích”, “hàm xúc” là chữ sai.

    SƯNG SỈA hay SƯNG XỈA, XƯNG XỈA: “sưng sỉa”, cả hai chữ đều viết S mới đúng, “sưng xỉa” hay “xưng xỉa” đều sai.

    SỒN SỒN hay XỒN XỒN: “sồn sồn” viết S đúng, viết X sai.

    SUI GIA hay SUÔI GIA, XUI GIA, XUÔI GIA: chỉ có “sui gia”, viết S, không có Ô mới đúng, tất cả chữ còn lại đều sai chánh tả.
    ĐEN SÌ hay ĐEN XÌ: “đen sì” đúng, “đen xì” sai.

    CÂY SẢ hay CÂY XẢ, CÂY XÃ: cây sả chúng ta dùng làm thứ gia vị trong bếp viết S và bỏ dấu hỏi, không phải “xả” hay “xã” viết X. “Xả” viết X dùng trong “xong xả”, “xối xả”, “xả hơi”, “xả giận”. “Xã” dấu ngã là “làng xã”, “xã hội”.

    SẨU MÌNH hay XẨU MÌNH: “sẩu mình”, chữ “sẩu” viết S mới đúng, còn “xẩu mình” là sai. Chữ “xẩu” viết X là tiếng đệm trong “xương xẩu”.


    THIẾU SÓT hay THIẾU XÓT: “thiếu sót” đúng, “thiếu xót” sai. Đây là chữ “sót” trong “bỏ sót”, viết S, không phải “xót” viết X trong “đau xót”, “xót xa”.

    SÀ XUỐNG hay XÀ XUỐNG: động từ này phải viết “sà”, chữ S mới đúng, chữ “xà” sai. Thí dụ: cánh chim sà xuống, trực thăng sà xuống thấp, địa danh “Cây Da Sà” (ở xã Phú Lâm, quận Bình Chánh, Sài Gòn).

    “Xà nhà” (trần nhà) thì đúng, nhưng “xà nhà” là danh từ, không phải động từ như chữ “sà”.

    XỆ XUỐNG hay SỆ XUỐNG: ngược lại chữ "sà" ở trên, chữ "xệ" chúng ta phải viết X. Tiếng Việt không có chữ "sệ" viết S.


    SỔ LỒNG hay XỔ LỒNG, XỔNG CHUỒNG hay SỔNG CHUỒNG: chúng ta viết “sổ lồng xổng chuồng”, chữ “sổ” viết S (chim sổ lồng), “xổng chuồng” viết X (heo xổng chuồng). “Xổ lồng”, “sổng chuồng” viết ngược “x” và “s” lại đều sai.

    SỤC SẠC hay XỤC XẠC: "sục sạc" là tĩnh từ tượng thanh của vật bị rung lắc trong một đồ đựng, như que diêm bị lắc trong hộp, chúng ta viết S cả hai chữ. Nhiều người viết sai thành "xục xạc" do bị lầm với chữ "xạc" trong "xào xạc" (tiếng lá cây xào xạc) vốn viết X.


    DÈ SẺN hay DÈ XẺN: chữ trước đúng, chữ sau sai.

    BỔ SUNG hay BỔ XUNG: “bổ sung” đúng, “bổ xung” sai với chữ “xung” không có nghĩa liên quan với “bổ”. “Xung phong”, “xung đột”, “xung khắc” mới viết X.

    SƯƠNG SA, SƯƠNG SÂM, SƯƠNG SÁO hay XƯNG XA, XƯNG XÂM XƯNG XÁO: đây là chữ sai của người Nam kỳ. Viết "sương sa, sương sâm, sương sáo" đều S mới đúng, "xưng xâm, xưng xáo" là chữ sai. Đây là ba món ăn mát. Sương sa làm từ nhựa rong biển, sương sâm là dùng nước nhựa của dây sâm, sương sáo là nước nhựa nấu ra từ cây sương sáo.


    DÂY SÊN hay DÂY XÊN (trong xe đạp, xe gắn máy): tiếng Anh là “chain”, tiếng Pháp “chaine”, tiếng ta phiên âm là “sên” mới đúng, viết “xên” sai.
    XÊN MỨT hay SÊN MỨT: động từ “xên” này viết X đúng, viết S sai. Ngược lại với “dây sên” ở trên.

    GIÀU SỤ hay GIÀU XỤ: chữ trước viết S đúng, chữ sau viết X sai.


    KẾCH XÙ hay KẾCH SÙ: ngược lại với "giàu sụ", "kếch xù" viết X ̣đúng, "kếch sù" viết S sai.

    LỤP XỤP hay LỤP SỤP, SỤP ĐỔ hay XỤP ĐỔ: chúng ta viết “nhà cửa lụp xụp”, với chữ “xụp” viết X, không phải “lụp sụp”. Ngược lại, chúng ta viết S trong “sụp đổ”, “đổ sụp”, chứ không có “xụp đổ”, “đổ xụp”.

    XƯỜNG XÁM hay SƯỜN XÁM (áo dài Tàu): “xường xám” mới đúng, “sườn xám” sai.

    XÚC XẮC hay SÚC SẮC: "xúc xắc", viết X cả hai chữ mới đúng, không phải "súc sắc". "Xúc xắc" là tiếng Bắc, còn gọi là con thò lò (dice của tiếng Anh), có 6 mặt điểm từ nhất đến lục. Tiếng Nam gọi là cục "xí ngầu", chữ nói trại từ âm tiếng Quảng Đông mà ra.


    XOAY XỞ hay XOAY SỞ: “xoay xở”, viết cả hai chữ đều X mới đúng, “xoay sở” là chữ sai.

    XƠI CƠM, XỚI CƠM hay SƠI CƠM, SỚI CƠM: hai chữ trước viết X đúng, hai chữ sau sai.

    XỈ VẢ hay SỈ VẢ, SỈ NHỤC hay XỈ NHỤC: “xỉ vả” là tiếng Nôm, chữ “xỉ” này viết X nên “xỉ vả” là chữ đúng. Còn “sỉ” trong “sỉ nhục” là tiếng Hán-Việt, chúng ta phải viết S, không viết “xỉ nhục”.

    BẠI XỤI, XỤI LƠ hay BẠI SỤI, SỤI LƠ: chữ “xụi” nào cũng viết X, không có chữ “sụi” viết S.

    XỐC NỔI hay SỐC NỔI (tánh tình, hành động nóng nảy bộp chộp): có tự điển ghi “sốc nổi”, nhưng thật ra “xốc nổi” mới đúng, chữ “sốc” sai.

    XỐC XẾCH, XỘC XỆCH hay SỐC SẾCH, SỘC SỆCH: bốn chữ này đều viết với X mới đúng, những chữ viết S đều sai.

    NÓI XẴNG, XẴNG GIỌNG hay NÓI SẴNG, SẴNG GIỌNG: trạng từ “xẵng” này chúng ta viết X mới đúng, chữ “sẵng” viết S sai.

    NGUYÊN XI hay NGUYÊN SI: “nguyên xi” đúng, “nguyên si” sai. Chữ “xi” này là phiên âm từ tiếng Anh, tiếng Pháp (seal, sceler), không phải chữ Việt. “Đóng xi, gắn xi” là đóng khẳn phong bì, bưu phẩm bảo đảm từ người gởi đến người nhận.

    XÉM và SÉM: chữ “xém” là trạng từ trong “xém chút nữa", "xém tí nữa”, “xém mà ...” chúng ta viết X. Còn “sém” là trạng từ trong “cháy sém” chúng ta phải viết S.

    Trên đây là một số chữ có S và X chúng ta thường dùng và viết sai vì chánh tả nhiều chữ khó phân biệt, chúng ta cần ôn lại để sửa chữa. Các bạn có thắc mắc những chữ S và X nào khác xin cứ nêu ra, tôi sẽ trả lời.

    Cám ơn các bạn đã đọc bài.

    Trang Anh Thạc

    Quốc Ngữ Việt Nam Văn Hiến, 03-03-2024
    Last edited by Nguyen Huu Thien; 03-25-2024, 10:09 PM.

  • #2
    Dân NAM ĐỊNH có uốn lưỡi!

    Gần đây, tôi tình cờ khám phá ra fb Quốc Ngữ Việt Nam Văn Hiến và rất tâm đắc với những bài viết về chính tả đúng sai trong tiếng Việt, điển hình là bài GIỮ GÌN NGÔN NGỮ VIỆT TRONG SÁNG - S hay X của Trang Anh Thạc mà tôi đã giới thiệu tới độc giả HQPD.

    Tuy nhiên trong bài này, tác giả đã có một sơ sót nho nhỏ khi viết:

    “Người Bắc thường viết sai chánh tả những chữ có S và X là bởi vì tiếng Bắc không có âm S mà chỉ có âm X, dù rằng bộ mẫu tự tiếng Việt chung đều có cả hai phụ âm S và X...”

    Trên thực tế, xưa kia tiếng Bắc có cả âm S lẫn âm X, nhưng vì... lười uốn lưỡi, một số người đã phát âm S thành X. Tình trạng này ngày càng phổ biến đưa tới sự ngộ nhận như Trang Anh Thạc đã viết.

    Một điều chắc chắn - theo các cụ Bắc kỳ có căn bản về ngôn ngữ - là trước năm 1954, các vùng Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, và Thái Bình đều phân biệt được S và X.

    Nhưng nhiều người (có thể nói đa số) chỉ phân biệt để VIẾT đúng, còn khi NÓI thì S hay X cũng phát âm thành X cho đỡ mệt. Gia đình tôi cũng gốc Nam Định nhưng may mắn không nằm trong số đó. Riêng tôi, tuy lớn lên ở miền quê (huyện Giao Thủy) nhưng ngay từ bé đã bị bố mẹ “sửa sai”, bắt uốn lưỡi các vần S, Tr, Gi, cho nên sau này đã trở thành phản xạ, đến nỗi khi học lớp Nhất ở trường giáo xứ Bùi Phát thường bị chúng bạn
    (100% Bắc kỳ di cư) chế nhạo vì cái tật... cứ uốn lưỡi chữ S!


    * * *

    Nhân tiện, vì tác giả Trang Anh Thạc không đề cập tới trường hợp chữ SỬ DỤNG bị viết sai thành XỬ DỤNG, tôi xin giới thiệu bài viết rất công phu, đầy sức thuyết phục của tác giả Trần Huy Bích:

    Nên viết “xử dụng” hay “sử dụng” ?
    http://tranhuybich.blogspot.com/2017...y-su-dung.html
    Last edited by Nguyen Huu Thien; 04-05-2024, 10:07 PM.

    Comment


    • #3
      GIỮ GÌN NGÔN NGỮ VIỆT TRONG SÁNG

      NHỮNG TỪ NGỮ DỄ LẦM LẪN TRONG TIẾNG VIỆT

      Bài 2:
      D và GI

      Trang Anh Thạc


      Các bạn trang Quốc Ngữ thân mến,

      Trong bài 1 hôm trước chúng ta đã bàn đến những từ ngữ dễ sai giữa S và X rồi, nay chúng ta thảo luận tiếp đề tài những từ ngữ có hai phụ âm cũng dễ lần lẫn khác là D và GI.

      Do phần về hai phụ âm D và GI rất dài, lại có nhiều chữ liên quan đã tạo nên nhiều tranh luận suốt mấy chục năm qua, nên bài 2 này Trang Anh Thạc xin trình bày bốn chữ mà có lẽ ai cũng thắc mắc trước tiên:

      DÒNG hay GIÒNG
      DÙM hay GIÙM

      Đề tài về bốn chữ trên không phải mới mẻ gì ở trang chúng ta vì chúng ta đã bàn đến rất nhiều lần rồi, nhưng vì Nhóm luôn luôn có nhiều thành viên mới chưa đọc đến bài cũ, cũng như viết về D và GI thì chúng ta nhứt thiết phải nêu ra các chữ “nổi bật” này để nhiều người đỡ phải thắc mắc và hỏi đến.

      DÒNG hay GIÒNG

      Đây là một danh từ hai có hai chữ làm rất nhiều người lúng túng khi viết ra: dòngnước hay giòng nước, dòng giống hay giòng giống?

      Trước hết, chúng ta biết là tất cả các tự điển Việt Nam có uy tín nhất từ trước đến nay, như Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của (1885), Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931), Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị của Lê Ngọc Trụ (1959), Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ (1970), v.v., đều chỉ ghi một chữ DÒNG, viết D, duy nhất, không hề có chữ “GIÒNG” viết GI.

      Chữ DÒNG bao gồm tất cả mọi từ ngữ miêu tả vật chất (dòng nước, dòng chảy, dòng sông, dòng dây, nhà Dòng,) và trừu tượng (dòng họ, dòng giống, dòng dõi, nạ dòng).

      Vì vậy, chỉ có chữ DÒNG viết D mới đúng chánh tả, còn GIÒNG tuyệt đối là chữ sai chánh tả.

      Nhưng vì sao chữ “giòng” lại quá phổ biến, đến mức 50% người Việt đều viết chữ này cho tất cả hoặc một nửa các nghĩa dùng như trên? Theo nghiên cứu của tôi, tôi có thể kết luận chữ sai này là lỗi chánh tả của các nhà văn miền Bắc thời Tự Lực Văn Đoàn. Đây là một nhóm văn gia và một văn đàn nổi tiếng nhất Việt Nam đầu thế kỷ hai mươi mà sự nghiệp của họ là những đóng góp hết sức to lớn cho nền văn học nước nhà. Song, cũng vì uy tín và tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn thời đó quá vang dội mà các nhà văn đứng đầu dùng chữ sai chánh tả thì lớp lớp độc giả về sau học theo, các nhà văn, nhà báo, nhà giáo bắt chước theo mà viết. Bằng chứng là nhan đề của các tác phẩm sau đây đã được các tác giả nhóm Tự Lực Văn Đoàn ghi chữ “giòng” trái khoáy này:

      - Giòng Sông Thanh Thủy của Nhất Linh.

      - Theo Giòng của Thạch Lam.

      - Giòng Nước Ngược của Tú Mỡ.

      Giáo sư Trần Huy Bích, một học giả Miền Nam kỳ cựu đã phát biểu trong một cuộc hội luận tại California, Hoa Kỳ vào năm 2020, rằng nguyên nhân các nhà văn Tự Lực Văn Đoàn viết chữ “giòng” sai là vì nhóm văn giới này vốn không thích và xung khắc với các học giả của Hội Khai Trí Tiến Đức, cho nên họ không muốn dùng chữ tự điển của Hội này (như trên đã nói, cuốn Việt Nam Tự Điển của Khai Trí Tiến Đức, được biên soạn bởi 10 vị học giả danh tiếng nhất Bắc kỳ như Phạm Quỳnh, Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Vĩnh, Dương Bá Trạc, Phạm Duy Tốn, v.v., chỉ ghi có duy nhất một chữ DÒNG, không có GIÒNG).

      Nhưng sau Tự Lực Văn Đoàn, các nhà văn lớp thế hệ kế tiếp đều bỏ chữ “giòng” mà dùng thống nhất chữ DÒNG. Đặc biệt, cũng theo Giáo sư Trần Huy Bích, nhà văn Doãn Quốc Sỹ, vốn là con rể của nhà thơ Tú Mỡ, từng viết sách và dạy về văn chương Tự Lực Văn Đoàn, lại không theo nhạc phụ Tú Mỡ viết Giòng Nước Ngược mà viết chữ DÒNG cho cuốn Dòng Sông Định Mệnh (1959) của ông. Nhà văn Nhật Tiến, bạn của nhà văn Nhất Linh, cũng không dùng chữ “giòng” như Nhất Linh mà ghi tên tác phẩm của ông là Tặng Phẩm Của Dòng Sông (1972) với chữ DÒNG viết D. Còn nhiều nữa, các nhà văn và tác phẩm văn học Miền Nam trước 1975 đều dùng chữ DÒNG, không ai còn viết “giòng”.

      Nhạc sĩ Y Vũ của Miền Nam (em ruột nhạc sĩ Y Vân) là người Bắc di cư, nhưng ông viết hai nhạc phẩm có chữ DÒNG mà không phải “giòng” là bài Trôi Theo Dòng Đời và bài Dòng Viết Tâm Sự.

      Giáo sư Trần Huy Bích là một học giả uyên bác, và ông đã khẳng định rằng chúng ta chỉ nên dùng một chữ DÒNG, và GIÒNG là chữ sai chánh tả. Ông còn dẫn chứng rằng chữ Nôm ghi chữ DÒNG bằng bộ Thủy và ghép với chữ Dụng để ghi âm đọc đúng chữ D cho DÒNG.

      Bản thân tôi không cần đi xa như vậy cũng biết rõ từ ngày còn đi học rằng chỉ có chữ DÒNG mới đúng chánh tả, dù thấy nhiều giáo sư trung học thời trước từng dạy mình vẫn viết “giòng” hoặc trong “giòng nước”, hoặc “giòng giống/giòng họ/giòng dõi”. Nhất là chữ của các vị người Bắc di cư.

      Mặt khác, trong khi người ta cứ viết lẫn lộn “dòng nước” với ”giòng nước”, “dòng họ” với “giòng họ” thì riêng mấy chữ “Nhà Dòng”, “Dòng Tên” tôi không bao giờ thấy có ai dám viết “nhà Giòng”, “Giòng Tên”. Không hiểu tại sao.

      Nhưng có một phương diện khảo sát hết sức quan trọng khi tìm hiểu và phân tích chữ nghĩa mà Giáo Sư Trần Huy Bích, cũng như tất cả các học giả có uy tín, tất cả các bình luận viên trên Internet từng bàn đến hai chữ DÒNG và GIÒNG không một ai nghiên cứu tới. Đây là một lãnh vực thuộc về phương pháp học của ngành ngôn ngữ học, một cách thức nghiên cứu có thể chỉ ra nguyên nhân thật sự vì sao chữ “GIÒNG” viết GI sai chánh tả lại xuất hiện một cách tai hại ở Tự Lực Văn Đoàn nói riêng và ở các nhà văn miền Bắc nói chung.

      Đó là ngữ âm vùng miền.

      Chữ viết luôn đi theo tiếng nói mà có. Tôi đã từng phân tích rất nhiều lần tại Diễn Đàn trang chúng ta rằng người miền Bắc luôn có khuynh hướng viết chữ GI nhiều hơn D. Đó là vì tiếng Bắc không có âm chữ D đặc biệt như phương âm hai khu vực Nam kỳ và Trung kỳ nước ta. Người Bắc nói tất cả những chữ có GI, D và cả R đều thành “z” (giáo dục, giận dữ, rõ ràng là “záo zục”, “zận zữ”, “zõ zàng”. Vì vậy tên hán nô Bùi Hiền ở Hà nội mới chủ trương xóa sổ hết tất cả các phụ âm D, GI, R của tiếng Việt mà chỉ dùng một chữ cái Z vốn là mẫu tự trược giờ không hề có trong tiếng Việt). Mà khi đã nói “z” thì không thể viết Z vì tiếng Việt không có mẫu tự Z, cho nên họ thấy chỉ có GI mới ghi ra gần nhất được âm “z” tiếng họ nói, từ đó chữ “dòng” họ nói “zòng” thì viết ra là “giòng”. Tương tự, người Nam nói và viết “dang tay, dội nước, dẫm đạp, dậm chân, dùng dằng, dáo mác” thì người Bắc nói “zang tay, zội nước, zẫm đạp, zậm chân, zùng zằng, záo mác” và viết ra “giang tay, giội nước, giẫm đạp, giậm chân, giùng giằng, giáo mác”. Tất nhiên, trừ ra những chữ D hay GI thường dùng đã quá rõ ràng ai cũng biết là đúng chánh tả rồi thì người miền nào cũng có thể viết đúng, như: “gia” và “da”, “giữ” và “dữ”, “giỗ” và “dỗ”, v.v.

      Một bằng chứng khác cho thấy cũng vì ngữ âm mà làm sai chữ nghĩa. Đó là lỗi sai của nhà văn Khái Hưng, người đồng sáng lập Tự Lực Văn Đoàn với nhà văn Nhất Linh. Vào năm 1936, Khái Hưng in tập truyện ngắn “Giọc Đường Gió Bụi”, với chữ “giọc” viết GI trên bìa sách (và dĩ nhiên ông luôn viết chữ “dọc” là “giọc”). Về sau các nhà xuất bản cả hai miền Nam, Bắc mới tự động sửa tên tác phẩm này lại là “Dọc Đường Gió Bụi” cho đến nay để tránh lỗi sai chánh tả chữ “giọc” quá nặng.

      Địa danh “thác Bản Giốc” ở tỉnh Cao Bằng ngoài Bắc mà chúng ta thường nghe nói đến và thấy danh tự này khắp nơi, có chữ “Giốc” hà nội viết GI. Tiếng Việt không có chữ "giốc" nào viết GI, nên tôi không biết từ đâu mà có cái tên bản (làng người thiểu số) là "Giốc". Nếu chữ này không phải là một danh từ riêng đặc biệt của người thiểu số (giả thiết này rất khó xảy ra), thì chắc hẳn là chữ viết sai chánh tả âm chữ “Dốc” viết D: “Bản Dốc” là bản (làng) nằm trên một dốc núi. "Dốc núi", "dốc đèo", "dốc đá", "triền dốc", chúng ta đều viết D, không bao giờ là GI.

      Xin nói rõ, bài viết này chỉ đề cập thuần túy lỗi chảnh tả của một hai từ ngữ do các nhà văn Tự Lực Vặn Đoàn dùng, cũng như lỗi sai là do lối viết chữ tự nhiên của các nhà văn đó, để phân tích một cách khách quan nguyên nhân phát sanh chữ sai, chứ tôi không hề phủ nhận giá trị văn chương và cả những đóng góp tuyệt vời khác về ngôn ngữ tiếng Việt mà văn chương Tự Lực Văn Đoàn đã đem lại cho tiếng Việt chúng ta và văn học sử Việt Nam trong thế kỷ vừa qua.

      Và tôi trưng dẫn ra chữ DÒNG đúng chánh tả của tự điển Khai Trí Tiến Đức cũng không có nghĩa là cuốn Việt Nam Tự Điển của Hội này chữ nào cũng đúng. Bởi vì các soạn giả của tự điển này cũng đều người Bắc, lỗi chữ sai chánh tả do phát âm trong tự điển này cũng có rất nhiều (ngay chính cả những chữ có D và GI khác), mà họ không nhận ra, dù đó là các cụ học giả lừng danh như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Bùi Kỷ, v.v.

      Ngoài các chữ “dòng” nêu trên, tiếng Việt ngày nay của chúng ta còn có rất nhiều những chữ “dòng” khác như sau:

      -- Vật chất: dòng lệ, dòng sữa mẹ, dòng chữ, dòng xe cộ, dòng thủy triều, dòng điện, dòng nhiệt lưu, ...

      -- Trừu tượng: dòng đời, dòng suy nghĩ, dòng tư tưởng, dòng tâm sự, (ngược) dòng thời gian, dòng sinh mệnh dân tộc (chữ của nhà văn Nguyễn Mộng Giác), dòng con, dòng vua, dòng quan, dòng anh thư, dòng tuấn kiệt, ...

      -- Trường phái: dòng văn học, dòng thi ca, dòng nhạc, dòng hội họa, ...

      -- Tôn giáo: nhà Dòng, trường Dòng, Dòng Tên, Dòng Đa Minh, Dòng Chúa Cứu Thế, Dòng Mến Thánh Giá, ...

      Kết luận:

      Chữ “giòng” là chữ sai chánh tả hoàn toàn, chỉ có DÒNG mới là chữ đúng. Và DÒNG được dùng cho tất cả mọi ý niệm, từ DÒNG SÔNG, DÒNG NƯỚC, đến DÒNG HỌ, DÒNG DÕI, không có phân biệt cụ thể hay trừu tượng. Và chúng ta, kể từ nay chỉ cần nhớ một chữ DÒNG viết D là đủ, không còn phải thắc mắc băn khoăn chữ nào viết “dòng” chữ nào phải là “giòng” làm chi cho rắc rối cuộc đời.

      Còn về nguyên nhân xảy ra hiện tượng chữ “giòng” sai chánh tả, đó chính là vì ngữ âm tự nhiên, tức tiếng nói vùng miền của những người có uy tín về văn chương đã vô tình tạo nên.

      GIÙM hay DÙM

      Về hai chữ bà con hay thắc mắc này, tôi cũng đã bàn đến không biết bao nhiêu lần tại trang chúng ta, nhưng nay xin nhắc lại một lần nữa.

      Vấn đề hai phụ âm D và GI hiện diện rất nhiều trong ngôn ngữ của chúng ta, trên rất nhiều chữ mà ngày sau viện hàn lâm ngôn ngữ học phải bàn thảo và giải quyết cho thống nhất. Riêng GIÙM và DÙM là hai chữ tôi thấy chúng ta dựa theo tự điển để nói chữ nào đúng chữ nào sai là không đúng.

      Tự điển nào cũng ghi có một chữ GIÙM viết GI mà không có chữ DÙM viết D, nhưng tại sao có nhiều người lại viết DÙM mà không viết GIÙM? Câu hỏi cho các nhà làm tự điển và cho cả công chúng là tại sao có người viết chữ này người dùng chữ kia? Chữ nào mới thật đúng chánh tả?

      Ngày nhỏ tôi cũng viết là “giùm” nhưng lớn lên học kỹ môn ngữ âm học và nguyên tắc liên quan chặt chẽ của bộ môn này với tự vựng học, cũng như khảo sát tiếng nói hai miền Nam-Bắc, tôi khám phá ra “giùm” là chữ sai quy tắc ngữ âm học, không thể nói là chữ đúng chánh tả được. Đó bởi là vì chữ DÙM là tiếng địa phương, tức phương ngôn Nam kỳ, tiếng miền Bắc không có. Người Bắc không nói “làm dùm”, mà nói “làm hộ, làm giúp”, trong khi người Nam lại không nói “làm hộ, làm giúp” mà nói “làm dùm” với chữ “dùm” của riêng tiếng Nam, phát ra âm “d” hết sức rõ ràng; và họ nói “dùm” thì viết ra là DÙM với chữ D, hoàn toàn đúng tiêu chuẩn thiết lập từ vựng.

      Trong khi đó, chữ tự điển ghi ra là “GIÙM”, viết GI, mà không ai chỉ ra được vì sao chữ này phải viết GI mà không phải là D. Vậy thì một đằng có căn cứ, một đằng không, chúng ta đã thấy sự hợp lý nằm ở phía nào rồi.

      Tôi cũng đem quy tắc ngữ âm ra mổ xẻ vấn đề để tìm nguyên nhân vì sao có chữ “giùm”.

      Đó là vì người Bắc vốn không có chữ DÙM nào hết trong phương ngữ miền Bắc, nhưng một khi họ bắt chước người Nam nói chữ DÙM thì họ không phát âm được âm chữ D của tiếng Nam mà nói “dùm” thành “zùm”. Từ âm chữ “zùm” này, họ tự nhiên -- giống như “dòng” họ nói “zòng” và viết “giòng” -- đã viết “dùm” thành “giùm”, và các ông làm tự điển lại phần nhiều là người Bắc nên đều bắt chước nhau ghi ra chữ “giùm” với GI. Riêng cụ Huỳnh Tịnh Của là người Nam kỳ nhưng tôi không hiểu Cụ dựa vào đâu mà cũng ghi ra chữ “giùm” viết GI trong tự điển của Cụ.

      Tôi xin nói thêm chút nữa về chữ DÙM đặc biệt của tiếng Nam. Chữ DÙM chúng ta vừa bàn đến ở trên là trạng từ, nhưng người miền Tây Nam Phần còn dùng nó làm động từ với nghĩa là “cho vay, cho mượn”. Thí dụ: “đi nhờ ông A dùm cho một món tiền để vượt qua cơn túng ngặt”.

      Kết luận:

      GIÙM không thể là chữ đúng chánh tả vì nó không có “cơ sở” hợp lý, còn DÙM là chữ có căn cứ hẳn hoi, vì vậy DÙM phải là chữ đúng chánh tả. Tuy vậy, trang Quốc Ngữ Việt Nam Văn Hiến không có thẩm quyền quyết định sự đúng sai của hai chữ này, mà quyền xác định này thuộc về quốc gia. Vì lẽ đó, nhóm chúng ta chủ trương cả hai chữ GIÙM và DÙM tạm thời đều dùng được, ai quen viết GIÙM thì cứ viết, ai dùng DÙM thì cứ dùng, chờ quốc gia quyết định về sau.

      Bài phân tích những chữ DÒNG và GIÒNG, DÙM và GIÙM đến đây là hết. Cám ơn các bạn đã đọc bài. Lần sau chúng ta sẽ bàn đến những chữ có D và GI khác.

      Trang Anh Thạc
      Quốc Ngữ Việt Nam Văn Hiến, 20-3-2024
      Last edited by Nguyen Huu Thien; 06-12-2024, 01:36 PM.

      Comment


      • #4
        GIỮ GÌN NGÔN NGỮ VIỆT TRONG SÁNG

        THẮC MẮC CHỮ NGHĨA:


        LỄ LẠT hay LỄ LẠC, GIÃI BÀY hay GIẢI BÀY, ĐỘC GIẢ hay ĐỌC GIẢ?
        Trang Anh Thạc


        (nguồn: FB Quốc Ngữ Việt Nam Văn Hiến)

        1. Lễ lạt hay lễ lạc:

        Trước hết, chúng ta thấy “lạt” hay “lạc” đi với chữ “lễ” là chữ đệm có cùng vần L với “lễ” để làm tiếng đệm cho “lễ”, giống như rất nhiều chữ đệm khác có cùng phụ âm đầu với chữ chánh đứng trước nó (lập lờ, lững lờ, lấp lửng, lấp liếm, lầm lẫn, v.v.).

        Nhưng các bạn tra tự điển sẽ không thấy có “lễ lạc” với chữ “lạc” viết C vì “lễ lạc” là chữ không đúng chánh tả. Rất nhiều người Nam và người Trung viết sai chánh tả danh từ lễ lạtthành “lễ lạc”, đó là vì tiếng miền Nam và tiếng miền Trung đều nói không phân biệt chữ có hai phụ âm T và C đằng cuối chữ, cho nên dễ lầm lẫn chánh tả chữ có T và C. Lý do sai thứ hai là về nghĩa: họ lầm tưởng chữ “lạc” nghĩa là “vui” (lạc quan, lạc thú, hỉ lạc, ...), và “lễ hội” thì phải vui rồi.

        Không phải vậy. LỄ LẠT, với chữ “lạt” viết T, mới đúng chánh tả nguyên gốc của danh từ này trong tiếng Việt. Và đây là chữ tiếng Bắc đã có từ cả ngàn năm nay rồi, cả nước phải dùng chung.

        Chữ “lạt” viết T ở đây không phải là tĩnh từ “lợt lạt”, “lạt lẽo”, mà là danh từ “dây lạt”. Tại sao sợi dây lạt lại có quan hệ gì với lễ?

        Các bạn tra cuốn Việt Nam Tự Điển của các cụ học giả miền Bắc soạn từ năm 1930 (in 1931), sẽ thấy danh từ LỄ LẠT được định nghĩa như sau:

        Lễ lạt: cũng nghĩa như lễ vật”.

        Tại sao “lễ lạt” cũng nghĩa như “lễ vật”? Tự điển thì không thể cắt nghĩa dông dài nhưng chúng ta cần tìm hiểu nguồn gốc của chữ để biết chánh tả của nó.

        Tôi không biết có ai từng giải thích danh từ “lễ lạt” như tôi không, nhưng theo hiểu biết của tôi, chữ “lạt” ở đây có ý nghĩa quan trọng như một điển tích, chứ không phải chỉ là tiếng đệm cho chữ “lễ”.

        Lạt” là sợi dây lạt để buộc các thứ bánh gói bằng lá dong, lá chuối như bánh chưng, bánh tét chẳng hạn. Sợi dây lạt buộc bánh được xem là “đại diện” cho những cái bánh được gói và cột kỹ để đem cúng Trời Đất và tổ tiên dịp Tết Nguyên Đán, các dịp lễ hội ở đền chùa, đình miếu, và để dâng biếu các quan viên, hương cả trong làng xã ngày xưa, nên định nghĩa trên của các cụ Hội Khai Trí Tiến Đức ngoài Bắc mới ghi “lễ lạt cũng nghĩa như lễ vật”. Người ta cột bánh bằng lạt tre, lạt giang (miền Bắc), lạt tre hay lạt lác (miền Nam), và những sợi lạt này màu trắng, nổi bật lên trên nền lá xanh. Sau khi bánh được nấu chín rồi, nếu là bánh để đem đi cúng kiến, biếu xén, người ta tháo lạt cũ ra, cột vào lượt lạt mới rồi thắt một cái nơ bốn hay sáu vòng trông như đóa hoa bên trên cái bánh cho đẹp, vừa làm quai để xách trên tay nữa. Vì vậy, sợi lạt buộc bên ngoài bánh đem lại hình thức đẹp mắt, lịch sự cho cái bánh và nó đại diện cho món lễ vật dâng cúng trên bàn thờ ngày lễ.

        Từ nguồn gốc việc gói bánh này mà tiếng Việt có danh từ LỄ LẠT, với chữ LẠT viết T, không phải “lễ lạc” như nhiều người ngày nay hiểu lầm là “lễ hội vui vầy”.

        Tôi lại phải phân tích thêm chút nữa về cái sai của hai chữ “lễ lạc”. “Lễ lạc” không những sai chánh tả với ý chúng ta dùng là “lạc” đệm ý cho “lễ”, mà còn sai về ngữ vựng. Bởi vì nếu chúng ta dùng hai chữ này với “lạc” viết C, thì “lễ lạc” không phải là chữ thuần Việt nữa rồi, mà đã biến thành chữ Hán-Việt với trật tự phụ trước chánh sau, tức “lạc” mới là danh từ chánh, còn “lễ” là tĩnh từ phụ bổ nghĩa cho “lạc”. Với cấu tạo này thì “lễ lạc” không phải nghĩa là “lễ hội vui vầy” như ý chúng ta dùng, mà nghĩa là “niềm vui của ngày lễ”. Bạn nào rành chữ Hán-Việt sẽ hiểu điều này.

        Như vậy tóm lại chúng ta có thể kết luận, “lễ lạc” là chữ hoàn toàn sai và không thể dùng được.

        2. Giãi bày hay giải bày:

        Giãi bày cũng là một từ kép khác của tiếng Bắc đã có từ lâu, với chữ “giãi” viết GI và bỏ dấu ngã, không phải “giải” viết dấu hỏi như nhiều người miền Nam (nói chung người Nam và người Trung) hiểu sai. Người Bắc, với giọng Bắc nói phân biệt hỏi-ngã rõ ràng, không viết sai “giãi bày” thành “giải bày”.

        Chữ “giãi” viết dấu ngã trong tiếng Bắc có nghĩa là “trải ra”, “tỏa ra”. Người Bắc miêu tả, như trong văn chương của Tự Lực Văn Đoàn, “trăng giãi” có nghĩa là ánh trăng tỏa rạng khắp nơi. Vì vậy “giãi bày” nghĩa là “trải ra để trình bày”, chứ không phải “giải thích và trình bày” như người Trung, người Nam hiểu lầm mà viết thành “giải bày” với chữ “giải” là “giải thích/giảng giải” viết dấu hỏi.

        Trường hợp sai chánh tả của động từ “giải bày” này cũng vô tình mà trùng với cái sai về ngữ vựng như cái sai của danh từ “lễ lạc” viết C nói trên. Chúng ta dùng “giãi bày” là hai chữ “giãi” và “bày” thuần Việt phối hợp với nhau, chính xác rồi. Còn “giải bày” là “giải” Hán-Việt đi với “bày” thuần Việt, một cấu tạo chữ sai quy tắc ngữ vựng.

        Như vậy, “giải bày” là chữ sai, không thể dùng, chỉ có GIÃI BÀY với chữ GIÃI viết dấu ngã mới là chữ đúng chánh tả, tuy rằng chữ “giãi” viết GI và dấu ngã là một chữ rất lạ và rất ít dùng.

        3. Độc giả hay đọc giả:

        Nhiều người viết sai danh từ này là vì âm nói của hai chữ “độc” và “đọc” gần như giống nhau.

        Chữ “độc”, viết Ô, là chữ Hán-Việt, có nhiều nghĩa: chất độc, độc ác, đơn độc, đọc (sách). Trường hợp dùng chữ “độc” với chữ “giả” – cũng là Hán-Việt -- thành “độc giả” thì có nghĩa là “người đọc”. Đây là ngữ vựng đúng. Còn “đọc” viết O là chữ thuần Việt, không thể phối hợp với “giả” là Hán-Việt, dù rằng “độc” hay “đọc” đều là “đọc”.

        Tóm lại, ĐỘC GIẢ, với chữ ĐỘC viết Ô mới là chữ đúng chánh tả, còn “đọc giả” là chữ sai, chúng ta không nên viết. Chúng ta chỉ viết ĐỘC GIẢ (Hán-Việt) hay NGƯỜI ĐỌC(thuần Việt), chứ không viết “đọc giả”.

        Cám ơn các bạn đã đọc bài.

        Trang Anh Thạc
        Quốc Ngữ Việt Nam Văn Hiến, 06-6-2024


        Chú thích: ngày nay ở Việt Nam ta vẫn còn cột bánh tét, bánh chưng bằng lạt tre, lạt giang, lạt lác, nhưng không còn thắt nơ bên trên như ngày xưa. Thậm chí người ta còn dùng dây ni-lông để dễ tìm và rẻ tiền, chỉ cần cắt một sợi dây thật dài là đủ để cột trọn một cái bánh chưng hay bánh tét, không cần dùng lạt cây phải cắt thành nhiều sợi cột riêng, mất công hơn nhiều.
        Last edited by Nguyen Huu Thien; 06-10-2024, 05:31 PM.

        Comment


        • #5
          Các bài này, anh Nguyễn Hữu Thiện post rất hửu ích ! Vài chử tôi vẫn viết sai, bây giờ mới biết... Thí dụ, giải bàygiãi bày...

          Comment



          Hội Quán Phi Dũng ©
          Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




          website hit counter

          Working...
          X