Mặt trời bắt đầu ló dạng. Trong ánh sáng của bình minh hàng hải, thấy lố nhố trên tả ngạn rạch Nha Mân, cạnh một ngôi đình, những binh sĩ nai nịt gọn gàng, mũ sắt đội đầu, vũ khí đeo vai, ba lô cá nhân lổm ngổm trên lưng mỗi người lính. Ông Trung đoàn trưởng dáng người nhỏ thó, tay cầm gậy, đứng sát bờ sông kiểm tra quân số đang im lặng theo hàng một xuống từng tàu (1).
Tiền phong đĩnh Monitor.
Tôi cho mời ông Trung đoàn trưởng, cố vấn Mỹ của ông, và ban chỉ huy hành quân lên tàu chỉ huy của tôi để dùng thức ăn sáng trước giờ khởi hành. Trong số người này còn có ông quận trưởng quận Nha Mân và một số chừng năm lính tùy tùng của Trung đoàn. Thức ăn Hải Quân dọn lên gồm có bánh mì thịt, cà phê đen và mấy bao thuốc Quân Tiếp Vụ. Hơi khiêm nhượng!
Ông quận trưởng kề tai tôi nói nhỏ: " Khi đổ quân xong thì xin.... ông nhóng lên chừng hai ngàn thước sâu vào bên trong, được không?"
" Nhóng lên chi vậy?" tôi hỏi:
" Em mới về ngồi quận này ba tháng. Nay sẵn dịp em vào thăm một đồn Nghĩa quân."
Tôi hỏi lại: " Đồn tên gì?"
" Thưa, Đồn Ông. "
“Ông gì?”
“Thưa, không biết.”
" Từ quận đến đó chỉ có năm ngàn thước mà sao khó khăn đến như thế?"Ông quân tiếp: " Thưa phải có tàu Hải Quân mới dám đi. Ghe máy của tụi này đi không đến mà còn bị tổn thất."
" Như thế trong ba tháng qua lính của ông quận sống bằng gì? " tôi thắc mắc.Câu trả lời nghe hơi lạc quẻ: " Hôm nay em mang phát hướng viên theo vào phát lương anh em trong đó luôn."
Ba tháng là gần một trăm ngày. Một trăm ngày không lương, không tiếp tế thì sống bằng gì!
Bấm đèn nhìn bản đồ bên trên phủ tấm ô-vơ-lê (2) mà không thấy ghi vị trí của Đồn Ông. Bỏ tấm ô-vơ-lê ra thì ngay chỗ ngón tay ông quận chỉ, thấy có một ký hiệu hình tam giác màu đỏ. Đó là ước hiệu một xây cất bằng gạch.
Quay sang ông quận, tôi hỏi: " Không liên lạc được bằng người nhưng với vô tuyến thì sao?"Ông nói: "Thưa cũng không luôn. Họ hết pin để dùng cho máy."
"Thưa tuần rồi."
"Thấy người và cờ nhưng có gì bảo đảm họ là không phải bên kia?"
Việc ông quận xem chẳng có gì quan trọng, nhưng đối với tôi lúc bấy giờ, thì đó không phải chuyện nhỏ. Tôi lại hỏi:
Bật máy truyền tin qua tần số địa-không, rà tới rà lui nhưng chẳng nghe thấy gì. Trở lại tần số nội bộ nghe biết 2 tiểu đoàn đang đi đến mục tiêu, mọi người đang lội nước tới bụng.
Tiếng rè rè từ máy truyền tin vang vang. Đến gần trưa, ông quận trưởng ngồi trên tàu tôi kêu tà-lọt của ông —người lính lo ăn uống cho sĩ quan— dọn cơm có gà hấp rượu ăn với muối tiêu chanh, bánh mì, bia lon, trái cây, mọi thứ bay mùi thơm phức. Ông mời tôi và sĩ quan trên tàu dùng cơm trưa với ông.Giống như mọi tổ chức khác, quân đội có hai tay dài không đều. Một tay ngắn ban phát ân huệ cho những ai ở gần bên, một tay dài để ra lệnh cho binh sĩ trấn đóng tận biên cương. Ông tướng còn thêm cây gậy cho tay ra lệnh được dài thêm.
Bữa cơm được thanh toán rất nhanh. Ông Lượng cũng ăn qua loa. Có lẽ rượu bia dành cho ông không được nhiều chăng? Kiểm soát hoạt động trên bờ thấy im re. Lục soát đến đâu, kết quả ra sao, nhu cầu tiếp tế thêm gì, là ba câu hỏi tôi cần biết. Nhớ lời yêu cầu của ông quận trưởng, tôi lên máy gọi Trung đoàn thì được trả lời là..."Các đứa con đều bình yên."Tôi kêu Chỉ huy trưởng Giang đoàn 31 trực tiếp theo dõi cuộc hành quân trên bờ để yểm trợ cho Bộ Binh khi có yêu cầu. Còn tôi với ông quận cùng hai tùy tùng của ông ta thì nhảy sang một chiếc "Đầu Lân" (4) để đi đến nơi có tên gọi là Đồn Ông. Liền đó, tôi lên máy truyền tin, gọi ông Giang đóng 31 kêu sẵn sàng theo tôi khi có lệnh. Hai cặp trinh sát mở đường liền vọt lên phía trước; mặt nước trong kinh bỗng nhiên thành dao động, rập rình.
Khi vừa qua một cua gần 90º cách đoàn tàu chừng ngàn thước phía trước thì bộ phận trinh sát báo cáo thấy hai bóng người trên bờ phía tả ngạn; họ vẫy tay gọi tàu. Ai vậy? Tàu tăng tốc chạy tới nơi thấy hai đàn ông, quần te tua, bên thấp bên cao, áo lòi cùi chỏ, hết sức là xập xệ, tóc râu bù xù. Một người tự xưng là trưởng Đồn Ông, rồi chỉ người kia nói là lính của đồn. Một chiếc trinh sát ủi vào ngay nơi hai người đang đứng, mời cả hai lên tàu để được đưa sang tàu tôi.Vừa bước lên tàu, thấy ông quận quân phục bảnh bao, ba hoa mai vàng chóe, trong khi tôi mặc quân phục ngụy trang, cổ áo có hoa mai với một gạch ngang đen thui, nhiều anh em Bộ Binh không biết đó là cấp bực gì. Ông trưởng đồn đứng dụm chân, đưa tay ngang trán chào ông quận, miệng nói ngôn ngữ bình dân dễ thương: " Nghe tiếng máy tàu, anh em mừng húm, nhờ tôi thả bộ ra xem thì thấy mấy ông vô. Ở trong này nhiều...gay cấn lắm, ông quận."
Ông quận kêu chỉ đồn nằm bờ rạch bên nào cho tàu ủi bãi.
Đồn trưởng nói: " Trong vòng một tiếng hú thôi." Danh từ người dân dùng ở vùng sông ngòi có khi cũng rắc rối đối với không ít người.
Nhìn hai người lính Địa Phương Quân đó, tôi cảm thấy bất nhẫn. Cũng là người Việt Nam, nhưng dường như trong suốt đời mình cho đến lúc bấy giờ, họ chưa biết gì ngoài quanh năm bùn lầy nước đọng. Việc bị bỏ quên ba tháng không lương chỉ là chuyện nhỏ, là chuyện thường tình dành riêng cho những người lính như họ. Đối với họ thì quan trên là thần, là thánh, là thông thái, là thanh liêm, là yêu nước, là lãnh đạo. Còn họ thì là dân ngu khu đen. Vợ con họ cũng không biết gì ngoài ăn uống, sinh đẻ, nuôi con, ̀, rồi chết không vì già thì vì chiến tranh, vì bệnh tật.
Nếu tin tình báo do Mỹ cung cấp không có tin kho vũ khí đối phương gần Đồn Ông thì đã không có cuộc hành quân lục soát; và rồi những người lính địa phương quân ở đồn đó sẽ còn bị bỏ quên đến bao giờ!Nhờ ông Lượng kiểm tra tiến độ cuộc hành quân trên bộ một lần nữa, thấy không có yêu cầu yểm trợ nào từ phía Bộ Binh, tôi cho tăng máy chạy đến Đồn Ông theo chỉ dẫn của đồn trưởng.
Cái gọi là đồn thật ra là ngôi đình ngày xưa dân làng thờ ông Quan Công. Lúc bấy giờ chung quanh không còn làng mạc gì nữa. Khu ngày xưa dùng làm nơi họp chợ thì nay là một đám lau sậy cách Đồn Ông chừng trăm thước, trổ cờ trắng hếu. Bên trong và bên dưới lùm lau lách đó là những gì? Theo ước tính của tôi, một trung đội có thể chui vào đó nấu cơm ăn với nhau mà bên ngoài không ai biết!
Trừ nhân viên thủy thủ đoàn, tất cả nhảy lên bờ theo ông đồn trưởng.
Từ bờ sông đi vào đồn có một rãnh nước rộng non một thước tây dùng dẫn nước sông vào một cái hồ vuông cạnh bốn thước, sâu bao nhiêu không rõ. Đồn chỉ nhờ vào cái hố này mà có nước dùng hàng ngày. Lý do là ra bờ sông trước đồn để tắm giặt hay lấy nước dùng thì thường bị du kích địa phương đến nhắm người mà tập...bắn bia. Nhiều năm trước, lần đầu tôi thấy y cảnh này tại một đồn Nghĩa Quân tại Xóm Ông Trang ở Mũi Cà Mau. Nếu trên bản đồ mà kéo một đường thẳng nối liền hai địa danh này rồi vẽ một hình tròn với đường bán kính này thì trong cái hình tròn đó còn có bao nhiều đồn trong tình trạng như thế. Đó là bốn năm Đệ Nhị Cộng Hoà với ông Tổng Thống và ông phó Tổng Thống như mặt trời mặt trăng.
Nhìn lên nóc đồn thì hầu như không còn một thước vuông nào không bị sút ngói. Không biết khi trời mưa —trong Nam thường có mưa dầm, tuy mỗi trận có hơi kém mưa dầm ở Huế đôi chút —thì người trong đồn sẽ trốn vào đâu cho khỏi bị ướt!Bước vào bên trong thì thấy sáng như bên ngoài. Đây đúng là cảnh ba gian ngập cả ba gian nắng chiều trong bài thơ Qua Nhà của Nguyễn Bính tôi đọc nhiều năm trước.
Nhìn hướng lên nóc nhà tôi thấy bức tượng ông Quan Công bằng gỗ, nước sơn còn như mới. Ông ngồi một mình, không thấy Châu Xương và Quan Bình. Một tay ông cầm Thanh Long đao, một tay vuốt năm chòm râu, hai mắt sáng như sao đêm.
Ông đồn trưởng nói: " Đó là tượng Đức Quan Vân Trường, vị thần phù hộ tụi này nên tụi này rất kính Ông. Pháo của tụi chúng làm bể nóc đình, nhưng tượng của Ông và cả tụi này không bị ăn miễn. Đêm nào chúng nó về pháo thì xin lỗi, râu ông dụng ngược lên, run run ba lần, nhiều người nhìn thấy. Ông rất linh."Lúc đó nghe tiếng ai đứng phía sau nói: " Linh gì mà không bóp cổ bọn đó cho hết về pháo kích? Linh gì?"
Nhìn lại thì thấy hạ sĩ vận chuyển tên Cáp, một thủy thủ trên tàu trinh sát của tôi; không hiểu sao anh ta lại có mặt trong nhóm người lên thăm đồn.
Ông đồn trưởng nói ngay: " Nói dzậy là không được đâu. Ông linh lắm. Chúng tôi thờ Ông mà. "
Tôi quay ra kêu anh Cáp về tàu chờ tôi ở đó. Khi anh ta quay lưng đi về phía bờ sông, tôi đề nghị ông quận đi quanh đồn xem đồn có cần gì thêm thì họp nhau mà lo cho họ.
Vừa ra bên ngoài thì thấy ngay vách đình một khẩu súng "honi" sáu nòng, thứ gắn trên trực thăng Cobra Hoa Kỳ, mỗi phút bắn sáu ngàn viên đạn, tiếng đạn đi nghe như bò rống. Toàn bộ ổ súng bị sét ăn đỏ khé.Ông quận hỏi: " Cái này sao nằm ở đây, hả?"
Có tiếng người trả lời: "Tháng rồi một (trực) thăng Mỹ bay ngang làm rớt ngoài ruộng. Tụi tôi ...hành quân ra mang về bỏ đó. Sáu người mới khiêng nổi nó."Chuyện nghe quá lạ, nhưng rõ ràng cây súng đó đang nằm chổng gọng ở đó. Súng “honi” đâu phải được gắn trên trực thăng rồi muốn rớt ra lúc nào thì rớt, nếu không có bàn tay con người can dự vào?
Ông quận kề tai tôi nói vừa đủ nghe: " Tôi không biết nên tin ông đồn trưởng này được bao nhiều phần trăm."
Tôi nghe mà không biết phải nói gì cho hợp lý. Dù sao, cờ Việt Nam Cộng Hoà còn bay trên nóc đồn thì tôi thấy mình có bổn phận bồi dưỡng cho cái gốc của cột cờ đó. Tôi kêu ông đồn trưởng cho biết nhu cầu ông cần cho đời sống trong đồn. Ông nói nhu cầu thì nhiều nhưng hỏi bất chợt thì không nhớ ra.
Lúc đó ông quận gợi ý nói đồn cần dầu đốt đèn ban đêm, điện trì máy vô tuyến, đạn, kẽm gai cọc sắt.Tôi muốn giúp cho đồn một tủ thuốc gồm loại dùng chữa bệnh đau bụng tiêu chảy, nhức đầu sổ mũi, băng keo, rượu cồn khử trùng, thuốc cảm mạo, thuốc đỏ rửa vết thương, sách báo giải trí, và lương khô. Trung úy Lượng ghi tất cả vào một tờ giấy cho nhớ.
Đồn trưởng xin đạn súng trường, cạt-bin với....lưu đạn.
Khi còn cách cầu Nha Mân chừng hai ngàn thước thì bỗng nghe một loạt súng AK nổ từ phía sau. Tiếng súng nghe không gần lắm. Trung úy Lượng la lên "Nó vétvétvét cái ót mình!" tiếp theo là súng trên tàu nổ không ngưng. Địch nổ súng một loạt thứ hai. Khói súng bốc lên từ bờ phía tay mặt, chếch về phía lái. Thuyền trưởng chiếc "Đầu lân" bình tĩnh cho tàu quay bên mặt để sử dụng tức thời khẩu 40 ly. Chiếc giang đĩnh vừa đánh một nửa vòng tròn vừa khai hỏa vào mục tiêu đã nhìn thấy được. Đạn nổ làm ngả cây như voi phá rừng. Trong buổi chiều muộn đầy khói súng trên mặt sông, hai chiếc trinh sát lùi lại, bắn xéo lên bờ, hi vọng chận đường rút lui của du kích địch.
Phải trực tiếp thấy cảnh các tiểu đĩnh lồng lên trên rạch, giữa những tiếng súng, mới biết cái giá trị của Giang đoàn, biết thương những chiến sĩ đánh giặc trên sông, đánh giặc không biết đâu là giờ giấc. Tính ra Liên Giang đoàn hành quân liên tục được bốn hôm. Ba hôm trước thì ở Mang Thít. Về hậu cứ Hàm Tử ở thị xã Vĩnh Long 7 giờ chiều thì 3 giờ sáng hôm sau lại đi Nha Mân. Ngày mai thì ở tại chỗ này. Ngày mốt thì chưa biết!
Cuộc lục soát kéo dài chỉ nửa tiếng, tìm ra hai khẩu AK hết đạn, hai xác người, một không đầu và một không chân, mang về quận nhận dạng. Phía bạn có hai bị thương do giẫm phải mìn giăng gần ổ phục kích của địch. Vết thương trúng ở chân, một còn đi được, một phải khiêng. Thế là ta có 3 bị thương, địch 2 chết, ta thu hai AK-47; và như vậy là lời hay lỗ. Ta lời nhưng mẹ Việt Nam thì lỗ, vì những người chết và bị thương toàn là người Việt Nam với nhau! Riêng với tôi thì trên đường binh nghiệp, tôi đã can dự đến những thương vong này, điều mà tôi phải chấp nhận vì không còn lực chọn nào khác. Và đã can dự thì có ngày phải chịu sự phê phán của lẽ công chính.
Ông Chỉ huy trưởng Giang đoàn 31 nói:" Hôm nay không biết ai có số đỏ đây. Thường mình phản pháo ít khi thấy kết quả."
Nghe thế, tôi hỏi:" Tại sao vậy?"
Trả lời: " Hành quân thường chấm dứt ban chiều. Trên đường về, nếu chúng có bắn vói theo thì ta chỉ bắn trả rồi về luôn. Trời sụp tối, ở lại bất tiện ."
Ông ta chỉ nói như thế rồi ngưng.
Tôi mới về Liên Giang đoàn được hơn hai tháng, trong khi ông phục vụ sông ngòi nhiều năm trước tôi. Thế nhưng tôi biết "bắn trả rồi về luôn” là thói quen rất khó bỏ. Trên giang đĩnh thường không có quân tùng thiết như lần hành quân đặc biệt này. Không quân thì lấy gì đổ quân lục soát kiểm tra kết quả của phản pháo?
Vì có cuộc chạm súng nói trên, tôi yêu cầu ông quận khi về quận đường thì gửi công điện yêu cầu Liên Giang đoàn 23 /31 giúp tiếp tế Đồn Ông, đồng thời cho theo dõi việc đi chợ của mấy bà, gom cho đủ số để sáng hôm sau tôi cho đưa họ về lại đồn. Hai là ông quận cho kẽm gai cọc sắt tu bổ hàng rào phòng thủ, đồ quân tiếp vụ và thư từ báo chí dành cho nhân viên trong đồn xuống tàu theo chuyến ngày mai. Ba là đề nghị chiến thương bội tinh cho anh hạ sĩ Cáp của tôi vì nếu nhờ Vùng 4 Sông Ngòi làm việc đó thì sẽ mất thì giờ đi vòng vo, Sư đoàn hỏi đi hỏi lại. Sau đó tôi yêu cầu Giang đoàn trưởng 31 đưa Giang đoàn ông về hậu cứ, tôi chỉ giữ lại một cặp "Đầu Lân", hai LCM và hai cập trinh sát để hôm sau đưa gia đình binh sĩ về Đồn Ông, mang theo..."nhiều nhiều đế, mì gói, và thuốc rê Gò Vấp nữa, em ơi!" cho mấy ông chồng.Tôi nghe rõ, họ không có nhu cầu báo chí. Như vậy thì không nghe ra-diô, không đọc sách báo thì họ làm gì với nhau trong những giờ rảnh rỗi mà không ra được bên ngoài? Hồi học ở trường, thầy giảng về đời sống thời Trung Cổ nói, " Trong những lâu đài chiến đấu xây cao trên núi thời đó, tướng quân chỉ có bắp thịt nhưng phần lớn là thuộc thành phần dốt chữ. Họ với binh sĩ và vợ con của họ sống chung với nhau, không phòng riêng, không màn. Sinh hoạt chung, ăn chung, ngủ chung, ai cũng như ai mà con nít thì cứ được sinh ra...để kịp bổ sung quân số."
Nhìn cảnh con người sinh hoạt với nhau trong Đồn Ông, nơi các gia đình sống chung với nhau không vách, không màn , tôi tưởng thấy lại cảnh sống con người thời Trung Cổ tôi có lần được xem trong phim tài liệu, thời mà kỹ nghệ tơ sợi chưa có, mỗi người chỉ có vài ba bộ quần áo mặc thay đổi, binh sĩ chỉ có một bộ mặc trên người, chờ có người chết thì thu quần áo để dành cho mình. Con người bị giam hãm tại một nơi trong nhiều tháng, có khi trong nhiều năm, sống không nước để tắm giặt, uống rượu thay nước, người chết thì mang xác vứt xuống chân đèo…
Trời đã quá xế chiều. Sau khi cho thương binh với tất cả phụ nữ cùng trẻ con lên bờ bình yên, và mang khẩu súng "hô-ni" lên quận Nha Mân xong thì ông Lượng xách túi quần áo của ông nhảy sang tàu tôi. Các đơn vị của Giang đoàn 31 đang xuôi giòng về hậu cứ. Hoàng hôn ụp xuống trên sông trong khi giang đĩnh thả lình bình ngang Cồn Cát, nơi tàu HQ- 328 của tôi bị cạn 10 năm về trước.
Tàu bị cạn là một tai nạn không nhỏ, nhưng lần đó vì ngu dốt không biết thế hay sao mà tôi bình tĩnh một cách lạ lùng. Có thể tôi nghĩ rằng tàu tôi thuộc loại tàu ủi bãi đổ quân thì việc tàu lên cạn là chuyện thường tình. Rồi từ lúc đó tôi cho rằng tất cả trên cuộc đời này đều là vay mượn rồi trả lại. Con người không làm chủ bất cứ một vật gì, kể cả cuộc sống của chính mình. Khi hiểu được như thế thì ta đâu phải lo mất mát những gì ta không làm chủ. Trên giao tôi mượn pháo hạm HQ-328 rồi trên cũng sẽ lấy lại để cho người khác mượn tiếp. Điều quan trọng là ta có biết dùng những cái ta vay mượn để “bối trần hợp giác,” nghĩa là đưa ta về với ánh sáng, xa lìa bóng tối hay không. Tôi đã mượn những chiến hạm, mượn những đơn vị khác và lúc bấy giờ mượn Liên Giang đoàn 23/31 để xây cho tôi một chuỗi dài ký ức mà nếu được chiến tranh tha thứ, thì còn có gì để kể lại, để tự hào và cũng biết đâu để hối tiếc về sau. Còn thì tất cả chỉ là hư ảo. Một thánh nhân từng nói " Cái lợi ích của tuổi già là biết hối tiếc về những hành động sai trái của mình lỡ phạm thời còn trẻ để sám hối. Nên người ta ai cũng thích sống già là do thế, sống để hối tiếc, để sám hối, để ăn năn." Thế có nghĩa sống già mà không biết sám hối tức là không biết cách để mà già cho tốt.
Tôi bước ra phía lái tàu chỉ huy thấy Trung úy Lượng đang mặc quần đùi, kéo nước sông lên tắm. Tôi cũng chuẩn bị đi tắm với nước phù sa lấy trực tiếp từ sông.
Chập chờn trong bóng hoàng hôn, mây trời bay lãng đãng bay gần bay xa. Nhìn nơi sàn giữa thân tàu thấy lính tôi đang chia cơm cho nhau. Thấy cơm không bốc khói, tôi biết cơm và thức ăn đều đã nguội tanh!
Nhìn lại phần cơm chiều của mình, thấy cũng thế, lạnh tanh. Anh lính tà lọt nói để anh nhúm lửa hâm lại. Tôi phát tay nói khỏi.
TRỞ LẠI ĐỒN ÔNG
(GUỐC AI BỎ LẠI TRÊN XUỒNG)
nhân diện bất kiến nhi tương tư
ngọc trợ hữu thời mộng lý cư
Tử Hà
Hạ sĩ Cáp đứng trước tượng ông Quan Công trên bệ cao trong đồn mà buông lời khiếm nhã rồi sau đó anh ta bị một viên đạn lạc xé miệng anh rách một đường dài. Việc này có thể được anh em Tây học cho là sự ngẫu nhiên. Tôi thì nghĩ ngược lại. Lý do là từ bé tôi thường nghe câu, "Bệnh nhập ư khẩu, hoạn xuất ư khẩu," nghĩa là bệnh vào thân mình qua cửa miệng và tai họa cũng do cửa miệng mình mà ra.
Nhà Phật thì có nói đến cái vạ miệng —sính nho thì nói đó là khẩu nghiệp. Nhà Chúa cũng khuyên con người nên uốn lưỡi bảy lần trước khi nói để tránh cái hại cho mình về sau. Nhà Nho thì, "Nhất ngôn thiết quá tứ mã nan truy," nghĩa là một lời nói ra thì cỗ xe bốn ngựa kéo cũng khó đuổi kịp. Mà anh Cáp vì không biết hay đã quên mất những lời dạy của thánh hiền và của Chúa, của Phật mà vừa rồi được trên cho một bài học chăng? Và càng gần thời đại chúng ta hiện nay, những sự huyền bí liên hệ đến thần thánh cũng được ghi nhận và loan truyền trong đại chúng.
Theo Steve McEveety, nhà sản xuất phim, trong khi quay phim "Sự Thương Khó của Chúa Giêsu," (6) thì chuyện lạ xảy ra: Tài tử đóng vai Chúa Giêsu, James Caviezel, đang lúc đóng phim thì bị sét đánh. Viên phụ tá giám đốc phim trường cũng bị sét đánh hai lần (7). Lúc đó, tuy chưa biết tin trên nhưng tôi tin giữa người sống và người khuất mặt đang ở thế giới bên kia, luôn có một liên hệ hữu cơ. Và tôi muốn trở lại nhìn lại bức tượng của ông Quan Công một lần nữa.
Sáng sớm hôm sau, tàu tôi vào bãi ủi nhận người đi chợ đêm qua thì gặp ông quận cùng toàn thể vợ con lính Đồn Ông đã chờ sẵn. Tôi không cho tàu ủi vào chỗ cũ hôm qua mà lựa một bãi ủi khác cách đó khoảng 100 thước.
Ông quận có lẽ vì tự ái cá nhân, không để tôi một mình gánh việc cho ông, nên xin tháp tùng chuyền đi. Ngoài kẽm gai cọc sắt ông mang theo, còn có sáu thùng mỗi cái to như cái trống chầu, mỗi cái cao gần một thước, trong chứa hàng quân tiếp vụ và tiếp liệu linh tinh khác cho đồn. Rồi thực phẩm hàng hóa mấy bà mua về gộp chung để trên bờ cao như đống lúa gần chục giạ.
Lo an ninh cho đoàn, ông quận xin tôi cho ông mang theo 2 tiểu đội địa phương quân, nói theo danh từ Bộ Binh là một trung đội trừ; mỗi tiểu đội xuống một giang đĩnh chuyển vận. Người quá giang và hàng hóa xuống hầm tàu của hai chiếc “Đầu Lân.”. Cặp trinh sát không chở người vì cần phải vận chuyển nhanh trường hợp đụng trận.
Ông quận trưởng xuống tàu với nhân viên mang máy truyền tin, theo sau có một anh tà-lọt mang một thùng giấy đầy nhóc thức ăn, có thịt heo quay, gà quay ê hề với cả rượu Hennessy, nước sô-đa và một cây nước đá dài hơn thước.
Ông kề tai tôi nói nhỏ:
" Đại Bàng có nghĩ tụi nó sẽ trả thù cho hai thằng bọn chúng bỏ mạng hôm qua hay không?"
Té ra ông mang theo một trung đội lính chỉ vì câu hỏi này.
Tôi nói: " Nếu nó đòi trả thù thì tụi tôi cũng muốn trả thù cho hai binh sĩ của Trung đoàn 15 và hạ sĩ Cáp của tôi nữa.
Ông Lượng đứng gần bên, nghe thế liền nói ké:
" Cái cái cái vụ đó thì thì thì tôi đang đang đang đang mong lắm đây."
Tôi bỗng nghĩ mà buồn cười cho anh Cáp. Vết thương tuy không nặng nhưng khi lành rồi tôi e mồm anh ta sẽ bên cao bên thấp trông như lúc nào anh cũng như đang cười nửa miệng.
Khi nhân viên quá giang xuống tàu xong thì tất cả chiến đĩnh rời bến. Cảnh vật im lìm trong buổi sáng bình yên. Mặt trời phía Đông vừa nhú lên khởi ngọn cây bên kia sông Tiền. Khu chợ cũng bắt đầu nhóm họp như thường lệ. Thoạt nhìn giang đĩnh đi hàng một. Vầng hồng lơ lửng phía sau lưng
Lúc chui qua cầu Nha Mân tôi kêu Trung úy Lượng nói: " Anh điều động tác xạ từ giờ phút này. "
Xoay qua ông quận, tôi hỏi:
" Khi cần đi thăm các đồn bót trong quận thì ông đi bằng gì?"
Ông ta nói:
" Nhờ cố vấn xin trực thăng. Nhưng xin mười lần thì chỉ được hai, ba. Nhiều khi cũng trớt da me. (8) Trên bảo tôi dùng phương tiện tự túc như đò máy chẳng hạn. Nhưng làm gì có đò máy đi qua Đồn Ông!"
Bất giác tôi nhớ tháng 6 năm 1966, lúc tôi đang có công tác ở thành phố Philadelphia, Mỹ quốc. Một ông bạn người Do Thái có nói cả quyết với tôi rằng Hoa Kỳ đang vào kế hoạch rời bỏ miền Nam Việt Nam. Lời nói một năm trước đó có liên quan gì đến ba tiếng “trớt da me” tôi vừa nghe ông quận nói hay không?
Tôi gợi ý:
" Đi bằng tàu Giang đoàn thì sao?"
Ông quận giải thích:
" Mỗi lần xin tàu Giang đoàn thì trên kêu tôi phải lo tùng thiết. Tùng thiết đào đâu ra. Phải xin quân ở Trung đoàn. Mà họ đâu có rảnh. Quân số bên đó có khi cũng eo hẹp, thường dưới cấp số. Ngoài ra nhận chức quận trưởng ngày nay phải lo nhiều thứ ngoài an ninh lãnh thổ. Để khi rảnh tôi sẽ nói Đại Bàng nghe.”
Tôi hỏi:
" Không dùng binh sĩ của quận làm quân tùng thiết được sao? "
Ông nói:
" Quận tôi chỉ có dân vệ. Mà dân vệ ở đâu thì giữ đồn ở đó."
Tôi còn thắc mắc:
" Còn lính gì ông quận mang đi theo hôm nay?"
" Đó là lính Bảo An làm ở văn phòng."
Tôi không biết quân số của quận ra sao, bao nhiêu. Hỏi thêm thì e bất tiện. Làm sao yên tâm đánh nhau khi chưa giải quyết được những khó khăn ông quận vừa nói đó.
Nhớ lại công tác trước mắt, tôi quay sang ông quận hỏi: " Có phải chúng ta đang ở trong vùng oanh kích tự do hay không?"
Ông quận:
" Mấy bảng viết hai chữ Tử địa là ranh giới từ đó trở đi thuộc vùng oanh kích tự do."
Tôi hỏi thế cốt cho Trung úy Lượng nghe, xem phản ứng ông ra sao. Thì có ngay. Ông ra lệnh các nơi chuẩn bị tác xạ. Tầm sát thương hữu hiệu của súng Mit.30 là 100 thước. Khi đoàn tàu còn cách những cái voi đất chừng ngần ấy khoảng cách là ông Lượng cho bắn từng loạt đạn Mit. 30 vào đó.
Hôm qua tôi không tác xạ vì là lần đầu đoàn tàu tôi vào rạch, không muốn làm rõ sự có mặt của Giang đoàn tôi trong vùng. Hôm nay thì tôi phải làm thế vì chuyến đi của tôi đã được phổ biến.
Nhìn quanh không thấy Trung úy Lượng và ông trưởng đồn đâu cả. Thì ra ông Lượng đang vui vẻ cặp cổ ông trưởng đồn; cả hai đang đi vào ngôi đình.
Mãn nguyện khi thấy mọi người đều vui vẻ, ông quận mời tôi lên bờ. Bước vào bên trong đình, thấy tại "khu gia binh" lúc bấy giờ thì thành cái chợ chồm hổm tí hon. Hàng hóa mua từ chợ về được bày ra la liệt, choáng ra cả lối đi. Nhưng không sao. Thức ăn quan trọng hơn không gian và địa lý.
Nói như ngôi chợ là vì tôi nghe một bà vợ lính nói:
" Chao chị mua nhiều quá. Để lại cho tôi hai lọ, giá bao nhiêu cũng được."
Bà kia tiếp:
" Nhờ sẵn chuyến tàu thì mua cả mấy tá, mua cho đã đời luôn. Lạy trời mỗi tháng có được mấy ông lính thủy vào đây cho mình đi chợ một lần như thế này thì ai đó có muốn gì tôi cũng chịu hết."
Sáu năm trước đó nhân chuyến đưa ông "xếp" lớn của tôi trong lực lượng Hải thuyền về thăm làng nơi ông chôn nhao cắt rốn ở miền Trung, làng Hà Thanh, tôi thấy ông được cả làng đãi cũng thứ đế này. Ông nhận phần của ông xong, nhấp một tí lấy thảo rồi đưa cả cho tôi thanh toán. Lần đó tôi có bửu bối mang theo nên tránh được cái say bất tỉnh, chỉ có hơi nhức đầu một tí. Bây giờ đi tay không, mà nhậu với ông đồn trưởng người miền Nam, thì không để cho lính khiêng về tàu là nhất định không xong. Ông quận chắc cũng biết thế. Mà khi cấp dưới mời nhậu mà mình không chịu chơi hết mình thì theo phong tục địa phương là rất... khó làm việc về sau. Tuy nhiên ông cũng nói: " Hôm nay nhậu thì nhậu nhưng sau đó tôi còn về quận có nhiều việc khác. Tôi và ông Giang đoàn này xin mỗi người hai chén thôi."
"Mình đi xong tôi tin họ sẽ nhậu tiếp. Gọi máy mà không nghe ai trả lời thì biết ngay."
Đường về bình yên cho đến cách cầu Nha Mân chừng hai ngàn thước thì trong gió chiều lồng lộng, trên mặt nước có một chiếc xuồng ba lá ai thả trôi sông.Năm 1955, tai kinh Ba Thê, Long Xuyên, trong khi hành quân chúng tôi bắt gặp ba bè chuối thả trôi theo giòng nước, trên mỗi bè có một thông điệp do thành phần phiến loạn gửi ra. Mới đọc câu đầu đã thấy ngay đó là lời nói láo rất hạ cấp. Sau đó, năm 1961, thì ra biển vùng vĩ tuyến đúng ngày Mồng Một Tất năm Tân Sửu, với chiếc HQ-02, cũng chộp được một chiếc thuyền Hải Nam trên có ba tù cải tạo người Trung Hoa Dân Quốc trốn trại giong buồm đi bốn ngày trên biển, đói khát gần chết; tất cả được cứu đưa về đất liền miền Nam. Bây giờ năm 1967 thì tôi về vùng sông ngòi này để gặp một chiếc xuồng ba lá ngạo mạn chắn ngang thủy trình.
Trong vùng tử địa đó, bất cứ cái gì lạ mắt, bất thường, đều là một vấn đề phải suy nghĩ. Đó là một bẫy sập, đi gần đó hay đụng nhẹ vào là có thể thủy mìn sẽ nổ? Trung úy Lượng cho một tàu trinh sát đến kiểm tra. Báo cáo liền đó là xuồng không người, có hai chiếc dầm bơi, và...một chiếc guốc phụ nữ. Đó là một đề tài rất tốt cho những nhà văn có óc trinh thám phân tích rồi viết thành truyện dài vô tận.
Ông quận trưởng đề nghị bắn xuồng rồi bỏ cho chìm.
" Khi mới đến tôi đã cho hạ. Vài hôm sau lại thấy những cái mới."
" Ai đặt lại bảng mới?" tôi hỏi.
" Chắc họ cũng không xa đây lắm," ông quận đáp:
" Ông quận có nghe nói qua về anh em Biệt Hải của Hải Quân Việt Nam chưa?" tôi hỏi tiếp.
" Cái đó là gì vậy?" ông hỏi lại.
" Là cái có thể giúp ông quận tìm ra ai là người đã đặt những tấm bảng gỗ đó, rồi mang về cho ông quận. "
Ông quận nói nhanh: " Tốt quá. Vậy thì bao giờ ‘Đại Bàng’ giúp tôi được?"
Tôi nói:
" Việc này thì ông liên lạc với tôi sau. Nhưng ông phải hứa với tôi là giữ tuyệt đối bí mật nha. "
Ông quận gật đầu. Rồi sau một thoáng suy nghĩ, ông nói:
" Tôi muốn bà nhà tôi nhìn tận mắt cảnh sống cơ cực của mấy bà vợ binh sĩ địa phương quân ở đây, chồng đâu vợ đó. Bà ở Sài Gòn, chê Nha Mân nhà quê. Lại còn kêu tôi gửi công xa của quận về đưa bà đi đây đi đó. Mấy bà vợ lính ở đây đến đi bộ cũng không có đường để đi. Cùng là đàn bà với nhau cả mà sao có điều gì rất khó nói."
Đoàn giang đĩnh về đến bến ủi trước Quân Nha Mân. Một sĩ quan thuộc ban hành quân của quận đến trình ông quận một xấp công văn xin ông duyệt ký.
Ông quân đưa tay ra nhận những tờ giấy đó rồi nhìn anh ta, hỏi:
" Từ sáng giờ có ghi nhận tai nạn nào trên rạch Nha Mân gần cầu không, hả?"
Người sĩ quan đó nói:
" Thưa không."
Nghe thế, ông Lượng xía vào, nhắn ông quận trưởng:
" Chiếc xuồng thì chúng tôi tôi tôi gởi cho quận. Có có có có ai xin lại thìthìthì ông quận cho làmlàmlàm phước. Chiếc guốc guốc guốc mồ mồ côi thì tôi cầm về để để để trên bàn viết mà nhìn chơi. Cám cám cám ơn ông ông ông nhiều."
Bốn tàu tuần tự lui bãi, ra sông Tiền để về hậu cứ.
Thức ăn và rượu ông quận mang theo còn để lại y nguyên trên tàu. Cây nước đá đã tan hết. Ông Lượng kêu các tàu trong đoàn lần lượt cập vào cho ông chia đều thức ăn; rượu thì ông giữ lại. Ông nói:
"Anh anh anh em yên yên yên trí đi. Đi với với với với tôi là không bao giờ thiếu cái cái cái ăn cả. Chỉ có no no no dồn đói đói góp thôi.
Trong khi tàu đang chạy chậm trên sông lớn, tôi ra sau lái thả gàu kéo nước tắm. Gió trên sông mát lạnh nhưng trong lòng cảm thấy ấm khi nhìn thủy thủ chia thức ăn cho nhau. Trên tàu biển, sĩ quan ăn riêng, ở riêng với nhau. Trên tàu Giang đoàn thì ngược lại.
Ông Lượng trẻ hơn tôi nhưng so với đa số thủy thủ của tôi thì ông cũng là người có tuổi. Trong bóng chiều tà trên sóng nước, nhìn ông đang khom người moi thức ăn chia cho anh em thủy thủ, tôi tưởng tượng ông như một gà đãi kiếm mồi cả ngày, buổi chiều về nuôi từng đứa con mình.
Tiểu Đĩnh
1. Trung đoàn trưởng là Trung tá NVT, quê Long Xuyên, gốc nhà giáo, mô phạm đầy người.
2. Over lay, giấy kiếng phủ trên bản đồ.
3. Provincial Ranger Unit
4. Chiến đĩnh Monitor, đon vị chủ lực về hỏa pháo của giang đoàn.
5. Trung úy NVL, gốc bộ Binh, cải tuyển sang Hải Quân. Sau một lần đi hành quân, tàu ông bị mìn nổ lật úp. Ông thoát được nhưng sinh tật cà lăm khi nói.
6. Phim The Passion do Mel Gibson thực hiện năm 2004.
7. Steeve McEveely nói:” I’m about a hundred feet away from them when I glanced over and see lightning coming out of Caviezel’s ears—Newsweek Nov. 3, 2003.
8. Tiếng dân gian trong Nam có nghĩa là trớt hướt, hay là không có gì cả.
9. Cây dông đồng, dùng đẻo thành guốc.
10.Nhân diện bất tri hà xứ khứ - Thôi Hiệu.