Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Ngành Vận Tải trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa

Collapse
X

Ngành Vận Tải trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Ngành Vận Tải trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa

    Ngành Vận Tải trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa
    * Nguyễn Hữu Thiện




    Lời phi lộ: Trong chiều dài hơn 20 năm của cuộc chiến bảo vệ lý tưởng Tự Do tại miền Nam Việt Nam, so với cách ngành khác trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa, ngành Vận Tải - viết một cách đầy đủ là ngành Vận Tải & Vận Tải Võ Trang & Không Thám - tương đối ít được giới truyền thông nhắc tới. Về phần các quân binh chủng bạn và dân chúng miền Nam, có lẽ đa số cũng chỉ chú ý tới ngành này sau khi các vận tải cơ võ trang “Hỏa Long” nhảy vào vòng chiến.

    Trên thực tế, ngành Vận Tải đóng một vai trò rất quan trọng, và cũng là nơi xuất thân của nhiều vị chỉ huy cao cấp trong quân chủng Không Quân, như Nguyễn Xuân Vinh, Huỳnh Hữu Hiền, Nguyễn Cao Kỳ (ba đời Tư lệnh KQ), Phan Phụng Tiên (Sư đoàn trưởng SĐ5KQ), Phạm Ngọc Sang (Sư đoàn trưởng SĐ6KQ), Lưu Kim Cương (Tư lệnh Không Đoàn 33 Chiến Thuật)...

    Năm nay, nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập quân chủng Không Quân VNCH (1 tháng 7), và 60 năm ngày thành lập Phi Đoàn 1 Vận Tải (1 tháng 6), chúng tôi cố gắng sưu tầm các nguồn tài liệu để đúc kết thành một bài tương đối chi tiết về ngành Vận Tải trong Không Lực VNCH, khởi đầu từ ngày các khóa sinh Khóa 51, 52 lần lượt về nước cho tới ngày 29/4/1975 - ngày phi hành đoàn vận tải võ trang “Tinh Long 7” anh dũng hy sinh trên bầu trời Tân Sơn Nhất, khép lại trang chiến sử cuối cùng của Không Lực VNCH.

    Mặc dù cố gắng cô đọng, bài viết về sự thành lập, phát triển và trưởng thành của ngành Vận Tải trong Không Lực VNCH trong thời gian hơn 20 năm cũng sẽ khá dài, vì thế chúng tôi xin được chia ra làm hai kỳ, kỳ thứ nhất viết về Vận Tải, kỳ thứ hai viết về Vận Tải Võ Trang & Không Thám.

    Cuối cùng, cho dù đã tham khảo hầu hết các bài viết về ngành Vận Tải của các vị niên trưởng, các cấp chỉ huy trong ngành, cũng như tài liệu của người Pháp, người Mỹ, của các nhà sưu tầm, bài viết của chúng tôi chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, ước mong sẽ nhận được sự bổ túc của quý niên trưởng và chiến hữu trong quân chủng. NHT


    I- Giai đoạn thành lập

    1- Những bước đầu


    Ngày 11/5/1950, thời kỳ Việt Nam còn là một quốc gia do Pháp “bảo hộ”, Thủ tướng Trần Văn Hữu chính thức tuyên bố thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.

    Hơn một năm sau, ngày 25/6/1951 tại Đà Lạt, Quốc trưởng Bảo Đại ký Dụ số 9 thành lập ngành Không Quân. Cuối năm đó, một trung tâm huấn luyện được người Pháp xây dựng tại Nha Trang để đào tạo các phi công và chuyên viên người Việt; và tới tháng 3/1952 đã khai giảng khóa hoa tiêu quan sát đầu tiên.

    Cũng nên biết, vào “thuở ban đầu” của Không Quân Việt Nam, các nhân viên phi hành và kỹ thuật được đào tạo tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân ở Nha Trang hoặc tại các trường Không Quân ở Pháp hay Bắc Phi, có thể được tuyển thẳng từ dân sự hoặc đã tốt nghiệp tại các trường sĩ quan, trong đó nhiều người đã chiến đấu tại các đơn vị Bộ Binh, các binh chủng, hoặc phục vụ tại các cơ sở tham mưu đôi ba năm, sau khi ngành Không Quân được thành lập mới tình nguyện thuyên chuyển về. Đa số thành phần sĩ quan này xuất thân từ Trường Sĩ Quan Trừ Bị (Nam Định hoặc Thủ Đức), như các ông Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, Võ Xuân Lành, Đặng Đình Linh, Nguyễn Văn Lượng, Trần Văn Minh, Nguyễn Hữu Tần..., một số xuất thân Trường Sĩ Quan Hiện Dịch - Huế (Đập Đá) như các ông Trần Văn Hổ (vị tư lệnh đầu tiên của Không Quân Việt Nam), Trần Phước, hoặc Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt như các ông Võ Dinh, Nguyễn Ngọc Oánh, Từ Bộ Cam, Nguyễn Thế Anh...

    Từ giữa năm 1951, cùng thời gian với việc chuẩn bị xây dựng TTHLKQ ở Nha Trang, sau khi lệnh tổng động viên được ban hành, một số đông sinh viên học sinh đã tình nguyện gia nhập Không Quân. Những khóa sinh dân sự này, cùng với nhiều sĩ quan Lục Quân tình nguyện thuyên chuyển sang Không Quân, đã được lần lượt gửi đi thụ huấn tại các trường không quân ở Pháp và ở các thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi.

    Trước hết nói về Trường Võ Bị Không Quân Salon-de-Provence nổi tiếng, nơi đào tạo các cấp chỉ huy trong Không Quân Pháp, đã có nhiều sĩ quan và sinh viên sĩ quan Việt Nam theo học các ngành: phi hành, cơ khí, truyền tin & điện tử. Ngành phi hành có các ông Lê Trung Trực, Nguyễn Ngọc Loan, Nguyễn Xuân Vinh, Hà Xuân Vịnh, Nguyễn Quang Tri, Lưu Văn Đức, Trần Duy Kỷ, Từ Bộ Cam, Phạm Long Sửu, Vũ Thượng Văn, Trần Văn Minh, Nguyễn Đức Khánh...; ngành cơ khí, truyền tin & điện tử có các ông Lê Văn Khương, Đặng Đình Linh, Từ Văn Bê, Trần Đỗ Cung, Nguyễn Quang Diệm, Nguyễn Bình Trứ, Dương Xuân Nhơn....

    Sau một thời gian theo học tại Salon-de-Provence, các sĩ quan hay SVSQ được chuyển sang các trường bay như Marrakech (căn bản), Mecknès, Khouribga (khu trục), Avord (vận tải) hay các trường kỹ thuật chuyên môn ở Rochefort, Auxerre, Chambéry, Nimes.

    Theo danh sách các khóa học được lưu trữ, từ năm 1951 tới 1957, có tổng cộng 63 người Việt được theo học tại trường Salon-de-Provence.

    Kế đến là trường căn bản quân sự & căn bản phi hành Marrakech ở Morocco (Bắc Phi). Nguyên trường này dành cho các khóa sinh hạ sĩ quan (trong không quân Pháp và nhiều thuộc địa của Pháp, hoa tiêu có cả cấp hạ sĩ quan), nhưng do nhu cầu đỏi hỏi, một số sĩ quan Pháp và thuộc địa đã được huấn luyện căn bản phi hành tại đây. Sau khi tốt nghiệp tại Marrakech, những khóa sinh được tuyển về ngành oanh tạc/vận tải sẽ được đưa tới trường Avord ở nội địa Pháp để học lái máy bay nhiều động cơ (từ 2 trở lên).


    Một số khóa sinh VN và ngoại quốc trước chiếc MD-315 Flamant tại trường oanh tạc Blida, Algeria

    Đại đa số trong lớp hoa tiêu vận tải đầu tiên của Không Quân Việt Nam đều xuất thân từ trường bay căn bản Marrakech. Theo danh sách khóa sinh Marrakech do người Pháp ghi lại, trong số những người về ngành vận tải, Khóa 51D (bis) có các ông La Vĩnh Sinh, Lý Tri Tình, Ôn Văn Hiển (hạ sĩ quan), Khóa 51H có ông Lê Trung Trực (sĩ quan), Khóa 52F1 có các ông Huỳnh Hữu Hiền, Phạm Ngọc Sang, Huỳnh Minh Bon, Huỳnh Bá Tính, Đinh Văn Chung, Phan Phụng Tiên (sĩ quan), Nguyễn Hữu Chẩn (hạ sĩ quan), và Khóa 52F2 có các ông Nguyễn Cao Kỳ, Trịnh Hảo Tâm (sĩ quan), Lưu Kim Cương, Phan Thanh Vân, Bùi Đức Mỹ, Huỳnh Văn Hiến, Bùi Hữu Thế, Hạ Hầu Sinh, Nguyễn Phúc Tửng... (hạ sĩ quan).

    [Sau khi tốt nghiệp về nước, số hoa tiêu hạ sĩ quan nói trên đã được Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, đặc cách thăng cấp Chuẩn úy.

    Riêng ba ông Huỳnh Hữu Hiền, Huỳnh Bá Tính, Nguyễn Hữu Chẩn về sau được chuyển sang ngành khu trục. Khi Phi Đoàn 1 Khu Trục được chính thức thành lập vào ngày 1/6/1956, Đại úy Huỳnh Hữu Hiền, Đại úy Huỳnh Bá Tính giữ chức Chỉ huy trưởng, Chỉ huy phó tiên khởi của phi đoàn này]



    Các khóa sinh Khóa 52F2. Hàng ngồi, từ trái: Phan Thanh Vân, Lưu Kim Cương, Nguyễn Cao Kỳ,
    Trần Văn Hổ, Trịnh Hảo Tâm, Nguyễn Mai Lâm

    Sau khi tốt nghiệp hoa tiêu tại Avord trên phi cơ MD-312 Flamant, các khóa sinh sẽ được đưa tới trường oanh tạc Blida hoặc các đơn vị vận tải trang bị phi cơ C-47 Dakota (“Dakota” là tên người Anh đặt cho kiểu phi cơ Douglas C-47 “Skytrain” của người Mỹ; người Pháp cũng gọi theo người Anh).

    * Trường Blida:

    Trường này nằm trong Căn cứ Không quân Pháp ở Blida, Algeria. Vào các năm 1953-54, các tân hoa tiêu của các Khóa 52F1 và 52F2 được đưa về đây thụ huấn trên phi cơ MD-315 Flamant về tác xạ và oanh tạc, với mục đích thành lập các đơn vị tác chiến & liên lạc trong Không Quân Việt Nam, trang bị phi cơ MD-312 và MD-315.


    Một chiếc MD-315 Flamant của dân sưu tầm máy bay cổ, được sơn cờ VNCH và cờ hiệu KQVN

    * Trường CIET:

    Về phần các hoa tiêu được đưa tới các đơn vị trang bị vận tải cơ C-47 Dakota, sẽ phải ngồi ghế phi công phụ ít nhất là 6 tháng, sau đó sẽ được gửi tới trường CIET (viết tắt của tiếng Pháp Centre d’Instruction des Equipages de Transport: Trung tâm Huấn luyện Phi hành đoàn Vận tải).

    Trường CIET nằm trong Căn cứ Không Quân Toulouse-Francazal ở miền nam nước Pháp, gần rặng núi Pyréneés ở biên giới Pháp – Tây-ban-nha, là nơi huấn luyện các phi công phụ của các đơn vị vận tải gửi đến thụ huấn để trở thành phi công chánh, có khả năng điều khiển phi cơ trong mọi điều kiện thời tiết. Trường đòi hỏi gắt gao về khả năng bay trời mù với một độ sai biệt rất nhỏ trong các động tác cận tiến và đồ hình (figures).

    Hai hoa tiêu vận tải đầu tiên của Việt Nam tốt nghiệp trường CIET là các ông Phạm Ngọc Sang và Huỳnh Hữu Hiền; người thứ ba là ông Lý Tri Tình.

    Sau thời gian thực tập tại các đơn vị trang bị vận tải cơ C-47 Dakota ở Pháp, dù tốt nghiệp hay không tốt nghiệp trường CIET, các hoa tiêu vận tải thuộc hai Khóa 52F1 và 52F2 đã lần lượt trở về Việt Nam, phục vụ tại các phi đoàn vận tải của Pháp ở Viễn Đông gồm GT 1/64 Béarn, GT 2/62 Franche-Comté và GT 2/63 Sénégal trong thời gian chuẩn bị thành lập các phi đoàn vận tải cho Không Quân Việt Nam.

    [Trong số ba phi đoàn nói trên, Phi Đoàn GT 2/62 Franche-Comté được đặt dưới quyền chỉ huy của Trung tá (Không Quân Pháp) Nguyễn Văn Hinh, tới đồn trú tại Biên Hòa vào năm 1949; phi đoàn này về sau được đưa ra miền Bắc để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Về phần Trung tá Nguyễn Văn Hinh, qua năm 1950, đã xin ra khỏi Không Quân Pháp để giữ chức Tổng thư ký tại Bộ Quốc Phòng của Việt Nam Quốc Gia vừa được thành lập; tới năm 1951, ông được cử làm Chánh võ phòng cho Quốc trưởng Bảo Đại. Năm 1952, khi Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia được thành lập, ông được đặc cách lên cấp Thiếu tướng, không phải mang lon Đại tá một ngày nào, và trở thành vị Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam; năm 1953, ông được thăng cấp Trung tướng. Còn Phi Đoàn GT 2/63 Sénégal đóng tại Tân Sơn Nhất, là đơn vị sau này sẽ chuyển giao các phi cơ C-47 của họ để thành lập phi đoàn vận tải đầu tiên của Không Quân Việt Nam]

    Các phi công thụ huấn (tác xạ và oanh tạc) tại trường Blida thì được đưa về nước để thành lập Đệ Nhất Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc, đơn vị đầu tiên của Không Quân Việt Nam có khả năng “tác chiến”, dù rất giới hạn.


    C-47 Dakota

    2- Thành lập các phi đoàn

    Trước khi viết về việc thành lập các phi đoàn vận tải đúng nghĩa, thiết tưởng cũng nên viết sơ qua về các đơn vị phi hành được thành lập trước đó có liên quan tới “vận tải”.

    * Phi Đoàn 312 Đặc Nhiệm:

    Phi Đoàn 312 Đặc Nhiệm được thành lập ngày 1/8/1951 tại Nha Trang, là đơn vị phi hành đầu tiên do người Pháp thành lập cho các hoa tiêu Việt Nam (nhưng lại được chuyển giao sau Phi Đoàn 1 và Phi Đoàn 2 Quan sát). Phi Đoàn 312 Đặc Nhiệm sử dụng nhiều loại phi cơ chuyển vận khác nhau: Beechcraft 18, Republic RC-3 Seabee (thủy phi cơ), Marcel-Dassault MD-312 và MD-315 Flamant, Douglas C-47 Dakota, và về sau có thêm 2 trực thăng Alouette II và 3 trực thăng Alouette III.

    Chỉ huy trưởng phi đoàn là Đại úy Jahoux, nhân viên phi đoàn là các hoa tiêu Việt Nam đã thụ huấn tại Pháp hoặc Bắc Phi. Nhiệm vụ chính của phi đoàn là chuyên chở các yếu nhân và thực hiện các phi vụ tiếp tế.

    * Phi Đội Liên Lạc (ELAVN):

    Một năm sau ngày thành lập, Phi Đoàn 312 Đặc Nhiệm được di chuyển về Tân Sơn Nhất. Cuối năm 1953 đầu năm 1954, vì các phi cơ MD-315 Flamant bị lấy đi để thành lập Đệ Nhất Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc, số phi cơ còn lại quá ít nên Phi Đoàn 312 Đặc Nhiệm trở thành Phi Đội Liên Lạc, danh xưng tiếng Pháp là “Escadrille de Liaison Aérienne du Vietnam”, viết tắt là ELAVN, hoặc ngắn gọn hơn, ELA, do Đại úy Jarnias chỉ huy, nhiệm vụ duy nhất chỉ là chuyên chở các yếu nhân.

    Tháng 6/1955, quyền chỉ huy Phi Đội Liên Lạc được bàn giao cho Đại úy Huỳnh Hữu Hiền. Tới tháng 10 cùng năm, khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa được thành lập (26/10/1955), Đại úy Hiền trở sang Pháp theo học khóa huấn luyện viên khu trục, Đại úy Phạm Ngọc Sang lên thay cho tới khi chấm dứt chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa.

    [Sau khi Đại úy Huỳnh Hữu Hiền bàn giao quyền chỉ huy cho Đại úy Phạm Ngọc Sang, trong khi tên gọi bằng tiếng Pháp vẫn là “Phi Đội” (Escadrille), danh xưng tiếng Việt được chính thức nâng lên thành “Phi Đoàn”; có lẽ vì được tăng cường thêm 4 phi cơ của SILA (Société Impériale de Liaison Aérienne – Hiệp hội Liên lạc Hàng không Hoàng gia) của cựu Quốc trưởng Bảo Đại, và cũng để danh xưng được “mạnh” thêm, xứng đáng với nhiệm vụ chuyên chở vị tân nguyên thủ quốc gia (Tổng thống Ngô Đình Diệm) và các yếu nhân của nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Bên cạnh đó, trong suốt thời gian tồn tại, ELAVN còn được nhiều người quen miệng gọi bằng danh xưng không chính thức là “Phi Đoàn VIP”]

    ELAVN chính là tiền thân của hai Phi Đoàn 314 Đặc Nhiệm và 716 Trinh Sát & Trắc Giác của Không Đoàn 33 Chiến Thuật sau này.

    * Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc:

    Gọi một cách đầy đủ là Đệ Nhất Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc, do danh xưng tiếng Pháp của phi đoàn là 1er Groupe de Combat et de Liaison, viết tắt là 1er GC&L. Phi đoàn được thành lập vào tháng 1/1954 tại Nha Trang, là đơn vị phi hành đầu tiên của KQVN có khả năng “tác chiến”. Phi đoàn được trang bị 16 phi cơ MD-315 Flamant, một loại máy bay 2 động cơ do hãng Marcel Dassault của Pháp chế tạo sau Đệ nhị Thế chiến, có 2 rack bom dưới cánh, mỗi bên gắn được 4 trái bom miểng loại 250 cân Anh, và 2 đại liên 50 (12 ly 7) ở hai bên mũi. Trong nhiệm vụ liên lạc, MD-315 có thể đáp xuống phi trường loại C (1.000m) ở các tỉnh nhỏ để chuyên chở các yếu nhân. MD-315 cũng được sử dụng để thả dù tiếp tế cho các tiền đồn.

    Trong số 16 phi cơ MD-315 của Phi Đoàn, có 6 chiếc cũ được lấy từ Phi Đoàn 312 Đặc Nhiệm, và 10 chiếc mới tinh sau khi tháo cánh đóng thùng đã được mẫu hạm Dixmude chở từ quân cảng Toulon tới Sài Gòn. Sau khi được ráp lại tại công xưởng Parc Colonial 191 ở Biên Hòa (tức Công Xưởng Không Quân sau này) và bay thử, các phi cơ đã được đưa ra Nha Trang.

    Thành phần nhân sự của Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc tương đối khá hùng hậu, với khoảng gần 200 sĩ quan, hạ sĩ quan, đa số tốt nghiệp phi công, điều hành viên, cơ khí viên, vô tuyến du hành tại các trường không quân ở Pháp hoặc Bắc Phi. Thời gian đầu, một số sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp nắm giữ các chức vụ chỉ huy kiêm cố vấn để rồi tới khi mãn nhiệm kỳ lần lượt bàn giao lại cho người Việt, trong đó có Đại úy Đinh Văn Chung, Chỉ huy trưởng phi đoàn, Đại úy Phan Phụng Tiên, Trưởng phòng Hành quân, Trung úy Lê Văn Khương, Sĩ quan Kỹ thuật (về sau được Trung úy Từ Văn Bê thay thế)...

    Trong số sĩ quan của phi đoàn, sau này một vị lên làm Tư lệnh Không Quân là Đại tá Nguyễn Xuân Vinh, bốn vị lên tới cấp Chuẩn tướng là Huỳnh Bá Tính (Sư đoàn trưởng SĐ3KQ), Phan Phụng Tiên (Sư đoàn trưởng SĐ5KQ), Từ Văn Bê (Chỉ huy trưởng BCH/KT&TV/KQ) và Lê Trung Trực (Phụ tá cho Trung tướng Đặng Văn Quang tại phủ Tổng thống); trong số thăng cấp Đại tá có các ông Đinh Văn Chung (Tham mưu phó Chiến Tranh Chính Trị BTL/KQ), Dương Thiệu Hùng, Nguyễn Kim Khánh.

    Về thành tích, trong thời gian tồn tại khá ngắn ngủi (2 năm), Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc đã tham dự hai cuộc hành quân quan trọng là Hành quân Atlante bình định Quân khu 5 (Nam-Ngãi-Bình-Phú) và Chiến dịch Đinh Tiên Hoàng bình định miền Tây, đánh dẹp hai tướng “Năm Lửa” Trần Văn Soái và “Ba Cụt” Lê Quang Vinh. Ngoài ra, phi đoàn còn tham dự cuộc phi diễn đầu tiên của KQVN nhân ngày miền nam Việt Nam tuyên bố độc lập, thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa, 26/10/1955, cùng với Phi Đoàn 1 Quan Sát và Phi Đoàn 1 Vận Tải (lúc đó KQVN chưa có khu trục và trực thăng).

    Giữa năm 1956, Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc bị giải thể. Vì theo các điều khoản của Hiệp định Genève 1954, mọi chiến cụ do người Pháp quản trị, trong đó có phi cơ, phải đem ra khỏi Việt Nam trước ngày 30/6/1956. Vì thế, 10 chiếc MD-315 đã được lấy lại để viện trợ cho Không Quân Hoàng Gia Căm-bốt, 6 chiếc còn lại bay về Pháp.

    Tất cả nhân viên phi hành của Phi Đoàn được thuyên chuyển về Tân Sơn Nhất để phục vụ tại Liên Phi Đoàn Vận Tải, hoặc bổ sung cho Phi Đoàn Liên Lạc (VIP), trừ bốn người trở sang Pháp học khóa huấn luyện viên khu trục là Huỳnh Bá Tính, Dương Thiệu Hùng, Nguyễn Kim Khánh và Nguyễn Hữu Chẩn. Các chuyên viên kỹ thuật đa số được thuyên chuyển về Biên Hòa để thành lập Phi Đoàn 1 Khu Trục, một số nhỏ về Tân Sơn Nhất hoặc ra làm huấn luyện viên tại Trường Kỹ Thuật của TTHLKQ Nha Trang.

    * Phi Đoàn 1 và Phi Đoàn 2 Vận Tải:

    Phi Đoàn 1 Vận Tải, danh xưng tiếng Pháp là 1er Groupe de Transport du Vietnam, viết tắt là 1er GTVN, còn được gọi là Đệ Nhất Phi Đoàn Vận Tải, được thành lập ngày 1/6/1955 tại Tân Sơn Nhất, đặt dưới quyền chỉ huy của Đại úy Nguyễn Cao Kỳ, gồm 35 hoa tiêu, đa số xuất thân Khóa 52F2, sau khi về nước được gửi tới các phi đoàn vận tải GT 1/64 Béarn, GT 2/62 Franche-Comté và GT 2/63 Sénégal thuộc Không Lực Pháp tại Viễn Đông để bay thực tập với tư cách phi công phụ trên phi cơ C-47 Dakota; một số khác phục vụ tại Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc được trang bị phi cơ MD-315 Flamant. Trong thời gian này, các hoa tiêu vận tải VN bay trên C-47 đã tham gia cầu không vận chuyên chở đồng bào di cư từ phi trường Gia Lâm (Hà Nội) và Cát Bì (Hải Phòng) vào Tân Sơn Nhất.

    Mấy tháng trước ngày chính thức thành lập, một số nhân viên phi hành và kỹ thuật của Phi Đoàn 1 Vận Tải đã được gửi tới thực tập về chỉ huy, điều hành tại phi đoàn vận tải GT 2/63 Sénégal ở Tân Sơn Nhất.

    Ngày 1/6/1955, Phi Đoàn 1 Vận Tải của KQVN được chính thức thành lập, Đại úy Nguyễn Cao Kỳ làm Chỉ huy trưởng, Trung úy Đặng Đình Linh làm Sĩ quan Phụ tá Kỹ thuật. Đúng một tháng sau, ngày 1/7/1955, ngày thành lập quân chủng KQVN, toàn bộ phi cơ C-47 của GT 2/63 gồm 22 chiếc được chuyển giao cho Phi Đoàn 1 Vận Tải.

    Một năm sau, tháng 6/1956, sau khi Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc bị giải thể, đa số hoa tiêu được đưa về Tân Sơn Nhất để thành lập Phi Đoàn 2 Vận Tải – tức Đệ Nhị Phi Đoàn Vận Tải. Hai phi đoàn này được kết hợp thành Liên Phi Đoàn 1 Vận Tải (1er Escadre de Transport du Vietnam, viết tắt là 1er ETVN), đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ; Đại úy Trịnh Hảo Tâm làm Chỉ huy phó, Đại úy Lý Tri Tình làm Chỉ huy trưởng Phi Đoàn 1, Đại úy Đinh Văn Chung (nguyên Chỉ huy trưởng Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc) làm Chỉ huy trưởng Phi Đoàn 2. Liên Đoàn có một trung tâm huấn luyện phi hành đoàn vận tải (CIET) do Đại úy Huỳnh Minh Bon làm Chỉ huy trưởng, Trung úy Phan Thanh Vân làm Chỉ huy phó; và Trung tâm Kỹ thuật Vận tải do Đại úy Đặng Đình Linh làm Chỉ huy trưởng.

    Ngày ấy, năm 1956, chưa có ngành “áp tải”, một phi hành đoàn vận tải gồm 5 người:

    - Hoa tiêu chánh (Trưởng phi cơ)
    - Hoa tiêu phụ
    - Điều hành viên
    - Vô tuyến phi hành
    - Cơ phi

    Với tổng số phi cơ lên tới 32 chiếc C-47, Liên Phi Đoàn Vận Tải có khả năng vận chuyển cùng một lúc quân số của 2 Tiểu Đoàn Nhảy Dù.

    * Dirty Thirty:

    Trong phần viết về ngành Vận Tải của Không Lực VNCH không thể không nhắc tới một toán phi công đặc biệt của Hoa Kỳ tại VN, đó là nhóm “Dirty Thirty”.

    Nguyên nhân là từ năm 1961, số lượng phi cơ của KQVN đã gia tăng quá nhanh so với nhịp độ đào tạo nhân viên phi hành. Riêng trong ngành vận tải, tình trạng thiếu hụt hoa tiêu đã trở nên trầm trọng vào cuối năm 1961 đầu năm 1962, khi một số lớn hoa tiêu “đa năng” của Phi Đoàn 1 Vận Tải được thuyên chuyển tới Phi Đoàn 2 Khu Trục vừa được thành lập. Để giải quyết tình trạng thiếu hụt nhân sự này, Phái Bộ Cố Vấn Quân Sự Mỹ (MAAG) tại VN đã đề nghị Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ biệt phái một số phi công vận tải sang VN để điền vào chỗ trống với tư cách hoa tiêu phụ. Được Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara chấp thuận, trong hai tháng 3 và 4/1962, 30 phi công Mỹ đã tới Tân Sơn Nhất để bắt đầu bay chung với các phi công VN. Nhờ đó, hoạt động của Phi Đoàn 1 Vận Tải đã được phục hồi như cũ.

    Phi công của một “đại cường” đàn anh thay vì đóng vai trò cố vấn hoặc huấn luyện viên lại phải ngồi ghế co-pilot cho phi công một quốc gia đàn em “nhược tiểu”, dứt khoát không phải là một điều đáng hãnh diện; bên cạnh đó là những hiểm nguy, bất trắc của chiến tranh luôn đợi chờ. Hai yếu tố đó đã đưa tới việc nhóm này tự đặt cho mình một hỗn danh rất độc đáo và hơi mỉa mai: Dirty Thirty.





    The Dirty Thirty. Phía trên, bên trái là phù hiệu “Ba Mươi Lăm”, bên phải là phù hiệu Liên Phi Đoàn 1 Vận Tải"

    Thoạt đầu, sự hợp tác giữa các hoa tiêu chánh bản xứ và hoa tiêu phụ ngoại quốc khá căng thẳng vì những bất đồng nghề nghiệp. Đến nỗi tới tháng 8/1962, Trung tá Nguyễn Cao Kỳ, Chỉ huy trưởng Liên Phi Đoàn Vận Tải, đã phải đích thân can thiệp, kêu gọi sự thông cảm hiểu biết giữa đôi bên. Kết quả, mặc dù không thể hóa giải 100% mọi bất đồng, dần dần hai phía đã hợp tác một cách tốt đẹp hơn. Đặc biệt phía các phi công Mỹ sau khi thấy được khả năng trong nghề của phi công VN, đã không còn ai phàn nàn về việc phải ngồi ghế co-pilot nữa, và những người trước kia từng chỉ trích cách bay “không đúng sách vở” của phi công VN, sau này đã phải nhìn nhận: trong môi trường và trên địa thế của VN, cách bay phản nguyên tắc ấy trong đa số trường hợp lại chính là phương pháp hữu hiệu và an toàn nhất!

    Mùa xuân năm 1963, toán Dirty Thirty thứ nhất mãn hạn phục vụ, toán thứ hai sang thay thế cho tới khi chương trình đặc biệt này chấm dứt vào cuối tháng 12 năm 1963.

    [Một chi tiết thú vị về Dirty Thirty là không hiểu do ai cố vấn, họ đã dịch “Dirty Thirty” (Ba Mươi Nhơ Bẩn) sang tiếng Việt là “Ba Mươi Lăm”, và vẽ hình một con dê trên phù hiệu]

    * Phi Đoàn 314 Đặc Nhiệm (VIP):

    Từ năm 1958, ngoài các phi cơ Cessna O-1A Bird Dog và Cessna U-17A Skywagon, ngành quan sát của Không Lực VNCH còn sử dụng một số phi cơ U-6A Beaver trong các nhiệm vụ liên lạc, trắc giác (khi O-1A còn được gọi bằng phiên hiệu cũ L-19 thì U-6A được gọi là L-20). U-6A là một loại phi cơ đa dụng, có khả năng chở 7 hành khách, do hãng De Havilland của Gia-nã-đại chế tạo (cũng là hãng sau này chế tạo vận tải cơ C-7 Caribou).


    U-6A Beaver

    Về sau, số U-6A này được chuyển giao cho Phi Đoàn 314 Đặc Nhiệm và Phi Đoàn 716 Trinh Sát & Trắc Giác. Tiền thân của hai phi đoàn này là Phi Đoàn Liên Lạc (ELAVN, tức “Phi Đoàn VIP”) đã nhắc tới ở phần trên. Nguyên sau cuộc đảo chánh lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng 11/1963, Phi Đoàn Liên Lạc bị giải tán để thành lập hai Phi Đoàn 314 Đặc Nhiệm và 716 Trinh Sát & Trắc Giác.

    Phi Đoàn 314 Đặc Nhiệm, danh hiệu “Thần Tiễn”, do Thiếu tá (?) Nguyễn Hữu Trí làm Chỉ huy trưởng đầu tiên, được trang bị phi cơ VC-47 (loại dành cho VIP), U-6A và U-17. Ngoài nhiệm vụ chính là chuyên chở các yếu nhân trong chính phủ, Phi Đoàn 314 còn thực hiện các công tác liên lạc và tâm lý chiến.

    Nguyên vào năm 1964, ngành Chiến Tranh Chính Trị của QLVNCH được thành lập, công tác Tâm lý chiến được đẩy mạnh, trong đó Không Quân đảm trách nhiệm vụ thả truyền đơn, phát thanh tuyên truyền trên những vùng “xôi đậu” và các mật khu, kêu gọi cán binh, du kích quân cộng sản ra hồi chánh. Để đáp ứng nhu cầu này, một đơn vị Tâm lý chiến thuộc Phi Đoàn 314 được thành lập, gồm 6 chiếc U-6A và 4 chiếc U-17.

    Các phi cơ này được trang bị máy thu băng và loa phóng thanh cực mạnh, thường phát thanh về đêm trên những vùng quê mà đa số các gia đình đều có thân nhân đi theo địch, hoặc trên những mật khu của cộng quân, với kết quả hàng trăm ngàn người đã về hồi chánh trong suốt chiều dài của cuộc chiến.

    * Biệt Đoàn 83:

    Biệt Đoàn 83 (danh xưng tiếng Anh là 83rd SAG: Special Air Group) là một đơn vị độc đáo, nổi tiếng của Không Lực VNCH nhưng lại không có trong sơ đồ tổ chức chính thức và cấp số nhân viên. Lịch sử của Biệt Đoàn bắt đầu vào tháng 4 năm 1961 dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, qua Kế Hoạch Alpha của Sở Nghiên Cứu Kế Hoạch Phủ Tổng Thống (thực chất là cơ quan tình báo đầu tiên của VNCH). Đây là sáng kiến của ông Cố vấn Ngô Đình Nhu và Trung tá Lê Quang Tung, vị chỉ huy đầu tiên của Lực Lượng Đặc Biệt, với mục đích thả các toán biệt kích xuống lãnh thổ Bắc Việt để thi hành các công tác phá hoại cầu cống, đường xá, nhà máy điện... của địch. Cũng giống như bất cứ “kế hoạch đặc biệt” nào khác của “thế giới tự do”, người ta tin rằng Kế Hoạch Alpha có sự hợp tác ngấm ngầm của Cơ Quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (CIA).

    Để thực hiện các phi vụ nói trên, một số phi hành đoàn dày dạn kinh nghiệm và gan dạ của Liên Phi Đoàn Vận Tải đã được tuyển chọn trong số những người tình nguyện, như Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ (Chỉ huy trưởng Liên Phi Đoàn), các Trung úy Lưu Kim Cương, Phan Thanh Vân, Nguyễn Ngọc Khoa, v.v... Những chiếc C-47 Dakota của đơn vị này chỉ có số đuôi để nhận diện, không có phù hiệu, không sơn, giữ nguyên màu nhôm trắng nên có biệt hiệu “Cò Trắng” (White Crane).

    Khi một phi vụ được quyết định thực hiện, một chiếc C-47 sẽ cất cánh từ Tân Sơn Nhất bay ra Nha Trang, nơi phi hành đoàn sẽ được thuyết trình về kế hoạch thâm nhập trong lúc phi cơ “lên hàng”: các chiến sĩ biệt kích. Có thể vì vậy mà Nha Trang đã trở thành tổng hành dinh của lực lượng biệt kích.

    Xế chiều, phi cơ cất cánh bay về hướng tây, vượt biên giới nam Lào rồi đáp xuống một vị trí bí mật để lấy thêm nhiên liệu và để phi hành đoàn nhận những chỉ thị cuối cùng. Khoảng nửa đêm, phi cơ sẽ cất cánh bay về hướng bắc với cao độ thấp, vượt qua các thung lũng trong dãy Trường Sơn rồi thâm nhập không phận Bắc Việt. Các vị trí thả biệt kích thường nằm ở các vùng cao thuộc các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Ninh Bình, Phát Diệm...

    Những phi vụ bay đêm ở cao độ sát mặt đất này rất nguy hiểm; đã có ít nhất 2 chiếc C-47 bị rớt, nhiều nhân viên phi hành đoàn hy sinh, trong đó có một chuyến đã được nhà cầm quyền CSBV công khai hóa để thưa kiện trước Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Đó là phi vụ do Trung úy Phan Thanh Vân làm trưởng phi cơ, có nhiệm vụ tiếp tế cho biệt kích, đã phát hỏa và rớt ở Ninh Bình ngày 1/7/1961. Trong tổng số 7 người của phi hành đoàn và 3 biệt kích quân, chỉ có Trung úy Phan Thanh Vân, cơ khí viên, và một biệt kích quân sống sót, sau đó bị đưa ra tòa xét xử.

    [Về phi vụ của Trung úy Phan Thanh Vân, độc giả có thể tìm đọc bài “Phi vụ Cò Trắng và những nầm mồ còn lại” trên Internet].

    Năm 1964, sau khi Đại tá Nguyễn Cao Kỳ lên nắm chức Tư lệnh Không Quân, đơn vị đặc biệt này được mang danh xưng chính thức là Biệt Đoàn 83, còn được gọi bằng danh xưng bán chính thức là “Biệt Đoàn Thần Phong” do chữ “Thần Phong” trên phù hiệu của Biệt Đoàn. Tuy Biệt Đoàn được đặt dưới quyền chỉ huy của ông Nguyễn Cao Kỳ, nhân vật trực tiếp nắm quyền điều động lại là Thiếu tá Lưu Kim Cương, Trưởng Phòng Hành Quân.

    Tháng 4/1964, ông Lưu Kim Cương xuống Cần Thơ thành lập Biệt Đội 74 (tiền thân của Không Đoàn 74 Chiến Thuật), chức vụ Trưởng Phòng Hành Quân được trao lại cho Đại úy Nguyễn Ngọc Khoa. Sau khi Không Đoàn 74 Chiến Thuật được chính thức thành lập, Trung tá Trần Văn Minh (nguyên Tư lệnh Không Đoàn 62 Chiến Thuật ở Pleiku) về làm Tư lệnh Không Đoàn, ông Lưu Kim Cương trở lại Tân Sơn Nhất tiếp tục nắm giữ Biệt Đoàn 83

    Cũng trong năm 1964, vì nhu cầu gia tăng và cũng để thay thế những chiếc C-47 đã quá cũ, 5 phi hành đoàn thuộc Biệt Đoàn được gửi sang Hoa Kỳ để xuyên huấn trên vận tải cơ C-123 Provider. Sau khi về nước, các phi hành đoàn này đã bay trên 3 chiếc C-123 mượn tạm của Không Quân Hoa Kỳ. Ngoài C-47 và C-123, vào thời gian này Biệt Đoàn 83 còn sử dụng trực thăng H-34 để thực hiện các phi vụ thâm nhập miền Bắc.

    Bên cạnh đó, Biệt Đoàn 83 còn có một biệt đội khu trục A-1 Skyraider với các hoa tiêu tình nguyện được tuyển chọn từ các phi đoàn khu trục hiện hữu. Đặc biệt, các phi cơ A-1 Skyraider của phi đội này không mang phù hiệu của KQVN mà mang phù hiệu riêng của Biệt Đoàn 83 “Thần Phong”.

    Năm 1967, nền Đệ Nhị Cộng Hòa được thành lập. Sau khi đắc cử Tổng thống, ông Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh giải tán Biệt Đoàn 83.

    Về phần Liên Phi Đoàn Vận Tải, trước đó, vào năm 1963 đã được tách ra làm 2 phi đoàn như cũ, Phi Đoàn 1 trở thành Phi Đoàn 413 “Xích Long” và Phi Đoàn 2 trở thành Phi Đoàn 415 “Thanh Long”, hai phi đoàn nòng cốt của Không Đoàn 33 Chiến Thuật được thành lập ít lâu sau đó.

    3- Thành lập Không Đoàn 33 Chiến Thuật:

    Cho tới cuối năm 1963, tuy lực lượng đã phát triển đáng kể nhưng về tổ chức và hệ thống chỉ huy, Không Lực VNCH vẫn rập theo khuôn mẫu của Không Quân Pháp tại Viễn Đông trước đây. Theo đó, các phi đoàn hoặc liên phi đoàn là những đơn vị phi hành độc lập, nhận chỉ thị trực tiếp từ Bộ Tư Lệnh Không Quân ở Tân Sơn Nhất, và chỉ lệ thuộc vào Căn Cứ Không Quân nơi đồn trú về mặt lãnh thổ và yểm trợ.

    Tới đầu năm 1964, khi số lượng đơn vị phi hành đã gia tăng gần gấp 4 lần con số ban đầu, để tiện việc chỉ huy, điều động, các phi đoàn riêng lẻ cùng với các đơn vi kỹ thuật, bảo trì, yểm cứ... đã lần lượt được kết hợp thành các Không Đoàn Chiến Thuật (Tactical Wing), tương tự như tổ chức trong Không Lực Hoa Kỳ.

    Tại Tân Sơn Nhất, Không Đoàn 33 Chiến Thuật được thành lập vào tháng 1/1964, lực lượng gồm có: hai Phi Đoàn vận tải 413 Xích Long và 415 Thanh Long, Phi Đoàn Đặc Nhiệm 314 Thần Tiễn (tức “phi đoàn VIP”), Phi Đoàn 716 Trinh Sát & Trắc Giác, Phi Đoàn trực thăng 211 Thần Chùy. Phi Đoàn 211 sau này di chuyển về Bình thủy, trực thuộc Không Đoàn 74 Chiến Thuật.

    [Theo một số sơ đồ tổ chức được ghi lại, lực lượng của Không Đoàn 33 Chiến Thuật còn có Phi Đoàn 522 khu trục (thành lập tháng 6/1965). Trên thực tế, theo cuốn USAF and VNAF A-1 Skyraider Units of the Vietnam War của tác giả Byron E Hukee, Osprey Publishing phát hành năm 2013, thì vào năm 1965, cùng với việc Hoa Kỳ chuyển giao ồ ạt A-1 cho KQVN, một “phi đoàn khu trục tân lập” là Phi Đoàn 522 đã được thành lập trên giấy tờ (nằm trong tổ chức của Không Đoàn 33 Chiến Thuật ở Tân Sơn Nhất) với mục đích duy nhất là đứng tên “nhận” những chiếc A-1 của Hoa Kỳ rồi giao cho Biệt Đoàn 83; kết quả, Biệt Đoàn 83 đã làm chủ một số lượng A-1 tương đương cấp số của một phi đoàn. Về sau, vào năm 1967, phiên hiệu “522” được sử dụng cho phi đoàn phản lực cơ siêu thanh F-5 đầu tiên của KQVN, đó là Phi Đoàn 522 "Thần Ưng", trực thuộc Không Đoàn 23 Chiến Thuật, đồn trú tại CCKQ Biên Hòa]

    Vị Tư lệnh đầu tiên của Không Đoàn 33 Chiến Thuật là Đại tá Hà Xuân Vịnh, Trung tá Võ Xuân Lành làm Tư lệnh phó. Năm 1965, Đại tá Hà Xuân Vịnh và Trung tá Võ Xuân Lành được thuyên chuyển về Bộ tư lệnh KQ nhận nhiệm vụ mới, Đại tá Phạm Ngọc Sang được chỉ định thay thế trong chức vụ Tư lệnh.

    Cuối tháng 6/1965, sau khi quân đội đứng ra nhận lãnh trách nhiệm trước quốc dân (Ngày Quân Lực 19/6), Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ giữ chức vụ Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Thủ tướng), Đại tá Phạm Ngọc Sang được chỉ định làm Chánh Võ Phòng Phủ Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, Trung tá Lưu Kim Cương đang nắm Biệt Đoàn 83 được đề cử thay thế Đại tá Phạm Ngọc Sang.

    Tết Mậu Thân 1968, trong cuộc tấn công đợt 2 của Việt Cộng vào căn cứ Tân Sơn Nhất, ông Lưu Lim Cương, lúc đó mới được thăng cấp Đại tá, bị tử thương và được truy thăng Chuẩn tướng; Đại tá Dương Thiệu Hùng được chỉ định giữ chức Tư lệnh Không Đoàn 33 Chiến Thuật, và mấy tháng sau, Đại tá Phan Phụng Tiên về thay thế ông Dương Thiệu Hùng.

    Đại tá Phan Phụng Tiên giữ chức Tư lệnh Không Đoàn 33 Chiến Thuật cho tới đầu năm 1971, khi Sư Đoàn 5 Không Quân (còn gọi là “Sư Đoàn Vận Tải”) được thành lập tại Tân Sơn Nhất, ông trở thành Sư đoàn trưởng SĐ5KQ và giữ chức vụ này cho tới tháng 4/1975. Ông được thăng cấp Chuẩn tướng năm 1974, cùng một đợt với các Đại tá Nguyễn Đức Khánh, Sư đoàn trưởng SĐ1KQ, Nguyễn Hữu Tần, Sư đoàn trưởng SĐ4KQ, Từ Văn Bê, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận KQ, và Lê Trung Trực thuộc Phủ tổng thống.

    [SƯ ĐOÀN TRƯỞNG: Trước khi các Sư Đoàn Không Quân được thành lập vào năm 1970, danh xưng các chức vụ chỉ huy cao nhất trong quân chủng Không Quân như sau: Tư lệnh Không Quân, Tư lệnh Không Đoàn. Sau khi các Sư Đoàn Không Quân được thành lập, chỉ còn một vị “tư lệnh” duy nhất là “Tư lệnh Không Quân” ở Tân Sơn Nhất, các cấp chỉ huy kế tiếp mang danh xưng mới “Sư đoàn trưởng”, “Không đoàn trưởng”. Riêng các danh xưng “Chỉ huy trưởng Liên Đoàn”, “Chỉ huy trưởng Phi Đoàn”, theo NT Lê Như Hoàn, đã được đổi thành “Liên đoàn trưởng”, “Phi đoàn trưởng” từ cuối năm 1965.

    Việc sau khi ra hải ngoại, nhiều người gọi các vị “Sư đoàn trưởng KQ” là “Tư lệnh SĐ...KQ” về ý nghĩa không có gì sai, nhưng chiếu theo văn kiện lập quy của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, gọi như thế là sái nguyên tắc, bởi chỉ có các vị chỉ huy Sư Đoàn Bộ Binh, Sư Đoàn Nhảy Dù, Sư Đoàn TQLC mới được gọi là “Tư Lệnh Sư Đoàn”.

    Tất cả các phân ưu, cáo phó trên nguyệt san Lý Tưởng của BTL/KQ trước sự ra đi của cố Thiếu tướng Nguyễn Huy Ánh năm 1972, sau này được photocopy phổ biến kèm theo một số bài viết về ông, đều ghi rõ chức vụ của ông là “Sư đoàn trưởng Sư Đoàn 4 Không Quân”]


    II- Giai đoạn phát triển và hiện đại hóa

    Trong chương trình phát triển và hiện đại hóa Không Lực VNCH, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc thành lập thêm các phi đoàn vận tải có lẽ chỉ đứng sau việc thành lập các phi đoàn trực thăng. Bởi vì trong suốt 10 năm từ 1956 tới 1966, trước sau KQVN vẫn chỉ có hai phi đoàn vận tải 413 Xích Long và 415 Thanh Long (nguyên là Phi Đoàn 1 và Phi Đoàn 2 Vận Tải), sử dụng phi cơ C-47 Dakota.

    1- Vận tải cơ C-119G Flying Boxcar

    Năm 1966, cùng với việc thay thế các khu trục cơ cánh quạt bằng các loại phản lực, Hoa Kỳ cũng đã nghĩ tới việc hiện đại hóa ngành vận tải của Không Lực VNCH qua việc thay thế C-47 Dakota bằng C-119 Flying Boxcar để giúp Không Lực VNCH có thể vận chuyển những loại chiến cụ kềnh càng ngoài khả năng của C-47.

    Trong năm 1967, một số hoa tiêu vận tải VN được đưa sang Hoa Kỳ để xuyên huấn tại căn cứ Ellington, Texas. Riêng các chuyên viên kỹ thuật được huấn luyện cả tại Hoa Kỳ lẫn Tân Sơn Nhất. Tới tháng 3/1968, đã có khoảng 200 hoa tiêu và chuyên viên hoàn tất chương trình huấn luyện. Phi Đoàn 413 Xích Long chính thức tiếp nhận 16 vận tải cơ C-119G. Về phần các phi cơ C-47 của phi đoàn thì những chiếc còn tương đối tốt được tăng cường cho Phi Đoàn 415 Thanh Long.


    C-119G Flying Boxcar

    Cũng cần viết thêm, trước khi Phi Đoàn 413 tiếp nhận các phi cơ C-119, trong khoảng thời gian 1966-1967, đã có thêm hai phi đoàn vận tải khác được thành lập là Phi Đoàn 417 “Long Mã” và Phi Đoàn 419 (?), sử dụng vận tải cơ C-47. Tuy nhiên hai phi đoàn này sau đó đã bị giải thể để lấy nhân viên thành lập hai phi đoàn vận tải võ trang là Phi Đoàn 817 “Hỏa Long” và Phi Đoàn 819 “Hắc Long”.

    [Các tài liệu của Hoa Kỳ và VN để lại, cũng như ký ức của những người từng phục vụ trong ngành vận tải đã không thống nhất khi nhắc tới Phi Đoàn 417 và Phi Đoàn 419. Chỉ biết một điều chắc chắn là Phi Đoàn 417 ĐÃ ĐƯỢC THÀNH LẬP, Chỉ huy trưởng: Thiếu tá Phạm Công Minh, danh hiệu “Long Mã” (sau này Phi Đoàn trực thăng 219 (King Bee) cũng lấy danh hiệu “Long Mã”), tới khi được trang bị vận tải võ trang AC-47 mới cải danh thành Phi Đoàn 817 “Hỏa Long”. Từ đây, số “8” đầu được dành cho ngành vận tải võ trang.

    Về phần Phi Đoàn 419, ít nhất cũng đã được thành lập trên giấy tờ, cho nên phi đoàn vận tải kế tiếp mới có phiên hiệu “421”.

    Nhắc lại: phiên hiệu của các phi đoàn trong Không Lực VNCH được liên tục bằng cách cộng thêm 2 vào hàng đơn vị. Thí dụ: 110, 112, 114... (quan sát), 211, 213, 215... (trực thăng), 312, 314... (đặc nhiệm), 514, 516, 518... (khu trục)]


    2- Vận tải cơ C-123K Provider

    Khuyết điểm của C-119 là trong khi có khả năng vận chuyển nhiều hơn C-47 thì lại không thể đáp xuống các phi đạo ngắn và thô sơ. Vì thế, để giúp Không Lực VNCH đủ khả năng thay thế lực lượng không vận của phía Hoa Kỳ, phải thành lập thêm các phi đoàn vận tải với những loại phi cơ hiện đại hơn. Theo kế hoạch của Bộ Tư Lệnh Quân Viện Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) đưa ra, ba tân phi đoàn sẽ được thành lập, mỗi phi đoàn trang bị 16 vận tải cơ C-123 Provider.

    Tuy nhiên Phái Bộ Cố Vấn Không Quân Hoa Kỳ đã đề nghị trang bị phối hợp cho ba phi đoàn này bằng vận tải cơ hạng nặng C-130 Hercules và vận tải cơ hạng nhẹ C-7 Caribou, vì họ cho rằng như thế hoạt động sẽ hữu hiệu hơn. Đề nghị này được Tướng George Brown, Tư lệnh Đệ Thất Không Lực Hoa Kỳ (7th Air Force) nhiệt liệt tán thành, và đệ trình Bộ Không Quân Hoa Kỳ vào đầu năm 1970. Cùng thời gian, khi Bộ trưởng Không Quân Hoa Kỳ, Tiến sĩ Robet C. Seamans Jnr., sang thăm VN, Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đã cố gắng thuyết phục ông chấp thuận việc cung cấp 48 phi cơ C-130 và C-7 thay vì 48 phi cơ C-123. Ông Kỳ viện dẫn kết quả nghiên cứu, so sánh của các cố vấn không quân, theo đó ngoài hoạt động hữu hiệu, việc sử dụng C-130 và C-7 sẽ đỡ “tốn” nhân viên phi hành, vốn luôn luôn bị thiếu hụt trong ngành vận tải của Không Lực VNCH.


    C-123K Provider

    Nhưng cuối cùng Bộ Không Quân Hoa Kỳ đã quyết định chọn C-123, viện lý do không có sẵn số lượng C-130 nói trên. Diễn tiến trong những năm kế tiếp cho thấy các cố vấn Không Quân Hoa Kỳ và Tướng Brown đã tiêu liệu đúng nhu cầu: các phi đoàn C-7 được thành lập, các phi đoàn C-123 bị giải thể và thay thế bằng các phi đoàn C-130. Tuy nhiên, trong thời gian trước mắt, mọi việc được tiến hành theo kế hoạch của Bộ Không Quân Hoa Kỳ với việc thành lập ba phi đoàn C-123.

    C-123 Provider là loại vận tải cơ hạng trung do hãng Fairchild- Hiller của Mỹ chế tạo, thuộc thế hệ thứ nhất của loại vận tải có khả năng cất cánh và đáp phi đạo ngắn (STOL: short take-off and landing). Kiểu đầu tiên được Không Quân Hoa Kỳ sử dụng vào năm 1954 là C-123B, với nhiệm vụ vận chuyển binh sĩ và tiếp liệu.

    Về sau, có 183 chiếc C-123B được cải biến thành C-123K. Ngoài hai động cơ “piston” cố hữu, C-123K được trang bị thêm hai động cơ phản lực “J85 turbojet” với sức đẩy 1.293kg mỗi bên, giúp phi cơ có khả năng cất cánh ở phi đạo ngắn hơn, lấy cao độ nhanh hơn để tránh phòng không của địch, và gia tăng trọng tải lên gấp rưỡi (10.886kg). Đồng thời đuôi phi cơ được nâng cao và hệ thống bánh đáp cũng được cải tiến để có thể lên hàng bằng cầu (bửng) mở ra phía sau phi cơ. Tất cả các phi cơ chuyển giao cho KQVN đều là kiểu C-123K.

    Phi đoàn C-123 đầu tiên được thành lập là Phi Đoàn 421. Khoảng giữa năm 1970, 48 hoa tiêu vận tải C-47 được đưa sang căn cứ không quân Lockbourne, Ohio, để xuyên huấn trên C-123 (căn cứ Lockbourne về sau được đổi tên thành căn cứ Rickenbacker). Các hoa tiêu phụ thì được tuyển thẳng từ các khóa huấn luyện phi hành. Đầu năm 1971, những phi hành đoàn tốt nghiệp đầu tiên sau khi trở về VN đã được đưa tới bay chung với nhân viên của Không Đoàn Quân Vận 315 (315th Troop Carrier Wing) của Hoa Kỳ ở Phan Rang để rút kinh nghiệm thực tế. Các chuyên viên kỹ thuật bảo trì cũng được đưa tới Không Đoàn này để vừa làm vừa học.

    Tháng 4/1971, Phi Đoàn 421 được chính thức thành lập tại Tân Sơn Nhất với 16 phi cơ C-123K, Phi đoàn trưởng: Thiếu tá Nguyễn Quế Sơn. Mặc dù vẫn có bốn huấn luyện viên hoa tiêu Hoa Kỳ bay chung, ngồi ghế trưởng phi cơ để tiếp tục huấn luyện các hoa tiêu VN trong thời gian 2 tháng, Phi Đoàn đã bước vào hoạt động ngay sau ngày thành lập.

    Với tiến trình tương tự, phi đoàn C-123 thứ hai – Phi Đoàn 423 - được thành lập vào tháng 7/1971, cũng tại Tân Sơn Nhất; Phi đoàn trưởng: Thiếu tá Mạc Hữu Lộc.

    Tháng 12/1971, phi đoàn C-123 thứ ba, và cũng là cuối cùng, được thành lập tại Tân Sơn Nhất: Phi Đoàn 425; Phi đoàn trưởng: Thiếu tá Nguyễn Thế Thân. Đặc biệt, toàn bộ nhân viên phi hành của phi đoàn tân lập này đã được chính các nhân viên phi hành VN của hai Phi Đoàn 421 và 423 đảm trách việc huấn luyện.

    Trong thời gian hơn 2 năm hoạt động, đã có 10 trong tổng số 48 phi cơ C-123K của KQVN bị rớt, trong đó có 4 chiếc bị hỏa lực địch bắn hạ. Tháng 1/1973, cả ba phi đoàn bị giải thể, phi cơ được trả lại cho Hoa Kỳ.

    [Sau khi đem về nước, các C-123K nói trên được trao cho Không Quân Trừ Bị (Air Force Reserve) sử dụng cho tới khi Hoa Kỳ thải hồi toàn bộ C-123 vào năm 1980. Tuy nhiên, cho tới thập niên 1990, vẫn còn nhiều không lực trên thế giới tiếp tục sử dụng C-123K, trong đó có Không Lực Nam Hàn, Đài-loan, Phi-luật-tân, Thái-lan, El Salvador...]

    3- Vận tải cơ C-7A Caribou

    Có thể nói Caribou là kiểu phi cơ thành công nhất trong tất cả các loại cất cánh và đáp phi đạo ngắn (STOL) của Thế Giới Tự Do vào thời đó. Phi cơ được hãng De Havilland (Gia-nã-đại) nghiên cứu chế tạo với mục đích ban đầu là cung cấp phương tiện vận chuyển cơ hữu cho Lục Quân Gia-nã-đại và Lục Quân Hoa Kỳ.

    Caribou bay thử lần đầu tiên vào ngày 30/7/1958, và tới tháng 10/1959, năm chiếc đã được trao cho Lục Quân Hoa Kỳ thử nghiệm, và được đặt phiên hiệu là CV-2B. Với khả năng đáp xuống những phi đạo thô sơ và cực ngắn (300m, so với 600m của C-123K và 900m của C-130A), Caribou có thể vận chuyển gần 3 tấn hàng hóa, hoặc 17 binh sĩ với trang bị tác chiến tới những địa điểm mà không một loại phi cơ có cánh cố định (fixed wing) nào khác có thể đáp xuống được.

    [“17 binh sĩ” nói tới ở đây là “binh sĩ Mỹ”, còn “binh sĩ Việt” thì lên tới 27 người. Theo hồi ức của một vị Phi đoàn trưởng Caribou, trong những ngày cuối cùng di tản khỏi Đà Nẵng, phi cơ đã chở gần gấp ba lần số quân nhân cùng súng ống cho phép trên giấy tờ, mà vẫn cất cánh và bay về tới Tân Sơn Nhất an toàn.]


    C-7A Caribou

    Năm 1961, Caribou bắt đầu được sử dụng trong Lục Quân Hoa Kỳ. Tháng 8/1961, một chiếc được đưa sang VN để thử nghiệm, kết quả cho thấy trong khi C-123 chỉ có khả năng sử dụng 11% tổng số sân bay lớn nhỏ ở VN thì Caribou có khả năng sử dụng tới 77%!

    Đơn vị Caribou đầu tiên của Hoa Kỳ được đưa sang Vũng Tàu cuối năm 1962. Ngoài công tác vận chuyển, tiếp tế cho các đơn vị Lục Quân (ưu tiên cho Không Kỵ), Caribou còn đóng vai trò chính trong việc vận chuyển và tiếp tế cho các trại Lực Lượng Đặc Biệt ở biên giới Việt-Miên và Lào-Việt.

    Sau đó, vì công tác chuyển vận chủ yếu là của Không Quân, cho nên để thống nhất việc điều hành, Không Quân và Lục Quân Hoa Kỳ tại VN đã đi tới một thỏa thuận: kể từ ngày 1/1/1967, mọi hoạt động của Caribou sẽ được đặt dưới sự điều động và kiểm soát của Không Quân; các Đại Đội Phi Hành (Aviation Company) của Lục Quân sử dụng Caribou bị giải thể để thành lập các Phi Đoàn Không Vận Chiến Thuật (Tactical Airlift Squadron). Cũng từ ngày nói trên, phiên hiệu CV-2B của Caribou đã được “không quân hóa” thành C-7A Caribou.

    Chương trình thành lập các phi đoàn vận tải C-7A cho KQVN cũng tiến hành tương tự các phi đoàn vận tải C-123 trước đó. Mùa hè 1971, 48 hoa tiêu nòng cốt lấy từ hai Phi Đoàn 415, 417 được gửi sang căn cứ không quân Dyess, Texas, để xuyên huấn trên C-7. Các hoa tiêu phụ được tuyển thẳng từ các khóa huấn luyện phi hành.

    Sau khi trở về VN, các hoa tiêu mới tốt nghiệp được đưa tới Không Đoàn Quân Vận 483 (483th Troop Carrier Wing) tại Phan Rang để huấn luyện nâng cấp. Các chuyên viên kỹ thuật cũng được đưa tới Không Đoàn này để học bảo trì C-7A. Tháng 1/1972, trung tâm huấn huyện tại Phan Rang đóng cửa và di chuyển ra Phù Cát, công việc huấn luyện được tiếp tục và hoàn tất tại địa điểm mới.

    Sau đó, các hoa tiêu được đưa tới bay hành quân chung với các phi hành đoàn của các Phi Đoàn Không Vận Chiến Thuật (Tactical Airlift Squadron) 459, 535 và 537 của KQHK để lấy kinh nghiệm và chuẩn bị tiếp nhận phi cơ.

    Phi đoàn C-7A đầu tiên của KQVN là Phi Đoàn 427 “Thần Long”, được thành lập tại căn cứ không quân Phù Cát vào tháng 3/1972. Phi đoàn trưởng: Trung tá Phạm Văn Cần.

    Tháng 7/1972, phi đoàn C-7A thứ hai được thành lập, cũng tại Phù Cát, Phi Đoàn 429 “Sơn Long”. Phi đoàn trưởng: Trung tá Cung Thăng An.

    Tháng 9/1972, Phi Đoàn 427 di chuyển ra Đà Nẵng, và tại Phù Cát phi đoàn C-7A thứ ba và cũng là phi đoàn cuối cùng được thành lập, Phi Đoàn 431 “Phương Long”. Phi đoàn trưởng: Trung tá Nguyễn Viết Xương.

    Sang đầu năm 1973, hai Phi Đoàn 429 và 431 về đồn trú tại Tân Sơn Nhất.

    Ba Phi Đoàn C-7 Caribou của Không Lực VNCH được gọi là các “Phi Đoàn Không Vận Chiến Thuật”, từ danh xưng tiếng Anh “Tactical Airlift Squadron”, vì khả năng đặc biệt, tính cách đắc dụng của loại phi cơ này trong việc chuyển quân, tiếp tế cho binh sĩ và dân chúng ở những vùng xa xôi hẻo lánh, địa thế hiểm trở.

    Rất tiếc, tới giữa năm 1974, do việc viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa bị Quốc Hội Hoa Kỳ cắt giảm tới mức tối đa, vì thiếu phụ tùng thay thế cũng như để tiết kiệm nhiên liệu, KQVN đã phải cho đình động 224 phi cơ sử dụng động cơ nổ (piston), trong số đó có tới 52 chiếc C-7A Caribou. Từ đây, ngành vận tải của Không Lực VNCH lệ thuộc phần lớn vào các phi cơ C-130 Hercules.

    4- Vận tải cơ C-130A Hercules

    C-130 Hercules là loại vận tải cơ lớn nhất và hiện đại nhất của Không Lực VNCH. Đây cũng là một trong ba loại phi cơ sau cùng của dự án Tăng Cường Thêm (Enhance Plus), được phía Hoa Kỳ chuyển giao cho KQVN sau ngày 10/11/1972 trên căn bản “một đổi một” theo điều khoản của Hiệp Định Paris.

    C-130 thuộc loại cất cánh và đáp phi đạo ngắn (STOL), do hãng Lockheed chế tạo, ban đầu chỉ với mục đích quân sự. Có thể nói sau C-47 Skytrain (tức Dakota), C-130 là loại vận tải quân sự phổ biến nhất trên thế giới từ trước tới nay, được sử dụng trong 55 không lực. Ngoài ra, sau này các hãng hàng không dân sự cũng sử dụng C-130 (kiểu dân sự có phiên hiệu L-100).

    Được trang bị 4 động cơ bán phản lực (turboprop hay propjet), phi cơ có vận tốc tối đa 578kmh (370mph), trọng tải 20.412kg; nếu chỉ chở phân nửa trọng tải, tầm hoạt động (không cần bình xăng phụ) lên tới 5.954km.

    Trên giấy tờ, phi cơ có khả năng vận chuyển tối đa 150 binh sĩ, nhưng trên thực tế, vào những ngày cuối cùng của miền Nam, có những chiếc C-130 của KQVN di tản binh sĩ và đồng bào từ Vùng 1 về Sài Gòn chở tới 350 người!

    Chiếc C-130 đầu tiên bay thử vào tháng 8/1954, và tới tháng 4/1955, kiểu đầu tiên là C-130A được chế tạo hàng loạt. Từ đó, C-130 được cải tiến liên tục và được sử dụng trong nhiều nhiệm vụ khác nhau: chuyển vận (C-130A, B, E), tiếp tế nhiên liệu trên không (KC-130F), vận tải võ trang (AC-130E), tuần thám & theo dõi thời tiết (WC-130B, E), cấp cứu (HC-130P), v.v... Không Quân Hoàng Gia Anh và Úc-đại-lợi sử dụng một loại C-130 riêng.


    C-130A Hercules

    Với những đặc điểm của loại phi cơ STOL, C-130 là phi cơ vận tải lý tưởng để sử dụng tại các vùng chưa mở mang, kém phát triển, vì thế những đơn vị C-130 đầu tiên của Hoa Kỳ đã được đưa sang vùng Đông Nam Á, đặt căn cứ tại Nhật Bản và Phi-luật-tân. Những chiếc C-130 đầu tiên đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất vào năm 1963.

    Sau Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 (Easter Invasion), các cố vấn KQHK và MACV lại có thêm lý do để thỉnh cầu Bộ Quốc Phòng và Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Hoa Kỳ chấp thuận tăng cường trang bị các chiến cụ, trang bị tối tân cho Không Lực VNCH. Một trong những thỉnh cầu đó là chuyển giao vận tải cơ C-130 cho KQVN.

    Thoạt tiên, thỉnh cầu này đã bị Bộ trưởng Quốc Phòng và Tổng tham mưu trưởng Quân Đội bác bỏ ngay, viện các lý do sau đây: (1) nếu chuyển giao C-130 thì sẽ tốn thời giờ xuyên huấn các hoa tiêu VN, (2) việc bảo trì, sửa chữa C-130 với các động cơ bán phản lực (turboprop) vượt quá khả năng của các chuyên viên VN, và (3) chính Quân Đội Hoa Kỳ cũng còn chưa có đủ (theo cấp số) loại vận tải cơ đắc dụng này.

    Tuy nhiên MACV, qua kinh nghiệm trong quá khứ, đã gửi bản sao của thỉnh cầu nói trên tới nhiều cơ quan khác nhau, trong đó có cả Bộ Ngoại Giao và Tòa Bạch Ốc. Lúc đó cũng là thời gian Ngoại trưởng Hoa Kỳ Henri Kissinger đang thương thảo với Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu về các thỏa thuận ngưng bắn giữa bốn phe; muốn thuyết phục ông Thiệu chấp nhận ngưng bắn thì trước hết chính phủ của Tổng thống Nixon phải chấp thuận các đòi hỏi của ông Thiệu, cũng là của MACV, trong việc tăng cường vũ khí, đạn dược và tiếp liệu để QLVNCH có thể chống trả với một cuộc xâm lược khác của CSBV trong tương lai. Vì thế, chính Bộ Ngoại Giao đã đề nghị lên Tòa Bạch Ốc và nơi đây đã ra chỉ thị chuyển giao ngay C-130 cho KQVN, trong lúc Bộ Quốc Phòng và Bộ TTM Quân Đội Hoa Kỳ còn đang... cứu xét!

    Để rút ngắn thời gian xuyên huấn hoa tiêu cho các phi đoàn C-130, một số hoa tiêu vận tải kinh nghiệm đã được cấp tốc gửi sang Hoa Kỳ, không chỉ để xuyên huấn trên C-130 mà còn được đào tạo thành các huấn luyện viên. Khóa đầu tiên kết thúc vào tháng 12/1972 và các hoa tiêu huấn luyện viên đã trở về VN để bắt tay vào việc đào tạo hoa tiêu C-130 ngay trong nước.

    Cũng trong tháng 12/1972, ba Phi Đoàn Vận Tải 421, 423, 425 bị giải thể, các vận tải cơ C-123 được trả lại cho Hoa Kỳ. Đầu tháng 1/1973, hai phi đoàn C-130 là Phi Đoàn 435, Phi đoàn trưởng: Trung tá Lâm Văn Phiếu, và Phi Đoàn 437, Phi đoàn trưởng: Trung tá Mạc Mạnh Cầu, được thành lập tại Tân Sơn Nhất, mỗi phi đoàn trang bị 16 phi cơ.

    Việc ba phi đoàn 421, 423 và 425 bị giải thể, về hình thức là để thực thi thỏa thuận về thời hạn chấm dứt mọi viện trợ trang cụ, vũ khí cho các phe tại VN (ngày 10/11/1972): sau ngày này sẽ chỉ được viện trợ thay thế (một đổi một), vì thế KQVN phải trả lại 37 chiếc C-123 để đổi lấy 32 chiếc C-130. Tuy nhiên, theo báo cáo của các cố vấn KQHK, vì tình trạng luôn luôn thiếu hụt hoa tiêu vận tải trong Không Lực VNCH, nếu không giải thể ba phi đoàn C-123 thì cũng không thể tìm đâu ra hoa tiêu để thành lập hai phi đoàn C-130!

    Nhiệm vụ chính của các C-130 là chuyển vận binh sĩ và tiếp liệu từ Sài Gòn ra Vùng 1 Chiến Thuật. C-130 còn được dùng để thả dù tiếp tế cho các tiền đồn, và tới năm 1974 còn được sử dụng để... oanh tạc!

    Mùa hè 1974, khi các phi vụ yểm trợ của KQHK không còn nữa, và trước tình trạng thiếu hụt bom đạn, các C-130 của Không Lực VNCH đã được sử dụng để thả bom “napalm tự chế” là những thùng phuy 200 lít chứa dầu phế thải và ngòi dẫn hỏa; mỗi phi cơ có khả năng mang 96 thùng, và được thả một lượt vào địa điểm tập trung quân của địch. Từ tháng 11/1974, C-130 còn lãnh thêm nhiệm vụ thả những trái bom CBU khổng lồ nặng 15.000 lbs (gần 7 tấn) được gọi là “Daisy Cutter”, có khả năng hủy diệt một vùng rộng lớn. Bên cạnh đó, C-130 đã góp phần quan trọng vào việc di tản binh sĩ và đồng bào từ Vùng 1, Vùng 2 về Sài Gòn trong các đợt tấn công của CSBV, và nhất là cuộc di tản của Sư Đoàn 6 Không Quân (Pleiku) vào tháng 3/1975 sau khi Ban-mê-thuột bị thất thủ.

    Nói chung, C-130 đã tỏ ra rất hữu hiệu và đáp ứng được nhu cầu vận chuyển binh sĩ và tiếp tế sau khi KQHK đã rút đi. Các hoa tiêu C-130 của Việt Nam còn khiến phía Hoa Kỳ ngạc nhiên, thán phục về tỷ lệ tai nạn rất thấp, hầu như không có. Tuy nhiên, vì những chiếc C-130 trao cho KQVN là loại cũ nhất (C-130A), có những chiếc đã 17 tuổi, lại thiếu cơ phận thay thế cho nên càng về sau, tỷ lệ phi cơ khả dụng càng giảm. Tính tới tháng 4/1975, chỉ có 2 trong tổng số 32 phi cơ C-130 của Không Lực VNCH bị hỏa lực phòng không của địch bắn hạ, nhưng vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, đã phải bỏ lại tới 14 chiếc bất khiển dụng vì thiếu cơ phận thay thế.

    [Sau này, CSVN đã cố gắng sửa chữa và bay được ba chiếc, tuy nhiên chỉ sau một thời gian ngắn cũng lại bị nằm ụ. Nghe nói sau đó họ đã lén bán những phi cơ phế thải này cho Iran để tháo gỡ lấy phụ tùng. Iran ngày còn là Vương quốc Ba-tư đã mua của Hoa Kỳ nhiều loại vũ khí, trang bị tối tân, trong đó có C-130 và F-5. Sau khi các thành phần Hồi giáo cực đoan đảo chánh nhà vua, Iran trở thành “đại địch” của Hoa Kỳ].

    * * *

    Về mặt tổ chức, trong giai đoạn cuối cùng, các Phi Đoàn trong ngành Vận Tải & Vận Tải Võ Trang và Không Thám được phân bố như sau:

    - SĐ5KQ (Tân Sơn Nhất):

    * Không Đoàn 33 Chiến thuật. Không đoàn trưởng: Đại tá Bùi Đức Mỹ, gồm phi đoàn 314 VIP (Phi đoàn trưởng: Trung tá Đặng Ngọc Hiển), hai phi đoàn C-7A 429, 431, ba phi đoàn trắc giác & không thám 716 Hoàng Long (Phi đoàn trưởng: ?), 718 Thiên Long (Phi đoàn trưởng: Trung tá Nguyễn Hữu Bách), 720 Hải Long (Phi đoàn trưởng: Trung tá Phạm Bích).

    * Không Đoàn 53 Chiến thuật. Không đoàn trưởng: Đại tá Huỳnh Văn Hiến, gồm hai phi đoàn C-130 435, 437 và hai phi đoàn vận tải võ trang 819 Hắc Long (Phi đoàn trưởng: (1) Thiếu tá Đặng Văn Đức, (2) Trung tá Nguyễn Văn Hồng), 821 Tinh Long (Phi đoàn trưởng: Trung tá Hoàng Nuôi).

    - SĐ1KQ (Đà Nẵng):

    * Không Đoàn 41 Chiến Thuật: Phi Đoàn C-7A 427, một biệt đội vận tải võ trang của Phi Đoàn 821, một biệt đội không thám của Phi Đoàn 718.

    - SĐ2KQ (Nha Trang):

    * Không Đoàn 62 Chiến Thuật: Phi Đoàn vận tải võ trang 817 Hỏa Long. (Phi đoàn trưởng: Trung tá Huỳnh Quang Tòng).

    III- Thành Tích

    Trong 20 năm tồn tại, ngành Vận Tải trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa đã góp biết bao công sức vào cuộc chiến bảo vệ lý tưởng Tự Do của quân dân miền Nam. Điều đó có lẽ khỏi cần chứng minh; ở đây chúng tôi chỉ liệt kê một số “thành tích đặc biệt”, ít người biết tới.

    1- Cứu nguy & Phát triển Hàng Không Việt Nam:

    Khi được thành lập vào ngày 15/10/1951, hãng Hàng Không Việt Nam (Air Vietnam) chỉ là một chi nhánh của Air France (Hàng Không Pháp Quốc), cho nên cũng là một điều dễ hiểu khi toàn bộ phi công và nhân viên kỹ thuật của HKVN đều là người Pháp; hơn nữa, vào thời gian này, VN chưa có phi công vận tải.

    Sau khi Việt Nam được trao trả độc lập, HKVN trở thành một công ty quốc doanh, với 93% số vốn là của chính phủ VNCH, tuy nhiên các phi công dân sự vẫn là người Pháp, làm việc theo hợp đồng từng năm.

    Tháng 8/1959, phi công Pháp đòi tăng lương trước khi ký hợp đồng mới. Vì công ty đang bị lỗ lã và Ban Quản Trị HKVN cũng đang có ý định sẽ mướn phi công Đài-loan hoặc Nam Hàn với số lương rẻ hơn rất nhiều, yêu sách của các phi công Pháp đã bị bác bỏ, nghĩa là HKVN sẽ không ký hợp đồng mới.

    Thời gian này, quan hệ giữa VNCH và Pháp đã khá căng thẳng sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm chấm dứt hợp đồng huấn luyện cho KQVN do người Pháp đảm trách vào năm 1956. Sẵn tình trạng lạnh nhạt giữa hai nước, nay lại thêm việc bị chấm dứt hợp đồng, các phi công dân sự Pháp đã tìm cách “phá” HKVN, khiến hầu như toàn bộ hoạt động bị tê liệt.

    Một trong những “mánh” phá của các phi công Pháp là cho nổ bánh phi cơ. Vào một ngày cuối tháng 8/1959, họ hẹn nhau “lock” bánh hoặc đạp thắng gấp trong lúc đáp, khiến vô số bánh bị nổ. Không có sẵn phụ tùng thay thế hàng loạt, nhiều phi cơ đã bị “đình động” trong lúc chờ hàng tiếp liệu mới.

    Trước sự việc bất ngờ này, TT Ngô Đình Diệm đã phải triệu tập một buổi họp liên bộ để tìm giải pháp khẩn cấp. Kết quả, KQVN được yêu cầu cung cấp ngay các phi hành đoàn vận tải để tạm thời thay thế các nhân viên Pháp.

    Không ngờ các phi công VN lại được hành khách hết lời khen ngợi (họ đâu có biết các vị trưởng phi cơ này đều xuất thân từ Avord, trường vận tải số 1 của Pháp, và đều có ít nhất 5.000 giờ bay)!

    Thế là thay vì chỉ “tạm thời”, Ban Quản Trị HKVN đã xin Bộ Quốc Phòng cho các phi công của KQVN biệt phái dài hạn, và Bộ đã chấp thuận 5 phi hành đoàn. Cũng cần viết thêm: để cho công bằng cũng như để duy trì khả năng hành quân, các phi công được thay phiên nhau biệt phái, đồng thời vẫn lãnh “lương quân đội”, còn số tiền sai biệt thặng dư trong “lương phi công dân sự” thì được sung vào Quỹ Xã Hội Không Quân.

    Khả năng chuyên nghiệp, tinh thần phục vụ (và lòng ái quốc) của các phi hành đoàn vận tải của KQVN đã góp phần lớn vào việc chấn chỉnh lại hoạt động, thanh toán nợ nần của HKVN, giúp cho công ty phát triển, mướn hoặc mua thêm phi cơ, mở thêm các đường bay ra ngoại quốc.

    Sau này, khi HKVN được hiện đại hóa với các phi cơ phản lực như Caravelle của Pháp, Boeing 727, 707 của Mỹ, tất cả các phi công được gửi đi xuyên huấn để về lái các loại phản lực này đều là người của KQVN. Trước sau, HKVN đã chỉ tuyển thêm 19 phi công dân sự để gửi đi học lái hai loại phi cơ cánh quạt DC-3 và DC-4 tại Pháp và Thái-lan.

    2- Bay không ghi giờ:

    Đầu năm 1970, Tướng Lon Nol, Thủ tướng Căm-bốt, một người có lập trường chống cộng quyết liệt, đã lợi dụng thời gian Hoàng thân Sihanouk, Quốc trưởng Căm-bốt, công du Trung Cộng, để tổ chức đảo chánh.

    Ngày ấy, nhiều người trong số đó có cả Sihanouk, cho rằng ông Lon Nol bị Hoa Kỳ giật dây, và được CIA hỗ trợ. Nhưng sau này các sử gia quốc tế đã minh oan cho cả Hoa Kỳ lẫn ông Lon Nol: vị Thủ tướng tổ chức đảo chánh chỉ vì ông là một người chống cộng, không chấp nhận việc Sihanouk để cộng sản Bắc Việt sử dụng lãnh thổ Căm-bốt như một hậu cứ an toàn trong cuộc xâm lược miền nam Việt Nam; thậm chí Căm-bốt còn xây dựng hải cảng Sihanoukville ở Vịnh Thái-lan làm cửa ngõ tiếp vận cho đạo quân xâm lược.

    [Hoàng thân Norodom Sihanouk (1922-2012) làm vua Căm-bốt từ năm 1941 tới 1955. Sau khi Pháp trao trả độc lập cho ba nước Đông Dương, Norodom Sihanouk bị ép thoái vị và trở thành Quốc trưởng (tương tự Quốc trưởng Bảo Đại ở Việt Nam). Năm 1993, sau khi bộ đội CSVN rút khỏi Căm-bốt, Sihanouk trở về nước, lại lên làm vua cho tới khi phải thoái vị lần thứ hai vào năm 2004]

    Vì không được – viết một cách chính xác là “chưa được” – Hoa Kỳ trực tiếp yểm trợ, Tướng Lon Nol chỉ biết cầu cứu Việt Nam Cộng Hòa. Kết quả, năm phi hành đoàn C-47 và C-119 của Không Lực VNCH đã tình nguyện chuyên chở vũ khí, quân trang quân dụng sang Căm-bốt giúp phe đảo chánh. Vì đây là một công tác bí mật, phi hành đoàn đều là người biết nói tiếng Pháp, có người biết cả tiếng Miên, để tự “mưu sinh” trong trường hợp gặp bất trắc; bởi sẽ không có bất cứ sự can thiệp nào về mặt ngoại giao; vì thế, cũng không có dấu vết gì trong sổ phi lệnh, không ghi lại giờ bay trong sổ bay cá nhân, không được liên lạc với bạn bè...

    Sau khi cuộc đảo chánh thành công, Tướng Lon Nol ổn định tình hình, các phi vụ chuyển vận tiếp tế cho tân chính phủ Căm-bốt mới được công khai và trở nên thường xuyên.

    3- Hành Quân Vượt Biên 1970:

    Trong cuộc hành quân đại quy mô tiến đánh lực lượng chính quy của CSBV trên lãnh thổ Căm-bốt, hai Phi Đoàn vận tải 413 và 415 được trao trách nhiệm vận chuyển Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù từ Tân Sơn Nhất tới Kompong Cham nội trong một đêm. Vì nơi đây chỉ có một phi trường dã chiến, không có đèn phi đạo, không có đài kiểm soát không lưu, cho nên một toán kiểm soát không lưu của KQVN đã phải tháp tùng chiếc phi cơ đầu tiên đáp xuống phi trường, thiết lập hệ thống “đèn dầu dã chiến” dọc phi đạo.

    Trước khi trời sáng, các vận tải cơ C-47 và C-119 đã hoàn tất việc vận chuyển nguyên Lữ Ðoàn 1 Nhẩy Dù cùng với trên 900 tấn vũ khí, tiếp liệu; toán kiểm soát không lưu lên chuyến phi cơ cuối cùng trở về Tân Sơn Nhất.

    4- Tổn thất:

    Thật là một điều đáng tiếc khi chúng tôi không tìm được bất cứ tài liệu nào, của Việt Nam Cộng Hòa cũng như Hoa Kỳ, ghi lại một chính xác, đầy đủ về tổn thất phi cơ cũng như hy sinh xương máu của ngành Vận Tải nói riêng, Không Lực VNCH nói chung.

    Vì thế, chúng tôi chỉ biết dựa trên ký ức của một số niên trưởng và chiếu hữu từng phục vụ trong ngành Vận Tải của Không Lực VNCH, để ghi ra những tổn thất sau đây:

    - Năm 1961 (không nhớ rõ ngày tháng) một chiếc C-47 “Cò Trắng” thả biệt kích bị mất tích trên không phận Bắc Việt. Hai hoa tiêu Trần Văn Hội & Lê Chí Nguyện, điều hành viên Nguyễn Đăng Lợi và toàn bộ phi hành đoàn được ghi nhận mất tích.

    - Ngày 1/7/1961: chiếc C-47 “Cò Trắng” do Trung úy Phan Thanh Vân làm trưởng phi cơ kiêm hoa tiêu chánh, đã phát hỏa và rớt ở Ninh Bình. Trong tổng số 7 người của phi hành đoàn và 3 biệt kích quân, chỉ có Trung úy Phan Thanh Vân, cơ khí viên, và một biệt kích quân sống sót.

    - Giữa thập niên 1960, một C-123 của Biệt Đoàn 83 trong khi bay đêm thực tập thả biệt kích tại núi Sơn Chà gần Đà Nẵng đã bị tai nạn; toàn bộ phi hành đoàn, trong đó có một cố vấn Hoa Kỳ, tử nạn.

    - Mùa Hè Đỏ Lửa 1972: ba chiếc C-123K trong lúc thi hành các phi vụ tiếp tế cho chiến trường An Lộc đã bị bắn hạ. Chi tiết được ghi nhận như sau:
    (1) Một C-123K của Phi đoàn 425 bị bắn hạ ngày 15-4-1972; Trung úy Phạm Văn Công (Trưởng phi cơ) và toàn bộ phi hành đoàn hy sinh.

    (2) Một C-123K cũng của Phi đoàn 425, do Thiếu tá Nguyễn Thế Thân, Phi đoàn trưởng, đích thân làm Trưởng phi cơ, bị bắn hạ ngày 19-4-1972. Vị Thiếu tá Phi đoàn trưởng cùng toàn bộ phi hành đoàn hy sinh.

    (3) Không rõ chi tiết.

    - Ngoài ra, một C-123K khác bị bắn hạ tại Vùng 1 Chiến Thuật; toàn bộ phi hành đoàn hy sinh (không rõ ngày tháng).

    - Theo Robert C Mikesh, tác giả cuốn Flying Dragons, đã có 2 chiếc C-130 của Không Lực VNCH bị hỏa lực phòng không của địch bắn hạ, tuy nhiên tác giả đã không cho biết chi tiết về ngày giờ, nơi chốn cũng như số phận các phi hành đoàn.

    - Về tổn thất không do hỏa lực địch: một C-123K bị rớt khi xuyên mây ở Nha Trang, toàn bộ phi hành đoàn tử nạn; một C-119 vừa cất cánh xong thì bị trục trặc kỹ thuật, quay trở lại đáp khẩn cấp, gây tử thương cho một số nhân viên trong phi hành đoàn.

    [Trên đây chỉ là tổn thất của các Phi Đoàn Vận Tải, còn tổn thất của các Phi Đoàn Vận Tải Võ Trang và Không Thám sẽ được nhắc tới trong phần hai của loạt bài, viết về ngành Vận Tải Võ Trang & Không Thám]

    NGUYỄN HỮU THIỆN
    Melbourne, tháng 7-2015

    (Trích Đặc san Lý Tưởng - Úc Châu, số kỷ niệm Ngày Không Lực 1/7/2015)

    * * *

    TÀI LIỆU THAM KHẢO:
    - Quân Sử Không Quân VNCH (Liên Hội Ái Hữu Không Quân - Úc Châu, 2005)
    - South Vietnamese Air Force, Jim Mesko
    - Flying Dragons, Robert C Mikesh
    - Hồi ký, ký ức của các Niên trưởng, các cấp chỉ huy, các chiến hữu KQ: Phạm Ngọc Sang, Nguyễn Quang Tri, Phan Thanh Vân, Nguyễn Phúc Tửng, Nguyễn Long Nhan, Trần Phước Hội, Nguyễn Uông, H.T.C., Trần Đình Hòe, Phạm Văn Cần, Nguyễn Quý Chấn, Võ Phước Cương, Phạm Hi Oánh, Nguyễn Việt Quốc, Nguyễn Yến Thông...
    - Tài liệu do các sưu tầm viên Đinh Trọng Vũ, Phạm Anh Tài cung cấp.

  • #2
    Ngành Vận Tải trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa

    Ngành Vận Tải trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa

    Nguyễn Hữu Thiện


    AC-130

    Phần II: Vận Tải Võ Trang & Không Thám

    A- Vận Tải Võ Trang

    Vận Tải Võ Trang là một ngành phi hành tác chiến đặc biệt trong Không Lực Hoa Kỳ và Không Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ý niệm, việc thử nghiệm và đưa ngành này vào hoạt động đều diễn ra trong thời gian chiến tranh Việt Nam.

    Một nửa thế kỷ đã trôi qua, kỹ nghệ hàng không quân sự đã có những bước tiến thật dài với những phi cơ và trang bị tối tân hiện đại, ngành vận tải võ trang vẫn không mất chỗ đứng. Trong các cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất (1990-1991), lần thứ hai (2003-2011), và cuộc chiến tiêu diệt quân khủng bố ở A-phú-hãn, những chiếc AC-130U Spooky II, AC-130W Stinger II, AC-130J Ghostrider, “hậu duệ” của những chiếc AC-130A Spectre thời thập niên 1960, đã gây biết bao kinh hoàng cho quân địch.

    Kể cả sự việc “đáng tiếc” gần đây nhất (đầu tháng 10/2015) là cuộc tấn công lầm vào bệnh viện của tổ chức thiện nguyện “Bác sĩ không biên giới” (Doctors Without Borders) ở tỉnh Kunduz, A-phú-hãn, người Mỹ cũng đã sử dụng các vận tải võ trang AC-130!

    Năm 2018 sẽ đánh dấu 50 năm ngày AC-130 được đưa vào hoạt động, tuy nhiên theo các nhà quan sát, hiện vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy Không Lực Hoa Kỳ sẽ cho những vận tải võ trang này “về hưu”. Nhưng cho dù chỉ “thọ” được 50 năm, AC-130 vẫn được ghi nhận là phi cơ tác chiến phục vụ lâu thứ nhì trong lịch sử Không Lực Hoa Kỳ, chỉ đứng sau các siêu pháo đài bay B-52.

    1- Những bước đầu

    Ý niệm về việc võ trang cho các phi cơ vận tải để tấn công mục tiêu ở dưới đất đã có từ đầu thập niên 1960, khi các phi cơ C-47 của chương trình “Farm Gate” thường bay vòng vòng để thả hỏa châu soi sáng cho các đơn vị phòng thủ phi trường, hoặc các đồn bót bị địch tấn công. Ý niệm này dựa vào lý thuyết căn bản đã có từ lâu: khi bay vòng quanh một mục tiêu, người ta có thể tác xạ liên tục vào mục tiêu đó. Như vậy, tại sao lại không trang bị vũ khí trên những chiếc vận tải cơ đang làm nhiệm vụ thả hỏa châu? Một công đôi việc!

    * Đôi hàng về FARM GATE: “Farm Gate” là bí danh (code name) của chương trình tham chiến đầu tiên (và trá hình) của Không Lực Hoa Kỳ tại miền Nam VN.
    Khởi đầu vào năm 1960, Quân Đội Hoa Kỳ đã cho thành lập những đơn vị đặc biệt để dối phó với chiến tranh du kích ngày càng lan rộng, cách riêng ở Đông Nam Á. Riêng trong Không Quân, đơn vị đầu tiên với danh xưng Phi Đoàn Huấn Luyện Phi Hành Đoàn Tác Chiến 4400 (4400th Combat Crew Training Squadron, viết tắt là CCTS) đã được thành lập vào tháng 4/1961 tại căn cứ không quân Elgin, Florida, nơi không ít “đàn anh” trong KQVN đã được đơn vị đặc biệt này huấn luyện.
    Trên thực tế, vì nhiệm vụ chuyên biệt “chống du kích”, các thành viên của CCTS thường được biết tới qua danh hiệu “Air Commando” (Không Quân Cảm Tử) và nickname “Jungle Jim” (Jungle Jim nguyên là một loạt truyện phiêu lưu rừng xanh rất phổ biến của Mỹ, từ năm 1948 tới năm 1955, đã được thực hiện thành 16 cuốn phim).


    T-28 Farm Gate

    Do những nhu cầu đặc biệt của chiến tranh chống du kích, Air Commando chỉ sử dụng các loại phi cơ cánh quạt, có khả năng bay chậm, như T-28, B-26, C-47...
    Tháng 10/1961, Tổng thống John F. Kennedy chấp thuận việc đưa một toán “Jungle Jim” sang Việt Nam để (1) xác định cam kết của Hoa Kỳ hỗ trợ miền Nam VN trong công cuộc chiến đấu chống lại cộng sản, và (2) huấn luyện các hoa tiêu VN sử dụng khu trục cơ T-28 Trojan và oanh tạc cơ B-26 Invader trên chiến trường, tiến tới việc thành lập phi đoàn khu trục thứ nhì và phi đoàn oanh tạc đầu tiên cho KQVN. Hoạt động này được mang bí danh là chương trình “Farm Gate”.

    Đơn vị đầu tiên của Farm Gate là Biệt Đội 2A (Detachment 2A), tới Biên Hòa vào tháng 11/1961, gồm 151 quân nhân, 8 khu trục cơ T-28D, 4 phi cơ SC-47, và 4 phi cơ thám thính RB-26, tất cả đều được sơn cờ VNCH và huy hiệu Không Quân Việt Nam, đặt dưới quyền chỉ huy của Phái bộ Cố vấn Quân sự (MAAG, tiền thân của MACV), với nhiệm vụ trước mắt là “huấn luyện tác chiến và không tham chiến trong thời gian hiện tại”.

    Tuy nhiên, trên thực tế, bên cạnh những phi vụ huấn luyện thuần túy, các phi cơ của Farm Gate còn thi hành những phi vụ tác chiến, với sự tháp tùng của ít nhất một nhân viên phi hành VN, để đề phòng trường hợp phi cơ bị bắn hạ, sự hiện diện của nhân viên phi hành này, cùng với cờ VNCH trên thân phi cơ, Hoa Kỳ có thể biện minh với Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến rằng nhân viên phi hành Mỹ chỉ đảm trách nhiệm vụ cố vấn, huấn luyện; nghĩa là Hoa Kỳ không hề vi phạm Hiệp Định Genève 1954!

    Cuốn Quân Sử Không Quân VNCH (ấn hành năm 2005) có đoạn viết về việc “hợp tác” nói trên như sau:
    “Những nhân viên phi hành VN bị chỉ định tháp tùng các phi vụ của Farm Gate được gọi một cách chính thức là “tháp tùng viên”, tuy nhiên nhiều người trong KQVN đã gọi một cách châm biếm là “tháp tùng tử”. Chữ “tử” ở đây có nghĩa là “người” và cũng có nghĩa là “chết” (tử nạn).
    ...Nhiều người đã “tháp tùng” và “tử nạn”. Tuy nhiên vì tính cách bí mật của chương trình Farm Gate, hồ sơ của KQVN đã không ghi rõ những trường hợp nào là tử nạn trong các phi vụ tháp tùng, cho nên không ai được biết tổng số “tháp tùng tử” bị tử nạn. Cho tới năm 2004, đôi khi cơ quan tìm kiếm quân mất tích (MIA) của Hoa Kỳ vẫn còn tìm thấy hài cốt của những phi công VNCH vô danh và vắn số nói trên.”


    * * *

    Năm 1964, sau khi xảy ra sự kiện Vịnh Bắc Việt (khu trục hạm USS Maddox bị các ngư lôi đĩnh của Bắc Việt tấn công), Hoa Kỳ đã chính thức tham chiến tại Việt Nam qua những hoạt động công khai, không cần phải “ngụy trang” nữa, vì thế chương trình Farm Gate âm thầm chấm dứt (bởi khi thành lập, cũng không kèn không trống), Biệt Đội 2A được cải danh thành Phi Đoàn 1 Cảm Tử (1st Air Commando Squadron, viết tắt là ACS-1), trở thành một đơn vị cơ hữu của Sư Đoàn 2 Không Quân, thuộc Không Lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (PACAF: Pacific Air Force); về sau, năm 1966, khi Đệ Thất Không Lực (7th Air Force) được thành lập tại Tân Sơn Nhất, Phi Đoàn 1 Cảm Tử âm thầm giải thể để sát nhập vào các đơn vị thuộc Không Lực này.

    Về phía Không Quân VNCH, qua chương trình Farm Gate, Đệ II Phi Đoàn Khu Trục được thàmh lập vào cuối năm 1961, sử dụng phi cơ T-28 Trojan; qua năm 1963, cải danh thành Phi Đoàn 516 “Phi Hổ” (tới giữa năm 1964, các phi cơ T-28 được thay bằng khu trục cơ A-1 Skyraider). Riêng kế hoạch thành lập một phi đoàn oanh tạc trang bị phi cơ B-26 Invader cho KQVN đã bị hủy bỏ, vừa vì khả năng hạn chế của các oanh tạc cơ cũ kỹ này, vừa vì đã có một lực lượng oanh tạc cơ chiến thuật hùng hậu của Không Lực Hoa Kỳ tại Đông Nam Á (F-100, F-105, F-4...).

    * * *

    Trở lại với việc ứng dụng lý thuyết vận tải võ trang vào thực tế, trong năm 1962, việc nghiên cứu, thí nghiệm được bắt đầu, và tới tháng 8/1964, cuộc thử nghiệm có danh xưng Dự án Tailchaser (Project Tailchaser) được tiến hành dưới quyền chỉ huy của Đại úy John C. Simons với một vận tải cơ Convair C-131B được trang bị một ổ súng minigun Galting 7 ly 62 sáu nòng để thử nghiệm. Kết quả cho thấy chiếc C-131B này khi bay một vòng quanh mục tiêu có diện tích bằng một sân bóng bầu dục, trên cao độ 3.000 ft và với tốc độ 120 knots, tác xạ liên tục với nhịp bắn 6.000 viên một phút, thì mỗi “square foot” (30x30cm) trên mục tiêu lãnh một viên đạn!

    Trước kết quả nói trên, Không Quân Hoa Kỳ quyết định tiến hành ngay Dự án Gunship (Project Gunship). Tháng 10/1964, một phi cơ SC-47 của Phi Đoàn 1 Cảm Tử đồn trú tại Biên Hòa đã được cải biến thành AC-47 với ba dàn minigun Galting, một ở cửa chính, hai ở cửa sổ gần phòng lái, để thử nghiệm trên chiến trường. Với phi hành đoàn 6 người (hoa tiêu chánh + hoa tiêu phụ + cơ khí viên phi hành + 3 xạ thủ) và một thông dịch viên VN, với 24.000 viên đạn và 45 hỏa châu cho mỗi phi vụ, chiếc AC-47 thử nghiệm đã chứng tỏ khả năng vượt bực trong nhiều nhiệm vụ tác chiến khác nhau, trong đó hữu hiệu nhất là giải tỏa áp lực và tiêu diệt địch quân trong các cuộc vây hãm, tấn công các căn cứ, tiền đồn, thường xảy ra vào ban đêm. Chiếc AC-47 này được đặt biệt hiệu “Puff, the Magic Dragon”, vốn là tựa đề một ca khúc nổi tiếng của ban tam ca Mỹ Peter, Paul and Mary, thu đĩa năm 1963; và “Puff” trở thành danh hiệu vô tuyến (callsign) của chiếc vận tải võ trang này.

    Một trong những thành tích đáng kể của chiếc “Puff” là vào ngày 2/8/1965, trong cuộc yểm trợ cho lực lượng VNCH chống trả cuộc công hãm của lực lượng địch tại Bồng Sơn, tỉnh Bình Định, trong thời gian khoảng 4 tiếng đồng hồ, chiếc AC-47 đã bắn 20.500 viên đạn xuống một ngọn đồi bị địch quân chiếm giữ, với kết quả khoảng 300 địch quân bỏ xác tại trận!

    Trước kết quả rực rỡ của cuộc thử nghiệm, Bộ Không Quân Hoa Kỳ đã chỉ thị cấp tốc cải biến hàng loạt phi cơ C-47 thành AC-47 để thành lập một đơn vị vận tải võ trang. (Chú thích 1)

    Tháng 7 năm 1965, 5 chiếc AC-47 đầu tiên được trao cho Phi Đoàn 4 Cảm Tử (4th Air Commando Squadron). Ngày 14/11/1965, phi đoàn tới Tân Sơn Nhất để chuẩn bị tham chiến. Tới cuối năm 1965, tổng cộng đã có 26 chiếc C-47 được cải biến cải thành AC-47, trong số đó 20 chiếc được trao cho Phi Đoàn 4 Cảm Tử (16 chiếc hoạt động, 4 chiếc dự phòng).

    * Viết thêm về Phi Đoàn 4 Cảm Tử: Phi Đoàn 4 Cảm Tử nhắc tới ở đây không phải là một đơn vị được thành lập tại chỗ và chỉ tồn tại nhất thời như trường hợp Phi Đoàn 1 Cảm Tử của chương trình Farm Gate, mặc dù cả hai đều được gọi là “Air Commando Squadron”, viết tắt là ACS.

    Phi Đoàn 4 Cảm Tử (ACS-4) là một đơn vị phi hành đặc biệt trong ngành vận tải của Không Lực Hoa Kỳ. Từ ngày được thành lập vào năm 1942, phi đoàn này lần lượt trực thuộc nhiều đại đơn vị khác nhau, mang nhiều danh xưng khác nhau tùy theo nhiệm vụ chuyên biệt.

    Từ năm 1965, khi tới Việt Nam hoạt động, phi đoàn được mang danh xưng Phi Đoàn 4 Cảm Tử (ACS-4), tới năm 1968, được cải danh thành Phi Đoàn 4 Đặc Nhiệm (4th Special Operations Squadron, viết tắt là SOS-4), và giữ danh xưng này cho tới ngày nay.

    Hiện nay, Phi Đoàn 4 Đặc Nhiệm, nickname “Ghostrider”, đang sử dụng các vận tải võ trang AC-130U Spooky II, là kiểu mới nhất, để tham chiến tại A-phú-hãn.
    Về hệ thống chỉ huy hàng dọc, từ năm 1995 tới nay, Phi Đoàn 4 Đặc Nhiệm trực thuộc Không Đoàn 1 Đặc Nhiệm (1st Special Operations Wing), là một trong ba không đoàn của Bộ chỉ huy Không Quân Đặc Nhiệm của Hoa Kỳ (Air Force Special Operations Command, viết tắt là AFSOC).

    * * *

    Trở lại với cuộc chiến Việt Nam. Tháng 11/1965, Phi Đoàn 4 Cảm Tử bắt đầu bước vào hoạt động. Các phi cơ AC-47 của phi đoàn lấy danh hiệu vô tuyến là “Spooky” (Bóng Ma), đặt căn cứ tại Đà Nẵng, Pleiku, Nha Trang và Bình Thủy.


    AC-47 Spooky

    Nhược điểm duy nhất của AC-47 (và của AC-119 sau này) là vì bay chậm và bay ở một cao độ tương đối thấp khi yểm trợ, phi cơ dễ trở thành mục tiêu cho phòng không địch. Trong tháng 12/1965, Phi Đoàn 4 Cảm Tử đã mất 2 chiếc AC-47, một tại Phan Rang, một trên không phận Lào. Tháng 3/1966, một AC-47 khác bị bắn rớt trong lúc yểm trợ trại Lực Lượng Đặc Biệt A-Shau.

    Bù lại, các AC-47 đã đạt được nhiều thành tích rất đáng nể, khiến Không Quân Hoa Kỳ đã gấp rút cải biến, trang bị thêm nhiều phi cơ để thành lập thêm các phi đoàn khác. Kể từ năm 1966, các “gunship” đã trở thành hình ảnh quen thuộc tại hầu hết các căn cứ không quân ở Đông Dương. Một vài thành tích điển hình của AC-47 được ghi lại như sau:

    - Ngày 15/7/1966, giải vây cho một đồn nghĩa quân ở Phong Dinh, giúp 32 Nghĩa Quân + Nhân Dân Tự Vệ giữ vững được đồn trước sức tấn công của 3 đại đội Việt Cộng.
    - Ngày 11/10 cùng năm, AC-47 đã bắn 43.500 viên đạn, thả 96 hỏa châu để giữ vững một đồn Địa Phương Quân tại Kiến Phong.
    - Ngày 23/8/1968, một lực lượng gồm 4.000 bộ đội CSBV tấn công trại LLĐB Đức Lập, bốn phi cơ AC-47 đã thực hiện tổng cộng 228 giờ bay trên khu vực để thả hỏa châu và bắn trên 700.000 viên đạn, yểm trợ cho lực lượng bạn giữ vững trại.

    Ngoài ra, vào đầu năm 1968, các AC-47 đã đóng góp công sức không nhỏ vào trận Khe Sanh, với khả năng tấn công đêm và hỏa lực hùng hậu, đã phá vỡ các cuộc tập trung lực lượng địch, gây tổn thất nặng nề cho các đơn vị chính quy Bắc Việt.

    2- Hỏa Long

    Trước sự hữu hiệu của các gunship AC-47 “Spooky”, vào đầu năm 1967, cùng thời gian với chương trình thay thế vận tải cơ C-47 của Phi Đoàn 413 Vận Tải của KQVN bằng vận tải cơ C-119, Bộ tư lệnh Đệ Thất Không Lực Hoa Kỳ đã đệ trình một bản đề nghị cải biến 10 chiếc C-47 của phi đoàn này thành AC-47 để tiến tới việc thành lập một đơn vị vận tải võ trang cho KQVN.


    Đề nghị được chấp thuận, và theo dự trù, công việc cải biến 10 phi cơ nói trên sẽ hoàn tất vào tháng 9/1967, tiếp theo là 6 chiếc khác vào tháng 1/1968. Theo kế hoạch của Đệ Thất Không Lực, những chiếc AC-47 này sẽ được trang bị bằng các ổ súng minigun kiểu SUU-11A lấy từ 16 chiếc AC-47 của Hoa Kỳ khi những phi cơ này được trang bị kiểu súng mới hơn (MXU-470/A).

    Rất tiếc, công việc đã không thể tiến hành theo lịch trình dự trù vì nguyên nhân sau đây: từ giữa năm 1967, việc Việt Cộng gia tăng mạnh mẽ các cuộc tấn công vào các căn cứ đã đòi hỏi sự yểm trợ tối đa của các AC-47, trong khi đó việc cung cấp các ổ súng SUU-11A vốn đang thiếu hụt vì sản xuất đình trệ lại phải dành ưu tiên cho các phi cơ C-119 Flying Boxcar đang được cải biến thành vận tải võ trang AC-119 “Shadow” (cũng được trang bị SUU-11A).

    Bên cạnh đó, cũng phải nói tới sự thiếu sốt sắng của một số giới chức trong Đệ Thất Không Lực Hoa Kỳ đối với việc biến cải C-47 thành AC-47 cho KQVN; theo một số tác giả, nguyên nhân của “sự thiếu sốt sắng” này là vì người Mỹ muốn giữ độc quyền ngành vận tải võ trang!

    Phải đợi tới tháng 12/1968, khi tướng George Brown, Tư lệnh Đệ Thất Không Lực, người đặc trách công việc “Việt Nam hóa chiến tranh” trong ngành Không Quân, đích thân ra lệnh thay vì chờ cải biến các C-47 của Phi Đoàn 413, sẽ thiếp lập ngay kế hoạch bàn giao các AC-47 hiện hữu của KQHK cho KQVN để thành lập một phi đoàn vận tải võ trang trong thời hạn ngắn nhất.

    Ngay sau đó, một số phi hành đoàn VN đã được huấn luyện và thực tập trên các AC-47 của Hoa Kỳ. Sáu tháng sau, họ đã sẵn sàng để tiếp nhận các gunship.

    Ngày 2/7/1969, tại căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt, Hoa Kỳ đã chuyển giao 5 chiếc AC-47 của Phi Đoàn 4 Đặc Nhiệm cho KQVN để thành lập Phi Đoàn 817 “Hỏa Long”, nguyên là Phi Đoàn Vận Tải 417 (các phi đoàn vận tải võ trang của KQVN được phía Hoa Kỳ gọi là “Combat Squadron”, viết tắt là CS).

    Tiếp theo, Phi Đoàn 4 Đặc Nhiệm đã lần lượt chuyển giao tất cả số phi cơ còn lại cho KQVN. Ngày 20/8/1969, Phi Đoàn 817 đã nhận đủ 16 chiếc AC-47 theo bảng cấp số, và bắt đầu hoạt động vào ngày 31/8 – một tháng sớm hơn dự liệu của kế hoạch chuyển giao. Việc xuyên huấn các phi hành đoàn đã hoàn tất trong tháng 9/1969, và qua đầu tháng 10, tất cả đã được “xác định hành quân”.

    Phi Đoàn 817 đặt căn cứ tại Tân Sơn Nhất và biệt phái 6 phi cơ xuống phi trường Bình Thủy để yểm trợ chiến trường Vùng 4 Chiến Thuật. Nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của Phi Đoàn là yểm trợ cho lực lượng Địa Phương Quân & Nghĩa Quân đang được phát triển mạnh. Bởi vì trong trường hợp các đồn bót xa xôi hẻo lánh hay thôn ấp bị địch bị tấn công, các “Hỏa Long” sẽ là lực lượng tiếp viện nhanh chóng và hữu hiệu nhất. Nhiệm vụ kế tiếp là tăng cường cho các phi đoàn vận tải võ trang của KQHK trong việc bảo vệ các căn cứ trước các cuộc tấn công của địch.

    Ngay trong 6 tháng đầu tiên, Phi Đoàn 817 đã đạt được những thành tích rực rỡ, được các cố vấn Hoa Kỳ hết lời ca ngợi. Việc đa số nhân viên phi hành của của phi đoàn đã có kinh nghiệm hàng ngàn giờ bay (con số quá cao so với các nhân viên phi hành Mỹ) cùng với sự hiểu biết địa hình, quen thuộc địa thế đã giúp các vận tải võ trang của KQVN xác định mục tiêu một cách mau lẹ và tấn công với những kết quả được mô tả là thần sầu quỷ khốc.

    Hai trở ngại duy nhất là (1) đa số phi hành đoàn VN chưa có nhiều kinh nghiệm hoạt động trong điều kiện thời tiết xấu về ban đêm, và (2) sự bỡ ngỡ của các xạ thủ với các ổ súng MXU-470/A (kiểu mới).

    Tuy nhiên chỉ sau một thời gian ngắn rút kinh nghiệm, các phi hành đoàn VN đã hóa giải được những trở ngại nói trên. Riêng các nhân viên kỹ thuật bảo trì thì họ đã quá quen thuộc với những chiếc C-47, loại phi cơ vận tải sử dụng trong KQVN từ ngày người Pháp bàn giao, cho nên hầu như không bao giờ có một chiếc AC-47 nào bị nằm ụ vì lý do kỹ thuật.

    Tới tháng 12/1969, Phi Đoàn 817 đã đảm trách 28% tổng số phi vụ của ngành vận tải võ trang (KQHK + KQVN). Tới năm 1971, ngoài biệt đội đồn trú tại phi trường Bình Thủy, Phi Đoàn còn có các biệt đội tại hai căn cứ không quân Đà Nẵng và Pleiku, để yểm Vùng 1 và Vùng 2 Chiến Thuật. Các biệt đội này đã thay thế các đơn vị vận tải võ trang AC-47 của Hoa Kỳ đang chuyển đổi sang loại AC-119G Shadow.

    Tới cuối năm 1971, sau khi phi đoàn vận tải võ trang thứ nhì của KQVN được thành lập tại Tân Sơn Nhất, Phi Đoàn 817 Hỏa Long được đưa ra Nha Trang, trở thành đơn vị cơ hữu của Không Đoàn 62 Chiến Thuật, Sư Đoàn 2 KQ; Phi đoàn trưởng cuối cùng: Trung tá Huỳnh Quang Tòng.

    Có thể nói chương trình trang bị AC-47 cho KQVN đã thành công ngoài sức mong muốn, và đó cũng là nguyên nhân khiến các giới chức Không Quân Hoa Kỳ tiến hành ngay chương trình bành trướng ngành vận tải võ trang của KQVN bằng cách thành lập thêm một phi đoàn, sẽ được trang bị AC-119G.

    3- Hắc Long & Tinh Long:

    Trở lại với thời gian đầu, hơn một năm sau ngày các vận tải võ trang AC-47 “Spooky” bước vào hoạt động, tháng 1/1966, Không Quân Hoa Kỳ đã thử nghiệm việc sử dụng loại phi cơ này vào việc tấn công các đoàn xe tiếp vận của CSBV trên đường mòn Hồ Chí Minh trong lãnh thổ Lào. Kết quả cho thấy đạn 7 ly 62 bắn từ phi cơ trên cao độ 2.500 bộ chỉ có thể gây thương vong cho người chứ không thể phá hủy các xe vận tải. Chưa kể nhược điểm bay chậm của AC-47 còn khiến phi cơ dễ trở thành mục tiêu của phòng không địch. Trong thời gian nói trên, Phi Đoàn 4 Cảm Tử đã bị mất 6 chiếc AC-47 trên không phận nam Lào - trung bình cứ hai tháng mất một chiếc!

    Trước tình trạng này, Hoa Kỳ nhận thấy cần phải có một loại vận tải võ trang lớn hơn, được trang bị vũ khí mạnh hơn cùng với một hệ thống dò tìm mục tiêu trong đêm tối. Kết quả, chiếc Lockheed C-130 Hercules, loại phi cơ cánh quạt đa năng và hiện đại nhất thời bấy giờ, có khả năng cất cánh và đáp ở những phi đạo ngắn và thô sơ, đã được chọn để tiến hành Dự án Gunship II (Project Gunship II).



    Chiếc AC-130A “Spectre” đầu tiên tại CCKQ Nha Trang (9/1967)

    Ngày 21/9/1967, chiếc AC-130A “Spectre” đầu tiên được đưa tới CCKQ Nha Trang để thử nghiệm trong thời gian ba tháng, nhiệm vụ chính là tuần thám võ trang, tấn công các đoàn xe của CSBV dọc đường mòn Hồ Chí Minh. Qua đầu năm 1968, đã có thêm bảy chiếc C-130A khác được cải biến thành AC-130A, trong số này có những chiếc được đưa tới Tân Sơn Nhất vào tháng 6/1968 để bảo vệ Sài Gòn trong trận Mậu Thân đợt 2.

    Cuối tháng 10/1968, Phi Đoàn 16 Đặc Nhiệm (16th Special Operations Squadron), phi đoàn AC-130 đầu tiên của KLHK, được thành lập, trực thuộc Không Đoàn 8 Khu Trục Chiến Thuật (8th Tactical Fighter Wing) đồn trú tại CCKQ Ubon, Thái Lan.

    Tới cuối năm 1969, Hoa Kỳ bắt đầu việc cải biến thế hệ AC-130 thứ hai, đó là chiếc AC-130E, có nickname là “Cadillac gunship”, với trang bị điện tử tối tân, và đại bác 105 ly.

    Tháng 2/1972, chiếc AC-130E đầu tiên được đưa tới tham chiến tại Việt Nam.

    [Bản thân người viết trong thời gian phục vụ tại Pleiku trong cương vị Sĩ quan Báo chí, được biết chiếc AC-130E này đã tiêu diệt nhiều chiến xa của CSBV khi chúng tiến về tỉnh lỵ Kontum trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972]

    Tuy nhiên, mặc dù đạt được những thành quả đáng khích lệ, Dự án Gunship II đã gặp phải sự chống đối của Bộ chỉ huy Không vận (MAC: Military Airlift Command). Nguyên nhân: C-130 đang là phương tiện vận chuyển chủ yếu của các phi đoàn vận tải, và ngay cả các phi đoàn này cũng chưa có đủ C-130 theo bảng cấp số.

    Vì thế trong thời chiến tranh VN, đã chỉ có tổng cộng 18 chiếc C-130 được cải biến thành AC-130 (A và E), và được ưu tiên cho nhu cầu tuần thám võ trang dọc đường mòn Hồ Chí Minh.

    Không có đủ C-130, cuối cùng KQHK đành chọn chiếc Fairchild- Hiller C-119 Flying Boxcar, loại vận tải cơ duy nhất “thặng dư” vào thời điểm đó vì không còn đắc dụng trong công tác vận chuyển. Công việc biến cải C-119 thành AC-119 mang tên Dự án Gunship III (Project Gunship III).

    Tháng 2/1968, hãng Fairchild-Hiller bắt đầu cải biến 26 chiếc C-119G thành vận tải võ trang AC-119G, danh hiệu vô tuyến “Shadow”. Các AC-119 được trang bị 4 ổ minigun 7 ly 62 kiểu SUU-11A với số lượng đạn tồn trữ trên phi cơ nhiều hơn, sẽ gia tăng khả năng 25% so với AC-47. Ngoài ra, còn có những thiết bị mới được đặt trên phi cơ như đèn chiếu Xenon mạnh 20.000 watt, hệ thống quan sát đêm, hệ thống thả hỏa châu LAU-74A, hệ thống điện tử điều hành vũ khí...

    Tháng 5/1968, chiếc AC-119G đầu tiên được trao cho KQHK, tới tháng 11, Phi Đoàn 17 Đặc Nhiệm (17th Special Operations Squadron: SOS-17) được thành lập tại Nha Trang, và những vận tải võ trang C-119G của họ đã chính thức tham chiến vào tháng 1/1969. Nói chung, C-119 đã tỏ ra khá hữu hiệu, tuy nhiên vẫn có một số khuyết điểm như bay chậm, nặng nề, khó điểu khiển và chỉ có thể hoạt động (từ lúc cất cánh cho tới lúc đáp) tối đa 6 tiếng đồng hồ.

    Tiếp theo, 26 chiếc C-119K được cải biến thành AC-119K. Tương tự kiểu vận tải cơ C-123K Provider, những chiếc C-119K cũng được trang bị thêm hai động cơ phản lực “J85 turbojet” giúp phi cơ có khả năng cất cánh ở phi đạo ngắn hơn, lấy cao độ nhanh hơn, và gia tăng trọng tải một cách đáng kể.

    AC-119K có danh hiệu vô tuyến “Stinger”, ngoài 4 dàn minigun còn được trang bị thêm 2 đại bác 20 ly và ra-đa với hệ thống hồng ngoại tuyến để dò tìm mục tiêu, nhắm vào các đoàn xe vận tải của CSBV thâm nhập miền Nam. AC-119K được đặt tại các căn cứ không quân Đà Nẵng, Phù Cát và Phan Rang. (Chú thích 2)

    * Viết thêm: AC-123K “Black Spot”

    Một số tác giả ngoại quốc khi viết về ngành vận tải võ trang của Không Lực Hoa Kỳ, có nhắc tới những chiếc AC-123K “Black Spot”. Trên thực tế đã có hai chiếc C-123K Provider được cải biến thành vận tải võ trang, nhưng không thuộc các Dự án Gunship I, II, III mà thuộc Dự án Black Spot (Project Black Spot), qua đó, vào năm 1966, hai chiếc C-123K đã được hãng E-Systems of Greenville, Texas, cải biến thành NC-123K (sau đổi lại là AC-123K), một loại phi cơ tuần thám và oanh tạc với nhiệm vụ chuyên biệt là săn lùng, phá hủy các mục tiêu trên đường mòn Hồ Chí Minh.

    Ngoài những trang bị điện tử tối tân hiện đại ở mũi, AC-123K còn có hai khoang chứa bom CBU (Cluster Bomb Units) trong thân phi cơ, mỗi khoang có 12 ô, mỗi ô có ba trái CBU, gồm tổng cộng từ 2.664 tới 6.372 trái bom nhỏ (bomblet) tùy theo loại CBU được sử dụng.



    AC-123K “Black Spot”


    Trước khi được đưa sang Việt Nam, hai chiếc AC-123K này đã được đưa tới Nam Hàn vào tháng 8/1968 để thử nghiệm qua việc khám phá và tấn công các khinh tốc đĩnh của cộng sản Bắc Hàn chở điệp viên thâm nhập Nam Hàn. Sau khi thi hành 57 phi vụ, tới tháng 10, hai chiếc AC-123K này được đưa sang Việt Nam, đồn trú tại căn cứ không quân Phan Rang, và bắt đầu hoạt động vào tháng 11/1968 với danh hiệu vô tuyến “Black Spot”.

    Tới đầu năm 1969, hai chiếc AC-123K được đưa sang căn cứ không quân Udorn, Thái-lan, trở thành cơ hữu của Phi Đoàn 16 Đặc Nhiệm (16th Special Operations Squadron) đồn trú tại đây.

    Mặc dù, (theo đa số tác giả) hai chiếc AC-123K tỏ ra rất hữu hiệu, KQHK đã không cải biến thêm một chiếc “Black Spot” nào khác. Riêng hai chiếc AC-123K nói trên, tới giữa năm 1970 đã bị tháo gỡ các trang bị đặc biệt để trở lại nguyên trạng là một vận tải cơ C-123K Provider, có khác chăng là lớp sơn ngụy trang (camouflage) và lớp sơn đen dưới bụng vẫn được giữ nguyên, như để nhắc nhớ mọi người về quá khứ “oai hùng” của hai vận tải cơ này.

    Dự án Black Spot (Project Black Spot) tới đây chấm dứt.


    * * *

    Trở lại với năm 1969, khoảng nửa năm sau khi thành lập Phi Đoàn 17 Đặc Nhiệm cho KQHK (với các phi cơ AC-119), người Mỹ bắt đầu chương trình thành lập phi đoàn vận tải võ trang thứ hai cho KQVN.

    Trước hết, vào tháng 8/1969 Bộ Tham Mưu KQHK đưa ra kế hoạch lấy những phi cơ trắc giác EC-121 “Warning Star” thặng dư để cải biến thành vận tải võ trang cho KQVN. Tuy nhiên dự định này đã bị bác bỏ ngay vì tuy EC-121 là một loại phi cơ khá hiện đại, nhưng được chế tạo chủ yếu để bay trên cao, khả năng thao tác của nó rất kém sẽ khiến việc yểm trợ kém hiệu quả, dễ bị hỏa lực dưới đất bắn hạ, và nhất là việc cải biến sẽ rất tốn kém, chưa kể việc phải đào tạo các chuyên viên kỹ thuật VN để bảo trì, sửa chữa thêm một loại phi cơ nữa!

    Các cuộc nghiên cứu sau đó cho thấy trong số các phi cơ có thể cung cấp cho VN vào thời điểm đó, C-119 vẫn là loại lý tưởng nhất để cải biến thành vận tải võ trang.

    Đầu năm 1971, Phi Đoàn 17 Đặc Nhiệm - phi đoàn duy nhất của KQHK trang bị vận tải võ trang AC-119 - được lệnh đảm trách chương trình huấn luyện các phi hành đoàn VN. Chương trình này chia ra ba giai đoạn: địa huấn, bay phi cụ và kỹ thuật tác chiến.

    Trước hết, các phi hành đoàn được tuyển chọn để xuyên huấn sẽ sang Hoa Kỳ tham dự một khóa hướng dẫn về bay C-119 tại căn cứ không quân Clinton County ở Ohio. Sau khi tốt nghiệp bay trên C-119, các phi hành đoàn sẽ được huấn luyện về AC-119 tại căn cứ không quân Phan Rang. Tháng 4/1971, ba phi hành đoàn đầu tiên tốt nghiệp trên AC-119 làm lễ mãn khóa.

    Việc đào tạo phi hành đoàn và chuyên viên kỹ thuật tiến hành rất tốt đẹp, các phi cơ AC-119G “Shadow” và thiết bị bảo trì được lần lượt chuyển giao cho Phi Đoàn 819 “Hắc Long” của KQVN vừa được thành lập.


    AC-119

    Ngày 24/9/1971, Phi Đoàn 17 Đặc Nhiệm bàn giao những chiếc AC-119G cuối cùng của họ cho phía VN, cũng là ngày Phi Đoàn 819 chính thức nhận lãnh hết trách nhiệm yểm trợ nội địa, để các “Stinger” (AC-119K) của Hoa Kỳ có thể tập trung nỗ lực vào việc săn lùng, tấn công địch trên đường mòn Hồ Chí Minh. Trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, các Hắc Long đã góp phần không nhỏ vào cuộc tử thủ anh hùng của Thị trấn An Lộc, tỉnh Bình Long.

    Tháng 12/1972, nằm trong chương trình Việt Nam hóa, Phi Đoàn 17 Đặc Nhiệm bàn giao tất cả các phi cơ AC-119K “Stinger” của họ cho KQVN để thành lập phi đoàn vận tải võ trang thứ ba: Phi Đoàn 821 “Tinh Long” tại Tân Sơn Nhất. (Chú thích 3)


    Cả hai phi đoàn 819 Hắc Long 821 Tinh Long đều trực thuộc Không Đoàn 53 Chiến thuật, Sư Đoàn 5 KQ. Phi đoàn trưởng cuối cùng của Hắc Long là Trung tá Nguyễn Văn Hồng, của Tinh Long là Trung tá Hoàng Nuôi.

    B- KHÔNG THÁM

    Ngành Không Thám trong Không Lực VNCH (lúc đầu gọi là Ngành Trinh Sát & Trắc Giác) ra đời vào cuối năm 1963 với sự thành lập Phi Đoàn 716 Trinh Sát & Trắc Giác.

    Nhu cầu thành lập Ngành Trinh Sát & Trắc Giác cho KQVN đã được các giới chức quân sự Mỹ đưa ra ngay sau khi Bộ Tư Lệnh Quân Viện Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) được thành lập vào tháng 2/1962. Nguyên nhân là vì khả năng không thám của các phi cơ quan sát O-1 Bird Dog (trước kia gọi là L-19) rất hạn chế, chưa kể vào thời kỳ phát triển của KQVN, một số không ít hoa tiêu quan sát dày dạn kinh nghiệm đã bị “hốt” sang các phi đoàn khu trục tân lập, gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho hoạt động của ngành quan sát. Trước tình trạng này, các cố vấn Hoa Kỳ nhận thấy cần phải thành lập một phi đoàn trinh sát chiến thuật cho KQVN.

    Theo đề nghị của MACV, được Bộ Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (USPACOM) thông qua, phi đoàn này sẽ được trang bị 4 phản lực cơ RT-33A, 3 chiếc RC-47, 18 chiếc RT-28, chưa kể các phi cơ U-6A, U-17A, và 2 phi cơ chụp không ảnh RC-45 đã được viện trợ cho KQVN từ trước.

    Đề nghị của MACV đã được Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert McNamara chấp thuận sau khi cắt bớt 4 phản lực cơ RT-33A, vì cho tới lúc đó, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ vẫn không muốn mang tiếng “vi phạm” các điều khoản của Hiệp Định Genève 1954, theo đó, hai miền Nam, Bắc không được trang bị phi cơ phản lực.

    Sau cuộc đảo chánh lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm vào đầu tháng 11/1963, Phi Đoàn Liên Lạc (ELAVN, tức “Phi Đoàn VIP”) bị giải thể để thành lập hai Phi Đoàn 314 Đặc Nhiệm (VIP) và 716 Trinh Sát & Trắc Giác với những trang bị kể trên (người Mỹ gọi Phi Đoàn 716 là “Composite Reconnaissance Squadron”: Phi Đoàn Trinh Sát Hỗn Hợp, có lẽ vì phi đoàn sử dụng nhiều loại phi cơ khác nhau).

    Phi Đoàn 716, danh hiệu “Hoàng Long”, được chính thức thành lập vào tháng 12/1963 tại Tân Sơn Nhất, do Đại úy La Vĩnh Sinh, xuất thân Khóa 51D (bis) Marrakech, làm Chỉ huy trưởng. Tới giữa năm 1964, phi đoàn vừa bước vào hoạt động toàn phần, dự trù thay thế các phản lực cơ thám thính RF-101 Woodoo của Không Quân Hoa Kỳ và thám thính cơ OV-1 Mohawk của Lục Quân Hoa Kỳ trong nhiệm vụ trinh sát tại miền Nam VN, thì lại có thêm một phi đoàn khu trục được thành lập vào ngày 1/7/1964: Phi Đoàn 520 “Thần Báo”, lực lượng tác chiến nòng cốt của Không Đoàn 74 Chiến Thuật mới được thành lập tại Bình Thủy.

    Vì cần hoa tiêu cho ưu tiên hàng đầu này (mỗi vùng chiến thuật phải có một phi đoàn khu trục), Phi Đoàn 716 Trinh Sát & Trắc Giác đã bị tạm thời giải thể để cung cấp hoa tiêu cho Phi Đoàn 520. Các phi cơ được giao lại cho Phi Đoàn 314 Đặc Nhiệm, trong đó một số phi cơ trinh sát trang bị tối tân RC-47 đã bị tạm thời sử dụng làm phi cơ vận tải để đáp ứng nhu cầu chuyển vận!

    Vì sự hiện hữu ngắn ngủi của Phi Đoàn 716 trong giai đoạn nói trên, hầu như không có cuốn sách nào của người ngoại quốc đề cập tới đơn vị này, trừ cuốn Vietnam – The War in The Air của Đại tá Không Quân Gene Gurney.

    Bước sang thời kỳ phát triển của KQVN (1965-1969), Phi Đoàn 716 được “ hồi sinh”. Ngày Không Lực 1 tháng 7 năm 1966, Phi Đoàn chính thức hoạt động trở lại và được gọi là Phi Đoàn 716 Không Thám, còn danh xưng tiếng Anh “Composite Reconnaissance Squadron” được bỏ bớt chữ “Composite”chỉ còn lại “Reconnaissance Squadron”, viết tắt là RS.

    Ngoài số phi cơ cũ, phi đoàn còn được trang bị thêm 3 chiếc RC-47 mới với hệ thống hồng ngoại được cải tiến có khả năng dò tìm địch qua hơi nóng (phát xuất từ người hay động vật) để chụp hình. Ba chiếc RC-47 mới này, với 2 phi hành đoàn luôn luôn ứng trực, được sử dụng trong công tác chụp không ảnh tại Vùng 3 và Vùng 4 Chiến Thuật.

    Về sau phi đoàn còn được trang bị phi cơ trắc giác EC-47 có khả năng khám phá tín hiệu của một máy vô tuyến có công suất 10 watt ở xa 25 hải lý (41.5 km) và xác định vị trí với mức chính xác gần như tuyệt đối.

    Ngoài RC-47 và EC-47, phi đoàn còn sử dụng các phi cơ đa dụng U-6A để thi hành các nhiệm vụ đặc biệt.

    * * *

    Ba năm sau, ngày 8/6/1969, Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu gặp nhau tại đảo Midway ở Thái Bình Dương, để thảo luận về lịch trình rút quân Mỹ và chương trình Tăng trưởng & Tối tân hóa QLVNCH, nằm trong chính sách “Việt Nam hóa” chiến tranh.

    Trong cuốn Quân Sử Không Quân VNCH, giai đoạn này được gọi là “Thời kỳ Bành trướng” (1969-1972) của KQVN.

    Sau cuộc hội nghị thượng đỉnh nói trên, các Ủy ban Hỗn hợp Mỹ-Việt đã được thành lập để thảo luận và xúc tiến chương trình Tăng trưởng & Tối tân hóa QLVNCH. Tới đầu năm 1970, Phái bộ Cố vấn Không Quân Hoa Kỳ (AFAG) đã nhận thấy trong chương trình này, ngành Không Thám của Không Lực VNCH đã bị “bỏ quên”.

    Lúc này, số lượng phi cơ của Phi Đoàn 716 – phi đoàn không thám duy nhất của KQVN – chỉ còn 3 chiếc RC-47, 1 chiếc EC-47 và 9 chiếc U-6A.
    Những chiếc U-6A được sử dụng trong công tác tâm lý chiến (phát thanh, thả truyền đơn) và trắc giác, dò tìm vị trí địch qua làn sóng điện (ARDF: Airborne Radio Direction Finding).

    Chiếc EC-47 duy nhất thì được sử dụng vào việc kiểm nghiệm các phương tiện, dụng cụ du hành (navigation) của cả QLVNCH nên không thi hành bất cứ nhiệm vụ không thám nào. Như vậy chỉ còn lại 3 chiếc RC-47. Tuy nhiên do tầm quan trọng của công tác tuần thám duyên hải, ba chiếc RC-47 đã được ưu tiên sử dụng cho nhu cầu này (95%), sau đó mới tới nhiệm vụ chụp không ảnh (5%).

    Cũng nên biết, trước năm 1969, đường biển là phương tiện chính của CSVN trong việc tiếp vận vũ khí, nhưng từ khi Phi Đoàn 716 bắt đầu các phi vụ tuần thám dọc theo bờ biển trải dài từ ranh giới Căm-bốt cho tới vùng phi quân sự, hoạt động của tàu thuyền địch đã giảm bớt đáng kể, và cuối cùng hầu như ngưng hẳn.

    Để thi hành nhiệm vụ này, Không Quân và Hải Quân Việt Nam đã phối hợp với nhau: KQ cung cấp phi cơ và phi hành đoàn, HQ cung cấp quan sát viên. Thường thường phi cơ bay ở cao độ khoảng 200m trên mặt biển để có thể quan sát một cách rõ ràng. Những nhân viên của HQ tháp tùng những chuyến bay này đều là những người có nhiều kinh nghiệm, hiểu biết về sinh hoạt của ngư phủ trong khu vực trách nhiệm, cho nên khi có một tàu thuyền khả nghi, họ nhận ra ngay. Và nếu việc đó xảy ra, họ sẽ gọi máy cấp báo cho tàu tuần tiễu gần nhất tới khám xét, và bắt giữ nếu khả nghi.

    Nhưng, như đã viết ở một phần trước, ba chiếc RC-47 nói trên được Hoa Kỳ trang bị cho KQVN để thi hành nhiệm vụ chính yếu là chụp không ảnh. Với phần bụng phía sau có ba khoang bằng kính để chụp hình, phi cơ có thể cung cấp những hình phẳng (flat), hình nổi (split-vertical) và hình xiên góc (oblique). Những tấm hình do RC-47 chụp rất chính xác và chi tiết, sau đó sẽ được nhân viên không ảnh của phi đoàn rửa và in ra với phương tiện cơ hữu.

    Thời gian đầu, so với kỹ thuật hiện đại thì phòng rửa hình của Phi Đoàn 716 bị xem là khá lạc hậu, vì thế trong chương trình hiện đại hóa KQVN, Đệ Thất Không Lực Hoa Kỳ đã thiết lập Trung Tâm Khai Thác Không Ảnh (Photo Exploition Center) cho KQVN, hoạt động chung với phía KQHK, bắt đầu vào tháng 4/1970.

    Theo dự trù của các cố vấn KQHK, trong tương lai, các phản lực cơ chụp không ảnh RF-5A của Phi Đoàn 522 ở Biên Hòa sẽ trực thuộc ngành Không Thám và được đưa về đồn trú tại Tân Sơn Nhất, với mục đích cung cấp những không ảnh mới nhất cho Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu trong vòng một vài tiếng đồng hồ. (KQVN có tổng cộng 8 chiếc RF-5A, trong đó 5 chiếc thường xuyên hoạt động).

    Về phi cơ, Đệ Thất Không Lực và các cố vấn KQHK đã đề nghị trang bị khẩn cấp thêm 9 chiếc RC-47, nhưng phải đợi tới năm 1972 mới được cung cấp, không phải 9 mà tới 12 chiếc (trong Dự án Enhance).

    Đồng thời, các giới chức nói trên cũng đề nghị cung cấp 20 EC-47 cho KQVN để thành lập một phi đoàn không thám thứ hai với nhiệm vụ chuyên biệt “trắc giác”, đủ khả năng khám phá, theo dõi các hoạt động của địch, nhất là tại vùng phi quân sự và biên giới Việt-Miên, Lào-Việt.


    EC-47

    Kết quả, Phi Đoàn 718 “Thiên Long” được thành lập tại Tân Sơn Nhất vào tháng 8/1972, trang bị phi cơ EC-47; đồng thời một số EC-47 cũng được trang bị cho Phi Đoàn 716 Hoàng Long. (Không có tài liệu chính thức nào ghi lại tổng số EC-47 của KQVN; theo hai tác giả Robert Mikesh và Jim Mesko, tổng số là 33 chiếc, trong đó 23 chiếc được chuyển giao trong Dự án Enhance và Enhance Plus).

    Phi đoàn không thám thứ ba là Phi Đoàn 720 “Hải Long” được thành lập vào tháng 12/1972, dự trù trang bị phi cơ RC-119G với những thiết bị điện tử để thám sát ban đêm và tuần thám duyên hải. Tuy nhiên những thiết bị này đã không được cung cấp cho nên số RC-119G này về sau chỉ sử dụng trong công tác vận chuyển.

    Cả ba phi đoàn không thám đều trực thuộc Không Đoàn 33 Chiến thuật, Sư Đoàn 5 KQ, đồn trú tại Tân Sơn Nhất, trừ một biệt đội của Phi Đoàn 718 được đưa ra Đà Nẵng.

    Trong những ngày tháng cuối cùng của miền Nam, cùng với C-130A Hercules và C-7A Caribou của các phi đoàn vận tải, các phi RC-119G của Phi Đoàn Không Thám 720 đã tận lực tham gia cầu không vận di tản đồng bào từ miền Trung vào Sài Gòn.

    Chiều tối 28/4/1975, khi chuyến RC-119G cuối cùng vừa chạm bánh Tân Sơn Nhất thì cũng là lúc các phản lực cơ A-37 do viên phi công phản bội Nguyễn Thành Trung hướng dẫn từ Phan Rang bay vào oanh tạc phi trường.

    4- Tổn thất:

    Như chúng tôi đã viết trong bài kỳ trước (Ngành Vận Tải trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa), sau cuộc chiến Việt Nam, đã không có bất cứ tài liệu nào, của Việt Nam cũng như của ngoại quốc, ghi lại đầy đủ tổn thất phi cơ và hy sinh xương máu của Không Lực VNCH nói chung, Ngành Vận Tải nói riêng. Vì thế, những tổn thất chúng tôi ghi ra dưới đây, theo ký ức của một số người từng phục vụ trong ngành Vận Tải Võ Trang và Không Thám, chỉ mang tính cách tượng trưng:

    * Vận tải võ trang:

    - Hai chiếc AC-119G Hắc Long bị bắn hạ tại Vùng 4 Chiến Thuật trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972; toàn bộ phi hành đoàn hy sinh.

    - Một chiếc AC-119K Tinh Long trong phi vụ huấn luyện (có tác giả viết là bay thử máy) vào cuối năm 1973 đầu năm 1974, đã bị bắn hạ tại Củ Chi. Toàn bộ phi hành đoàn tử nạn, trừ một cơ phi may mắn nhảy dù dịp.

    - Chiếc AC-119K “Tinh Long 7”, do Trung-úy Trang Văn Thành làm trưởng phi cơ, bị bắn hạ sáng 29/4/1975 tại Tân Sơn Nhất trong lúc tấn công lực lượng địch ở vòng đai phi trường:

    Vào khoảng 5 giờ sáng, “Tinh Long 7” cất cánh để thay thế “Tinh Long 6” trong nhiệm vụ bảo vệ căn cứ Tân Sơn Nhất. Khi trời bắt đầu sáng, Tinh Long 7 đã bất chấp mọi hiểm nguy do hỏa lực phòng không của địch, trong đó có hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7, xuống thấp để tận dụng các khẩu mingun và đại bác 20 ly tấn công địch quân đang tiến về vòng đai phi trường.

    Khoảng 7 giờ 30 sáng, chiếc AC-119K bị trúng một hỏa tiễn SA-7 của địch, bốc cháy rồi phát nổ, gẫy làm đôi và đâm xuống đất. Hàng ngàn đồng bào đang chờ di tản ở phi trường Tân Sơn Nhất, và một số phóng viên ngoại quốc đã chứng kiến tận mắt tấm gương can trường bất khuất và sự hy sinh cao cả của Tinh Long 7; trong phi hành đoàn 9 người chỉ có một người duy nhất sống sót nhưng bị trọng thương là Thượng sĩ xạ thủ Nguyễn Văn Chín.

    [Cùng thời gian, chiếc A-1 Skyraider của Thiếu tá Trương Phùng, danh hiệu Phi Long 2, thuộc Phi đoàn khu trục 518 (lúc đó đã rời Biên Hòa về trú đóng tại Tân Sơn Nhất), bay lên chặn địch ở Phú Lâm cũng bị phòng không của địch bắn hạ. Tinh Long 7 và Phi Long 2 được ghi nhận là hai phi hành đoàn cuối cùng của Không Lực VNCH hy sinh trong nhiệm vụ Bảo Quốc – Trấn Không]

    Ngoài Tinh Long 07 bị trúng SA-7 còn có thêm một chiếc AC-119K của Phi Đoàn 821 Tinh Long bị rớt ở Kinh Số 4, Tân Tạo, trên phi cơ này có 6 người đàn ông và 1 phụ nữ (2 người được xác nhận là Đại úy Huỳnh Đình Chiến và Trung sĩ Trần Văn Tiềm Em); và một AC-119G của Phi Đoàn 819 Hắc Long, bị rơi xuống số 33 đường Ngô Quyền, Chợ Lớn.

    Theo tác giả Thái Ngùng, một người từng phục vụ tại Phi Đoàn 821 Tinh Long, tổng cộng trước sau đã có 7 chiếc AC-119K của phi đoàn bị rớt, do hỏa lực địch hoặc do trục trặc kỹ thuật.

    * Không Thám:

    Có 3 phi cơ EC-47 của Phi Đoàn 718 “Thiên Long” bị hỏa lực của địch bắn hạ, chi tiết như sau:

    - Ngày 26/10/1973, một chiếc EC-47 bị trúng đạn phòng không vào động cơ bên cánh phải ở biên giới Việt – Miên, phải bay bằng một động cơ về đáp khẩn cấp tại Tân Sơn Nhất. Trưởng phi cơ tử nạn.

    - Ngày 9/5/1974, một chiếc EC-47 hoạt động tại vùng Mỏ Vẹt, Tây Ninh, bị trúng đạn phòng không, phải đáp khẩn cấp xuống phi trường Tây Ninh, toàn bộ phi hành đoàn được an toàn nhưng phi cơ bị gẫy cánh, phải bỏ lại phi trường sau khi đã tháo gỡ tất cả máy móc điện tử.

    - Ngày 13/5/1974, một chiếc EC-47 hoạt động tại vùng Mỏ Vẹt và núi Bà Đen, Tây Ninh, bị trúng hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 của địch. Toàn bộ phi hành đoàn tử nạn, trừ điều hành viên nhảy dù, sống sót và bị địch bắt làm tù binh.


    NGUYỄN HỮU THIỆN
    Melbourne, tháng 11/2015


    CHÚ THÍCH:


    (1) AC là viết tắt của “attack cargo”. Từ giữa thập niên 1960, Không Quân Hoa Kỳ đã thống nhất ký kiệu của các loại phi cơ bằng cách sử dụng một mẫu tự và các con số: B (bomber) oanh tạc, C (cargo) vận tải, F (fighter) chiến đấu, H (helicopter) trực thăng, O (observation) quan sát, P (patrol) tuần phòng, T (training) huấn luyện, U (utility) đa dụng, V (versatility) linh động, X (experimental) phi cơ dùng để thí nghiệm...

    Cũng có khi thêm một mẫu tự nữa ở phía trước để cho biết nhiệm vụ chuyên biệt, thí dụ: vận tải thì có EC (trắc giác), KC (tiếp tế nhiên liệu trên không), RC (không thám), VC (chuyên chở VIP)...; trực thăng thì có AH (võ trang), CH (chuyển vận), OH (trinh sát), UH (đa dụng)... Riêng mẫu tự Y đứng trước có nghĩa là phi cơ mẫu (prototype), còn đang bay thử, thí dụ YF-12, YT-37...

    Riêng mẫu tự A, một số người “bàn” như sau: A khi đi một mình có nghĩa là “attack” (tấn công) và chỉ dùng cho phi cơ của Hải Quân, như các loại A-1 Skyraider, A-3 Skywarrior, A-4 Skyhawk, A-5 Vigilant, A-6 Intruder, A-7 Corsair... Trường hợp đi trước một mẫu tự khác (AC, AH, AT... ) thì A chỉ có nghĩa là “armed” (võ trang), tức là “phi cơ không được chế tạo với nhiệm vụ tác chiến, sau đó mới được cải biến”.

    Lập luận “kỳ thị” nói trên có lẽ xuất phát từ phía... Hải Quân Hoa Kỳ (!) ít nhất cũng không thể chấp nhận trong trường hợp của chiếc AH-1 Cobra, bởi vì trực thăng 2 chỗ ngồi này được chế tạo với mục đích duy nhất là “tấn công”, vì thế AH ở đây chắc chắn phải là “attack helicopter”. Suy ra, mẫu tự A trong tên gọi các loại vận tải võ trang AC-47 và AC-119, AC-130 (của Không Quân) phải được hiểu là “attack” chứ không phải “armed”!

    (2) Các loại vận tải võ trang của Hoa Kỳ vì được biến cải từ các kiểu phi cơ vận tải hiện hữu nên sau phiên hiệu không có tên riêng như các loại phi cơ khác, mà chỉ có nickname, được sử dụng làm danh hiệu vô tuyến (callsign): AC-47 “Puff”, “Spooky”, AC-130 “Spectre”, AC-119G “Shadow”, AC-119K “Stinger”.

    Trên giấy tờ chính thức, AC-47 được gọi là Gunship I, AC-130 là Gunship II, AC-119 là Gunship III.

    (3) Một trong những độc đáo của ngành vận tải trong Không Lực VNCH (gồm cả vận tải võ trang lẫn không thám) là tất cả các danh hiệu phi đoàn đều có chữ “Long” (rồng) như: Xích Long, Thanh Long, Long Mã, Thần Long, Sơn Long, Phương Long, Hoàng Long, Thiên Long, Hỏa Long, Hắc Long, Tinh Long, v.v...

    Một số người, trong đó có cả các tác giả ngoại quốc, đã lầm tưởng việc sử dụng chữ “Long” trong danh hiệu phi đoàn vận tải võ trang đầu tiên là Phi Đoàn 817 “Hỏa Long” là xuất phát từ nickname “Puff, the Magic Dragon” mà phía Hoa Kỳ đã đặt cho chiếc AC-47 đầu tiên của họ.

    Trên thực tế, gần 10 năm trước đó, hai Phi Đoàn 413 và 415 (nguyên là Phi Đoàn 1 và Phi Đoàn 2 Vận Tải) đã có danh hiệu “Xích Long” và “Thanh Long”. Suy ra, việc AC-47 của KQVN mang danh hiệu “Hỏa Long” và AC-47 của KQHK có nickname “Puff, the Magic Dragon” chỉ là một sự trùng hợp vô tình!



    TÀI LIỆU THAM KHẢO:

    - Quân Sử Không Quân VNCH (Liên Hội Ái Hữu Không Quân - Úc Châu, 2005)
    - South Vietnamese Air Force, Jim Mesko
    - Flying Dragons, Robert C Mikesh
    - Vietnam – The War in The Air, Gene Gurney
    - Hồi ký, ký ức của các Niên trưởng, các cấp chỉ huy, các chiến hữu KQ: Phạm Ngọc Sang, Nguyễn Quang Tri, Phan Thanh Vân, Nguyễn Phúc Tửng, Nguyễn Long Nhan, Trần Phước Hội, Nguyễn Uông, H.T.C., Trần Đình Hòe, Phạm Văn Cần, Nguyễn Quý Chấn, Võ Phước Cương, Phạm Hi Oánh, Thái Ngùng, Nguyễn Việt Quốc, Nguyễn Yến Thông, Trương Nguyên Thuận...
    - Tài liệu do các sưu tầm viên Đinh Trọng Vũ, Phạm Anh Tài cung cấp.
    Last edited by Nguyen Huu Thien; 05-12-2020, 09:29 PM.

    Comment


    • #3
      Có một phi đoàn vận tải duy nhất không có chữ "Long" trong danh hiệu, đó là Phi Đoàn 314 (VIP), danh hiệu "Thần Tiễn" (Divine Arrow) mà một số tác giả... quên bỏ dấu "ngã" thành "Thần Tiên"!
      NHT
      Last edited by Nguyen Huu Thien; 08-01-2018, 01:51 AM.

      Comment


      • #4
        Đính chính về PHI ĐOÀN 720

        Trong phần II (Vận Tải Võ Trang & Không Thám), mục B (Không Thám), chúng tôi viết:

        ...Phi đoàn không thám thứ ba là Phi Đoàn 720 “Hải Long” được thành lập vào tháng 12/1972, dự trù trang bị phi cơ RC-119G với những thiết bị điện tử để thám sát ban đêm và tuần thám duyên hải. Tuy nhiên những thiết bị này đã không được cung cấp cho nên số RC-119G này về sau chỉ sử dụng trong công tác vận chuyển.

        Cả ba phi đoàn không thám đều trực thuộc Không Đoàn 33 Chiến Thuật, Sư Đoàn 5 KQ, đồn trú tại Tân Sơn Nhất, trừ một biệt đội của Phi Đoàn 718 được đưa ra Đà Nẵng...


        * **

        Chúng tôi viết “Cả ba phi đoàn không thám đều trực thuộc Không Đoàn 33 Chiến Thuật...” là căn cứ theo sơ đồ tổ chức của Văn phòng Tham mưu phó Kế hoạch, Bộ Tư Lệnh Không Quân, vào cuối thời kỳ hiện đại hóa (sau Mùa Hè Đỏ Lửa 1972) qua đề nghị của AFAG (Air Force Advisory Group: Phái Bộ Cố Vấn Không Quân) đã được 7th Air Force thông qua.

        Theo kế hoạch này, 3 phi đoàn vận tải hiện hữu sử dụng phi cơ C-123K là các Phi Đoàn 421, 423, 425 của Không Đoàn 53 Chiến Thuật, Sư Đoàn 5 KQ, sẽ bị giải thể để lấy nhân lực thành lập 2 phi đoàn vận tải sử dụng phi cơ C-130A, là Phi Đoàn 435, 437, và 1 phi đoàn không thám sử dụng phi cơ RC-119G là Phi Đoàn 720.

        Hai Phi Đoàn 435, 437 đương nhiên là cơ hữu của Không Đoàn 53 Chiến Thuật, còn Phi Đoàn 720 sẽ trực thuộc Không Đoàn 33 Chiến Thuật để hoạt động chung với 2 phi đoàn không thám đã có sẵn là Phi Đoàn 716 và Phi Đoàn 718.

        Nay chúng tôi vừa nhận được đính chính của KQ Nguyễn Viết Nhiễm, trước năm 1975 phục vụ tại Phi Đoàn 720, nguyên văn: PĐ720 (RC-119) thuộc KĐ53CT chứ không phải KĐ33CT. Cơ sở của PĐ720 nằm bên hông của KĐ53CT và bên cạnh PĐ435.

        Dĩ nhiên, chúng ta phải tin lời của một cựu nhân viên Phi Đoàn 720. Riêng cá nhân chúng tôi, chỉ biết tự giải thích như sau:

        Vì những thiết bị điện tử để thám sát ban đêm và tuần thám duyên hải dự trù được trang bị cho những chiếc RC-119G của Phi Đoàn 720 không được cung cấp, và những phi cơ này về sau chỉ sử dụng trong công tác vận chuyển, Phi Đoàn 720 vẫn tiếp tục trực thuộc Không Đoàn 53 Chiến Thuật, chứ không được đưa sang Không Đoàn 33 Chiến Thuật để hoạt động chung với 2 phi đoàn không thám 716 và 718 theo kế hoạch ban đầu của Bộ Tư Lệnh Không Quân.

        Rất có thể vì vậy, Robert C Mikesh, tác giả cuốn Flying Dragons –The South Vietnamese Air Force, đã bỏ sót Phi Đoàn 720 Không Thám trong sơ đồ tổ chức cuối cùng của KQVN (tháng 7/1974).

        Thành thật cám ơn KQ Nguyễn Viết Nhiễm đã lên tiếng đính chính để bài viết của chúng tôi nói riêng, mục Quân Sử Không Quân nói chung, được thêm phần chính xác.
        NHT
        Last edited by Nguyen Huu Thien; 04-22-2017, 03:29 PM.

        Comment


        • #5
          DANH HIỆU CÁC PHI ĐOÀN VẬN TẢI 421 - 423 – 425 - 435 – 437

          Theo lời một vị Niên trưởng trong ngành Vận Tải của Không Lực VNCH, một trong những độc đáo của ngành này (gồm cả Vận Tải Võ Trang và Không Thám) là tất cả các danh hiệu phi đoàn đều có chữ “Long” (rồng) như: Xích Long, Thanh Long, Long Mã, Thần Long, Sơn Long, Phương Long, Hoàng Long, Thiên Long, Hỏa Long, Hắc Long, Tinh Long, v.v..., ngoại trừ Phi Đoàn Đặc Nhiệm 314 (tức phi đoàn “VIP”) có danh hiệu “Thần Tiễn” (Divine Arrow).

          Tuy nhiên trong hơn 15 năm qua, từ khi khởi sự biên soạn cuốn Quân Sử Không Quân VNCH (do Liên Hội Ái Hữu Không Quân QLVNCH – Úc Châu phát hành năm 2005), mặc dù đã tham khảo nhiều vị niên trưởng, các cấp chỉ huy, và chiến hữu trong ngành Vận Tải, chúng tôi vẫn còn thiếu danh hiệu của 3 phi đoàn trang bị C-123 là PĐ-421, PĐ-423, PĐ-425, và 2 phi đoàn trang bị C-130 là PĐ-435, PĐ-437.

          Nay nhân đọc bài Ngành Vận Tải trong KLVNCH, một vị học giả dân sự đã nêu thắc mắc với chúng tôi: 5 phi đoàn vận tải nói trên không có danh hiệu, hay là có danh hiệu mà không ai còn nhớ?

          Cũng xin được nhắc lại, 3 phi đoàn trang bị C-123 là PĐ-421, PĐ-423, PĐ-425 sau này đã bị giải thể để lấy nhân lực thành lập 2 phi đoàn trang bị C-130 là PĐ-435, PĐ-437, và 1 phi đoàn không thám sử dụng phi cơ RC-119G là Phi Đoàn 720.

          * * *

          Vì thế một lần nữa, chúng tôi xin quý vị niên trưởng, các cấp chỉ huy, và chiến hữu trong ngành Vận Tải cố gắng vận dụng ký ức, tham khảo tài liệu giúp chúng tôi giải toả khúc mắc này, vừa để trả lời vị học giả nói trên, vừa để sự hiểu biết của chúng ta về ngành Vận Tải trong KLVNCH được đầy đủ và chính xác hơn.

          Để quý vị niên trưởng, các cấp chỉ huy, và chiến hữu được dễ dàng trong việc hồi tưởng, tham khảo, sau đây chúng tôi xin ghi lại danh sách tất cả các phi đoàn vận tải, vận tải võ trang, không thám, có cũng như không có (hoặc có nhưng không ai nhớ) danh hiệu:

          - Phi Đoàn Đặc Nhiệm 314: Thần Tiễn
          - Phi Đoàn 413: Xích Long
          - Phi Đoàn 415: Thanh Long,
          - Phi Đoàn 417: Long Mã
          - Phi Đoàn 419: ?
          - Phi Đoàn 421: ?
          - Phi Đoàn 423: ?
          - Phi Đoàn 425: ?
          - Phi Đoàn 427: Thần Long
          - Phi Đoàn 429: Sơn Long
          - Phi Đoàn 431: Phương Long
          - Phi Đoàn 435: ?
          - Phi Đoàn 437: ?
          - Phi Đoàn 716: Hoàng Long
          - Phi Đoàn 718: Thiên Long
          - Phi Đoàn 720: Hải Long
          - Phi Đoàn 817: Hỏa Long
          - Phi Đoàn 819: Hắc Long
          - Phi Đoàn 821: Tinh Long

          CHÚ THÍCH:

          Vào thời gian trước khi Phi Đoàn 413 tiếp nhận các phi cơ C-119, khoảng năm 1966-1967, đã có kế hoạch thành lập thêm hai phi đoàn vận tải khác dự trù trang bị vận tải cơ C-47, là Phi Đoàn 417 và Phi Đoàn 419.

          Các tài liệu của Hoa Kỳ và VNCH để lại, cũng như ký ức của những người từng phục vụ trong ngành vận tải đã không có sự thống nhất khi nhắc tới Phi Đoàn 417 và Phi Đoàn 419. Chỉ biết một điều chắc chắn: Phi Đoàn 417 đã được thành lập với một thành nhân sự, do Thiếu tá Phạm Công Minh làm Chỉ huy trưởng, danh hiệu “Long Mã”, và phù hiệu đã được vẽ sẵn (mình ngựa đầu rồng).

          Sau đó, trong tiến trình thành lập các phi đoàn vận tải võ trang, Phi Đoàn 417 được trang bị AC-47 và đổi phiên hiệu, danh hiệu thành Phi Đoàn 817 “Hỏa Long”. Từ đây, số “8” đầu được dành cho ngành vận tải võ trang.

          Còn danh hiệu “Long Mã” sau này được sử dụng cho Phi Đoàn trực thăng 219 (King Bee).

          Về phần Phi Đoàn 419, ít nhất cũng đã được thành lập trên giấy tờ, cho nên phi đoàn vận tải kế tiếp mới có phiên hiệu 421, là phi đoàn đầu tiên được trang bị C-123.

          KQ Nguyễn Hữu Thiện
          Last edited by Nguyen Huu Thien; 08-26-2018, 09:24 AM.

          Comment


          • #6
            PHI ĐOÀN 425 “KIM LONG”?

            Tuần qua, chúng tôi đã được một cựu hoa tiêu C-123K sau đó lái C-130A, hiện cư ngụ tại Úc cho biết “5 phi đoàn vận tải này không có danh hiệu”.

            Tuy nhiên, sau đó chúng tôi lại được Yankee-Caribou, một nhà sưu tầm về KLVNCH, cho biết căn cứ theo cuốn Quân Sử Không Quân VNCH (do Liên Hội Không Quân Úc Châu phát hành năm 2005), danh hiệu của Phi Đoàn 425 là “Kim Long”.

            Nguyên trong phần Phụ Lục của cuốn QSKQ, bài “Trầm tĩnh bay vào lửa đạn” (trang 346-347), có đoạn viết về trường hợp hy sinh của cố Thiếu tá Nguyễn Thế Thân, Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 425, cùng phi hành đoàn trong trận An Lộc, nguyên văn như sau:

            “...Ngày 19-4-1972, ba chiếc C-123, danh hiệu Kim Long 1, 2 và 3 vào tiếp tế cho đoàn quân tử thủ đã được dàn chào long trọng với đầy đủ nghi lễ của các ổ súng phòng không của địch. Với một thân hình đồ sộ, di chuyền nặng nề, không võ trang, Kim Long 2 và 3 vẫn lao vào mục tiêu thả hàng cho quân bạn. Kim Long 1 với trưởng phi cơ Thiếu tá Nguyễn Thế Thân, cánh chim đầu đàn của Phi Đoàn 425 đã không được may mắn như hai người bạn trong hợp đoàn. Phi cơ anh bay vào mục tiêu, hàng loạt đạn cao xạ bay lên phá vỡ thân tàu và Kim Long 1 tiếp tục lao xuống, không một chiếc dù nào xuất hiện...”

            Bài “Trầm tĩnh bay vào lửa đạn”, viết về 8 trường hợp hy sinh của các hoa tiêu, xạ thủ, hoặc cả phi hành đoàn trong thời gian từ đầu năm 1972 tới đầu năm 1973, được đăng tải trên nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa của Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Tuy bài viết không ghi tên tác giả, qua đọc những từ chuyên môn, chúng tôi có thể khẳng định tác giả (hoặc các tác giả) là người của Không Quân.

            Khác với các đơn vị phi hành của Mỹ thường sử dụng “nickname” của họ làm “call sign” (danh hiệu để liên lạc trên tần số), các đơn vị phi hành của VNCH (cấp phi đoàn, phi đội) luôn luôn sử dụng danh hiệu chính chức + một con số để làm “call sign” (trừ trường hợp hai phi đoàn khu trục 514 Phượng Hoàng, 516 Phi Hổ vào “thuở ban đầu”, với những “call sign” đặc thù như Phượng Hoàng Đỏ, Phượng Hoàng Đen, Phượng Hoàng Xám, Phượng Hoàng Nâu, Phượng Hoàng Kim Cương, Phi Hổ Tím, v.v...).

            Như vậy, có thể kết luận: việc ba chiếc C-123K của Phi Đoàn 425 bay vào An Lộc ngày 19-4-1972 có “call sign” Kim Long 1, 2 và 3 đã cho biết danh hiệu của phi đoàn là “Kim Long”.

            * * *

            Nhưng dù sao những gì chúng tôi vừa trình bày cũng chỉ là ký ức của một cựu hoa tiêu vận tải, và “khám phá” của một nhà sưu tầm về 1 trong 5 phi đoàn vận tải được nêu ra trong câu hỏi.

            Chúng tôi ước mong sẽ nhận thêm những đóng góp bổ túc từ khắp nơi.

            KQ Nguyễn Hữu Thiện
            Last edited by Nguyen Huu Thien; 02-21-2018, 02:36 PM.

            Comment



            Hội Quán Phi Dũng ©
            Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




            website hit counter

            Working...
            X