Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Kết Quả Giải Viết Về Nước Mỹ 2015

Collapse
X

Kết Quả Giải Viết Về Nước Mỹ 2015

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Kết Quả Giải Viết Về Nước Mỹ 2015

    Kết Quả Giải Viết Về Nước Mỹ 2015
    17/08/2015


    Chụp hình lưu niệm các tác giả, Ban Tuyển Chọn, và Gia Đình Việt Báo trong Buổi Phát Giải Viết Về Nước Mỹ Năm 2015. (Photo VB)

    Trong buổi lễ trao giải Viết Về Nước Mỹ năm thứ 16, được tổ chức tại Moon Light Banquet, Westminster vào chiều Chủ Nhật 16 tháng Tám, với khoảng 400 quan khách tham dự, nhật báo Việt Báo đã công bố và trao tặng các giải sau đây.

    Giải Chung Kết Vinh Danh Tác Giả-Tác Phẩm


    Tác giả Phương Hoa (hàng trước, phải) trao Giải Chung Kết Vinh Danh Tác Giả và Tác Phẩm cho tác giả Orchid Thanh-Hương Lê (hàng trước, trái). Trong hình hàng sau, từ phải, nhà thơ Trần Dạ Từ, nhà văn Nhã Ca, nhà báo Hòa Bình, nhà báo Phạm Minh, tác giả Trương Ngọc Bảo Xuân, nhà báo Bồ Đại Kỳ, tác giả Philato, và nhà thơ Du Tử Lê. (Photo VB)

    Orchid Thanh Lê
    Với “Trả Lại Tên Cho Người Bị Mất Tên”

    Tác giả là thứ nữ trong một gia đình sĩ quan VNCH. Công việc hiện tại: Phó Giáo Sư Tiến Sĩ tại Viện Nghiên Cứu Ngôn Ngữ Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Monterey, California, có nhiệm vụ hỗ trợ tiếng Việt cho Văn Phòng Tìm Quân Nhân Mỹ Mất Tích Trong Chiến Tranh Việt Nam. Dự Viết Về Nước Mỹ từ 2014, với 4 bài viết, cô đã nhận giải Việt Bút Trùng Quang, với bài “Thầy Việt, Trò Mỹ” và giải Vinh Danh Tác Giả với bài “Đi Tìm Tên Một Người Vô Danh”, kể lại việc cô - do nhân duyên - đã tìm được tên của một không quân VNCH tử thương trong một phi vụ hỗn hợp với quân nhân Hoa Kỳ vào thời chiến.
    Sang năm 2015, Orchid Thanh Lê tiếp tục góp thêm 8 bài viết mới, trong số này có bài “Trả Lại Tên Cho Người Bị Mất Tên”, được viết trong nỗi thổn thức của niềm đau tháng tư - kể về buổi lễ ngày 23-5-2015, khi chính phủ Hoa Kỳ chính thức trao huy chương và gắn lại bảng tên cho người chiến sĩ bị mất tên. Tác giả tham dự buổi lễ được tiếp vận qua vệ tinh trung chuyển tại căn cứ Eustis, Virginia.

    Giải Chung Kết Vinh Danh Tác Phẩm


    Nhà thơ Du Tử Lê (phải) trao Giải Vinh Danh Tác Phẩm cho tác giả Phùng Annnie Kim (trái). (Photo VB)

    Phùng Annie Kim
    Với bài “Giọt Máu Rơi Của Người Lính Chết Trẻ”.

    Tác giả trước đây là một nhà giáo, định cư tại Mỹ theo diện HO năm 1991, hiện là cư dân Westminster, California. Với 14 bài viết trong năm, trong đó có bài "Chú Lính Mỹ" bà đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sang năm 2015, Phùng Annie Kim góp thêm 9 bài viết mới, tiếp tục cho thấy sức viết mạnh mẽ, công phu sưu tầm, sự tinh tế và tấm lòng. “Giọt Máu Rơi của Người Lính Chết Trẻ” là câu chuyện hơn 40 năm sau của chiếc trực thăng U-H1 bị bắn rơi trong cuộc hành quân Hạ Lào năm 1971. Đây cũng là câu chuyện của ba thế hệ gắn bó với cuộc chiến tranh Đông Dương, được viết với những tình tiết chính xác về chiến sự và về Viện Bảo Tàng Báo Chí Newseum tại Hoa Thịnh Đốn.


    Giải Chung Kết Vinh Danh Tác Giả



    Nhà báo Bồ Đại Kỳ (thứ 2, phải) trao Giải Vinh Danh Tác Giả cho tác giả Philato (trái), MC Trần Tường Huy (phải). (Photo VB)

    Philato

    Với ba bài tiêu biểu: “Nghé Đi Tìm Trâu”; “Cố vấn Mỹ và Trâu Điên”; “Bà Mẹ Quê”.
    Tác giả là một cựu sĩ quan VNCH - 13 năm lính chiến, từ 1962 tới 75, với 5 chiến thương bội tinh. Là một cựu tù cộng sản, ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. 1, hiện làm việc tại học khu Ocean View, và đã góp bài viết về nước Mỹ từ năm đầu tiên với các bút hiệu Cáp Tô Văn, Philato, bài nào cũng cho thấy tấm lòng. Năm 2014, với bài hướng về các thương phế binh VNCH, “Sàigòn lớn nhỏ đều nhớ anh” ông nhận giải Danh Dự. Sang năm 2015, đánh dấu 40 năm sau Tháng Tư 1975, ông góp thêm 10 bài mới, với sức viết vượt trội.

    Giải Trùng Quang Viết Về Nước Mỹ 2015


    Đại diện gia đình Bà Trùng Quang là Thi Sĩ Đỗ Khiêm (thứ 2 từ phải) trao Giải Trùng Quang Viết Về Nước Mỹ 2015 cho tác giả Khôi An (trái), nhà thơ Trần Dạ Từ (phải) giới thiệu. (Photo VB)


    Khôi An

    Với bài viết “Bốn Mươi Năm, Nỗi Niềm Ba Thế Hệ”

    Tác giả từng phải rời bố mẹ để vượt biển từ tuổi học trò, đến Mỹ năm 1984, tám năm sau, 1992, Khôi An đã là một kỹ sư viết nhu liệu cho sản phẩm Intel 1486 và đại diện công ty sang Á Châu “bàn giao kỹ thuật” cho phân xưởng ngoại quốc đầu tiên của Intel ở Penang, Mã Lai.
    Dự Viết Về Nước Mỹ từ 2008, những bài viết của Khôi An luôn thể hiện sự thiết tha với tiếng Việt, văn hóa Việt, truyền thống Việt. Năm 2009, cô nhận Giải Danh Dự, năm 2010 nhận giải Vinh Danh Tác Giả và năm 2013 Khôi An đã nhận Giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ. Trong tổng số hơn gần ba ngàn tác giả Viết Về Nước Mỹ, riêng khôi An đã có hơn 5.75 triệu lượt người đọc trên Việt Báo Online, chưa kể sách báo in và các trang mạng trong ngoài nước thường xuyên trích đăng lại.

    7 Giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2015


    Nguyễn Thị Thêm
    Với hai bài tiêu biểu, “Mùi Áo Lính” và “Người Lạc Mất Đường Về”.
    Tác giả sinh năm 1948 tại Biên Hòa, Việt Nam, cựu học sinh Ngô Quyền. Trước 1975, dạy học. Qua Mỹ năm 1991 theo diện HO, hiện định cư tại Riverside, California. “Chồng tôi là lính VNCH. Hai thằng con tôi là lính của quân đội Hoa kỳ. Tôi hết làm vợ lính lại làm mẹ lính,” tác giả kể. Lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ, bà đã góp 9 bài viết cho năm 2015, kể nhiều chuyện sống động và xúc động về một gia đình gốc Việt với cha lính, con lính.

    H. Tịnh
    Với bài “Nỗi Đau Giam Con trong Lồng Sắt” và “Tựu Trường & Những Cú Sốc Tháng 9”
    H. Tịnh là tên thật của tác giả. Quê hương Quảng Nam Đà Nẵng. Sư phạm Huế ngày xưa. Thợ lao động về hưu. Sống cùng gia đình ở Quận Cam, California. H. Tịnh là tác giả sách “Bênh Vực Tự Kỷ - Tất cả về... Tự Kỷ và Học Đường.” Với gần 500 trang sách khổ lớn, đây là một công trình sưu khảo công phu, tâm huyết 10 năm của tác giả. Từ 2010, H. Tịnh đã góp cho Viết Về Nước Mỹ bài “Những Đứa Con Tự Kỷ” Sang năm 2014, thêm bài “Nỗi Đau của Vợ Chồng Việt Giam Con trong Lồng Sắt ở California”. Tiếp theo, là “Những Cú Sốc Tháng Chín”, kể về kinh nghiệm chuẩn bị hành trang tựu trường cho con tự kỷ.

    Huỳnh Thanh Sơn
    Với bài “Như Giấc Mơ Hoa, viết cho con cháu”
    Vị tác giả Viết Về Nước Mỹ 2015 cao niên nhất trong năm tự gọi mình là "Năm Sơn", 84 tuổi, cựu quân nhân QLVNCH, Võ Bị Thủ Đức từ 1954. Chức vụ sau cùng: Trung tá thuộc Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 tại Cần Thơ. Sau Tháng Tư 1975, hơn 10 năm tù cải tạo. Định cư tại Mỹ theo diện H.O. ngày 22 tháng 6 năm 1994, hiện sống một mình tại Westminster. Bài viết kể về những tình người tử tế tại miền Nam thời chiến, từ gia đình, vợ chồng, cho tới một tình yêu ngang trái. Lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ, Năm Sơn cho biết ông đã viết bài này ngay trong đêm Giao thừa Tết Ất Mùi 2015 và viết suốt ba ngày đầu năm.

    Ngô Đình Châu
    Với hai bài “39 Năm Nhìn Lại” và “Một Chặng Đường”
    Tác giả sinh năm 1952, dân Sài gòn, cựu sinh viên Văn Khoa, cựu Sĩ quan VNCH, một trung đội trưởng tác chiến, ông hiện là cư dân Lackville, Florida, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ với hai bài viết chân thực mà xúc động. Lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ, tác giả góp hai bài: “39 Năm Nhìn Lại” là một hồi ức sống thực về cuộc chiến. Buổi sáng ngày 1 tháng Năm 1975, tác giả là một thương binh, bị đuổi ra khỏi quân y viện... Bài tiếp theo là “Một Chặng Đường”, tự sự về hành trình chi tiết của một HO. 21 đến Mỹ năm 1993.

    Trần Thiện Phi Hùng

    Với bài “Chôn Một Chế Độ.”
    Làm sao để chôn hai chế độ? Câu hỏi được trả lời trong bài viết của tác giả, 40 năm sau khi một chế độ đã bị chôn. Trần Thiện Phi Hùng là tác giả có tên trong danh sách nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2013. Tác giả cho biết ông là một Hải Quân Trung Uý VNCH; tự lái tầu vượt biển năm 1982, hiện định cư tại Úc. Thư kèm bài, ông viết “Tôi vào lính năm 18 tuổi. 12 năm 4 tháng làm lính. 35 năm chưa về lại VN. Không biết, không hiểu, nên không dùng được từ ngữ mới sau 75. Hơn nửa thế kỷ mới viết lại, nên sai nhiều chính tả mong ban biên tập sửa cho. Chuyện cải tạo Vườn Đào và người tù về sớm nhất có thật 100% là tôi, Phi Hùng.”

    Nguyễn Hữu Thời
    Với bài tiêu biểu “Vợ Chồng Người Hàng Xóm”
    Tác giả là một huynh trưởng Viết Về Nước Mỹ, tham dự chương trình giải thưởng Việt Báo từ năm đầu tiên, đã nhận giải năm 2001 và vẫn liên tục góp nhiều bài viết giá trị, để hỗ trợ và cổ võ việc Viết Về Nước Mỹ. Trước năm 1975, ông là nhà giáo, nguyên Hiệu trưởng trường Trung học BC Lê Văn Duyệt, tỉnh Quảng Ngãi. Sĩ quan QLVNCH, khóa 18 Thủ Đức. Định cư tại Mỹ, sau nhiều năm làm Senior Computer Analysis cho hãng Sypris Data System Los Angeles, ông hưu trí cuối 2009.


    Phi Yên
    Với bài viết “Bố Tin Ở Con”
    Tác giả kể trong bài, “tôi là con của một quân nhân đã trả ơn đất nước bằng một đời binh nghiệp và mười ba năm tù cộng sản.” O ng thuộc thế hệ “một rưỡi”, đang nhìn thấy con em mình trưởng thành trên đất Mỹ. Bài viết được tác giả ghi là để “Kính tặng những ông Bố có con trai vào lính Hoa Kỳ.” Tác giả tên thật Nông Phiên; Sinh năm 1965 tại Sài gòn. Giáo viên Sư phạm Kỹ Thuật. Công việc hiện tại: Electro-mechanic Technician. Năm 2012, Phi Yên đã nhận giải đặc biệt với bài viết về nước Mỹ đầu tiên: một tự sự linh hoạt về công việc lưu trữ ngũ cốc tại Mỹ, lần đầu được đề cập bởi người gốc Việt.

    10 Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2015

    Hoà An

    Với bài “Chuyện Kể Cho Thế Hệ Trẻ”
    Đến Hoa Kỳ vào cuối thập niên 70. Lúc đầu nhận dạy học sinh Trung học mới đến Mỹ không phân biệt ngôn ngữ chính mà các em sử dụng. Nhưng về sau chuyển sang ngành quản trị cho các công ty thương mại Hoa Kỳ, về hưu năm 2014.
    Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của tác giả là chuyện tình thời mới lớn - khi chưa kịp lựa chọn, hẹn hò, yêu thương - của một nữ sinh miền Nam với những người lính cộng hoà trẻ trung mà bất hạnh trong cuộc chiến. Tất cả đã tan tác, chia xa nhưng tình yêu của một thời tử tế đã thành những kỷ niệm còn được thương nhớ mãi.

    Trần Kim Bằng
    Với bài “Hồi Ký Vượt Biên Đường Bộ.”
    Tác giả Trần Kim Bằng, cư dân vùng Little Saigon là một nhạc sĩ, đã phát hành tập nhạc và CD “Duyên”. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là một hồi ký về hành trình vượt biên đường bộ năm 1980.

    Màu Xanh Nhỏ
    Với bài “AQ Tạ Ơn”
    Màu xanh nhỏ là dịch nghĩa tên thật của tác giả Nguyễn Vi Lam (vi: nhỏ; lam: màu xanh) sinh năm 1979 tại Long An, Việt Nam. Sang Mỹ năm 2004 theo tu chính Mc. Cain, hiện là cư dân Sacramento, cho biết cô đã theo dõi chương trình Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm nay, đây là bài tham dự đầu tiên của tác giả. Cô nói: Đây không phải là nhân vật A Quay hay A Quế trong câu chuyện của Lỗ Tấn "A Q Chính Truyện"; mà là một anh chàng đang sinh sống tại thủ phủ Sacramento tiểu bang California! Người viết "thay lời muốn nói" để gởi đến người đọc những tâm sự, những trăn trở của anh.

    Y Châu
    Với bài “Cây Trái, Nhà Vườn Miami” và nhiều bài viết ngắn.

    Y Châu, tên thật là Nguyễn văn Y, cựu học sinh Tân Châu, Thủ Khoa Nghĩa Châu Đốc, cựu SV Luật Khoa và Khoa Học Xã Hội Cần Thơ. Cựu SQ/QLVNCH, cựu tù cải tạo. Hiện là cư dân Miami, tiểu bang Florida. Những ngày đầu tiên đến Hiệp Chủng Quốc Mỹ, từng đi làm hầu bàn ở nhà hàng, làm thợ nails, thợ cắt chỉ… Tác giả đã góp nhiều bài viết tinh tế, cho thấy tấm lòng của ông với quê hương, cây trái quê hương. Bài mới của ông kể nhiều chi tiết đặc biệt về cây trái và nhà vườn gốc Việt tại Miami, Florida. Tin mới là do bị dồn hàng, nhà vườn vùng này hiện đang “bỏ Thanh Long, lấy Nhãn Cầu”. Tựa đề được đặt lại theo nội dung.

    Kim Phượng Newman
    Với bài “Cho và Nhận”
    Tác giả sống tại Mỹ từ năm 2002 hiện là cư dân Vancouver, WA. Nghề nghiệp Artist (làm tranh bằng những vật liệu trong thiên nhiên như hoa lá cây cỏ ép khô…) Bài đầu tiên của tác giả là “Cám Ơn Mẹ”, kể về bà mẹ chồng người Mỹ bằng tấm lòng trân quí. Tác giả hiện là giáo viên thiện nguyện của trường Văn Lang Portland, OR. Cho và Nhận được viết nhân Kỷ niệm 25 năm thành lập của Trường Việt Ngữ Văn Lang Portland, OR.

    Trần Đình Đức
    Với bài “Bước Đi Bước Nữa?”
    Tác giả sinh năm 1959 tại Saigon. Học trung học trường Hưng Đạo. Vượt biên cuối năm 1983 và định cư tại San Jose, California đầu năm 1985. Hiện nay là Mechanical Engineering Consultant và dạy CAD Tools ở Silicon Valley, California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông kể về bà mẹ Việt du lịch Mỹ thăm con, được phổ biến vào dịp Mothers Day 2013, hiện đã có hơn 541,000 lượt người đọc. Sang năm 2015, ông góp hai bài viết. “Niềm Nhớ Không Tên và Một Thời Áo Trắng” kể chuyện vượt biển và kỷ niệm tuổi học trò, và “Bước Đi Bước Nữa”.

    Lê Minh Nguyên
    Với bài “Hoa Bồ Công Anh / Dandelion”
    Tác giả là một cựu hải quân Hoa Kỳ, chỉ mới... 26 tuổi. Sinh năm 1989, theo gia đình nhập cư Mỹ từ 2003, gia nhập hải quân Mỹ năm 2009, khi mới 20 tuổi, giải ngũ năm 2013 khi 25 tuổi, hiện đang học ở Las Vegas. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên cho thấy tác giả có cách nhìn, cách nghĩ riêng biệt.

    Bernard Nguyên Đăng
    Với bài “Tạ Ơn”
    Tác giả là cư dân Texas. O ng cho biết đang giảng dạy tại đại học và là một chuyên viên hoà giải. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của Bernard Nguyên Đăng nhân mùa Thanksgiving, theo tác giả, là “chia sẻ thêm một cung lòng biết ơn”.

    T. V. Vũ Ngọc Thạch

    Với bài “Hát O Nhọc Nhằn”
    Tác giả là một vị cao niên, đã trên 77 tuổi. O ng tên Vũ Ngọc Thạch sinh năm 1937 tại Thanh Hóa. Di cư vô Nam 1954 làm công chức VNCH từ 1965 đến 30/4/1975. Đi tù cải tạo 6 năm 8 tháng 22 ngày. Qua Mỹ HO 15 từ 1992, đúng ngày quốc tế nhân quyền, 22/12.

    Sao Nam Trần Ngọc Bình

    Với bài “Chồng Mỹ Vợ Việt”
    Tác giả nguyên sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo, là một trong những tác giả thân quen với bạn đọc Việt Báo Viết Về Nước Mỹ. O ng cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ. Bài sau đây ông viết theo lời kể lại của một phụ nữ Việt, có chồng là người Mỹ.

  • #2
    Trả Lại Tên Cho Người Chiến Sĩ Bị Mất Tên - Orchid Thanh Lê

    Trả Lại Tên Cho Người Chiến Sĩ Bị Mất Tên

    Tác giả: Orchid Thanh Lê
    Bài số 4518-16-29918vb8042615

    Orchid Thanh Lê sinh trưởng tại Sài Gòn, định cư tại Hoa Kỳ tháng 9 năm 1997. Hiện là Phó Giáo Sư Tiến Sĩ tại Viện Nghiên Cứu Ngôn Ngữ Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Monterey, California, có nhiệm vụ hỗ trợ tiếng Việt cho Văn Phòng Tìm Quân Nhân Mỹ Mất Tích Trong Chiến Tranh Việt Nam.

    Bài viết của cô năm 2014 kể việc cô -do nhân duyên- đã tìm được tên của một binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa tử thương trong một phi vụ hỗn hợp với quân nhân Hoa Kỳ vào thời chiến. Sau đây là bài mới - viết trong nỗi thổn thức của niềm đau tháng tư - kể về buổi lễ ngày 23-5-2015, khi chính phủ Hoa Kỳ chính thức trao huy chương và gắn lại bảng tên cho người chiến sĩ bị mất tên.

    * * *


    Huy Chương Đồng Anh Dũng Bội Tinh kèm chữ V và bảng tên Cố Trung Sĩ Nguyễn Văn Hải gắn vào bảng tưởng niệm (ngày 23 tháng 4 năm 2015)

    Bài viết “Đi Tìm Tên Một Người Vô Danh” của tôi được đăng trên Việt Báo Viết Về Nước Mỹ ngày 17 tháng 1 năm 2014. Vài tuần sau tôi thấy có một lời nhắn trong phần độc giả chia sẻ ý kiến: “Xin tác giả liên lạc với diemtan@hotmail.com để biết về người chiến sĩ hữu danh này và nơi an táng.”

    Câu chuyện tôi kể mang đến kết cuộc tìm được tên của người chiến sĩ Không Quân/ Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong một phi vụ hỗn hợp với phía Mỹ. Lúc đó lòng tôi dạt dào cảm xúc khi được biết thêm thông tin liên quan. Tôi gõ nhanh trên bàn phím máy vi tính vài dòng liên lạc “Dạ, có phải chăng người nhận thư này là thân nhân của Trung sĩ Nguyễn Văn Hải? Nếu vậy thì đó là điều tôi đang cố gắng tìm kiếm để hoàn tất thủ tục đặt tên anh vào bảng tưởng niệm và truy nhận huy chương...”

    Buổi trưa cùng ngày, tôi nhận thư trả lời “Tôi tên là Nguyễn Viết Tân. Nếu cô đã từng đọc các tác giả Viết Về Nước Mỹ thì chắc có biết cái tên này.”

    Nào có xa lạ gì! Người trả lời thư cho tôi là một tên tuổi thân quen của độc giả Việt Báo. Tôi thích lối viết mộc mạc của ông trong các bài viết. Suốt buổi chiều còn lại ngày hôm đó, tôi chỉ mong hết giờ làm việc để về nhà. Tôi gọi điện thoại cho tác giả Nguyễn Viết Tân và chuyện trò với ông khoảng ba tiếng đồng hồ.

    - Tôi là bạn cùng khoá 5/69 Cơ Khí Phi Hành với Hải, sau này tôi đậu tú tài rồi mới đi khác ngành.

    - Dạ, ra là vậy.

    - Hải đóng quân ở Biên Hoà, còn tôi ra đơn vị tuốt ngoài Đà Nẵng nên không biết nhiều về Hải, cho đến khi đọc bài của cô, thì chuyển cho chiên hữu cùng khoá còn ở Việt Nam.

    - Thật là một sự trùng hợp may mắn, chú Tân ạ.

    Qua thông tin ban đầu từ chiến hữu cùng khóa với tác giả Nguyễn Viết Tân, tôi được biết chị em của Trung sĩ Hải vẫn còn ở lại trong nước.

    Chúng tôi bàn đến khả năng liệu thân nhân có đủ khả năng tài chính cho một chuyến đi sang Mỹ để đại diện gia đình nhận lại huy chương truy tặng. Tác giả Nguyễn Viết Tân rất nhiệt tình, cho tôi biết sẽ bảo trợ chỗ ở cho người thân trong gia đình Trung sĩ Hải và đồng thời vận động bên Hội Không Quân yểm trợ vé máy bay. Tôi thầm cám ơn lòng hào hiệp của vị Mạnh Thường Quân này.

    Nhưng chỉ vài hôm sau, thông tin được cập nhật thêm rằng một số anh em của Trung sĩ Hải đang định cư ở nước ngoài. Lần này, tác giả Nguyễn Viết Tân và tôi hơi phân vân, không rõ các anh em của Trung sĩ Hải còn tha thiết xúc tiến thủ tục gắn tên vào bảng tưởng niệm và xin truy nhận huy chương cho người thân của họ hay là e ngại chính quyền trong nước gây rắc rối cho các thân nhân còn ở lại? Tuy còn vài nghi vấn chưa được xác quyết, tác giả Nguyễn Viết Tân và tôi cùng đi đến kết luận là hỗ trợ nhau để kết cuộc mỹ mãn. Ông hứa:

    - Nếu thành công trong việc truy tặng huy chương cho anh Hải, tôi sẽ thông báo trên Đặc San Không Quân và trang Hội Quán Phi Dũng để các cựu Không Quân tham dự cho đông.

    Quý thay tình đồng đội!

    Thêm một may mắn khác, đó là Việt Báo sốt sắng hỗ trợ tôi qua phương tiện truyền thông. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, cô Thảo từ Việt Báo nhắn:

    - Chú Nguyễn Văn Trọng, anh ruột của Trung sĩ Nguyễn Văn Hải, muốn liên lạc với chị để cung cấp thêm chi tiết. Chị có thể liên lạc gấp với chú Trọng được không ạ?

    Tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Đương nhiên là tôi liên lạc với ông Trọng không chút đắn đo. Có lẽ người nhà của Trung sĩ Hải bên Việt Nam nhận tin từ chiến hữu cùng khóa với tác giả Nguyễn Viết Tân nên đã nhắn tin cho người thân bên Mỹ của họ là ông Trọng để liên hệ với Việt Báo chăng? Quả là thông tin được truyền đạt nhanh trong thời buổi này. Tuy nhiên, điều võ đoán của tôi không đúng. Sau đó có dịp, tôi hỏi lại ông Trọng bằng cách nào ông biết thông tin liên quan đến em trai của ông thì được ông cho biết:

    - Bà xã tôi là người thích đọc sách báo. Việt Báo là món ăn tinh thần của bà. Trước tết Giáp Ngọ 2014, bài viết của cô được đăng trên nhật báo và đặc san xuân, bà xã tôi nhận ra điều cô viết liên quan đến em Hải.

    Ông Trọng hiện đang cư ngụ tại thành phố Anaheim, California. Ông cho biết thân sinh ông có tất cả 14 người con, dưới Trung sĩ Hải còn bốn em nữa. Ngày gia đình nhận tin dữ, ông cụ thân sinh cùng hai anh trai của Trung sĩ Hải xuống Biên Hòa nhận xác. Tang lễ xong, bà cụ thân sinh cùng ông Trọng và hai em trai của ông đến gặp Ban Quân Sự Bốn Bên để phản đối sự vi phạm Hiệp Định Paris từ phía Cộng Sản.

    Chợt nhớ tác giả Nguyễn Viết Tân đã cho biết nơi chôn cất Trung sĩ Hải, tôi bèn hỏi ông Trọng:

    - Thưa chú, tại sao gia đình chọn chôn Trung sĩ Hải ở nghĩa trang Bắc Việt thay vì tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa?

    - Tôi không được rõ, đây là quyết định của ông bà thân sinh tôi. Ông bà cụ tôi gốc Bắc vô Nam đã lâu, các anh chị em tôi đều sinh trong Nam. Hơn nữa, ông cụ tôi có phần đất ở đó. Nếu cô hỏi những người đang độ tuổi chín mươi mà có thân nhân đã chôn ở nghĩa trang này, có lẽ họ đều biết ông Nguyễn Văn Hồ là ông cụ thân sinh tôi lúc đó đang làm thủ quỹ của Hội Tương Tế Nghĩa Trang Bắc Việt.

    - Nhưng sau năm 1975, nghĩa trang này bị giải tỏa.

    - Cô nhớ chính xác, gia đình tôi phải chuyển hài cốt của Hải vào chùa cho em yên phận sớm hôm nghe kinh kệ.

    Lẽ thường tình cuộc đời con người ta ràng buộc bởi một chữ “phận” đó chăng? Cuộc đời chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Hải cũng không là ngoại lệ.

    Số phận định đoạt anh làm người con đất Việt trong thời buổi chiến tranh.

    Bổn phận hun đúc chí trai anh đền đáp nợ nước.

    Duyên phận của anh cũng không thoát nổi vòng tục lụy. Theo ông Trọng kể lại, em trai ông, chiến sĩ Nguyễn Văn Hải, đã báo trước với gia đình rằng Giáng Sinh năm đó anh sẽ đưa bạn gái về ra mắt gia đình. Anh cũng hẹn với cô rằng xong phi vụ anh sẽ trở về đón cô đi chơi. Buổi chiều hẹn về gặp bạn gái, anh nào thực hiện được! Người thân anh bất chợt nhìn thấy chiếc xích lô đạp đưa cô bạn gái chầm chậm qua nhà anh. Bàng hoàng thảng thốt trước tấm ảnh chiến sĩ hy sinh đặt trên chiếc quan tài phủ cờ, cô lặng lẽ dấu mặt. Một cuộc tình thời chiến vấn khăn tang. Trăm năm không có cho nhau. Thôi đành duyên và phận tìm nhau trong thiên thu.

    Chiếc quan tài phủ cờ do 1 đồng đội tháp tùng đứng bồng súng nghiêm cho đến khi di quan đi an táng tại nghĩa trang Bắc Việt, kế Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng Hòa, gần phi trường Tân Sơn Nhất. Chính đồng đội này đã cung cấp và cập nhật thông tin về gia đình Trung sĩ Hải cho tác giả Nguyễn Viết Tân.

    - Gia đình nhận thông tin qua bài viết thì có ý kiến gì không, thưa chú? Tôi hỏi tiếp ông Trọng.

    - Chúng tôi mong cô đại diện gia đình để giúp làm giấy tờ và tôi sẽ gửi đầy đủ hồ sơ đến cho cô.

    - Con không dám hứa hẹn điều gì nhưng sẽ cố gắng hết sức.

    Chưa đầy một tuần sau, ông Trọng gửi qua đường bưu điện cho tôi một phong bì hồ sơ về Trung sĩ Hải: trích lục bộ khai tử, giấy chia buồn của Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên, bưu điệp thượng khẩn để truy thăng cấp bậc và ân thưởng huy chương Quân Công Bội Tinh kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, vân vân. Đặc biệt đính kèm trong hồ sơ là bốn tấm ảnh về anh chiến sĩ mà tôi cố công tìm tên trong một thời gian dài đăng đẳng.

    Đã bao lần tôi nhấc lên đặt xuống từng tấm ảnh để ngắm nhìn. Anh hiện diện trước tôi, không với hình hài cụ thể. Vỏn vẹn vài tấm ảnh làm đậm nét thêm về anh trong sự mường tượng của tôi.

    Một tấm ảnh chân dung anh mặc quân phục, tuổi đời lúc đó trạc đôi mươi.

    Một tấm ảnh anh cao lênh khênh, đứng cuối hàng bên các đồng đội, hậu cảnh là chiếc trực thăng UH1.

    Một tấm ảnh quan tài phủ cờ có đồng đội đứng bên bồng súng chào.

    Một tấm ảnh bà cụ mặc áo dài, vấn tóc trần, răng nhuộm đen, vật vã khóc thương bên mộ phần anh nghi ngút khói hương, ắt hẳn là bà cụ thân sinh anh.

    Cố Trung Sĩ Nguyễn Văn Hải (Ảnh do gia đình cung cấp)
    Tôi trầm lắng trước bộ hồ sơ gia đình Trung sĩ Hải cất giữ từ bao năm qua đã gửi khẩn từ Việt Nam sang cho ông Trọng, để rồi ông chuyển cho tôi với lời gửi gấm trân trọng từ đại gia đình rằng mong được thấy tên người thân của họ trong bảng tưởng niệm.

    Gọi điện thoại báo cho ông Trọng biết tôi đã nhận các chứng từ ông gửi, tôi hỏi thêm:

    - Gia đình cũng muốn truy nhận huy chương đồng Anh Dũng Bội Tinh kèm chữ V mà chính phủ Mỹ ân thưởng Trung sĩ Hải, phải không chú?

    - Thực sự, mong mỏi lớn nhất của chúng tôi là tên của em Hải không còn khuyết danh trong bảng tưởng niệm. Còn nếu được truy nhận huy chương, thì là điều không dám mơ dù muốn lắm, cô à. Chúng tôi thiết nghĩ còn hàng vạn chiến sĩ vô danh bỏ mình nằm xuống mà chỉ có nấm mồ hoặc tấm bia chung, còn em Hải nay được công nhận tên thì đáng mừng rồi.

    Thật là một suy nghĩ khiêm cung. Tôi tự nhủ mình phải tận lực để không phụ lòng gia đình người đã khuất. Tôi phác thảo hai điều cần làm. Trước mắt, tôi phải đôn đốc Văn phòng Tìm Quân Nhân Mỹ Mất Tích tiến hành đặt tên Trung sĩ Hải vào bảng tưởng niệm. Mặt khác, tôi gửi hồ sơ đến văn phòng đại diện của vị dân cử thuộc đơn vị 46 nơi gia đình ông Trọng cư ngụ để yêu cầu giúp làm thủ tục truy nhận huy chương cho gia đình anh.

    Trên nguyên tắc, vấn đề chỉ còn là thời gian xét duyệt. Tuy vậy, chuyện lại hoàn toàn không đơn giản để thực hiện cho dù đã có đủ chứng từ để xúc tiến thủ tục trả lại tên cho người chiến sĩ khuyết danh bỏ mình vì nước Mỹ vào bảng tưởng niệm.

    Từ tháng Chín năm 2012 do nhân duyên mà liên lạc được với Trung úy Lữ Công Tâm, viên phi công lái chiếc trực thăng định mệnh có Trung sĩ Cơ khí Phi hành Nguyễn Văn Hải bị tử nạn, tôi đã trình ngay lên Văn Phòng để hoàn tất hồ sơ, nhưng sự việc vẫn rơi vào im lặng.

    Bản thân tôi đã nhiều lần tự hỏi tại sao Văn Phòng Tìm Quân Nhân Mỹ Mất Tích giờ đây lại trì hoãn việc đặt tên anh vào bảng tưởng niệm dù đã bao nhiêu năm qua họ ra sức tìm kiếm không thành công tên người chiến sĩ khuyết danh Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ mình cho nước Mỹ. Tôi không thể trả lời cho câu hỏi mình đặt ra. Định thần, tôi cố gắng nhớ thật chi tiết về tấm bảng tưởng niệm qua sự mô tả của các sinh viên.

    Đặt tại phòng họp chính của Văn Phòng Tìm Quân Nhân Mỹ Mất Tích ở Washington D.C. là tấm bảng tưởng niệm nhằm vinh danh các chiến sĩ Mỹ và chiến sĩ nước bạn đã bỏ mình trong công tác tìm quân nhân Mỹ mất tích.

    Tổng cộng số quân nhân đã bỏ mình vì nhiệm vụ này gồm 8 quân nhân Mỹ, 1 quân nhân Úc, và 10 quân nhân Việt Nam (gồm cả hai phía Việt Nam Cộng Hòa và phía Cộng Sản tại hai thời điểm khác nhau khi thực hiện sứ mệnh hỗn hợp với phía Mỹ). Tấm bảng khắc ghi thời gian xảy ra biến cố theo tuần tự:

    Năm 2003 một quân nhân Úc tử thương trong tai nạn trực thăng rơi tại Papua New Guinea khi thực hiện phi vụ tìm quân nhân Mỹ mất tích thời chiến tranh thế giới thứ hai;

    Tháng Tư năm 2001, bảy quân nhân Mỹ cùng chín quân nhân phía Cộng Sản Việt Nam bị tử thương trong tai nạn trực thăng rơi trên mỏm núi tỉnh Quảng Bình khi hai bên đang phối hợp tìm phi công Mỹ mất tích thời chiến tranh Việt Nam;

    Ngày 15 tháng 12 năm 1973 phía Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa mỗi bên tổn thất một chiến sĩ vì bị Cộng Sản phục kích trong phi vụ hỗn hợp tìm xác chiếc máy bay F100 bị rơi trước đó. Đại úy Richard Rees bị trọng thương nhưng khi thoát ra khỏi được trực thăng thì cũng không thể sống sót. Trung sĩ Nguyễn Văn Hải chết tại chỗ do đạn pháo B40 bắn trúng.

    Ngẫm cũng đủ oan khiên, thế nhưng Trung sĩ Nguyễn Văn Hải còn bị bức tử lần thứ hai do trực thăng bốc cháy ngay sau đó. Chứng thư tử thương khẳng định trong ngoặc đơn (chết cháy) tại tọa độ XS.665865 trong phi vụ 3550 danh hiệu 32.

    Ngoại trừ tên của chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Hải còn khuyết, tên của những quân nhân hy sinh trong sứ mệnh hỗn hợp với nước Mỹ đều được ghi ơn trong bảng tưởng niệm.

    Thiết tưởng chứng từ đã rõ ràng để Văn Phòng Tìm Quân Nhân Mỹ Mất Tích xúc tiến thủ tục gắn tên Trung sĩ Nguyễn Văn Hải vào bảng tưởng niệm. Cứ mỗi Thứ Ba hàng tuần khi màn hình trong studio bật sáng thì các sinh viên từ Văn Phòng Tìm Quân Nhân Mỹ Mất Tích tuần tự xuất hiện trong các giờ học liên tiếp. Tôi tìm cách nhắc khéo để gợi sự chú ý của từng người trong Văn Phòng về hồ sơ ngày 15 tháng 12 năm 1973. Tôi thất vọng với câu trả lời phũ phàng:

    - Cháu ơi, đây không phải là việc của cháu.

    - Quả đúng, nhưng hẳn bác không quên câu chuyện này được kể đi kể lại không biết bao lần trong lớp học và bác đã tha thiết nhờ cháu giúp sức đó sao?

    Có khi, điều kiện Văn Phòng đặt ra chỉ làm khó thêm:

    - Giá mà tìm được thân nhân của Trung sĩ Hải thì hồ sơ đã giải quyết nhanh và đóng lại rồi. (Thời điểm đó tôi chưa hề có bất kỳ thông tin nào về thân nhân của Trung sĩ Hải.)

    Tuy nhiên, ngay cả khi tôi đã kết nối liên lạc giữa thân nhân của Trung sĩ Hải với Văn Phòng thì lại có thêm nhiều lý do trì hoãn, đại để: sếp mới chuyển đến chưa nắm được vấn đề, hoặc lạc mất chiếc chìa khóa để mở khung kính của bảng tưởng niệm, hoặc nhà thầu nhận khắc kiểu chữ trong tấm bảng tưởng niệm nay đã đóng hoạt động thương mại của họ, vân vân. Những trở ngại trên quả không sai. Nhưng một khi những điều nêu trên được giải quyết thì tại sao sự việc vẫn không tiến hành thêm?

    Tự tìm hiểu, tôi lần biết Văn Phòng không chỉ có một mà đến bốn tấm bảng tưởng niệm. Một trong bốn bảng này được đặt ở Phân Bộ 2, Văn Phòng Đại Diện Tìm Quân Nhân Mỹ Mất Tích tại Hà Nội. Phải chăng là vì sự việc liên quan đến một quân nhân Việt Nam Cộng Hòa có thể gây tổn hại đến quan hệ hiện nay của hai nước Mỹ-Việt đã khiến họ dè dặt chăng? Tôi hoàn toàn không có câu trả lời chính xác. Tôi chỉ có thể mơ hồ cảm nhận mà thôi. Tâm tôi bất định.

    Tôi thấm buồn, lòng tê tái với thân phận người dân một nước nhược tiểu. Tôi cắn đắng với Văn Phòng mỗi khi gặp nhau tại lớp học qua vệ tinh truyền thông:

    - Hãy cho tôi biết còn lý do nào nữa mà các vị trì hoãn thủ tục gắn tên đi.

    - Xin lỗi cô, chúng tôi chỉ là những con cá nhỏ.

    Trong ngôn ngữ Việt những người có ít hoặc không có chút quyền hành được gọi là những con tép riu còn trong tiếng Anh các vị gọi đó là những con cá nhỏ. Giọt nước đã tràn ly.

    - Tôi chỉ muốn sự công bằng. Gạt những khác biệt về quan điểm chính trị qua một bên, các vị hẳn đồng ý với tôi rằng chính phủ Mỹ luôn ghi công bất cứ ai đã hy sinh vì nhiệm vụ cho nước Mỹ chứ? Các vị hẳn còn nhớ phương châm làm việc của Văn Phòng là “Chúng Tôi Không Quên Các Anh” (“You Are Not Forgotten”)? Chẳng thà bao nhiêu năm qua không biết tên người chiến sĩ bỏ mình vì nước Mỹ là chuyện đã đành, mà đến khi biết được rồi thì mục tiêu chính trị vẫn là yếu tố tiên quyết ư?

    Tôi hỏi mà không cần nghe câu trả lời vì tai tôi đã ù, nước mắt đã trào, tôi bấm nhanh vào nút xóa để hình mình không hiện trên màn ảnh trong giây lát.

    - Cô ơi, cô đâu rồi?

    - ..........

    - Cô giận chúng tôi sao?

    Các câu hỏi của họ cũng không nhất thiết phải nhận sự trả lời.

    Đây chỉ là nỗi tuyệt vọng nhất thời. Xét cho cùng, tôi tự nguyện làm việc này chứ nào ai bắt buộc. Tôi hoàn toàn cảm thông với các sinh viên của tôi và không hề chút oán trách. Hiển nhiên là họ có tấm lòng nên mới tỏ bày cùng tôi để rồi từ đó tôi cất công tìm tên anh chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa khuyết danh. Chúng tôi đều hiểu rằng mối quan tâm giải quyết sự việc này không nằm trong tầm ngắm của những nhân vật trọng yếu.

    Hai anh chuyên viên trong Văn Phòng đã từng chia sẻ: “Ngày nào chúng tôi còn làm việc nơi này, chúng tôi vẫn tận tâm tận lực để tên của Trung sĩ Hải được thấy trong bảng tưởng niệm.”

    Còn tôi ư? Tôi khẳng định với họ: “Nỗ lực tìm tên một chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đặt vào bảng tưởng niệm để tên anh lưu lại trong quân sử Hoa Kỳ thời chiến tranh Việt Nam và gia đình anh truy nhận huy chương ân thưởng từ chính phủ Mỹ là điều tâm niệm nằm trong “bucket list” (Tạm dịch: danh sách những điều cần làm trước khi chết) của tôi.”

    Từ đáy lòng tôi biết các sinh viên của tôi có nỗi khổ tâm của họ. Chẳng qua họ cũng như tôi là không có quyền hành trong tay để thực hiện điều mong muốn dù là điều nhỏ nhoi nhưng chính đáng. Riêng bản thân tôi đã cố tình không chấp nhận một điều. Đó là, một khi đã tuyên thệ là công dân và làm việc cho chính phủ sở tại, tôi mặc nhiên phải tuân thủ chính sách của nước đó. Nghĩ đến phận đau của nước mẹ cách mấy đi nữa, tôi cũng đành lực bất tòng tâm. Những con tép riu hay cá nhỏ chỉ có thể lượn lờ nơi khe hẹp lạch nhỏ. Làm sao chúng có thể vẫy vùng như kình ngư nơi biển rộng sông dài?

    Tuy nhiên, tôi không chấp nhận sự việc bị bỏ qua mà không đối đầu với thử thách. Lần mới đây nhất, tôi thảo một thỉnh nguyện thư đến vị chủ nhiệm vừa được bổ đến phụ trách Văn Phòng, trong thư tôi lập đi lập lại “Thưa Ngài, xin Ngài hãy làm điều cần phải làm. Xin Ngài nhớ rằng, chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Hải đã hy sinh cho quyền lợi của nước Mỹ.”

    Không chỉ thủ tục đặt tên vào bảng tưởng niệm mà yêu cầu xin truy nhận huy chương cho Trung sĩ Hải cũng không mấy khả quan. Phía đại gia đình anh càng lúc càng thất vọng và muốn bỏ cuộc. Tôi suy nghĩ rất nhiều và ngẫm rằng có lẽ mình cần phải gõ thêm nhiều cửa. Thế rồi tôi tham khảo ý kiến của Văn Phòng, xin các anh chỉ dẫn cách xin truy nhận huy chương nhằm gõ đúng cửa hơn. Tôi làm lại hồ sơ nhờ Văn Phòng chuyển đến nơi công quyền để yêu cầu xem xét việc truy tặng huy chương cho Trung sĩ Hải.

    Mong đợi. Đợi mong. Mỏi mòn. Mòn mỏi.

    Sau cùng, điều mong mỏi đã đến. Không còn lý do nào để trì hoãn nữa thì điều đúng phải được thực hiện thôi.

    Ở Mỹ, khi một sự kiện vinh danh diễn ra ở thủ đô nơi có đa số cơ quan công quyền trung ương và quốc tế thì không phải là sự kiện nhỏ. Thường thì báo chí, đài truyền hình, đài phát thanh tại địa phương đặt làm tin chính hoặc ít nhất gửi thông báo. Đằng này, sự kiện Chính phủ Mỹ tiến hành đặt tên người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa vào bảng tưởng niệm những quân nhân hy sinh vì nước Mỹ trong sứ mệnh hỗn hợp diễn ra thầm lặng: không thông báo đến các phương tiện truyền thông và không mời bất cứ thành phần dân sự nào, ngoại trừ đại diện gia đình Trung sĩ Hải.

    Bốn mươi năm trước, một ngày tháng tư năm 1975, Bộ Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ ký quân lệnh ân thưởng huy chương cho những đóng góp của các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa trong hợp đoàn máy bay trực thăng UH1 đã tham gia trong phi vụ ngày 15 tháng 12 năm 1973, theo đó tử sĩ Nguyễn Văn Hải được quyết định truy tặng huy chương đồng Anh Dũng Bội Tinh kèm chữ V. Quân lệnh này đã không được thực thi trong lúc tình thế miền Nam Việt Nam đang rối ren cùng cực.

    Bốn mươi năm sau, một ngày tháng tư năm 2015, Chính phủ Hoa Kỳ mới tròn lời hứa.

    Từ nơi làm việc của tôi, căn cứ Ord ngày trước, tôi chăm chú theo dõi buổi lễ diễn ra tại phòng họp chính của Văn Phòng Tìm Quân Nhân Mỹ Mất Tích ở Washington D.C. được tiếp vận qua vệ tinh trung chuyển tại căn cứ Eustis, Virginia.



    Tác giả tham dự buổi lễ được tiếp vận qua vệ tinh trung chuyển tại căn cứ Eustis, Virginia.

    Đại diện cho gia đình là cô Bình, chị gái của Trung sĩ Hải ở Virginia và hai con gái: Bích Thùy cùng chồng là Dũng và hai con trai là Khôi và Khải; và Bích Hạnh cùng chồng là Trung và con trai Duy và con gái Hảo Nhi đã tham dự buổi lễ vinh danh này.

    Chỉ huy buổi lễ vinh danh một hạ sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa bỏ mình cho nước Mỹ là Tướng Phó Đô Đốc Michael T. Franken, hiện giữ chức vụ chủ nhiệm Văn Phòng Tìm Quân Nhân Mỹ Mất Tích. Ông đích thân lần lượt cử hành hai nghi thức quân cách: ông trao miếng khắc tên Trung sĩ Hải cho cô Bình, chị gái của anh, để chính tay cô vặn vít gắn vào bảng tưởng niệm. Rồi ông lại trao Huy chương đồng Anh Dũng Bội Tinh kèm chữ V từ Chính phủ Mỹ đến gia đình. Đồng thời, gia đình Trung sĩ Hải được tặng một bảng tên anh để làm kỷ niệm. Thành kính và đơn giản.


    Cô Bình, chị gái của Trung Sĩ Hải đại diện gia đình nhận huy chương đồng Anh Dũng Bội Tinh kèm chữ V.

    Vị đại diện Văn Phòng gửi đến tôi lời cám ơn của nước Mỹ.

    Thưa rằng tôi không dám nhận lời cám ơn. Tôi đơn thuần mang trách nhiệm của một công dân hỗ trợ Chính phủ Mỹ thực hiện lẽ phải. Từng là công dân một nước Việt Nam Cộng Hòa, bổn phận của tôi là không quên ơn các chiến sĩ.

    Người chiến sĩ bị mất tên 40 năm trước phải được trả lại tên. Tên anh nay đã có lại trong bảng tưởng niệm. Huy chương đã được truy tặng. Từ đây, hy vọng là đại gia đình Cố Trung sĩ Nguyễn Văn Hải được an ủi phần nào.

    23 tháng 4 năm 2015

    Orchid Thanh Lê

    Comment


    • #3
      Giọt Máu Rơi Của Người Lính Chết Trẻ

      Giọt Máu Rơi Của Người Lính Chết Trẻ
      07/12/2014

      Phùng Annie Kim




      Với 14 bài viết trong năm, trong đó có bài "Chú Lính Mỹ" tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bà là một nhà giáo, định cư tại Mỹ theo diện HO năm 1991, hiện là cư dân Westminster, California. Bài viết mới nhất của Phùng Annie Kim là câu chuyện hơn 40 năm sau của chiếc trực thăng U-H1 bị bắn rơi trong cuộc hành quân Hạ Lào năm 1971. Sự việc, khung cảnh chuyện kể là có thật nhưng danh tính nhân vật trong truyện do tác giả hư cấu.

      * * *

      1.
      Bà Tư nằm trăn trở hoài trên chiếc giường nệm thấp. Chăn êm nệm ấm, thân thể mát mẻ, thoải mái mà bà vẫn trằn trọc chưa ngủ được. Với cái tuổi tám mươi này, đôi khi bà hay quên những chuyện lặt vặt vừa mới xảy ra như ăn rồi mà nhất định bảo chưa ăn, chưa uống thuốc mà quyết liệt không chịu uống nữa, chưa đi tắm mà bảo vừa tắm xong.Thế mà sáng nay, có một chuyện bà không quên. Quyền, con trai bà cho biết Sơn, thằng cháu nội bên Minnesota gọi phone về báo tin sẽ về Cali thăm bà vào dịp lễ Giáng sinh.

      Cả ngày nay, bà nôn nóng, cứ đi ra rồi lại đi vào. Bà cầm quyển lịch trong tay đếm từng ngày. Còn hơn một tháng nữa. Sao mà lâu quá! Bà bảo Quyền và Quyên phải dọn cái này, dẹp cái kia, sửa soạn nhà cửa để đón thằng nhỏ.

      Nói đến bộ nhớ và sức khỏe của bà cụ tuổi ngoài tám mươi như bà Tư kể cũng hiếm. Chuyện quá khứ, bà nhớ vanh vách các chuyện gia đình xa xưa thời ông cố bà sơ nào hay những kỷ niệm thuở hàn vi ở Việt nam. Nếu có bà con nào đến chơi gợi nhắc chuyện xưa, bà kể lan man hàng giờ không dứt và không sót chi tiết nào. Bà thuộc kinh Phật làu làu. Tiền để dành đi cúng chùa, bà đếm chính xác và biết sắp xếp thành từng loại. Bà dặn cô con gái may cái túi lớn phía trước trong áo lót, bà cất tiền và gài kỹ bằng nút bấm.Việc di chuyển, bà đi lại chậm chạp nhưng vững vàng không cần đến cây gậy. Ban đêm, bà không cần đánh thức các con, tự đi restroom trong căn phòng lớn gần giường ngủ của bà. Bà ăn chay, tập hít thở, đi bộ đều đặn với Quyền mỗi ngày trong khu townhouse. Bà còn xỏ kim được bằng sợi chỉ trắng. Tai bà còn nghe rõ người khác chuyện trò. Mỗi đêm, bà chỉ chợp mắt vài tiếng đồng hồ. Thì giờ của bà hầu hết là những thời công phu sớm tối trước bàn thờ Phật. Bà tọa thiền, tụng kinh, thì thầm cầu nguyện dưới ngọn đèn vàng trong căn phòng ngủ chung quanh trang trí toàn là hình, tượng Phật.

      Hơn mười năm nay, nhà bà là một cái chùa nhỏ thanh tịnh và yên tĩnh. Bà xuống tóc, tịnh tu tại gia, sống an lạc, mặc các bộ quần áo màu nâu hoặc màu lam. Các con gọi bà bằng "Cô Diệu" thay vì gọi bằng "Má".

      Trong bốn cái cửa "sinh, lão, bệnh, tử" của cuộc đời ai cũng phải trải qua, bà Tư đã vượt qua cái cửa thứ hai và thứ ba một cách nhẹ nhàng. Ai hỏi bà về tuổi già và bệnh tật, bà nói bà chẳng có bệnh gì ngoài bệnh của người già nghĩa là sức khỏe bà một ngày một yếu đi như ngọn đèn dầu, hết dầu thì đèn tắt.

      Còn cái cửa "tử" cuối cùng? Bà đang chuẩn bị đấy thôi. Ngoài tám mươi rồi, bà Tư không mong kéo dài tuổi thọ thêm nữa. Ai hỏi cụ bà sợ chết không, bà lắc đầu nói chỉ sợ bệnh nằm liệt giường khổ cho cái thân già và cho con cháu. Trước đây, bà thường nói với các con bà chuẩn bị sẵn cho chuyến đi cuối đời nhưng từ khi gặp lại thằng cháu nội sau bốn mươi năm trăn trở vì nó, bà như được hồi sinh. Bà vui nên càng ngày trông bà càng khỏe ra. Bà yêu đời và ham sống. Vợ chồng thằng Quyền lấy nhau bốn mươi năm không có con, thằng cháu nội đích tôn lưu lạc này như cục vàng quý đối với bà, mang đến tuổi già của bà cả một mùa xuân.

      Trong đêm khuya, bà Tư nằm nhớ lại cuộc đời khổ cực của bà trong sáu mươi năm từ lúc lấy ông Tư là hạ sĩ quan nghèo cục Quân nhu thuộc bộ Tổng Tham mưu, lương lậu không đủ nuôi bốn đứa con ăn học, cả nhà sống nhờ vào lò bún thủ công của bà. Bà thức khuya dậy sớm làm bún. Ông Tư và các con bà chia phiên nhau vừa đi học, đi làm, vừa chạy Honda bỏ mối bún ở chợ và các quán ăn ở Sài gòn. Thời chiến tranh leo thang, luật tổng động viên ra đời, Quyền bị đổi ra vùng một chiến thuật ngành quân vận. Quang, đứa con trai thứ hai theo anh ra Đà nẵng nộp đơn vào sư đoàn một không quân phục vụ ngành an ninh và phòng thủ phi trường. Đêm đêm, bà mẹ già chỉ biết cầu nguyện cho hai đứa con đi lính xa nhà thoát khỏi cảnh bom đạn trong cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt.

      Được tin trong một chuyến vận chuyển vũ khí, đoàn xe của Quyền rơi vào ổ phục kích của Việt cộng. Quyền bị gẫy nát một chân, được xếp vào loại tàn phế và được giải ngũ. Bà vui mừng vì Quyền vừa thoát được bàn tay tử thần, được chuyển vào Sài gòn cũng là lúc một nỗi lo khác lại đến. Quang tình nguyện chuyển sang ngành tác chiến, trở thành xạ thủ trực thăng của phi đoàn 213. Thời gian này, Quang yêu Phượng, cô y tá nổi tiếng là người đẹp của bệnh viện Đà nẵng. Mối tình này đã đơm hoa kết trái đó là thằng Sơn, cháu nội của bà Tư bây giờ.

      Sáng ngày mười tháng hai năm một chín bảy mốt, trong một phi vụ tại Hạ Lào, gia đình bà được tin chiếc trực thăng U-H1 bị bắn rơi, Quang và phi hành đoàn tổng cộng mười một người đều tử trận, không thể tìm được xác..

      Tin con trai tử nạn một cách thảm khốc, sau đó là nhận giấy báo tử chính thức và tiền tử tuất của Quang, lòng bà mẹ thương con vẫn thầm nuôi niềm hy vọng. Biết đâu chừng thằng Quang còn sống sót và sẽ trở về. Quang là một thằng lanh lợi và thông minh. Biết đâu chừng nó nhảy dù ra khỏi máy bay trước khi máy bay trúng đạn, bốc cháy. Biết đâu chừng nó còn sống và bị bắt làm tù binh tại Lào hoặc bị đưa ra ngoài Bắc. Biết đâu chừng nó chỉ bị thương ở đầu và mất trí nhớ nên sống lang bạt, không tìm được đường về với gia đình. Bà đi tìm người giúp bà câu trả lời. Bà đi xem bói. Ông thầy bói quả quyết thằng Quang còn sống. Số nó đào hoa nếu lấy vợ sớm sẽ có cháu cho bà ẵm bồng. Bà sống, chờ đợi, tin tưởng và hy vọng mỏi mòn với ba chữ "biết đâu chừng"...

      Sau khi mất nước, bà Tư nghe tin đồn có nhiều tù binh Việt Nam Cộng Hòa được chính phủ Hà nội thả về theo quy ước quốc tế về việc trao đổi tù binh. Quyền nói với bà Tư làm gì có chuyện thả tù binh trong khi hàng trăm ngàn sĩ quan, hạ sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, các viên chức chế độ cũ gọi chung là "ngụy quân", "ngụy quyền" bị kẹt lại, phải ra trình diện và bị giam giữ ở các trại tập trung để "học tập cải tạo". Quyền may mắn là hạ sĩ quan đã giải ngũ nên không nằm trong số đó. Nếu không, bà Tư lại phải lê lết trong các khu rừng để thăm nuôi thằng con tù.

      Tin đứa con tử trận chưa làm ráo nước mắt bà mẹ thì hai năm sau ông Tư mất vì tai biến mạch máu não. Thằng Quốc, con trai thứ ba học hành và lớn lên dưới chế độ xã hội chủ nghĩa vừa tốt nghiệp trung học. Năm một chín bảy tám, mặc dù có hai anh đi lính và tử trận dưới chế độ "Mỹ ngụy", nhà nước Cộng sản vẫn bắt con "ngụy" không đủ tiêu chuẩn vào đại học được "ưu tiên" thi hành nghĩa vụ quân sự ở chiến trường Campuchia. Bà khóc hết nước mắt. Bà tính đường lui, trở về quê ở Gò công cho thằng Quốc trốn nghĩa vụ. Nào ngờ mạng lưới công an ở các xã, huyện còn dầy đặc hơn thành phố. Bà bị công an địa phương bắt giam trong trại tù cải tạo lao động thời hạn hai năm vì tội không thi hành luật pháp và cố tình bao che cho tội phạm.

      Nếu bị ở tù để cho thằng con không phải đi lính, bà Tư sẵn sàng hy sinh cái mạng già để cứu con. Nào ngờ bọn chúng, một mặt bắt giam bà đi lao động, một mặt ruồng bắt Quốc và làm áp lực để Quốc ra trình diện. Thời đó, cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước Cộng sản Việt nam và Campuchia được sự hậu thuẫn của Trung Quốc càng ngày càng ác liệt. Thằng nhỏ mười tám tuổi vừa tốt nghiệp trung học, không biết gì về súng ống trận mạc, không biết gì về chiến tranh, không có chút lý tưởng gì về tổ quốc, niềm mơ ước duy nhất của nó là được vào đại học thất bại, bà mẹ đang ở tù, Quốc chấp nhận trình diện, lên đường ra trận để bà mẹ già được tha về sớm.

      Một năm sau, Long, người đồng đội của Quốc bị thương về phép, kể lại cho gia đình bà Tư về cái chết của Quốc. Trong một chuyến vượt sông Mekong qua ngả Neak Luang phía bắc tỉnh Kompong Cham, chưa kịp tiến vào Phnom Penh, trước khi được tiếp viện, sư đoàn 7 của Quốc đã đụng độ một trận lớn với quân Kmer Đỏ. Toàn bộ sư đoàn bị tiêu diệt chỉ còn sống sót một người là Long. Thi thể Quốc và cả sư đoàn được chôn cất ở nghĩa trang liệt sĩ Tây Ninh. Ít lâu sau, giấy báo tử gửi về. Cuối năm giấy chứng nhận là gia đình liệt sĩ đến tay bà. Bà Tư được ủy ban nhân dân truy tặng là "mẹ chiến sĩ", "mẹ anh hùng".

      Hàng năm, vào những ngày lễ thương binh liệt sĩ, cán bộ của ủy ban nhân dân đến thăm hỏi, tặng quà và khen thưởng những gia đình liệt sĩ như bà. Bà treo cái khung gỗ có lộng tờ giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ hình cờ đỏ sao vàng trên tường. Ít hôm sau, bà lấy xuống, cất vào ngăn tủ. Cứ như thế cho đến ngày bà qua Mỹ.

      Cuộc đời bà Tư là một chuỗi dài những giọt nước mắt vì mất mát. Bà chỉ là một bà mẹ Việt nam bình thường, nghèo khổ, ít học. Bà không biết gì về các từ ngữ chính trị dao to búa lớn như lý tưởng, tổ quốc, ý thức hệ, cộng sản, tư bản, cộng hòa xã hội chủ nghĩa, độc lập, tự do, hạnh phúc, liệt sĩ, anh hùng, hy sinh... Bà chỉ là một bà mẹ thương con, một nạn nhân chịu nhiều nỗi đau thương trong chiến tranh. Chiến tranh đã làm một đứa con bà bị tàn phế, tật nguyền. Chiến tranh cướp mất hai đứa con bà, một đứa gửi nắm xương tàn trên chiến trường Hạ Lào xa xôi còn một đứa được vinh danh là liệt sĩ.

      Trước khi đi Mỹ, Long đưa gia đình bà đã đến nghĩa trang liệt sĩ ở Tây Ninh thăm mộ Quốc. Cơn mưa làm cho con đường đi vào nghĩa trang lầy lội, ướt át. Mộ Quốc và năm người đồng đội nằm ngay gần lối đi, xây quanh nhau thành một vòng tròn, chính giữa là một bồn hoa. Trước cái chết, mọi người đều bình đẳng. Hàng ngàn những ngôi mộ thấp, mộ bia màu trắng, xây cùng một kiểu. Dòng chữ màu vàng khắc trên mộ bia "Nơi an nghỉ của liệt sĩ Trần Hưng Quốc, hai mươi tuổi, sinh ngày hai mươi tháng ba năm một chín năm mươi tám, hy sinh tại chiến trường Campuchia".

      Năm một ngàn chín trăm tám mươi chín, Quyền may mắn được gia đình bên vợ bảo lãnh qua Mỹ. Năm năm sau, Quyền bảo lãnh cho bà Tư và Quyên. Quyền muốn bốc mộ Quốc đem tro cốt qua Mỹ nhưng bà Tư lắc đầu:

      -Thôi con ơi, thằng Quốc đã nằm xuống nơi mảnh đất Tây Ninh này. Hãy để nó yên nghỉ ở quê hương với đồng đội của nó. Không mang tro cốt nó theo nhưng nó vẫn gần Cô trong những câu kinh tiếng kệ hàng ngày.

      Rồi bà ngậm ngùi:

      - Cô chỉ còn một nỗi ray rứt về số phận thằng Quang ở Hạ Lào. Không một dấu tích gì về chiếc máy bay trực thăng bị bắn rớt thì làm sao biết được. Không chừng nó còn sống, không chừng gì đắp cho nó một nấm mộ.

      2.
      Sau một tai nạn xe hơi, chân bên trái bị bó bột làm Phượng đi lại khó khăn phải dùng cây nạng gỗ. Mỗi ngày có một cô "care giver" đến chăm sóc sức khỏe cho Phượng, giúp Phượng ăn uống, tắm rửa, dọn dẹp nhà cửa. Một cô khác đến làm vật lý trị liệu cho cái chân bên phải đã hồi phục dần. Căn nhà bây giờ vắng vẻ chỉ có hai mẹ con. Chị Phương đã dọn về Cali từ lâu. Bà mẹ Phượng mất đã năm năm. Ông Daniel mất năm ngoái. Thằng Sơn ly dị vợ, về ở với Phượng. Nó bận bịu suốt ngày trong bệnh viện. Năm ngoái, lễ Thankgivings hai mẹ con về thăm bà Tư. Năm nay, chân đau, không về được, Phượng nhắc con nhớ lấy phép nghỉ về Cali thăm bà nội vào dịp lễ Giáng sinh. Bà nội già yếu rồi. Bà sống không còn bao nhiêu năm nữa.

      Từ ngày tìm được tông tích của người cha quá cố, thằng Sơn gắn bó với gia đình bên nội. Vào những ngày nghỉ, Sơn gọi về thăm bà nội, hai bà cháu nói chuyện rất lâu, có khi cả tiếng đồng hồ. Nó nói tiếng Việt giỏi nhờ sống gần bà ngoại từ bé.

      Phượng hồi tưởng lại bốn mươi năm trôi qua, ngày đó cả hai đều rất trẻ. Phượng hơn Quang hai tuổi, là y tá ở bệnh viện Đà nẵng, gặp Quang trong một buổi tiệc của sư đoàn hai không quân tổ chức tại câu lạc bộ trong phi trường. Trai tài gái sắc gặp nhau. Quang vừa đẹp trai lại tài hoa, biết chơi đàn guitar, hát rất hay những bản nhạc về lính của nhạc sĩ Nhật Trường. Hai đứa dự định sẽ làm một cái đám cưới đơn giản. Quang sẽ lấy thời gian nghỉ phép đưa Phượng vào Sài Gòn ra mắt gia đình Quang. Thời gian đó Quang bận đi học khóa bắn súng và trở thành người xạ thủ gan lì và dũng mãnh của không đoàn 41, phi đòan 213. Những cuộc hẹn hò ở bến sông Hàn, những cuộc đi chơi xa ở đồi Bà Nà, chùa Non Nước, bảo tàng Chàm ở Mỹ Sơn...đưa đến kết quả là Phượng có thai.

      Phượng chưa kịp báo tin mừng cho Quang thì một hôm, người bạn trong phi đoàn của Quang đến cho hay cuộc hành quân 719 Lam Sơn tại Hạ Lào ngày mười tháng hai năm một ngàn chín trăm bảy mốt, chiếc trực thăng U-H1 Huey bị bắn rơi. Tất cả những người có mặt trong chuyến bay gồm hai vị sĩ quan cấp tá, hai phi công, ba phóng viên Mỹ, một phóng viên Nhật, một phóng viên người Việt, hai nhân viên phi hành đoàn trong đó có trung sĩ thiện xạ Trần Vinh Quang, tất cả mười một người đều tử trận.

      Tin đến như một cú sét đánh. Đất trời như nổ tung trước mắt Phượng. Phượng chỉ biết khóc và khóc. Phượng ôm cái bụng bầu ba tháng. Không có một tờ hôn thú. Không có một liên hệ hay tin tức gì liên quan với gia đình Quang ở Sài gòn. Quang chết thật bất ngờ. Quang chết ở lứa tuổi đôi mươi. Quang chết không để lại một dấu tích gì ngay cả một hạt bụi. Phượng chỉ còn giữ lại những kỷ niệm đẹp của một thời yêu nhau còn lưu lại trong ký ức và qua những bức hình hẹn hò xưa cũ.

      Có lúc đau khổ và tuyệt vọng quá, Phượng nghĩ mình không còn sức để giữ cái thai, "giọt máu rơi của người lính chết trẻ". Quang đi qua cuộc đời Phượng như một cơn gió thoảng. Có lúc Phượng muốn chết theo Quang nhưng nghĩ đến một sinh vật bé nhỏ đang lớn dần từng ngày trong bụng mình, Phượng không có quyền từ chối trách nhiệm làm mẹ với nó. Có lúc Phượng muốn bỏ cái thai vì dư luận xã hội, vì tương lai của người mẹ trẻ nhưng đứa bé kia có tội tình gì. Nó là mật ngọt của hương vị tình yêu đã đơm hoa kết trái. Phượng phải sống để thay Quang bù đắp cho đứa trẻ mồ côi mất tình thương cha. Phượng phải sống, sống để nuôi con, vì con.

      Phương làm đơn xin nghỉ việc, ở nhà nghỉ ngơi, dưỡng thai chờ đến ngày sinh nở. Kinh tế gia đình trông mong vào cửa hàng bán thực phẩm lấy từ các PX Mỹ của chị Phương. Chuyện sinh nở và chăm sóc bé đã có bà ngoại. Thằng Sơn ra đời trong sự thương yêu, đùm bọc của mẹ, bà ngoại và dì Phương. Sơn khỏe mạnh, dễ nuôi, càng lớn nó càng giống Quang. Phượng đặt tên nó là Trần Mỹ Sơn, tên vùng đất lịch sử của người Chàm, một thắng cảnh du lịch ở Đà Nẵng, kỷ niệm một chuyến du lịch ba ngày phép với Quang và cũng là nơi thằng Sơn tượng hình trong bụng Phượng.

      Thằng Sơn lẩm chẩm biết đi cũng là lúc Phượng phải gửi con cho bà ngoại để đi làm phụ với chị Phương nuôi thằng Sơn. Với vốn liếng sinh ngữ khá và nghề y tá trước đây, Phượng được người quen giới thiệu vào làm tại bệnh viện Hải Quân Mỹ chuyên chữa cho các thương binh Mỹ từ chiến trường chuyển về.

      Những ngày đầu tiên chứng kiến những chiếc trực thăng đậu ở sân trước bệnh viện, những nhân viên tải thương vội vã chuyển những chiếc cáng phủ lá cờ Mỹ từ trên trực thăng xuống, những người lính Mỹ giơ tay chào vĩnh biệt, Phượng không cầm được nước mắt. Phượng khóc cho ai, Phượng hay cho những người vợ, những ông bố, bà mẹ ở bên kia bờ đại dương một ngày nào đó sẽ nhận những chiếc quan tài phủ lá cờ Mỹ?

      Còn Quang, người chồng chưa cưới của Phượng, có "hạt bụi nào..." hay chiếc "...hòm gỗ cài hoa" nào cho anh?

      Phượng quen dần với công việc của người y tá lúc nào cũng bận rộn và căng thẳng trong bệnh viện. Là một y tá giỏi, siêng năng, chịu khó học hỏi, Phượng có thêm những đức tính cần thiết đó là sự ân cần, kiên nhẫn và dịu dàng với bệnh nhân. Phượng được bác sĩ Daniel trưởng khoa mổ đặc biệt lưu ý và chấp thuận cho Phượng là y tá phụ trong ê kíp mổ của ông. Có những ca mổ kéo dài đến khuya hoặc những ca trực đêm, Phượng có dịp kể cho ông nghe về cuộc đời bất hạnh của mình. Phượng biết thêm về đời tư của vị bác sĩ ít nói này. Ông lớn hơn Phượng mười hai tuổi, là bác sĩ giỏi trong ngành hải quân, vợ và đứa con gái chết vì tai nạn xe hơi, ông tình nguyện sang Việt nam công tác. Sang năm ông sẽ về Mỹ vì hết hợp đồng. Với chính sách "Việt nam hóa chiến tranh" và Hiệp Định Paris sắp ký kết, người Mỹ đang chuẩn bị rút dần về nước.

      Vào một đêm trực chỉ có vài người y tá, Daniel cùng có mặt, Phượng đã suýt bật khóc vì cảm động trước lời cầu hôn bất ngờ của Daniel. Vị bác sĩ này thố lộ đã để ý đến cô y tá người Việt nam xinh đẹp và hiền hòa này trong những ca mổ. Ông tình cờ chứng kiến hình ảnh Phượng chăm sóc những người thương binh làm ông xúc động. Ông nói không phải chỉ là hoàn thành công việc mà thôi, Phượng đến với các bệnh nhân bằng tất cả trái tim của mình. Cô chia sẻ nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần của họ trong từng mũi kim nhẹ nhàng, từng viên thuốc khó uống, từng lời nói an ủi dịu dàng, từng cử chỉ vỗ về, dỗ dành. Những người thương binh Mỹ trong bệnh viện Hải Quân này đều quý mến cô y tá người Việt có cái tên Mỹ Sophie dễ thương này. Họ chưa hiểu hết cảnh đời của Phượng. Chồng Phượng cũng là lính. Cô thương những người lính như thương Quang, thương bản thân và thương cuộc đời bất hạnh của mình.

      Phượng chấp nhận lời cầu hôn của Daniel với một điều kiện Daniel bảo lãnh bà mẹ, chị Phương và bé Sơn cùng sang Mỹ. Căn nhà lớn năm phòng ở đường North Smith, Minnesota là tổ ấm của gia đình Phượng. Chị Phương vừa đi học vừa đi làm một thời gian, sau đó chị dọn về Cali mở một tiệm ăn với người yêu cũ. Phượng đi học lại. Bà mẹ ở nhà nội trợ trông nom nhà cửa, chăm sóc Sơn. Daniel làm việc ở United Hospital gần nhà. Bé Sơn càng lớn càng quấn quít Daniel. Suốt ngày Sơn đeo theo ông bố dượng vui tính. Daniel rất thương thằng con nuôi học giỏi và lễ phép. Theo gương học tập và chỉ dạy của ông bố dượng, Sơn học ngành y, sau này trở thành bác sĩ Shawn Tran chuyên khoa mổ tim ở St John s Hospital. Bốn mươi năm trôi qua, cái chết thảm khốc của Quang và niềm đau nỗi khổ của Phượng dần dần phôi pha theo thời gian nhờ vào tình yêu, sự bao dung và lòng tử tế của người chồng Mỹ tốt bụng đã cưu mang gia đình Phượng, mang đến cho Phượng một cuộc sống mới, êm đềm và hạnh phúc.

      Một ngày, Phượng nhận được cú phone bất ngờ của chị Phương. Bên kia đầu dây, giọng chị lanh lảnh:

      - Phượng ơi, tao nói chuyện này mầy bình tĩnh nghe đừng có xỉu nghen. Tao vừa đọc báo. Có người viết về cái chết của thằng Quang chồng mày hồi xửa hồi xưa. Có tấm hình thằng Quang chụp hồi còn trẻ. Mày tin không, má thằng Quang còn sống. Gia đình thằng Quang qua Mỹ ở khu Việt nam gần tiệm của tao. Bài báo kể người ta đào được xác chiếc máy bay rớt và hốt cốt mang về để ở viện bảo tàng nào đó trên Washington D. C.Chuyện dài dòng lắm. Tao ra bưu điện gửi cho mầy bài báo này liền. Overnight mai mầy nhận được. Bình tĩnh nghen mậy. Chuyện đâu còn đó. Khoan nói cho thằng Sơn biết. Mầy đọc báo xong rồi mình tính.

      Suốt đêm qua Phượng mất ngủ, mong cho trời mau sáng để nhận thư tốc hành của bưu điện. Người đưa thư trao bì thư hình con én màu xanh và yêu cầu Phượng ký tên.Tay Phượng run run khi cầm cây viết.Cầm tờ báo trong tay, Phượng lật tới, lật lui, tìm mãi mới thấy cột báo. Tấm hình Quang hồi hai mươi tuổi, nét mặt đẹp trai, nghiêm nghị, ánh mắt buồn xa xôi, oai vệ trong bộ treillis, túi áo trái có in tên "Quang" màu trắng. Bài báo viết chi tiết về chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, về bà mẹ chồng Phượng chưa hề gặp mặt và một chi tiết quan trọng là viện bảo tàng Newseum ở Washington D. C hiện nay đang lưu trữ hài cốt của những người tử nạn.

      Phượng nói với Shawn Phượng về Cali thăm dì Phương. Hai chị em đến tòa soạn gặp người phóng viên và xin địa chỉ nhà má Quang. Cuộc gặp gỡ đầu tiên, cả nhà bà Tư nhìn Phượng với cặp mắt tò mò, xa lạ và nghi ngờ. Bà Tư, vợ chồng Quyền và Quyên không tin có chuyện một người phụ nữ, hơn bốn mươi năm đến gia đình bà tự nhận là vợ của Quang. Họ không tin Quang có một đứa con trai ngoài bốn mươi tuổi. Họ không tin bốn mươi năm trôi qua trên đất nước Mỹ này lại có cuộc gặp gỡ ly kỳ ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Khi Phượng đem tất cả hình ảnh của Quang và Phượng chụp hồi còn trẻ ở Đà nẵng, hình thằng Sơn hồi còn nhỏ cho đến khi tốt nghiệp ra trường đậu bằng bác sĩ, nhất là tấm hình Quyền cung cấp cho người phóng viên đăng trên báo so với tấm hình ố vàng Phượng cầm trong tay là một, bà Tư bật khóc nức nở như một đứa trẻ. Xúc động, mừng vui, hạnh phúc dâng trào trong lòng bà mẹ già vào cuối đời. Từ đó, Phượng thường xuyên gọi điện thoại về Cali thăm bà. Tháng sau, Phượng dẫn Shawn về giới thiệu thằng cháu đích tôn của dòng họ Trần. Năm ngoái hai mẹ con về Cali. Năm nay, thằng Shawn về một mình thăm bà nội

      3.
      Sau đây là lời kể chuyện của nhân vật chính Trần Mỹ Sơn.

      Tôi tên là Shawn Tran. Daddy đặt tên "Shawn" có nghĩa là "God is gracious ". Daddy nói tôi là ân sủng của Chúa mang đến cho Daddy. "Shawn" nghe giống như tên "Sơn", Trần Mỹ Sơn. Ngoại nói "Mỹ" có nghĩa là đẹp, "Sơn"có nghĩa là ngọn núi. Tên tôi là một ngọn núi đẹp. Mẹ nói Daddy chỉ là cha nuôi, cha ruột của tôi mất từ khi tôi còn trong bụng mẹ. Daddy đưa mẹ, bà ngoại, dì Phương và tôi qua Mỹ. Họ nuôi tôi khôn lớn. Tôi theo học nghề bác sĩ mổ tim của Daddy. Cả nhà ai cũng muốn tôi học nghề này để sau này chữa tim cho mọi người.

      Sau chuyến đi Cali thăm dì Phương, mẹ kể rằng mẹ đã gặp gia đình bà nội ở Cali qua một tờ báo Việt ngữ. Trong chương trình POW (prisoners of war) và MIA (missing in action) tìm hài cốt của những người Mỹ mất tích thời chiến tranh Việt nam, họ đã tìm được những dấu tích về cái chết của ba tôi. Hiện nay, chúng được lưu giữ ở Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington D.C. Mẹ đọc bài báo cho tôi nghe. Dù mẹ chưa nói, qua ánh mắt của mẹ, tôi hiểu rằng tôi phải đi một chuyến về Cali với mẹ, đến thăm bà nội, người đàn bà đã khóc nhiều về cái chết của ba tôi.

      Từ Cali về, tôi tìm đọc những tài liệu về POW, MIA, những bài viết của các ký giả trong chuyến đào bới tìm dấu tích của chiếc trực thăng lâm nạn, về chiến tranh, cuộc hành quân Lam sơn nhất là về buổi lễ tưởng niệm và vinh danh những người bị mất tích tổ chức ngày mười tháng tám năm hai ngàn mười ở viện Bảo Tàng Newseum.

      Bài viết của ký giả Richard Pyle viết về buổi lễ và những người tham dự. Họ là ai? Là những người mẹ, những người vợ, những đứa con đến từ Việt nam, Canada xa xôi, tay cầm những tấm "plaque", đầm đìa những giọt nước mắt khi ban tổ chức nhắc đến tên tuổi và vinh danh những người thân của họ đã hy sinh. Xạ thủ Trần Vinh Quang không được nhắc đến. Gia đình bà nội, mẹ tôi và tôi không được mời đến. Ban tổ chức buổi tưởng niệm này đâu biết rằng sau bốn mươi năm, gia đình trung sĩ xạ thủ Trần Vinh Quang đang sống ở nước Mỹ? Và tôi, đứa con rơi của xạ thủ Trần Vinh Quang là một công dân Mỹ, tìm được tông tích của bà nội và ba tôi năm ngoái trong một bài báo Việt ngữ ở cộng đồng người Việt ?

      Sau khi thăm bà nội ở Cali, tôi đã đến thăm Viện Bảo Tàng Newseum ở Washington D. C. Trong chuyến bay bị bắn rơi ở Hạ Lào, có ba người ký giả Mỹ và một người Nhật. Tôi đã đọc thấy tên tuổi và hình ảnh họ được gắn trên bức tường kính gọi là "Journalists Memorial Wall 1971 Vietnam War". Viện bảo tàng này là nơi lưu giữ những chứng tích và vinh danh những ký giả Mỹ và những ký giả quốc tế đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ. Điều gì đã khiến họ lao vào cái nghề nguy hiểm này? Sự đam mê nghề nghiệp, sự khao khát muốn ghi nhận những tin tức mới, nóng hổi nhất, trung thực nhất. Họ muốn những có "big shot" là những tấm hình ý nghĩa, độc đáo, đầy ấn tượng về sự tàn khốc của chiến tranh gửi đến những người ở sau mặt trận. Viện bảo tàng Newseum đã làm công việc đầy tính nhân đạo khi vinh danh những người chiến sĩ không mang súng gan dạ và thầm lặng này.

      Nhắc đến bà nội, tôi mê những câu chuyện bà kể về ba tôi. Bà có tài kể chuyện sống động, chi tiết và hấp dẫn. Tôi không ngờ bà nhớ nhiều kỷ niệm về ba tôi đến thế. Hình như trong ba người con trai, ba tôi là đứa con cứng đầu và làm cho bà khóc nhiều nhất nhưng cũng là đứa con bà thương nhất. Ba tình nguyện chuyển ngành an ninh sang học bắn súng để ra tác chiến ngoài mặt trận đối với bà là một sự chọn lựa kinh khủng và ngu xuẩn làm bà đau lòng. Bà không muốn mất con.

      Điều gì khiến ba tôi chọn lựa giữa công việc an ninh nhàn nhã ở hậu phương với đời lính gian khổ đầy hiểm nguy ngoài mặt trận? Lý tưởng? Tổ quốc ? Hay cả hai? Lần đầu tiên đi với mẹ về Cali gặp bà nội, bà đã cho tôi nguồn cảm hứng muốn tìm hiểu về ba,về cái chết của ba, về cuộc chiến tranh trên quê hương mà bấy lâu nay tôi hững hờ, quên lãng. Tôi lớn lên ở xứ Mỹ. Tôi không có quá khứ. Tương lai của tôi là những dự tính và ước mơ.

      Tôi sinh ra tại Đà nẵng, vùng đất của quê ngoại, trên bản đồ quân sự thuộc vùng một chiến thuật. Cuộc chiến bắt đầu từ năm một chín năm mươi lăm đến một chín bảy lăm. Năm một chín bảy mốt là năm ba tôi mất, lúc đó tôi còn trong bụng mẹ được ba tháng tuổi. Thật là trễ tràng làm sao! Hơn bốn mươi năm trôi qua, bây giờ tôi mới có dịp tìm hiểu về chiến tranh ở đất nước tôi và biết đây là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai thế lực, hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản kéo dài hai mươi năm. Ở miền nam, Mỹ và phe Đồng Minh ủng hộ chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Bên kia dòng sông Bến Hải, Liện Xô và Trung quốc ủng hộ hai phe, tuy hai mà là một: Cộng sản Bắc Việt và tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

      Trải qua nhiều giai đoạn, cuộc chiến tranh này có những cái tên như là "chiến tranh đặc biệt" (1960-1965) "chiến tranh cục bộ" (1965-1968) "Việt nam hóa chiến tranh" (1969-1972). Ngày ba mươi tháng tư năm một chín bảy lăm là ngày cuộc chiến tranh chấm dứt. Toàn bộ miền Nam rơi vào tay Cộng sản.

      "Việt nam hóa chiến tranh" có thể hiểu đây là cuộc chiến của người Việt nam.Có người nói người Mỹ đã bỏ rơi miền Nam và đồng minh. Họ rút lui, không chủ động tham gia cuộc chiến bằng nhân sự. Họ chỉ viện trợ vũ khí. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải tự lực chiến đấu. Theo lời mẹ kể, với lý tưởng chiến đấu quyết bảo vệ miền Nam và lòng yêu nước chân thành, ba tôi tình nguyện lao vào cuộc chiến đầy hiểm nguy này và biết rằng sự ra đi không hẹn ngày về.

      Vào thời điểm đó, Cộng sản miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chuyển mục tiêu sang chiến trường Lào và Cam puchia, xây dựng căn cứ địa làm bàn đạp tấn công miền Nam. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu vào ngày tám tháng hai năm một chín bảy mốt. Hai ngày sau, chiếc máy bay trực thăng H- U1 Huey không phải là trực thăng chiến đấu hay trực thăng võ trang có bọc thép tốt và chống đạn xe tăng. Đây chỉ là loại trực thăng vận tải vỏ thép mỏng, võ trang yếu, chở các phóng viên và các cấp chỉ huy đi thị sát chiến trường. Trong chuyến bay có mười một người, ba tôi là tay súng giỏi nhưng bất ngờ lọt vào mạng lưới phòng không mạnh và dầy đặc của địch, lại thêm sương mù, chiếc trực thăng trúng đạn và bốc cháy.

      Năm 1992, những người trong chương trình POW và MIA có nhiệm vụ tìm kiếm những người Mỹ mất tích đã đến Hạ Lào nơi chiếc trực thăng rớt. Năm 1994, họ tiếp tục công việc đào bới. Cùng với một số tin tức được cung cấp từ những bạn đồng đội trong không đoàn 41, phi đoàn 213 còn sống ở Mỹ, họ đã định vị đúng tọa độ và đã tìm được những mảnh kính của máy chụp hình, đồng hồ và những mảnh thép vỡ của máy bay. Họ đã sàng lọc những khúc xương cốt lẫn lộn với đất đá và đem về lưu trữ tại Viện Bảo Tàng. Xương cốt này không phải của một ai mà là của mười một người hy sinh trong đó có ba tôi. Nó không thuộc về cá nhân hay gia đình nào, nó thuộc về lịch sử của nước Mỹ.

      Món quà tôi mang về cho bà nội lần này là những hình ảnh của Viện Bảo Tàng Newseum. Tôi sẽ nói với bà nội ba tôi đã được an nghỉ ở một ngôi nhà gần nhà của Tổng Thống Mỹ. Ngôi nhà ấy vĩ đại, có mười tầng lầu, mười lăm rạp chiếu bóng, mười bốn hành lang và hàng ngày có hàng chục ngàn người đến đây thăm viếng. Bà nội hãy yên lòng. Con trai cứng đầu của bà được an nghỉ ở một trong những nơi danh dự nhất của nước Mỹ. Còn một điều nữa, bà nội hãy tin rằng với tất cả chứng cứ về liên hệ huyết thống và hình ảnh, với sự công bằng và trung thực, tôi sẽ làm đủ mọi cách để Viện Bảo Tàng Newseum cần phải có một buổi lễ tưởng niệm cho ba tôi. Người cuối cùng phải là người đặc biệt. "The last but not the least". Bà nội hãy giữ sức khỏe để một ngày không xa, gia đình bà nội, mẹ và tôi sẽ đếnViện Bảo Tàng Newseum tham dự buổi lễ vinh danh trung sĩ Trần Vinh Quang. Nỗi đau khổ của bà nội và mẹ sau bốn mươi năm phải được đền bù xứng đáng trong lịch sử nước Mỹ.

      Tôi sẽ nói với cậu Quyền lần này tôi muốn cậu dẫn tôi đến thăm một địa danh lịch sử ở khu Little Saigon nơi có cộng đồng người Việt sinh sống đó là tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ "Vietnam War Memorial" ở Westminster. Hai người lính Mỹ, Việt cầm súng đứng bên nhau bên cạnh hai lá cờ Việt, Mỹ vẫn là hình ảnh đẹp, oai hùng và ý nghĩa. Trong tâm tôi sẽ không dấy lên chút tình cảm căm hận nào.Trái lại, đầy sự ngưỡng mộ và biết ơn. Người lính Việt Nam Cộng Hòa đó cũng chính là hình ảnh của ba tôi ngày xưa. Ba tôi chiến đấu vì lá cờ vàng cũng như những người lính Mỹ đã chiến đấu vì nền độc lập, tự do của nước Mỹ và cho nhân loại trong khối tự do.

      Năm nay tôi đã bốn mươi ba tuổi. Đã hơn nửa đời người. Không quá muộn màng cho tôi khi tôi tìm về với cội nguồn của gia đình, quê hương và dân tộc mà trước đây tôi như một người xa lạ. Tôi muốn cám ơn bà nội, cậu mợ Quyền, dì Quyên những thân tộc đã nối lại sợi dây huyết thống thiêng liêng của dòng họ Trần. Tôi cảm nhận được tình thương quá bao la và đặc biệt bà dành cho ba tôi và đứa cháu nội này. Một ngày nào đó bà sẽ từ giã cõi đời. Tôi biết chắc một điều bà sẽ ra đi thanh thản, bình yên vì theo lời di chúc của bà, tôi sẽ thay ba tôi ôm chiếc hình của bà trong ngày tang lễ.

      Tôi muốn cám ơn bà ngoại, mẹ tôi và dì Phương đã chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ tôi từ tấm bé cho đến khi tôi trưởng thành. Những chai sữa ngọt đầu đời là những ngày dì Phương dãi dầu mưa nắng ngoài chợ trời đem về cho tôi.Tôi nói và đọc được tiếng Việt là nhờ những buổi hai bà cháu cùng ngồi rù rì học với nhau ngoài vườn và từ những câu chuyện cổ tích tôi nghe hoài không chán. Và mẹ tôi, người mẹ tuyệt vời, tôi không có lời lẽ nào hơn để ca ngợi bà. Bà đã mạnh mẽ đứng lên vượt lên trên nổi khổ đau giữ lại cho tôi hình hài này.

      Từ trong đáy lòng, tôi chân thành cám ơn Daddy Daniel, cha nuôi người Mỹ của tôi. Ông là cây cổ thụ cho gia đình tôi nương dựa bốn mươi năm qua. Danh vọng, địa vị, tiền bạc, hạnh phúc, tình thương tôi có được ngày hôm nay phát xuất từ tấm lòng nhân hậu và bao dung của ông.

      Cuối cùng là những lời xin lỗi muộn màng của tôi với Ba.

      Hơn bốn mươi năm qua, trong tâm tưởng, tôi đã quên tôi còn một người cha.Tôi không giữ chút kỷ niệm gì trong ký ức về ông vì ông đã ra đi trước khi tôi cất tiếng khóc chào đời.Thật là kỳ diệu khi gặp lại bà nội. Bà là chiếc cầu nối vững vàng, là bàn tay nắm dịu dàng và ấm áp dẫn tôi đến với Ba, là chất keo dính ngọt ngào làm cho hình ảnh Ba như sống dậy trong lòng tôi.Giờ đây, nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung hình ảnh ông hiện ra rõ ràng, thân thiết, gần gũi và đầy tình yêu thương.

      Tôi rất hãnh diện về Ba tôi, người lính Việt Nam Cộng Hòa, anh dũng, kiêu hùng đã hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ miền Nam. Lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công ơn ông và những người đồng đội. Ông mãi mãi là hình ảnh đẹp nhất trong lòng tôi, giọt máu rơi của ông, người lính chết trẻ.

      Phùng Annie Kim

      Comment



      Hội Quán Phi Dũng ©
      Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




      website hit counter

      Working...
      X