Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Những Bài Viết Sưu Tầm

Collapse
X

Những Bài Viết Sưu Tầm

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Những Bài Viết Sưu Tầm

    Trí Thức Theo Cộng


    BXCANH

    Có người đã cho rằng điều đáng ghi nhớ nhất trong thiên niên kỷ vừa qua của nhân loại là sự hình thành và sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Theo thiển ý, chẳng những đó là điều đáng ghi nhớ nhất, mà còn là sự kiện lịch sử quan trọng nhất. Nhân loại chưa bao giờ bị thống khổ và kinh hoàng như thế, với hàng trăm triệu người bị sát hại dã man, bị đầy đọa xuống hàng súc vật, và thế giới nhiều phen đã bị cộng sản đẩy đến bên bờ một cuộc chiến tranh nguyên tử. Nếu trí ngu con người đã tạo ra cái chủ nghĩa ác ôn này, thì cũng chính trí khôn con người đã nhận ra con quái vật đó, và tiêu diệt được nó. Một số người Việt Nam, thế hệ cha anh của chúng ta hôm nay, đã đi rước lấy cái chủ nghĩa giết người này về, gây tang thương máu lửa trong gần một trăm năm qua, với những khổ đau chất ngất cho chúng ta, và con cháu tới ngày nay. Trong khi tại cái nôi của chủ nghĩa này, người ta đã chặt đầu con rắn độc cộng sản từ lâu, thì chúng ta vẫn còn đang bị nó xiết cổ!

    Tại sao?

    Chúng ta đã quằn quại, khổ công suy nghĩ, phân tích, xem tại sao tới nay cộng sản vẫn còn ngự trị trên nước ta, và đã có nhiều câu trả lời:
    Tại thời cơ chưa tới; tại dân trí ta còn kém, tại nền văn hóa Khổng giáo đã khiến các sĩ phu chỉ biết cúi mặt tôn thờ chính quyền, dù là chính quyền vô đạo lý và bất nhân; tại chúng ta thiếu đoàn kết, tại cộng sản Việt được Chệt đỏ chống lưng cho nó ngồi, tại chính sách Hoa Kỳ muốn duy trì việt cộng để be bờ chống Tàu cộng tràn xuống Đông Nam Á v.v… Đồng ý với câu trả lời nào, là tùy sự suy nghĩ của mỗi người, và không phải là mục đích của bài viết này. Điều tôi muốn trình bày là tại đất nước ta, đã có một tầng lớp trí thức đem tài năng và uy tín của họ, để phục vụ cho một bọn cướp tàn bạo nhất trong lịch sử, giúp cho giặc quàng cái xiềng vô cổ dân ta, và chính bản thân họ đã lãnh hậu quả của sự sai lầm đó ra sao.

    Tại sao một bọn vô học, hiếu sát và lưu manh, có đầy đủ tính chất của một bọn cướp, lại đã có thể nắm đầu những kẻ được đất nước nuôi dưỡng để lãnh đạo, những kẻ "đầu đầy chữ, bụng đầy sách" có sự hiểu biết hơn người, và là tinh hoa thời đại?
    Tại sao trong lúc người dân ít học đã biết rõ sự tàn độc và nhưng mưu đồ đen tối của lũ bịp cộng sản, thì có những nhà trí thức lại mê muội đồng hành với bọn đạo tặc và ca ngợi cái ác? Thật là những câu hỏi làm đau đầu và khó trả lời!

    Chủ nghĩa cộng sản được một số cán bộ ít học đưa vào Việt Nam. Có nhiều lý do để cho rằng bọn này chẳng hiểu gì nhiều về cái chủ nghĩa mà chúng nó muốn gieo rắc. Xin đừng ai ngụy biện để chứng minh rằng những ông Nguyễn Sinh Cung, Đặng Xuân Khu, Trần Phú, Đỗ Mười, Lê Duẩn, … và hầu hết các cấp lãnh đạo của Việt cộng, đã đọc và hiểu thấu đáo Tư Bản Luận! Nếu có ông trí thức nào bỏ công đọc các kinh điển của chủ nghĩa Mac, rồi "phụ đạo" cho các lãnh tụ, thì với trình độ văn hóa tiểu học, các lãnh tụ đó có sức để hiểu nổi không? Cụ Nguyễn Mạnh Tường, một người nằm "trong chăn" cộng sản, viết cuốn Hồi Ký Un Excommunié, đã mỉa mai bọn lãnh tụ cộng sản về sự mù tịt, không biết chút gì về cái chủ nghĩa mà chúng cuồng tín. Thật ra, cho tới lúc này, bọn đầu sỏ của Việt cộng trong cái gọi là Bộ Chính Trị, tự thâm tâm, đều biết chúng chỉ là một bọn bịp.

    Chúng như một lũ mù đang dọ dẫm tìm đường đi để tự cứu! Cộng đảng đã từng sửa sai bao nhiêu lần, sửa lại theo cái đã cho là sai, và cuối cùng đưa ra cái mô hình xã hội mà chính chúng cũng không dám nói rõ là chúng đang rụt rè trở lại con đường tư bản: Kinh Tế Thị Trường Theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa! Thế nhưng trong khi đó, một số trí thức, ngay từ những ngày đầu, khi chủ nghĩa cộng sản mới được du nhập xứ Việt, đã vội tung hô bọn cộng, giúp chúng gieo rắc môt cái chủ nghĩa vô cùng tàn độc! Vẻ uyên bác, cùng với xảo thuật và miệng lưỡi của đám trí thức theo cộng này, đã góp phần quan trọng cho sự thành công của lũ chơi bạc bịp! "Xã hội không còn giai cấp; làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu; phá tan biên cương loài người sống thân yêu …", những món hàng không tưởng đầy sự bịp bợm ấy, đã một thời được các ông trí thức theo cộng say sưa truyền đạt, nay trở thành chuyện khôi hài vô duyên, chẳng còn anh Cộng lớn, Cộng bé nào dám nhai lại. Không biết chúng ta có nên gọi những ông có học, có bằng cấp cao, mà đầu óc đã ngừng suy luận, hoặc chỉ suy nghĩ về danh, lợi, này là trí thức? Trí thức, như chúng ta thường nghĩ, phải là kẻ hiểu sâu, biết rộng, phân biệt phải trái, là tinh hoa chỉ lối cho người khác noi theo. Ngoài lãnh vực chuyên môn, người trí thức phải biết quan tâm đến cái thể chế và tổ chức xã hội mình đang sống, góp sức làm cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Người trí thức chỉ đường cho quần chúng noi theo, phải nhận chân được sự lương thiện và sự bịp bợm. Có người sẽ coi lại: biển học thì mênh mông, các tổ chức xã hội, thể chế chính trị thì phức tạp, ai mà dám cho mình là người biết hết sự đời. Trong khi đó thì bọn Cộng sản là bậc thầy của sự bịp bơm và là bọn điếm đàng quốc tế, được huấn luyện và dạy dỗ những phương cách vô cùng xảo quyệt để lừa bịp. Vả lại, chúng tôi cũng không thích nghiên cứu chính trị, nên không biết gì về chủ thuyết cộng sản. Ấy cũng là sự thường vậy!. Thưa vâng, không ai biết hết sự đời! Ít người muốn tìm hiểu về chính trị. Nhưng cái thể chế chính trị do một bọn cướp áp đặt lên đầu mình, thì mình cần, và có bổn phận phải biết nó ra sao chứ! Huống chi chủ thuyết cộng sản và những hậu quả khốc liệt của nó trong gần một thế kỷ qua, trên khắp thế giới, thì không ai có thể chối bỏ là mình không biết tới nó. Vả lại, nếu đã nhận mình không biết rõ về cộng sản, thì lý do gì khiến mình đi theo nó, ca tụng nó? Một điều quan trọng thiết thân đến đến chính ta, đến con cháu ta, đến xã hội mà ông cha đã nghàn năm vun đắp như thế, mà những kẻ được đời tôn xưng là trí thức lại nhắm mắt tin theo. Không những chỉ hùa theo cái ác, các ông còn dâng hiến tài năng và trí óc cho bọn dã nhân, để chúng thêm nanh thêm vuốt, trong cái xảo thuật bịp bợm và cướp đoạt chính quyền. Nếu trí các ông ù lì, con tim hóa đá, không còn suy nghĩ, và vô cảm trước bao tang thương dâu biển do cộng sản gây ra, thì các ông trí thức, cũng còn có đôi mắt, đôi tai chứ? Có cần chi phải vận dụng tới trí thức uyên bác của các ông để nghiên cứu xem cộng sản là gì! Các ông phải thấy lũ dân đen mà các ông cho là ngu dại, do cảm tính, đã biết ngay rằng chủ nghĩa cộng sản là con rắn độc, là tên bạo chúa tàn ác chưa từng có trong lịch sử nhân loại.

    Đã có bạo chúa nào trong cuộc đời ngự trị của hắn, tiêu diệt được cả trăm triệu người vô tội? Bằng kinh nghiệm và cảm nhận, những kẻ mà các ông cho là kém cỏi và vô học, những thằng dân đen, đã bỏ chạy cộng sản còn nhanh hơn tránh dịch hạch! Biết bao lần người dân đã "bỏ phiếu bằng chân" khi cộng sản tới. Chả lẽ các ông không còn cả một chút tò mò trẻ thơ để hỏi: tại sao người ta phải bỏ chạy như thế? Nếu mắt các ông không mù, tai các ông chưa điếc, sao các ông không nhìn thấy bao cảnh kinh hoàng, không nghe những lời than van kêu khóc xé trời, rạch đất của người dân trong nanh vuốt giặc! Hay các ông không thích nhìn gần, mà chỉ muốn viễn mơ về các khung trời xa lạ, để mở mang trí óc? Nếu thế, các ông phải thấy hễ nơi nào có cái bóng dáng "xã hội chủ nghĩa", là nhân dân nơi ấy tàn mạt, xã hội nơi ấy điêu tàn! Đây là một sự thực hiển nhiên, phơi bày trước mắt loài người lâu gần một thế kỷ; nhưng bọn trí thức theo cộng dường như đã mù, và câm, nên không thấy, và không nói lên được một điều gì!

    Danh từ trí thức tôi viết đây, không phải chỉ gồm có những người học cao, văn bằng lớn, mà còn bao gồm cả những ông nhà văn, nhà báo, những người có tên tuổi và địa vị trong xã hội, đã từng là ngọn đuốc hướng dẫn dư luận một thời.
    Hồi còn là học trò nhỏ, và ngay khi đã theo học đại học, tôi luôn kính sợ và cảm phục các ông có bằng lớn, các ông viết văn, viết báo, nghĩ rằng mình chỉ nên dựa cột mà nghe, khi các sư, sĩ bàn luận chuyện quốc gia đại sự. Nhưng trong trí óc non nớt của tôi lúc đó, đã thấy có những đám khói mây mờ mịt của sự ngờ, khi thấy ông giáo sư này nói "gà", nhưng ông tiến sĩ nọ lại kêu "vịt". Các ông trí thức tranh cãi nhau rất kịch liệt về nhiều vấn đề họ nêu ra. Nhưng riêng về chuyện tranh cãi nhau giữa người theo và người chống cộng, thì bọn theo cộng đâu cần đến chân lý. Các ông theo cộng thường né tránh lời tố cáo sự không tưởng và tàn độc của cộng sản, bằng cách tố ngược lại những khuyết điểm và sai lầm của phe quốc gia! Kiểu tranh luận cù nhầy này, rút lại chỉ là sự tố cáo các sai lầm vớ vẩn giữa người quốc gia và những anh tập sự làm cán cộng, làm nhạt nhòa đi cái cốt lõi, là sự không tưởng, sự tàn bạo kinh khiếp và nguy hiểm của chủ thuyết Cộng sản.

    Bọn trí thức theo cộng, khi bị đuối lý trước những lý luận tố cáo sự bất lương của họ, và trước những sự thực hiển nhiên sờ mó được, về sự sai lầm và tàn độc của cái chủ nghĩa mà họ tôn thờ, vẫn nhơn nhơn, lì lợm, lớn tiếng xưng tụng cộng sản. Họ nghĩ rằng lý của kẻ mạnh bao giờ cũng sẽ là chân lý, và cộng sản là kẻ mạnh, là thế lực đang lên. Không may cho họ, công sản không phải là kẻ mạnh, và lại là thế lực đang đi xuống! Khi cái chủ nghĩa này lăn đùng, đột tử, ngay tại nơi nó phát sinh, những anh theo cộng, nhất là những anh đi hai hàng, lừng chừng đứng giữa, bỗng cảm thấy tẽn tò, vỡ mặt, trước cái xác chết xú uế của chủ nghĩa cộng sản và một núi rác phó sản của nó quá đỗi dơ bẩn, mà từ bao lâu các anh tôn thờ hôn hít. Nhiều anh quay ra cãi chầy cãi cối: "Chủ nghĩa cộng sản theo lý thuyết, vẫn là chủ nghĩa rất tốt, có sức hấp dẫn. Chỉ khi thực hành mới biết nó không như lý thuyết, và những sự sai lầm của nó, có thể do những người thi hành và áp dụng cái chủ nghĩa ấy gây ra!". Theo cái trí ngu đần của tôi thì trên đời này không hề có cái lý thuyết nào đúng, mà khi đem áp dụng, thì nó thành ra sai! Lại như nói rằng những sai lầm là do người thi hành gây ra, tức là công nhận những tay tổ sư nhà Cộng như Lê Nin, Stalin, Mao, Hồ… đều là kẻ đã áp dụng sai chủ nghĩa cộng sản. Nhưng nếu những tổ sư nhà cộng mà còn không biết áp dụng sao cho đúng chủ nghĩa, thì ai sẽ làm được chuyện đó? Hỏi như thế chỉ để vạch trần cái lý luận gian manh của mấy anh theo cộng tới giờ thứ 25.
    Nhưng xin cho tôi trở lại với chủ đề bài viết: điểm qua một số trí thức theo cộng và hậu quả mà họ nhận lãnh.

    1 - Trí Thức Nguyễn Hiến Lê.




    Học giả Nguyễn Hiến Lê, một người mà tôi rất kính trọng, trong Hồi Ký của ông, cho biết ông đã đọc trước sau khoảng hai chục cuốn viết về cộng sản Nga, Trung Hoa, Đông Âu. (Thực ra, người Việt chúng ta đâu có cần phải đọc sách nhiều như thế, để biết cộng sản là cái gì! Và tìm hiểu cộng sản qua sách vở, có khi đưa tới sai lầm gây ra đại họa. Nhưng ông Lê là … học giả mà!). Ông Lê cũng được nhiều bạn di cư vô Saigon kể cho ông nghe chính sách điền địa ở Bắc tàn nhẫn tới mức bỏ tù, giết cả những người kháng chiến, có con ở trong kháng chiến, chỉ vì họ có gần hai hecta đất, và bị liệt vào hang địa chủ bóc lột. Chính những bạn của ông Lê cũng đã giúp kháng chiến, đều có lòng ái quốc, đều là những người tốt, mà không thể sống ở ngoài đó được, phải bỏ nhà cửa, họ hàng, mồ mả tổ tiên, vào Nam với hai bàn tay trắng, sống chen chúc trong những khu lao động, can đảm lập lại cuộc đời. Và ông Lê, sau khi đã nghiên cứu, biết rõ cộng sản như thế nào, ông biện minh cho thái độ thân cộng của ông như sau:

    "Tôi tuy ghét, tởm Stalin, Mao Trạch Đông…nhưng vẫn tin rằng chế độ cộng sản công bằng hơn chế độ tư bản … cộng sản Bắc Việt không thể nào tàn nhẫn như Nga và Trung Hoa được!"
    Và ông Lê kết luận bằng cách quơ cả đám trí thức vào phe của ông:
    "Đó là tâm lý chung của đa số trí thức Saigon, chứ chẳng của riêng tôi."
    (Hồi Ký – Tập 3, trang 20, nhà xuất bản Văn Nghệ)

    Ông học "giả" khả kính, đọc thiên kinh vạn quyển, được tận mắt, tận tai nghe các bạn thân ở Bắc thuyết trình cho nghe sự tàn bạo của bắc cộng, mà ông vẫn "tin rằng " và còn võ đoán rằng "đó là tâm lý chung của đa số trí thức Saigon", thì những ông trí thức, học "thiệt" sẽ " tin rằng" và có "tâm lý " ra sao về cộng sản? Sự suy diễn của nhà học giả - và của đa số trí thức Saigon, theo lời ông Lê - cũng rất kỳ lạ, đến mức khó hiểu.
    Ghét Mao Trạch Đông, ghê tởm Stalin, nhưng lại tin rằng cộng sản Bắc kỳ không tàn nhẫn như Nga, Tàu! Cộng sản Việt há không phải là một bản sao, một thứ học trò hăm hở theo lời thầy, và tên đày tớ tuyệt đối vâng theo lời chủ? Nếu đã nhận là Nga Tàu tàn bạo bất nhân, thì thằng tay sai là Việt cộng, được các sư tổ cộng sản cầm tay chỉ việc, làm sao mà khác được? Có khi bọn việt cộng còn muốn "vượt chỉ tiêu" của cha, anh nó về mức độ tàn nhẫn và dã man. Kìa, hãy xem anh Pol Pot xứ Chùa Tháp, học trò yêu của Mao đã vượt Mao ra sao về mức độ tàn bạo! Tại sao nhà học giả không dựa vào những điều mắt thấy, tai nghe, những điều sách vở cung cấp cho ông, mà ông lại "tin rằng" một cách vô căn cứ như thế? Chỉ sau khi việt cộng chiếm Miền nam, và thi hành các chính sách tàn bạo, ông Lê mới vỡ mộng. Ông biện luận về sự sai lầm của ông như sau:

    "Muốn thấy một chế độ ra sao, thì phải sống dưới chế độ đó dăm năm. Muốn nghe ai phê bình, khen chê gì thì nghe, muốn đọc sách gì thì đọc, dù là người thông minh, chịu suy nghĩ, cũng chỉ biết lờ mờ một chế độ thôi." (Hồi KÝ – Tập III trang25-26)

    Phải sống dăm năm dưới chế độ cộng sản, rồi mới biết nó ra sao! Nếu cứ phải sống dưới chế độ cộng sản dăm năm, để biết nó thế nào, rồi mới quyết định chống nó hay theo nó, thì đây thật là một cuộc thí nghiệm điên rồ và chết người. Khi bị cộng sản xâm chiếm, không nên chống cự, vì mình chỉ biết lờ mờ về cộng sản. Hãy để cho nó cai trị dăm năm, xem sao đã. Điều chắc chắn là khi biết nó ác ôn, thì rất khó vùng vẫy khỏi tay nó, và nếu có thể, thì cái gíá phải trả để thoát cùm gông sẽ đắt như thế nào! Tôi đọc nhưng lời ông Lê viết trong cuốn Hồi Ký III, nhiều lúc bực mình không chịu nổi, về sự biện minh rất kỳ cục của ông. Xin chịu ông Lê có tài biện luận, để xóa sự sai lầm về thái độ thân cộng của ông. Nhưng trong khi ông học giả chỉ " biết lờ mờ " về cộng sản, ông lại ca tụng nó, và thằng dân đen không có đến nửa chữ để nghiên cứu nghiên cò về cộng sản để lận lưng, lại quá biết cộng sản như thế nào, và chạy trối chết để mong thoát tay nó! Còn gì khôi hài hơn không? Những ông trí thức theo cộng trong nước ngày xưa, và ở hải ngoại bây giờ, đều có chung một "đức tính": các ông luôn mang một bộ mặt cao ngạo, nói, viết, những câu ngang dạ, ra điều ta đây là kẻ nhìn xa trông rộng, dè bỉu những người chống cộng là thiển cận, là cực đoan, là chụp mũ bừa bãi! Khi chúng ta đang đổ xương máu để ngăn chặn một kẻ thù hung hiểm, thì các ông viết báo, phát ngôn những lời xỏ xiên, châm chọc, tìm đủ mọi khe hở để lách mũi dao nham hiểm vào lưng chúng ta, và tán dương cộng sản; nhưng các ông không dại gì chạy ra bưng với giặc trong thời chiến, và ngày nay cũng không rời bỏ tiện nghi vật chất và tự do ở nước ngoài để "về xây dựng đất nước" như miệng các ông hô hào và tán tụng cộng sản. Mưu chước của các ông trí thức này là làm thế nào để vẫn được sống yên thân trong sự bảo vệ của chính quyền quốc gia, hoặc an toàn ở ngoại quốc, mà vẫn lập công được với giặc, vẫn được một bọn lủng lẳng đứng giữa, tán tụng là có cao kiến! Tệ hơn nữa, xưa cũng như nay, các ông luôn tranh đấu đãi quyền lợi, đãi tự do nơi cái chính quyền mà lúc nào các ông cũng dài mỏ chê bai.
    Ông học giả Nguyễn Hiến Lê viết:

    "Tôi vốn có cảm tình với Việt Minh, với cộng sản. Tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mỹ. Tôi phục tinh thần hy sinh, có kỷ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp" (Hồi Ký – Tập III, trang 17-18).

    Ông học giả phục cộng sản, khinh các chính phủ quốc gia "bù nhìn" nhưng ông khôn lắm, ông cứ sống ở vùng quốc gia để an toàn, yên ổn ngồi soạn, viết hơn trăm tác phẩm.
    Có khi nào ông học giả tự hỏi: Nếu ông "may mắn" được sống trong chế độ cộng sản, ông có thể nào xuất bản được 100 tác phẩm? Ông cũng vờ vịt, làm như không biết bọn Bắc cộng là tay sai của Nga, Tàu. Khi những kẻ mà ông "sẵn lòng giúp", dùng thế lực và sự trợ giúp của cộng sản quốc tế, cướp được miền Nam, như ông mong muốn, ông Lê đã trắng mắt, nhìn chúng cướp tiền ông dành dụm trong ngân hàng, do ông khổ công dài lưng nặn óc viết văn; chúng đã chiếm nhà ông ở Long Xuyên; chúng "treo bút" của ông, khiến ông không còn cho được tác phẩm nào ra đời! Ông phải âm thầm xé một số tác phẩm ông dầy công tra cứu, viết lách, thành giấy vụn. Ông cũng kinh hãi, không còn dám nghĩ đến chuyện về thăm cố hương miền Bắc, thăm căn nhà ở ngõ Phất Lộc, tại Hà Nội, nơi có nhà mồ lão quái "Hồ Chủ tịch mà tám chín phần mười người Việt kính mến" (Hồi Ký tập III, tr 20), chỉ vì Miền Bắc nay đã tan hoang, sau khi việt cộng xây dựng "thành công" cái mà chúng gọi là chủ nghĩa xã hội! Nhưng dù sao ông Lê cũng còn lương thiện.
    Trong cuốn Hồi Ký – Tập III, ông đã thành thực mô tả cái xã hội xấu xa mà bọn cộng đã áp đặt lên Miền Nam sau năm 1975, và tuy quá muộn màng để hối lỗi, ông đã không tiếc lời mạt sát bọn cướp vô học khi chúng đã phô trương hết sự bịp bợm và tàn ác, sau ngày thành công cướp đoạt chính quyền Miền Nam. Vào lúc bọn việt cộng phải chọn "đổi mới hay là chết", như chúng nói, chúng đã cho in Hồi Ký của ông Lê. Nhưng bản chất lưu manh cố hữu, chúng chỉ cho in những phần ông Lê đã lầm lạc khen chúng, và xóa đi những trang ông chửi cha chúng nó. Việt cộng cũng lập lờ đánh lận con đen, để đồng bào hiểu lầm, là ông học giả ủng hộ chúng, bằng cách đặt tên một con đường nhỏ, đâu đó trong thành Hồ, là đường Nguyễn Hiến Lê. Tôi sở dĩ viết về ông Lê trước tiên, vì ông là một người tôi ngưỡng phục. Ông Lê học giả mà còn hiểu về cộng sản như thế, thì những ông, bà trí thức "học thiệt" khác, sẽ thờ cộng như thế nào! Vâng, chúng ta hãy điểm qua vài ba trí thức khác, đã bán linh hồn cho quỷ, để thấy "mỗi người một vẻ", họ đã góp sức đưa cái xiềng cộng sản vào cổ dân ta như thế nào.

    Ông Nguyễn Hiến Lê mất ngày 22 tháng 12 năm 1984.


    2. - Trí Thức Nguyễn Mạnh Tường.



    Nói tới tên ông, nhiều người Việt nghĩ ngay tới việc ông đỗ hai bằng tiến sĩ, Văn và Luật tại Montpellier, Pháp trong một năm, lúc mới 23 tuổi. Ngoài ra, người ta không nhớ ông đã làm được công nghiệp gì tương xứng với tài năng và công lao học tập! Điều đó không có chi lạ. Ông đã theo "cụ Hồ" đi kháng chiến, và kể từ lúc ấy, đời ông kể như đã đi vào ngõ cụt. Đã có quá nhiều sách báo nói về ông Nguyễn Mạnh Tường và những tháng ngày thê thảm của ông và gia đình ông, dù bản thân ông chưa phải là trái chanh đã hết nước trong tay Cộng. Nếu không đọc cuốn sách Un Excommunié do chính ông viết, chúng ta khó tương tượng ông "lưỡng khoa tiến sĩ" này lại bị đau nhục dưới tay "vượn người" như thế! Nhưng vì đâu nên nỗi?
    Hoàn cảnh lịch sử? Lòng yêu nước, hay sự bịp bợm của cộng sản đã đưa ông vào thảm trạng?

    Năm 1936, cậu thanh niên 27 tuổi, với hai bằng tiến sĩ từ mẫu quốc hồi hương, tương lai sáng rỡ như mặt trăng mặt trời. Cậu trở thành giáo sư trường Lycée du Protectorat tức trường Bưởi, rồi cậu mở văn phòng luật sư tại hai biệt thự tại thủ đô Hà Nội. Khi cộng sản cướp chính quyền, cậu hào hứng hiến luôn cả hai biệt thự cho nhà nước. Kháng chiến bùng nổ, cậu không ngại gian lao, xách khăn gói vào Khu Tư, tức Thanh Hóa theo "Bác."

    Chiến tranh tạm ngừng năm 1954, nhà trí thức lúc ấy đã mỏi mệt vì những điều tai nghe, mắt thấy về Đảng và "bác", nhưng cổ đã vướng tròng, khó bề thoát ra. Trở về Hà Nội, ông được cộng sản ấn vào tay một lô chức tước "phó", vô danh và…vô thực luôn: Phó chủ tịch Hội Luật Gia Việt Nam, phó Trưởng khoa Đại Học Sư Phạm, thành viên Hội Hữu Nghị Việt-Xô, v…v…
    "Đó là các chức vụ hoàn toàn có tính cách lễ nghi, không hiệu năng mà cũng chằng có thực quyền, đó là những chức vụ mà tôi chỉ là kẻ dư thừa."

    Năm 1956, có phong trào đòi tự do, dân chủ của các báo Nhân Văn, Giai Phẩm. Báo Nhân Văn đăng bài phỏng vấn ông Nguyễn Mạnh Tường. Ông vạch trần tính chất phản dân hại nước của cộng sản:

    "Đảng Viên đảng Lao Động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tính thần dân chủ, xa lìa quần chúng, tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình…"

    Dĩ nhiên, ông cũng còn tin cộng sản có thể sửa đổi được, và ông đề nghị những biện pháp sửa đổi! Ngày nay, dù đã có một tay cộng sản gộc, chính tông, là Boris Yelsin bỏ đảng và tuyên bố:

    "Cộng Sản không thể sửa đổi ".

    Nhiều ông trí thức của ta vẫn tin rằng có thể dùng kiến nghị, thư ngỏ … để thay đổi chính sách của Cộng sản. Cộng sản dĩ nhiên không thèm đếm xỉa gì đến những đề nghị của ông Tường; nhưng lãnh đạo Cộng sản lại dương những con mắt cú vọ quan sát, nhằm "chiếu tướng" ông trí thức. Ngày 30 tháng 10 năm 1956, ông luật sư, giáo sư, kiêm luôn bao nhiêu chức Phó và Thành viên các hội, đọc một bài diễn văn tại cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc, phân tích những khốc hại đẫm máu của việc Cải Cách Ruộng Đất, và đề ra phương hướng để tránh mắc lại! Ông Trí thức lúc ấy chắc vẫn tin là cộng sản mắc "sai lầm", chứ không phải là chúng chủ tâm và tỉ mỉ hoạch định đủ phương kế để giết người và cướp đất ruộng. Sau bài diễn văn với những đề nghị này, nọ của ông, dây thừng quanh cổ ông được cộng sản xiết chặt lại. Bao nhiêu chức tước vớ vẩn của ông được gỡ sạch. Ông bị đưa ra đấu tố tại trường Đại Học cho học trò ông xỉ vả, mắng mỏ; ông bị ra trước Mặt Trận Tổ Quốc để các "đồng chí" của ông đấu đá. Ông bị các đảng viên đảng Xã Hội, một đảng bù nhìn do cộng sản nặn ra để trang trí cho chế độ, đấu tố ông lần chót. Ông chống trả rất can trường, với lập luận sắc bén của một luật sư có tài. Nhưng rồi ông đau khổ nhận rằng:

    "Con cừu thì không thể lý luận với một con chó sói".

    Số phận ông đã được Cộng đảng quyết định: Bỏ cho chết đói giữa một sa mạc hận thù không lối thoát. Ông than thở:

    "Tôi đã là kẻ lữ hành trong chuyến đi qua sa mạc kéo dài từ năm 1958 đến năm 1990, hơn ba mươi năm dài đằng đẵng! Chìm trong vùng cát của sa mạc tuyệt vọng làm cạn khô dòng nước mắt, tôi đã lê tấm thân bị tra tấn bởi thiếu thốn cô đơn với quả tim rướm máu bởi nỗi buồn chua cay và vị đắng của mật!"

    Trong ba mươi năm dài ấy, nhà trí thức sống ra sao?

    Ông kể lại:

    "Trước tiên, loại bỏ ngay buổi ăn sáng, một thói quen sa hoa của những người tư sản.
    Tiếp đến, cá thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn trưa và tố́i. Khẩu phần cơm rau mỗi ngày một ít đi, và đến lúc mỗi ngày chúng tôi chỉ có một bát cháo để ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi trông thấy. Bao nhiêu sáng láng đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói."

    Trong cơn khốn cùng như thế, gia đình ông Tiến sĩ "may mắn" có được một con gà mái "mắn đẻ một cách đáng ngạc nhiên ". Mỗi ngày con gà cho một trái trứng, và mỗi người trong gia đình thay phiên nhau hưởng. Muốn cho gà đẻ trứng, thì phải cho nó ăn. Khốn nỗi người còn sắp chết đói, lấy đâu gạo, bắp cho gà! Nhà trí thức "phát huy sáng kiến":

    "mỗi ngày, vào lúc hoàng hôn, khi chợ đã vắng người mua bán, tôi lượn quanh để lén nhặt những mảnh rau vụn, tránh không để người qua đường nhìn thấy, mang về nuôi nó"

    Thê thảm không còn gì để nói! Nhưng con gà, dù mắn đẻ, tất cũng không nuôi sống nổi cả gia đình của ông tiến sĩ. Ông phải đau khổ, năn nỉ những kẻ có tiền để họ mua những thứ ông có thể vơ vét ở trong nhà: sách vở, quần áo của ông, son phấn, tóc giả của bà, muỗng nĩa trong bếp… Giống hệt tình cảnh của toàn dân miền Nam năm 1975 khi được cộng "giải phóng." Ba mươi năm vật lộn mỏi mòn, chỉ để khỏi chết đói!

    Cộng sản đã trả công cho sự nhiệt thành và công lao hạn mã của ông bằng cái đói và nhục. Nhiệt thành, say sưa, vì khi Cộng mới nổi lên, ông đã đem tất cả nhà cửa hiến dâng cho đảng. Công lao hãn mã, vì ông đã lặn lội sang tận thủ đô Bruxelles của Bỉ, năm 1956, đem tài hùng biện, chứng minh với Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ thế giới, là Bắc cộng có "chính nghĩa" khi dùng súng đạn để "giải phóng miền Nam " Nhưng xem tư cách và sự phản ứng can trường của ông trong suốt 30 năm bị cộng mưu dìm cho chết, chúng ta ngậm ngùi thương ông hơn là oán giận. Ông đã lạc đường vào lịch sử và bị vây bọc trong hoàn cảnh khó khăn. Không khuất phục được ông, bọn cộng vô học ghen, tức, đầy đọa và hạ nhục ông.

    So sánh với những anh "trí thức" hải ngoại ngày nay, từng kinh hoàng bỏ chạy khi cộng sản tới, lại được chứng kiến sự tan rã tận gốc của cái chủ thuyết giết người tàn độc, mà vẫn xum xoe đưa đầu cho cộng sai khiến, chúng ta phải kinh ngạc về sự "khả úy" của các "trí thức" hậu sinh. Ông Nguyễn Mạnh Tường có lẽ đã trả được mối thù với bọn việt cộng bằng cách mô tả sự tàn độc của chúng trong hai cuốn Hồi Ký mà ông để lại cho đời.
    Ông đã thảnh thơi từ giã cuộc đời ngày 13 tháng 6 năm 1997.

    3. Trí thức Dương Quỳnh Hoa.



    Bà Dương Quỳnh Hoa sinh trưởng trong tầng lớp thượng lưu của xã hội Việt Nam. Bà theo học y khoa tại Saigon rồi sang Pháp năm 1948 học tiếp và đỗ bác sĩ năm 1953. Ăn phải bã Cộng sản, bà liên lạc với Cộng sản Pháp, gia nhập cộng đảng vào cuối thập niên 1950 và hoạt động cho Cộng trong thời gian ở Pháp từ 1948 đến 1954. Sau 1954, bà về Saigon nằm vùng và do thám cho cộng. Năm 1960, được bọn Bắc cộng giựt dây, bọn theo cộng miền Nam thành lập Mặt Trận Giải Phóng. Bà Hoa là một sáng lập viên của cái Mặt Trận này. Năm 1968, sau vụ đại bại của cộng quân, mụ cùng chồng trốn ra bưng với Việt cộng, và được cho làm Bộ Trưởng Y Tế. Trong thời gian ở trong bưng, đứa con trai nhỏ của mụ đã chết vì bệnh sưng màng não. Chồng bà là Huỳnh Văn Nghị được cộng dụ dỗ cho nhập Đảng; nhưng ông Nghị nhận rõ bộ mặt thật của bọn giải phóng, nên tìm cách khước từ "vinh dự" đó. Năm 1975, sau khi chiếm được Miền Nam, bọn Bắc Cộng ra tay xóa sổ cái Mặt Trận Giải Phóng.
    Những anh chị trót bán linh hồn cho quỷ trong Mặt Trận, như các anh Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trương Như Tảng… và bọn lủng lẳng đứng giữa như Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung… đều vỡ mặt, tẽn tò như một lũ con nít bị lừa không được ăn kẹo! Chính bà Hoa sau này đã thú nhận việc đi theo Cộng là một ảo tưởng chính trị trong đời bà. Ngày 17 tháng 10 năm 1996, khi được tờ báo Far Eastern Economic Review phỏng vấn:

    " Quel est l’évenement le plus marquant pendant les 50 années passées?"

    Bà trả lời:

    "L’effondement du mur de Berlin qui a mis un term à la "grande illusion"

    dịch tạm:

    Biến cố nào được kể là nổi bật nhất trong 50 năm qua?

    Bà DQH:

    Đó là sự sụp đổ bức tường Bá Linh và chấm dứt một "ảo tưởng lớn"

    Khi được Stanley Karnow phỏng vấn về sự thất bại của cộng sản Việt nam, bà nói:

    "Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đã hết ".(I have been a communist all my life, but now I’ve seen the realities of Communist, and it is a failure - mismanagement, corruption, repression. My ideals are gone")

    Cuối thập niên 1970, bà nói với Nguyễn Hữu Thọ:

    "Tôi và anh chỉ là những kẻ bù nhìn, là những món đồ trang sức rẻ tiền. Chúng ta không thể nào phục vụ một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ."

    Khi được phỏng vấn về bọn lãnh đạo Việt cộng, bà lạnh lùng trả lời:

    "Đó là những kẻ ngu si đần độn, bởi vì họ là cộng sản".

    Trong những câu bà Hoa nói trên, chúng ta nên chú ý đến câu:

    "Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản…"

    Đó chính là một lời thú nhận là: dù học hành nhiều như bà, được sống trong một nước tự do như nước Pháp, có thừa phương tiện tìm hiểu, nghiên cứu, bà đã không biết gì về chủ nghĩa cộng sản!
    Ngày 25/2/2006, người nữ cán bộ cộng sản đã góp công không nhỏ cho cộng sản đặt cái ách khốn cùng trên đầu đồng bào của bà, lặng lẽ bị các oan hồn chết vì giặc cộng, đưa về trước Diêm Vương để nghe phán xét tội lỗi. Cái bạo quyền bà đã hy sinh hết tuổi thanh xuân và tài năng để dựng nên nó, không có được một lời nói về bà. Mang "ảo tưởng", tự hiến mình làm "bù nhìn, đồ trang sức rẻ tiền", "không biết sự thật về cộng sản mà vẫn theo chúng" thì kết quả đương nhiên chỉ có như thế.

    Các vị trí thức tiền bối như Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hiến Lê, Dương Quỳnh Hoa, do hoàn cảnh lịch sử hoặc do sai lầm nhất thời, đã có lúc theo cộng hay thân cộng. Nhưng khi nhận rõ bộ mặt phản dân hại nước của cộng sản, họ đã có phản ứng quyết liệt. Trí thức Nguyễn Mạnh Tường đã dõng dạc tuyên bố:

    "Tôi không hề tham gia mặt trận Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người yêu nước, luôn luôn ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước. Tuy nhiên tôi tự xác định cho mình một vị trí là làm một người trí thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, thì không nên tham chính. Người trí thức phải đứng về phía nhân dân, chứ không đứng về phía chinh quyền."

    Ông cũng đã can đảm nhận chịu 30 năm đọa đầy thê thảm chứ không đầu hàng cộng. Khi thoát khỏi sự kiềm chế của Cộng sản, ông đã viết hai cuốn sách:

    (1) Un Excommunié – http:// www.ethongluan.org
    (2) Une Voix Dans La Nuit http://www.viet.rfi.fr/viêtnam/20110...-de-tri-thuc-v

    bày tỏ lập trường của trí thức, và mô tả sự xấu xa tàn độc của Cộng sản. Cuốn Une Voix Dans La Nuit, (chưa xuất bản, được bà Thụy Khuê trích dẫn và bình luận trong Website của RFI) viết về về sự thiết lập chế độ ác ôn cộng sản ở Việt Nam. Ông viết xong vào năm 1993, lúc đã 85 tuổi, chứng tỏ ông trí thức vẫn nặng lòng vì đất nước. Bà Dương Quỳnh Hoa cũng dứt khoát vứt bỏ mọi ưu tiên mà chế độ dành cho bà, để quay về vị trí của người trí thức.
    Những trí thức nói trên, nhất là tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, vẫn còn lưu lại trong lòng chúng ta sự ngậm ngùi thương tiếc. Còn như cái loại trí thức của nợ dưới đây, và những loại trí thức hải ngoại ngày nay như Nguyễn Hữu Liêm, Trần Chung Ngọc… thì chỉ để lại lòng khinh ghét vì sự ngu xuẩn và sự ham danh lợi của họ.


    4. Trí thức Ngô Bá Thành.



    Bà này tên thật là Phạm Thị Thanh Vân, con của ông Bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến. Sinh năm 1931 tại Hà Tĩnh. Mới 18 tuổi đã lấy chồng là ông Ngô Bá Thành. Hai vợ chồng sau đó qua Pháp du học. Bà học luật, ông học thú y. Năm 1957 bà đỗ tiến sĩ luật. Năm 1963 mụ về nước và bắt đầu những ngày quậy phá đất nước. Năm 1970, mụ tự phong là
    "Chủ Tịch Ủy Ban Phụ Nữ Đòi Quyền Sống", cái tên nghe khá buồn cười, báo chí thời đó diễu là "phụ nữ đòi quyền sướng". Trong bối cảnh đất nước tan hoang vì đảo chánh, tranh giành quyền lực, sư cộng sản Trí Quang đã tổ chức lễ ra mắt cái Quỷ ban này tại chùa Ấn Quang, cho thấy rõ mạt cưa, mướp đắng dập dìu với nhau. Vào thời gian đó, nếu có ai nói rằng mụ Thành và sư hổ mang Trí Quang là cộng sản, ắt sẽ có nhiều ông bà trí thức theo cộng tru tréo kêu oan dùm họ, và xỉ vả kẻ tố cáo đó là "chống cộng cực đoan, chụp mũ bừa bãi. " Trong suốt thời kỳ của của nền đệ nhị Công Hòa, mụ Bá Thành đã quậy phá, biểu tình liên tục. Huỳnh Tấn Mẫm, một tên cộng sản nằm vùng, viết về "công lao" của mụ đối với bọn cộng nằm vùng như sau:

    "… Một lần tổng hội sinh viên của chúng tôi bị bao vây chặt đang lúc họp bàn, triển khai phong trào đốt xe Mỹ ở 207 Hồng Bàng, cảnh sát vây kín chung quanh, quay giây kẽm gai vòng trong vòng ngoài. Giữa lúc chúng tôi đang nát óc nghĩ cách thoát khỏi, thì ai đó reo lên: chị Thành đến! Qua hàng rào kẽm gai, chúng tôi thấy chị dẫn theo hàng ngàn (?) người, từ học sinh, sinh viên, các ba má phong trào, đến tăng ni phật tử. Chị lớn tiếng tranh luận với cảnh sát về pháp luật, hiến pháp, nhưng chúng vẫn không hạ súng. Thế là chị ra hiệu cho mọi người ào lên giật súng, dùi cui, kéo dây kẽm gai… Cảnh sát chạy mất, chúng tôi được giải thoát! "

    Bỏ đi những chuyện hoa lá cành, mô tả láo khoét của tên việt cộng Huỳnh Tấn Mẫm, chúng ta còn thấy được vài sự thực: Một trí thức có bằng tiến sĩ luật, đi "trâu đánh" đãi quyền sống, mà hành động như một con nặc nô đi đánh ghen, và sự quá mềm mỏng dễ dãi của những người cảnh sát có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự. Chúng ta thua giặc vì chúng ta cư xử như một con người, trong lúc bọn cộng khát máu lồng lộn, điên cuồng cắn xé như loài thú! Nay những ông trí thức co giò chạy trước khi nếm mùi nanh vuốt của cộng sản, vẫn như đi trên mây. Các ông chửi người tị nạn, kẻ mất cha, người mất chồng, mất con trong trại tù, trên đường vượt biển là bọn chống cộng cực đoan, hạ cấp, các ông nghĩ sao về con mụ trí thức có bằng tiến sĩ luật đã cư xử điên cuồng đến mức khó tưởng tượng như sau:

    "… Có lần bị bắt giam ở khám Chí Hòa, bị gọi lên lấy khẩu cung, vừa bước vào phòng, bà [NBT] đã làm cả giám thị lẫn cảnh sát mất hồn khi rút chiếc guốc dưới chân ra đập nát tấm hình Nguyễn Văn Thiệu đang treo trên tường!"

    Tôi cho rằng đây chỉ là chuyện phét lác của mấy anh theo cộng, bịa chuyện đánh bóng một cách ngu xuẩn hành động nặc nô của một bà tiến sĩ luật, lòng dạ sôi sục vì danh lợi, đầu óc không còn suy nghĩ. Chuyện giản dị dễ thấy, là bức hình tổng thống trong các công sở, thường được treo trên cao, ngoài tầm tay, nhất là tầm với của một phụ nữ. Vả lại, một phạm nhân bị dẫn giải đi hỏi cung, đột nhiên rút guốc, rút giầy lên cầm tay, tất phải khiến cho người cảnh sát áp giải ra tay đề phòng, thay vì bị "hết hồn" như "sáng tác" của các văn nô chuyên nghề mạ kền, đánh bóng. Nhưng nếu chuyện xảy ra đúng như các "đồng chí" mô tả, thì các ngài trí thức hải ngoại đang tấp tễnh lập công với Đảng, chuyên chửi người tị nạn là cực đoan, hạ cấp, thấy hành động của bà tiến sĩ luật là…đúng luật, là không hạ cấp hay sao là không cực đoan hay sao. Còn như cái đám tập hợp theo bà Thành, được bà gọi là "Phụ Nữ Đòi Quyền Sống ", là đãi cái chi vậy? Trí óc lươn lẹo, nên lời lẽ ấp úng! Phụ nữ Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hòa không có quyền sống hay sao? Hay là họ bị chèn ép, bị đàn áp, kỳ thị, bị đem ra làm đồ buôn bán như ngày nay. Không có đâu. Nhưng chẳng lẽ mụ Thành lại nói toạc móng heo ra cái tên thực của cái đám người theo mụ là "Phụ Nữ Đòi Quyền Theo Cộng". Đúng! Mụ và cả cái đám theo mụ chỉ muốn đãi quyền theo "Bác" Nay chuyện này đã trần truồng dưới ánh sáng chói lọi của sự thực, không còn thầy trí thức theo Cộng nào kêu là "chụp mũ" cho bà Thành nữa nhé! Khi Cộng chiếm đoạt được miền Nam, con hồ ly cái này đã hiện nguyên hình là con chồn hôi cộng sản. Tuy nhiên, miếng xương mà cộng thẩy cho mụ để trả công bao năm phá thối VNCH cũng không lớn.
    Được Cộng cho vào ngồi trong cái đám chỉ biết gật và vỗ tay, có tên là "cuốc hội", trong ba bốn khóa, mụ đã "đòi quyền sống" cho người phụ nữ như thế nào? Phụ nữ ta, từ ngày có mụ Thành làm đại diện, đã đãi được cái "quyền" đứng khắp nẻo đường, vẫy gọi nam giới, bán món hàng trời cho. Không phải chỉ ở Saigon, mà còn khắp các đô thị trong nước. Như ở bến Ninh Kiều - Cần Thơ chẳng hạn.

    "Chiều chiều dạo bến Ninh Kiều.
    Dưới chân tượng bác, đĩ nhiều hơn dân "

    Mụ cũng "đãi" cho phụ nữ ta được "quyền" thoát y cho bọn ngoại nhân tàn tật, già nua của Đại Hàn, Tàu, M. Lai… sờ nắn, ngắm nhìn trước khi thẩy ra mấy ngàn đô, mua như súc vật, đem về làm nô lệ tình dục.

    Thảm cảnh và máu lệ ngút trời của phụ nữ như thế, nhưng chớ bao giờ thấy con mụ "đãi quyền sống" này há miệng "trâu đánh" đãi hỏi cái chi, dù chỉ đãi theo pháp luật của cộng đảng! Đáng lý, mụ Thành nên rút guốc đập vào mặt hình lão già râu đang ngồi trên đầu mụ. Nhưng Mụ không còn bộ não để suy xét, và mụ còn bận rộn chõ mõm, gân cổ lên, làm các chuyện ruồi bu khác. Một văn nô "luật sư" cộng, tên là Đỗ Minh Ánh, đã tán tụng "người phụ nữ viết nên huyền thoại " của hắn ta như sau:

    "Là một luật sư đã từng được đào tạo ở Mỹ, bà khẳng định Đạo Luật Nhân quyền ở Việt Nam của Mỹ không có giá trị pháp lý. Bà cũng đã tỏ rõ quan điểm phản đối gay gắt một tiểu bang ở Mỹ đa cho phép treo cờ ba sọc "

    Xin bỏ qua cách viết văn "sáng sủa" của ông "luật sư " khi ông viết "Đạo luật nhân quyền "ở'" Việt Nam của Mỹ ", tôi xin có ý kiến về cái mà mụ "luật sư được đào tạo ở Mỹ " kêu là "giá trị pháp lý" của đạo luật nhân quyền Mỹ. Theo sự ngu dốt về luật pháp của tôi, thì bất cứ đạo luật nào đã được Quốc Hội Mỹ phê chuẩn, được tổng thống Mỹ ký ban hành, nó đều có giá trị pháp lý đối với dân Mỹ. Mỹ nó thấy Việt cộng không có nhân quyền. Nó làm luật, liệt xứ Việt cộng vào danh sách các nước không có nhân quyền, theo tiêu chuẩn nhân quyền của nó. Việc đếch gì đến những anh khác, trong các nước khác. Nếu muốn diễn tuồng tận trung với Đảng, mụ Thành và đám chuyên viên gật trong cái "cuốc hội" ở Ba Đình nên hè nhau viết một đạo luật nhân quyền Việt Nam "ở" Mỹ, rồi đem ra biểu quyết với nhau cho Mỹ nó sợ. Cam đoan chẳng có ma nào nói gì đến cái "giá trị pháp lý" của mụ đâu. Những cái "khẳng định, phản đối gay gắt..." của mụ Thành chỉ " khẳng định " một điều: mụ đã đội lốt nhiều thứ để "đãi quyền", để "trâu đánh", nhưng trong xương tủy, mụ là một kẻ "mót" công danh, mù quáng theo cộng sản ngay từ ngày mụ vờ vịt giả hình "Đòi quyền sướng ".

    Ngày 3 tháng 2 năm 2004, "chị Thành" đã bị quỷ vương thình lình tới nhà bắt mụ đi đền tội ác.

    Bài viết của tôi về các ông bà trí thức theo cộng, cứ đà này, có thể kéo dài thành một cuốn sách dầy. Không thể đăng báo Nội San được. Thôi đành ngưng lại, dù có vì thế mà không thể nhắc tới bao nhiêu tên tai to mặt lớn khác, cũng cuồng nhiệt theo Cộng và cũng đã phải cười đau khóc hận khi Cộng chiếm trọn quyền thống trị. Như trí thức Châu Tâm Luân, tiến sĩ kinh tế tại đại học Illinois, khi về nước đã ngang nhiên ca tụng cộng trong khi giảng dậy và đã ôm đầu máu chạy trốn đi một xứ có ít người tị nạn, để khỏi bị chỉ mặt, đặt tên. Như Trí thức "bạc đầu đen óc" Phó Bá Long, " lòng chua xót, dạ bồi hồi", xum xoe ngâm thơ con cóc bên Võ Văn Kiệt, và cúi xin Kiệt "ân xá" cho người Việt tị nạn, rồi cũng lặng lẽ chuồn đi một nơi không có cộng sản để chết già! Như trí thức Trương Như Tảng, vốn tin rằng Cộng sản cũng có luật pháp, nên đã ăn cái bả "Bộ Trưởng Tư Pháp Việt cộng"

    Ông Đoàn Thanh Liêm viết rằng: truóc khi ra Bắc vào năm 1976, để nghe cộng sản Hà Nội nói về việc lập chính phủ thống nhất, Trương Như Tảng còn "hồ hởi" trấn an "nhóm Luật gia chúng tôi:

    "Các anh chị em Luật gia hiện cộng tác với chúng tôi trong Bộ Tư Pháp này đều là ‘ vốn quý của đất nước’; do vậy mà Nhà Nước Cách Mạng sẽ tìm cách sử dụng đúng mức cái nguồn vốn này. Tôi xin đoan chắc với quý anh chị em là bây giờ ta có hòa bình rồi, thì trong chánh phủ mới sẽ có Bộ Tư Pháp để phụ trách quản lý toàn bộ khối công tác thuộc lãnh vực pháp lý …"

    Chết đến đít vẫn còn ảo tưởng! Bộ Tư Pháp chẳng thấy đâu, mà ông "bộ trưởng" lại trở thành thuyền nhân "liều mình xuống ghe vượt thoát khỏi Việt nam" để sống sót và viết hồi Ký
    "Mémoires d’un Vietcong". Và còn vô số những trí thức nằm vùng khác, như Chân Tín, Trần Ngọc Liễng, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung, Thích Nhất Hạnh, Vũ Hạnh… một đời dối trá, tôn vinh cái ác, vu cáo điều thiện, đã được cộng sản quăng cho cái xương thừa để gặm chưa? Mong rằng sau này, ai đó sẽ sẽ tập hợp các tên phản quốc này trong một cuốn sách để lưu xú vạn niên cho hậu thế.

    Ngày nay, tại hải ngoại, cũng vì hai chữ Lợi, Danh, và để làm vui lòng chủ mới cộng sản, nhiều ông trí thức đã chôn sâu cái căn cước Tị Nạn Cộng Sản, tự gọi mình chỉ là "người sinh sống ở nước ngoài," ôm ấp ảo tưởng: khoe khoang bằng cấp, chức vụ cũ, van vái cộng sản chiếu cố, ban ơn hoặc khen thưởng! Khi ông giáo sư, tiến sĩ triết, khua chiêng đánh trống, để cộng sản chú ý tới ông, hy vọng nó ban cho ông một chút lợi lộc gì, ấy là ông đã quên béng một cái triết lý rẻ tiền này: Bất cứ bọn cướp nào, sau một vụ cướp bóc thành công, chỉ chia phần cho đồng bọn. Trong nội bộ với nhau, chúng còn tranh giành quyết liệt, đãi được phần béo bở. Những anh không góp công trong vụ ăn cướp, hoặc tệ hơn, đã là kỳ đà cản mũi chúng, nay thấy chúng có ăn, lại vác mặt dầy đến xin, thì chỉ có thể được bãi nước bọt vào mặt! Triết lý ba xu ấy mà không biết thì… còn triết được cái gì. Nếu bà Dương Quỳnh Hoa và bao nhiêu trí thức một đời theo cộng, đã chấm dứt cái "grande illusion," thì các ông trí thức thân cộng ở hải ngoại lại đang ve vuốt cái "great delusion" là sẽ được "trên" trông xuống, ban ra một ơn huệ, cho các ông tham gia bữa tiệc "đổi mới" làm bằng máu xương dân Việt. Xin các ông hãy đối mặt với sự thực, tự hỏi mình vài câu đơn giản.

    "Vì sao các ông bà phải trốn chạy đi sinh sống ở nước ngoài?

    Tại sao cộng sản “tốt” như thế mà các ông không dám về nước để hòa hợp với chúng?"

    Các ông bà trí thức theo cộng ở hải ngoại cũng thường dè bỉu người tị nạn là "chống cộng ấu trĩ, thù dai, là cuồng tín, là cực đoan, là ưa chụp nón cối" lên đầu các ông.
    Vâng, chúng tôi quả có chống cộng một cách "ấu trĩ " theo nhận định của quí vị. Bởi vì cứ ngửi thấy hơi cộng sản, là chúng tôi thấy ngay mùi máu tanh nồng của chết chóc, của tang thương; cho nên chúng tôi phải bằng mọi cách trừ khử cái mùi tử khí đó, bất kể là phương tiện ấy ấu trĩ hay không. Còn nói chúng tôi "cực đoan" và "cuồng tín" thì tội cho chúng tôi biết bao! Chúng tôi tưởng những kẻ mà quý vị đang dùng bao phương kế lươn lẹo để xin ban ân, còn cực đoan và cuồng tín hơn người tị nạn chúng tôi cả ngàn lần! Cáo Hồ là một ác quỷ, phạm đủ các tội ác kinh khiếp, nhưng đã được bọn Cộng tôn lên hàng thần thánh. Muốn thử sự cuồng tín của Việt cộng, các ông hãy nói ra, dù chỉ một chút sự thật về già Hồ, xem bọn cộng phản ứng ra sao? Xin hỏi:
    Ai đã bao năm mê muội, cuồng tín với cái "tôn giáo" mới nhập từ Nga, Tầu, đến mức quyết tâm diệt trừ mọi tôn giáo khác, để độc quyền thờ cúng Mac- Lê?

    Ai đã cực đoan đến nỗi đào mổ cuốc mả, bắn thủng mắt những tấm hình trên mộ bia nghĩa trang quân đội? Ai đã áp lực đục phá những tấm bia tị nạn trên các đảo vùng Đông Nam Á?

    Ai đã chủ trương thà giết lầm người còn hơn bỏ sót? Ai đã dùng "lý lịch ba đời" để gạt bỏ các con em miền Nam trong việc học hành, sinh sống?

    Ai đã bỏ tù, giết chóc không gớm tay, ngay các đồng chí của mình, chỉ vì một ý kiến bất đồng? Những cái đó chắc không phải là cực đoan và cuồng tín.

    Kể sao cho xiết. Còn như cho là chúng tôi ưa "chụp nón cối", thì chính chúng tôi có quyền phàn nàn về cái trí nhớ quá đoản kỳ của quý ông bà.

    Xin hãy ngoảnh nhìn quá khứ thật gần.
    Những tên như Huỳnh Tấn Mẫm, mụ Ngô Bá Thành, Thích Trí Quang, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Lý Quý Chung, Trịnh Công Sơn… và bao nhiêu tên theo cộng, núp dưới đủ thứ chiêu bài tốt đẹp, cũng quỷ quyệt né tránh cái tội ác cộng sản nằm vùng, kêu oan, là "bị chụp mũ " thân cộng hay theo cộng. Các tên đó trước đây la to bao nhiêu để phản đối "bị chụp mũ", thì khi cộng chiếm miền Nam, họ cũng gào lớn như thế để " báo công" với cộng. Trong quá khứ, chúng tôi đã điểm đúng mặt "lũ ong tay áo, lũ khỉ dòm nhà ", thì ngày nay bọn ăn cháo đá bát, bọn tị nạn giả hình, cũng sẽ khó náu hình trong bóng tối để âm mưu chuyện ôm đít cộng.

    Tổng thống George W. Bush, khi chủ tọa lễ khánh thành Tượng Đài Nạn Nhân Cộng Sản Thế giới ngày 12 tháng 6 năm 2007, đã phát biểu:

    "… Đây là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của hơn 100 triệu nạn nhân cộng sản được những thế hệ hôm qua, hôm nay, và mai sau tưởng nhớ. Tưởng nhớ để tận diệt chế độ này đến tận gốc rễ, vì chế độ cộng sản là tàn bạo và phi nhân."

    100 triệu con người đã bỏ mạng vì cộng sản.

    Dân Việt ta đã "đóng góp" vào núi xương sông máu này bao nhiêu triệu mạng. Xin các ngài trí thức thân cộng đừng kêu gọi chúng tôi đóng góp thêm nữa. Chúng tôi lúc nào cũng muốn đội các ngài lên đầu, xưng tụng các ngài là sư, là sĩ, để nghe lời chỉ giáo; nhưng xin tha mạng, đừng mang ảo tưởng dụ chúng tôi quên tội ác của Cộng!
    Ai tai! viết mấy cho vừa!

    BXC

    http://pham5yen.blogspot.com/2012/07...nguoi-cho.html
    Last edited by Mộc Châu; 07-03-2014, 04:43 AM.

  • #2
    Một Kỷ Niệm Hãi Hùng
    Đặng Trần Dưỡng


    Chỉ còn vài ngày nữa là hết một năm trên cái đất Maroc nóng bức và bão cát quanh năm này…Một năm học đã qua. Mọi người đều hồi hộp không hiểu kết quả liệu có được như ý muốn không? Hay lại…hứng chịu lấy thất bại thảm thương, nhìn cái mộng “phi công” mỏng manh… tan vỡ.

    Mấy hôm nay vì có bay đêm nên buổi sáng mãi 9 giờ chúng tôi mới phải lên phi đoàn. Trong bọn chúng tôi, một phần lớn đã may mắn được lên cai xếp sau gần một năm ở chức binh nhì…

    Còn tôi và một số ít người nữa thì vẫn “cai” hoặc “binh nhì”. Chúng tôi chia làm hai bọn. Một nửa gồm các “cai xếp” lên câu lạc bộ hạ sĩ quan để ăn điểm tâm, còn một nửa –trong số đó có tôi--xuống phòng ăn học sinh. Gian nhà mốc meo này không hiểu duyên nợ gì với chúng tôi mà đã một năm nay, Peloton 1 cũng có, Peloton II cũng có mà chưa “thoát ly” khỏi.

    Chúng tôi ngồi quay quần xung quanh một bình càfé sữa lạnh và loãng như nước lã, vẩn đục như nước cống, một vài miếng bánh tây gỗ, vài thoi “súc cù -là” hạng rẻ tiền…Nhưng câu chuyện vẫn không kém phần lý thú trong một bầu không khí thân mật. Trong số người ngồi cùng bàn với chúng tôi có cả những bạn bị loại từ đầu khoá đến nay…

    Những chàng trai tuổi suýt soát 20, 21 mới rời ghế nhà trường, còn đang xây nhiều mộng đẹp, lần đầu tiên bước chân ra đời đã phải nếm mùi thất bại chua cay… Thân thế, sự nghiệp dở dang. Ngày này qua ngày khác, khắc khoải, hết ăn lại nằm để chờ ngày xuống tàu hồi hương với hai bàn tay trắng…Rồi ngày mai, ngày mai vô định, ngày mai đen tối đang chờ họ, không phải vì họ bất tài mà vì định mệnh khắt khe, đã bắt phải gặp rủi ro, đi từ thất bại này đến thất bại khác.

    Có lẽ tôi sẽ là một trong số những người đó…nhưng tôi đã cố vùng vẫy để thoát khỏi cái số phận đen đủi, nó cứ theo đuổi tôi mãi mãi.

    Sức người có hạn, may mắn thay trước khi tôi ngã gục, nó đã chán nản mà bỏ tôi…Nhưng trước khi nhả tôi, nó hằn học dùng hết quyền lực để hại tôi.

    Và đây, linh tính hôm nay như báo cho tôi biết sắp có một việc gì hãi hùng ghê gớm lắm sắp xảy ra.

    9giờ 00…Các bạn bị loại về phòng.

    Tôi lủi thủi lên phi đoàn, uể oải khoác bộ đồ bay, ôm casque, ra ngăn dù. Người mệt mỏi khác thường vì thiếu ngủ---tối hôm qua bay đêm mãi tới khuya mới về. vác dù mà tôi có cảm tưởng như vác một cái cối đá.

    9giờ 15…Hôm nay tôi sẽ phải bay, sẽ phải đáp xuống sáu lần để huấn luyện viên và ban chấm thi cho điểm…Tôi thầm khấn là sẽ không gặp gió ngang quá mạnh mẽ và sẽ qua được kỳ thi cuối cùng này, nó quyết định sự “thành hay bại” của tôi.

    Phòng hội họp hôm nay khác thường.

    Bầu không khí vui vẻ, mỗi người chăm chú nghe huấn luyện viên của mình giảng bài trước tấm bảng đen chi chit những con số và những hình vẽ ngang dọc. Hình “Patron Nato” hóc hiểm , hình “ Tourde Pist” và “ Percée Rang” ngoằn ngoèo…

    Ngoài sân đậu, tiếng động cơ của mấy chiếc T.6 làm “pointfixe” đang nổ dữ dội.

    Tôi lặng lẽ đi vào ngồi ở một góc phòng… vừa lúc huấn luyện viên của tôi đi tới. Ông ta mỉm cười khi nhìn thấy nét mặt lo âu của tôi, thân mật bắt tay dẫn tôi lại phía tấm bảng đen…

    Trong khi huấn luyện viên chỉ dặn tôi vài điều cần thiết khi hạ cánh thì đại úy Durand, chỉ huy trưởng của Đệ II Phi Đoàn im lặng đứng, đôi mắt cú mèo đang quan sát những “ nạn nhân tương lai” của ông ta…

    Các bạn tôi chắc không ai quên được tên vị hung thần này…Ông ta có cái nhìn kiêu hãnh, soi mói của kẻ bề trên, khiến ai cũng phải nể sợ, và sợ ông ta nhất là những học sinh sắp bị ông ta tấp tểnh cho “la quille”.

    Muốn đuổi ai, ông ta sẽ cho qua một kỳ thi gọi là: “Eliminatoire”. Dù làm việc được hay không, ông ta cũng tười cười, vỗ vai, an ủi. Nếu chiều hôm ấy mà bạn được từ từ gọi lại “bureau” thì…ngày hôm sau cứ yên chí ngủ đến trưa. Bạn sẽ không bao giờ có tên trong “lệnh bay” nữa.

    10giờ 00

    Chúng tôi lần lượt vác dù ra phi cơ, phi đoàn lại vắng teo. Ngoài sân ánh nắng gay gắt. Tiếng một vài chiếc máy bay cất cánh nghe rền rĩ và buồn buồn…

    Tôi chạy lại hàng máy bay T. 6D. Gió cánh quạt thổi tung chiếc khăn quàng cổ màu vàng và đỏ---dấu hiệu của học sinh phi công Việt Nam. Anh thợ máy giơ ngón tay cái ra hiệu “máy tốt”.

    Tôi giật mình …khi thấy con số “123”.

    Lại chiếc 123. Chiếc máy bay mà hôm qua tôi vừa bị đụng cánh với chiếc 107 của Đệ I Phi Đoàn.

    Huấn luyện viên giúp tôi siết chặt dây nịt, đóng cockpit và mỉm cười. Tôi “cho máy bay” từ từ ra khỏi sân đậu… đưa mắt lo ngại nhìn chiếc ống gió (manche à air) căng thẳng: Gió ngang mạnh ít nhất là 18 gút…

    10 giờ 10

    Coi lại phi cụ một lần chót. Máy bay ra giữa đường bay và sẵn sang cất cánh…

    Đài kiểm soát ra lệnh “123 cất cánh.”

    Tôi đẩy mạnh tay ga về phía trước…

    1700 vòng một phút. Máy bay vừa rời khỏi mặt đất thì bị một cơn gió mạnh lật úp.

    Cố gượng được, tôi kiểm soát phi cụ lại một lần nữa và bay theo hướng đã định.

    Một lát sau máy bay song song với Piste…Tôi khoan khoái bấm radio báo “123 ở vị trí gió xuôi”.

    Trường Marrakech lúc bấy giờ trông nhỏ như một món đồ chơi…Từng đoàn máy bay từ từ bò trên sân như những con mối đang bò…Xa xa làng mạc, núi non đều thu nhỏ lại như một hòn non bộ…

    11giờ 20

    Máy bay dáp xuống gần sát ngay lằn trắng. Trong máy vô tuyến tiếng huấn luyện viên khuyến khích: “Khá lắm…Cố lên.”

    11giờ 40

    Đến vòng thứ bốn, người đã thấy mệt, mồ hôi ra ướt chiếc áo kaki trong bộ đồ bay. Tôi đã thấy choáng váng vì tiếng động cơ gầm thét và tiếng radio chát chúa. Tiếng đài kiểm soát: “123 cất cánh ngay đi.”

    Tôi đẩy tay ga về phía trước.

    Tiếng máy gay gắt xé không khí. Lần này nghe tiếng nổ là lạ và rờn rợn. Chiếc mũi máy bay đen ngòm, điên dại xăm xăm chạy về bên trái. Một cái đạp mạnh về phiá phải…vừa lúc một cơn gió ngang thổi bật cánh trái. Mũi chiếc máy bay như con quái vật bị thương ngóc lên cao và rú từng hồi nghe kinh khủng.

    Một lúc sau máy bay rời khỏi mặt đất. Khi hai bánh xe vừa được xếp lại, tôi vừa kéo tay ga lại 30 pounces thì bỗng nhiên thấy im phăng phắc…

    Cánh quạt từ từ quay rất chậm và yếu dần.

    Hốt hoảng, tôi liếc mắt kiểm soát nhanh các đồng hồ trong buồng máy. Kim đồng hồ và những con số nhảy nhót trước mắt tôi.

    Nhìn ra ngoài mặt đất đang dâng lên vun vút.

    Mọi vật quanh tôi, cây cối nhà cửa chạy giật lùi, loang loáng như một màn sương bao phủ.

    Gần đâm xuống đất rồi. Không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi hét trong máy vô tuyến “123 panne au décollage” và ấn mạnh commande des volets xuống.

    Chiếc 123 với tốc độ ghê gớm sắp lao vào máy nhà đất trước mặt.

    Bên tai tôi bấy giờ có những tiếng ồn ào lúc xa lúc gần như tiếng người nói chuyện trong một toa xe lửa…Giữa bao tiếng động hỗn loạn ấy, tôi nghe rõ mồn một như có tiếng ai bảo: “Cứ xuống thẳng, xuống thẳng đừng quẹo”. Tôi nhắm mắt thất vọng, vài giây sau nghe thoang thoảng “Arondissez. Arondissez”

    Như trong cơn mê, tôi ngoan ngoãn nghe theo những tiếng kêu tha thiết đó.

    Bỗng nhiên thấy bình tĩnh trở lại, tôi liếc nhanh nơi “ indicateurs des trains”, xem bánh đáp đã vào thật chưa…Tưởng tượng trong óc chiếc máy bay của tôi nay như một quả bóng khi chạm mặt đất hay chướng ngại vật rồi lật ngược cháy như một ngọn đuốc …

    Trong một khoảnh khắc, mồ hôi ra như tắm, các giác quan ngừng làm việc…

    Vừa lúc một tường đất đâm thẳng lại, chưa kịp nhắm mắt thì một tiếng ầm dữ dội . Người tôi bị văng ra trước. Cả chiếc máy bay đồ sộ, bắn lên rồi rơi xuống với tiếng động của một toà nhà bị bom. Bụi cát bay mù mịt. Mặt đất dốc như bức thành trước mũi máy bay…

    Tôi ngất đi và không biết gì nữa.

    Giữa những tiếng rào rào, những tiếng đổ vỡ, linh hồn nửa như muốn rời khỏi xác, nửa như tiếc thương không nỡ…Những kỷ niệm hồi thời thơ ấu, hình ảnh của quãng đời học sinh hiện lại trong trí nhớ…Cả những ngày nơi xứ người với bao đắng cay.

    Cuốn phim dĩ vãng được quay lại, vội vã, chớp nhoáng, hỗn loạn bao âm thanh màu sắc.

    Một lúc sau bừng tỉnh dậy, tôi ngơ ngác thấy mình còn sống…Một dòng máu nóng chảy từ vết thương trên trán, nhuốm ướt một khoảng lớn phiá trước bộ áo bay.

    Bốn bề im lặng …

    Bụi cát vẫn mù mịt…

    Một phút im lặng rùng rợn sau bao tiếng động kinh hồn. Rờn rợn như giữa một bãi tha ma. Chiếc 123 chỉ còn là một đống sắt vụn ngoan ngoãn nằm áp bụng trên bãi cỏ hoang. Cockpit bật ra phía sau. Bụi và cát hoà cùng máu thành những vết đen xạm.

    Có tiếng chân người chạy lại…

    Tôi lặng lẽ ngẩng bộ mặt đẫm máu nhìn lên. Đó là những người Maroc cuốc đất gần đấy.

    Họ thở hổn hển vừa cố sức lôi tôi ra, vừa rối rít xúm quanh ân cần hỏi: “Ca va petit”. Cởi một bên dây nịt vì bên kia đã đứt, tôi cảm động nhìn mấy người bạn ngoại quốc gật đầu.

    Khi đó xe hồng thập tự và bảy xe chữa lửa bấm còi ầm ỹ phóng lại với hết tốc lực.

    Huyấn luyện viên của tôi trên xe chạy bổ xuống, theo sau là mấy người y tá… Họ đem tôi vào trong xe hồng thập tự và chở về bệnh viện.

    Nằm trên chiếc nệm trắng toát của nhà thương, tôi mỉm cười và tự hỏi: “Thế ra mình chưa chết à?”

    Có tiếng ồn ào ở phòng ngoài.

    Một lúc sau cánh cửa mở. Tôi hồi hộp nhìn ra.

    Một “núi” lon đi vào, đi đầu là đại úy Durand, vị hung thần của Đệ Nhất Phi Đoàn. Ông ta lạnh lùng đứng nhìn vết băng trên đầu tôi một hồi lâu. “ C’est bien.” Đó là tiếng độc nhất ông ra thốt ra trước khi ra về.

    Sau đó là sĩ quan điều tra tai nạn.

    Ông ta vặn tôi nhiều câu thật khó trả lời.

    Câu chuyện trong vòng bí mật và rắc rối…vì thợ máy thì đổ thừa cho người lái…

    Bao nhiêu tội vạ thường đổ vào đầu những anh chàng phi công xấu số…Nhưng nếu bị tử nạn thì họ sẽ tặng cho những vòng hoa tuyệt đẹp và những bài điếu văn lâm ly…Chẳng may mà còn sống sót thì sẽ là mục tiêu cho bao sự sỉ vả, bao sự rắc rối, lôi thôi.

    12giờ 00

    Ánh nắng trưa gắt…

    Cảnh vật im lìm, bình thản như không biết có một tai nạn rùng rợn vừa xảy ra.

    Chiều về, các bạn tôi lại tiếp tục bay lượn trên nền trời cao rộng… Còn riêng tôi, lặng lẽ nhìn qua khung cửa của bệnh viện. Dãy núi Atlas nhắc tôi nhớ đến một khung cảnh trên đất nước Việt Nam thân yêu.

    Tôi mơ đến ngày trở về quê hương.

    Đặng Trần Dưỡng
    (trích từ tập truyện ngắn Những Mảnh Trời Khác Biệt)
    Last edited by Mộc Châu; 07-03-2014, 05:04 AM.

    Comment


    • #3
      Bay Vào Giông Tố

      (Tưởng nhớ cố hoa tiêu Nguyễn Thiện Kiều đã hy sinh trong một phi vụ thả diều tiếp tế.)



      Ngay cả những ngày đẹp trời, thành phố Đà Nẵng đối với người trẻ tuổi từ Sài Gòn ra đã là một thành phố quá buồn. Bởi vì Đà Nẵng không có những âm thanh phức tạp ồn ào của đô thị Sài Gòn, không có ngã tư đèn xanh đèn đỏ, không có hàng xe hơi nối đuôi nhau mà chạy, không thể tìm một khúc phố nào có bộ mặt tấp nập như đại lộ Lê Lợi Sài Gon…

      Đà Nẵng là một thành phố yên lặng với những dãy nhà kiến trúc cổ điển, với nếp sinh hoạt coi như quá chậm chạp. Không gì buồn bằng nhìn một viên cảnh binh đứng giữa một ngã tư ở Đà Nẵng, ngơ ngác nhìn quanh để mong có chiếc xe hơi chạy tới cho mình thi hành nhiệm vụ chỉ đường.

      Bão không làm đổ cây, bay mái lá, nhưng bão mang tới những trận mưa dài lê thê như không bao giờ dứt. Trời xuống thấp, u ám một cách sốt ruột, mưa cứ đổ trên thành phố như thế từ ba hôm nay.

      Có lẽ những với những người địa phương, những ngày mưa bão nối tiếp nhau như thế này không làm họ nóng lòng nữa. Bởi vì từ khi sinh ra trong thành phố này, sự yên tĩnh của không gian đã tôi luyện cho họ một đức tính kiên nhẫn rồi.

      Nhưng một bọn người trẻ tuổi, một phi hành đoàn trên phi cơ vận tải, tới Đà Nẵng từ hai hôm nay đã thực là sốt ruột vì " mưa cứ rơi ầm ề, ngày cứ dài lê thê".

      Năm người trẻ tuổi ấy, bởi vì mưa gió đã không thể tung mình trên mây gió được và vì thành phố quá buồn nên chả biết làm gì hơn là ngồi dài trong phòng trà mà uống hết ly cà phê này đến ly cà phê khác, nghe nhạc ngoại quốc, nói chuyện phiếm và thở dài nhìn ra ngoài trời mưa gió. Ánh sáng thực buồn của không gian mưa bão đã nản đến độ không thể ước lượng được "mấy giờ" rồi?

      Giọng trầm của Nat King Cole ngân lên trong một bài ca nhịp boston não nuột khiến cho trà thất chìm trong không khí u buồn. Khách của phòng trà chỉ có năm người trẻ tuổi và tôi, ngồi từ sáng đến giờ.

      Tôi và Hưng ngồi ở một bàn góc phòng ngả người trên ghế bành, mắt nhắm lại như muốn ngủ.

      Bàn bên cạnh là bốn người trại khác: Kiều, hoa tiêu đang đánh cờ với Khang, vô tuyến phi hành. Đăng chuyên viên cơ khí và Hượt hoa tiêu phụ đang giết thì giờ bằng cách ngồi nhìn nước cờ của Kiều và Khang.

      Nàng chiêu đãi của trà thất, vì chúng tôi ngồi đã quá lâu, nên cũng bình tĩnh ngồi sau quầy xem tiểu thuyết, chỉ thỉnh thoảng quay mình để thay một dĩa nhạc. Giọng trầm của Nat rền rĩ:

      - I went to your wedding…Hưng vẫn nhắm mắt nói với tôi:

      - Ngày này tháng trước, tao đang ở Tokyo, hôm ấy tao cũng nghe đĩa Nat này trong tiệm nước, nhưng sung sướng hơn vì bên cạnh tao là một kiều nữ Phù Tang chứ không như hôm nay, trước mặt tao lại là mày, trong cái cảnh mưa bão này . Thực không còn gì có thể nản hơn được.

      Tôi cười:

      - Anh nói thế là hơi nhảm nhé. Tôi như thế này mà anh lại dám chê à? Anh nên nhớ rằng ở trên đời này có một người thiếu phụ có chồng, có con mà vẫn yêu tôi tha thiết.

      Hưng ngồi bật dậy, mở mắt nhìn tôi:

      - Nàng là ai mà "can đảm" thế?

      Tôi khoát tay:

      - Bà xã tôi.

      Hưng rú lên cười.

      Bàn bên kia Kiều cũng quay sang cười rộ.

      Khang nín cười nhìn ra đường:

      - Cứ mưa bão như thế này đến mai thì "khóc thét lên" còn gì.

      Đăng :

      - Mai có bọn nó ra thay phiên rồi.

      Kiếu nhăn mặt nhin Đăng:

      - À, cái thằng này nhảm thực. Tao đâu có mong bọn nó ra thay phiên. Tao chỉ cần bay được mà "thả cho họ " thôi chứ.

      Kiều cúi xuống đưa ngón tay đẩy một đường "tốt".

      Khang cười bâng quơ:

      - Sài Gòn bây giờ chắc đang vui lắm.

      Hưng quay sang:

      - Thì vẫn thế. Lại có những nhà "mại dô" hò hét, có một núi những " văn bựa thị mẹt" diễu lên diễu xuống.

      Đúng lúc ấy có tiếng xe hơi đỗ ngoài đường.

      Cả bọn tôi nhìn ra. Một vị sĩ quan Bảo An khoác áo mưa , bước vào quán . Anh bạn Bảo An cởi áo, bỏ mũ. Chúng tôi nhận ra ngay là viên sĩ quan công tác với chúng tôi trong việc thả dù tiếp tế cho những đồn biên giới, những đồn binh ở hiểm địa, những nơi mà thực vất vả và nếu phải liên lạc bằng đường bộ xuyên rừng núi.

      Viên sĩ quan Bảo An vào, bắt tay chúng tôi, rồi ngồi bên cạnh Kiều

      Kiều sau khi bắt tay người mới tới, cúi xuống đưa tay chạy ngang con "xe". Kiều nhìn Khang:

      - Chiếu tướng !

      Khang gãi tai gác sĩ lên :

      - Lấy cái gì mà chiếu? Nghèo mà ham!

      Tôi nhìn viên sĩ quan Bảo An:

      - Uống gì anh?

      Viên sĩ quan nhìn tôi:

      - Cám ơn anh.

      Rồi nói với người nữ chiêu đãi viên:

      - Cô cho một ly cà phê.

      Tôi:

      - Anh tìm bọn tôi hay đi chơi.

      Viên sĩ quan:

      - Tôi đi kiếm các anh . Ngày mai tôi sẽ được đi phép nếu các anh thả giúp cho ngày hôm nay.

      Tôi chỉ sang Hưng :

      - Anh nên nói với "xừ" này. Tôi không phải người trong đoàn. Tôi ra đây công tác.

      Viên sĩ quan Bảo An quay sang Hưng:

      - Anh có cách nào giúp tôi không?

      Hưng mở mắt nhìn viên sĩ quan rồi chỏ sang Kiều:

      - Anh nói với tên này. Trưởng phi cơ đấy.

      Viên sĩ quan lại quay lại phía Kiều:

      - Gia đình tôi ở Sài Gòn, xin anh cố giúp tôi cho xong ngày hôm nay được không?

      Kiều nhìn người đối thoại:

      - Bọn tôi cũng ở Sài Gòn, ngày mai là hết nhiệm vụ, chúng tôi cũng sẽ trở về. Anh không nên nói chuyện "giúp đỡ". Bởi vì chúng tôi cũng bay vì công vụ. Anh có nhớ hôm qua mình bay ba lần mà đều công toi. Sáng nay thêm một lần nữa cũng vô ích, mệt xác, nguy hiểm nữa. Sở dĩ bọn tôi ngồi đây, rất nóng ruột, nhưng phải chịu, là vì thời tiết.

      Viên sĩ quan Bảo An bèo nhèo:

      - Tôi tưởng nếu anh hết sức cố hộ...

      Kiều ngắt lời, giọng bất bình:

      - Anh không nên nói thế...Rồi chỉ vào Khang:

      - Nếu tên này mà nói câu vừa rồi như anh thì tôi đã tặng cho nó một trái Eddie Constantine rồi. Bây giờ, cả sáu thằng này (chỉ từng người một trong bọn tôi). Một, hai, ba , bốn, năm sau...Không thằng nào giúp được anh cái gì cả.(chỉ ra ngoài trời) Chỉ trời giúp anh được thôi, bằng cách kéo mây mù đi và mưa nhẹ hạt hơn một chút, gió đừng quá mạnh như thế.

      Viên sĩ quan Bảo An nhăn nhó:

      - Anh hiểu cho rằng có nhiều đồn xin tiếp tế từ hơn tuần lễ nay rồi.

      Hưng ngồi bật lên nhìn viên sĩ quan:

      - Anh nói thế" có hơi buồn" đấy nhé. Anh nghĩ rằng chúng tôi lấy cớ thời tiết để ngồi ỳ ra ở đây sao?

      Viên sĩ quan yên lặng, bọn tôi cũng lặng thinh. Một bầu không khí nặng nề ôm bọc chúng tôi. Giữa lúc ấy có những tiếng cười rộ lên, những tiếng cười mở đầu của đĩa hát Qué Lala lúc này thật vô duyên quá.

      Khang đẩy con mã:

      - Chiếu tướng!

      Quay lại viên sĩ quan Bảo An:

      - Anh cũng nên biết là chúng tôi ngồi đây rất sốt ruột, để chờ tin tức khí tượng. Chúng tôi có dặn đài, là nếu thời tiết ở vùng công tác mà bớt xấu, xin cho gọi chúng tôi về bay. Anh có cần chúng tôi nhắc lại là chúng tôi chỉ đợi thời tiết "bớt nguy hiểm " là bay ngay không?

      Giữa lúc ấy có tiếng xe hơi đỗ ở ngoài đường. Chúng tôi quay ra. Một chiếc Dodge Không Quân.

      Kiều đứng bệt lên kêu lớn "Ôlê".

      Cả bọn chúng tôi ra theo. Trời vẫn còn mưa bão.

      ****

      Tôi theo bọn Kiều về căn cứ.

      Mưa bão trên thành phố Đà Nẵng vẫn nặng chĩu như hồi sáng, như hôm qua, nhưng đài khí tựơng cho biết là ở vùng công tác thời tiết đã thay đổi đôi chút có hy vọng thả được.

      Máy bay của chúng tôi ầm mưa ngoài phi đạo, lương thực tiếp tế đã chất sẵn. Chúng tôi ra ngay máy bay, chở thêm một số binh sĩ Bảo An và toán binh sĩ nhảy dù phụ trách công tác, dĩ nhiên là có cả viên sĩ quan Bảo An.


      Viên sĩ quan Bảo An vui mừng rối rít

      Toán binh sĩ tò mò nhìn vào phòng máy.

      Kiều ngồi vào ghế hoa tiêu, mở máy.

      Mưa như xối vào mặt kính trước nghe rào rào.

      Cánh quạt bên phải quay, cánh quạt bên trái quay.

      Hai cánh quạt quay nhanh ần theo tiếng động cơ rồ mạnh

      Bánh phi cơ bắt đầu chuyển, phi cơ tiến dần ra phi đạo. Ngưng lại một chút ở đầu đường bay, động cơ rồ lên một lần nữa. Cất cánh.

      Tàu lên cao, tôi nhìn những hăng-ga, nhà cửa đường lộ, cây cối ở dưới chỉ còn bé như mô hình trong phòng triển lãm.

      Mưa vẫn tưới mạnh vào kính trước. Máy bay chui từ đám mây này tới đám mây khác, tàu nhồi quá.

      Tôi nhìn ra phía sau. Viên sĩ quan Bảo An và toán binh sĩ mặt xanh lét, cằm như dài ra. Trời thực xấu, tàu nhồi thế này không quen thì chịu gì nổi.

      Trời bão mù, tôi nhìn về phía trước, chỉ thấy một màu đục thực ảm đạm. Kiều cầm ống nói, liên lạc với đài kiểm soát. Hưng vất vả tính lại đường bay, chiều gió. Tôi hỏi Kiều:

      - Liệu có thả được không?

      Kiều nhìn sang tôi, vừa hỏi lại vừa nhắc ống nghe khỏi tai:

      - Mày nói cái gì?

      Tôi cúi nói vào tai Kiều:

      - Liệu có thả được không?

      Kiều gật gù tỏ vẻ hoang mang, lẩm bảm oán trách trời:

      - Trời với đất. Nhảm. Đồn Ashau báo cáo hết lương thực tù mấy hôm nay rồi.

      Đã bốn mươi phút bay trên khu núi non hiểm trở mà trời vẫn mịt mù, không thể nào thấy được ở dưới.

      Kiều nhìn Hưng.

      Hưng quay lại phía viên sĩ quan Bảo An:

      - Anh tính sao? Trưởng phi cơ cho rằng không thể thả được.

      Viên sĩ quan Bảo Anh thở dài :

      - Về vậy!

      Hưng đập vai Kiều.

      Kiều quay lại. Hưng úp bàn tay lượn một vòng.

      Kiều gật đầu, quya máy bay về.

      Tàu cứ bay trong mưa gió âm u như thế mười phút nữa. Đột nhiên Kiều la lên:

      - Nhìn kìa!

      Chúng tôi đổ dồn mắt về phía trước.

      Phía trước đột nhiên có một vùng sáng hẳn lên. Dưới bầu trời sáng ấy trong lòng một thung lũng, tôi thấy một cái đồn nhỏ. Dưới đồn người ta đốt lửa, khói bốc lên để phi cơ tìm chiều gió.

      Hưng hét lên:

      - Đồn số Sáu.

      Viên sĩ quan Bảo An chụp lấy máy truyền tin, liên lạc với dưới đật Anh nói với Hưng:

      - Đồn số Sáu. Họ đốt khói chờ mình từ sáng đến giờ. Thả không?

      Kiều hét lên :

      - Thả chứ! Mau lên, mưa bão kéo tới bây giờ

      Viên sĩ quan Bảo An vội vã vào trong hối binh sĩ sửa soạn. Kiều cho tàu lượn một vòng.Hưng tính gió, dặn dò Kiều. Tàu xuống thấp dần, thấp dần.

      Tôi nhìn rõ khu doanh trại của đồn số sáu, nhìn rõ một đám người nhỏ tí tụ nhau ngoài trời ngước nhìn lên máy bay của chúng tôi. Họ đang múa lên vì vui mừng. Lá cờ bay phất phới trên ngọn cột cờ giữa đồn cũng tung lên từng hồi.

      Tàu lượn vòng thứ hai, Kiều giơ tay bấm nút điện. Chuông rung lên , đèn hiệu bật đỏ .

      Tôi nhìn về phía sau.

      Viên sĩ quan Bảo An hét lên ra lệnh cho binh sĩ đẩy từng bao lương thực ra khỏi cửa tàu.

      Năm chiếc dù lương thực tung ra,bay là đà trông đẹp như năm cánh hoa màu sắc. Tôi nhìn theo dù bay xuống, mắt thường thấy như là bị lạc quá xa. Nhưng trái lại, cả năm chiếc dù cùng tới trúng đích một cách kỳ lạ.

      Tàu lượn trên bầu trời sáng của đồn số sáu được ba lần, thả mười lăm bao lương thực. Chúng tôi say mê thả dù, quên cả thời tiết.

      Tới khi đủ cả lương thực cho đồn số Sáu, tôi mới nhận ra là bão đã qua rồi. Trời sáng hẳn lên, những đám mây nặng đã bay đi, mưa chỉcòn phơ phất. Kiều nhất định cho tàu quay lại, mặc dù lúc ấy đã mười hai giờ ba mươi, tất cả đều chưa ăn cơm trưa. Chuyến bay đầu này thả thêm cho đồn A Lưới ba lần mười lăm dù nữa thì hết lương.

      Tàu phải trở lại phi trường để lấy đồ.

      Suốt chiều hôm ấy, chúng tôi thả thêm được nhiều tấn thực phẩm nữa cho các đổn Tourout, Cha Lăng và Cà Sa. Sáu giờ chiều thì mưa bão lại tới.

      Chúng tôi trở lại phi trường. Bay gần tám tiếng, bụng đói mà không đứa nào thấy mệt. Khi hai cánh quạt ngừng lại, chúng tôi xuống máy bay, đội mưa đi vào hăng-ga. Khang lúc ấy mới kêu lên :

      - Đói.

      Viên sĩ quan Bảo An hòa theo :

      - Đói thật.

      Kiều cười:

      - Mình chịu đói một bữa cho năm đồn ấy no.

      Câu nói của Kiều làm dâng lên trong lòng tôi một xúc động thục mạnh. Tôi nhìn Kiều, chưa bao giờ tôi "yêu " người thanh niên nào như thế.

      ******

      Mưa bão Đà Nẵng thật buồn, nhưng mà buổi tối, trời mưa, ngồi ở trà thất này nghe nhạc dìu dặt ấy dễ làm cho người ta thành thi sĩ. Bọn chúng tôi ăn cơm xong chả biết làm gì, lại ngồi dài ra trà thất uống cà phê. Nhưng bây giờ trong trà thất không phải chỉ có chúng tôi như buổi sáng mà có thêm năm bảy bậc hào hoa của bến sông Hàn nữa. Kiều nhìn Khang:

      - Đi một đường xe pháo nữa?

      Khang nhún vai:
      - Đi thì đi nào có ngán.

      Đang và Hượt lại ngồi chầu rìa bàn cờ.

      Tôi và Hưng lại ngồi dài hút thuốc.

      Giữa lúc ấy, cô H. nữ chiêu đãi viên của trà thất này bước tới bên bàn tôi. Nàng H. có một mớ tóc dài thục là lả lướt. Nàng mặc nguyên bộ đồ dài đen, da nàng trắng, mắt nàng long lanh, môi nàng hồng .

      Ôi vẻ đẹp ấy trong một tối mưa buồn, trong tiếng nhạc say sưa này khiến cho ai mà chả muốn thành thi sĩ. Cho nên trong một phút bốc đồng, tôi nhìn nàng trìu mến như là đã yêu nàng từ ngày xa xưa ấy. Tôi giọng ra cái điệu buồn:

      - Mai bọn này về Sài Gòn rồi, buồn quá H.ơi!

      Hưng giật mình nhìn tôi rồi nhìn nàng H.

      Nàng H. cười duyên ghê:

      - Thôi, mai về là vừa . Sướng bằng chết còn than buồn.

      Tôi não ruột:

      - Lấy cái gì mà sướng hở H.? Sài Gòn với bọn này chỉ là tổ sầu thôi, mùa xuân không có hoa mà . Nghĩa là Sài Gòn làm bọn này cảm thấy rõ là mình cô đơn quá,là " tè ra mình chưa có vợ" . Nghĩa là mình chỉ có một mình.

      Nàng H. cười:

      - Thì lấy vợ đi. Ai đánh thuế ?

      Tôi phân trần:

      - Nhiều lúc cũng muốn lấy vợ chứ, nhưng mà bọn này thì có ai điên mới chịu lấy. H. thử tưởng tượng xem nếu H. có một người chồng " bay tùm lum", sáng Sài Gòn, chiều Đà Nẵng, nay Huế, mai Qui Nhơn, mốt Tokyo, mốt nữa Mani...thì liệu H. có chịu được không?

      Nàng H. cười có đuôi con mắt:

      - Chịu chớ, như thế mới là "anh hùng" !

      Hưng ngồi bật lên:

      - Thực không H.? H. làm ơn nói lại giùm câu ấy cho " ta đây " cảm động nào.

      Kiều phì cười nhìn sang phía chúng tôi:

      - H.ơi, đừng có nghe mấy thằng đó, hư hết bây giờ!

      Tôi và Hưng cùng kêu lên:

      - Ơ kìa, lạ nhỉ!

      Huy Sơn

      Sài Gòn 1963

      (trích từ tập truyện Những Mảnh Trời Khác Biệt)
      Last edited by Mộc Châu; 07-10-2014, 05:37 PM.

      Comment


      • #4
        Cuộc chiến thầm lặng trong các thư viện



        Tác Giả
        Nguyễn Hưng Quốc


        Trong chuyến đi thăm và làm việc ở các thư viện thuộc các đại học lớn nhất ở Mỹ, như Harvard và Cornell, tôi có hai ấn tượng nổi bật nhất.

        Thứ nhất là sự bành trướng của sách báo từ Trung Quốc. Tất cả các kho sách tiếng Việt đều nằm trong khu vực Á Châu, do đó, lúc nào cũng nằm cạnh kho sách Tàu. Sách tiếng Việt càng ít ỏi bao nhiêu, sách tiếng Tàu càng giàu có bấy nhiêu. Chúng tràn lan khắp nơi. Chẳng hạn, ở thư viện Harvard-Yenching thuộc đại học Harvard, nơi có các bộ sưu tập sách báo bằng nhiều ngôn ngữ Á Châu như tiếng Việt, tiếng Hoa, tiếng Nhật, tiếng Đại Hàn, tiếng Mông Cổ, tiếng Tây Tạng, bộ phận sách báo tiếng Hoa lấn át hẳn các bộ phận khác. Hết kệ này đến kệ khác, trùng trùng điệp điệp.

        Khu vực dành cho tiếng Hoa vốn đã lớn, lớn nhất trong thư viện. Vẫn không đủ. Nó lấn sang các khu vực khác, trong đó có khu vực sách báo bằng tiếng Việt. Khu sách báo tiếng Việt vốn đã nhỏ, do đó, càng ngày càng nhỏ thêm. Nhiều cuốn sách và tạp chí phải bị di tản vào kho, cách thư viện khá xa. Ai muốn đọc thì yêu cầu, nhân viên sẽ chuyển từ kho đến. Nhưng như vậy thì có hai sự khó khăn. Một là rất khó biết được sự hiện diện của các cuốn sách và tờ báo ấy. Hai là mất khá nhiều thì giờ, nhanh nhất là một hay hai ngày mới cầm được trên tay các cuốn sách hay tờ báo mình cần. Cả hai cái khó ấy đều dễ làm giới nghiên cứu nản lòng.

        Thư viện Harvard-Yenching thuộc đại học Harvard.

        Ở thư viện Carl A. Krouch thuộc đại học Cornell, nơi được xem là có kho sách Á Châu (chủ yếu là Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á) lớn nhất ở Bắc Mỹ với khoảng gần một triệu bản in và trên nửa triệu microfilm khác nhau, tôi cũng lại thấy sách Tàu trùng trùng điệp điệp. Phòng nào cũng có sách Tàu. Sách Tàu tràn từ phòng đọc đến các tầng chứa sách rộng mênh mông và sâu hun hút. Sách Tàu lấn mọi ngôn ngữ khác. Và cũng giống như ở thư viện Harvard-Yenching, khu vực sách tiếng Việt cũng phải bị thu nhỏ lại. Rất nhiều cuốn sách và tờ báo giá trị phải bị di tản sang các thư viện khác, nhỏ và xa hơn, hoặc chui vào một cái kho tối tăm nào đó.

        Hiện tượng sách báo Tàu tràn lấn khắp thư viện như vậy kể cũng dễ hiểu. Một là, không thể chối cãi, Tàu là một nước lớn, không những lớn về địa lý, kinh tế và quân sự mà còn lớn cả về văn hóa: sách báo của họ phong phú, đa dạng và không ít thứ đặc sắc. Hai là chính phủ Trung Quốc rất có ý thức trong các cuộc xâm lăng văn hóa. Họ, bằng nhiều cách khác nhau, kể cả việc tự bỏ tiền, cung cấp sách báo cho các thư viện Tây phương, đặc biệt các thư viện ở đại học. Chả có ai đủ can đảm để từ chối các món quà dưới nhãn văn hóa ấy cả. Cuối cùng, do sự phát triển của Trung Quốc những thập niên gần đây cũng như do viễn tượng Trung Quốc sẽ là siêu cường quốc số một trên thế giới trong vài thập niên tới, nhu cầu nghiên cứu về Trung Quốc càng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nhu cầu nghiên cứu ấy càng lớn, nhu cầu mở rộng kho sách tiếng Tàu lại càng cao và càng khẩn thiết. Không có quản thủ thư viện nào, dù thương các ngôn ngữ khác đến mấy, có thể ngăn chận được đà bành trướng của khu vực sách tiếng Tàu cả. Để đáp ứng được đà bành trướng ấy, một số ngôn ngữ nhỏ và thu hút ít học giả cũng như nghiên cứu sinh hơn phải tự thu hẹp lại. Trong số đó, có tiếng Việt.

        Thứ hai, trong khu vực sách tiếng Việt, là sự tràn ngập của sách báo từ trong nước. Cứ bước vào các kho sách tiếng Việt ở Harvard hay Cornell mà xem: Ở đâu cũng đầy sách báo từ trong nước. Ở thư viện Carl A. Krouch, Cornell, riêng các cuốn sách viết về Hồ Chí Minh thôi, cũng đã đầy cả mấy dãy, cao nghều nghệu: hết tác phẩm của Hồ Chí Minh đến các tác phẩm viết về Hồ Chí Minh; viết về ông, hết sách bàn về tiểu sử đến sách bàn về công trạng và, đặc biệt, về "tư tưởng" của ông. Lâu nay, tôi theo dõi sách báo từ trong nước khá kỹ, nhưng thú thực, tôi cũng không thể tưởng tượng là sách viết về Hồ Chí Minh lại nhiều khủng khiếp đến như vậy.

        Nói chung, sách báo về chính trị và lịch sử xuất bản ở Việt Nam, được viết theo quan điểm của đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều vô cùng. Tràn ngập.

        Lọt thỏm giữa các cuốn sách từ Việt Nam ăm ắp ấy là một số sách và tạp chí xuất bản ở hải ngoại hoặc ở miền Nam trước đây.

        Xin lưu ý là cách đây ngót 30 năm, thư viện Harvard và Cornell vốn nổi tiếng là có nhiều sách báo từ miền Nam. Các nhà văn, nhà thơ và học giả Việt Nam, cũng như về Việt Nam, muốn tìm tài liệu trước năm 1975 thường vào hai thư viện này (cùng với thư viện Quốc hội Hoa Kỳ). Bây giờ, hầu hết các cuốn sách và tờ báo ấy bỗng dưng biến mất trên các kệ.

        Thật ra, chúng không mất. Chúng chỉ bị đẩy vào kho, xa khuất hẳn tầm mắt mọi người. Lý do: người ta ưu tiên cho việc bày sách báo mới.

        Tôi không chủ trương bài trừ sách báo trong nước. Bản thân tôi cũng từng tìm mua sách báo trong nước. Đối với giới nghiên cứu, sách báo nào cũng cần thiết. Tuy nhiên, chứng kiến sự tràn ngập của đám sách báo sặc mùi tuyên truyền như vậy trong các thư viện của các đại học lớn, tôi không khỏi lo lắng.

        Lâu nay, điều nhiều người Việt Nam ở nước ngoài dễ nhận thấy là phần lớn giới học giả Tây phương đều ít nhiều có tư tưởng thiên Cộng. Điều đó, một phần, xuất phát từ lý do lịch sử: Trước năm 1975, phần lớn trí thức, đặc biệt sinh viên Tây phương, đều có khuynh hướng thiên tả và phản chiến. Sau chiến tranh, các sinh viên ấy dần dần trưởng thành, nắm các địa vị chủ chốt trong giới hàn lâm, tính chất thiên Cộng của họ càng thể hiện rõ rệt qua các tác phẩm họ viết. Phần khác, xuất phát từ các thư viện. Muốn nghiên cứu về Việt Nam, người ta phải đến thư viện; đến thư viện thì người ta chỉ gặp toàn sách báo từ trong nước. Không phải ai cũng đủ kiến thức và kinh nghiệm để phân biệt đâu là thật và đâu là giả. Sử dụng các tài liệu thật giả lẫn lộn như vậy, giới nghiên cứu khó mà có cái nhìn khách quan được.

        Trong hai lý do vừa nêu, lý do thứ nhất thuộc về quá khứ. Nhưng lý do thứ hai vẫn là hiện tại và chắc chắn còn kéo dài trong tương lai nữa. Cuộc chiến trong các thư viện sẽ còn được thấy trong nhiều lãnh vực khác, từ đại học đến học thuật Tây phương nói chung. Và từ đó, sẽ lan rộng ra các lãnh vực khác, từ xã hội đến chính trị.

        Không lo cũng không được.

        NHQ

        http://baotreonline.com/Chuyen-muc-t...yen-Hung-Quoc/
        Last edited by Mộc Châu; 07-10-2014, 05:38 PM.

        Comment


        • #5
          Thi Ảnh Sưu Tầm

          Nguồn: http://hoiquantramhuong.org















          Comment


          • #6
            Lụa Bạch




            LTS. Truyện “Lụa Bạch” của nhà văn Tâm Thanh đã được nhà văn Nguyễn Văn Thà dịch sang tiếng Na Uy và bản dịch đã được một sinh viên Việt-Nauy đọc trong ngày Văn Hóa Việt Nam tổ chức tại Oslo, 3 tháng 5, 2014. Người sinh viên đã phát biểu là rất thích truyện này vì qua đó đã hiểu được nhiều điều về văn hóa Việt Nam và cả tình yêu kiểu Việt Nam. Bản dịch tiếng Nauy của truyện Lụa Bạch được đăng ngay dưới bản tiếng Việt, sau đây. - DĐTK



            Tôi thẫn thờ vào nhà. Con Thư ngồi khóc trên giường. Tôi hỏi, cuối câu mới ra tiếng:

            - Có gì lạ không, con?

            Nó nín khóc:

            - Dạ, ông mục sư tới hỏi có cần gì không. Con nói nhà mình Công giáo, chắc không, nhưng có gì ba sẽ điện thoại.

            Tôi thấy nó trưởng thành. Nó tiếp:

            - Cô Trang gọi, nói để cô mang xôi với gà quay tới.

            Tôi càu nhàu:

            - Con trả lời sao?

            - Dạ, con nói con biết nấu cơm.

            Tôi dịu lại:

            - Bà ấy nói gì nữa không?

            - Dạ không.

            Tôi vào phòng ngủ lục tìm cái áo dài và cái quần lãnh của Hiền. Mấy chục năm trời, áo quần tôi được xếp thẳng thướm đâu vào đó; nếu sai lệch, thiếu sót một tí, tôi chỉ việc càu nhàu một tiếng là Hiền lôi ra ngay - đây là cái áo sơ-mi có cầu vai anh chê chật cả mấy năm không mặc, đây là đôi vớ len, đây là bộ pyjama anh nói giống áo tù Do-thái... Bây giờ tôi lục tung cả tủ áo cũng không kiếm ra cái áo dài lụa trắng.

            - Ba tìm cái gì vậy?

            Con Thư đứng ở cửa phòng tôi từ bao giờ. Hy vọng nó không nghe thấy tôi càu nhàu.

            - Cái áo dài của má.

            - Để làm gì, bây giờ?

            - Mặc cho má.

            - Áo màu gì cơ, Ba?

            - Lụa trắng.

            Từ ngày mẹ bệnh, rồi vào nhà thương, con bé đã cai quản trong nhà như bà cụ non, xó xỉnh nào cũng biết. Nó tìm được cái áo và cái quần tôi muốn. Tôi nói:

            - Con tháo hết các nút bấm ra.

            Con Thư ngoan ngoãn, lấy dao bào, rồi ngồi bệt trên sàn trong phòng nó ở tầng dưới, bắt đầu tháo. Hết khóc, nhưng nấc đều đặn, nó hỏi:

            - Tại sao lại phải gỡ bỏ nút ra, Ba?

            Tôi trả lời:

            - Quần áo mặc cho người chết kỵ kim loại.

            - 'Kỵ' là gì?

            Nó sanh ở nước ngoài, chưa rành tiếng Việt. Tôi giải thích:

            - Kỵ là ... không ưa, không hợp.

            - Con chắc chẳng cái gì kỵ má đâu.

            Đâu có đơn giản như vậy. Tôi nghĩ bụng thế, nhưng không biết đáp lại ra sao, nói:

            - Phong tục người mình như vậy. Mình cứ làm như vậy thôi, con.

            Mọi khi thì nó đã liến thoắng hỏi lại cho ra lẽ, nhưng bây giờ, nó hết linh hoạt, hết tò mò. Đứa con gái vừa mồ côi mẹ 12 tiếng đồng hồ, đầu cúi xuống thúc thủ, tháo mấy cái nút bấm một cách chăm chú, chứng tỏ là nó không muốn cái gì kỵ mẹ nó cả. Những ngón tay của nó giống hệt tay tôi, nghĩa là dài mà xương xẩu, chứ không mượt mà như tay mẹ nó. Nó còn nấc liên tục, lòng tôi nhoi nhói, sợ kim đâm vào ngón tay non nớt, lọng cọng của nó.

            - Lúc con nấc thì ngưng tay đi, không kim đâm.

            - Con có biết lúc nào nấc đâu.

            Tôi lên nhà trên, khe khẽ mở tủ chè mà nó vẫn nghe, nó hắng giặng rồi nói, không cằn nhằn:

            - Ba uống rượu hả?

            Tôi không trả lời, rót rượu. Nó không phản đối. Tôi uống một hớp, cảm thấy như con thuyền đang quay mà chống được con sào xuống đáy sông. Tôi ngồi xuống cái ghế bên cạnh, "chống" thêm vài hơi nữa. Bần thần tay chân, tôi kéo cái hộc tủ: mấy tờ biên lai đòi tiền, cái thư cần trả lời, cục pin chưa biết xài rồi hay chưa, và mấy tấm hình chụp chung với vài cặp tân hôn, chưa biết gắn vào album nào ... Và một xấp giấy lời dặn của Hiền. Lời dặn cuối cùng được viết ở mặt sau cái biên lai Hiền đóng tiền cho tổ chức "Nhà thờ giúp trẻ em Sudan".

            "Bố con ăn cơm với brocoli xào. Có trứng gà kho thịt trong tủ lạnh."

            Tôi thuận tay lật vài tờ khác, lúc viết ở mặt sau cái phong bì cũ, lúc viết trên mặt sau một tờ giấy quảng cáo. Nàng viết vội vã để kịp chạy ra xe buýt đi làm trong lúc bố con còn ngủ. Nếu nàng đi làm về trễ thì câu dặn là:

            "Chiều, Bố con nấu cơm sẵn chờ má về nấu canh chua. Gạo mới, đổ ít nước thôi"

            "Mín nhớ phơi đồ!"

            "Mín" là tên chúng tôi gọi nựng con Thư. Nó nấc một cái to rồi gọi:

            - Ba ơi! Con đã tháo hết nút bấm rồi. Bây giờ làm gì, ba?

            Tôi nói vọng xuống:

            - Con kiếm một rẻo vải cắt từng khúc làm dây cột thay cho nút bấm.

            - Ba nói gì, Ba?

            Tôi khản cổ, không muốn nói to, lại cầu thang nhắc lại câu nói. Nghe ra, nó hỏi:

            - 'Rẻo' là cái gì, Ba?

            Tôi im lặng, nghĩ từ đây cả cái nhiệm vụ dạy tiếng Việt cho con cũng do một mình tôi. Còn việc nội trợ? Và quan trọng nhất, làm sao tôi duy trì trong nó đôi nét của người đàn bà Việt Nam như mẹ nó, như bà ngoại, bà nội nó? Tôi xuống kho lục cái áo cũ mong mỏng, cắt lấy một miếng dài, bề ngang bằng ngón tay.

            - Đây là một 'rẻo' vải. Con gấp theo chiều dọc thế này rồi khâu hai mí lại. Xong luồn kim băng lộn ra thế này, thành sợi dây, cắt thành từng đoạn ngắn, khâu vào áo và quần cho má.

            - Ai chỉ cho Ba cách này vậy?

            - Má.

            - Hồi nào, sao Má không chỉ cho con?

            - Hồi chưa có con.

            Nhà tôi đông anh em và nghèo rạc. Không đủ ăn. Tôi thức đêm học dưới mái tôn nóng như cái lò hầm, đậu tú tài xong thì ho ra máu, nhưng vẫn cứ ráng ngoi lên đại học. May tôi đậu vào y khoa, mà chẳng may tôi phải đi chụp hình phổi, và lòi ra cái phổi lủng. Hồi đó nhà thương Hồng Bàng mới lập ra một khu điều trị riêng cho sinh viên, tiện nghi, sạch sẽ hơn các khu còn lại. Tôi được nằm đó, thùng thình trong bộ đồ bệnh bằng vải trắng ngà. Một hôm tôi mang bộ đồ cũ đi đổi. Người coi kho là một dì phước trắng xanh xao như cây chuối non. Dì hỏi:

            - Bộ cũ rách rướm ra sao?

            Tôi nhìn vào cái lúp giang ra như con diều trắng. Tôi nghĩ dì có thể bay được. Trả lời:

            - Dạ, không rách, chỉ đứt mất dây cột.

            Dì quay vào, cắt một rẻo vải dài, chỉ cho tôi khâu hai mí lại, rồi lấy cái kim băng ruôn vào, lộn trong ra ngoài. Những ngón tay trắng thoăn thoắt. Tôi được một sợi dây vải. Dì nói:

            - Con trai cũng nên biết may vá.

            Rồi dì cắt sợi dây ra thành những đoạn ngắn và khâu vào áo cũ cho tôi. Tôi đang thất vọng vì tưởng đi đổi đồ mới, lại chỉ được ba sợi dây, thì cô nữ tu trẻ bảo tôi chờ rồi vào kho lấy một bộ đồ mới, nói:

            - Anh giữ cả hai bộ mà mặc. Bộ cũ còn dùng được. Nhớ giữ ấm cái phổi.

            Được một năm, tôi tạm lành bệnh nhưng không còn đủ sức khỏe cũng như tài chánh để theo học Y khoa. Tôi bò vào Văn khoa để có thể vừa học vừa đi làm. Thời đó sinh viên đâu có việc gì thích hợp hơn là dạy kèm tư gia. Nhưng cái nhãn Văn khoa của tôi không cạnh tranh nổi với mấy người bên Khoa học, tôi phải đi bỏ báo. Một trong những nhà lấy báo, ông thầu khoán ở đường Trần Quí Cáp dặn tôi: "Trời mưa thì cậu đưa báo vào trong nhà. Cái thùng thư hở, ướt hết báo".

            Một hôm trời mưa, tôi bấm chuông để đưa báo vào nhà thì vô cùng ngạc nhiên khi người che dù ra mở cổng là dì Phước phát đồ trong Hồng Bàng. Trong thường phục và tóc trần ngắn, cô gái càng trẻ hơn, nhưng vẫn trắng xanh như cây chuối non. Chính cái vẻ xanh cớm đó làm cho tôi thấy chút quen thuộc gần gũi. Nàng niềm nở:

            - Ủa! Anh đi bỏ báo... đúng vùng này hả?

            Tai người nghèo dễ bị tổn thương vì những tín hiệu không rõ rệt. Nhưng tôi nhận ra trong câu nói ngập ngừng của nàng một tín hiệu thân thiện rõ rệt, rằng nàng ngạc về việc tình cờ tôi bỏ báo trúng nhà nàng, chứ không phải về chính việc bỏ báo hèn kém. Nhưng tôi lúng túng, không tìm được một câu trả lời nào thích hợp hơn một câu có vẻ ai oán:

            - Nghèo quá, phải đi kiếm thêm, Soeur à.

            Nàng hỏi rành rẽ như một cô y tá biết nhiều tên thuốc cho cùng loại bệnh:

            - Anh thấy bỏ báo với dạy kèm trẻ em, việc nào đỡ vất vả hơn?

            Tôi nói:

            - Dạ, đương nhiên là việc kèm trẻ.

            Nàng không nói gì nhưng tự nhiên tôi nghĩ rằng nàng sẽ giúp tôi. Hay ít nhất có ý định giúp tôi. Nàng mời tôi ngồi và đưa ra một ly nước cam vắt lạnh mát, nói:

            - Anh uống để ngừa cảm. Trời mưa phải coi chừng cái phổi.

            Lần đầu tiên trong đời tôi uống cam vắt để tủ lạnh, nhưng hơi mắc cỡ vì nàng còn nhớ tôi ho lao. Uống xong, tôi đưa ngón tay chùi thành ly như sợ có con vi trùng Koch bám vào?

            Một tuần sau tôi nhận việc kèm cho chính thằng em trai nàng, tên Hưng. Quen thân với Hưng rồi, tôi dò hỏi biết chị nó tên Hiền. Nàng đi tu dòng Saint Paul, học y tá bên Pháp về, mới phục vụ được hai năm thì phải tạm về gia đình vì lý do sức khỏe. Tôi có nhận xét hồi này, có lẽ nhờ về nhà, nàng bớt xanh xao, nước da trở thành hồng hào. Tuy làn tóc cắt ngắn đơn sơ nhắc tôi nhớ nàng là một nữ tu, tôi vẫn thấy bên dưới đó là cái gáy trắng ngần thanh tú. Và lần đầu tiên sau bốn tháng đi lại, tôi khám phá ra nàng có đôi mắt tuyệt trần. Như vầy: tôi thường dạy học ở phòng khách, nhưng khi có khách bất ngờ, chúng tôi lên sân thượng làm việc. Trên đó có cái bảng đen gắn vào tường một tầng lửng, chiếm khoảng một phần ba sân thượng. Một lần tôi tò mò hỏi Hưng phòng gì, nó nói nhà nguyện gia đình, và dẫn tôi vào xem. Phòng trần thiết cực kỳ đơn giản, nhưng mỹ thuật. Nền trải chiếu cói viền chữ thọ. Trên tường chỉ có một ngọn đèn dầu, ngọn lửa đỏ leo lét, huyền bí. Trần bằng nỉ khum khum xanh đậm. Hưng nói ban đêm bật đèn như bầu trời sao.

            - Bàn thờ đâu?

            Tôi hỏi. Nó chỉ vào một bộ tượng ba người, lớn cỡ người thật, bằng thạch cao trắng ở giữa phòng. Ông Phan Ngữ làm riêng cho ông bà bạn thầu khoán. Người đàn ông ngồi trên một cái ghế thật thấp chắc là Chúa Giêsu. Hai người đàn bà kia -một đứng xa xa, một ngồi bệt dưới sàn, bên chân Chúa, tôi không biết là ai, nhưng không muốn lộ sở đoản của mình về tôn giáo, tôi không hỏi Hưng. Chung quanh ba tượng người là mấy cái ghế thấp chủn, mà tôi tưởng người thật ngồi vào, sẽ dễ đàm đạo với Chúa và hai người đàn bà kia. Tôi chịu đó là một cảnh siêu thái. Một hôm, cũng chạy khách lên sân thượng như vậy, nhưng nửa buổi học trời lại đổ mưa, chúng tôi phải vào nhà nguyện "tị nạn". Mở cửa, tôi thấy Hiền đang ngồi trên một chiếc ghế thấp, bên cạnh Chúa, đối diện với tượng người đàn bà ngồi. Nàng như nói tiếp câu gì đó với Chúa rồi mới ngước mắt lên nhìn tôi. Mắt nàng to, trong sáng, như cả người chỉ có đôi mắt. Như cả vũ trụ này chỉ có đôi mắt. Nàng mỉm cười chỉ tay vào một chiếc ghế trống:

            - Mời anh ngồi nghỉ chân một chút.

            Tôi ngồi nói chuyện bâng quơ với nàng. Tôi nghe cái giọng thanh bai dịu dàng hơn là nghe nàng nói gì. Và ngoài dự tưởng của tôi, Hiền tuyệt đối không nói gì về tôn giáo. Như mọi khi, Hiền sai em mang nước cam vắt lên cho tôi. Lúc thằng nhỏ đi lấy nước, là lúc yên lặng thiên thu. Tôi nhìn lên cái trần nỉ giả làm vòm trời, nghĩ dù là sao giả, chẳng bao giờ tôi nên với. Nàng cho biết có lẽ Chúa không gọi, vì cứ về nhà thì khỏe mà vô tu viện thì đau. Bệnh chi lạ, tôi nghĩ thế, nhưng hỏi sang chuyện khác:

            - Tôi đoán đây là Chúa. Còn hai vị Bồ Tát này là ai?

            Nàng cười vui, môi hồng lợt:

            - Không phải Bồ Tát đâu, anh à. Người đứng là bà Marta. Người ngồi bên chân Chúa là bà Maria. Đây là một gia đình ở làng Bethania mà Chúa thường lui tới nghỉ ngơi và đàm đạo với ba chị em Marta, Maria và Lazarô. ž nghĩa chính là để khuyến khích chúng tôi tĩnh tâm cầu nguyện. Nhưng có một chi tiết vui vui là: mỗi khi Chúa đến chơi, Marta lăng xăng lo cơm nước, còn Maria ngồi bên chân Chúa tâm sự. Marta lên phàn nàn "Xin Thầy bảo em con xuống phụ với con. Chứ nó cứ ngồi không nói chuyện gẫu, còn con làm không hết việc." đố anh biết Chúa trả lời sao?

            - Ôi dào! Bếp núc cứ để đó, lúc nào làm cũng được. Ta đang cần người tâm sự này.

            Nàng lại cười tươi:

            - Vâng, đại khái như vậy. Chúa nói Maria đã chọn "điều chính yếu".

            - Điều chính yếu là gì?

            - Là Chúa. Tất cả những việc khác là phụ.

            Tôi cười trừ, chẳng biết "cái chính yếu" nằm ở đâu. Đối với tôi, có thể nó đang ở trong đôi mắt đẹp của nàng, dưới hàng mi dài. Tôi hỏi cho có vẻ "biết chuyện":

            - Thế, không có Marta lo bếp núc, thì Chúa lấy gì mà thọ trai?

            Hiền cười khúc khích:

            - "Thọ trai"? Ở vùng đất bán sa mạc đó, rau quả hiếm lắm, khó mà ăn chay được. Chúa ăn mặn đấy, ông ngố ạ.

            Tôi cười theo. Thấy thoải mái. Nhưng tôi chờ đợi mà không thấy nàng trả lời cho câu biện hộ Marta của tôi. Nàng chỉ nhìn qua cửa sổ. Tôi nhìn theo, thấy mưa tạnh, không còn lý do ngồi lại nữa, đứng dậy:

            - Thưa Soeur, tôi về.

            - Tôi không tu nữa, đừng gọi soeur. Hiền được rồi. Nếu Chúa gọi tu lại thì tôi muốn được kêu bằng "chị" hay "dì phước". Tôi không thích chữ "soeur".

            "Xơ" hay "múi", tôi không cần biết, tôi thích gọi tên "Hiền" và khấn thầm "Lạy Chúa, xin đừng gọi nàng".

            Ra khỏi nhà nguyện nàng nói:

            - Điều anh vừa nói rất mới đối với tôi: ở đời cũng cần có người làm Marta, phải không?

            Sau bữa đó, mỗi lần đạp xe tới đầu đường Trần Quí Cáp, tôi cảm thấy như đi vào thánh địa, và mỗi lần bấm vào cái nút chuông số nhà 123C, tôi nghe chuông reo quá lớn. Mặc dầu tôi chỉ đến để làm nhiệm vụ dạy kèm. Ông bà thấy Hiền hơi đặc biệt đối với tôi, bắt đầu tỏ ra lạnh nhạt. Tuy nhiên họ vẫn mời tôi dự tiệc mừng sinh nhật 18 tuổi thằng con trai, học trò tôi. Lúc mọi người bắt đầu nhảy, tôi ra hiên. Vườn đầy trăng. Thấy Hiền đứng một mình gần hòn non bộ ở góc vườn, tôi đánh liều tiến lại. Nửa đường tôi bỗng thấy những viên sỏi trắng dưới gót giầy lạo xạo to mồm quá, toan lui gót, nhưng tôi như bị thôi miên bởi ánh trăng huyền hoặc thoang thoảng hương ngọc lan, cứ đứng sững như trời trồng, cho tới khi Hiền phải lên tiếng trước:

            - Anh Tường! Không nhảy hả?

            Mừng quá đâm quýnh, tôi lắp bắp:

            - Không, không, tôi nhà quê không biết nhảy. À , à, mà dù biết cũng chẳng có ai nhảy với mình.

            Mấy cô gái tôi quen mà nghe câu này chắc đã phá lên cười khanh khách. Nhưng Hiền thì lại dịu dàng:

            - Thì ở đây nói chuyện.

            Tôi vụng về rút khăn mu-soa, trải trên thành hồ cá, Hiền vén vạt áo ngồi xuống, điềm nhiên như một con bồ câu đáp xuống mái tranh quen. Tôi ngồi bó gối trên bãi cỏ. Lúc ngửa mặt nhìn nàng, tự nhiên mấy âm thanh trong cổ tôi bật ra, không kịp chuẩn bị, cũng không kịp đắn đo:

            - Hiền đẹp quá!

            Nàng đang ngồi bắt chéo chân đài các, một chiếc giầy hồi hộp tuột ra khỏi chân. Tôi vội vàng, tay phải nhặt giầy, tay trái nâng bàn chân nàng, trì hoãn một chút trong lòng bàn tay, rồi mới tra giầy vào. Và tôi để ý cổ chân nàng trắng ngần có hàng ren đen rủ quanh. Đêm đó tôi cứ mơ đi gặt lúa mà không lấy thóc, chỉ tuốt lấy rơm trải thành bãi cho chim bồ câu đáp xuống.

            Do vừa cố học thi, vừa hết lòng dạy thằng em Hiền, vừa phải kiếm thêm tiền giúp cho con em kế muốn học may, tôi bị tái phát bệnh lao. Tôi tránh giao thiệp với nàng. Và lần đầu tiên tôi sợ. Sợ chết. Sợ chết vì hình như trên đời có gì làm tôi quyến luyến. Càng quyến luyến càng sợ mất. Tôi xông xáo, vùng vẫy để vừa thoát ra khỏi bệnh tật, vừa "làm nên sự nghiệp gì" để xứng đáng với Hiền, để ông bà thầu khoán chấp nhận trước khi tôi có thể nói thẳng lòng mình. Bây giờ tôi không muốn nghĩ lại những năm tháng vẫy vùng một cách khùng điên đó nữa. Có những lúc tôi kiếm được số vốn kha khá, có lúc lại trắng tay. Tôi bỏ nhà vào cư xá Minh Mạng ở lậu với một thằng bạn đang học y khoa. Tiền cơm cũng khỏi lo vì ba thằng ăn cơm xã hội chỉ lấy phần dôi ra một chút là dư cho tôi ăn. Thỉnh thoảng mẹ tôi kho cá phi mang vào cho tụi nó ăn thêm. Một hôm mẹ tôi mang vào cho một phong bì, coi qua là biết của Hiền. Đầu tiên là nỗi sợ hãi và hổ thẹn -nàng biết địa chỉ tôi tức là có thể biết nhà tôi nghèo khổ tới mức nào. Tôi hồi hộp mở thư ra coi, quên cả sự hiện diện và ánh mắt tò mò của Mẹ. 'Thư' chỉ là một tờ giấy croquis nhỏ vẽ hai bóng người ngồi trên sân thượng nhìn xuống 'đời' với những mái nhà chen chúc. Dù nét vẽ thủy mạc không sắc sảo lắm, tôi cũng nhận ra một trong hai người trong tranh là tôi, và người kia là ai cũng được -em trai nàng hay chính nàng. Chúng tôi trao đổi thư từ gần hai năm trời. Tôi có lại thăm gia đình nàng vài lần. Hôm có tiệc tiễn thằng Hưng đi du học Pháp, tôi cũng được mời. Hiền đưa tôi lên nhà nguyện trong lúc mọi người bắt đầu nhảy.

            Một hôm nàng nói cần nhờ tôi "tháp tùng" ra Vũng Tầu nhận chìa khóa một cái nhà của cha nàng mới mua. Tôi đi dạy học, đã đỡ chật vật đồng tiền, vốn định đổi cái xe Goebel sang cái Lambretta để chạy trường cho mau. Được Hiền nhờ, tôi đổi xe sớm hơn dự liệu. Đương nhiên tôi chọn xe yên liền. Thấy tôi xình xịch Lambretta tới, Hiền hớn hở, gọi chú tài xế lên nói:

            - Hôm nay xin chú cứ lái xe cho Ba cháu, chú nhé. Cháu quá giang anh Tường được rồi.

            Tôi nhìn nàng trắng toát trong áo dài lụa, ngại ngùng:

            - Hiền đi xe hơi mặc thế này được. Đi Lambretta với tôi, lấm hết.

            Lần đầu tiên tôi thấy Hiền nguýt trong lúc má hây lên. Nhưng nàng vẫn không thay áo. Trên đường ra biển, chúng tôi ghé một khu rừng cao-su để nghỉ. Lang thang thì đúng hơn. Nàng nói:

            - Trước khi đi tiếp ra Vũng Tầu với anh, em muốn dứt khoát một việc.

            Tôi linh cảm việc này rất nghiêm trọng, chỉ không biết là lành hay dữ. Nàng hỏi thẳng, đôi mắt đẹp mở to, uy nghiêm, tôi mường tượng kẻ gian tà nhìn thấy có thể run lên được. Nàng nói:

            - Anh có yêu em không?

            - Ôi! Còn phải hỏi! Nhưng anh không xứng đáng.

            - Thế nào là không xứng, anh?

            - Anh nghèo, lao, ngoại đạo.

            Tôi để ý người con gái này, hiền dịu, nhưng luôn luôn có cái quyết đáp của người y tá rành nghề, biết lúc nào phải cầm kéo, lúc nào phải cầm dao, và biết trên tay có gì:

            - Nghèo thì em đã khấn khó nghèo. "Ngoại đạo" hay "nội đạo", đó là một ý niệm tương đối. Còn lao, nghe nói anh hết rồi mà?

            Tôi đi tái khám biết là sức khỏe đã ổn định rồi. Nhưng không biết cái gì xui khiến, tôi nói dối. Có lẽ để "nhõng nhẽo" với người y tá:

            - Chưa. Còn có vẻ nặng hơn.

            Không biết điều gì khiến cho tôi không coi nàng như các cô gái khác, chắc chắn họ sẽ chạy xa khi biết tôi bị lao. Nàng nói không do dự:

            - Vậy thì anh cần một người săn sóc. Còn em một người yêu.

            Sau một phút bàng hoàng sung sướng, tôi tỉnh ngộ:

            - Em ... Hiền cần người yêu hay cần một bệnh nhân?

            - Em cần Anh.

            Tôi bế thốc nàng đặt trên yên Lambretta. Đắm đuối nhìn vào khuôn mặt xinh đẹp của nàng. Rồi bước lùi lại, làm như một họa sĩ ngắm tranh. Nắng xanh từ tầng lá dầy đổ xuống tấm lụa trắng, bao bọc nàng như hào quang từ thiên giới. Hiền ngoan ngoãn ngồi cho tôi ngắm lâu lắm. Cuối cùng tôi nói:

            - Anh thầm yêu Em từ lâu lắm rồi. Có lẽ từ kiếp trước.

            - Được sống một đời với anh cũng đủ rồi.

            Rồi chúng tôi nói những câu chuyện mà bây giờ tôi không nhớ là chuyện gì. Cho tới lúc Hiền nhẹ giật mình:

            - Chết! Anh không mỏi chân à?

            Hiền hỏi và xích ra trên yên xe, chừa chỗ cho tôi, tôi muốn ngồi vào cái chỗ ấm áp ấy lắm, nhưng lại nói:

            - Ngắm Hiền thỏa rồi. Thôi, ta tiếp tục lên đường. Em cứ ngồi nguyên trên yên.

            Lúc vịn vào yên để thả xe xuống, ngón tay tôi vô tình chạm phải làn lãnh trên người Hiền. Một cảm giác khó tả truyền vào người tôi, vừa mát rượi như miếng thạch mùa hè, vừa nóng bỏng như cục than mùa đông. Chính cái cảm giác sấm sét này đã gióng lên tiếng còi cho chuyến hành trình của hai chúng tôi mấy chục năm sau.

            Biệt thự nhà nàng mới mua nằm trên con dốc chạy lên Hải đăng. Người quản gia của chủ cũ đã để sẵn nước giải khát trong phòng khách. Nhưng Hiền bưng ra ngoài ban-công, nơi có cây bàng già cỗi phủ bóng trên những viên gạch nâu thẫm cũ kỹ, nhẵn bóng. Tôi ngồi trên ban-công, nhìn bao quát ra vùng biển bao la ngoài Bãi Trước. Còn nàng chạy quanh nhà, coi cái nọ, coi cái kia. Khi nàng đứng lên một tảng đá líu lo gọi tôi coi một con tầu đắm từ lâu đời nằm ngoài bãi, tôi thấy nàng thơ ngây xinh đẹp quá chừng, tôi ngồi khựng lại, không nhìn con tầu đắm mà mê say ngắm nàng, rồi giơ hai tay lên trời, nói:

            - SOS! Tôi bị đắm! Xin cứu tôi!

            Nàng hiểu ý, đỏ bừng mặt, vịn tay vào tà áo đang bị cơn gió biển thổi bay. Tôi nhớ câu hát trong bài Bến Xuân của Văn Cao "Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài Bến Xuân".

            Ông bà thầu khoán không đồng ý cuộc hôn nhân, nên không tổ chức đám cưới linh đình. Nhưng ông bà thương người con gái cựu tu, gần như nể, có đi dự phép giao ở nhà nguyện một tu viện quen. Ông bà lại ngoan đạo, đương nhiên phải thừa nhận việc "Chúa đã kết hợp, con người không thể phá bỏ". Đứng cuối nhà nguyện, bà mẹ chép miệng, thở dài thườn thượt, nói với con gái:

            - Con gàn dở đến nước thì thôi. Đám cưới mà mặc cái áo học trò.

            Bà chảy nước mắt, có lẽ bà hối hận vì đã quá cứng rắn, xử tệ với con gái. Nhưng Hiền cứ vui vẻ:

            - Cám ơn Ba Mẹ đã đến chứng kiến và cầu nguyện cho chúng con. Với chúng con, thế là đủ quá rồi. Và đối với con đây là cái áo cưới đẹp nhất. Bởi vì cái áo cưới lộng lẫy tới đâu cũng chẳng giúp ích gì cho tình yêu và hạnh phúc gia đình.

            Ông bà và Hưng ngơ ngác, chẳng hiểu cái áo lụa trắng này quan trọng thế nào với chúng tôi.

            Những ngày hạnh phúc đang trôi êm đềm, tưởng là vô tận, bỗng bị phá tan vì một ngày tàn xuân 75. Cha mẹ vợ tôi bị đánh tư sản mại bản, mất hầu hết sản nghiệp. Chúng tôi cũng phải bán dần mọi vật trong nhà để sống qua ngày, nhưng tấm áo lụa trắng vẫn còn. Đi vượt biên chúng tôi cũng mang theo. Nàng biết ý tôi, không sang Pháp định cư với cha mẹ. Và để làm lại từ đầu, người con gái đài các đó, mà xưa kia tôi sợ áo nàng lấm bụi, nay bắt đầu dấn thân làm bất cứ việc gì để sinh nhai. Nhưng chúng tôi lại tràn ngập hạnh phúc, nhất là từ ngày bé Thư ra đời. Tôi xin nàng ở nhà trông con. Nhưng chỉ được một năm nàng lại tất tả đi làm. Một tuần nàng đi làm ca tối hai ba bữa, có hôm 12 giờ đêm mới lội tuyết về nhà. Và buổi sáng, dù tôi đi làm sau hay trước nàng, trong cặp cũng sẵn gói ăn trưa. Tôi không có cớ gì để bắt nàng bớt đi làm, chỉ nói đùa:

            - Em làm việc nhiều quá, mau già.

            Nàng nói:

            - Ấy, hoạt động nhiều mới trẻ lâu, anh ơi!

            Tôi thừa nhận nàng trẻ thật, so với những bà cùng tuổi hoặc nhỏ hơn mươi tuổi. Tôi nói:

            - Thì sở chính của em đang cần người làm toàn thời gian, em nên nhận chỗ đó thay vì chạy lang bang hết chỗ nọ sang chỗ kia.

            Nàng cãi:

            - Làm một chỗ đơn điệu mới là tổ mau già.

            - Vậy chắc mai mốt em lấy ba ông chồng cho khỏi đơn điệu?

            Tôi nói đùa, nàng cũng đùa:

            - Một ông đã đủ chết rồi, ông ạ.

            Chẳng ai nói ra cái lý do thật: Chúng tôi nợ nần nhiều quá, mà tôi lại có máu cờ bạc. Nàng phải phụ tôi đi làm nhiều là để trả nợ cờ bạc cho tôi thôi.

            Mặc dầu thầm cảm kích đức hạnh của vợ, tôi vẫn không chịu theo đạo vợ. Nàng cũng không bao giờ đề cập tới vấn đề tôn giáo. Tôi cảm thấy đời sống của nàng toát ra đức tin. Tôi chỉ thấy chưa đến lúc chia sẻ được với nàng đức tin đó. Tuy nhiên, các lễ lớn trong đạo, tôi đều chở mẹ con đi, và cũng vào ngồi đó. Một lần bài thánh kinh nhắc lại sự tích Chúa với hai bà Maria và Marta, tôi kín đáo tìm tay nàng xiết chặt. Nàng lấy ngón trỏ vẽ chữ "Y" vào lòng bàn tay tôi.

            Những cử chỉ thân ái như thế thưa dần. Vì sinh kế? Vì tuổi tác? Nhưng có lẽ quan trọng nhất là vì tôi chưa thực hiện được giấc mộng "phải có danh gì với núi sông", với nhà vợ thì đúng hơn. Tôi vẫn tự nhủ lòng phải tỉnh táo để cảnh giác trước những tín hiệu nhạy cảm cho "tai người nghèo" của tôi, nhưng nó len vào lúc nào, ý thức tôi không kiểm soát được, tích tụ dần qua những lần chúng tôi sang Pháp thăm ông bà hoặc ông bà sang đây. Ví dụ một lần vợ chồng thằng em vợ (thằng Hưng) báo tin sang chơi. Tôi nói Hiền nhắn nó mua cho mớ sách tiếng Việt và tiếng Pháp. Nhưng nó lại giao cho con vợ đầm đi mua, thành ra chỉ mua được sách Tây, không có sách Việt. Tụi nó về rồi, tôi cự Hiền. Thực ra tôi bực vì Hiền có vẻ lăng xăng chiều chuộng thằng em trai hơn tôi. Sách Tây sách Việt chỉ là cái cớ. Nàng buồn:

            - Có phải lỗi em đâu. Con Cathrine không biết tiếng Việt mà.

            - Thế mới nói. Không ai quan tâm tới nhu cầu tinh thần của tôi hết.

            - Em cũng không?

            Tôi đâm cối:

            - Không luôn. Cùng lắm em lo miếng cơm manh áo cho anh.

            Hiền im lặng. Từ đó nàng chăm lo hơn cho tôi. Tôi lại bịa Nho nhe:

            - "Dưỡng phu như dưỡng trư" (nuôi chồng như nuôi heo).

            Được cái chúng tôi còn thích đối thoại. Chúng tôi cùng muốn chêm cái chênh vênh của đời hôn nhân bằng những cục gạch quí trong quá khứ. Tôi vẫn giữ trong lòng những sợi dây vải, những ly nước cam, chiếc áo lụa trắng, và nhất là đôi mắt Hiền trong nhà nguyện gia đình tại Sài Gòn. Một hôm tôi gợi lại sự tích Bethania, và hỏi:

            - Em là Marta hay Maria?

            Hiền đắn đo, sợ sa bẫy:

            - Với Chúa em muốn luôn luôn là Maria.

            Tôi cúi xuống:

            - Còn với anh?

            Vẫn cung cách cô y tá điệu nghệ, nàng nói minh bạch:

            - Anh là loài người hay Thượng đế? Nếu anh là Thượng đế, em thuần túy là Maria. Nếu anh là phàm nhân, em là Marta, chắc có lợi cho anh hơn.

            Tôi bướng:

            - Anh là con Thượng đế, có cả hồn lẫn xác.

            - Vậy em vừa là Maria, vừa là Marta.

            - Nhớ phải đóng vai trò cho quân bình đấy!

            Nàng buông:

            - Anh ạ, nếu con người Maria trong em không lớn đủ, con người Marta của em đâu có chịu đựng được tới nay. Anh hãy yên tâm về phần em. Phần anh, xin anh khỏi cần nghĩ phải làm đại sự gì cho em. Bởi vì em chỉ cần "điều chính yếu" nơi anh.

            Tôi biết nhiều lúc tôi ích kỷ, nhưng tôi yêu nàng. Tôi cần nàng ghê gớm trong cõi đời sống bấp bênh này. Bởi vì, bên dưới vầng trán thấp có những sợi lông tơ li ti của nàng là những quan niệm minh bạch về cuộc đời và lẽ đời. Bên dưới lớp lụa bạch đơn sơ là một tâm hồn phong phú, trung hậu. Nàng là một người bạn đời mà đi bên cạnh tôi cảm thấy vững tâm. Hôm kỷ niệm 15 năm được tầu Na-uy vớt, chúng tôi (có cả cháu Thư) đi thăm ông thuyền trưởng cũ. Tôi chỉ vào cái mỏ neo khổng lồ làm cảnh trước hãng tầu nói với Hiền:

            - Em là cái mỏ neo này.

            Con Thư nói chen:

            - Thả neo trong biển Việt Nam thật nguy hiểm, phải không ba?

            Tuy chúng tôi cảm thấy cô đơn ngay giữa những bữa tiệc vui, giữa những người quen biết, Hiền tế nhị không bao giờ xa lánh những người không hợp. Ví dụ bà Trang, cái bà góa chồng, một con, và rất "vâm". Tôi vẫn trách yêu Hiền:

            - Chơi với cái bà đó làm gì? Đàn bà gì cái mắt không nhìn thẳng được.

            Hiền bênh:

            - Người đàn bà đoan trang kiểu xưa nói truyện phải cúi mặt xuống. Chị ấy không nhìn thẳng là vì thế.Tôi thắc mắc: tại sao một người như cành nhược lan, một người như con ngựa đua; một người trên bàn tay chỉ có chiếc nhẫn cưới chỉ rưỡi, một người quên đeo kim cương vàng bạc là không dám đi thăm bạn bè; mà nói chuyện với nhau hàng giờ được. Rồi tôi tò mò:

            - Em với bà Trang nói chuyện gì mà lâu vậy?

            Hiền trả lời:

            - Thì chuyện hột xoàn, áo quần, sửa sắc đẹp v.v.

            Tôi ngạc nhiên:

            - Hột xoàn, silicon, đâu phải lãnh vực của em!

            Nàng cười:

            - Thì chị ấy nói. Em nghe thôi. Bởi thế chuyện mới lâu.

            Rồi nàng đùa thêm:

            - Coi bộ anh quan tâm tới chị Trang hơi nhiều đấy.

            - Còn lâu.

            Không bao lâu sau, cha vợ tôi bệnh nặng, Hiền sang Pháp một mình săn sóc ông. Trong lúc nàng đi vắng, bà Trang thường lại nhà tôi, nói để "trông chừng con Thư" (con bé đã 17 tuổi!). Những dịp này, tôi thấy bà không còn cái tật mà tôi ghét là "nhìn xéo" nữa, mà nhìn thẳng mặt tôi. Đôi mắt không "gian" như tôi vẫn thấy, mà có thể nói là thiện cảm nữa, thường nhướng lên nhìn tôi vẻ ngưỡng mộ. Tôi nghĩ ai cũng có cái dễ thương của họ. Vì vậy hôm đó, khi tôi chở bà về nhà, bả nói "Thằng con trai em đi trại trường mãi bên Ba-lan, tuần sau mới về. Ăn nhà một mình buồn thấy mồ", và rủ tôi vô nhà, tôi cũng không từ chối. Hai người uống trà Việt Nam và nói chuyện hơi lâu. Khi bà bắt đầu "ra chiều lả lơi" tôi mới tỉnh ngộ. Có thể tôi có lỗi một phần: sự tò mò trước một mẫu đàn bà tương phản với vợ, khiến tôi đặt nhiều câu hỏi dễ bị hiểu lầm là thân mật; xa hơn nữa, ánh mắt tôi cố tỏ vẻ bướng bỉnh trước những phần thân thể hở hang của bà chắc chắn đã bị coi là một sự thèm muốn. Tôi vội vàng -dù sao cũng lịch sự cáo từ ra về.

            Ngồi vào xe, tôi thấy cái khăn quàng mỏng của bả rớt lại trên ghế. Tôi tính mang lên trả, nhưng nghĩ sao, lại nhét vào túi, chờ dịp khác trả. Về nhà, con Thư nói có Mẹ điện thoại nói ông ngoại mất. Cha con tôi chuẩn bị sáng mai sang Pháp. Và tôi quên bẵng cái khăn, hình như cũng bằng lụa.

            Người thân đã ít lại rơi rụng dần, chỉ còn sách vở và thiên nhiên. Chúng tôi có một chỗ "bí mật" trên vịnh Oslo nơi có một ghềnh đá hẻo lánh, chỉ có sóng nước, trời mây và rừng thông vây kín. Và trên mặt đất một thảm hoa linh lan bát ngát. Loài hoa lá xanh biếc, hình như chiếc khiên dài, cứng cáp hiên ngang, bảo bọc bông hoa nhỏ bằng hạt ngọc trai, hình trái tim trắng muốt. Từ tháng năm đến tháng sáu hoa linh lan nở, khách bước vào rừng thấy hồn thơm ngát. Chúng tôi gọi riêng đó là Bến Xuân. Mùa hè vừa qua kỷ niệm 25 năm đám cưới. Tôi xin Hiền mặc áo lụa trắng ra Bến Xuân. Hiền rất thương cái áo đó, nhưng bảo nàng mặc ra bãi biển thì nàng ngại ngùng. Nhưng không biết linh cảm gì khiến cho lần này nàng vui vẻ chịu mặc. Tôi mang theo cả máy ảnh để ghi lại những kỷ niệm đẹp. Biết đâu chẳng còn dịp nào nữa... Chúng tôi hái được một bó hoa linh lan to thì Hiền kêu mệt. Nhưng lại không chịu nằm, bảo nằm chóng mặt. Nàng dựa gốc thông, cho tôi kê đầu lên đùi. Đang nằm ngửa nhìn mây bay qua một lỗ hổng trên tàng cây, bỗng một trái thông rớt xuống gần trúng mặt, tôi bèn xoay người nằm nghiêng, lớp lãnh mát rượi áp vào má làm tôi thấy mình bé hẳn lại như hồi mười tuổi đi đò dọc với Mẹ ban đêm. Tôi hít hương thơm của lãnh mới, chua chua như mật ong, thoang thoảng long não. Lãnh tẩm hương những người đàn bà tôi yêu và mùi mằn mặn nước biển, với tiếng sóng lách tách vỗ mạn thuyền đi vào vô tận.

            Đó là lần đi chơi rừng sau cùng. Tết Nguyên đán năm qua cũng là tết sau cùng. Ở Việt Nam thấy mai nở biết xuân về. Ở đây mai không có, chỉ biết coi lịch, rồi ra vườn cắt một cành forsythia nhiều nụ -một loại mai Âu châu, bốn cánh, nở đầu xuân- cắm trong bình. Năm ngoái Hiền cắt cành "mai Tây" để chờ Tết Ta, nhìn nàng kiễng chân một cách hơi khó nhọc đặt bình hoa trên bàn thờ ông Bà, tôi bồi hồi thấy loài hoa này, trong sắc xuân đã hoen màu thu úa. Ăn cơm xong, Hiền kêu khó chịu đi nằm.

            Từ hôm bệnh viện phát giác nàng bị ung thư đến khi nàng tắt thở chỉ có mười ba tháng tám ngày. Và nỗi đau đớn tột cùng tôi cảm được là khi tôi vào bệnh viện Radiumhospitalet, Hiền nói:

            - Anh về lấy áo lụa trắng cho em thay.

            Tôi gật đầu quay đi, Hiền lại gọi:

            - Anh! Thôi, khỏi cần áo. Quần đủ rồi. Anh lấy cái quần thâm. Áo lụa, quần trắng... để dành.

            Trên đường về nhà, nước mắt tôi tuôn ra xối xả, nhiều lúc không nhìn thấy xe cộ ngược chiều, tôi phải tự nhủ "Phải trấn tĩnh, sống để lo cho Hiền và con". Thay quần cho Hiền, tôi đau đớn khi thấy dưới lớp lãnh mịn xưa không còn là cặp búp măng đầy nhựa sống nữa, mà chỉ còn là hai cái que sậy khẳng khiu. Tuy vậy, mặc quần lãnh vào, má nàng đỏ ửng, vì cảm động. Những rung động lần cuối của trái tim? Nhìn cảnh tượng ấy, tôi khấn Thượng đế xin đổi những năm tháng còn lại của đời tôi lấy một ngày -một ngày thôi- cho nàng đứng dậy, cùng tôi đi ra biệt thự ngoài Vũng Tầu, để tôi được nhìn lại "Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài Bến Xuân". Hôm đó má nàng cũng ửng hồng. Tôi nói đây là nỗi đau tột cùng, bởi vì sau đó lòng tôi tê dại rồi.

            Không biết Hiền bớt thật hay chỉ vì nhớ nhà, xin về phép một thời gian. Bác sĩ tán thành. Những tuần lễ hạnh phúc vui vẻ xen lẫn phập phồng như thuyền bơi trên sông có đá ngầm mà chúng tôi không ai thuộc con nước thủy triều. Trời bắt đầu trọng thu, Hiền bị kêu trở lại bệnh viện. Trời đã lạnh se sắt mà Hiền nói:

            - Cho em ra công viên bệnh viện ngắm lá thu vàng.

            Lá bạch dương vàng ối. Lá trinh đằng đỏ lịm trên tường. Tôi thấy "mùa thu tóc ngắn" của tôi tóc quá ngắn, rụng hết rồi. Nàng ngồi một lúc thì kêu bồn chồn ở chân. Tôi đặt bàn chân nàng lên lòng, thoa bóp.

            Nàng sung sướng:

            - Cám ơn Anh cho em hưởng lại giây phút trong vườn ngọc lan khi Anh xỏ giầy cho em.

            Tôi thở dài:

            - Thời gian qua mau quá!

            Nàng nói:

            - Cả những tàn phai rồi cũng qua.

            - Anh tin có những cái không bao giờ tàn phai.

            Nàng xin gặp linh mục để chịu các phép đạo lần cuối cùng. Trời thương, nàng kiên trì ở lại thêm được gần một tháng mới đi. Đêm cuối cùng, thứ sáu, tôi nói chuyện dỡn, làm mặt hề với nàng. Chúng tôi viết chữ trên bàn tay nhau, nói "Chắc chắn hồi đó Chúa không nghĩ ra trò này". Cuối cùng ngón tay trỏ nàng run run thành chữ "Y", rồi bất động. Khi ông bác sĩ đặt tay lên vai tôi nói "Rất tiếc", tôi gục đầu lên mình Hiền khóc rống lên. Cả đời tôi nương tựa vào một cành lan. Cành lan gẫy tôi mới thấy mình yếu đuối dường nào.


            Con Thư mân mê mấy sợi dây như sợi tơ hồng đã trói buộc cha mẹ chúng từ thuở đó, rồi gói áo quần mẹ bằng một tờ giấy gói quà. Xong, hỏi:

            - Ba ăn gì trước khi mình đi nhé?

            Tôi không nhớ ăn bữa cuối cùng khi nào, nhưng bụng đặc khừ, nói cho qua:

            - Nếu con đói thì mình cùng ăn?

            Nó rút trong túi quần Jean ra mẩu giấy nhỏ đưa cho tôi.

            - Con không đói. Nhưng má dặn phải ăn đây này.

            Nét chữ Hiền nhảy múa trong mắt tôi:
            "Bố con bỏ thịt bằm vào chảo bắc lên bếp hâm, cho thêm ketchup, đừng hâm lò micro. Luộc trước spaghetti, 10 phút. Đổ vào ăn".

            - Má viết bao giờ vậy, con?

            - Dạ, hôm thứ tư, trước khi má vô nhà thương lại.

            Tôi mở tủ lạnh. Tô thịt bằm đã uôi rồi. Chúng tôi trở lại nhà xác thì người ta đã liệm Hiền xong đâu đó rồi. Người nhà đòn đã cởi áo khoác nhựa, đang ngồi hút thuốc coi phim hoạt họa trên TV, buổi sáng thứ bảy nhiều phim loại này lắm. Tôi cầm bọc quần áo trong tay, nâng lên ngang mặt, lễ phép nói:

            - Ông làm ơn thay bộ đồ này cho vợ tôi.

            Ông ta quay lại, lạnh lùng:

            - Trễ rồi. Rất tiếc.

            Những chữ "trễ rồi, rất tiếc" của ông bác sĩ xoáy vào ruột gan tôi đau đớn đêm qua, bây giờ tôi không muốn nghe lần thứ hai nữa. Tôi muốn nổi giận, nhưng cảm thấy yếu đuối, bất lực ghê gớm. Tôi ghì gói đồ vào bụng để giằn một cục gì quằn quại trong đó. Tôi năn nỉ:

            - Ông làm ơn đi. Vợ tôi thích bộ đồ này lắm ...

            Ông nhà đòn dụi điếu thuốc, hỏi:

            - Đã nói với ông xếp tôi chưa?

            Tôi lúng túng:

            - Cần phải nói hay sao? Ông với tôi tính với nhau sau được không?

            Sống ở xứ này lâu năm, tôi đã bắt đầu cảm thấy hối lộ là một sự sỉ nhục cho người và cho mình. Nhưng chắc tôi sẽ kiếm ra cách khác đề bù cho ông. Nhưng tôi phải cho Hiền mặc áo dài, quần lãnh để nàng ra khỏi cõi đời này. Như nàng đã mặc như thế khi đi vào đời tôi. May quá, ông ta chìa tay:

            - Đưa đây!

            Tôi bảo con về nhà lấy chai rượu mạnh biếu ông nhà đòn, và ngồi lại một mình, nhìn qua khung cửa sổ có nhánh cây trụi lá đong đưa trên nền trời xám. Điện thoại reo trong túi tôi. Một người đồng hương hỏi thăm. Cám ơn chia buồn, nhưng tôi không muốn kể lể về cái chết của vợ tôi. Đang tẩm liệm. Thứ hai đưa. Bà Trang kêu chia buồn nữa, nhắc lại đề nghị mang xôi gà tới nhà xác, tôi thấy không hợp. Nói xong, tôi ngắt đường dây. Ông nhà đòn đi ra, hỏi:

            - Vô đây chỉ cho tôi cái nào là quần, cái nào là áo? Mặt nào trước, mặt nào sau?

            Tôi không muốn nhìn xác vợ lõa lồ, nên yêu cầu ông phủ khăn lên nàng, rồi tôi mới vào cầm cái áo dài cắt nghĩa:

            - Hàng dây quay phía trước. Phải giữ nguyên nịt ngực cho nàng. Lụa mỏng lắm. Và xin ông cẩn thận kẻo rách. Vạt áo phải ngay ngắn. Nhưng việc này tôi có thể vào coi lại.

            Rồi tôi cầm tấm quần, lần tới sợi dây kém thẩm mỹ nói:

            - Cái dây này phải nằm đàng trước.

            Ông ta gật đầu, mắt ngó như thắc mắc sao lại có bộ y phục với những sợi dây kỳ cục như vầy. Tôi lại liên tưởng tới sợi tơ hồng.

            Chiều, mẹ vợ tôi và vợ chồng Hưng từ Pháp sang. Từ ngày ông mất bà yếu lắm, thấy xác con cứ run bần bật chứ không khóc.

            Sáng chủ nhật, người ta chở quan tài tới nhà nguyện, chờ linh mục tuyên úy Việt Nam tới làm phép xác để đóng tấm ván thiên.

            "Tuyết đã rơi. Em mặc áo lụa có lạnh không?"

            Tôi hỏi thầm. Hiền nhát lạnh lắm. Vậy mà lại chết vào mùa đông. Tôi muốn lấy mền đắp cho nàng. Nhưng lại muốn ngắm nàng trong chiếc áo trắng. Chiếc áo này năm nào nàng cũng mặc, vào dịp kỷ niệm đám cưới, và Tết. Cũng lạ, 30 năm vẫn vừa. Lòng nàng không đổi, thể xác cũng vậy. "Tết mặc trắng xui chết!" Trong câu nói vô tình của tôi có tới hai chữ cấm kỵ. Nhưng lỡ rồi. Vả lại nàng không tin dị đoan. Nàng nói đức tin và tình yêu thắng tất cả. Nhà đòn có bôi cho nàng chút phấn hồng, nhưng không giống màu hồng của thẹn thùng, đặc tính tới khi có con lớn đễu mà vẫn giữ. Tôi sửa vạt áo nàng cho ngay ngắn. Em về Thiên đàng bỏ anh một mình với mùa đông.

            Linh mục Việt Nam tới làm phép xác. Có chừng mươi người đồng đạo và bạn bè Hiền đến cầu kinh. Có cả bà Trang. Xong nghi thức ngắn, linh mục mời tôi về trung tâm Mục vụ bàn tiếp về đám tang theo nghi thức tôn giáo vào trưa thứ hai. Con Thư ở lại với mấy ông bà trong họ đạo đọc kinh, canh xác. Vào văn phòng ông cha tôi nói ngay:

            - Vợ tôi là người Công giáo. Tôi xin cha cứ quyết định mọi việc giùm, tôi không có ý kiến gì cả. Mọi sự nhờ cha.

            Ông linh mục gật đầu, nói tôi ở trong trường hợp đặc biệt, nên đã có ban Mục vụ tiếp tay, bà con cả. Tôi lấy giấy bút ra ghi cho khỏi quên những chi tiết mà nhà hiếu phải làm. Cha an ủi một lần nữa:

            - Chị sống đạo đức lắm, lên Thiên đàng sẽ phù hộ cho ông và cháu.

            Hiền khi còn sống vẫn cho rằng người ta lạm dụng hai chữ "đạo đức" để nói về lòng "sùng đạo". Bị gán hai chữ đó hẳn nàng ngượng lắm. Nhưng bây giờ, khi xác nàng sắp bị vùi xuống đất, tôi cảm thấy hồn nàng xứng hợp với hai chữ đó, ít nhất là trong cách nàng đối xử với chồng con bao năm nay.

            Ông cha xưng "chị" với vợ tôi và "ông" với tôi, có vẻ như ông gián tiếp coi tôi là người ngoài. Tôi thầm nghĩ nếu Hiền muốn, tôi sẽ theo đạo, hỏi:

            - Trước khi chết nhà tôi có giối giăng riêng gì với cha, ví dụ về tinh thần?

            Ông lắc đầu, rót trà cho tôi một cách thân ái. Chúng tôi cùng uống một hớp, ông đáp:

            - Chắc ông cũng đã biết hay nghe qua Công giáo có phép giải tội, và linh mục chúng tôi, khi ngồi nghe con chiên xưng tội, phải giữ tuyệt đối bí mật. Nhưng mười mấy năm làm cha giải tội cho chị Hiền, tôi có thể nói với ông điều này: chị Hiền có một lương tâm cực kỳ trong sáng và một đời sống tốt lành. Tôi nói vậy để ông yên lòng và đỡ buồn, khi nghĩ bây giờ chị đang ở một nơi hạnh phúc hơn chúng ta. Tôi cho rằng chính cuộc sống của chị là một điều giối giăng cho tất cả chúng ta.

            Nghe những lời đó, tôi muốn được khóc một mình, đứng dậy cáo từ.

            - Dạ vâng, tôi cũng nghĩ như vậy và ráng làm theo. Bây giờ nếu cha không còn dặn gì nữa tôi xin phép về.

            Trưa thứ hai. Nhà nguyện nghĩa địa Bærum, cả đầu hồi chính diện ghép toàn bằng kính trong, nhìn thấu ra ngoài rừng bạch dương trơ trụi. Lần đầu tiên trong đời tôi được ngồi chỗ danh dự trong một buổi lễ nhà thờ - trước quan tài vợ tôi. Hôm Hiền hấp hối, tuyết đầu mùa rơi bói vài hạt như so dây đàn. Hôm nay tuyết rơi tơi bời. Lúc đầu là những giọt nước mưa sền sệt, nặng nề, sau là những cọng tuyết mảnh bay tán loạn, cuống quít, cuối cùng là những bông tuyết xốp to bằng nụ bông vải lừng lững rơi xuống, hết từng này tới lớp khác, bao phủ trắng xóa mặt đất. Ở Việt Nam, mưa rào sầm sập, gào thét. Ở đây tuyết câm lặng buông như tấm khăn tang vĩ đại bằng lụa bạch, tấm lụa đã bị bứt hết những sợi ngang, sợi dọc, chỉ còn mảnh vụn tả tơi trùng trùng.

            Sau khi chôn cất xong, vị linh mục mời tôi vào văn phòng nhà nguyện và lôi trong xắc của ông lấy ra một cái phong bì giấy dầu, nói:

            - À, còn cái này chị nhờ tôi trả lại cho ai đó, mà không có ai nhận. Ông mang về làm kỷ niệm.

            Tôi dúi cái phong bì vào túi áo khoác, ra khỏi trung tâm Mục vụ. Tôi mở máy xe, trong khi chờ đợi cho tan băng trên cửa kính, tôi mở phong bì ra coi. Một cái khăn quàng bằng lụa mà cầm vào tôi đã lạnh toát cùng mình nhận ra đây là cái khăn của bà Trang quên trên xe mấy tháng trước. Tại sao nó lại lọt vào tay Hiền? Tại sao nàng đưa cho ông cha? Một lời "mách" kín đáo? Tôi ân hận đã không kể đầu đuôi cho Hiền biết việc này sau khi chúng tôi ở Pháp về. Tôi quên, nhưng có lúc nhớ thì lại nghĩ khó mà kể rành rọt một hoàn cảnh tế nhị như thế.

            Tôi tắt máy xe, chạy vội trở lại trung tâm Mục vụ.

            - Thưa cha, cái khăn này của ai?

            Ông cha vẫn điềm tĩnh, cái điềm tĩnh của một người đã ngồi toà giải tội nhiều năm:

            - Thì tôi đã nói chị Hiền không biết của ai mới đưa cho tôi tìm người trả. Và tôi hỏi không ai nhận, mới đưa lại cho ông.

            Tôi thẫn thờ:

            - Tại sao nhà tôi lại đưa cho cha đem trả một cái khăn quàng ... đàn bà?

            Ông bảo tôi cho mượn lại cái phong bì. Khi ông rút khăn ra tôi mới để ý nó không được ngay ngắn như nguyên thủy, tôi đã dúi khăn trở lại một cách vội vã, như dấm dúi một vết tích không phải vết tích tội lỗi, nhưng cũng không hẳn một vết son. Ông chỉ vào một chữ trên cái khăn lụa trắng:

            - Tại chữ Montmartre này. Chị nghĩ rằng cái khăn phải là của một người tham dự chuyến đi chơi Paris do Trung tâm Mục vụ tổ chức.

            Đúng rồi, bà Trang có khoe với tôi đi Pháp, nhưng không phải đi với Trung tâm Mục vụ, mà đi riêng. Tôi kêu thầm trong bụng, nhưng cố giữ vẻ bình tĩnh, thăm dò một cách khéo léo:

            - Nhà tôi không dặn thêm chi tiết tìm được ở đâu thì làm sao cha trả đúng chủ được ... Thế cha đã hỏi những ai?

            Câu thăm dò mà tôi tưởng là khéo léo vừa được buông ra, làm ông cha mất kiên nhẫn:

            - Thôi, chuyện nhỏ, ông đừng thắc mắc. ông cứ đem về ... để thêm một chứng tích nhắc ông nhớ về người bạn hiền.*

            *Bản này có sữa chửa đôi chút so với bản in của nxb Văn Học, Hoa Kỳ, năm 1999.


            Hvit silke

            Tâm Thanh

            http://www.diendantheky.net/2014/05/...-lua-bach.html
            Last edited by Mộc Châu; 08-03-2014, 04:52 AM.

            Comment


            • #7
              Em tôi...





              Cám ơn em "ca-viên" & văn-thi-sĩ Thiên Lý đa tài đã chịu khó SƯU TẦM các BÀI VIẾT của nhiều tác giả khác (tôi đã có dịp đọc qua trước khi em post rồi).
              Tuy nhiên, thành thật mà nói: tôi chỉ thích đọc những bài viết do từ em sáng tác... (em đã cất dấu kỷ niệm vàng son một thuở nơi ngăn kéo nào... tôi tìm hoài hổng thấy, hở cưng!?)
              THH
              Last edited by Tinh Hoai Huong; 08-03-2014, 03:09 PM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • #8
                Nguyên văn bởi Ai Uu Du View Post




                Cám ơn em "ca-viên" & văn-thi-sĩ Thiên Lý đa tài đã chịu khó SƯU TẦM các BÀI VIẾT của nhiều tác giả khác (tôi đã có dịp đọc qua trước khi em post rồi).
                Tuy nhiên, thành thật mà nói: tôi chỉ thích đọc những bài viết do từ em sáng tác... (em đã cất dấu kỷ niệm vàng son một thuở nơi ngăn kéo nào... tôi tìm hoài hổng thấy, hở cưng!?)
                THH

                Kính gửi chị Hoài Hương quý mến

                Trước hết, em xin cám ơn ý kiến chân thành của chị đã luôn ủng hộ cũng như thích những bài em viết, nhưng em đã không thể viết đều tay như chị được, và vì em cũng không có nhiều kỷ niệm đẹp như thời của các anh chị đã lớn lên trong chế độ VNCH , một chế độ đầy tình nhân bản, và có quyền tự do sáng tác, nên những lúc không có đề tài hay cảm hứng để viết thì em thường đọc bài trên net để mở thêm tầm hiểu biết, và để lấy kinh nghiệm viết lách. Khi đọc một bài viết hay, em muốn post vào HQPD này như một chia xẻ cùng quý anh chị độc giả cho vui vậy mà. Nếu em không đọc bài “Trí Thức Theo Cộng” thì em đã không biết ông Nguyễn Hiến Lê là thân cộng (vì nhà em hồi đó có rất nhiều sách của ông Nguyễn Hiến Lê), có thể nhiều quý anh chị đã biết rồi. Nếu tất cả những bài này chị và quý anh chị độc giả khác đã xem qua trước khi em post, thì em sẽ không dám “múa rìu qua mắt thợ” nữa.

                Ngăn ký ức của em chỉ có những kỷ niệm buồn của một giai đoạn đổi đời thê thảm, nhiều khi nghĩ đến nó, buồn quá, em không gõ được ra ý tưởng nào hết. Nhưng em sẽ cố gắng viết như chị vẫn thường khuyến khích hơn là post lại bài người khác viết. Và em cũng mong trong diễn dàn HQPD này sẽ có thêm những bài viết của các anh chị thành viên khác thì quý biết chừng nào.
                Sau cùng cám ơn chị đã cho em nghe bài hát “Em Tôi” rất hay.
                Kính mến
                TL
                Last edited by thien ly; 08-04-2014, 06:19 AM.

                Comment


                • #9
                  Những câu chuyện về đàn bà




                  Người đàn bà ngồi tựa vào tường trên lối mòn của một con hẻm. Mệt mỏi và thiếp đi cạnh quang gánh của mình. Hai đầu gánh là đủ thứ quà vặt như bánh tráng, kẹo, đến chanh, ớt… rồi có cả đồ chơi trẻ con chằng cột. Chị như muốn kéo cả thế giới chung quanh đi theo mình trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn không có ngày tháng cuối.

                  Hình ảnh đó đẹp đến mức tôi dừng lại, muốn chụp tấm ảnh làm kỷ niệm thì chị choàng tỉnh. Chị sợ hãi hỏi tôi chụp ảnh để làm gì. Có lẽ những cuộc rượt đuổi hàng rong trên hè phố là cơn ác mộng triền miên khiến chị không bao giờ có được chút thanh thản. Trò chuyện ít lâu, mới biết chị đi từ Quảng Ngãi vào bán hàng rong để gửi tiền về giúp cho gia đình. Tháng nhiều thì được 700-800 ngàn. Tháng ít thì 300-400 ngàn.
                  Người phụ nữ ấy chỉ là một trong hàng trăm ngàn con người đang lưu lạc mưu sinh trên đất nước này. Ẩn trong nụ cười hay lời rao hàng đơn giản đó, là những câu chuyện đời trôi dạt theo miếng ăn, trắc trở hơn những câu chuyện dài truyền hình giả tạo, nhưng buồn thay, chẳng có mấy người xem.

                  Khi chị ngồi giở mẩu giấy ghi lại tiền nong đã buôn bán trong ngày. Những ngón tay lần mò trên con số ngắn và nhỏ hơn biết bao lần những biên lai tính tiền thường nhật trong thành phố. Những ngón tay của chị nhiều ngày tháng không có được hơi ấm của chồng. Bao nhiêu người phụ nữ trên đất nước này đã bước lên chuyến xe đời khốn khó và không biết ngày nào có lại được hơi ấm từ người đàn ông của mình? Một trong những người phụ nữ như vậy mà tôi gặp nói rằng bà đã rời khỏi nhà gần 15 năm, sống một mình, làm lụng gửi tiền về quê nhưng chưa bao giờ có ý định chọn một tấm chồng khác.

                  Khi tôi xin được chụp hình chung với gánh hàng rong của người phụ nữ từ Quảng Ngãi, chị hốt hoảng nói không được. Hỏi mãi, thì chị mới nói thật là sợ chụp hình chung, nếu lỡ chồng đang đi làm ở quê thấy được, tưởng chị “mèo mỡ” sẽ buồn giận, tội nghiệp lắm.

                  Tôi cứ ước mình viết được một bài hát về người phụ nữ này, hay những người phụ nữ tương tự như vậy. Những nốt nhạc không bật ra được, cứ nghẹn lại trong hốc sâu nào đó. Những người đàn bà được mô tả đẹp như cổ tích trong văn chương, hội hoạ… thường thấy, chưa bao giờ có đủ hình ảnh quê mùa và ngọt ngào đến vậy. Không cần cầm súng hay bước ra bục tuyên hô, những người đàn bà vô danh này chống chọi cho một linh hồn đất Việt mong manh, giữa thời phụ nữ đang phải là một cái gì đó rất khác lạ.
                  Nhưng tôi vẫn còn nợ một bài hát khác, về những người phụ nữ Việt vô danh khác.
                  Trên một chuyến đi, may mắn được ngồi cùng vài cô gái Việt Nam lấy chồng Đài Loan về thăm quê, tôi bèn xin hỏi chuyện đời sống của họ. Nói về chuyện báo chí Việt Nam vẫn mô tả cuộc sống đi lấy chồng Đài Loan như địa ngục hay nô lệ, các cô nhìn nhau, rồi nhìn tôi cười.

                  “Cũng có những người không may, nhưng không phải ai cũng vậy, anh à”, một cô gái đồng hương Cần Thơ giải thích. Những cô gái rất trẻ nói về cuộc sống mới của mình. Họ nói rằng đã chọn hài lòng với cô đơn, hài lòng với những khó khăn mà họ phải trãi qua, ít nhất để cho mình, cho cha mẹ mình thoát nghèo khó. Ở miền Tây, có rất nhiều nơi được đặt tên là làng Đài Loan, làng Hàn Quốc… chỉ vì những đứa con gái lấy chồng xa xứ tằn tiện chi tiêu chỉ để dựng lại nhà cho gia đình mình.

                  Khi được hỏi về nạn bạo hành gia đình của các cô lấy chồng ngoại quốc. Một người lại nhìn tôi cười, hỏi rằng “bộ anh không không biết là lấy chồng dưới quê xứ mình cũng bị đánh tới chết cũng không ai cứu à?”.
                  Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này mở ra cho tôi một góc nhìn khác về những người phụ nữ Việt tìm duyên tha hương. Chắc chắn họ không hoàn toàn những kẻ điên cuồng hay mất nhân cách như báo chí vẫn gièm xiểm. Thật buồn khi có một thời đại mà những người phụ nữ Việt phải chọn cuộc sống khác hơn ở quê hương mình. Rất nhiều người đã phỉ báng họ. Nhưng giữa chọn lựa rất thực tế, có thể tự xoay sở cho đời mình, họ đủ thành thật để không màng một tiếng thơm hảo. Nỗi buồn xin gửi lại cho quốc gia và thời cuộc, họ chỉ là nạn nhân.

                  Có thể rồi những người phụ nữ này bình an, nhưng họ khó mà có được hạnh phúc. Điều mà mọi tôn giáo dạy con người đi tìm, cả thế gian mơ đến thì họ chấp nhận lìa bỏ trong kiếp sống tạm, để có thể làm được gì đó cho gia đình, hoặc không là gánh nặng ở quê nhà. Cũng như người đàn bà mưu sinh đến từ Quảng Ngãi, bao giờ thì những người phụ nữ lấy chồng xa này sẽ có, hay cảm nhận được hơi ấm của hạnh phúc đời mình?

                  Trong những ngày xưng tụng phụ nữ được ghi vào lịch, hình bóng “xấu xí” của những người phụ nữ này chắc không thể có trong diễn văn hay những bông hoa đẹp, dù là phô diễn. Cũng không có những bài ca nào chia sẻ, hát về họ giữa một hiện trạng đất nước thiếu những trái tim biết yêu thật thà. Những bài ca chỉ vang lên lời xảo biện.

                  Một đất nước thật đáng buồn, nếu chỉ còn biết có hot girl hay xưng tụng một giai cấp khoe khoang mua sắm tiền tỉ, thèm khát những vẻ đẹp bề ngoài. Khi trò vui che lấp các số phận, đến một ngày nào đó, tất cả chỉ là mồi thiêu như các loại hàng mã trong niên đại cô hồn. Thật ghê sợ những đêm hoa đăng tranh đua vùi chôn sự thật mà lẽ ra chúng ta cần phải đối diện.

                  Tôi ước mình viết được bài ca để hát về câu chuyện của những người đàn bà vô danh ấy, một ngày nào đó. Những số phận ấy tầm thường mà khác thường. Nhưng những nốt nhạc hiện thực vẫn chưa thể vang lên, vì vừa chớm thì đã chết lặng trong những cuộc vui hoa đăng bất tận trên đất nước này. Những tượng đài tốn kém mọc lên, những bông hoa đủ màu ngập ngụa đất nước, rực rỡ như phấn son, che lấp giọt mồ hôi hay nước mắt con người.



                  http://trangvhntnguoncoi.wordpress.com/2014/11/25/nhung-cau-chuyen-ve-dan-ba/
                  Last edited by Mộc Châu; 12-26-2014, 04:50 AM.

                  Comment



                  Hội Quán Phi Dũng ©
                  Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                  website hit counter

                  Working...
                  X