Thông báo

Collapse
No announcement yet.

XUÂN CHINH CHIẾN .Trương Văn Út (Út bạch lan)

Collapse
X

XUÂN CHINH CHIẾN .Trương Văn Út (Út bạch lan)

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • XUÂN CHINH CHIẾN .Trương Văn Út (Út bạch lan)


    Thuở lên năm lên sáu, cứ mỗi độ gió chướng từ biển Gò Công rào rạt thổi vào thành phố đìu hiu nghèo nàn ở quê tôi, cảm giác Xuân về làm tâm hồn tôi cứ lâng lâng, nôn nao, rạo rực đợi chờ từng ngày và từng ngày …! Tuần lễ trước Tết cuối năm âm lịch, Mẹ và Chị tôi tất bật với bếp lò, nào bánh chưng, bánh tét, bánh ú, bánh ít , dưa giá củ kiệu, nồi thịt kho nước dừa thơm phưng phức béo ngậy mùi mỡ, hương nồng nồng nồi canh khổ qua nhồi thịt xông lên mũi ôi sao mà tưởng chừng như muốn ăn cho no nên nức lòng, thoả dạ …! Tất cả người thân yêu trong gia đình cứ hân hoan vẻ mặt xuôi ngược với chợ Tết mua sắm nhang đèn, hoa quả và quần áo mới cho các anh chị em tôi. Mấy anh em trai tôi thì hì hục lau chùi đánh bóng ba bộ lư, chân đèn, mâm đồng, mấy bộ tủ bàn ghế cẩn xa cừ, phụ Cha tôi dựng cây nêu trước sân nhà trong không khí náo nức chờ đợi đêm giao thừa với món bánh tráng cuốn thịt kho Tàu dưa giá với tô nước thịt làm nước chấm có ớt cay tới xé lưỡi và nhất đám trẻ con chúng tôi được thay quần áo mới chờ bố mẹ lì xì tiền Tết… Chúng tôi chơi lô tô, chờ nửa đêm tới giờ giao thừa, kéo nhau ra sân bắn ống tre hơi khí đá thay cho pháo nổ đì đùng…
    Này mẹ có nghe xôn xao lá thay màu,
    Này mẹ có nghe chim đua hót trên cành,
    Này mẹ thấy chăng ngoài sân kia đàn bướm đang nhởn nhơ đùa vui !
    Này mẹ thấy chăng cây mai trước sân nhà nụ vàng ấp yêu như cô gái đương thì,
    Này mẹ thấy chăng trời trong xanh,
    Đàn én đang nhởn nhơ dập dìu…
    Mẹ hay chăng mùa xuân vui đã sang,
    Mẹ hay chăng khổ đau xưa đã chìm
    Mẹ thấy chăng phố vui chân người về !
    Mẹ thấy chăng thôn xóm rực đèn treo …
    Nụ cười bỗng tươi trên môi đã khô cằn,
    Mẹ mừng thấy con xa xôi đã quay về,
    Mẹ mừng mái tranh từ bao năm quạnh vắng đã có thêm người thân…
    Rộn ràng tiếng ca cô con gái bên nhà.
    Hồng hồng nét môi khi thấy bóng trai về,
    Dập dìu áo hoa từ thôn trên làng dưới đi rước Xuân về nhà.
    (Xuân Về Với Mẹ - Nhật Ngân)

    Theo thời gian…rồi cũng qua đi, tôi lớn dần cho đến khi lên trung học, rồi đại học, dường như tôi không còn cái cảm giác Xuân về Tết đến như lúc còn ấu thơ với gia đình và cho đến khi vào lính ! Sau 2 năm học tập, tôi luyện vất vả ở Quân Trường Võ Bị Đà Lạt, tốt nghiệp ra trường lại đúng vào Tết Mậu Thân (tháng 12 cuối năm 1967 - đầu năm 1968) là cái Tết tang thương đẩm máu và nước mắt trên khắp mọi nẻo đường đất nước…! Ôi… Tết Mậu Thân với bao nỗi chết như vết thương hằn sâu vào tiềm thức của mọi người thì làm sao quên cho được ? Ngay ngày Tết mà bọn khát máu mọi rợ Việt Cộng năng nổ, xông xáo, lùng sục đạp cửa từng nhà dân lành vào đêm giao thừa, sáng mùng một Tết và cả thời gian sau đó tại vùng chúng chiếm đóng, chúng trốc nã lôi cả cha mẹ vợ con, bạn bè, thân bằng quyến thuộc ra trước cửa nhà rồi qui tội và hành quyết tại chỗ, mặc cho tiếng kêu gào thảm thiết của người thân …! Làm sao tôi quên được cái Tết đó, cái Tết mà tôi vừa mới “đăng quan” thiếu úy sữa, tưởng rằng ”áo gấm về làng vinh quy bái tổ” thì mùng hai, mùng ba Tết lại phải đi gát hòm cho vị Tiểu Đoàn Trưởng của đơn vị và vị Đại Đội Trưởng khác của Tiểu Đoàn 91Biệt Cách Dù - Lực Lượng Đặc Biệt) (TĐ91BCD/LLĐB) vừa ngã quỵ trên đường phố Độc Lập - Thị Xã Nha Trang đúng vào lúc giao thừa Tết Mậu Thân, đơn vị mà tôi mới vừa đáo nhậm chưa tới mười ngày ! Thời gian sau … cứ iên tiếp là những cái Tết: Kỷ Dậu (1969), Canh Tuất (1970), Tân Hợi (1971), Nhâm Tý (1972), giày saut mòn gót, áo trận bạc màu thay mới đã bao lần , miệt mài hành quân tới tận rừng sâu núi thẳm săn lùng , giết giặc chí cho tới những mặt trận khốc liệt trên khắp vùng chiến thuật … Chẳng có dưa hành thịt mỡ, chẳng có bánh chưng bánh tét mà chỉ có gạo sấy thịt hộp ba lác, rau rừng mọc dại dọc theo bờ suối, ven sông dưới chân đồi… Cũng chẳng có rượu nếp thang hay rượu đậu nành là đặc sản của Gò Công - Mỹ Tho quê tôi , mà chỉ có nước hố bom chứa sẵn trong bidong… Không còn nghe tiếng pháo đón giao thừa quen thuộc, thay vào đó là tiếng rít của hỏa tiễn 122 ly, đại pháo 130ly và đạn AK47 veo véo bay ngang qua đầu mà thân còn đang lội bì bõm dưới giao thông hào, hố cá nhân lầy lội bùn sình, lấp xấp nước … Chiến Tranh mà ! Chiến tranh sát hại sinh linh, chiến tranh tàn phá vạn vật thì huống hồ chi tuổi trẻ của tôi. Chiến tranh cũng không cần biết Xuân Hạ Thu Đông, Tết nhất sinh nhật giỗ kỵ gì hết, cũng không phân biệt già trẻ bé lớn, chỉ có bắn giết lẫn nhau để đoạt chiến thắng với bất cứ giá nào, dù cái giá phải trả bằng hằng vạn mạng sống của người dân lành vô tội !
    Chẳng là vào ngày 3 - 2 - 1973 nhầm ngày 30 Tết Quý Sửu và cũng đúng là ngày sinh nhật 28 tuổi của tôi, trước đó mấy ngày tôi đã căn dặn Thượng Sĩ Nhất Tá - Hạ Sĩ Quan tiền trạm ở Huế ra chợ đặt cho tôi hai con heo quay cở lớn nhất, hậu cứ SàiGòn đả gửi ra cho chúng tôi 10 con khô vịt và bánh mì, bánh hỏi rau sống để lần đầu tiên đơn vị ăn Tết trong hòa bình vai kề vai bên cạnh kẻ thù không đội trời chung mà không có tiếng súng. Trưa nay, trận đấu bóng chuyền giao hữu đôi bên chấm dứt, một buổi tiệc tất niên linh đình được bày ra sân, ta với địch ôm eo ếch nhẩy sol đố mì cùng với hai can rượu đế Cầu Bạch Hổ. Tan tiệc dã chiến, ai về nhà nấy với lời chúc Tết của tôi và nhớ là ngưng giao chiến trong hai ngày Tết, vì bắt đầu ngày mai mùng một Tết, các binh sĩ sẽ lần lượt thay phiên nhau nhận sự vụ lệnh nghĩ phép về Sài Gòn thăm gia đình 10 ngày. Ngày mùng một Tết Nhâm Tý (4 – 2 - 1973) trôi qua trong cái lạnh giá buốt của vùng địa đầu giới tuyến, Tết này con không về được để ngắm những cây mai vàng mà Ba đã trồng trước ngõ, không ăn được món giò thủ mà Mẹ đã bó bằng những sợi dây lạc dừa, con chỉ ngồi đây mở radio ấp chiến lược nghe Hoàng Oanh hát:
    Xuân vừa về trên bãi cỏ non
    Gió Xuân đưa lá vàng xuôi nguồn
    Hoa cùng cười tia nắng vàng son
    Lũ ong lên đường cánh tung tròn
    Hoa chẳng yêu lũ bướm lả lơi
    Muốn yêu anh vác cầy trên đồi
    Hay là yêu chiến sĩ ngàn nơi... !
    (Hoa Xuân - Phạm Duy)

    Năm cũ sắp hết, năm mới sắp đến, những cành đào sau nhà đã trổ nụ, tôi chợt nhớ đến quê tôi xứ Gò Công nước mặn đồng chua với những cánh đồng lúa chín ngút ngàn, những vườn mãng cầu serie chín đỏ mọng, khi đông tàn Xuân đến, hằng chục chiếc ghe bầu khẩm nặng với dưa hấu, dừa xiêm ghé bến sông nước đục ngầu chảy xiết, chợ búa tất nập ngược xuôi, người mua kẻ bán, trong đó có Mẹ và Chị tôi, buôn tảo bán tần nuôi năm chị em tôi ăn học và như còn nghe văng vẳng đâu đây tiếng của Ông Ngoại dặn dò Mẹ tôi: “Nghèo Mà Biết Cho Đi Là Giàu Hơn Tất Cả, Giàu Mà Không Muốn Bỏ Ra Là Thiếu Tận Cùng”.
    Những ngày cuối năm Tân Hợi (1971), Đại Đội 2 Trinh Sát Nhẩy Dù (ĐĐ2TSND) được lệnh triệt xuất ra khỏi vùng biên giới sau một tháng dầm mình dưới những đầm lầy đầy dẫy đĩa vắt muỗi mòng … và được bốc về Căn Cứ Hành Quân – Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù chuẩn bị đón Tết Nhâm Tý (1972) dưới hầm trú ẩn trong trại Lực Lượng Đặc Biệt Biên Phòng Thiện Ngôn. Những ngày cuối tháng Hai tuy không lạnh lắm, nhưng sương mù buổi sáng giăng khắp nơi như bao phủ cả trại lính chìm vào không gian của những ngày cuối Đông lành lạnh còn vướng víu chưa nỡ sang Xuân…! Chợt có tiếng hát từ radio của lính:

    Đợi hai ba năm nữa
    Quê mình thôi khói lửa
    Mời Xuân đến với tôi
    Giờ còn nặng hai vai
    Thân tha hương hồ hải
    Hỏi Xuân có gì vui ?
    Hỏi Xuân có gì vui
    Xuân làm dáng cho đời
    Đẹp lòng giây phút thôi !
    Ôi đất nước xa xôi
    Xuân đi làm sao tới
    Dặm dài xin chớ lui…!
    (Tôi Chưa Có Mùa Xuân - Châu Kỳ )


    Tôi chạnh tình nhớ đến khung cảnh sinh hoạt của những người thân yêu trong gia đình: giờ này chắc Mẹ và Chị đang ngồi canh bên bếp lửa hồng với hai nồi bánh chưng và bánh tét, Cha và Em đang chùi mấy bộ lư đồng, quét dọn bàn thờ, treo vài ba câu đối đỏ, cắm một vài cành mai… và thành tâm lâm râm khấn vái, cầu nguyện với niềm hy vọng mong manh: "… thằng Út có thể sẽ về ăn tết năm nay"…? Trong cơn hồi tưởng miên mang tôi tự thưởng hương vị tất niên:

    Sơn tuyền lưỡng xứ vãn,
    Hoa liễu nhất viên xuân.
    Hoàn trì thiên nhật tuý,
    Cộng tác bách niên nhân.
    (Vương Bột -
    王勃)

    Hay Thơ Xuân với Thiền sư Việt:
    Đào trung xuân mãn diện
    Xuân trung đào tựu khai
    Hà tất quân vị báo
    Vô đào xuân bất lai.


    Và:
    Rừng núi thương Xuân bèn trổ lá
    Thị thành nhớ Tết cố chưng bông.


    Tôi leo lên chiếc trực thăng Slick thứ tư, một trong 15 chiếc trực thăng chở quân của Phi Đoàn 229 Lạc Long đang quạt cánh nằm chdài trên quốc lộ 14 phía trước căn cứ Võ Định - Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù …. Lố nhố trong 3 Slick đầu là ba toán Viễn Thám, Slick thứ tư có tôi, 3 hiệu thính viên và 3 "thầy trò" Thiếu Úy Chu Văn Chấn tiền sát viên Pháo Binh của Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù , Slick thứ năm là toàn bộ cố vấn Mỹ và phóng viên chiến trường Cao Sơn của Phòng Tâm Lý Chiến Quân Đoàn II (2), những Slick còn lại chcác binh sĩ Trung Đội Trinh Sát Dù… Trên không là chiếc C&C của Đại Úy Phạm Công Cẩn (Công Cẩn Giang Đông “tân thời ” – Khóa 21 Võ Bị Quốc Gia cùng với Đại Tá Trần Quốc Lịch LĐoàn Trưởng LĐoàn 2 Nhẩy Dù (LĐT/LĐIIND), Thiếu Tá Nguyễn Văn Thành (Khóa 19 Võ Bị Quốc Gia ) Sĩ Quan phụ tá hành quân LĐoàn, Thiếu Tá Bùi Đức Lạc - Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhẩy Dù (TĐT/TĐ1PBND) và các hiệu thính viên.
    Tiếng cánh quạt quay nhanh bắt đầu tăng tốc độ nâng cao thân tàu lên khỏi con đường tráng nhựa mang tên Quốc Lộ 14, con đường nối liến từ ngã ba biên giới Việt – Miên - Lào (Benhet) về Kontum đến Pleiku đã trải đầy máu và nước mắt của biết bao nhiêu Quân - Dân - Cán - Chính vùng Tam Biên với sức cường tập háo sát của Sư Đoàn 320A chính quy Cộng Sản Bắc Việt (SĐ320A CSBV) từ vùng Hạ Lào xâm nhập vào nơi đây sau “Mặt Trận Đường 9 Nam Lào” (Hành Quân Lam Sơn 719 Việt Nam Cộng Hoà), được tăng cường thêm 2 Trung Đoàn Tank T54, 1 Trung Đoàn Phòng Không hạng nặng cùng với sự hổ trợ của Sư Đoàn 10 Cơ Động Địa Phương (SĐ10CĐĐP).
    Từ bãi bốc (PZ) đến bãi thả (LZ) mất hai phút bay. Trong hai phút ngắn ngủi này mà bao nhiêu người phải vận dụng tất cả trí lực để chú tâm vào nhiệm vụ của mình. Người quan trọng nhất phải nói là Thiếu Tá Bùi Đức Lạc - Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù người đang phối hợp điều động cả lực lượng Pháo Binh, phi yểm của Việt và Mỹ cho việc đổ quân, chỉ một sơ xuất nhỏ tính toán vài giây đồng hồ thì sẽ gây ra không biết bao nhiêu hậu quả không lường trước được… Với Kỹ Thuật "GAP" (Ground and Air Preparation) là dọn bãi đáp an toàn cho chiến thuật Trực Thăng Vận, chắc có lẽ chỉ có Pháo Binh Nhẩy Dù là thông thạo và nhiều kinh nghiệm nhất vì đã phối hợp với Không Kỵ Hoa Kỳ (1st Cavalry Division) nhiều năm rồi.
    Tôi tuy đang ngồi trên chiếc Slick thứ tư, nhưng thân luôn chồm lên phòng lái để theo dõi phía trước, nghe trong máy của Thiếu Úy Chấn pháo binh đếm tiếng điểm của Thiếu Tá Bùi Đức Lạc ...2...1... Out, vừa nghe chữ “Out” và một trái khói cuối cùng bung nổ ngay trên đỉnh đồi 1049 có tên là đồi Delta nơi mà tôi phải dẫn quân đáp xuống như đại bàng điểm sơn, bốn chiếc Gunship của Phi Đoàn 229 Lạc Long lao xuống phóng hàng loạt Rocket ngay vào đám khói trắng đang bung tỏa rộng lên không và trong tít tắt giây đồng hồ thì chiếc Slick thứ nhất với toán Viễn Thám 1 cũng vội đáp xuống trên đỉnh đồi, Slick thứ nhất vào tới mục tiêu trên cao độ 50ft thì đột ngột quay về phía phải 90 độ, hạ thấp độ cao và biến mất dưới thung lũng rừng núi chập chùng, Slick thứ hai, rồi Slick thứ ba… Tôi lao lên chỉ cho Pilot chính bên trái và hét lớn: “ xuống… xuống… xuống ngay cho tôi…”! Chiếc trực thăng xà xuống ngay đỉnh đồi chừng 5ft, chúng tôi đồng loạt phóng nhanh xuống mặt đất, trực thăng bốc lên bay khỏi đỉnh đồi, tôi chụp máy gọi ngay cho Thành Thái:
    - Tôi bị phục kích độn thổ, yêu cầu phải cho tất cả con cái của tôi đoàn tụ...hết.
    Trong khi đó chân tôi đang đứng trên miệng hầm, dưới hầm là một nòng đại liên phòng không 12ly7 đang quơ qua quơ lại… Trung sĩ nhất Nguyễn Văn Minh trưởng ban truyền tin của Đại Đội xô ngang vai tôi một cái thật mạnh, tôi bật ngã lăng lòm còm trên nấp hầm, Trung Úy Buhdar cố vấn Mỹ đang ở bên cạnh rút vội khẩu Colt 45 không kịp kéo cơ bẩm cho đạn lên nòng mà cứ hô hoán "bố cu vi ci" luôn miệng... Tôi lấy lại bình tỉnh và la lớn: "lựu đạn"… Vì trong tình trạng quá bất ngờ lại ngạc nhiên, quýnh quáng nên Thiếu Úy Chấn tháo trái lựu đạn từ giây ba chạt, cắn rút chốt, quăng ngay xuống hầm chờ cho nó nổ, thì ngay tức khắc trái lựu đạn lại bị Việt Cộng từ dưới hầm ném trả trở lên phát nổ tung… Thầy trò chúng tôi nằm rạp xuống, bò lết bò càng, sờ bụng, sờ đầu, lần mò xem tay chân có mất cái nào không… ? May quá cả đám không hề chi như phép lạ, hú hồn …! Thôi,… không dùng lựu đạn nữa, chơi mìn Claymore theo kiểu a la mode Nhẩy Dù cho chắc ăn, tay cầm sẵn “con cóc”, ném một trái khói xuống hầm, rồi ném mìn Claymore xuống theo, xong bấm cóc… “Oành” tiếng nổ vang trời, nóc hầm bung v tung, có tiếng khua động cuống quít ở những hang đào ăn luồng với căn hầm chính là lố nhố năm ba chú nón cối đang cố chui vào các ngách đục sâu vào vách hầm chính, mặt mày ngây ngô, thất kinh tưởng như bị thiên lôi vừa giáng một búa mà chưa chết…! Và cứ tiếp tục như thế, các Trung Đội đến sau cứ y theo thủ thuật “thảy lỗ bấm cóc “cho đến khi dứt điểm hơn hai chục (20) căn hầm trên đỉnh đồi bung nắp, thằng nào còn sống nguyên vẹn thì lôi lên, đối xử tử tế với nó, không cần trói, chỉ cho ngồi yên tại chỗ, cho uống cà phê, hút thuốc lá Pallmall, thằng nào chết thì đếm xác, bị thương nặng ngáp ngáp không thể cứu chữa được thì cho nó một phát ân huệ cuối cùng để tránh khỏi đau đớn hành xác với lời cầu nguyện cho linh hồn được siêu thoát và đưa tay vuốt cho đôi mắt khép lại luôn cả oán hờn…! Kiểm lại bắt sống được 12 tên bộ đội chính qui Bắc Cộng tại chỗ, chúng chỉ ở lứa tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới” ốm đói vì thiếu ăn lâu ngày không tương xứng làm đối thủ với Trinh Sát 2 Nhẩy Dù ! Chiếc Slick thứ năm và 10 chiếc Slick kế tiếp lần lượt đáp xuống yên ngựa dưới triền đồi, chờ đợt hai thì thả đủ toàn bộ Đại Đội 2 Trinh Sát Dù của tôi. Tôi đang lượng định địa thế để bố trí quân … Chúng tôi nằm phục ở nơi đây ghìm tay súng, chong đôi mắt đỏ chờ giặc trong bóng đêm ma quái rờn rợn khí thê thê lạnh của tử thần lảng vãng, lẫn khuất ngay ngáy mùi máu tanh còn thấm ướt qua từng thớ đất trận địa ban ngày vừa qua… ! Những khi “thầy trò Đường Tăng” Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù chúng tôi phải lâm vào “Thế Bối Thuỷ” và giặc thù vây kín trùng trùng… không có đường trở lui mà phải Sinh Tử Chiến, mãnh hổ huyết chiến địch quần hồ mới hòng có đường sống sót trở về với vợ con ở trại gia binh… Hơn 200 sinh mạng “Kinh Kha” Trinh Sát Dù đã qua bờ Dịch thuỷ đang trông chờ ta với trọng trách nặng nề đè nặng trên vai… Tôi phải thật bình tĩnh nhận thức sự việc từ nội tâm tới ngoại giới như chiếu soi và trong không gian tỉnh lặng, tôi nghe rõ tiếng xào xạt lá cây rừng với vài cơn gió Hè thổi qua của vùng Tây Nguyên đất đỏ, mắt đảo quanh như soi hút cảnh vật chung quanh và chú tâm nghe ngóng những động tỉnh nhỏ nhặt mơ hồ như có, như không xen lẫn trong mớ âm thanh hỗn độn tiếng côn trùng gọi nhau trong đêm … Tôi biết tất cả hơn 200 đôi mắt của Đại Đội 2 Trinh Sát Dù cũng đang chong đỏ trong bóng đêm dày dặc và tay ghìm chặc súng đạn đã lên nòng từ những hầm hố, lấy độ dày của đất làm chỗ che thân và chờ đợi từng giây phút sẽ có ánh lửa loé chớp nhoáng bùng lên với hằng loạt tiếng nổ xé rách màn đêm khi địch quân nổ súng tấn công cường tập… Trên không có tiếng vọng rù …rì … của chiếc không thám OV10 bay trên cao độ vài ngàn bộ như thần “thiên lý nhãn” hộ mạng luôn túc trực quan sát, theo dõi tình hình “dưới thế” để chỉ điểm, hướng dẫn, báo cáo hành quân, yểm trợ quân bạn từng chi tiết bất kể giờ giấc hay đêm ngày … Thời khắc tử thần quơ lưỡi hái đã điểm lúc 10:45 trời gần khuya: hằng loại trái sáng phát nổ phựt ánh sáng bung loé sáng rực trong đêm cùng lúc tiếng nổ mìn định hướng Claymore vang dội, thân xác, xương thịt vung vãi, bầy thiêu thân ngông cuồng lao tới bức tường thành lửa đạn khạc ra hằng loạt, lựu đạn tung lên nổ vang nháng lửa, hằng loạt M79 bắn trực xạ vào thân người tan nát, những tràng đại liên M60 nổ dòn liên thanh không cần giải nhiệt bắn vào thây người ngã xuống, bấm thêm mìn Claymore nổ dạt tung toé xương thịt kinh hoàng, lớp ngạ quỉ “sinh Bắc tử Nam” tan tành như xác pháo, lớp khác nhào tới như những cương thi vô cảm giác rồi ngã bật xuống trước họng súng thiện xạ của hơn 200 tay súng Đại Đội 2 Trinh Sát Dù là đơn vị Tổng Trừ Bị ưu tú trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa dày dạn kinh qua bao chiến trường trên 4 Vùng Chiến Thuật… Khoảng 5 phút sau, 4 chiếc Cobra trực thăng võ trang đã xuất hiện từ cao độ 500 bộ, theo tín hiệu của PRC11 phát ra từ Budhar và tôi hướng dẫn chỉ điểm mục tiêu để cho “Thiên Thần Mãng Xà Vương “ Cobra clean up bầy quỉ Đỏ lúc nhúc “dưới thế” với giàn phóng hoả tiễn (Rocket), M79 Auto bắn rãi cận phòng chung quanh đỉnh đồi … Tiếng nổ vang rền đinh tai, nhức óc, mảnh đạn cày sới tung đất đá, lửa cháy đỏ rực đỉnh đồi Delta trong đêm khuya … !!! Cobra hết đạn rời vùng. Ngay tức khắc Pháo Binh của Thanh Vân - Đại Úy Nguyễn Cẩn Ngọc Pháo Đội Trưởng Pháo Đội C1 Dù nhuần nhuyễn khế hợp theo những tiêu điểm tác xạ định sẵn mà bắn hằng tràng đạn đại bác như trải thảm cả ngọn đồi … Hằng hàng hàng lớp lớp Bắc Quân từ cánh rừng phía Tây vùng 3 biên giới Việt - Miên - Lào đã ém quân nm phục sẵn từ trước, túa tràn ra bao vây quanh chân đồi, chúng hung hãn nhào lên như bầy dã thú để rồi thân xác bị nổ tan tành dưới sức công phá của bom đạn kinh hồn… !
    Tôi liền áp dụng phương pháp "cóc nhảy lui " vì rút lui đồng loạt sẽ bị địch tràn ngập ngay và mặc cho cấp trên hò hét lệnh lạc điều động thế nào tôi không có "quởn" nghĩ tới nữa, “thầy trò đường tăng” chúng tôi “bung” hết khả năng nhuần nhuyễn xuất thần để vượt thoát hiểm trận thiên la, địa võng bomb đạn kinh hoàng này… sau lưng của tôi là cả một biển la đỏ rực cháy bùng lên nóng hừng hực với hằng loạt bomb Napal xăng đặc từ những phi tuần trên không dội xuống đốt cháy vạn vật như “giời cao” huỷ diệt sinh linh quả địa cầu tròn trịa nầy… ! Kinh hồn và khiếp đảm như ngày tận thế …! Phải bỏ lại hai toán Viễn Thám và hơn 20 Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ chết chết tại chỗ và bị thương nặng nhẹ… ! Ôi tan tác… ! Thôi đành xin lỗi các bạn... ”không phải tại anh cũng không phải tại em, tại trời xui khiến nên chúng mình xa nhau…”… tử biệt sinh ly mỗi giây phút, mỗi giờ và mỗi ngày là chuyện thường chinh chiến có mấy ai đi mà trở lại... Đau thương cũng đành thôi vì chúng tôi còn có tử thần cầm lưỡi hát đoạt hồn đón chờ ở phía trước !
    Ngày hôm sau Đại Đội 2 Trinh Sát Dù chúng tôi được bốc ra khỏi ngọn đồi Charlie sau một đêm cùng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù nằm vắt giò lên miệng hầm nghe tiếng rít xé gió từ hai Pass B52 đánh bomb cách Charlie chừng 300 mét. Sự việc đã phá lệ duy nhất trong Lịch Sử Chiến Trường Thế Giới và chỉ có ở tại Charlie - Việt Nam 1972 vì khoảng cách an toàn để Pháo Đài Bay B52 Chiến Lược dội bom tối thiểu phải 1000 mét vòng đai để tránh thiệt hại cho chung quanh quân ta. Tôi ngồi trên chiếc trực thăng Mỹ cuối cùng rời Charlie, không một vẫy tay chào, không một lời giã từ "Đồi Bắc" nơi đó có Hùng Mập E22, "Đồi 1515" có các niên trưởng thân tình với tôi mà chỉ cách đây hai tuần lễ còn ăn nhậu mệt nghĩ tại Câu Lạc Đoàn 11 Dù với niên trưởng Nguyễn Đình Bảo, niên trưởng Lê Văn Mễ, niên trưởng Đoàn Phương Hải, Hùng Móm, Thinh… ! Vài ngày hôm sau số phận Đồi Charlie kết thúc, để người Anh đáng kính Cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo của Căn Cứ Nguyễn Huệ - Long Bình nay có vinh danh "Người Ở Lại Charlie" qua dòng nhạc xót xa tiếc nuối của ca nhạc sĩ Trần Thiện Thanh - Nhật Trường và “bia bảng” trên công viên thành phố Saigon nhộn nhịp dòng người ngược xuôi với đèn xanh đèn đỏ tiếc thương thì cũng thế thôi, “nam nhi chinh chiến kỷ nhân hồi” và có đâu:

    Chinh nhân ơi khi anh trở về
    Người yêu ra mừng đón
    Người yêu anh bé nhỏ

    Sẽ thương anh trọn đời.
    (Một Người Đi – Mai Châu)


    Trong căn hầm trú ẩn chỉ rộng khoảng năm sáu thước vuông, một cái bàn dã chiến cùng bốn thùng gỗ pháo binh làm ghế ngồi. Khi tôi và Bác Sĩ Hiệp đến thì đã có mặt Trung Tá Nguyễn Văn Tường Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh ngồi sẵn đó rồi... Trên bàn là chai Remy Martelle, cái bánh chưng, đĩa giò thủ cùng với dưa hành củ kiệu… Thường chúng tôi gặp nhau hằng ngày qua máy truyền tin PRC25 hoặc trong những buổi họp hành quân kể cả những khi không có gì để nói đến trận mạc chiến chinh. Nay chúng tôi có dịp tương phùng đón Xuân dã chiến, ngoài kia vòng rào kẻm gai có cây mai khẳng khiu vươn cành lá trổ bông vàng đong đưa trước gió sớm ban mai. Hiếm có những ngày Xuân đóng quân bình yên như Tết năm nay.

    Hôm nay, trải qua bao thế sự thăng trầm… và sau nửa đời người với một phần hai thế kỷ, bạn bè kẻ còn người mất, giàu - nghèo, sang - hèn có khác gì nhau khi đã có mang chung một “Đời Lính Chiến”, tôi Trinh Sát Dù với khẩu hiệu “Cố Gắng” nhảy vội qua khung cửa trực thăng là lao vào cõi sống chết, các bạn đồng ngũ Biệt Động Quân cùng nhẩy ào ra khỏi lòng Slick trực thăng lội bãi sình lầy gian khổ, Thủy Quân Lục Chiến đỗ quân hay nhẩy ùm xuống bờ biển nông sâu lõm bõm lội vào bờ trước họng súng đang đồng loạt khai hoả của quân giặc và thây người ngã xuống, Không Quân lao vào lưới đạn phòng không nã hoả tiễn, rải từng tràng đạn liên thanh, bay sát mục tiêu để “thẩy lỗ” từng trái bom nổ bung xác giặc tràn ngập căn cứ quân bạn hoặc bay vút lên còn “lắc cánh”chào nhau tại chiến địa và hẹn ngày mai gặp lại đâu đó ở chiến trường khác nữa, hay anh em Thiếp Giáp với pháo tháp chiến xa chỉa thẳng nòng đại bác bắn trực xạ và đạp ga phóng tới húc càn trên xác địch mà giành lấy mạng sống cho bản thân để còn về phép mà thăm lại vợ con nheo nhóc trong khu gia binh an bình… Và còn nữa biết bao các Huynh Đệ Chi Binh trong hàng quân Hải – Lục – Không Quân – Địa Phương Quân trấn giử tiền đồn heo hút hoặc tay súng cùng với người vợ quê chia cơm, xẻ đạn chiến đấu với giặc Cộng công đồn và đang ngày đêm khổ nhọc với nhiệm vụ và công tác chiến trường liên miên bất tận… Ôi có nỗi cam khổ và hiểm nguy nào hơn chứ ! Chẳng qua vì chúng tôi không chấp nhận bọn giặc từ phương Bắc vào Nam đốt phá xóm làng, bắn giết dân Ta.
    Năm Tân Sửu tại Houston – Texas, Út bạch lan tôi xin thân tình chúc cho cô bé Jane Bomb cùng nhóm Việt Nữ Hoa Tự Do và quí vị Fang Cứng của Chương Trình Hát Cho Quê Hương Tôi năm mới vạn sự như ý.


    .Út bạch lan

  • #2
    TÌNH XUÂN TRONG THỜI CHINH CHIẾN
    Trịnh Khải Hoàng


    Buổi sáng mồng một Tết , Ngữ Uyên thức dậy sớm, nàng bước ra khoảng sân vườn , nhìn lũ ong bướm bay lượn chập chờn bên mấy hàng tường vi , có con buông thân đáp nhẹ làm lay động cánh hoa tươi hãy còn khép nép nở như e ấp thẹn thùng với chàng bướm giang hồ mầu sắc trử tình , lãng mạn cợt đùa lã lơi dưới ánh nắng ban mai và gió Xuân thổi phơn phớt hơi lạnh của tiết Đông cuối mùa. Nàng Xuân dạo gót hài tiên đâu đây mà hoa tươi nở rộ cả khu vườn…?
    Đêm qua giao thừa , em trai của Ngữ Uyên đã đốt quá nhiều pháo , xác giấy đỏ hồng như trải thảm ở hàng hiên . Cội Mai già cưu mang nhiều hoa vàng rực rở , thân cây trĩu cành , xám vỏ , hình vóc đã cằn cỗi lão hoá với thời gian … Tuy vậy, những đọt chồi mơn mởn xanh tươi với dăm chiếc lá non phất phơ , đong đưa trước gió Xuân thổi nhẹ hây hây và nhiều nụ hoa chưa nở hãy còn ươm lóng lánh hạt sương mai … khiến cho Ngữ Uyên chiêu cảm sức sống phơi phới tràn đầy tuổi trẻ và tình Xuân như đang nở rộ sắc hoa hàm tiếu trong tâm hồn ! Lão Mai được mọi người trong gia đình yêu mến săn sóc , chăm bón , cắt tỉa … và xứng danh “Hoa nhất chi Mai, Mai cốt cách tứ đại danh Hoa trong Tứ Bình hay Tứ Quí …” ! Mai luôn nở hoa như nhất, đài hoa tám cánh tựa đoá sen nho nhỏ vàng tươi rực rở , nhuỵ hoa lấm tấm phấn chuyển hương thơm nhẹ thoảng làm thêm thanh thoát không gian vào những ngày đầu năm , khi tiết Xuân giao thừa thổi len hơi man mát làm gợn nhẹ những sợi tóc mơn man xuân thì và lay nhẹ tà áo dài thiếu nữ trên đường đi lễ chùa … Ô hay , trời Xuân nửa đêm về sáng và mùi hương trầm nhà ai đốt muộn còn phảng phất trong không gian khiến cho ngày Tết như tự có gì nhiệm mầu thiêng liêng huyền diệu … ! Ngữ Uyên chợt nhớ tới bài thơ “Hái Lộc Đầu Xuân “ của người yêu đã cùng đi lễ chùa với Uyên mấy năm qua rồi và ôi … thật diễm tuyệt làm sao !
    Minh Uy đưa con tầu vào bãi đậu, đám bạn bay về trước nên đậu tàu gần phi đoàn nhất , Uy về sau nên phải đậu tàu nơi xa và đành cuốc bộ một khoảng dài vậy ! Uy thay bộ đồ phi hành còn ngay ngáy mồ hôi và lắm lem bụi đất đỏ sau chuyến bay với thân tàu full load đạn dược, hoả tiễn nặng nề và đôi bàn tay Exclever điều khiển Collective Throtte – Cyclic và chân đạp Yaw Pedals , mắt linh hoạt với những điểm “Hot Target” với ngón tay “bấm nút” phóng “hai bó” Rocket để yểm trợ hoả lực cho những slick bạn chở quân vào vùng giao tranh và bảo vệ cho người dân được bình yên hưởng Xuân vui Tết … !
    Trên đường đến nhà Uyên , phố xá ngày mồng một Tết thật là vui tươi và nhộn nhịp dù chỉ mới vừa hừng sáng đã có nhiều thiếu nữ xinh đẹp diện áo dài nhiều mầu sắc khoe dáng Xuân sang , nói cười rộn rã , có cô sánh vai cùng người tình với niềm hạnh phúc hiện lên khuôn mặt rạng rở hân hoan … !
    . Buổi sáng đầu Xuân hôm nay quả thật là hạnh phúc vô cùng với Uyên , có Uy bên cạnh nàng cảm thấy mọi cảnh vật chung quanh như thay dáng mới , tình tứ ý vị hơn hay bởi chính tâm hồn nàng cũng đang hé nở rộ cánh hoa yêu diễm tuyệt lung linh trước chúa Xuân vốn là nòi tình lãng mạn … ! Có tiếng nhạc Xuân từ nhà hàng xóm :
    Xuân đã về, Xuân đã về, kìa bao ánh Xuân về tràn lan mênh mông…
    Trên cánh đồng, chim hót mừng, đang thướt tha từng đàn tung bay vui say…!

    Uyên bưng khay trà trên tay rồi đặt để xuống bàn , chiếc ấm đất song ẩm mầu gan gà, một chén tống , hai chén quân nhỏ như hạt mít , vài sợi khói mỏng bay nhẹ toả hương trà thanh khiết dìu dịu … ! Uy đoán biết hẳn là loại trà Bích Lôi Xuân (碧螺)lá nhỏ như móng tay , được các thiếu nữ hái vào mùa Xuân , màu xanh búp lá non biêng biếc diệp lục tựa như màu vỏ của một loại ốc nhỏ chỉ xuất hiện vào mùa Xuân ở Bích La Thôn – Trung Hoa khi thời tiết vừa thay mùa ấm áp trên vùng đồi núi cao nguyên đầy hơi lạnh vừa qua mùa Đông lan xuống những luống trà xanh tươi mơn mởn trồng ở ven đồi …
    Ngữ Uyên dịu dàng xoay trở nhẹ ấm trà , rót ra chén tống , rồi chia đầy hai chén quân , xong đẩy nhẹ chung trà cho Uy . Tuy không được như Trà Thất có đầy đủ cảnh trí để hưởng thú tiêu dao , thanh tao của người nhàn hạ ! Nhưng nhìn đôi bàn tay Uyên đẹp thanh thoát uyển chuyển với khai trà và mầu xanh bích thuỷ cùng hương vị của trà Bích Lôi Xuân còn gọi là “Nữ Xuân Trà” đang lan toả những sợi khói lam nhẹ như chút hơi ấm áp lan nhẹ trong không gian tình Xuân , khiến cho Uy có cảm giác niềm hạnh phúc lâng lâng an lạc … ! Uyên đến ngồi cạnh bên Uy với chung trà trên tay. Nàng nói như tâm tình :
    - Em vẫn thích hương vị của thanh trà Trà Bích Lôi Xuân , rót ra với chung tráng men màu trắng , trà phải được hái vào buổi sáng sớm trong những ngày đang mùa Xuân mới hội đủ khí tiết , hương sắc và thanh vị … lại nữa chỉ để trà hong gió thiên nhiên thổi khô , chứ không xao sấy bằng củi lửa , hay nhiệt điện hoặc chế biến , pha trộn , ướp tẩm với những loại hoa thơm như hoa Sen , Lài , Nguyệt Quế , Dạ Hợp , … hoặc hoá chất để làm tăng thêm hương vị sắc mầu chiêu khách không sành điệu … ! Như vậy mới giữ được nguyên tính chất của thanh trà Bích Lôi Xuân . Nhưng những loại trà như : Thiên Lư, Thiên Diên Trà , Vũ Di , Long Tĩnh , Bạch Mao , Ô Long , Thiết Quan Âm , Trà Mạn Thái Nguyên ở miền Bắc Việt Nam … thì lại tuỳ theo sở thích của người thưởng thức mà chế biến xao sấy … Với riêng em thì thưởng thức hương vị của trà mộc Thái Nguyên tương tợ Bích Lôi Xuân , nhưng vị hơi chát và đậm đà hơn như ta đang thưởng thức tiết trời chính Xuân sẽ vào Hạ là đỉnh điểm của Trà Thái Nguyên và là của riêng tao nhân , mặc khách Việt sành điệu ẩm trà … ! Em đọc trong sách Phương Thảo Ký Tập của sư Tuệ Minh có chép rằng: “Trên đỉnh Trường Bạch Sơn hay còn gọi là Núi Bạch Đầu (백두산, 白頭) ở ranh biên giới Trung Hoa và Bắc Hàn , được thẩm thấu dịch thuỷ và phù sa từ dòng Hắc Long Giang với hàn băng thiên niên bản địa , có rất ít những ngày nắng ấm … Nhưng tại nơi đây lại là môi trường sinh thái lý tưởng cho giống Sâm Cao Ly và Sơn Trà, riêng loại Trà còn được gọi là Bạch Đầu Trà vì ở ngọn đọt non màu phơn phớt như lụa khi còn tươi , đem hong gió hoặc sấy khô sẽ trở mầu trắng như bạc đầu , cũng còn có tên gọi khác nữa như truyện truyền kỳ tiên cảnh vậy… là … gọi là Thiên Hạc Sơn Trà …
    - Thật lý thú ! Nhưng … do đâu có tên Thiên Hạc Sơn Trà … ?
    - Trên đỉnh Trường Bạch Sơn vào mùa Xuân tiết trời tương đối có chút ấm áp nên những đọt chồi non của trà trổ búp lá , giống chim Bạch Hạc sống và di cư theo mùa , chúng bay về tề tựu nơi đây để điểm những bông tuyết còn đọng trên những cội thiên niên Tùng và thích thú săn tìm ăn những đọt Bạch Đầu Trà đang trổ dăm chiếc lá non còn lấp lánh những hạt sương mai … Người dân sinh sống gần vùng Trường Bạch Sơn lần theo dấu Hạc mà hái trà và đặc tên cho giống cao sơn Trà là Thiên Hạc Sơn Trà ( ) .
    Ngữ Uyên với tay chăm thêm nước nóng vào ấm trà, lắt trở nhẹ để cho trà ngấm xong chàng rót ra chung nhỏ cho Uy và nàng rồi nói tiếp:
    - Học Thuật trong Văn Hoá Đông Phương rất thậm thâm vi diệu và có tầng bậc cho sở học, sở đắc của học chúng mà định phận , định thế , định danh , định hiền tài … Xưa nhà thơ Thôi Hộ tự Ân công , người quận Bác Lăng - Trung Hoa vào thời đại Nhà Ðường , ông vốn là người có sở học uyên thâm , nho nhã , phong lưu … Năm 796, niên hiệu Trinh Nguyên , Thôi Hộ thi đậu Tiến Sĩ , được triều đình bổ nhậm làm Tiết Độ Sứ Lĩnh Nam … Một trong số những bài thơ nổi tiếng của ông kinh qua thiên niên kỷ đến ngày nay như bài Hoàng Hạc Lâu :
    Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
    Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
    Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
    Bạch vân thiên tải không du du.
    Tình xuyên lịch lịch Hán Dương Thụ,
    Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
    Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
    Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
    (Hoàng Lạc Lâu-Thôi Hộ - Đường Thi)

    - Dường như người ta chỉ nhớ câu “Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản” nhiều hơn những câu thơ khác trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu ?

    - Theo riêng em thì câu thơ ”Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản” trong Hoàng Hạc Lâu là tiêu biểu uyên thâm của Thôi Hộ mà thi tài chỉ là “cái” vỏ làm phuơng tiện chuyên chở sở học và là sở đắc của một cao nhân thời bấy giờ . Người đời có học, hiểu biết nên vốn quí trọng Thi Sĩ , vì Thơ là kết tinh của Văn Chương và hơn thế nữa Thơ đúng nghĩa thanh tao không chỉ Vị Nghệ Thuật không thôi … Trên hết là Vị Nhân Sinh. Nên Thơ Tình của TTKH cũng chỉ là thơ tình thôi . Nhưng hãy thưởng thức thiên tài hoa của Bà Đoàn Thị Điểm diễn Nôm bài Chinh Phụ Ngâm với nội dung Nghệ Thuật Vị Nhân Sinh vì Chinh Phu, Chinh Phụ đều cùng ở trong cuộc chiến đấu vì lý tưởng bảo vệ nước nòi :

    Thiên Địa phong trần
    Hồng nhan đa truân

    diễn Nôm:

    Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
    Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
    (Chinh Phụ Ngâm - Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm diễn Nôm)

    Ngữ Uyên rót thêm cho Uy chung trà rồi nói tiếp:
    - Nhưng trong Văn Hoá Phương Đông khi nói đến Hoàng Hạc tất yếu minh thị là Thiên Niên Tài Hoa , một ngàn năm thế gian mới có được một Người (viết Hoa) mà nếu sinh ra bất phùng thời , thì ví như con Hạc Vàng đã bay đi , ngàn năm sau nữa mới có cơ duyên gặp lại , đời người tính trăm năm đã “hết số” … Nên Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản là tri thời , là tiếc nuối … ! Thôi Hộ tri kỳ phận biết thời vận của mình đã lỡ và có phải Cụ Tố Như Nguyễn Du cũng tương tự như thế nhưng khiêm nhường hơn Thôi Hộ chăng ? Cụ Tố Như và Thôi Hộ xuất thân làm quan nhân , có tài kinh bang tế thế gì để “ba trăm năm nữa nào biết được thiên hạ ai người khóc Tố Như”“hoàng hạc nhất khứ bất phục phản” ? Hay những thế hệ hậu nhân chỉ hoài niệm văn tài và thương cảm “tài hoa mệnh bạc” … ?

    Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,
    Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên.
    (Nguyễn Du)
    rồi tam thống khốc:
    Bất tri tam bách dư niên hậu,
    Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như ?
    (Nguyễn Du)
    Nàng nói tiếp:
    - Nhưng một khi “cao nhân” ta … à không , khi bậc Thiện Tri Thức nói đến Hạc HuyềnHuyền Quyển tấc chỉ Vĩ Nhân tứ thiên niên kỷ vốn là bậc kỳ tài bốn ngàn năm mới có một trong thâm diệu uyên nguyên thông tuệ mà đời thường khó gặp và Huyền QuyểnĐồ Thư an bang tế thế … tương tự như Hoa Mạn Đà (Mandharavas , Sen Thiên Giới , Hoa Vô Ưu) ba ngàn năm mới nở một lần báo tin bậc Siêu Nhân ra đời tại thế gian , hoa chỉ được biết trong tạng Kinh văn , chứ chưa có ai trong đời thường qua gần ba thiên niên kỷ được thấy qua … ! Cụ Lý Đông A nhà lập thuyết Nhân Chủ với 28 tác phẩm Duy Dân Toàn Pho cũng đã có như tự trào trong bài Nhàn Ngâm:

    Một chiếc hồ lô mươi Hoàng Quyển.
    Tiêu dao mây nội Hạc chân Huyền.

    (Đạo Trường Ngâm - Thái Dịch Lý Đông A)

    - Em trở lại chuyện Thiên Hạc Sơn Trà trên Bạch Trường Sơn, để Anh thưởng thức “hàm thụ” hương vị loại cao sơn trà danh tiếng như mơ nầy…?
    - Theo Sư Tuệ Minh giống trà thiên nhiên nầy mọc ở những khe đá , hóc núi , ven suối quanh năm sương phủ , không có nhiều ánh sáng mặt trời nên lá trà như lụa non không có nhiều diệp lục tố , khi pha trà , nước trà ngã màu ngọc bích nhạt , trà hấp thụ khí tiết non cao thanh tao, nên hương thơm thoảng dịu trầm trì vướng vít chứ không bốc “hỗn” để rồi tan mau , vị có đầy đủ Lễ của Vương Trà : một chút chát , chút đắng , chút the đầu lưỡi , chút ngọt hậu ở cổ họng và đặc tính nguyên mộc của trà không thể lẫn lộn với bất cứ hương vị nào khác … Nếu được pha với nước từ suối nguồn Bạch Trường Sơn thì mới là tuyệt hảo … ! Trà vị cam tính ôn , khí trà dẫn xuống Đan Điền kích đến Thận thuỷ xông lên Bách Hội khiến người thưởng ẩm trà sảng khoái thân tâm như vơi đi niềm tục luỵ thường hằng trong miên mang thế sự đầy vơi … !
    - Ngữ Uyên em , Anh thường ở nơi không bình yên , có đôi lần con tầu bị bắn rớt , Anh may mắn sống sót được quân bạn gan dạ liều lĩnh xã thân cứu thoát rồi cùng trú dưới giao thông hào chờ bạn bè bay đến bốc đi , Anh cũng tay súng chong đỏ mắt nhìn theo ánh hoả châu chiếu soi trong đêm , bên kia vùng địch chiếm , ở đó có biết bao dân lành vô tội , nghèo khổ lam lũ , đang bị áp bức , kềm kẹp , mạng sống rẻ tựa bọt bèo trước họng súng tàn bạo vô cảm của quân thù , họ trông chờ các Anh hành quân đến giải phóng , cứu giúp đem về phía tự do , để có được cuộc sống yên bình hạnh phúc ! Danh Dự của Quân Đội, Trách Nhiệm với Đồng Bào các Anh khó mà xao lãng , trốn tránh để mưu cầu cuộc sống an thân cho riêng mình được … ? Tuy vậy từ một nơi trong trái tim , những hạt máu đỏ tươi đã bùng vỡ thành tâm tình diễm tuyệt thương yêu Em, biết nói sao cho vừa tình yêu của đôi ta ! Lũ chim muông còn biết bay về tổ ấm khi ánh hoàng hôn chạng vạng tối dần … còn tình Anh yêu Em … Anh biết đưa em về đâu khi con tầu đang bay vào vùng lửa đạn , súng phòng không của địch bắn như đan lưới đạn sáng rực cả một vùng trời … !
    Ngữ Uyên để im bàn tay trong tay Uy, nàng cảm nghe hơi ấm lan nhẹ qua thân như thể như khí phách hạo nhiên ngang tàng đã hun đúc từ trăm năm, ngàn năm nên vóc dáng hình hài và tâm hồn người thanh niên Việt này ! Ngữ Uyên cảm thấy hạnh phúc pha lẫn nhịp đập của đôi tim chuyển chở biết bao niềm thương yêu dạt dào … ! Nắng Xuân lên cao ngoài hiên , gió ban mai thổi nhè nhẹ làm lay động những cánh hoa đào khoe sắc thắm phơn phớt vẻ đẹp mơn mỡn như má cô gái Xuân thì thoáng chớm ửng hồng e thẹn ! Uy âu yếm gỡ những sợi tóc gợn bay rối phất phơ trên khuôn mặt dịu hiền của Uyên . Chàng tâm tình với người yêu và như tự nói với mình :
    - Trong cuộc chiến tự vệ của Quân - Dân miền Nam mà Anh có dự phần chiến đấu để Bảo Quốc - An Dân , phải đánh đổi bằng máu xương của biết bao chiến sĩ ngã xuống mới có được tương đối hậu phương yên ổn cho dù chưa được vẹn toàn … và mãi cho đến bao giờ chứ ? Cuộc chiến như định mệnh oan nghiệt kéo dài , giết chết đi bao mộng ước tuổi thanh xuân ! Em biết không có những buổi chiều an bình , được bay thấp qua thôn làng hẻo lánh , nhìn những làn khói lam mờ toả lên mái tranh nhà ai vừa đun bếp lửa ? Cảm cảnh bản thân … Anh cũng mơ ước một bếp lửa thâm tình với Ngữ Uyên của Anh , để hai chúng ta ngồi kề bên nhau hàn huyên ôn chuyện tâm tình … !
    Ngữ Uyên lắng nghe Minh Uy nói , nàng cảm thông và thương yêu chàng hơn bao giờ ! Từ khi hai đứa yêu nhau đến nay tuy phải xa nhau ! Nhưng trong thăm thẳm của lòng đại dương bao la tâm tư , tình cảm của nàng như trăng soi bàng bạc lối ngõ Uy đang sống đời chinh phu trong thời chiến chinh khói lửa và nàng có khác gì chinh phụ với bao nỗi khoắc khoải chờ mong ! Nàng thấu hiểu nỗi cam go khốc liệt trên chiến trường , nên thường thầm cầu nguyện với đấng thiêng liêng cho chàng luôn được bình yên trở về với con tầu quen thuộc ! Ngoài ngõ trúc đôi chim Oanh chuyền hót líu lo như mời gọi đất trời thêm hương nhuận sắc ! Uy cảm được tình Xuân từ những chồi lá non , nụ hoa mai vàng rực rỡ , cúc , đào , thược dược và nhiều nữa … mới nở buổi sáng nay và Ngữ Uyên đẹp mượt mà , thướt tha tà áo dài thêu hoa với bàn tay dịu dàng rót thêm mấy chung trà đầu Xuân.
    XUÂN THỂ NHẬP VÀO CỬA ĐẠO
    Đạo Gia (道家):
    Đạo danh từ Triết Học khởi nguồn từ Văn Hoá Phương Đông đã được biết trước khi bộ Đạo Đức Kinh - Lão T xuất hiện, Đạo ban đầu có nghĩa là “Con Đường Chân Chính". Với Lão Tử, Đạo như là Nguyên Vận Hành trật tự, tuần hoàn xuyên suốt vạn vật… Theo kinh văn, Đạo là hiện thật uyên nguyên chi phối toàn thể cõi sắc giới và vô sắc giới … Do vậy không có chi là không ở trong Đạo ?
    道沖,而用之或不盈 。淵兮,似萬物之宗
    Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất doanh. Uyên hề, tự vạn vật chi tông.
    Đạo trống không, nhưng đổ vào mãi mà không đầy. Đạo sâu thẳm như là tổ tông của vạn vật. Đạo không thể định nghĩa được:
    可道,非常道 。名可名,非常名
    無名天地之始,有名萬物之母
    Đạo khả đạo, phi thường Đạo,
    Danh khả danh, phi thường Danh.
    Vô danh thiên địa chi thuỷ, hữu danh vạn vật chi mẫu.

    Đạomà ta có thể nói đến được, không phải là Đạo thường còn.
    Danh mà ta có thể gọi được, không phải là Danh thật.

    Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật.
    Do vậy những bậc cổ đức, thánh nhân xưa đã vốn biết “cái biết” trí tri rất giới hạn mà Đạo thì vô cùng … Nên chỉ mượn nửa lời ngôn từ chỉ bày cho kẻ hậu học như ẩn dụ chứ không ngu cuồng mà định nghĩa “cái” uyên nguyên nhốt vào hạn hẹp bày chuyện dối gạt người …! Nhưng nửa lời tạm chỉ “cái” sở Dụng () của Đạo, lấy biểu tượng Âm - Dương , nhị nguyên cũng là nguyên lý đối đãi và từ sự biến hoá, chuyển động của Âm Dương mà phát sinh biến thiên vạn pháp, ứng vạn thù thế giới thiên hình vạn trạng… Đạo là thể vô hình, vô tướng, không sinh không diệt, nhưng hằng hữu và vạn vật tuần tự được hóa sinh ra, tác động với nhau, sinh trưởng, rồi tiêu tan để trở về trạng thái uyên nguyên bản thể vốn là gốc của Đạo.
    Đạo học chủ trương tu tánh thiên về Giác Ngộ, quay về với nội Tâm tìm sự thanh tĩnh để đạt Đạo và trên con đường tiệm tu, đi từ thấp đến cao, từ thô tới tinh vi tế, từ hữu vi đến vô vi; có mục tiêu tu hành cải lão hoàn đồng, khang kiện, trường sinh tuổi thọ tức là chủ trương tu tạo nên một thân thể tráng kiện, dần dần tiến đến Thân - Tâm an lạc và cuối cùng khai mở Tuệ Giác và chung cuộc vẫn đi đến chỗ Thiên - Nhân hiệp nhất, huyền đồng cùng Trời Đất. Sau này khi tổ sư Bodhi Dharmma (Bồ Đề Đạt Ma ) du phương vào Trung Hoa vào khoảng năm 520 triều đại nhà Lương, ngài được vua Lương Võ Đế thỉnh mời tới triều đình để thuyết giảng Phật pháp. Khi thấy nhà vua và triều đình không tán đồng với những tư tưởng Thiền vốn chỉ bày Chân Đế trực chỉ chân Tâm, ngoài những qui ước Tục Đế người đời thường chấp ngã …! Ngài biết nhân duyên Phật pháp chưa đến, nên không kham nữa và tìm tới núi Thiếu Thất ẩn cư, diện bích hành Thiền một hang động tại Thiếu Lâm Tự cho tới 9 năm sau.
    . HOA MAI:
    Mai cốt cách, nét tinh thần: Mặc cho bốn mùa vần xoay tuần hoàn : Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàn rồi lại Xuân … Mai là loài thảo mộc có rễ ăn sâu vào lòng đất, thân cây mọc lên thẳng vững chãi, trơ cùng tuế nguyệt như thách thức trước biến thiên khắc nghiệt vô tình, vươn sức sống đâm chồi, nẩy lộc sau cuối Đông khi mà vạn vật chìm đắm và gần như tàn tạ dưới thời tiết giá rét lạnh thê thê … Nhưng khi tiết trời giao thừa, làn gió sớm nửa khuya mơn man thổi qua hây hây đôi má của cô gái Xuân thì súng sính trong tà áo còn thơm mùi lụa mới như thiên hương của đất trời chớm Xuân … Thì cội Mai già ngoài hiên nhà đang nở rộ những nụ hoa Mai vàng rực rỡ như nhất vào đầu Xuân…!







    Xuân khứ bách hoa lạc
    Xuân đáo bách hoa khai
    Sự trục nhãn tiền quá
    Lão tòng đầu thượng lai
    Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
    Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

    (Thiền Sư Mãn Giác)

    Trong Văn Hoá Phương Đông: Mai được người xưa xem trọng là một trong Tứ Quân Tử: Mai - Lan - Cúc - Trúc là nét tinh thần tượng trưng cho phẩm chất anh hùng, nhẫn nại, kiên trì và can đảm, cao thượng, đài các và quyền quý…
    . ĐẠP TUYẾT TẦM MAI:
    Ở Trung Hoa thời Tam Quốc (năm 220 – 263) có ông Hoàng Thượng Hiệu là một ẩn sĩ có tài thao lược bình thiên hạ, biết thế thời sẽ biến chuyển đến như “thuỳ tri tại chưởng trung” và tuy anh hùng, hào kiệt có đầy trong thiên hạ … Nhưng người hiền có tài có sở học địch quốc, tầm cở thiết kế được nền Chính Trị để an bang tế thế thiên hạ thì quả thật là như lá mùa thu, mà tuổi của ông thì tiếc đã quá thời…! Ngẫm trời đất thật mang mang, thân già thấm lạnh nỗi cơ hàn trong mái hiên nhà quạnh quẽ, nhìn ngoài quang cảnh tuyết đã phủ trắng thôn làng và bất chợt ông thấy đong đưa trong cơn gió nhẹ, một vài bông mai nở phơn phớt như khí phách anh hùng son trẻ cợt cười ngạo nghễ thách đố với tiết trời đông hàn giá rét…! Tâm cảm u mặc, Ông đưa tay bấm quẻ Dịch, đoán biết sẽ gặp được hâụ sinh kỳ tài có thể kế thừa sở học của ông mà xuất thế hành sự an bình loạn thế. Mặc cho thời tiết Đông hàn lạnh thê thê và không quản thân già lưng còng, gối mõi, Ông khoác áo bông, cưỡi lừa đạp tuyết đi tầm đệ tử mà truyền trao sở học tâm đắc và người học trò mà ông “Đạp Tuyết Tầm Mai” chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng một kỳ tuyệt thời Tam Quốc trong Lịch Sử Trung Hoa.
    Triều đại Nhà Ti ền Lê (năm 975 AD) nếu không có Thiền Sư Vạn Hạnh đã giáo dưỡng, hun đúc chú tiểu Lý Công Uẩn thì đã không có vị vua Lý Thái Tổ minh quân thao lược đã lãnh đạo Dân Tộc - Đất Nước hùng mạnh, thịnh trị hiển hách với những chiến công oanh liệt Phạt Tống Bình Chiêm lưu danh trong Lịch Sử nước nhà.
    Việt Nam (năm 1427 – 1789) Nhà Hậu Lê ta có Kỳ Tài Thao Lược là dòng nhà được truyền thừa để tiếp nối, tiến hoá không ngừng… và xuyên suốt qua sự việc trong Lịch S ta biết được (hệ thống) tôn ty trật tự, lễ nghĩa, cương thường đã được thể hiện và tôn trọng rõ ràng làm giềng mối gìn giữ, cột buột tình nghĩa con Người với nhau trong gia đình, xã hội, quốc gia…Chắc chắn Tình Nghĩa Thầy Trò là một ơn ích quí trọng… ! Thế nhưng cao sang như bậc công thần khanh tướng Trần Nguyên Hãn cùng với Nguyễn Trãi cũng phải rời bỏ phú quí, cao sang, bỗng lộc triều đình… mà dấn thân vượt núi rừng thâm lâm hiểm trở để tìm gặp tráng sĩ Lê Lợi đang là thủ lãnh của đám nghĩa binh địa phương Lũng Nhai, mưu sự chống giặc Minh để phò trợ và cống hiến tài trí, mưu lược… Ngõ hầu cứu nước nòi đang cơn nguy biến và tạo nên chiến công hiển hách đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ c õi và bình định nước nòi ! Như vậy đó, há không phải là “Đạp Tuyết Tầm Mai” chăng…?
    . NHÂN PHẨM và LĩNH VỰC XÃ HỘI:
    Quân T ( 君子) là khuôn mẫu dành cho con người lý tưởng theo nhân sinh quan Nho Giáo Phương Đông là tố chất, định chân nhân phẩm có tính cách Đạo Đức và người quân tử thường được trọng thị là người hành động ngay thẳng, công khai theo lẽ Phải không hám vụ lợi cá nhân mà hành sự bất minh. Người quân tử là người có đầy đủ các đức tính trong NThường: Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín, trong đó “điều” Nhân là quan trọng nhất. Trong Đạo Gia Cốt Công Tâm Pháp lấy 5 cánh hoa Mai làm biểu tượng tố chất, nhân phẩm Ngũ Thường của Người Quân Tử hàm dưỡng học thuật Võ Đạo - Văn Hoá để rồi sẽ phụ hệ đóng góp công sức, tài năng cho xã hội nhân quần trong 5 lĩnh vực Xã Hội - Quốc Gia như 5 Cánh Kỷ Hà: Sĩ - Nông - Công - Thương - Binh .
    . QUI NGUYÊN:
    Nhất bản tán vạn thù, vạn thù qui nhất bản , 一本. Học thuật ở thể dụng cốt sao cho tới đích điểm tối hậu, tức là con đường đưa ta tới Đạo, tới Chân Lý. Cái Chân Lý phổ quát đúng cho mọi người, mọi thời. Chân Lý phổ quát còn có thể gọi là Thiên Tâm lòng Trời, mà Trời và Người thì có liên lạc chặc chẽ “Thiên-Nhân Tương Dữ”. Hiểu được Thiên Tâm tất cũng hiểu đưọc Nhân Tâm và hiểu được Nhân Tâm tất cũng suy ra để hiểu được Ngã Tâm… là cái Tâm của Chính Ta, khi hiểu đựợc Người, khi biết được Ta, thì cái yếu tố “Tri Kỷ - Tri Bỉ” mà các bậc Đạo Gia thường đề cập để biết chính mình tri kỳ phận hài hoà trong trật tự Thiên Nhiên khi nhập thế thì nhất bản chu tri mà ứng biến vạn thù vốn là sở dụng tranh phân, nhị nguyên đối đãi , thói tánh của phàm phu trong cuộc sống sinh tử. Nhưng sau rốt ráo thức thời, ngộ Đạo thì chỉ thu thúc lục căn, điều phục nhất Tâm vi tế Sattna: Ở đây, hiện tại và như “nó” đang là… Huyền chi hựu Huyền.


    Last edited by Phòng Trực; 02-18-2021, 01:23 AM.

    Comment



    Hội Quán Phi Dũng ©
    Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




    website hit counter

    Working...
    X