Đảng Phái Chính Trị Việt Nam

Collapse
X

Đảng Phái Chính Trị Việt Nam

Collapse
 
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts
  • Phạm Văn Bản
    Người Thân

    • May 2010
    • 581

    #1

    Đảng Phái Chính Trị Việt Nam

    Đảng Phái Chính Trị Việt Nam

    dataurl438366.jpg

    Phạm Văn Bản


    Chạy dài và chạy dọc theo Quốc lộ 62, cứ mỗi khoảng cách chục cây số
    thì tôi lại thấy một khu cao ốc đồ sộ với màu sắc lòe loẹt mọc vươn lên giữa xóm làng dân nghèo bao quanh với nhà tranh vách lá xiêu vẹo. Tôi liếc nhìn vào khu lộng lẫy ngoài kia có lính canh gác, có cổng chào mừng , có tường rào kẽm gai kiên cố che phủ… và bảng hiệu sơn son thếp vàng với hàng chữ lớn “Đảng Cộng Sản Việt Nam” từ những nơi Bắc Trung Nam mà tôi có dịp đi qua, thì tôi cũng thường thấy những khu biệt thự “thiên đường cộng sản” tương tự như thế!


    I. Đảng Cộng Sản Việt Nam

    Đang lúc đăm chiêu suy ngắm “thiên đường trần gian” thì người cháu trai chở tôi trên xe, sau phút liên lạc với ai đó, rồi quay qua khẩn khoản mời chào tôi: “Bác Hai vào thăm khu bộ xã nhà?” Thoạt đầu tôi cũng lưỡng lự… nhưng sau đó tôi cũng gật đầu đồng ý vào thăm để có dịp quan sát mà viết bài này!

    Xe tiến tới cổng, viên cán bộ đồng phục đứng chào rồi nghiêm trang ngả mũ thốt lên: “Chào Bác Hai, bác có biết con không?”… Rất nhiều ngạc nhiên khiến tôi đứng chết lặng như trời trồng, và có thể nói là tôi, vì nhận mình trưởng tộc mà không nhận ra con cháu của mình! Mới có hơn bốn chục năm xa cách quê hương, thế mà con cháu ngày nay đã khôn lớn và trưởng thành!... Nhìn gương mặt thờ thẫn của tôi, các cháu phì cười và vồn vã dẫn tôi vào phòng khách, một căn nhà khang trang, trưng bày toàn hàng hiệu đắt gía.

    Từ phút giây bước vào văn phòng Đảng Cộng Sản Việt Nam tôi phát hiện ra rằng, “người Cộng Sản coi nhẹ trường học, mà nặng trường đảng.” Trường học để nâng cao dân trí thì họ phó mặc có chăng hay chớ, nhưng trường đảng thì họ dùng tiền thuế của dân mà xây dựng hết sức xa hoa lộng lẫy, tỏ lộ quyền lực.

    Tôi vừa được mời vào ghế đối diện tượng Hồ Chủ Tịch, thì các cháu đã vồn vã lên tiếng: “Quan niệm của Bác Hai về Đảng Cộng Sản Việt Nam?” Khúc mắc của các cháu khiến tôi liên tưởng tới cụ Phan Bội Châu, người lập Tâm Tâm Xã – mưu cầu nền độc lập cho quốc dân Việt.

    Tâm Tâm Xã phải kể là tổ chức khởi thủy của Đảng Cộng Sản Việt Nam bắt đầu thành lập vào năm 1924 tại Quảng Đông Trung Quốc. Hai năm sau 1926, cũng tại nơi đây, người thành viên Tâm Tâm Xã Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) lại lập thêm chi bộ Á Tế Á bị áp bức nhược tiểu dân tộc.

    Từ đó hai tổ chức này làm thành phần nòng cốt mà lập ra ViệtNam Thanh Niên Đồng Chí Hội tiền thân của Đảng Cộng Sản Việt Nam như sách sử công nhận. Ngày ấy Lý Thụy (Hồ Chí Minh) âm mưu với Lâm Đức Thụ bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Pháp để chiếm trọn đảng bộ này mà biến thành vô sản quốc tế.

    Bởi thế trước anh linh của nhà ái quốc Phan Bội Châu và chiến sĩ quốc dân Việt, tôi vào cơ sở Đảng Cộng Sản Việt Nam – và trước tượng đài của Hồ chủ tịch mà viết bài này là nhằm đòi lại công lý cho dân nước tôi!

    Vào thời quân chủ, nhà vua với ít thuộc cấp, triều đình cai trị – có lẽ cũng không lấy gì làm to phe hay rùm beng cho lắm. Sự bóc lột của vua quan nếu có, chắc chắn chưa tinh vi, chưa thể hiện nhiều hình thức hành hạ Dân Tộc Việt Nam như Đảng Cộng Sản đang làm ngày nay.

    Sống dưới chế độ quân chủ, có lẽ Tổ Tiên còn cảm thấy sung sướng và thoải mái hơn thời cộng sản, vì các ngài được sống tự do độc lập trong Định Chế Làng Nước của Học Thuyết Tiên Rồng. Chắc chắn các ngài cũng ít biết, cũng chẳng cần nghĩ tới chính quyền, tới vua quan xa lạ làm gì, triều đình vua quan mãi tận đâu đâu, mấy ai đã biết, vì họ không dính dáng tới chuyện người dân như trong câu “Phép vua thua lệ làng!”

    Ngược lại, đau khổ thay, cả một dân tộc lại bị trực tiếp thống trị áp bức bóc lột bởi một tập đoàn tư bản đỏ, tức chính quyền của Đảng Cộng Sản như hiện nay.

    Và hôm nay tôi trình bày nguyên nhân thành lập đảng đại chúng của Hồ Chủ Tịch và Đảng Cộng Sản Việt Nam, khác biệt với đảng cán bộnhư ở các nước dân chủ tân tiến trên thế giới, trong Thời Đại Công Nghiệp vừa qua. Các nước dân chủ Tây phương họ thành lập đảng cán bộ, bao gồm những chính trị gia, những người thanh niên ưu tú của quốc gia để làm chính trị chuyên nghiệp. Vì nhu cầu của đảng chính trị, tuy cũng phát sinh ra cơ cấu đại chúng nhưng kỷ luật lỏng lẻo, và chỉ đóng vai trò yểm trợ hoặc không tham chính, không nhũng nhiễu, không tranh chấp độc ác như ở Việt Nam.

    Ngược lại, người Cộng Sản lại biến việc làm chính trị của đảng cán bộ thành ra đảng đại chúng. Họ kích động lòng dân qua các khẩu hiệu đánh động lương tâm, xây dựng đảng kỷ luật với ý thức hệ Karl Marx – Vladimir Lenin. Công nhân, nông dân được đảng viên hóa, chính trị hóa, và thành đảng đại chúng với kỷ luật chặt chẽ nghiêm minh từ trên xuống dưới.

    Cộng Sản đề cao uy quyền và vai trò lãnh đạo, từ đó danh từ lãnh đạo cũng được định nghĩa sai lầm khác biệt với các thể chế dân chủ ngày nay. Đảng nói đảng lãnh đạo thì người Cộng Sản lãnh đạo tất cả, lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo nhân dân, lãnh đạo kinh tế, lãnh đạo giáo dục, và lãnh đạo cả chùa chiền tôn giáo, miếu tự, không chốn nào từ. Đảng nói đảng sáng suốt và toàn quyền cai trị đất nước thì người Cộng Sản vốn sẵn, dù cho khả năng có thấp kém, kiến thức có hạn hẹp… nhưng họ vẫn tự cao tự đại, tự tôn tự mãn… mà cho mình là đỉnh cao trí tuệ của loài người, rồi đàn áp tham nhũng và bóc lột nhân dân.

    Với chủ trương đảng trị thì những công an, những đảng viên cán bộ lão thành là những kẻ đã tiếp tay cho đảng, mang hệ thống quyền lực xuống xây dựng tận đáy của xã hội, như tòa thánh địa của Đảng Cộng Sản Việt Nam nhằm hình thành cái ách nô lệ và tròng lên đầu lên cổ toàn dân. Chủ trương đảng trị, cai trị nhiều đi ngược với chủ trương cai trị ít của triết gia nhà văn Pháp, Anatole France, “Tôi tha thứ chế độ Cộng Hòa cái tội cai trị dở, vì họ cai trị ít.” Cai trị ít là điều ước mơ của nhân loại, ngay cả đến Karl Marx cũng thừa nhận, “Cai trị ít là điều mà những người Cộng Sản nguyên thủy đã được hưởng.”

    Marx viết và truyền rao thuyết Cộng Sản trên nước Anh. Nhưng nghiệt ngã thay! Người Anh không bị thuyết này chiếu cố, mà người Việt lại bị thuyết Cộng Sản đầu độc hành hạ khốn cùng. Với niềm tin của người Cộng Sản, là sự bóc lột của tư nhân giàu có trong xã hội với đại đa số dân chúng nghèo khổ mà Marx gọi là tư bản, và để tránh sự bóc lột, thì phải làm cuộc cách mạng quốc hữu hóa mọi quyền lợi trao lại cho nhân dân. Khốn nạn thay, với cái lý luận đơn sơ này đã trở thành liều á phiện làm cho các nước thuộc địa say sưa vùng lên làm cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới gây ra biết bao tai họa, trong đó có Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam làm tay sai quốc tế.

    II. Việt Nam Quốc Dân Đảng

    Cũng trong thời điểm lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp giành lại độc lập cho Việt Nam, vào cuối năm 1925 ba thanh niên Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài, Hoàng Phạm Trân tự là Nhượng Tống đứng ra tổ chức Nam Đồng Thư Xã, sáng tác dịch thuật các sách chính trị cách mạng của Trung Hoa, của thế giới và gây được tiếng vang, nhất là trong giới sinh viên. Thư Xã này trở thành một nơi gặp mặt của các sinh viên Việt, trong đó đặc biệt có Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Hồ Văn Mịch… nhằm thảo luận về chính trị thời cuộc Việt Nam.

    Cuối tháng 10 năm 1927 Nguyễn Thái Học triệu tập phiên họp và đưa ra phương án lập đảng cách mạng bí mật, nhằm lật đổ chế độ thực dân phong kiến và thiết lập thể chế Cộng Hòa đem lại độc lập tự do hạnh phúc tiến bộ cho quốc gia dân tộc Việt Nam. Ý kiến này cũng được mọi người nhiệt tình tán thưởng, rồi họ kết hợp lại thành một tổ chức mang tên Chi Bộ Nam Đồng Thư Xã do Nguyễn Thái Học làm Chi Bộ Trưởng.

    Tới ngày 25 tháng 12 năm 1927 đại hội thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng với Tổng Bộ Lâm Thời gồm Chủ tịch Nguyễn Thái Học, Phó Chủ tịch Nguyễn Thế Nghiệp, Trưởng Ban Tổ chức Phó Đức Chính, Phó Ban Lê Văn Phúc, Trưởng Ban Tuyên truyền Nhượng Tống, Phó Ban Trúc Khê Ngô Văn Triệu, Trưởng Ban Ngoại giao Nguyễn Ngọc Sơn, Phó Ban Hồ Văn Mịch, Trưởng Ban Tài chánh Đặng Đình Điển, Phó Ban Đoàn Mạnh Chế, Trưởng Ban Giám sát Nguyễn Hữu Đạt, Phó Ban Hoàng Trác, Trưởng Ban Trinh sát Trương Dân Bảo, Phó Ban Phạm Tiềm, và Ủy Ban Ám sát do Hoàng Văn Tùng đặc trách.

    Đầu năm 1929 Việt Nam Quốc Dân Đảng có những buổi họp nhằm xúc tiến cuộc tổng khởi nghĩa. Nhưng tới cuối năm tức ngày 25 tháng 12 năm 1929, đảng hội nghị tại làng La Võng huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ, sau nhiều lần đình hoãn thì quyết định tấn công vào đêm 9 tháng 2 năm 1930.

    Cũng vào giờ phút nghiêm trọng chuẩn bị cho cuộc Tổng Khởi Nghĩa, thì những người cán bộ của Đông Dương Cộng Sản Đảng lại đã rải truyền đơn khắp nơi báo rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng sắp tấn công Bắc Kỳ. Cô Giang cầm tờ truyền đơn trao cho Nguyễn Thái Học, nhưng ông vẫn quả quyết: “Tôi không tin! Vì không thể nào anh em cộng sản lại có thể hành động như thế được!”

    Yên Bái là một căn cứ quan trọng của Pháp và có hai đồn do quân lính Pháp trú đóng. Đồn dưới thì do Đại úy Jourdain chỉ huy và đồn cao thì do Thiếu tá Tacon đảm trách, nằm bên bờ Sông Thao. Yên Bái đã bị Việt Nam Quốc Dân Đảng tiến chiếm. Vừa chiếm đồn dưới bài hịch khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng được loan truyền và 4 câu cuối bài là:

    Đuổi giặc Pháp về nước Pháp
    Đem nước Nam trả người Nam
    Cho trăm họ khỏi lầm than
    Được thêm phần hạnh phúc.

    Sáng hôm sau quân Pháp phản công mãnh liệt và tái chiếm đồn dưới. Ngoài khu vực Yên Bái trong đêm đó Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng còn đánh chiếm những mục tiêu quan trọng như Hưng Hóa, Lâm Thao, Hà Nội, Vĩnh Bảo, Phụ Dực, Hải Dương.

    Thế nhưng đại cuộc chưa thành, ngày 17 tháng 6 năm 1930 Nguyễn Thái Học và 13 yếu nhân của Việt Nam Quốc Dân Đảng anh dũng bước lên đoạn đầu đài Yên Bái với bao nghĩa khí. Với cái chết của những chiến sĩ vị quốc vong thân, gây một niềm xót thương cho toàn thể thanh niên Việt Nam và trở thành mối tang chung chẳng bao giờ xóa nhòa trong lòng dân tộc.

    Đang lúc Việt Nam Quốc Dân Đảng chuẩn bị cho cuộc Tổng Khởi Nghĩa, thì ngày 1 tháng 5 năm 1929 Lý Thụy (Hồ Chí Minh) cấu kết với Lâm Đức Thụ mở đại hội toàn quốc của Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội tại Hương Cảng gồm có 3 đại biểu Bắc Kỳ, 4 đại biểu Trung Kỳ, 4 đại biểu Nam Kỳ, và 2 đại biểu thuộc chi bộ ở Thái Lan để quyết định:

    - Bí mật thành lập Đảng Cộng Sản trong Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội
    - Duy trì Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội làm bình phông che Đảng Cộng Sản mà tuyển lựa đảng viên tương lai
    - Liên lạc với quốc tế Cộng Sản và yêu cầu thừa nhận Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội.

    Hai thành viên Tâm Tâm Xã là Lý Thụy (Nguyễn Ái Quốc/ Hồ Chí Minh) và Lâm Đức Thụ đã đánh cắp phần tiền quỹ của tổ chức mà cưới vợ, họ lấy hai chị em ruột của một gia đình người Hoa. Rồi họ mưu hại nhà cách mạng Phan Bội Châu, cho tới năm 1947 thì Lâm Đức Thụ lại bị anh em cột chèo Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) thanh toán tại Thái Bình nhằm nâng cao thanh thế của mình trước quần chúng với tham vọng chính trị để bịt miệng người thân bằng cách thủ tiêu.

    III. Đảng Phái Chính Trị

    Sau ngày đại hội Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội tại Hương Cảng, các đại biểu Cộng Sản trở về thì Việt Nam lại lập ra tới 3 đảng Cộng Sản cùng một thời điểm.

    - Thứ nhất, nhóm Ngô Gia Tự đại diện Bắc Kỳ tham dự đại hội ở Hương Cảng về họp ở Hải Phòng ngày 25 tháng 5 năm 1929, lập đảng có tên Đông Dương Cộng Sản Đảng. Đảng này thảo cương lĩnh điều lệ theo tinh thần Cộng Sản quốc tế, và một Ban Chấp Hành Trung Ương lâm thời gồm 7 ủy viên, thực hiện các công tác nghiên cứu, xác định tính chất nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương.

    Đảng phái người đi liên lạc với quốc tế Cộng Sản xin thừa nhận, cắt cử hai thành viên đại biểu đi làm công tác Trung Kỳ và Nam Kỳ, tìm cách triệt tiêu Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội mà thành ra đảng bộ của Đông Dương Cộng Sản Đảng. Ngày ấy truyền đơn tuyên ngôn của đảng rải khắp nơi, được sự hưởng ứng nồng nhiệt của nhiều người trong Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội, và đảng Tân Việt.

    Đảng cũng tổ chức được một số cơ sở, gọi là “Công Hội Đỏ” trong vài xí nghiệp. Đảng biết lãnh đạo phong trào công nhân một cách kịp thời kịp lúc.

    Đảng Tân Việt bắt nguồn từ những nhà ái quốc bị Pháp giam giữ gồm các cụ Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Lê Huân, Hùynh Thúc Kháng… là người cầm đầu các vụ chống thuế chống xâu ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định… từ những năm 1908 và bị đày đi Côn Đảo. Ngay ở trong tù các cụ đã tổ chức ra đảng, để khi ra tù có phương tiện mà hoạt động được ngay, và hội Phục Việt khai sinh vào tháng 8 năm 1917.

    Năm 1924 cụ Lê Huân thâu phục được số thanh niên ái quốc như Tôn Quang Phiệt, Trần Mộng Bạch, Trần Phú… tán thành chương trình hoạt động của Phục Việt, và hội này lần lượt đổi tên Hưng Nam Hội, Việt Nam Cách Mạng Đảng, Việt Nam Cách Mạng Đồng Chí Hội, và cuối cùng là Tân Việt Cách Mạng Đảng mà thường gọi Tân Việt.

    Tân Việt liên lạc với Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội do Lý Thụy (Hồ Chí Minh) lãnh đạo, nhưng đã bị ông Hồ lường gạt lấy tiền của và nhân sự của đảng Tân Việt. Một số thành viên đảng này chạy theo Cộng Sản để lập ra Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn vào tháng 6 năm 1929 nhằm giữ tính cách độc lập, nhưng lại cũng bị ông Hồ và đồng bọn hãm hại bằng cách tố cáo với mật thám Pháp tóm bắt gần hết.

    - Thứ hai, nhóm tổng bộ của Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội, sau ngày đại hội Hương Cảng và cho người về nước, một mặt họ duy trì tổ chức Thanh Niên, và mặt khác lập An Nam Cộng Sản Đảng vào tháng 10 năm 1929. Đảng cũng ra tuyên ngôn chỉ trích Đông Dương Cộng Sản Đảng không tôn trọng quyết nghị đại hội Hương Cảng.

    - Thứ ba, nhóm đảng Tân Việt gặp lủng củng nội bộ. Phe thì muốn duy trì đảng, phe khác lại muốn sát nhập chung vào Đông Dương Cộng Sản Đảng. Một mặt vì không điều đình với Đông Dương Cộng Sản Đảng, mặt khác là sự ra đời của An Nam Cộng Sản Đảng, đã làm cho số người của Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội chán nản, hoang mang, không biết đi theo về đâu.

    Cuối cùng, họ lập ra các đoàn thể: Công Đoàn, Nông Đòan, Phụ Nữ Đoàn, Học Sinh Đoàn… tập trung lấy tên Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn.

    Ngày 6 tháng 1 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) lấy tư cách một ủy viên Đông Phương bộ của quốc tế Cộng Sản, chỉ huy Đông Nam Á Vụ, triệu tập các đảng Cộng Sản Việt Nam và mời thêm hai đại biểu của Miên Lào đến họp chung ở Hương Cảng. Mặc dù trong hội nghị này không có đại diện của Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn, nhưng kết qủa đã thống nhất 3 tổ chức của đảng Cộng Sản, thành một danh xưng là Đảng Cộng Sản Việt Nam.

    Đảng bầu một Ủy Ban Trung Ương lâm thời gồm có 9 người, nhưng số ấy có hai đại biểu của Đảng Cộng Sản Trung Quốc cử vào. Tới tháng 10 năm 1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam lại đổi tên là Đông Dương Cộng Sản Đảng.

    Trước khi thống nhất và chưa có quốc tế Cộng Sản lãnh đạo, thì hoạt động của Đảng Cộng Sản Việt Nam còn biết tranh thủ nhân tâm quần chúng ủng hộ, theo khuynh hướng tả khuynh, vì những người Cộng Sản Việt Nam lúc đó chưa biết thuyết Mác-Lê là gì.

    Tiếp đến, theo chủ trương quốc tế Cộng Sản thời bấy giờ, thì các nước đã có tư bản tập trung, kỹ nghệ đã phát triển, công nhân đã có phẩm chất để làm cách mạng vô sản, hay cách mạng xã hội chủ nghĩa như ở các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức…

    Các nước còn tàn tích của chế độ phong kiến, chưa mạnh về chủ nghĩa tư bản như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nhật Bản… và các nước thuộc địa hay bán thuộc địa chưa có phân hóa giai cấp rõ rệt, ảnh hưởng của phong kiến còn nhiều, nền kinh tế nằm gọn trong tay đế quốc, thì làm cách mạng giải phóng dân tộc, hay cách mạng tư sản dân quyền.

    Các nước kinh tế lạc hậu, tổ chức xã hội còn đang trong giai đoạn bộ lạc, hay phong kiến cũng như đang là căn cứ quân sự của các nước đế quốc, hoặc là những vùng khai thác tài nguyên như các nước trung bộ Phi Châu, thì làm cách mạng nhân dân.

    Sau Đệ Nhị Thế Chiến, chủ trương quốc tế Cộng Sản đã không còn phù hợp với thực tế, và chế độ Phát Xít ra đời, gây chiến tranh kinh hoàng. Thế rồi sau cuộc chiến tranh chống Phát Xít thắng lợi, Liên Xô đóng vai trò quan trọng, đã “Cộng Sản Hóa” các nước do Liên Xô chi phối. Phong trào giải phóng tại các thuộc địa lên cao, đã phát sinh một hình thức cách mạng mới, là cách mạng dân chủ nhân dân.

    Trên hành trình đấu tranh dân chủ và độc lập cho Việt Nam, thì người Cộng Sản lại xử dụng chiến thuật giai đoạn, nhằm tóm thâu quyền lực chính trị. Đang khi phía người Quốc Gia chúng ta ái quốc và đoàn kết, nên thường bị người Cộng Sản lường gạt nhiều lần:

    Từ chí sĩ Phạm Hồng Thái làm cuộc mưu sát Merlin toàn quyền Pháp ở Sa Điện Trung Hoa, ngày 21 tháng 6 năm 1924… cho tới vụ bắt cóc chí sĩ Phan Bội Châu về giam tại ngục thất hỏa lò Hà Nội vào năm 1925, tới lễ an táng chí sĩ Phan Chu Trinh vào năm 1926 tạo thành phong trào chính trị sôi động… Người Cộng Sản đã lợi dụng thời cơ này mà tuyên truyền làm lợi cho phe Cộng Sản của họ, và họ không cần xét đến đâu là bạn, đâu là thù.

    Tiếp đến, cuộc Tổng Khởi Nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Phía người Cộng Sản đã rải truyền đơn nhằm tiết lộ bí mật tấn công của phía người Quốc Gia, giúp thực dân Pháp biết đường phòng ngư. Để rồi sau đó Pháp càng phát động phong trào khủng bố đàn áp các nhà ái quốc Việt Nam: hàng trăm người bị kết án tử hình, hàng ngàn người bị án tù giam, đày đi Côn Đảo và các trại giam khắc nghiệt như Sơn La, Lai Châu, Lao Bảo, Hỏa Lò… thì lại càng thúc đẩy công cuộc đấu tranh giành độc lập thêm sôi xục.

    Và đang lúc thực dân Pháp và người Việt Quốc lâm cảnh “ngao cò tranh nhau,” thì người Cộng Sản lại đóng vai “ngư ông đắc lợi.” Và lợi dụng lòng yêu nước, khí thế tranh đấu xục sôi ngút trời, toàn dân toàn diện, thì người Cộng Sản lại đẩy cuộc đấu tranh qua hình thức đình công của công nhân đồn điền Phú Riềng, nhà máy sợi Nam Định, xưởng đóng tàu Ba Son… Ngày 30 tháng 4 năm 1930, truyền đơn và cờ đỏ búa liềm đã bắt đầu tung ra khắp nước.

    Phe Cộng Sản hô hào công nhân, nông dân, binh sĩ, học sinh, phụ nữ… hưởng ứng kỷ niệm Lễ Lao Động Quốc Tế ngày 1 tháng 5. Thời kỳ này, người dân Việt còn hăng say với chủ trương cách mạng trên lý thuyết, như nhà máy của công nhân, ruộng đất của người cày, chính quyền của lao động, quốc hữu hóa các ngành quan trọng để nhân dân không bị tư bản bóc lột.

    Những lý luận hợp lý hợp thời của phe Cộng Sản đối với dân tộc đang bị đô hộ, thì lời tuyên truyền trên, thành liều thuốc kích thích mà chích vào não trạng quần chúng nhân dân, đang bị áp bức mà vùng dậy. Nhờ vậy mà đảng Cộng Sản Việt Nam thành lập được một tổ chức mang hình thức “Đảng Đại Chúng” với số đảng viên đủ cỡ, đủ loại và tăng trưởng nhanh chóng.

    Đảng đại chúng là tổ chức kích động toàn dân bằng khẩu hiệu nhằm đánh động nhân tâm căn cứ theo ý thức hệ Mac-Lê. Mọi người bình thường, như công nhân hay nông dân chân lấm tay bùn, chẳng mấy khi am tường chính trị, nhưng họ vẫn được đảng Cộng Sản kích động và ban phát ơn huệ qua danh hiệu “chính trị hóa/ đảng viên hóa” với tổ chức tính và kỷ luật tính rất ư là sắt thép, màu mè… tất cả, đều là con cháu cụ Hồ.

    Đang khi mục đích “cơ cấu đại chúng” của các nước dân chủ Tây phương chỉ là chính trị hóa để kiếm tiền, để gây qũy cho công cuộc vận động bầu cử. Vì rằng người ta không thể chỉ kiếm vài người ủng hộ với một số tiền lớn, nên phải kiếm nhiều người để mỗi người góp một ít, nhằm có đủ phương tiện trang trải chi phí. Bởi thế số thành viên cũng tăng theo thời gian nhưng cũng phải mất vài thập niên, họa may “Đảng Cán Bộ” mới tạo được cơ cấu đại chúng.

    Lợi điểm của cơ cấu đại chúng của đảng cán bộ ở quốc gia tự do dân chủ, là tạo ra môi trường chính trị với nhiều người am hiểu tham gia. Dân chúng trong nước đã không chỉ tham gia chính trị tiêu cực qua các cuộc bầu cử, mà còn tích cực góp phần thường xuyên và liên tục vào việc quản trị quốc gia qua sinh hoạt của đảng chính trị.

    Đây là chính sự khác biệt giữa hai đảng dân chủ và độc tài, vì đảng độc tài Cộng Sản thì áp dụng nguyên tắc đảng cử dân bầu theo hệ thống một chiều, hàng dọc từ trên xuống dưới. Thế rồi cao trào đấu tranh của Cộng Sản đầu tiên diễn ra trong Lễ Lao Động Quốc Tế ngày 1 tháng 5 năm 1930 tại Việt Nam, có hàng trăm ngàn người biểu tình, diễn ra ở nhiều tỉnh trong nước, nên đã thành miếng mồi cho thực dân Pháp đàn áp tàn nhẫn.

    Nương theo đà này, nhiều cuộc đấu tranh của quần chúng nổi dậy, và người Pháp có cớ mà khủng bố bạo lực hơn. Tới khoảng tháng 3 năm 1931 các hoạt động của Cộng Sản Đông Dương cũng đi tới chỗ tan rã, vì Pháp đã bắt và tàn sát nhiều người.

    Năm 1934 có số đảng viên từ Pháp trở về hợp tác với nhóm đảng ở Nam Bộ và Trung Bộ là những người mới mãn tù ra, từ đó gây phong trào đấu tranh nghị trường, và báo chí. Cho tới năm 1935, phong trào cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn mới do nhu cầu của sự biến chuyền tình hình thế giới.

    Cũng trong năm, Quốc Tế Cộng Sản đã nâng Đông Dương Cộng Sản Đảng từ một chi bộ dự bị lên chi bộ chính thức trong kỳ đại hội thứ bảy. Bởi thế từ nay trở đi Đông Dương Cộng Sản Đảng nhận được sự yểm trợ của Quốc Tế Cộng Sản, nhưng thời điểm đấu tranh giành lại nền độc lập cho Viêt Nam, cũng là thời điểm mà Thế Chiến II xảy ra và rồi Nhật Bản lại đánh chiếm toàn cõi bán đảo Đông Dương.

    Vào thời Đệ Nhị Thế Chiến, với chính sách của Hoa Kỳ đề ra thì phe đồng minh yểm trợ vũ khí cho bất cứ tổ chức nào hoạt động trong vùng Miền Bắc Việt Nam hầu dựng phòng tuyến chống quân phiệt Nhật, một trong ba nước thuộc phe trục gây chiến. Trong hoàn cảnh và điều kiện lúc đó, Miền Bắc đã không có tổ chức nào hoạt động hơn Đảng Cộng Sản Việt Nam, bởi thế nhóm tình báo Hoa Kỳ đã hợp tác và cung cấp vũ khí đạn dược cho Hồ Chí Minh tạo sức mạnh để chống quân Nhật, nên cũng chính vì thế mà Cộng Sản mới cướp chính quyền vào năm 1945.

    Khi quân đội Pháp tái chiếm Đông Dương, phe Cộng Sản lại rút vào vùng chiến khu ẩn náu. Tới mãi năm 1954, Cộng Sản áp dụng chiến thuật biển người đánh thắng quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ, để dẫn đến việc ký kết Hiệp Định Genève chia đôi nước lấy sông Bến Hải làm ranh giới.

    Đảng Cộng Sản Việt Nam chấp hành chủ trương xích hóa của Cộng Sản quốc tế, dựng Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam làm phương tiện gây chiến, nhuộm đỏ vùng Châu Á. Mặt Trận được chuẩn bị từ năm 1959, khủng bố đánh phá cuộc sống an cư hạnh phúc của dân chúng Miền Nam tự do. Việt Cộng đặt mìn đường xá, cầu cống, khách sạn… pháo kích nhà thờ, chùa chiền, bệnh viện, trường học… tàn sát lương dân gây thanh thế.

    Trước sự leo thang chiến tranh, năm 1961, Hoa Kỳ phải cử cố vấn quân sự đến giúp Việt Nam Cộng Hòa để chống Cộng Sản, thì phe Cộng Sản lại vin vào lý do “chống Mỹ cứu nước” để mà ra mắt mặt trận. Thời gian đầu mở chiến tranh du kích nhưng tiếp tục cho tới năm 1972, Việt Cộng đã mở được chiến tranh diện địa với những trận đánh lớn như ở Khe Sanh, Hạ Lào… làm thay đổi quan điểm chiến lược chống Cộng của Hoa Kỳ phó mặc phe Cộng kết thúc chiến tranh và thực hiện chủ trương xích hóa toàn cõi Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

    Từ đấy đảng Cộng Sản vừa say men chiến thắng, lại vừa tiếp tục làm công tác bành trướng đế quốc đỏ, mà tiến chiếm Lào – Miên làm bàn đạp hầu tấn công Thái Lan vào năm 1982.

    Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay hiện có khoảng một triệu đảng viên. Tôn chỉ của đảng là chủ thuyết cộng sản, nhưng trên thực tế thì không có phải là đảng cộng sản/đảng chính trị đúng nghĩa.

    Xin hỏi trong một triệu đảng viên, đã mấy ai hiểu Chủ Thuyết hay có mấy ai đọc Cương Lĩnh của đảng? Và toàn thể đảng viên cũng chưa một lần có “vô sản” hay cộng sản đúng nghĩa, có chăng bởi vì họ thiếu/hoặc không khả năng sản xuất, không cung cấp đủ cơm ăn áo mặc, không nghề nghiệp… mà chỉ là bọn người du thủ du thực, theo Hồ Chí Minh đi đấu tố trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất… thì sao gọi là giai cấp vô sản được?

    Đang khi thuyết Cộng Sản thì xây dựng trên đấu tranh giai cấp và tận diệt giai cấp. Nhưng với xã hội Việt Nam thì giai cấp căn bản nhất, quan trọng nhất, đông đảo nhất lại là nông dân.

    Nông dân Việt không giống như các nông dân của các nước khác, như trong chế độ nông nô với lãnh chúa phương Tây. Nông dân ta sống trong một thể chế làng xã dân chủ đặc biệt, có tự do bình sản, có chia đất định kỳ, và có tư hữu dầu chỉ vài sào cày cấy… vậy mà bị Cộng Sản đã nâng quan điểm và nâng chỉ tiêu đấu tố để gọi với danh xưng địa chủ.

    Với chính sách đấu tố của Cộng Sản thì “trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ.” Nông dân trở thành của lễ toàn thiêu cho Đảng Cộng Sản Việt Nam chém giết, cướp đoạt tài sản để lập nông trường hay công trường quốc doanh…

    Đang khi nuôi sống con người là do nông dân, chớ nước ta chưa có kỹ nghệ máy móc như ở Tây phương để mà thay thế. Và bởi thế cột trụ đầu tiên nâng đỡ xã hội Việt là nông nghiệp, thì giai cấp nông dân đã bị Cộng Sản cưa đổ.

    Tiếp đến làm cho nhân loại văn minh là giai cấp ưu tú, là những thành phần trí thức, nhân tài lại bị Cộng Sản đồng hóa người trí thức với bóc lột ăn trên ngồi trốc và cưa đổ trụ cột thứ hai đang nâng đỡ xã hội Việt.

    Việt Nam chỉ vỏn vẹn có hai cột trụ nâng đỡ xã hội là, “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ,” nay lại bị Cộng Sản cưa đổ hai cột trụ này thì làm cho cả nước trở thành nghèo đói! Cái nghịch lý của Cộng Sản là phá tan xã hội, rồi tạo ra ngục tù u tối.

    Để từ đó họ lại phải bắt đầu mò mẫm đi tìm đầu mối để dựng lại các cột khói của thời đại công nghiệp, đang khi chính họ lại thiếu tri thức, thiếu chuyên viên, thiếu khoa học kỹ thuật.

    Với chủ trương của người Cộng Sản, đầu tiên chỉ chú trọng và nhắm tới tư bản bóc lột và tình trạng thất nghiệp của nền kỹ nghệ tư nhân. Cộng sản lý luận rằng, để tránh bất công xã hội thì nhà máy kỹ nghệ hay phương tiện sản xuất phải được quốc hữu hóa nhằm trao lại cho tập thể.

    Và khi thực hiện vô sản sẽ không có những phí phạm về cạnh tranh, các kế hoạch đều hợp lý vì sản xuất để tiêu dùng chớ không kiếm lời. Sau cùng, trí thức sẽ gíac ngộ và tập trung làm kinh tế phát triển.

    Theo Karl Heinrich Marx (1818-1843) thì nhà nước quản lý các xưởng kỹ nghệ, nông nghiệp, rồi sản xuất và phân phối hàng hóa xuống thẳng tới tay người tiêu thụ. Bởi vì trong hệ thống thương mại Tư Bản, sản phẩm phải qua nhiều cấp trung gian hay giai đoạn phi sản xuất, mỗi giai đoạn như thế lại phải cộng thêm phí tổn chuyên chở, kho hàng, tiền lời… rồi mới đến tay người tiêu thụ.

    Do đó giá thành sẽ cao, và bất ổn vì hàng hóa tập trung trong tay một vài người, vài gia đình, hay đại công ty. Mặt khác, vì làm lời bằng sức lao động, cho nên mâu thuẫn giữa chủ và thợ chính là nguồn gốc của trạng thái căng thẳng, để dẫn đến cuối cùng là sự xụp đổ của hệ thống Tư Bản.

    Nền kinh tế này tự nó thiết lập những công xưởng với những dụng cụ, máy móc, và đồng thời đào tạo những chuyên viên mới cho xã hội mới, đó là chủ nghĩa Xã Hội. Chủ Nghĩa này bắt đầu với sự “Độc Tài của Giai Cấp Vô Sản,” là một nền kinh tế không giai cấp, không bóc lột. Sau cùng là chủ nghĩa Cộng Sản nguyên vẹn, một thiên đàng kinh tế và chính trị của con người.

    Nhưng lý thuyết Marx thất bại, vì để giải quyết vấn đề bất quân bình đó đã chẳng phải là triệt tiêu các khâu trung gian, mà tạo ra mạng lưới thị trường để giải quyết vấn đề bất quân bình đó. Ngày nay nhiều công ty lớn trên thế giới đã nhìn thấy ưu điểm của hệ thống mạng lưới, và áp dụng để mở rộng thị trường, cũng như chuẩn bị cho tương lai theo đà biến chuyển chính trị thế giới.

    Đang khi Việt Nam lại tin tưởng lý thuyết Marx, hăng say lập hợp tác xã, công trường, nông trường… đúng theo chủ trương xích hóa của Cộng Sản, nhưng buồn thay toàn dân đã bị lừa! Vì rằng người được hưởng nhờ cách mạng vô sản lại đã không phải nhân dân, nông dân công nhân… mà chỉ là những nhân viên cán bộ của đảng cầm quyền, tức nhóm đặc quyền đặc lợi.

    Nhân dân ta hôm nay vỡ lẽ ra thiên đường Cộng Sản chỉ là giấc mơ, chỉ là bánh vẽ sau khi toàn dân đã đổ bao công sức, bao xương máu giúp cho đảng gây dựng bạo lực.

    IV. Thực Tế Thời Cuộc

    Thua Bác Hai, cháu vẫn còn thắc mắc là, tại sao Hồ Chí Minh và nhiều trí thức lại tin tưởng và chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản ở Việt Nam mình? Người cháu tôi lên tiếng hỏi.

    - Tôi ôn tồn trả lời: Sở dĩ Hồ Chí Minh và nhiều thành phần khoa bảng trí thức thời ấy, có thể nói rằng họ đã tâm phục, khẩu phục Marx với cái nhìn đúng của ông về sự xụp đổ của nền kinh tế Tư Bản vào năm 1930, như ông đã tiên đoán trong bộ Tư Bản Luận. Vì rằng kinh tế tự do trở nên phương tiện cho các công ty thẳng tay sát phạt nhau.

    Kết qủa của tự do cạnh tranh là những sự “mua đứt” các công ty nhỏ của các công ty lớn. Và khi một công ty lớn đã làm phá sản hoặc mua đứt các công ty khác trong cùng một kỹ nghệ thì trở thành độc quyền thao túng thị trường.

    Giá cả những sản phẩm của kỹ nghệ đó sẽ được tăng giảm tùy ý người chủ vì khách hàng không còn được tự do chọn lựa nữa. Sự tự do cạnh tranh trên thị trường thường tạo nên những công ty độc quyền, và sự độc quyền triệt tiêu quyền tự do lựa chọn của khách hàng và công nhân.

    Khi kỹ thuật sản xuất phát triển và số lượng công ty trong một ngành kỹ nghệ chỉ còn lại có một mà thôi, thì nhu cầu nhân công trong kỹ nghệ đó cũng giảm theo, và công ty đó sẽ giảm đi năng xuất để tăng giá cả hầu có thêm lợi tức. Những công ty độc quyền được tự do bóc lột sức lao động của người dân, vì người dân cần có việc làm để sống.

    Hơn nữa người công nhân lại chính là người khách hàng. Số lượng giảm dần trong khi dân số tăng thêm. Sự mua bán xuống dốc và các công ty ngưng đầu tư.

    Và ngưng đầu tư thì việc làm càng thêm hiếm hoi. Cứ như vậy thì nền kinh tế Tư Bản sẽ mãi lún sâu cho tới lúc xụp đổ, như đang diễn ra vào năm 1930.

    Sự Xụp Đổ Vĩ Đại của nền kinh tế Tư Bản Hoa Kỳ vào thập niên 1930 xảy ra như một cơn sóng thần xập tới với bao nỗi kinh hòang. Một nửa giá trị tổng số lượng sản xuất đã biến mất.

    Một phần tư dân số mất việc làm. Hơn một triệu gia đình bị tịch thu tài sản vì nợ cao. Chín triệu trương mục tiết kiệm tiêu tan khi nhiều nhà băng đóng cửa xập tiệm.

    Số tiền lương bổng và lợi tức vào năm 1929 là 15 tỷ, đến năm 1932 chỉ còn 886 triệu Mỹ kim mà thôi. Người nghèo thì càng ngày càng thêm đói khổ, đang khi người giàu với những ngân khoản kếch sù nhưng không biết đem đầu tư nơi đâu.

    Đến nỗi chính quyền Liên Bang phải dùng ngân sách quốc gia để đầu tư vào hệ thống thị trường, nhằm tạo ra công ăn việc làm cho người dân, và thúc đẩy sức vận chuyển của nền kinh tế Hoa Kỳ, chính quyền phải can thiệp vì dân chúng lúc đó đã bắt đầu nổi loạn.

    Với Tư Bản Luận và chứng cớ khủng hoảng của nền kinh tế thời đại, thì ắt hẳn không riêng gì Hồ Chí Minh mà nhiều người khác vì không am tường về nền chính trị dân chủ và kinh tế tự do thì khiến họ phải tin. Nhưng Marx sai lầm! Nền kinh tế Tư Bản Hoa Kỳ có xụp đổ nhưng không dẫn đến Chủ Nghĩa Xã Hội như Marx mong ước.

    Lý do là xã hội Hoa Kỳ đã không có chế độ phong kiến, nên không có giai cấp bóc lột theo như truyền thống ở Âu Châu. Mặt khác, nền kinh tế Hoa Kỳ mạnh nhất thế giới là nhờ vào truyền thống chính trị dân chủ.

    Dân chủ có nghĩa là được tự do trong tư tưởng và cách diễn đạt. Người dân được tự do liên lạc, và hệ thống truyền thông nâng cao khả năng hiểu biết của người dân.

    Người dân tự suy xét và quyết định những vấn đề có liên hệ trực tiếp đến họ. Sự tự do tư tưởng và diễn đạt đã tạo ra môi trường cho sức sáng tạo của toàn dân trên bình diện văn hóa và văn minh kỹ thuật.

    Sức mạnh của xã hội Hoa Kỳ về bất cứ phương diện nào đều là sức mạnh của sự truyền thông. Khi sự hiểu biết của tòan dân được nâng cao đến mức họ ý thức được những điều mang lại lợi ích chung thì họ sẽ đồng thuận.

    Nguyên tắc đồng thuận là phương thức vận động sức mạnh tối đa của một quốc gia, nhất là trong thời đại văn minh, con người lại đòi hỏi sự tham gia tích cực và sự tự do quyết định.

    Đây là mấu chốt của nền kinh tế Tư Bản mà chính Marx khó ngờ. Trong nền kinh tế Tư Bản, thương gia được tự do buôn bán; khách hàng được tự do mua; công nhân được tự do chọn nghề, chọn chủ; thị trường được tự do không có sự can thiệp của chính quyền.

    Và nguyên tắc xây dựng một thị trường tự do là sự “Để Mặc Tự Nhiên,” tự nhiên nảy sinh và tự nhiên phát triển. Mặc dù có nhiều thay đổi, lên xuống của phẩm lượng sản xuất, giá cả, nhân công… nhưng nền kinh tế Tư Bản sẽ tự chỉnh.

    Với những quan niệm trên Adam Smith (1723-1790) đã khởi xướng cuộc cách mạng cho nền kinh tế Tư Bản, như ông trình bày trong cuốn Sự Thịnh Vượng của các Quốc Gia.

    Nền kinh tế Tư Bản đặt trên sự tự do cá nhân. Mỗi người được tự do chọn lựa phương cách thương mại để thỏa mãn những nhu cầu hoặc ước vọng của riêng mình.

    Cá nhân được tự do đem tham vọng vào thương trường, cạnh tranh với tham vọng của những cá nhân khác bằng những hàng hóa tốt, rẻ, đẹp và đáp ứng đúng với nhu cầu của khách hàng, của thị trường. Theo Adam Smith thì tự do cạnh tranh là “Bàn Tay Vô Hình,” cơ giới an toàn tự động để nền kinh tế điều chỉnh. Ngoài sự cạnh tranh giữa các thương gia với nhau, còn có sự cạnh tranh của thương gia và khách hàng, hoặc thương gia và công nhân.

    Một trong những sáng tạo kỹ thuật mang lại hiệu qủa là hệ thống dây chuyền. Trong hệ thống dây chuyền thì sự phân chia công việc là yếu tố quan trọng.

    Adam Smith quan sát và nhận định rằng, “Mười người với sự trợ giúp của dụng cụ và máy móc, có thể sản xuất được bốn mươi tám ngàn cây kim trong một ngày, nhưng nếu làm việc riêng rẽ thì chắc chắn mười người không thể làm xong hai mươi cây kim, và cũng không thể làm xong một cây trong một ngày.”

    Về ảnh hưởng tâm lý thì hệ thống dây chuyền làm cho con người cảm thấy như mình không còn là con người trọn vẹn. Vì lúc trước thì người thợ giày làm từng đôi giày, bây giờ thì người ấy chỉ làm cái quai, hoặc cái đế mà lại thấy có nhiều giày.

    Bởi thế người công nhân khó nhận định được giá trị của mình trong xã hội, và cảm thấy mình trở thành một mắt xích, hay một con ốc nhỏ trong một guồng máy khổng lồ. Hơn nữa, hệ thống dây chuyền thường là nơi người chủ có cơ hội bóc lột người làm công nhiều nhất.

    Tốc độ của máy là then chốt của số lượng sản xuất, cho nên chủ nhân thường tăng tốc độ làm nhanh lên tới mức tối đa, trong khi tiền lương của thợ lại vẫn được trả theo từng giờ. Mồ hôi và sức sống của con người đã bị vắt ép để thành lợi nhuận cho chủ.

    Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ đã kéo theo sự phát triển của các đô thị. Nếp sống nông nghiệp chuyển mình.

    Các nông nô trong nền kinh tế Pháp Lệnh từ bỏ nếp sống cũ, đi về thành phố để tìm một nếp sống mới. Mặc dù sự chuyển mình đã mang lại nhiều đau khổ ban đầu, nhưng rồi mức sống của xã hội được tăng lên, vì mức độ sản xuất lên cao và phương tiện kỹ thuật cũng tăng theo.


    Trở lại với chế độ phong kiến, nó được thiết lập từ khi có sự chiến thắng của nến văn hóa du mục trên văn hóa nông nghiệp để duy trì kinh tế Pháp Lệnh và sản sinh ra giai cấp đặc quyền, rồi theo dòng thời gian nó trở thành văn hóa chủ nô, trên là chủ nhân dưới là nô lệ. Đảng Cộng Sản Việt Nam áp dụng cấu trúc chủ nô này.

    Cũng bởi Marx coi chủ nghĩa Tư Bản và văn hóa Chủ Nô của Châu Âu cũng là một, nên mới có sai lầm khi đưa ra nguyên lý “mâu thuẫn nội tại” và tổ chức Cộng Sản theo cấu trúc chủ nô.

    Mặc dù Marx thất bại trong cuộc cách mạng Chủ nghĩa Xã hội do chính ông khởi sự, nhưng lại trở thành kinh điển cho Đảng Cộng Sản Nga Sô làm cuộc cách mạng thành công tắm máu vào năm 1917 dưới sự chỉ đạo của Lenin. Theo Lenin, sở dĩ Marx không thành công vì không đổ máu, cho nên kinh tế xã hội phải được thành lập bằng máu xương của hàng triệu dân Nga.

    Tiếp đến Stalin tin tưởng tuyệt đối vào sự bạo tàn sắt máu, và củng cố nền kỹ nghệ nước Nga sau 30 mươi năm thống trị bằng hơn 30 triệu sinh linh dân Nga.

    Cuộc cách mạng Vô Sản ấy lan tràn sang Trung Quốc và tàn sát hơn 40 triệu người. Việt Nam cho tới hôm nay vẫn còn theo đuổi chủ nghĩa Cộng Sản và nền kinh tế đẫm máu.

    Số người thiệt mạng trong cuộc cách mạng vô sản tại Việt Nam là bao nhiêu triệu, thì chưa thể chiết tính. Nhưng sự tiêu diệt 5% nông dân tại mỗi xã trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất ở Miền Bắc trong những năm 1953 – 1956 và hệ thống tù đày Cải Tạo ở những thập niên vừa qua, cũng đủ để làm bằng chứng tội ác khát máu của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam.

    Cháu xin hỏi: Nguyên nhân hình thành nhiều tổ chức chính trị và đảng phái Việt Nam trong thời chiến tranh? Các phong trào và đảng phái sao lại thường dùng chữ “Cách Mạng” trong danh xưng hoặc cương lĩnh?

    - Chúng ta biết rằng: Chiến tranh Việt Nam bắt đầu từ tiếng súng xâm lăng của quân đội Pháp tại cửa biển Đà Nẵng vào năm 1847, và tại Cần Giờ vào năm 1858. Vì xâm chiếm thuộc địa và tìm thị trường tiêu thụ của nước kỹ nghệ phương Tây, đã làm cho triều đình và dân chúng Việt Nam vùng dậy để tổ chức phong trào chống Pháp.

    Lịch sử Việt Nam từ thập niên 1868, khi sáu tỉnh Nam Phần thất thủ và Kinh lược Phan Thanh Giản tử tiết, khiến cho hùng khí của sĩ phu và dân chúng miền Nam bừng lên. Các danh tướng Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực… đã khởi nghĩa với nhiều mặt trận lẫy lừng chống Pháp, nhưng thế giặc qúa mạnh, và nhiều quân dân Việt anh dũng hy sinh.

    Sau khi chiếm xong sáu tỉnh miền Nam, Pháp lại bắt đầu tấn công Bắc Phần. Thành Hà Nội đã hai lần thất thủ, Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu không chịu đầu hàng và tuẫn tiết. Tới đầu năm 1874 thì hịch Văn Thân của phong trào sĩ phu Việt Nam chống Pháp chính thức công bố rộng lớn khắp nước.

    Năm 1884 khi triều đình Huế buộc ký hiệp ước với Pháp, Bắc Kỳ và Trung Kỳ trở thành hai xứ bảo hộ, nhưng Tôn Thất Thuyết là trụ cột triều đình cương quyết không đầu hàng. Đêm rạng ngày 22 tháng 5 năm 1885 khởi binh đánh Pháp ở Huế, nhưng kinh thành bị thất thủ Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi chạy ra Cam Lộ.

    Ngay sau đó Chiếu Cần Vương truyền ra thì toàn dân đã nhiệt liệt đồng tình hưởng ứng, và nhiều tổ chức vũ trang đánh Pháp nổi lên khắp nơi. Hầu hết đều có sĩ phu đứng ra tổ chức cho Phong Trào Cần Vương mang tinh thần trung quân ái quốc.
    Và trả lời câu hỏi thứ 2, vào đầu thế kỷ 20 những luồng tư tưởng cách mạng hoặc danh xưng cách mạng của thế giới du nhập vào Trung Quốc, rồi từ đó mà lan qua Việt Nam. Bởi thế chúng ta thấy các tổ chức chống Pháp thường có danh xưng “cách mạng,” hoặc trong câu thơ “… Để tôi cách mạng đến thành công” của Hồ Chí Minh… thì cách mạng như một cái mode của thời đại, nếu không đặt vào danh xưng, thì cũng phải có “cách mạng” trong cương lĩnh.

    Từ các đảng phái chính trị “cách mạng” các người tổ chức lại đặt nặng vấn đề “chủ thuyếtvàchủ nghĩa.” Có lẽ ở vào thời điểm này, thì chủ thuyết Mác – Lê đã lan tràn rộng khắp vì nhằm lúc xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế của thế giới, và người Cộng Sản có cơ hội tuyên truyền.

    Cùng thời với chủ thuyết và tổ chức Cộng Sản, các nhà lập thuyết/ lập đảng của Việt Nam cũng đặt những nền tảng tư tưởng và chủ thuyết cho tổ chức “cách mạng” của mình. Ví dụ: Lý Đông A với thuyết Duy Dân, Trương Tử Anh với thuyết Dân Tộc Sinh Tồn, một số đảng khác lại áp dụng thuyết Tam Dân Chủ Nghĩa của Tôn Dật Tiên người Trung Hoa, và Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ sáng lập tôn giáo Hòa Hảo thì ứng dụng thuyết Tứ Ân Hiếu Nghĩa của Phật Thày Tây An…. và còn nhiều tổ chức với nhiều chủ thuyết khác biệt nhau.

    Nhưng có một điểm cần chú ý, đó là nền triết lý thâm thúy và siêu việt của Tổ Tiên dòng giống Tiên Rồng, linh huấn ngàn đời dân tộc ta thì lại không có mấy ai biết tới, không có cuộc cách mạng dân tộc đúng nghĩa để tạo cho nước thịnh dân an… vì từ ngày giặc chiếm nước tới nay chỉ toàn thuyết duy vật duy lợi làm tha hóa con người và xã hội Việt Nam mà thôi! Bởi thế mà Học Thuyết Tiên Rồng khai sáng nhằm hòa bình thế giới và thống nhất dân nước.

    Chúng ta biết rằng sau Đệ Nhất Thế Chiến (1914 – 1918) phong trào chống đế quốc ở các nước thuộc địa hay bán thuộc địa đã nổi lên. Tư bản chủ nghĩa từ năm 1922 đến 1929 cũng phát triển vững ổn, dù rằng có cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1930, nhưng không đánh đổ được hệ thống tư bản, ở chính quốc cũng như thuộc địa, các tổ chức cách mạng còn non kém và chưa đủ sức phản kháng với thế lực thống trị lớn mạnh nhiều lần.

    Hậu quả của xã hội thời ấy là thành phần tiểu tư sản và tư sản ra đời, về kinh tế thì họ rủ nhau lập công ty, nghiệp đoàn công nông thương cục… để cạnh tranh với thực dân Pháp; về chính trị thì họ thành lập các hội đoàn, tổ chức chính trị và đi tới thành lập đảng phái sau này.

    Xét về phương diện tổ chức, chúng ta thừa nhận rằng các phong trào chống Pháp của người Việt vào đầu thế kỷ 20 chỉ có tính ái quốc, đang khi cơ cấu tổ chức lỏng lẻo chưa hoàn chỉnh vì thiếu kỹ thuật, thiếu huấn luyện, thiếu tài liệu. Các chính đảng thời đó cũng mở rộng ra toàn quốc nhưng tổ chức và cán bộ chỉ hiện diện ở nơi thành thị, trong khi thôn quê thì vắng bóng.

    Hầu hết các tổ chức có tính tự phát chớ không chuyên môn, không điều hành, không lãnh đạo chung. Người dân tham gia đấu tranh cũng chỉ vì lòng nhiệt tình nhiệt huyết chớ không rõ đường hướng chính sách là gì, làm gì.

    Trong giờ phút định đoạt vận mệnh thịnh/ suy của dân nước thì mọi người lại chỉ biết say sưa với lý tưởng cách mạng của Tây phương, đang khi cơ cấu tổ chức làng/ nước có thể so sánh tương tợ như cơ cấu tổ chức tiểu bang/ liên bang… vậy mà phá bỏ.

    Hơn nữa lại thiếu một hệ thống tư tưởng sống động và hiện thực, chỉ đạo và định hướng trong công cuộc cứu nước của dân tộc Việt Nam. Bởi thế các phong trào đã thiếu tổ chức, thiếu cán bộ, chính sách thì mọi sự chỉ là vọng động và thất bại.

    Vào khoàng năm 1924 – 1926 Nam Kỳ xuất hiện hai tổ chức đảng chính trị, dù phôi thai nhưng đáng kể là các Đảng Lập Hiến, Đảng Thanh Niên trước khi có Việt Nam Quốc Dân Đảng, và Đông Dương Cộng Sản Đảng, như người viết trình bày phần trên.
    1. Đảng Lập Hiến có thành viên gồm trí thức, kỹ nghệ, thương gia… một số đảng viên lại có quốc tịch Pháp và có chức vụ trong Hội Đồng Thuộc Địa, Phòng Thương Mại, Phòng Canh Nông… nhưng đảng này lại chưa có hệ thống tổ chức quy củ và thuộc quyền lãnh đạo là Bùi Quang Chiêu.

    Lúc đầu đảng cũng tạo được nhiều uy tín trong dân, nhưng sau khi thỏa hiệp với Pháp qua chủ trương “Pháp Việt Đề Huề” thì đảng này đã bị mất uy tín trong dân và đi vào lãng quên khi bị Đảng Thanh Niên tố cáo Đảng Lập Hiến là công cụ của thực dân xâm lược.

    2. Đảng Thanh Niên gồm thành phần tiểu tư sản và tư sản ở Nam Kỳ, một số thanh niên trí thức hấp thụ những tư tưởng học thuật mới, căm hờn chính sách bóc lột của thực dân nên họ vùng dậy.

    Họ tham gia phong trào đòi quyền tự do dân chủ với một khí thế mới, và lập Đảng Thanh Niên tại khách sạn Nam Kỳ vào tháng 3 năm 1926, gồm có Vương Quang Nhường, Nguyễn Trọng Hy, Lê Thế Vĩnh… ngoài chủ trương chống Pháp, đảng còn chống bọn đồng lõa là Đảng Lập Hiến.

    Ngày 24 tháng 3 năm 1926 Đảng Thanh Niên vừa cổ võ đồng bào đi đón Bùi Quang Chiêu vừa vận động chính trị ở Pháp về, thì chỉ vài ngày sau đảng này lại công kích tố cáo Đảng Lập Hiến là trở cờ trong vai trò “Vạn tuế Pháp Việt đề huề.” Đồng thời Đảng Thanh Niên còn phát hành cuốn sách với nội dung để lột mặt nạ bọn chính khách đầu cơ, bắt cá hai tay, vừa đi với dân lại vừa đi với giặc.

    Ngày giỗ đầu của Phan Chu Trinh tự Tây Hồ vào năm 1927, thì lưỡng đảng: Đảng Thanh Niên và Đảng Lập Hiến lại tổ chức lễ giỗ riêng rẽ rồi đả kích lẫn nhau. Thời gian sau, Đảng Thanh Niên lại rơi vào tình trạng như Đảng Lập Hiến vì không chủ nghĩa, không chương trình, không đường lối… mà chỉ mang tính cách bao thầu biến cố lịch sử để thúc đẩy lòng yêu nước mà chống Pháp.

    Ngoài ra có số thành viên đã lợi dụng đảng để trục lợi và đảng đánh mất uy tín với dân. Sau cùng có số đảng viên Thanh Niên bị tố cáo về tội “lập hội kín âm mưu lật đổ chính phủ và phá rối trị an,” và bị nhà cầm quyền bắt giam. Tổ chức tan rã.

    V. Kết Luận

    Năm 1939, Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ, Pháp thua Đức, và Đông Dương bị Nhật chiếm đóng. Việt Nam Quốc Dân Đảng tan vỡ từ năm 1931, nay được tái lập do những nhân vật từ Trung Hoa trở về như Nguyễn Hải Thần (có tổ chức riêng là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) Nguyễn Tường Tam (có đảng riêng là Đại Việt Dân Chính,) và do Vũ Hồng Khanh cầm quyền.

    Sau đó các đảng trên lại sát nhập vào Việt Nam Quốc Dân Đảng, và bầu Nguyễn Hải Thần làm lãnh tụ. Trong thời gian này, Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng hoạt động mạnh mẽ, và có mặt ở Trung Kỳ và Nam Kỳ, nhưng vì giao thông cách trở nên chỉ hoạt động mạnh ở Bắc Kỳ mà thôi.


    Phạm Văn Bản
    Last edited by Phạm Văn Bản; hôm nay, 04:31 AM.


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...