THƠ TÌNH Trong Hoa Địa Ngục

Collapse
X

THƠ TÌNH Trong Hoa Địa Ngục

Collapse
 
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts
  • voy118
    Niên Trưởng
    • Jul 2011
    • 92

    #1

    THƠ TÌNH Trong Hoa Địa Ngục

    THƠ TÌNH
    Trong Hoa Địa Ngục

    I - Dẫn Nhập
    Tập thơ Hoa Địa Ngục (HĐN) xuất hiện tại hải ngoại vào thập niên 80’, được người Việt tị nạn Cộng Sản và các tổ chức quốc tế chào đón nồng nhiệt.

    Tựa đề tập thơ trải qua ba điểm mốc:
    • 1980, Tiếng Gọi Từ Đáy Vực; Tác giả Khuyết Danh.
    • 1981, Bản Chúc Thư Của Một Người Việt Nam. Một tựa khác là Quê Hương Tù Ngục. Tác giả: không rõ.
    • 1984, Hoa Địa Ngục; Tác giả Nguyễn Chí Thiện.

    dataurl395368.png

    Nguyễn Chí Thiện (1939), một nhà thơ bất đồng chính kiến với chế độ Cộng Sản miền Bắc (CS). Ông bị bắt ba lần và tổng số năm bị giam cầm là 27 năm.
    • 1961, ông dạy sử, nói lý do kết thúc Thế Chiến thứ II (qua sự kiện và qua báo chí phương Tây) là do 2 quả bom nguyên tử của Mỹ thả xuống Hiroshima (08/06/1945) và Nagasaki (08/09/1945), chứ không phải do hồng quân Liên Xô đánh tan quân phát xít Đức, Ý Nhật. Vì không dạy theo quan điểm của đảng CS, ông bị bắt giam 4 năm (1961-1964).
    • 1966, vừa ra tù, ông làm thơ đả phá chế độ CS độc tài, bị bắt giam 11 năm (1966-1977).
    • 1979, hai năm sau ra tù, ông tìm cách đột nhập Sứ Quán Anh để chuyển bản thảo Hoa Địa Ngục; Ông bị bắt giam 12 năm (1979-1991).

    Sau đó, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện được các tổ chức quốc tế và các cá nhân vận động, ông được định cư tại Hoa Kỳ tháng 1/1995.

    Ông mất ngày 2-10-2012 tại Garden Grove, CA, USA. Hưởng thọ 73 tuổi. Tang lễ Ông được cử hành trọng thể theo lễ nghi Công Giáo tại nhà thờ kiếng thuộc tiểu bang Cali.


    Tác phẩm:
    1. Hoa Địa Ngục (HĐN), thơ (1961, 1966, 1979, 2019)
    2. Hoa Địa Ngục Tập 2 (Hạt Máu Thơ) 1996.
    3. Hỏa Lò, văn (2001)
    4. 2008, Hai Truyện Tù/Two Prison Life Stories, song ngữ ViệtAnh, xuất bản ở Mỹ với sự cộng tác của Jean Libby, Tran Trung Ngoc và Christopher McCooey (theo Google).
    Giải thưởng:
    Nguyễn Chí Thiện được Tổ chức theo dõi nhân quyền trao giải thưởng Hellman/Hammett năm 1994.

    II - Sơ Lược Hình Thức & Nội Dung HĐN.
    Hoa Địa Ngục tập 1, nxb Tiếng Quê Hương & Người Việt – phát hành 2019 tại Virginia. Hoa Địa Ngục tập 2 - Hạt Máu Thơ, tác giả xb 1996, in tại A.N printing.
    Tập 1 dày 480 trang; Tập 2 dày 188 trang với đầy đủ bút tích và hình ảnh của tác giả lúc còn ở Việt Nam, khi qua Mỹ và những lần thăm viếng các nước Châu Âu.

    Bài viết này dựa vào tập HĐN (Tiếng Quê Hương, 2019) gồm 354 bài thơ chính. Cuối tập còn có mục “Những Ghi Chép Vụn Vặt” (GCVV), gồm 352 bài thơ 4 câu, dài ngắn đủ loại.
    Hầu hết những bài thơ được sáng tác dưới chế độ chuyên chính vô sản từ năm 1957 cho đến năm 1988.

    Hoa Địa Ngục là một bức tranh, cũng là một cuốn phim. Bức tranh hay cuốn phim phản ánh những hình ảnh với màu sắc đen tối ảm đạm trong các trại tù CS với người tù gầy đét, thất thần, dơ dáy, hôi hám và cách đối xử tàn bạo, bất nhân của cai tù khiến nhiều tù phải bỏ mạng trong địa ngục trần gian này.

    Bức tranh hay cuốn phim thể hiện hai hình ảnhmột hệ quả.


    A- Hình Ảnh Chế Độ Cộng Sản
    Chế độ Cộng Sản chủ trương tiêu diệt những kẻ bất đồng chính kiến qua các đòn hiểm đánh vào tim óc, thần kinh và cả thể xác. Đòn hiểm độc nhất là đánh vào dạ dày của người tù: cho ăn đói, bắt lao động khổ sai, giá rét không chăn mền, đau bịnh không thuốc thang:

    Trong GCVV, trang 450, nhà thơ NCT nhận định:
    “Hitler giết tù còn thua Cộng Sản/ Cộng Sản giết tù không cần súng đạn
    Không cần lửa điện, lò thiêu/ Chỉ càn cho ăn ít, bắt làm nhiều”

    Chế độ bạo tàn đã mất hết nhân tính qua cảnh rùng rợn khi tù trốn trại:

    “Trốn trại bắn hai mạng/ Dù đã giơ tay hàng
    Xác phơi bên lề đường/ Cho kẻ khác làm gương.
    Chỉ chuột rừng là sướng/ Đảng chiêu đãi cho hưởng
    Một đêm no chán chường/ Sáng sau khó mà tưởng/
    Mắt và tai đều bay/ Hai bàn chân bàn tay
    Chỉ còn xương gậm dở/ Ruồi nhặng lại vớ bở
    Đen ngòm trông khiếp kinh/ Lũ công an rung mình
    Ra lệnh cho tự giác/ Đem chôn hai các xác!”
    (Trốn Trại, tập 2, 1987, trg 51)


    B- Hình Ảnh Người Tù
    “Ăn ở thối hôi tựa bầy chuột cống…Uống máu lẫn nhau, giật giành sự sống!”
    (Tập 2, GCVV, Tập 2, trg 160).

    “Xuất cơm tôi một hôm đánh đổ/ Tôi còn đang đau khổ nhìn theo
    Thì nhanh như một đàn heo/Bốn năm đầu bạc dẫm trèo lên nhau
    Bốc ăn một thoáng sạch làu/ miếng cơm miếng đất làu bàu chửi nhau”
    (Xuất Cơm Tôi, 1966, tập 1 trg 158)


    C- Hệ Quả
    Một chế độ dã man như thế, chủ trương bỏ tù những người bất đồng chính kiến suốt 80 năm, từ 1945 cho tận ngày nay, đến nỗi, nếu cột đèn mà biết đi thì cũng chạy trốn chế độ huống là người.
    “Đảng dìu dắt thiếu nhi thành trộm cướp/ Giải phóng đàn bà thành đĩ thành trâu/ Giúp người già bằng bắt bớ rễ dâu/ Và cải tiến dân sinh thành xác mướp/ Đảng thực chất là Đảng cướp”
    (Đảng Dìu Dắt Thiếu Nhi, 1973- HĐN, tập 1, trg 232)

    Chủ nghĩa Mác chỉ là không tưởng/ Trái với bản chất con người, gieo rắc tai ương/ Lũ tông đồ, hay đồ tể vô lương/ Đã phạm tội ác tầy trời”
    (Chủ Nghĩa Mác, 1984, HĐN, tập 1, trg 328)

    Suốt 27 năm đọa đày trong ngục tù Cộng Sản, tác giả HĐN hiểu rõ bản chất bạo ngược của chế độ, ông làm thơ dựa vào quy luật ở đâu có bất công, ở đó có chống đối, qua bài Trong Bóng Đêm, 1976, p249:

    “Trong bóng đêm đè nghẹt/ Phục sẵn một mặt trời/ Trong đau khổ không lời/ Phục sẵn toàn sấm sét/ Trong lớp người đói rét/ Phục sẵn những đoàn quân/ Khi vận nước xoay vần/ Tất cả thành nguyên tử”.

    80 năm qua, người dân Việt Nam trông ngóng một cuộc xoay vần như thế!

    III - Thơ Tình Trong HĐN.
    Khi đọc xong, xếp sách lại, hiện lên trong trí người đọc 2 hình ảnh rõ nét, đó là cảnh đói rét bịnh hoạn chết chóc của người tù và chủ trương hiểm độc tàn ác của cai tù.

    Nguyễn Chí Thiện đã sống 56 năm trong lo âu tù tội đói rét tại quê nhà, trong đó có cả tuổi thanh xuân của mình. Cũng may, 17 năm cuối đời, ông được hưởng trọn vẹn không khí tự do nơi quê người.

    Là người, không ai không trải qua một thời thơ mộng với tình yêu đôi lứa. Đọc kỷ HĐN, cũng thấy phảng phất đâu đó nhừng vần thơ tình của tuổi đôi mươi. Tội tình thay, tình yêu của ông chỉ trong mơ, trong sách, là tình câm. Ông cũng xao xuyến trước một ánh mắt, một nụ cười và ông cũng biết rung động khi nắm tay người mình thầm yêu mà chẳng dám nghĩ đến tương lai, chỉ mong sao giây phút hiếm hoi kéo dài vô tận!

    Có khi, cùng một cảnh tù tội, tình thương và tình yêu trộn lẫn, như trong bài Anh Gặp Em Trong Bốn Bức Rào Dầy: …“Lòng anh bấy nay xám lại/ Nhìn em, lệ muốn chảy dài”….(trang 148).

    Gọi là Thơ Tình vì tác giả xử dụng đại danh từ “Anh Em” trong khoảng 14 bài thơ tình trong số 351 bài thơ chính của HĐN.

    Những bài thơ tình xuất hiện từ năm 1957 (18 tuổi) đến 1996 (57 tuổi) khi ông còn trong nước. Thơ tình cũng như thơ tù, đều bị chi phối bởi số phận cay nghiệt của tù đày: đơn phương, thầm kín, chịu đựng và vô vọng!

    Xin nêu 3 bài thơ tình tiêu biểu, thể hiện sự ức chế đó mà chính ông cũng từng thốt lên “Ôi trái tim đọa đày rất tội” (Đêm Dài, 1984, p337)

    31- Nhà thơ rung động trước ánh mắt giai nhân. Nhưng ánh mắt giai nhân lại “chẳng thấy” sự rung động vô vọng nay. Cũng buồn!
    Mời đọc Bài Mắt Em, 1957 (18t), p79.

    Mắt em mềm mại con đò/ Anh nhìn chẳng thấy hẹn hò một câu
    Mắt em trong mát giòng sâu/ Anh nhìn chẳng thấy nhịp cầu bắt qua
    Mắt em là một vườn hoa/ Vắng anh, thắm nở chói lòa sắc hương
    Vườn hoa ấy, cảnh thiên đường/ Anh nhìn chỉ thấy cửa thường đóng nghiêm!

    32- Thi sĩ phải lòng cô hàng bán sách, cọc cạch chiếc xe đạp tàng ghé tiệm thường xuyên. Cô hàng sách đọc sách nhiều mà lòng cô vẫn dững dưng, mơ hồ, xa cách! Buồn cho thi nhân!
    Mời đọc Có Thể Cô Ta, 1964 (25t), p130.

    Có thể cô ta là người trong sách/ Và hình như đã hiểu tôi nhiều
    Biết đâu rồi, tôi chẳng được yêu/ Yêu tha thiết, chân thành, trong sach!
    Từ buổi đó, tháng ngày tôi cọc cạch/ Đạp chiếc xe tàng tới hiệu cô ta
    Mua con tem, thếp giấy, gọi là/ Tiền chẳng có, gia đình tôi thanh bạch
    Song mấy năm rồi, tôi chỉ là người khách/ Chung thủy, hơi buồn, chẳng nói bao nhiêu
    Hình ảnh cô ta như áng mây chiều/ Gợi thương nhớ mơ hồ, xa cách…

    33- Đang trong ngục tù, thi nhân cảm nhận lẽ đời cay nghiệt hơn, khi hay tin người yêu lên xe hoa, thi nhân cũng “thất tình”. Trong nỗi thất tình này, hình như có hàng vạn mủi kim, châm vào “trái tim đọa đày rất tội” của thi nhân, nhưng Ông vẫn bình thản: “Quy luật cuộc đời, em ạ!”
    Cũng đành, chứ biết sao hơn?
    Mời đọc Chiều Thứ Bảy, 1968 (29t), p191.

    Anh nhớ lại một chiều tháng sáu/ Cũng oi nồng như thể hôm nay
    Anh cùng em đi sát, cầm tay/ Dạo bước rong chơi trên bờ cát trắng…

    Anh muốn ôm em nói điều sung sướng
    Nhưng tình cảm còn như e ngượng/ Anh nắm bàn tay em chặt hơn thôi.
    Tới rặng phi lao, anh với em ngồi/ Giữa trời biển em nói lời gắn bó/
    Nhưng em ạ, lòng anh lúc đó/ Không hề nghĩ tới tương lai/
    Chỉ ước mong sao có thể kéo dài/ Những giây phút thần tiên đó mãi!

    Nhận được tin em đi tìm duyên mới/ Anh chỉ hơi buồn và hơi nghĩ ngợi.
    Về đời anh rơi rụng, tả tơi/ Chẳng chút trách em về chuyển đổi dờì.
    Chuyện quy luật cuộc đời, em ạ!

    34- Một Chân Tình. Năm 1963 (24 tuổi, còn trong tù), Nguyễn Chí Thiện sáng tác bài Tình Mơ lời thơ da diết, say đắm và hiện thực:

    “Vì tình ái đâu cần ngôn ngữ/ Tình tù tim, mà ngôn ngữ từ môi…/ Đi bên em mà nghe ái tình đập song/ Trong lòng anh hạnh phúc chan hòa…/ Anh hôn em, em ngạt thở vì anh/ Nhưng em biết lòng anh say đắm quá/ Gì ngây ngất bằng hôn lên đôi má/ Mịn như hoa và đượm hương da/ Nắm tay em bao đau khổ phai nhòa/ Khắp vũ trụ chỉ còn thương mến”, 1963 – p120

    Cũng năm 1963 này, ông sáng tác bài Tình Câm, cũng ray rứt, nồng nàn và sáng tao:

    “Anh lạnh lẽo, em ơi, đừng tưởng thật/ Anh cũng giống như vỏ ngoài trái đất/ Chứa trong lòng bao khói lửa hôn mê”…“Em có nghe trong tiếng thở u sầu/ Bao yêu dấu đè sâu đang thổn thức?/ Em có hay trong quãng đời cơ cực/ Nếu có em trời đất lại rờn xanh, 1963 – p122

    Những vần thơ nồng nàn đã xác minh, tác giả cũng có một mối tình, mà người tình là một cá thể hiện hữu, khó do hư cấu mà ra!

    IV - Tạm Kết
    Cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện qua Mỹ năm 1995, lúc ông 56 tuổi. Không thấy bài thơ tình nào trong giai đoạn này.

    Xét qua khoảng 14 bài thơ tình (vì có chữ anh em), trong HĐN, có thể kết luận rằng, người yêu của cố thi sĩ là một thiếu nữ có thật, cư trú miền Bắc, nhà ở gần biển, vào khoảng từ 27 đến 30 tuổi (nhất gái hơn 2 nhì trai hơn 1)
    Mời đọc hai câu trong bài Chiều Thứ Bảy, p191:

    “dạo bước rong chơi trên bờ cát trắng/ biển lúc đó vắng và tắt nắng”.
    (Tác giả sinh 1939, sáng tác bài này năm 1968 - 28 tuổi).

    Nguyễn Chí Thiện đã ra người thiên cổ. Ông ra đi, tất nhiên do già bệnh. Không thể phủ nhận trong già bệnh đó, có di chứng của tù lao Cộng Sản.

    Nhân tháng 3 gãy súng và tháng 4 đen, tôi đọc lại Hoa Địa Ngục và viết về tình yêu đôi lứa của ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện qua thi phẩm nay. Tình yêu hiện diện khắp địa cầu, ngay trong lao tù. Nếu tình yêu là thật và tương kính, thì tình yêu sẽ thăng hoa cuộc sống. Nếu tình yêu chiếm đoạt, tình yêu sẽ đọa đày cuộc sống.

    Khi bị tình phụ, cố thi sĩ nghĩ đến thân phận mình, thông cảm hoàn cảnh của người yêu, ông chỉ thốt một câu, quy luật cuộc đời, em ạ! Câu nói thể hiện sự chịu đựng và cảm thông. Tội nghiệp cho Ông!

    Xin tạm gát lại uất hận tù gông (để lịch sử thẩm định), chỉ đề cập đến một tình yêu rất chânrất thật của cố thi sĩ HĐN. Cầu mong sao, ở thế giới bên kia, ông gặp lại cố nhân (đã U8 rồi), cũng là dịp Ông chứng tỏ một mối tình chung thủy:

    “Cuộc đời tôi chẳng có gì đáng kể/ Con người tôi, tù bệnh, hom hem/ Tôi chỉ có trái tim đầm ướt lệ/ Với lòng thành tôi đem tặng cho em”.
    GCVV, p427.

    Mong thay!

    Bắc Đẩu Võ Ý
    Tháng 3/2025




    Last edited by voy118; 03-19-2025, 08:04 PM.


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...